"HUYỀN MÔN PHONG THỦY THỰC DỤNG" BÀI 4.

9/30/2016 |
"HUYỀN MÔN PHONG THỦY THỰC DỤNG" BÀI 4.
Nguyễn Ngọc Vinh - bút danh Mân Côi.

Đây là một tài liệu dienbatn sưu tầm được. Nhận thấy có nhiều điểm bổ ích nên đăng lại trong Blog này. Tất nhiên " ngọc nào cũng có vết " - Có nhiều điểm chưa đúng hoàn toàn , nhưng là một tư liệu quý để các bạn suy ngẫm , chiêm nghiệm. Nhiều khi ca một cuốn sách chỉ cần một dòng cũng soi sáng cho ta nhiều điều trong quá trình tu học. Xin giới thiệu cùng các bạn . Thân ái. dienbatn.
5.4 THU SA, NẠP THỦY PHỐI HƯỚNG THEO LẠC THƯ
Nạp thủy, phối hướng theo Lạc thư chính là sử dụng công thức "Bát quái nạp giáp tam hợp" được nói rõ trong phần sau.
Thủy cục thủy pháp:
Cách dùng: thế đất có thủy lai đáo sơn Càn hoặc sơn Giáp thì nên lập mộ hướng theo thủy cục tam hợp (theo công thức bát quái nạp giáp tam hợp): Tý - Quý - Thân - Thìn.
Cách dùng: thế đất có thủy lai đáo một trong các sơn: Tý, Quý, Thân, Thìn thì nên xác lập hướng của phần mộ là Giáp hay Càn (tọa Canh hướng Giáp, tọa Tốn hướng Càn).
Hỏa cục pháp.
Cách dùng: thế đất có thủy lai đáo các sơn: Dậu, Đinh, Tị, Sửu thì nên xác lập hướng của mộ phần là Khôn (tọa Càn hướng Khôn) hay Ất (tọa Tân hướng Ất: vì quái khôn nạp can Ất).
Cách dùng: thế đất có thủy lai từ các sơn Khôn/Ất thì nên xác lập hướng của mộ phần là Đoài (tức tọa Hợi hướng Tị, tọa Mão hướng Dậu, tọa Mùi hướng Sửu, tọa Quý hướng Đinh).
Kim cục thủy pháp .
Cách dùng: thế đất có thủy lai từ các sơn Dần, Ngọ, Tuất, Nhâm thì nên xác lập hướng của mộ phần là tọa Càn hướng Tốn, hoặc tọa Ất hướng Tân (bởi quái Tốn nạp can Tân). Nhâm - Dần - Tuất chính là bát quái nạp giáp tam hợp.
Cách dùng: thế đất có thủy lai từ sơn Tốn hoặc sơn Tân thì nên sắp đặt phần mộ theo hướng:
Tọa Thân hướng Dần
tọa Tý hướng Ngọ
tọa Thìn hướng Tuất
tọa Bính hướng Nhâm.
Mộc cục thủy pháp.
Cách dùng: thế đất có thủy lai từ các sơn Cấn, Bính thì nên xác lập phần mộ theo các hướng:
tọa Tị hướng Hợi
tọa Dậu hướng Mão
tọa Sửu hướng Mùi
tọa Giáp hướng Canh.
Cách dùng: thế đất có thủy lai từ các sơn: Hợi, Mão, Mùi và sơn Canh (vì Chấn nạp can Canh, đây là bát quái nạp giáp tam hợp) thì nên sắp đặt phần mộ:
tọa Khôn hướng Cấn
tọa Nhâm hướng Bính
Mộc cục này thuần chất tiên thiên Hà đồ, Chấn và Cấn phối nhau thành hợp cung tiên hậu. Bởi vì cung Chấn trong tiên thiên bát quái nằm ngay vị trí cung Cấn của hậu thiên bát quái - gọi là "Tiên hậu phối" tương tự như thủy cục nên rất cát tường. Còn hỏa cục và kim cục hơi bị tạp loạn nên ít tốt hơn. 
6. BÁT QUÁI .
Bát quái có hai loại, đó là Tiên thiên bát quái và Hậu thiên bát quái. Xuất xứ của bát quái có từ rất xa xưa, nó được hình thành từ hai hình tượng âm dương, chồng lên nhau lần thứ nhất hình thành tứ tượng, tứ tượng chồng thêm 1 vạch âm/dương lần thứ 2 tạo nên bát quái.
Có sách ghi rằng Tiên thiên bát quái chính là Hà đồ do vua Phục hi xếp đặt tạo nên còn Lạc thư chính là Hậu thiên bát quái do vua Đại vũ xếp đặt nên. Người đầu tiên đưa hình ảnh Tiên/hậu thiên bát quái vào sách là Khổng An Quốc - cháu đời thứ 12 của Khổng Tử - sống đời Hán vẽ ra. Mãi tới đời sơ Tống mới có sách in hình bát quái phát hành rộng rãi trong công chúng.
Thuyết quái truyện nói về tiên thiên bát quái như sau:
"thiên địa định vị, sơn trạch thông khí, lôi long tương bạc, thủy hỏa bất tương xạ, bát quái tương thác" và
" biết cái đi trước là thuận, biết cái đi sau là nghịch, cho nên ở kinh Dịch là đếm ngược vậy"
"sấm là để làm cho rung động, gió để làm cho tan đi, mưa để làm cho thấm nhuần, mặt trời để làm cho ấm áp, núi để làm cho ngăn chặn lại, đầm để làm cho vui vẻ, kiền là chủ, khôn để dấu đi"
về hậu thiên bát quái như sau: "muôn vật ra ở phương Chấn, Chấn là phương Đông; sạch sẽ đều nhau ở phương Tốn, Tốn là phương Đông Nam; Ly là sáng, muôn vật cùng thấy nhau, là quẻ phương Nam, thánh nhân thường quay mặt về phương Nam mà nghe thiên hạ, hướng vào phương sáng mà trị - là do tượng quẻ ly; Khôn là đất, muôn vật đều được nuôi dưỡng, cho nên nói rằng làm việc ở Khôn; Đoài là chính thu, muôn vật đều vui vẻ, nên nói rằng vui vẻ ở Đoài; Kiền là quẻ ở Tây Bắc, âm dương xô sát nên nói đánh nhau ở Kiền; Khảm là nước, là quẻ phương chính Bắc, là quẻ khó nhọc, muôn vật đều về đấy nên nói khó nhọc ở Khảm; Cấn là quẻ đông bắc, muôn vật ở đấy làm nên cuối và làm nên đầu nên nói rằng hoàn thành ở Cấn". Xét hình tượng từ kinh văn trong thuyết quái truyện, ta thấy từ đời nhà Chu, hình tượng tiên thiên/hậu thiên đã rộng rãi rồi. Xưa nay sách vở ghi về xuất xứ của bát quái nhiều nhưng không thống nhất. Vậy chúng ta cứ tạm chấp nhận mọi thuyết ấy.
Bát quái tiên thiên có hai ứng dụng chính trong phong thủy: (1) bát quái phối nhau; (2) hợp số cục hà đồ:
Ứng dụng 1 của tiên thiên bát quái: bát quái phối nhau:
tức là hai quái đối diện nhau hòa hợp tạo thành 4 thế như sau:
Càn khôn phối nhau, gọi là "thiên địa định vị"
Đoài cấn phối nhau, gọi là "núi trằm thông khí"
Ly khảm phối nhau, gọi là "nước lửa tương tề"
Chấn tốn đối nhau, gọi là "sấm gió nương nhau"
Như trong phần "thu sa, nạp thủy, phối hướng theo hà đồ" (hà đồ đại tứ cục) đã trình bày.
Ứng dụng 2 của thiên thiên bát quái: hợp cục số
tức là dùng số của bát quái tiên thiên, hợp số với nhau thành cục số của Hà đồ:
Cục thủy: dùng Càn (1) hợp Khảm (6) thành cục thủy 1-6 đại cát
Hỏa cục: dùng Đoài (2) hợp Cấn (7) thành cục hỏa 2-7 thượng thượng cát
Mộc cục: dùng Ly (3) phối Khôn (8) thành cục mộc 3-8 đại cát
Kim cục: dùng số 4 và số 9 để hợp cục kim. Tuy nhiên, trong tiên thiên bát quái chỉ có quẻ Chấn số 4 còn số 9 thì không có, thành ra lấy Tốn số 5 thay thể. Chấn phối Tốn thượng thượng cát.
Bát quái tiên thiên là dụng của Hà đồ - nên động, hà đồ là thể nên tĩnh. Do đó tiên thiên bát quái chính là hà đồ, hà đồ cũng chính là tiên thiên bát quái.
Bát quái hậu thiên cũng có hai ứng dụng chính: (1) cục số hợp thập, cục hợp thập này trong phủy chỉ dụng kiếm con hiếm muộn, tức là người xưa lấy vợ chính không có con thì lập phần mộ cha mẹ theo cách phối hợp thập, sẽ ứng nghiệm được việc tìm vợ lẽ sinh được con; (2) Lập cửu cung phi độn (sẽ trình bày ở phần sau).
Tiên hậu phối hay Đồ/Thư phối
Những cục thế trong phong thủy mà hợp được cách Tiên-hậu phối thì không có gì quý bằng, được gọi là cục thuần chất không tạp loạn:

BỐN ĐẠI CỤC TIÊN THIÊN, HẬU THIÊN PHỐI NẠP SA
Mão long thu Khảm sa, Khảm long thu Mão sa
Ly long thu Dậu sa, Dậu long thu Ly sa
Dẫn giải:
cục thu sa tiên hậu phối lấy đại cục tại hai cung đối tứ chính là Đông và Tây. Mão long là dụng của hậu thiên, tiếp nhận cung đối theo hậu thiên là Đoài, nhưng theo tiên thiên là Khảm nên Mão hậu thiên nhận Khảm của tiên thiên và ngược lại.
Dậu long là dụng của hậu thiên, nhận đối cung là Chấn hậu thiên cũng chính là nơi Ly tiên cư trú. Nên Dậu long hậu thiên tiếp nhận Ly sa tiên thiên và ngược lại.
Đó chính là thế tiên/hậu thiên phối.
ĐÔNG TỨ TRẠCH, TÂY TỨ TRẠCH
Khảm, Chấn, Tốn, Ly là Đông tứ trạch
Càn, Cấn, Khôn, Đoài là Tây tứ trạch
Nhà có tọa (sơn) thuộc Đông trạch thì thích hợp cho chủ nhà có mệnh cung thuộc Đông trạch, dùng ngày giờ (tuyển trạch) Nhâm Quý Giáp Ất Bính Đinh (thiên can), Tý Mão Ngọ Thìn Tị (địa chi). Nghĩa là sử dụng: Nhâm Tý/Ngọ/Thìn; Bính Tý/Ngọ/Thìn; Quý Mão/Tị; Ất Mão/Tị; Đinh Mão/Tị.
Nhà có tọa sơn thuộc Tây trạch thì thích hợp cho chủ nhà có mệnh cung thuộc Tây trạch, dùng ngày giờ Canh/Tân/Mậu/Kỷ, địa chi Tuất Hợi Sửu Dần Mùi Thân Dậu. Nghĩa là: Canh Tuất/Dần/Thân; Mậu Tuất/Dần/Thân Tân/Kỷ Hợi/Sửu/Mùi/Dậu.
Phần trên là cách sử dụng tỉ mỉ, phần đông các nhà đều lấy địa chi là chính để sử dụng mà không tính tới thiên can. Nguyên tắc chính là Tây phải gặp Tây; Đông phải gặp Đông. 
7. THIÊN CAN, ĐỊA CHI
(CÁC KIẾN THỨC VỀ CAN CHI TRONG SÁCH NÀY ĐÃ ĐƯỢC TRÌNH BÀY NHIỀU RỒI, KHÔNG CÓ GÌ MỚI. NAY CHUYỂN THẲNG TỚI NỘI DUNG PHONG THỦY)
Theo sở học và sở kiến của chúng tôi thì giữa can chi năm sinh của người này và can chi năm sinh của người kia không hề có sự dính dấp về khắc hay hợp. Giữa người và người chỉ có tương quan về (1) ngũ hành (của mệnh nạp âm), chủ về việc ứng xử, cử chỉ hành động trong cuộc sống; và (2) cung mệnh theo bát quái chủ về phương hướng làm việc, sự ngắn ngủi hay lâu bền trong hôn nhân. 
Học thuật phong thủy dụng can chi cho hầu hết các pháp thức chính yếu để xác định long cục, huyệt vị, nạp sa, thuy thủy và phối hướng cùng xác định giờ giấc để an huyệt hay xây dựng tu tạo nhà cửa..vv.. Sau đây là các cách cục nạp thủy của can chi:
CỤC CÁCH BÁT TƯƠNG SINH - 12 CỤC BÁT CAN TỨ DUY.
ta thấy rằng cứ tính từ cung tọa đi xuôi 8 bước là phương nạp thủy. Ví dụ: nhà tọa Nhâm thì đếm từ Nhâm là 1, đếm xuôi tới Đinh là 8 bước, nạp thủy tại Đinh (xem bảng sau)

CỤC CÁCH BÁT TƯƠNG SINH - 12 ĐỊA CHI
Ta thấy rằng từ cung tọa đếm là một, đếm tới cung thứ 8 là cung nạp thủy. Trong công thức nạp thủy này cần ghi nhớ phải nạp đúng sơn "thủy lai", "thủy khứ" mới đạt chuẩn định hướng an huyệt. Ví dụ: xem một cuộc đất thấy có thủy đáo tại sơn Tân nhưng không thấy thủy khứ tại cung Khôn, thì ta không được phép theo pháp thức "cách bát tương sinh" để chọn cuộc đất tọa Giáp hướng Canh được, mà phải dùng pháp thức khác để xác định tọa/hướng của huyệt mộ. Một ví dụ khác, nếu chỉ thấy thủy lai đáo cung Mùi mà không thấy thủy khứ tại cung Tị (mà ở cung khác) thì không thể lập huyệt tọa Tý hướng Ngọ được.
5 CỤC HÓA HỢP CỦA THIÊN CAN NẠP THỦY.


6 CỤC LỤC HỢP CỦA ĐỊA CHI NẠP THỦY.
Phần trên đã nói về các cục cát, đã có cục cát phải có cục hung, sau đây là các cục kỵ (xấu):
3 CỤC HÌNH HUNG THỦY, KỴ DÙNG.
12 CỤC LỤC HẠI HUNG THỦY, KỴ DÙNG .
4 CỤC PHÁ HUNG THỦY, KỴ DÙNG .
8. PHÁP NGŨ HỔ ĐỘN
9. PHÁP NGŨ THỬ ĐỘN 
Hai mục này nhiều sách đã bàn, trên mạng tìm kiếm cũng đễ nên xin phép không bàn.
10. ĐẠI PHÁP "THẬP NHỊ THẦN" - dùng để nạp sa, nạp thủy
Pháp thức "Thập nhị thần" là pháp quan trọng nhất trong việc "nạp sa", "thu thủy" của phong thủy. Pháp thập nhị thần còn được gọi là "thập nhị cung", chính là nguyên lý của vòng trường sinh:
Xin theo dõi tiếp bài 5 - dienbatn giới thiệu.
Read more…

"HUYỀN MÔN PHONG THỦY THỰC DỤNG" BÀI 3.

9/29/2016 |
"HUYỀN MÔN PHONG THỦY THỰC DỤNG" BÀI 3.
Nguyễn Ngọc Vinh - bút danh Mân Côi.

Đây là một tài liệu dienbatn sưu tầm được. Nhận thấy có nhiều điểm bổ ích nên đăng lại trong Blog này. Tất nhiên " ngọc nào cũng có vết " - Có nhiều điểm chưa đúng hoàn toàn , nhưng là một tư liệu quý để các bạn suy ngẫm , chiêm nghiệm. Nhiều khi ca một cuốn sách chỉ cần một dòng cũng soi sáng cho ta nhiều điều trong quá trình tu học. Xin giới thiệu cùng các bạn . Thân ái. dienbatn.
1. LA KINH
La kinh là vật bất ly thân của người dụng thuật phong thủy, là dụng cụ cơ bản dùng để xác định sơn, hướng, tính tinh độ, tầm long mạch, xét sa thủy, định thành cục vvv...
Nguồn gốc của La kinh xuất phát từ "Huyền quy thập lục cung", tức 16 cung huyền quy, được xếp theo phương vị của hậu thiên bát quái bao gồm 12 địa chi và tứ duy (Càn khôn cấn tốn). Càn Tốn đối nhau, Khôn Cấn đối nhau. Lần lượt được xếp như sau: Tý - Sửu - Cấn - Dần - Mão - Thìn - Tốn - Tị - Ngọ - Mùi - Khôn - Thân - Dậu - Tuất - Càn - Hợi (công thức phi số cũng khác hôm nay):
Bắt đầu khởi từ cung Càn số 1,
bay sang cung Ly số 2,
quay về cung Cấn số 3,
lên cung Chấn số 4,
xuyên qua Trung Cung số 5,
tới cung Đoài số 6,
lên cung Khôn số 7,
quay về cung Khảm số 8,
lên cung Tốn số 9
Sau này đến thế kỷ thứ năm, Tổ Xung Chi phát minh ra được phương hướng cố định của Kim chỉ nam. Kể từ đó các nhà kham dư mới ghép thêm bát can (trừ 2 can Mậu Kỷ trong thập can). Do đó hình thành nên la kinh như bây giờ.
VỊ TRÍ ĐẶT LA KINH
Vị trí đặt la kinh phải tìm tâm điểm của khu đất xây dựng (mộ phần, nhà). Đối với khu đất rộng xây cất được nhiều gian nhà, thì trước tiên phải tìm trọng tâm khu đất. Dùng cho dương cơ thì dựa vào các cung cát theo pháp quyết "Đại du niên" mà tùy nghi xây dựng những căn nhà, gian nhà quan trọng trước, tiếp đến từng căn/gian một, dựa ngay tâm điểm của mỗi căn/gian nhà mà phân bố thiết kế/định liệu về cửa, phòng hoặc các vị trí quan trọng trong căn/gian nhà đó.
Về âm huyệt gặp khu đất rộng để có thể tạo dựng nhiều ngôi mộ, ta phải quan sát địa thế cao để đặt sơn, địa thế thấp để đặt hướng, rồi định ngay giữa cuộc đất, phân bố nam bên tả, nữ bên hữu mà sắp đặt mộ phần. Khi tạo dựng từng ngôi mộ phải đặt la kinh ngay tâm điểm miếng đất muốn xây dựng ngôi mộ đó, gióng căng dây để định sơn hướng. Còn muốn dụng cung cát thì dùng pháp quyết "tiểu du niên" mà chọn cung.
2. PHƯƠNG VỊ 24 TIẾT KHÍ
24 tiết khí phù hợp với 24 sơn, tức là khi xây dựng mồ mả hay nhà cửa, có sơn phù hợp với tiết khí sẽ nhận được vượng khí tốt lành. Ví dụ: dựng mồ mả hay nhà cửa thuộc sơn Cấn cần phải lựa thời gian vào tiết Lập Xuân thì sẽ được thêm cát khí. Tứ lập, nhị phân, nhị chí chính ứng với bát quái, đúng là bát tiết. Kỳ môn cửu cục đều khởi ở đấy
'Như vậy, phần này giải thích một chút tại sao lại phải sử dụng thuật trạch cát trong phong thủy. 
3. NGŨ HÀNH
LỊCH SỬ THUYẾT NGŨ HÀNH
Ngũ hành là một học thuyết rất đa dạng và phức tạp. Theo vũ trụ quan cổ đại Trung Quốc, ngũ hành là 5 thành tố chính để tạo nên vạn vật. Đây là học thuyết được xếp hàng đầu trong danh sách các học thuyết cổ của Trung Hoa. Bất cứ học thuyết nào cũng dựa trên nguyên lý sinh khắc của ngũ hành để phô diễn. Xuất xứ của thuyết ngũ hành từ rất xa xưa, khó lòng biết chính xác gốc xuất xứ. Kể từ vưa nhà Hạ trong "Cửu trù" đã có dùng ngũ hành rồi. Nó được ghi chép rất sớm trong thiên "Hồng phạm" ở sách Kinh thư là rõ ràng nhất, và gần nhất với thuyết ngũ hành ngày nay. Đến đời Chiến Quốc thì học thuyết ngũ hành được phát triển thịnh vượng, người ta đã tổng kết được nguyên lý tương sinh, tương khắc của nó. Mãi tới đời Hán Vũ Đế, Đổng Trọng Thư đã hoàn chỉnh luật ngũ hành, đưa nó vào tư tưởng và soạn sách phân rộng trong quần chúng
CÁC LOẠI THUYẾT NGŨ HÀNH VÀ CÁCH SỬ DỤNG
Tùy theo kiến thức của từng loại học thuật mà có cách vận dụng thuyết ngũ hành riêng. Trong học thuật phong thủy, thuyết ngũ hành được bố trí và phân thành nhiều phần khác nhau, mỗi phần có công thức xử dụng riêng biệt khác nhau (xem thêm phần "Các pháp quyết ngũ hành"). Ngũ hành của Thiên can có phân biệt anh/em tức là dương và âm (ví dụ can Giáp là dương mộc, can Ất là âm mộc). Ngũ hành của địa chi có sự phân biệt giữa "bổn khí" và "tàng khí" (ví dụ: chi Dần là dương thuộc Giáp mộc là bổn khí, lấy mộc sinh hỏa, hỏa sinh thổ cho nên Dần tàng khí Bính hỏa và Mậu thổ; chi Mùi là âm thuộc Kỷ thổ là bổn khí, lấy thổ sinh kim, kim sinh thủy nên Mùi có tàng Tân kim và Quý thủy). Tương tự như vậy, ta có thể suy luận tàng khí của 12 địa chi.
CÁC NGUYÊN TẮC TRONG THUYẾT NGŨ HÀNH
Ngũ hành bao gồm Kim - Thủy - Mộc - Hỏa - Thổ. Tượng của kim là tròn, tượng của thủy là ngoằn ngoèo; tượng của mộc là thẳng và phân nhánh, tượng của hỏa là hình nhọn; tượng của thổ là hình vuông. Trong từng hành cũng phân biệt âm dương (âm có thiếu âm, thái âm; dương có thiếu dương, thái dương). Ngũ hành có luật sinh khắc:
Tương sinh: kim sinh thủy, thủy sinh mộc, mộc sinh hỏa, hỏa sinh thổ, thổ sinh kim
Tương khắc: kim khắc mộc, mộc khắc thổ, thổ khắc thủy, thủy khắc hỏa, hỏa khắc kim
sinh có sinh xuất (hành ta sinh ra) và sinh nhập (hành sinh ra ta), khắc cũng có khắc xuất (hành bị ta khắc) và khắc nhập (hành khắc ta). Ngoài ra, ngũ hành cũng có 5 trạng thái là: vượng - tướng - hưu - tù - tử:
vượng: trạng thái thịnh vượng, đương lệnh, đương thể
tướng: trạng thái thứ vượng, được sinh nhập
hưu: trạng thái vô sự
tù: trạng thái bị sa sát (khắc xuất)
tử: trạng thái bị khắc chế, không có sinh khí (khắc nhập).
Trong học thuật phong thủy có 5 vị trí sinh khắc như sau:
ta gặp ta là vượng (đồng hành)
ta được sinh là tướng (sinh nhập)
ta khắc chế (khắc xuất) là tài
ta phải sinh là hưu (sinh xuất)
ta bị khắc là tử (khắc nhập)
Người ta dùng vượng tướng để bổ cho: 1) sơn, 2) hướng, 3) mệnh; và dùng hưu tù để khắc chế sát tinh. 
4. ÂM DƯƠNG
GIỚI THIỆU VỀ HỌC THUYẾT ÂM DƯƠNG
Âm dương là một học thuyết tối cổ, đa dạng phức tạp và la một trong cửu lưu (Nho gia, Đạo gia, âm Dương gia, Phật gia, Danh gia và Mặc gia, Tung Hoành gia, Tạp gia, Nông gia) của xã hội Trung Hoa cổ.
Âm dương còn gọi là "lưỡng nghi", "thư hùng", "kỳ ngẫu"..vv. Hình tượng của âm dương được biểu thị trong hình tròn "Thái cực" chia ra làm hai phần đen trắng: trắng là dương, đen là âm. Trong phần đen có 1 chấm trắng và trong phần trắng có 1 chấm đen (biểu thị trong dương có âm, trong âm có dương. có sách cho rằng âm trưởng dương tiêu, dương trưởng âm tiêu, âm dương hòa hợp phối nên vạn vật. Thuần âm hay thuần dương gọi là cô âm và cô dương, không thể tạo nên sự vật).
Theo sử sách, học thuyết âm dương xuất hiện rất xa xưa - từ thời vua Phục Hy thấy con long mã xuất hiện trên sông Hoàng Hà. Nhìn vào chấm đen chấm trắng trên lưng con vật này mà phân biệt âm dương. Đến đời vua Hạ, âm dương được chép lại bằng vạch liền/vạch đứt: vạch liền là dương, vạch đứt là âm. Và cũng từ hai vạch liền/đứt này phối hình thành tứ tượng, thành bát quái, rồi bát quái hình thành lên bộ dịch - một đạo rất lớn đối với các học thuật cổ Trung Hoa.
NỘI DUNG CỦA ÂM DƯƠNG
Âm dương có thể chuyển hóa lẫn nhau, đồng thời lại dựa vào nhau mà tồn tại phát sinh (theo Lão tử thì âm dương chỉ là trạng thái khác nhau khi 1 khí vận hành, thăng lên là dương, hạ xuống là âm). Quy luật của âm dương là:
Tiêu, trưởng: âm trưởng thì dương tiêu, dương trưởng thì âm tiêu
Chuyển hóa: âm chuyển hóa (hay biến) ra dương, dương chuyển hóa (biến) ra âm.
Biến thông: âm dương khi chuyển hóa thì vận hành, vận hành thì thông (nên gọi là biến thông). Âm dương không thông thì trời đất không tồn tại. Sự biến hóa của âm dương xét về lý thì gọi là "đạo", xét về hình thì gọi là "khí".
VẬN DỤNG HỌC THUYẾT ÂM DƯƠNG TRONG MÔN PHONG THỦY
24 sơn phân biệt âm dương
Áp dụng học thuật âm dương vào môn phong thủy, trong 24 sơn của la kinh người ta phân biệt ra âm sơn và dương sơn, căn cứ vào "long nhập thủ" mà phối hợp hướng: âm long dùng âm hướng, dương long dùng dương hướng.
24 sơn trong tam nguyên long huyền không lập mệnh.
Khi lập trạch mệnh bàn "cửu cung ai tinh huyền không", theo âm hay dương của sơn như trên, khi tinh nhập trung cung biết phi thuận hay phi nghịch.
Thế đất, thế thủy âm hay dương
Khi ra thực địa thực hành phong thủy, phong thủy gia phải phân biệt được âm dương của thế đất/thế thủy:
Âm là gò cao, khí trầm sâu;
Dương là bình địa, lõm trũng khí phù cạn.
Âm long là thế đất từ hữu (phải) chạy sang tả (trái). Gọi là "hữu hành".
Dương long là thế đất từ tả (trái) chạy sang hữu (phải). Gọi là "tả hành"
Áp dụng: trong pháp thức "Thập nhị thần", khi áp dụng khởi chia ra ra làm hai phần: dương thuận (1), âm nghịch (2), chính là dựa vào quan sát thế đất trên thực tế mà phân biệt ra dương long hay âm long, từ đó mới biết khởi thuận hay khởi ghịch theo pháp quyết trên (dương long khởi thuận, âm long khởi nghịch). Do đó, đối với người chưa nắm bắt được yếu quyết này thì "đất sinh thành tử, đất tử thành sinh là vậy. Đó là về sơn, còn về thủy:
Thủy lưu âm: là dòng chảy từ phía hữu (phải) qua phía tả (trái)
Thủy lưu dương: là dòng chảy từ phía tả (trái) qua phía hữu (phải)
Long cục và thủy hướng phải nghịch hành phối nhau mới cát tường, tức là long cục âm hành thì phải kết hợp với thủy cục dương hành; long cục dương hành thì phải kết hợp với thủy cục âm hành. Đó là nguyên tắc âm dương hòa hợp của thế đất thế thủy, còn nếu long và thủy đồng hành với nhau thì dù có hợp mạch với nhau cũng ít cát tường.
Thập can, 12 chi, bát quái phân âm dương .
Khi sử dụng phi độn các tinh trực ngày và giờ lần lượt nhập trung cung (cửu cung), để biết độn thuận hay độn nghịch phải biết thời gian lúc bấy giờ là âm độn hay dương độn.
Nhà cửa thì gọi là dương trạch hay dương cơ, phần mộ thì gọi là âm trạch hay âm phần. Khi làm nhà, xây dựng phòng ốc đều phải lấy số dương/lẻ để thiết kế: cột, kèo, cấp cầu thang, gian phòng, gian nhà..vv.
Mưa là âm, gió là dương; lạnh là âm, nóng là dương. Bên ngoài là âm, bên trong là dương. Bên tay phải là âm, bên tay trái là dương nên gọi là nam tả nữ hữu. Hướng Tây là âm, hướng Đông là dương. Sườn núi phía Bắc là âm, sườn núi phía Nam là dương; bờ sông tính từ trên thượng nguồn xuống thì bờ Nam là âm, bờ Bắc là dương.
Về y học thì hàn là âm, nhiệt là dương. Hư là âm, thực là dương. Huyết là âm, khí là dương. Tạng là âm, phủ là dương. Bụng là âm, lưng là dương. Ức chế là âm, hưng phấn là dương.
Phi độn
Dương thì phi độn thuận cung ->từ nhỏ tới lớn. Khởi dương thì tính thuận từ trái qua phải, tuần tự theo thứ tự của Can Chi trong la kinh.
Âm thì phi độn nghịch cung -> từ lớn tới nhỏ. Khởi âm thì tính nghịch từ phải qua trái, ngược với thứ tự của Can Chi trong la kinh.
Kết luận
Âm hay dương rất quan trọng, chỉ cần lẫn lộn âm dương thì việc thành hóa bại, việc đúng hóa sai. Nhất thiết khi dùng phải thật rành rẽ âm dương. Trong phong thủy có hai nguyên tắc: âm lai, dương thụ; dương lai, âm thụ rất quan trọng trong việc xác định huyệt vị:
Nơi đất bằng phải tìm huyệt nơi gò cao, thế đất cao để táng mộ
Nơi đất gò đồi phài tìm huyệt tại chỗ đất bình hay lõm để táng mộ
Nơi khí gấp gáp, cương mãnh phải tìm nơi hòa hoãn mà táng
Nơi khí hòa hoãn phải tìm nơi khí gấp gáp mà táng
Nơi âm thịnh phải tìm được chỗ dương suy
Nơi dương thịnh phải tìm được chỗ âm suy
Đó là quy tắc "thư hùng giao hội", ngưỡng phục sắp bày. 
5. HÀ ĐỒ - LẠC THƯ
Hà đồ tương truyền do vua Phục Hy thời thượng cổ, do thấy con long mã xuất hiện trên sông Hoàng Hà rồi căn cứ các nét chấm đen trắng trên lưng nó mà tạo ra. Nhưng mãi tới đời sơ Tống, Trần Đoàn là đạo sỹ núi Hoa Sơn mới đem ra truyền cho đệ tử là Chủng Phóng. Từ đó công bố rộng rãi trong nhân gian.
Lạc Thư tương truyền khi vua Đại Vũ trị thủy, nhìn thấy một con rùa thần xuất hiện trên sông Lạc, trên lưng nó có những nét chấm màu, nhân theo đó vẽ nên Lạc Thư. Cùng thời gian truyền ra Hà Đồ, Trần Đoàn cũng truyền ra Lạc Thư.
5.1 GIỚI THIỆU VỀ HÀ ĐỒ .
NGŨ HÀNH TRONG HÀ ĐỒ
Hà đồ có 55 điểm, phân bổ lần lượt Bắc - Đông - Nam - Trung Ương - Tây như sau:
1 dương, 6 âm tại phương Bắc thuộc hành thủy
3 dương, 8 âm tại phương Đông thuộc hành mộc
2 âm, 7 dương tại phương Nam thuộc hành hỏa
10 âm, 5 dương tại Trung Ương thuộc hành hỏa
4 âm, 9 dương tại phương Tây thuộc hành kim.
Ta có thể thấy sự vận hành khí của Hà Đồ xoay thuận từ phải qua trái: thủy sinh mộc, mộc sinh hỏa, hỏa sinh thổ, thổ sinh kim, kim sinh thủy. Cứ như thế sinh sinh không ngừng.
CÁC SỐ SINH THÀNH TRONG HÀ ĐỒ
Kinh thư nói "trời 1 đất 2, trời 3 đất 4, trời 5 đất 6, trời 7 đất 8, trời 9 đất 10. Số của trời có 5 và số của đất cũng có 5. Năm số của trời tương đẳng với năm số của đất mà mỗi ngôi lại có sự tương hợp với nhau. Tổng cộng trời có 25 số, đất có 30 số. Như thế mới tạo thành sự biến hóa mà thông hành với quỷ thần".
trời 1 hợp đất 5 thành 6: thiên nhất sinh thủy, địa lục thành chi. Số 1 là số sinh còn số 6 là số thành.
đất 2 hợp trời 5 thành 7: địa nhị sinh hỏa, thiên thất thành chi. Số 2 là số sinh còn số 7 là số thành.
trời 3 hợp đất 5 thành 8: thiên tam sinh mộc, địa bát thành chi. Số 3 là số sinh mà số 8 là số thành.
đất 4 hợp trời 5 thành 9: địa tứ sinh kim, thiên cửu thành chi. Số 4 là số sinh mà số 9 là số thành.
thiên 5 hợp địa 5 mà thành 5: thiên ngũ sinh thổ, địa thập thành chi. Số 5 là số sinh còn số 10 là số thành.
Như vậy, với 5 cặp số tại bốn phương và trung tâm, Hà đồ miêu tả quy luật sinh trưởng, vận hành của âm dương/trời đất.
5.2 GIỚI THIỆU VỀ LẠC THƯ .
Hình tượng của lạc thư như sau:
một hình màu trắng cư tại Chính Bắc, gọi là "Nhất bạch" - hành thủy.
hai hình màu đen cư tại Tây Nam, gọi là "Nhị hắc" - hành thổ
ba hình màu trắng cư tại Chính Đông, gọi là "Tam bích" - hành mộc
bốn hình màu đen cư tại Đông Nam, gọi là "Tứ lục" - hành mộc
năm hình màu trắng nằm giữa Trung Cung, gọi là "Ngũ hoàng" - hành thổ
sáu hình màu đen nằm tại Tây Bắc, gọi là "Lục bạch" - hành kim
bảy hình màu trắng nằm tại Chính Tây, gọi là "Thất xích" - hành kim
tám hình màu đen nằm tại Đông Bắc, gọi là "Bát bạch" - hành thổ
chín hình màu trắng nằm tại Chính Nam gọi là - "Cửu tử" - hành hỏa
Ta xét tại tứ chính (phương Tý Ngọ Mão Dậu) thì hình tượng và khí vận hành của Lạc thư giống hệt Hà đồ, cũng thuận hành từ trái qua phải: Nhất bạch thủy (phương bắc) sinh Tam bích mộc (phương đông), Tam bích mộc sinh cửu tử hỏa (phương nam), cửu tử hỏa sinh ngũ hoàng thổ (trung cung), ngũ hoàng thổ sinh Thất xích kim (phương tây), Thất xích kim lại sinh Nhất bạch thủy. Xét toàn cục 8 phương lạc thư, ta có nguyên tắc hai cung từ hai phương đối nhau sẽ bằng mười (hợp thập):
Theo thứ tự sắp xếp các số như trên, và vận hành theo thứ tự từ nhỏ đến lớn hay từ lớn đến nhỏ, người xưa đã lập nên công thức "phi độn cửu cung" hay "81 bước lường thiên xích" (sẽ nói rõ ở phần sau).
5.3 THU SA, NẠP THỦY PHỐI HƯỚNG THEO HÀ ĐỒ
Theo thứ tự sắp xếp các số như trên, và vận hành theo thứ tự từ nhỏ đến lớn hay từ lớn đến nhỏ, người xưa đã lập nên công thức "phi độn cửu cung" hay "81 bước lường thiên xích" (sẽ nói rõ ở phần sau).
Hà đồ, Lạc thư cùng phối hợp tiên thiên, hậu thiên là nguyên tắc căn bản khá cao trong hệ pháp "thu sa - nạp thủy phối hướng" của học thuật phong thủy.
ÁP DỤNG HÀ ĐỒ TRONG PHONG THỦY
Hà đồ có 4 đại cục chính là Mộc - Hỏa - Kim - Thủy tên gọi là "Hà đồ đại tứ cục", không có cục thổ bởi vì thổ đóng tại trung ương, nên không phối được với bát quái. Trong tiên thiên bát quái, các cung bát quái đối nhau/phối nhau là đại cát, có 4 cặp như sau:
Thiên địa định vị
Sơn trạch thông khí
Lôi phong tương bác
Thủy hỏa bất tương xạ
Phép áp dụng Hà đồ là sử dụng hai sơn trong la kinh ứng với một cục nào đó (kim mộc thủy hỏa) của hà đồ, sau đó dùng phép nạp giáp cho hai sơn đó ứng với 2 quái trong hậu thiên bát quái luôn đối nhau. Theo ý nghĩa của hai quái phối can đó trong tiên thiên thì được cách cát tường, bởi hai cặp số của một cục khi gặp nhau là đủ số sinh và số thành, vì vậy đại cát.
Mộc cục thủy pháp.
Cách dùng: thế đất gặp thủy lai đáo sơn Giáp hay Ất, thì nên xác lập hướng theo mộc cục của Hà đồ là đại cát tường. Như thủy lai đáo sơn Giáp, thì phải xác lập mộ phần tọa Tân hướng Ất; như thủy lai đáo sơn Ất, thì phải xác lập mộ phần tọa Canh hướng Giáp.
Hỏa cục thủy pháp.
Cách dùng: thế đất gặp thủy lai đáo Bính hay Đinh, thì nên xác lập hướng theo hỏa cục của Hà đồ là đại cát tường. Như thủy lai đáo Đinh thì phải xác lập mộ phần tọa Nhâm hướng Bính; như thủy lai đáo hướng Bính thì phải xác lập mộ phần tọa Quý hướng Đinh. Như vậy được cách "núi đầm thông khí".
Kim cục thủy pháp.
Cách dùng: thế đất gặp thủy lai đáo sơn Canh, sơn Tân thì nên xác lập hướng theo kim cục của hà đồ là đại cát tường. Như thủy lai đáo Canh thì nên lập phần mộ tọa Ất hướng Tân; như thủy lai đáo Tân thì lập phần mộ tọa Giáp hướng Canh. Như vậy là được cách "Lôi phong tương hòa".
Thủy cục thủy pháp:
Cách dùng: thế đất gặp thủy lai đáo sơn Nhâm, sơn Quý thì nên xác lập hướng theo thủy cục của Hà đồ là đại cát tường. Như thủy lai đáo Nhâm thì nên lập phần mộ tọa Đinh hướng Quý; như thủy lai đáo sơn Quý thì nên lập phần mộ tọa Bính hướng Nhâm. Như vậy là được cách "Thủy hỏa tương tề".
Nhà phong thủy xưa Trần Tử Kỳ nói rằng "Bốn cục của Hà Đồ đã hợp với đại số thiên địa sinh thành, lại hòa hợp với tiên thiên phu phụ. Phàm gặp thế đất này thì không có gì cát lợi hơn nó được". 
Đại tứ cục hà đồ thủy pháp là sự phối hợp tuyệt vời giữa đồ thư và thiên thiên/hậu thiên bát quái, do đó giá trị của nó rất lớn.
5.4 THU SA, NẠP THỦY PHỐI HƯỚNG THEO LẠC THƯ.
Xin theo dõi tiếp bài 4 - dienbatn giới thiệu.

Read more…

"HUYỀN MÔN PHONG THỦY THỰC DỤNG" BÀI 2.

9/28/2016 |
"HUYỀN MÔN PHONG THỦY THỰC DỤNG" BÀI 2.
Nguyễn Ngọc Vinh - bút danh Mân Côi.

Đây là một tài liệu dienbatn sưu tầm được. Nhận thấy có nhiều điểm bổ ích nên đăng lại trong Blog này. Tất nhiên " ngọc nào cũng có vết " - Có nhiều điểm chưa đúng hoàn toàn , nhưng là một tư liệu quý để các bạn suy ngẫm , chiêm nghiệm. Nhiều khi ca một cuốn sách chỉ cần một dòng cũng soi sáng cho ta nhiều điều trong quá trình tu học. Xin giới thiệu cùng các bạn . Thân ái. dienbatn.

LẬP HƯỚNG KHAI MÔN CHO DƯƠNG TRẠCH.
Phần này dùng để minh họa cho việc ứng dụng cho 2 pháp quyết Đại, tiểu huyền không ngũ hành. Chúng ta sẽ gặp lại các khái niệm về khai sơn, phóng thủy, khai môn trong một phần chuyên biệt khác. Đối với các bạn mới bắt đầu tìm hiểu phong thủy (cũng như tui), có lẽ đọc tới các pháp quyết này sẽ cảm thấy khó hiểu - tuy nhiên chúng ta cứ bảo lưu đấy đã, từ từ các phần khác sẽ làm sáng tỏ từng điểm.
Trong pháp dương trạch, ta dùng ngã ba/tư/năm..vv đường gần nhà nhất làm sơn lai thủy: dùng la kinh đặt giữa trọng tâm miếng đất hay căn nhà muốn xây dựng để xem giao điểm của các ngã đường (ngã ba, ngã tư, ngã năm...vv) gần nhà nhất nằm thuộc sơn nào, từ đó dựa vào pháp quyết đại/tiểu huyền không (giống y hệt như cách dùng trong âm trạch) để lập hướng và khai môn cho căn nhà/miếng đất:
Ví dụ 1: căn nhà trong thành phố cố định một hướng, đó là tọa Cấn hướng Khôn, nhà này có ngã tư gần nhà nhất nằm ở sơn Tị:
Kết hợp cả hai pháp thức Tiểu/đại huyền không, ta chọn được 5 môn để khai sơn: Tý Dần Thìn Cấn Tị. Khi đã chọn được 5 sơn khai môn này rồi, ta sẽ kết hợp dùng thêm pháp thức "Đại du niên" hoặc pháp thức phụ mẫu tử tức huyền không. Định theo công vị mà chọn sơn chính để khai môn (hai pháp thức này sẽ nói rõ phần sau).
Kết Hợp Pháp thức Đại Du Niên: căn nhà tọa Cấn có các cung cát là:
Khôn (Mùi - Khôn - Thân) được sinh khí
Đoài (Canh - Dậu - Tân) được thiên y
So sánh với 5 sơn khai môn trên, ta không thấy có trùng hợp vì vậy không dùng pháp thức đại du niên được. Ta chuyển qua pháp thức "Phụ mẫu tử tức huyền không".
Kết Hợp Pháp Thức "Phụ mẫu tử tức huyền không"
Ngã tư nằm thuộc sơn Tị, thuộc công vị "nhân" là thuận tử. Trong 5 sơn đã chọn ra thì:
Tý, Cấn thuộc "Thiên" không hợp công vị của thủy lai
Dần, Tị thuộc "Nhân" hợp với công vị của thủy lai
Thìn thuộc "Địa" không hợp công vị của thủy lai
Vậy tổng kết lại chỉ có hai sơn Dần, Tị phù hợp với công vị của thủy lai. Nhưng sơn Dần lại trực thuộc cung Phục vị phía sau nhà, thành ra chỉ có thể thông cửa hậu. Sơn Tị nằm bên hông trái nhà, cố gắng chừa khoảng cách để mở cửa tại sơn tốt này. Giả sử không thể mở cửa tại cung Tị, ta có thể dùng cung Thân của tiểu huyền không để khai môn (vì được cung Sinh khí).
Ví dụ 2: căn nhà tọa Càn hướng Tốn, có ngã 5 gần nhà nhất tại sơn Cấn:
Hợp nhất đại/tiểu huyền không ta được bốn sơn: Cấn Bính Ất Đinh. Nạp đại du niên: tọa Càn có Đoài (sơn Canh Dậu Tân) thuộc sinh khí, Khôn (sơn Mùi Khôn Thân) thuộc Diên niên; Cấn (Sửu Cấn Dần) thuộc Thiên y. Rút lại ta được sơn Cấn - nằm bên hông trái nhà. Cố gắng thiết kế thông cửa ở sơn này, 3 sơn còn lại không nằm ngay cung hướng nên bỏ. Còn hai sơn Thìn và Tị nằm ngay mặt tiền nhà, theo Đại huyền không cũng dùng để cửa được.
Ví dụ 3: nhà tọa Bính hướng Nhâm, có ngã tư gần nhà nhất tại sơn Giáp:
Hợp nhất đại/tiểu huyền không ta có 5 sơn dùng được: Hợi Giáp Quý Đinh Dậu. Nạp đại du niên: nhà tọa Bính thuộc cung Ly: có quẻ Chấn (sơn Giáp Mão Ất) được sinh khí; quẻ Khảm (sơn Nhâm Tý Quý) thuộc diên niên; quẻ Tốn (Thìn Tốn Tị) được Thiên y. Kết hợp cả 3 pháp quyết ta lựa được sơn Quý, Giáp để làm cửa: sơn Quý ngay mặt tiền, sơn Giáp nằm bên hông nhà.
Ví dụ 4: nhà tọa Khôn hướng Cấn, có ngã tư gần nhà nhất tại sơn Tị:
Kết hợp cả hai pháp thức Tiểu/đại huyền không, ta chọn được 5 môn để khai sơn: Tý Dần Thìn Cấn Tị. Nạp đại du niên: nhà tọa Khôn được cung Cấn (sơn Sửu Cấn Dần) được sinh khí; cung Càn (sơn Tuất Càn Hợi) được diên niên. Lựa ra được 2 sơn Cấn Dần phù hợp cả 3 pháp thức, mà cả hai sơn đều ở mặt tiền của nhà nên mở cửa rất tốt. 
6. HỖN THIÊN NGŨ HÀNH .
Bài ca về hỗn thiên ngũ hành: 
Kiền Kim, Giáp Tý, ngoại Nhâm Ngọ
Khảm Thuỷ, Mậu Dần, ngoại Mậu Thân
Cấn Thổ, Bính Thìn, ngoại Bính Tuất
Chấn Mộc, Canh Tý, Canh Ngọ lân
Tốn Mộc, Tân Sửu ngoại Tân vị
Ly Hoả, Kỷ Mão, Kỷ Dậu tầm
Khôn Thổ, Ất Mùi gia Quý Sửu
Đoài Kim, Đinh Tỵ, Đinh Hợi bình
Hỗn thiên ngũ hành chính là dùng pháp quyết Bát quái nạp giáp:
Càn quái nạp can Giáp - Nhâm
Khảm quái nạp can Mậu
Cấn quái nạp can Bính
Chấn quái nạp can Canh
Tốn quái nạp can Tân
Ly quái nạp can Kỷ
Khôn quái nạp can Ất - Quý
Đoài quái nạp can Đinh
Ngoài 2 cung Càn - Khôn là trời đất phụ mẫu, còn các cung khác theo pháp hỗn thiên ngũ hành chỉ sử dụng hành thổ (theo ngũ hành nạp âm) để xét sa sơn.
7. TINH ĐỘ NGŨ HÀNH .
Tinh độ ngũ hành cũng chính là nạp âm ngũ hành xếp theo thứ tự của 10 can: Giáp - Ất - Bính - Đinh - Mậu - Kỷ - Canh - Tân - Nhâm - Quý. Do khi 10 can đi với 12 chi thì can dương sẽ đi với chi dương và can âm sẽ đi với chi âm. Từ đó ta sẽ có mỗi chi sẽ đi với 5 can, hình thành cái gọi là:
ngũ Tý
ngũ Sửu
ngũ Dần
ngũ Mão...
Pháp thức "Tinh độ ngũ hành" này dùng khi lập hướng, khi đó phải tính xem khí vượng hay yếu thế nào mà biết đường tiết chế/gia giảm (tiết khí quá vượng và bổ xung cho khí quá yếu). Ví dụ: trong mỗi sơn của la kinh được phân làm 5 ô ở tầng thứ mười hai trong la kinh (trong la kinh gọi là "phân kim/phân châm 120"), mỗi ô sẽ có ngũ hành tuần tự như bảo tinh độ ngũ hành trên. Ví dụ: sơn Mão bao gồm năm ô:
Ất Mão: nạp âm thủy
Đinh Mão: nạp âm hỏa
Kỷ Mão: nạp âm thổ
Tân Mão: nạp âm mộc
Quý Mão: nạp âm kim
VÍ DỤ 1:
Sơn Mão là hành mộc, nếu ta xây dựng trong mùa Xuân thì mộc khí sẽ rất vượng, vì thế ta không được chọn/gióng hướng Tân Mão (89, 90, 91 độ) là hành mộc (nếu dùng sẽ quá vượng thành ra có hại), mà ta phải chọn hướng Đinh Mão (83, 84, 85 độ) để tiết bớt mộc khí quá vượng, bổ xung cho khí khác.
VÍ DỤ 2:
Sơn Khôn (được tính là Mùi, theo tầng 12 của la kinh) gồm 5 ô:
Ất Mùi: kim
Đinh Mùi: thủy
Kỷ Mùi: hỏa
Tân Mùi: thổ
Quý Mùi: mộc
Nếu xây dựng trong hai tiết Lập thu và Xử thử thì thổ khí vượng, nên né tránh tuyến Tân Mùi và xử dụng tuyến Đinh Mùi.
8. PHÙNG CHÂM TAM HỢP NGŨ HÀNH .
Các nhà địa lý dùng ba loại châm:
Chính châm: là chính vị của 24 sơn, dùng để định hướng
Trung châm: ngôi vị của Tý ở chính châm chẳng hạn, nó nằm ở giữa hai ngôi vị Nhâm và Tý gọi là "trung châm". Trung châm dùng để định cách long.
Phùng châm: sau chính châm nửa ngôi vị, dùng để tiêu sa nạp thủy.
Trung châm so với phùng châm chênh lệch nhau một ngôi vị, tại trung châm thì gọi là "song sơn ngũ hành", tại phùng châm thì gọi là "tam hợp ngũ hành". Kỳ thực đều là phép song sơn cả.
CÁCH DÙNG

Dùng cả hai tam hợp làm tam hợp ngũ hành, cùng với song sơn ngũ hành giống nhau, riêng so với trung châm sai đúng một nửa ngôi vị mà thôi. Địa lý gia dùng để tiêu sa, nạp thủy. Đại để sa và thủy là đường đi, vì vậy dùng đến sau để thu tóm cả vào, mới có thể không để sót. Sách địa lý nói: "Chính ngũ hành là chất của ngũ hành, song sơn ngũ hành là khí của ngũ hành, vì vậy suy ra sinh vượng của long khí thì phải dùng song sơn ngũ hành chứ không dùng mà không dùng chính ngũ hành".
Xét song sơn ngũ hành chính là tam hợp ngũ hành, nghĩa là hợp cục của sinh - vượng - mộ hợp hóa thành một cục ngũ hành. Bởi vì bốn quẻ tám can đều tại trước địa chi một vị, hợp với chi cùng gộp lại mà sơn đó dùng ngũ hành của địa chi gộp với Can/duy đó cho nên gọi là "song sơn ngũ hành". Ví dụ:
Khôn - Thân, Nhâm - Tý, Ất - Thìn: sáu sơn này cùng hợp thành thủy cục, cùng dùng ngũ hành Thân Tý Thìn để hợp hóa thành thủy cục.
Cho nên, các nhà địa lý dùng chính châm tức chính vị dùng để xác định hướng, dùng trung châm để xác định cách long, dùng phùng châm để định ngũ hành phục vụ mục đích tiêu sa/nạp thủy. 
9. HỒNG PHẠM NGŨ HÀNH .

Hồng phạm ngũ hành lấy:
Giáp, Dần, Thìn, Tốn, Tuất, Khảm, Tân, Thân: bao gồm 8 sơn thuộc thủy
Ly, Nhâm, Bính, Ất: bao gồm 4 sơn thuộc hỏa
Chấn, Cấn, Tị: bao gồm 3 sơn thuộc mộc
Càn, Hợi, Đoài, Đinh: bao gồm 4 sơn thuộc kim
Sửu, Quý, Khôn, Canh, Mùi: bao gồm 5 sơn thuộc thổ
Hồng phạm ngũ hành còn được gọi là "Đại ngũ hành", bởi nó chỉ ra nguyên lý giao hợp của bát quái, hóa khí của 10 can, 12 chi nạp âm, rất là to lớn. Nguyên tắc của nó là "trong tự nhiên, không giao hợp/giao dịch thì không thành tạo hóa", thật vậy, trong thiên địa tự nhiên cho đến nam nữ gặp nhau có giao phối mới tạo ra cái mới - vì vậy gọi là đại ngũ hành.
GIẢI THÍCH VỚI TIÊN THIÊN BÁT QUÁI VÀ PHÉP NẠP GIÁP
ngày xưa họ Bao Hy làm vua đã làm ra bát quái, lấy gốc từ hà đồ. Tiên thiên bát quái này thứ tự là: Càn (1), Đoài (2), Ly (3), Chấn (4), Tốn (5), Khảm (6), Cấn (7), Khôn (8). 
Hệ từ truyện nói rằng: "Trời đất định vị, núi đầm thông khí, sấm gió quện vào nhau, thủy hỏa không bắn nhau", đây là miêu tả quá trình bát quái sinh hóa:
Giáp vốn thuộc mộc, nạp quái ở Càn, Càn thiên nhất sinh thủy - Khôn địa lục thành chi (trời 1 sinh thủy, đất 6 làm cho thành), vậy là can Giáp theo Càn hóa thành Khảm. Đây là khi Càn Khôn hai quẻ phụ mẫu giao cấu, Càn lấy hai nét gạch trên/dưới của Khôn để biến thành khảm. Vì vậy Giáp mang hành thủy.
Ất thuộc mộc, nạp giáp ở Khôn, Khôn địa nhị sinh hỏa - Càn thiên thất thành chi (đất lấy số 2 sinh hỏa, trời lấy số 7 làm cho thành). Đây là khi Khôn lấy hai nét gạch trên và dưới của Càn để làm thành quẻ Ly. Vì vậy Ất mang hành hỏa. Đây chính là "trời đất định vị".
Bính thuộc hỏa, nạp giáp ở Cấn, Cấn đối nhau với Đoài, Cấn lấy hào dưới của Đoài biến thành quẻ Ly. Đây là tượng của Bính thụ nhận hành hỏa từ Ly (mặt trời, thái dương hỏa). Vì vậy Bính mang hành hỏa.
Đinh thuộc hỏa, nạp giáp tại Đoài, Đoài đối nhau với Cấn, lấy hào trên của Cấn mà biến thành quẻ Càn, tượng cho can Đinh thụ nhận Càn hóa. Vì vậy can Đinh mang hành Kim. Đây chính là "núi đầm thông khí".
Canh thuộc kim, nạp giáp tại Chấn, Chấn đối nhau với Tốn, lấy hào trên của Tốn mà biến thành quẻ Khôn, tượng cho can Canh thụ nhận Khôn hóa. Vì vậy can Canh mang hành thổ.
Tân thuộc kim, nạp giáp tại Tốn, Tốn đối nhau với Chấn, lấy hào trên của Chấn mà biến thành quẻ Khảm, tượng cho can Tân thụ nhận Khảm hóa. Vì vậy can Tân mang hành kim. Đây gọi là "Sấm gió quện vào nhau".
Nhâm vốn hành thủy, nạp giáp tại Ly, Ly đối nhau với Khảm, lấy hào giữa của Khảm mà biến thành quẻ Càn, tượng cho can Nhâm thụ nhận Càn hóa, can Nhâm vốn thuộc kim. Tuy nhiên, Nhâm nạp khí Ly hỏa tuy bị Càn hóa nhưng do định luật hỏa khắc kim nên hành hỏa không thể thoái vị, vì vậy can Nhâm mang hành hỏa.
Quý vốn hành thủy, nạp giáp tại Khảm, Khảm đối nhau với Ly, lấy hào giữa của Ly mà biến thành quẻ Khôn, tượng cho can Quý bị Khôn hóa. Vì vậy Quý thuộc thổ. Đây là mối quan hệ giữa hai quẻ Khảm Ly, gọi là "nước lửa không bắn nhau".
Ta thấy rằng: hai quẻ Càn và Khôn (thoái thân vào Thân, Hợi trong hậu thiên) là tổ tông nên ngũ hành của chúng không thay đổi, Đoài Chấn Khảm Ly ở vị trí tứ chính Tý Ngọ Mão Dậu là nơi kim mộc thủy hỏa chính vị/đất tứ vượng, có công năng tuyên bố thời lệnh của bốn mùa nơi khí hóa hành ở đó nên không thể biến đổi. Còn lại: Cấn, Tốn dùng biến:
Cấn thổ thay đổi ngôi vị ở giới hạn Khảm Chấn phương Đông Bắc, đặt chân ở chỗ khoảng Sửu suy, Dần bệnh (vì hành thổ trường sinh ở Thân, tới Sửu là suy, tới Dần là bệnh) nên thổ khí suy yếu. Vì vậy Cấn mang hành mộc.
Tốn mộc thay đổi vào vị trí của Chấn Ly trong giới hạn Đông nam, đặt chân ở chỗ Thìn suy, Tị bệnh (vì mộc trường sinh ở Hợi, suy ở Thìn, bệnh ở Tị), vì vậy hành mộc suy yếu mà mang hành thủy của Thìn mộ.
Tị vốn thuộc hỏa nên theo mộc mà sinh, nhân từ chấn, thay chấn mà đứng nên mang hành mộc. Hợi vốn thuộc thủy, theo kim mà sinh, tạm ở ngôi vị kim, vì vậy Hợi thuộc hành kim. 
Thân vốn thuộc kim, thủy có thể sinh Thân, kim trợ thế cho thủy, vì vậy Thân thuộc thủy. Dần vốn thuộc mộc, theo thủy mà sinh, tạm ở ngôi vị thủy, vì vậy Dần thuộc thủy.
Thìn Tuất Sửu Mùi vốn thuộc thổ (thổ thủy dung nhau), nhưng Sửu Mùi âm tĩnh vì vậy thuộc thổ, còn Thìn Tuất dương động, vì vậy thuộc thủy.
ỨNG DỤNG
Hồng phạm ngũ hành được ứng dụng trong pháp quyết "Mộ long biến vận" của thuật trạch cát. Pháp thức này rất quan trọng cho việc xem ngày, đoán giờ để né tránh được sự xung khắc của năm tháng ngày giờ đối với mộ long của căn nhà hay ngôi mộ trong năm muốn xây dựng. Nó còn gọi là "Niên khắc sơn gia".
10. NẠP ÂM NGŨ HÀNH .
Nạp âm ngũ hành còn được gọi là "nạp âm cách bát tương sinh", tức là cứ cách nhau tám vị thì hợp nhau. Nạp âm ngũ hành được sử dụng rất rộng rãi:
Trong ngũ quyết phong thủy đều xử dụng nó để biết đích xác long chân, giả, quý, tiện, cát, hung. Huyệt dựa vào long nên giáp tiếp sử dụng sa, thủy, hướng có phân sơn, phân kim. Rõ ràng đều sử dụng nạp âm ngũ hành để đoán định.
Trong thuật trạch cát phong thủy, theo nguyên tắc phải dùng hành của chính thể: nếu chính thể dùng nạp âm thì phải sử dụng nạp âm mà đoán định, nếu chính thể dùng chính ngũ hành thì dùng chính ngũ hành mà đoán định. Ví dụ: trong pháp "mộ long hoán tuế" chỉ sử dụng nạp âm ngũ hành cho mộ vận của sơn, nên phải dụng nạp âm ngũ hành của tứ trụ mà tránh khắc tìm sinh. Còn dùng tứ trụ thành khóa "cổ khóa nhất khí" để bổ cho ngôi nhà tọa Giáp hướng Canh chẳng hạn, ta dùng năm Dần tháng Dần ngày Dần giờ Dần để khới công căn nhà - đây là dùng chính ngũ hành.
Cung mạng bát quái của năm sinh ra một người, ví dụ nam giới sinh năm 1975 thuộc cung Đoài.
Mạng của 1 người: chính là dùng nạp âm ngũ hành của năm sinh của một người.

Người ta dùng ngũ hành nạp âm của mạng (năm sinh) của một người để đoán định hung cát trong quan hệ, trong hôn nhân. Ví dụ như:
CHUYÊN MỤC VỀ CÁC PHÁP QUYẾT THỰC DỤNG
1. LA KINH
2. PHƯƠNG VỊ 24 TIẾT KHÍ
3. NGŨ HÀNH
4. ÂM DƯƠNG
5. HÀ ĐỒ - LẠC THƯ
GIỚI THIỆU VỀ HÀ ĐỒ
GIỚI THIỆU VỀ LẠC THƯ
THU SA, NẠP THỦY PHỐI HƯỚNG THEO HÀ ĐỒ
THU SA, NẠP THỦY PHỐI HƯỚNG THEO LẠC THƯ
6. BÁT QUÁI
7. THIÊN CAN, ĐỊA CHI
8. PHÁP NGŨ HỔ ĐỘN
9. PHÁP NGŨ THỬ ĐỘN
10. ĐẠI PHÁP "THẬP NHỊ THẦN" (dùng để nạp sa, nạp thủy)
11. BÁT QUÁI THU MẦM NẠP GIÁP
CÁCH ỨNG DỤNG BÁT QUÁI NẠP CAN CHI TRONG PHONG THỦY
NẠP GIÁP 8 ĐẠI CỤC MẪU TỬ NẠP THỦY
NẠP GIÁP 8 ĐẠI CỤC QUY NGUYÊN THỦY
12. PHÁP THỨC CỬU TINH
CÔNG THỨC PHI ĐỘN CỬU TINH
CỬU TINH NHẬP TRUNG CUNG - KHỞI NIÊN
CỬU TINH NHẬP TRUNG CUNG - KHỞI NGUYỆT
CỬU TINH NHẬP TRUNG CUNG - KHỞI NHẬT
CỬU TINH NHẬP TRUNG CUNG - KHỞI THỜI
BIỂU NĂM, THÁNG, NGÀY, GIỜ CỬU TINH TRỰC NHẬT
CÁCH THỨC SỬ DỤNG CỬU TINH TỬ BẠCH TRONG PHONG THỦY
13. PHÁP THỨC LẬP TRẠCH MỆNH (CỬU CUNG AI TINH ĐẠI QUÁI HUYỀN KHÔNG)
VÀI KHÁI NIỆM CĂN BẢN
BẢNG ÂM DƯƠNG TAM NGUYÊN LONG
CÔNG THỨC LẬP TRẠCH MỆNH BÀN
CÔNG THỨC LẬP TRẠCH MỆNH BÀN THEO CỤC KIÊM HƯỚNG
CÁC TRƯỜNG HỢP KỴ KHÔNG DÙNG
CÁT HUNG KHI 9 SAO NHẬP CUNG
CỬU TINH NẠP QUÁI DỊCH
13. LẬP QUẺ KINH DỊCH THEO PHONG THỦY
CÁT HUNG CỦA 64 QUẺ DỊCH
CÁCH XỬ DỤNG DỊCH TRONG PHONG THỦY
CÔNG THỨC TÍNH SỐ MỆNH CỦA NGƯỜI & DƯƠNG TRẠCH
14. PHIÊN QUÁI HAY BIẾN QUÁI
14.1 PHÁP THỨC TIỂU DU NIÊN
CÀN SƠN
ĐOÀI SƠN
LY SƠN
CHẤN SƠN
TỐN SƠN
KHẢM SƠN
CẤN SƠN
KHÔN SƠN
14.2. PHÁP THỨC ĐẠI DU NIÊN
15. PHÁP THỨC BÁT MÔN
16. THÀNH MÔN NHỊ CUNG DƯƠNG TRẠCH
17. LẬP HƯỚNG, KHAI MÔN CHO DƯƠNG TRẠCH
18. PHÁP THỨC KHAI MÔN DƯƠNG CƠ
19. PHÁP THỨC PHÓNG THỦY DƯƠNG CƠ
20. PHÁP THỰC TỌA BẾP DƯƠNG CƠ
21. PHÁP XUYÊN TỈNH (ĐÀO GIẾNG) DƯƠNG TRẠCH
22. PHÁP LẬP PHÒNG NGỦ, PHÒNG VỆ SINH DƯƠNG TRẠCH
23. CÁT HUNG PHÂN PHÒNG, LẦU TRẠCH
24. THÔI THIÊN QUAN HUYỆT PHÁP .

 Xin theo dõi tiếp bài 3. dienbatn giới thiệu.
Read more…

THỐNG KÊ TRUY CẬP

LỊCH ÂM DƯƠNG

NHẮN TIN NHANH

Tên

Email *

Thông báo *