Thứ Sáu, 22 tháng 4, 2011

NHỮNG ÔNG ĐẠO VÀ SỰ HÌNH THÀNH ĐẠO MỚI Ở VIỆT NAM.BÀI 8

NHỮNG ÔNG ĐẠO VÀ SỰ HÌNH THÀNH ĐẠO MỚI Ở VIỆT NAM

Các thời kỳ phổ hóa
1. Thời kỳ thứ nhứt.
A. Đức Phật Thầy Tây An
B. Đức Phật Trùm
2. Thời kỳ thứ hai.
Đức Bổn Sư
3. Thời kỳ thứ ba.
A. Ông Sư Vãi Bán Khoai
B. Đức Huỳnh giáo chủ

1/Đức Phật Trùm.


Phật Trùm (? - 1875) tên thật: Tà – pênh, người Việt gốc Khmer, ở ấp Sàlon, xã Lương Phi, huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang. Ông được tín đồ các giáo phái Bửu Sơn Kỳ Hương, Tứ Ân Hiếu Nghĩa, Phật giáo Hòa Hảo gọi tôn là Phật Trùm.
Đời thực lẫn huyền thoại.



Bàn thờ Phật Trùm tại nhà ở của ông khi xưa, nay thuộc ấp Sà lon, xã Lương Phi.

Phật Trùm, từ nhỏ đến lớn, sống như một người bình thường. Khi trưởng thành, ông cưới vợ và có được bốn cô con gái. Là người Việt gốc Khmer ít học, nói tiếng Việt không thạo; vậy mà vào năm 1866, sau những ngày lâm bệnh nặng đến hôn mê, ông bỗng dưng tỉnh táo và khỏe lại, tự nhận mình là hậu thân của Phật Thầy Tây An tức Đoàn Minh Huyên, là hồn Trùm của Phật (nên được tín đồ gọi tôn là Phật Trùm), theo như mấy câu sám giảng của ông còn lưu truyền:
Ở đời hạ giới yêu ma,
Phật cho Thầy xuống để mà giảng dân.
Tuy là phần xác của Miên,
Hồn Trùm của Phật xuống lên dạy đời.
Từ đấy, Phật Trùm bắt đầu giảng giáo lý toàn bằng tiếng Việt. Bà Néang-Suông xưng là cháu chắt Phật Trùm cho biết ông có để lại một cuốn kinh bằng tiếng Việt, nhưng Tà-Sao là cháu của Phật Trùm đã đem nạp cho Pháp, bởi vậy chỉ có thể biết được một phần nội dung:

Thương đời ta phải bị đày,
Phật môn vạn pháp không ngoài cái Tâm.
Hạ ngươn sanh chúng lạc lầm,
Nên đem diệu lý âm thầm độ sinh.
Tu Nhân, Học Phật khá gìn,
Long Hoa đến hội, Phật tiên đến gần...


Nhà Phật Trùm sinh sống khi xưa tại ấp Sàlon, nay trở thành nơi thờ cúng ông.

Và cũng tương tự lối hành đạo của Đoàn Minh Huyên, Phật Trùm cho phân phát “lòng phái”, trổ tài trị bệnh thật lạ thường. Người ta kể rằng Phật Trùm thường dùng đèn sáp đốt lên, bảo bịnh nhơn ngửi hơi khói mà hết bịnh, nên ông còn được gọi là Đạo Đèn.
Cái tên ấy, đã được nhắc đến trong sám giảng của ông:
Lâm san nghe tiếng Đạo Đèn,
Gần xa thiên hạ ngợi khen vô cùng.
Kẻ thời đến lãnh giấy thông,
Người thời đến lãnh phù ông đem về...


 Mộ Phật Trùm trên lưng chừng núi Sàlon, ấp Sàlon, xã Lương Phi.
Khoảng năm 1870, lúc này tín đồ người Việt theo ông đã khá đông. Thấy vậy, một số người Việt gốc Khmer trong xóm vu cáo là ông mượn chuyện đạo, chuyện trị bệnh để quy tụ, để cổ xúy nhân dân nổi loạn, nên nhà cầm quyền Pháp cho bắt giam ông rồi kết án tù đày.
Trong tù, ông chăn heo. Sau vài năm, Pháp thấy ông hiền lành, không có biểu hiện gì chống đối, nên ông được trả tự do. Về lại quê nhà, Phật Trùm tiếp tục hành đạo, có khi rao giảng đạo sang tận bên nước Campuchia.
Ngày 13 tháng 3 âm lịch năm Ất Hợi (1875), Phật Trùm viên tịch.
Hiện mộ Phật Trùm nằm lưng chừng núi Sàlon., một núi nhỏ, thấp thuộc ấp Sàlon, xã Lương Phi, huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang. Mộ không đấp nấm, theo chủ trương của giáo phái Bửu Sơn Kỳ Hương.


http://vi.wikipedia.org/wiki/Ph%E1%BA%ADt_Tr%C3%B9m

Đức Phật Trùm (1868-1875)
Nguyễn văn Hiệp (Sacramento, CA)
      Mười hai năm sau ngày Đức Phật Thầy tịch diệt, Đức Phật Trùm ra đời. Ngài tên thật là gì và sanh năm nào, chưa ai biết (có Tài liệu ghi Ngài tên là Ta-Poul hay Paul ?). Chỉ biết Ngài là người Cao Miên có vợ và bốn người con gái. Quê của Ngài ở sóc Lương Phi, núi Tà Lơn (nằm trong vùng Thất sơn, gần kinh Tám Ngàn) thuộc quận Tịnh Biên, tỉnh Châu Đốc. Năm Mậu Thìn (1868), quanh vùng Tà Lơn xảy ra bịnh ôn dịch khiến cho người ta chết vô số kể, Ngài cũng mắc phải bịnh nầy mà chết vào ban đêm nhưng có điều lạ lùng là sáng hôm sau khi người nhà định đem đi hỏa táng thì Ngài bỗng nhiên sống lại. Điều lạ kỳ nữa là khi sống lại, Ngài không còn nói được tiếng Miên mà chỉ nói ròng tiếng Việt. Sau đó, Ngài bắt đầu nói giọng nửa hư nửa thực, có người nghi ngờ hỏi thì Ngài trả lời :
-“Tuy là phần xác của Miên,
Hồn Trùm của Phật xuống lên dạy đời.”
Và “Hồn Trùm” ấy không ai khác hơn là Đức Phật Thầy như lời Ngài thố lộ :
      “Ở đời hạ giái yêu ma, 
    Phật cho Thầy xuống giáo mà chúng sanh.”
      Rõ ràng, Ngài cho biết :
“Trùm của Phật sai xuống dạy đời”.
 Vì vậy, người đời gọi Ngài là Phật Trùm. Chẳng những để dạy đời mà Ngài còn ra tay cứu độ chúng sanh bằng phương pháp huyền diệu. Khởi đầu là cứu khỏi những người đang mắc bịnh ôn dịch quanh vùng, sau đó, người ta đem đến bịnh gì Ngài cũng trị được hết. Đặc biệt, khi trị bịnh, Ngài hay dùng đèn sáp đốt lên rồi bắt bịnh nhơn ngữi hơi khói mà hết bịnh, nên Ngài còn được gọi là ông Đạo Đèn. Song song với việc chữa bịnh, Ngài bắt đầu dạy đạo, thu nhận đệ tử, phát lòng phái nên tín đồ BSKH tin rằng Đức Phật Trùm là người kế thừa Đức Phật Thầy để tiếp nối hoằng dương chánh pháp, do đó, từ khắp nơi họ ào ạt kéo về lễ bái, xin trị bịnh và qui y ngày càng đông đảo. Ngài có làm bài KỆ sau đây :
      Hạ ngươn mạt pháp khổ trời Nam,
     Thừa lịnh Phật Tôn xuống cõi phàm. 
    HỌC PHẬT TU NHÂN noi diệu pháp, 
    Long Hoa ký hội độ hiền nhân.
      Hai năm sau đó, vì thấy Ngài được nhiều người tín ngưỡng nên có một số người Cao Miên ở Xà-Tón sanh lòng ganh ghét nên đến báo cáo với quân Pháp ở Châu Đốc rằng Ngài đang chiêu mộ binh sĩ có ý khởi nghĩa Cần Vương, mưu cuộc dấy binh chống Pháp. Thế là, Ngài bị quân Pháp bắt về Châu Đốc và giam giữ.
      Theo lời của ông Nguyễn Phước Còn (còn gọi là ông Bảy Còn) ở tổng Định Hòa, (Long Xuyên) thì mặc dầu Ngài đang bị giặc Pháp giam cầm trong ngục thất nhưng người ta vẫn thấy Ngài thong thả dạo chơi ở ngoài phố chợ. Sau đó, bọn Pháp còn đem Ngài bỏ vào cũi sắt rồi liệng xuống sông nhưng Ngài vẫn không bị chết ngộp hay bắt Ngài ngồi trong đụn dầu sôi nhưng Ngài vẫn không bị chết phỏng. Cuối cùng, thực dân Pháp đem Ngài đày ra hải ngoại nhưng không ai biết là ở nơi nào (Côn Đảo hay đảo Réunion ? không tài liệu nào ghi rõ).
      Trước khi bị đày, Ngài có để lại một bài Sấm giảng nhưng bị thất lạc, chỉ còn lại mấy câu (do gia đình một tín đồ BSKH truyền miệng) như sau :
      …“Thương đời ta phải bị đày,
      Phật môn vạn pháp không ngoài cái Tâm.
     Hạ ngươn sanh chúng lạc lầm,
     Nên đem diệu lý âm thầm độ sinh. 
    Tu Nhân Học Phật khá gìn,    
 Long Hoa đến hội Phật tiên đến gần…”
      Sau một thời gian an trí, nhà chức trách Pháp thấy Ngài hiền lành, không có gì là nguy hiểm nên tha Ngài về xứ. (Có nhơn chứng tên là Quăng quê ở Long Kiến, tỉnh Long Xuyên kể lại rằng Ngài bị giam chung với tội nhơn thường phạm và lãnh phần chăn hai con heo, nơi đây, Ngài cũng bị bọn cai ngục cho uống nước cường toan (eau régale) là chất độc nhưng Ngài vẫn không chết lại mạnh khoẻ như thường.). Khi về đến Châu Đốc, Ngài được nhà cầm quyền Pháp cấp cho một cây súng hai lòng để đi săn bắn nhưng buộc Ngài phải trình diện họ mỗi tuần một lần vào sáng thứ Hai. Sau đó, Ngài trở về núi Tà-Lơn tiếp tục cứu nhơn độ thế và nhắc nhở người đời lo việc tu hành. Ngài tịch diệt ngày 21 tháng Mười một năm Ất Hợi (1875) sau bảy năm ra đời hoằng khai chánh pháp và cứu độ sanh linh.
      Trước khi tịch diệt, Ngài có cho vợ con và tín đồ biết trước rằng Ngài sẽ về cõi Phật, rồi bỏ nhà đi lên núi. Nhà cầm quyền Pháp thấy đã quá mấy ngày mà Ngài không đến trình diện nên cho người tìm bắt. Sau khi nghe nói Ngài đã tịch rồi, bọn chúng không tin nên bắt vợ con của Ngài giải về Châu Đốc, buộc Ngài phải lộ diện thì họ mới thả vợ con ra. Cuối cùng, Ngài phải trở về nhà, bảo tín đồ đóng cho một cái hòm rồi tự mình trải vào đó một cái khăn rộng và vào nằm trong đó. Sau đó, sai người đậy nắp lại cẩn thận rồi đi báo cho Pháp hay. Bọn Pháp sau khi đã khám nghiệm đủ cách, biết chắc Ngài không còn sống nên hạ lịnh đem chôn trước sự chứng kiến của họ. Tuy nhiên, một thời gian sau đó người ta vẫn thấy Ngài lảng vảng trong vùng Thất sơn.
      Ngài còn truyền lại một bổn “Sấm Giảng” khuyên người đời tu niệm và tiên đoán việc thiên cơ, trong đó có đoạn như sau :
      “Việc đời nghe cũng gần đây,
     Nghe lời Thầy dạy vậy thời ở yên.
      Rày kinh nay đã đóng biên,    
 Hai năm Tuất Hợi gần miền Phật ra.  
   Tử dân vô số Hằng hà,  
   Độc trùng ác thú đều ra hại người.  
   Phần thời giặc đánh tới nơi,    
 Phần thời giặc Trời ra hại người ta. 
    Chư hầu dấy động can qua,  
   Đến chừng thấy Phật thì còn bâu* không. 
    Loạn trong thập bát chư hầu,   
  Âm thinh ba tiếng đâu đâu cũng tàng.”
      (Viết theo quyển “Thất sơn Mầu nhiệm” của Dật Sĩ & Nguyễn văn Hầu)
         
 Chú thích :
      1/- Ngoài việc phát đèn sáp cho bịnh nhơn, Đức Phật Trùm còn phát cảbâu áo. Hễ ai là đệ tử thì được phát cho hai khuy hai nút, còn người thường thì phát cho một khuy một nút. Bâu áo nầy được bọc vải bên ngoài còn bên trong thì lót lá cây mần-dè, ngụ ý là không dè mà gặp Phật.
      2/- Bà Néang-Suông xưng là cháu chắt Đức Phật Trùm cho biết : Ngày Đức Phật Trùm tịch là 21 tháng 11 năm Ất Hợi (1875), mồ mả còn tại núi Tà-lơn, Ngài còn để lại một cuốn Kinh bằng tiếng Việt nhưng tên Tà-Sao là cháu của Ngài vì ham lợi đã đem nạp cho bọn Pháp. (Theo quyển “Nửa tháng trong miền Thất sơn” của Nguyễn văn Hầu).
 
http://tuanhieunghia.blogspot.com/2010/03/phat-trum.html

MỘT SỐ HÌNH ẢNH DIENBATN CHỤP TẠI
 ấp Sàlon, xã Lương Phi, huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang. 
 


ĐỨC PHẬT TRÙM
Điều mà ai đọc đến lịch sử Đức Phật Trùm đều phải kinh dị là trường hợp ra đời và mở đạo của Ngài không khác trường hợp của Đức Phật Thầy Tây An. Ngài vốn là một người Miên ở núi Tà Lơn vùng Xã Tón thuộc tỉnh Chấu đốc, nhưng bỗng một hôm, sau khi chết đi sống lại vì bịnh thời khí, Ngài hốt nhiên tỏ ngộ, không nói được tiếng Miên, lại nói ròng tiếng Việt. Rồi bắt đầu từ đó, Ngài phát phù trị bịnh, mở đạo giáo đời, nhứt nhứt như được Đức Phật Thầy truyền lại. Thế cũng chưa làm cho người đời ngạc nhiên bằng khi thấy Ngài cũng phát lòng phái Bửu- Sơn Kỳ- Hương. Thật là một điều kỳ diệu. Nếu không phải Đức Phật Thầy chuyển kiếp thì làm gì có trường hợp lạ lùng như thế.
Do những chỗ giống nhau ấy mà người đời quả quyết rằng: Đức Phật Trùm tức là Đức Phật Thầy tái sanh, nhiều đệ tử và tín đồ của Ngài tấp nập kéo đến. Nhân đó giáo hệ Bửu- Sơn Kỳ- Hương lại một phen mạnh truyền trong dân chúng.
Cũng như đệ tử của Đức Phật Thầy, đệ tử của Đức Phật Trùm cũng được mật truyền bí pháp và đắc pháp thần thông, trong số đó người ta được biết ông Đạo Sĩ ở Trà Kiết thuộc tỉnh Long Xuyên, ông Đạo Ớt ở Tân Lược thuộc tỉnh Cần Thơ, là những vị còn lưu lại ít nhiều tung tích và có công trong việc xây nền móng cho giáo hệ Bửu- Sơn Kỳ- Hương.
Công cuộc truyền giáo có cơ phát triển thì chẳng may Đức Phật Trùm gặp phải tai nạn. Mặc dù sau một thời gian bị đày lưu, Đức Phật Trùm được trả tự do và tiếp tục công việc cứu bịnh, qui tụ tín đồ đông như trước, nhưng về giáo hệ Bửu- Sơn Kỳ- Hương thì bắt đầu từ đó bước vào con đường khó khăn chẳng khác Phật-giáo gặp ách tam Võ (1) ở Trung Hoa.
Nên biết Đức Phật Trùm ra đời nhằm năm Mậu thìn (1868) tức là lúc quân pháp đã chiếm Nam kỳ Lục tỉnh. Các vị anh hùng ái quốc trong cuộc nổi lên gây phong trào kháng chiến Cần vương. Nào là Ngài Trương Công Định huy động nghĩa binh ở miền Đông, nào là ngài Võ Duy Dương chống Pháp ở Đồng Tháp, nào là các Ngài Nguyễn Trung Trực, Nguyễn Khoa Huân, Trần Văn Thành tức Đức Cố Quản… phát cờ khởi nghĩa ở miền Tây. Đặc biết là Ngài Nguyễn Trung Trực, kế đó Đức Cố Quản, là hai tướng lãnh kháng chiến, từng làm cho quân Pháp kinh danh khiếp sợ. Ngài Nguyễn Trung trực đã hỏa công chiếm hạm Pháp tại sông Nhựt Tảo thuộc tỉnh Tân An và hạ đồn Kiên Giang tức tỉnh Rạch Giá. Đến như Đức Cố Quản thì Ngài đã đánh nhau với Pháp ở đồng Bảy Thưa, giữa khoảng Châu đốc Long xuyên. Vả lại Ngài là đệ tử của Đức Phật Thầy có hàng vạn người làm hậu thuẫn, cho nên quân Pháp đạc biệt chú ý đến tín đồ Bửu- Sơn Kỳ- Hương. Sau khi Pháp phá tan lực lượng của Ngài vào năm 1873. quân Pháp truy nã tín đồ Bửu- Sơn Kỳ- Hương và thi hành một chánh sách khủng bố nghiệt ngã.
Chính lúc ấy, Đức Phật Trùm lại truyền mạnh giáo hệ Bửu- Sơn Kỳ- Hương, qui tụ tín đồ hàng vạn thì tránh sao cho khỏi quân Pháp nghi kỵ. Thế rồi Đức Phật Trùm bị bắt và đày đi. Bắt đầu từ đó, giáo hệ Bửu- Sơn Kỳ- Hương bước vào giai đoạn đình đốn ngưng trệ.
Nói tóm lại, giáo hệ Bửu- Sơn Kỳ- Hương từ khi Đức Phật Thầy Tây An khai sáng cho đến khi Đức Phật Trùm viên tịch, là ở vào giai đoạn thành lập xây đựng. Trong giai đoạn này, giáo hệ Bửu- Sơn Kỳ- Hương được Đức Phật Thầy và Đức Phật Trùm, cùng đệ tử của hai Ngài đặt vững cơ sở khắp nơi. Nhiều cảnh chùa đã xây dựng còn lưu lại đến ngày nay.
Mặc dù giữa Đức Phật Thầy và Đức Phật Trùm không có sự ấn chứng hay truyền y bát như hệ thống tổ , tổ tương truyền, nhưng Đức Phật Trùm cũng như bao nhiêu vị giác ngộ sau này, vẫn kế truyền và xiển dương giáo hệ Bửu- Sơn Kỳ- Hương như đã có một truyền cảm giữa vị giác ngộ này với vị giác ngộ khác.
Đó là một điều huyền diệu, chỉ giáo hệ Bửu- Sơn Kỳ- Hương mới có.
( BSKH - sdd).

2/Đức Bổn Sư.



Ngô Lợi (1831 -1890), tên thật là Ngô Viện (tên húy, còn Ngô Lợi là tên tự). Ngoài ra, ông còn có tên là Ngô Tự Lợi hoặc được người trong đạo gọi tôn là Đức Bổn sư hay Ông Năm Thiếp. Ông là Giáo chủ đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa (gọi tắt là đạo Hiếu Nghĩa), và là lãnh tụ phong trào kháng Pháp tại miền Nam Việt Nam vào cuối thế kỷ 19.
Thân thế
Ngô Lợi người Mỏ Cày, Bến Tre. Cha tên Ngô Nhàn (? - 1937), làm nghề thợ mộc, mẹ tên Phạm Thị Xuyến, người Bình An, tỉnh Định Tường (nay là tỉnh Tiền Giang).
Tương truyền từ nhỏ cho đến lúc trưởng thành, Ngô Lợi cũng không có biểu hiện gì khác lạ. Cho đến năm 1851, lúc 20 tuổi, ông viết Bà La Ni Kinh dài 223 chữ Hán, mang nội dung xưng tán Quán Thế Âm Bồ tát để khuyên người đời tu niệm, mà sau này trở thành quyển kinh quan trọng của đạo Hiếu Nghĩa.
Năm 37 tuổi, vào ngày mùng 5 tháng 5 năm Đinh Mão (1867), bỗng nhiên ông bất tỉnh. Sau 7 ngày 7 đêm, ông hồi tỉnh lại, trở thành người "giải thoát tẩy trần tâm, giáo nhơn tùng thiện đạo" (rũ sạch lòng trần, dạy người theo đạo lành).
Bởi đi "thiếp" vào ngày trên và thỉnh thoảng ông lại có những cuộc đi thiếp như thế, nên người đời còn gọi ông là Năm Thiếp. Mỗi lần đi thiếp xong, ông thường nói những việc quá khứ và đoán định việc tương lai, nên được nhiều người tin theo
.
 Sự nghiệp
Sau khi liễu đạo, ngày rằm tháng Giêng năm Nhâm Thân (1872), Ngô Lợi cho hợp ghe thuyền của tín đồ đi đến xã An Lộc, tổng An Lương, tỉnh An Giang cất chùa ở xã Bình Long, rồi lấy đó làm cơ sở truyền đạo.
Ông đã đi nhiều nơi vừa trị bệnh (nhất là trận dịch hoành hành dữ dội vào năm 1876), vừa thu nhận và dạy tín đồ thuyết "học Phật tu nhân, báo đáp tứ ân, hành xử theo thập nhị giáo điều". Tháng Giêng năm Bính Tý (1876), ông cho một tín đồ tên Trần Tịnh đi khảo sát vùng Núi Tượng (nay thuộc thị trấn Ba Chúc, huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang), rồi đưa một số đệ tử vào theo để khai hoang, lập chùa miếu và mở thôn ấp mới. Theo Địa chí An Giang thì vào năm này đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa đã được ông khai sáng tại đây.
 Khởi nghĩa ở Mỹ Tho năm 1878, Ngô Lợi tổ chức hai cuộc lễ đại trai đàn, kéo dài ba đêm liền, vừa để cầu siêu cho những vong linh "vị quốc vong thân", vừa để khơi dậy ngọn lửa yêu nước trong lòng của hàng ngàn người đến dự.
Lần đầu diễn ra vào ngày 16 tháng 2 năm 1878 qui tựu hơn 200 người, rao giảng thuyết "Hội Long Hoa" và tuyên bố "đời Minh Hoàng được thành lập, ai không theo thì bị thú dữ, cọp beo trong rừng ăn thịt".
Lần thứ nhì diễn ra vào ngày 30 tháng 4 năm 1878. Trong lần này, ông phong Võ Văn Khả làm chánh tướng, Lê Văn Ong làm phó tướng để cùng lãnh đạo công cuộc kháng Pháp.
Ngày 2 tháng 5 năm 1878, cuộc nổi dậy đã nổ ra ở Cai Lậy (Mỹ Tho) nhưng nhanh chóng bị dẹp tan. Hai ông Ong và Khả bị xử chém tại Thuộc Nhiêu năm 1879, còn Ngô Lợi cùng nhiều nghĩa quân trốn thoát về làng An Ðịnh, căn cứ của đạo Hiếu Nghĩa, do ông cùng tín đồ khai hoang, lập ấp thuở trước.
 Kháng Pháp nơi núi TượngMàn lưới do thám của Pháp liền được lệnh truy lùng Ngô Lợi ráo riết, nhưng rốt cuộc không thu được kết quả nào, bởi ông được tin đồ và đồng bào mến mộ che giấu. Ngay cả thuộc hạ đắc lực của Đốc phủ Trần Bá Lộc là Hai Phép lãnh trách nhiệm theo dõi ông, cũng bị ông cảm hóa rồi theo phe kháng Pháp luôn. Đốc phủ Đỗ Hữu Phương cho tên Bửu, người Minh Hương, mua ba ngàn xâu chuỗi bồ đề từ Chợ Lớn xuống Núi Tượng, cúng cho bổn đạo vẫn vẫn không dò hỏi được tin tức gì.
Một góc phố Ba Chúc tức thôn An Định xưa. Phía cuối đường là Núi Tượng
Tức tối, Pháp nhiều lần tổ chức ruồng bố. Chỉ tính trong 12 năm (1876-1888), Pháp đã đến đốt phá, bắt bớ, tra tấn, tù dày những tín đồ ở làng An Ðịnh cả thảy bảy lần, tín đồ Hiếu Nghĩa gọi là “đạo nạn”, đơn cử như vào năm 1885, Ngô Lợi cùng với tín đồ đạo Hiếu Nghĩa kết hợp với nghĩa quân của Hoàng Thân Sivôtha (Campuchia) nổi dậy, đánh chiếm hai bờ kênh Vĩnh Tế và làm chủ Tịnh Biên. Nhưng ngay đó, quân Pháp do đại úy Ferussac đem quân chiếm lại và còn tấn công vào An Định, khiến Ngô Lợi phải cùng với nhiều tín đồ phải chạy sang Vườn Dầu, thuộc Campuchia để lánh nạn. Ngày 2 tháng 6 năm 1886, quân Pháp mở cuộc hành quân sang Campuchia, đánh vào căn cứ Vườn Dầu nhưng thất bại. Mặc dù cản ngăn được được đối phương, nhưng khi Ngô Lợi trở về núi Tượng, nhà cửa, chùa chiền ở An Định chỉ còn là những đống tro tàn.
Nhưng bi thảm nhất là vào năm 1887, quân Pháp do thiếu tá Peiqnaux ở Châu Đốc chỉ huy, cùng hai cộng sự là Trần Bá Lộc và cai tổng Trương Văn Keo kéo quân vào An Định. Bị kháng cự ở núi Trà Sư, nên khi Pháp tràn được vào làng, họ đã đốt sạch nhà cửa, chùa chiền, bắt nhiều người tra tấn để tìm Ngô Lợi.
Kết cuộc, Pháp xử bắn 8 người, đày ra Côn Đảo 13 người, cưỡng bức 407 gia đình gồm gần hai ngàn người già trẻ xuống tàu về quê quán và cho sáp nhập thôn An Định vào xã Ba Chúc, sáp nhập thôn An Thành vào xã Lương Phi...
Qua đời
Ngày 13 tháng 10 âm lịch năm Canh Dần (1890), Ngô lợi mất vì bệnh tại thôn An Hòa, gần Núi Tượng, lúc 59 tuổi.Sau khi ông mất, phong trào kháng Pháp dần tan rã, chỉ còn lại đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa.
Ngoài bản kinh Bà La Ni Kinh, từ năm 1879 đến năm 1884, Ngô Lợi còn truyền dạy cho tín đồ nhiều bài cung văn sớ điệp, nhiều nghi tiết cúng lễ. Các vị đại đệ tử của ông đã ghi chép lại thành tập sách Ngọc Lịch Đồ Thơ Tập Chú.
 Nhận xét
Tháng 10 năm 1885, chủ tỉnh Châu Đốc báo cáo:
Toàn là dân bất hảo, chống đối sự khai hóa của người Pháp. Họ ở tứ xứ gom về và tất cả đều theo đạo Phật (ý nói đạo Hiếu Nghĩa), nhưng là những phật tử có nhiệt tâm đến mức cuồng tín. Họ ra vẻ chí thú làm ăn, nhưng gặp cơ hội là họ khởi loạn nữa...
Sau cuộc hành quân tìm diệt Ngô Lợi ở căn cứ Vườn Dầu vào năm 1886 nhưng thất bại, người Pháp viết:
Uy tín tinh thần của ông (Ngô Lợi) còn mạnh. Ông là giáo chủ tôn giáo mới...
Đinh Văn Hạnh nhận xét:
Có người nhận xét làng An Định là căn cứ của đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa và của phong trào Cần Vương toàn cõi Nam Kỳ. Thực ra, phong trào Cần vương mãi đến tháng 7 năm 1885 mới được phát động. Còn trước đó gần 10 năm, An Định đã là nơi hội tụ của những nghĩa quân thất bại trong những cuộc khởi nghĩa lớn... Họ về đây cùng với Năm Thiếp chờ cơ hội...
Sách Địa chí An Giang đánh giá:
Ngô Lợi là một sĩ phu yêu nước của phong trào Cần Vương. Bị thực dân Pháp truy nã, ông từ Mỹ Tho về Ba Chúc dựng chùa tu hành để che mắt đối phương.
Do vậy, làng An Định cùng đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa là nơi hội tụ của những người nuôi chí lớn, mong có ngày giải phóng quê hương khỏi tay quân xâm lược và đã gây cho Pháp nhiều khó khăn vất vả. Trong kháng chiến chống Mỹ, đã có nhiều đồng bào theo đạo này tham gia cách mạng...

http://vi.wikipedia.org/wiki/Ng%C3%B4_L%E1%BB%A3i

ĐỨC BỔN SƯ
1. HÀNH TRẠNG.
Thời kỳ thứ hai là thời kỳ củng cố giáo hệ Bửu- Sơn Kỳ- Hương. Thời kỳ này kéo dài trong suốt thời gian Đức Bổn Sư ra mở đạo
Cứ như được biết, trường hợp tỏ ngộ của Đức Bổn Sư cũng không khác trường hợp tỏ ngộ của Đức Phật Thầy Tây An và Đức Phật Trùm, nghĩa là hốt nhiên tỏ ngộ và dùng phép huyền điệu độ bịnh cứu dân. Điều làm cho mọi người phải ngạc nhiên, cũng như người ta đã ngạc nhiên về trường hợp của Đức Phật Trùm, là Đức Bổn Sư không hề được Đức Phật Thầy Tây An hay Đức Phật Trùm truyền giáo thế mà khi tỏ ngộ, Ngài cũng phát lòng phải Bửu- Sơn Kỳ- Hương và xiển dương pháp môn Tu Nhân Học Phật y như có suy truyền kế vậy.
Nhưng khổ nỗi ! Khi Ngài ra đời lại gặp phải thời kỳ quân Pháp sang chiếm nước Việt Nam. khắp nơi trong nước, các vị anh hùng ái quốc nổi lên phong trào Cần vương kháng chiến, trong số đó có Đức Cố Quản Trần Văn Thành, Nguyễn Trung Trực, và môn đệ của Đức Phật Thầy Tây An. Vì thế mà quân Pháp cực lực truy nã tín đồ Bửu- Sơn Kỳ- Hương. Đức Phật Trùm bị bắt đày đi cũng vì duyên cớ ấy.
Vả lại, pháp môn Tu Nhân Học Phật của giáo hệ Bửu- Sơn Kỳ- Hương lại khuyên tu Tứ Ân Hiếu Nghĩa, gây cho dân chúng một tinh thần hy sinh cao cả đối với đất nước quê hương, càng khiến cho quân Pháp, muốn đặt vững uy quyền của mình, phải thẳng tay đàn áp. Thế nên, không có thời kỳ nào mà giáo hệ Bửu- Sơn Kỳ- Hương chịu nhiều gian nguy khổ ách bằng thời kỳ Đức Bổn Sư ra hoằng hóa. Có đọc qua lịch sử của Ngài mới thấy Ngài rất dày công trong việc củng cố giáo hệ Bửu- Sơn Kỳ- Hương .
Trong kinh Hiếu Nghĩa gồm có ba quyền do Đức Bổn Sư sáng tác thì vào giờ ngọ ngày mồng 5 tháng 5 năm Đinh Mão (1867). Ngài dọn mình bỏ tục (chuyển thân khử tục). Trong bảy ngày bảy đêm, Ngài nằm đê mê cho đến ngày thứ bảy thì lặng nhiên tỉnh lại; Ngài cảm thấy lòng trần đã rửa sạch. Và bắt đầu từ đó, Ngài đi phổ hóa độ sanh. Tứ Dội, nơi quê quán thuộc tỉnh Châu Đốc. Ngài đi lần xuống Cù lao Ba, nơi đây Ngài ở một thời gian cứu dân đang gặp nạn ôn dịch.
Sau đó, Ngài đi vào vùng Thất Sơn, rồi thẳng theo kinh Vĩnh Tế, qua miệt Giang Thành. Khi đến hòn núi Nước, Ngài có lấy một cái ếm của người Tàu. Ý chừng phá vỡ mưu mô của họ, người Tàu sanh lòng thù oán cáo gian với nhà cầm quyền Pháp rằng Ngài có ý khởi nghĩa Cần vương. Vì thế mà Ngài phải một phen giả dạng làm nữ nhơn, ẩn lánh rày đây mai đó. Ngài có đến gặp Đức Cố Quản ở Nhà Láng.
Sau một thời gian đi hóa độ. Ngài trở về núi Tượng lập chùa phát phái, mở thành mối đạo Hiếu Nghĩa. Ngày Ngài chánh thức lấy danh hiệu Đức Bổn Sư là ngày rằm tháng 9 năm Canh Ngọ (1870), nhưng theo kinh Hiếu Nghĩa quyền thượng thì cho đến ngày 28 tháng 4 năm Kỷ Mão (1879) Ngài mới được thọ ký. Ngài dựng lên tại Núi Tượng ngôi Thanh Lương tự để thờ Địa Mẫu. cũng trên sở đất này, Ngài cho lập một cảnh chùa gọi là Chùa Lớn, chia làm hai ngôi; phía trước là An định miếu để thờ các vị công thần của đất nước. còn phía sau là chùa Phi Lai thờ Đức Phật Thầy Tây An ở bàn tỏ và một bức trần điều nơi bàn thờ chánh.
Công việc sắp đặt chưa được an bài thì một biến cố xảy ra. Nguyên trong một cuộc đàn áp Cần vương ở Tịnh Biên, quân Pháp có bắt được một tín đồ Hiếu Nghĩa trong hàng nghĩa binh. Thế là năm 1885 (Ất Dậu) quân Pháp đem binh đến Núi Tượng, một mặt thiêu hủy chùa miếu và nhà cửa, một mặt bắn giết và bắt bớ tín đồ. Đây là tai nạn đầu tiên mà đạo Hiếu Nghĩa đã gặp. Chừng như Đức Bổn Sư cũng đã tiên liệu tai nạn này, nên chi, trước đó mấy năm. Ngài nhìn bầy gà ăn lúa chung quanh cối xây ở trước chùa, có nói rằng: đầu cối gà bươi mà cuối cuối gà cũng bươi. Câu nói này không ai đoán ra. Đến năm Ất Dậu khi xảy ra tai nạn người ta mới hiểu. Nhưng đáo chỉ mới là đầu cối gà bươi, còn cuối cối gà bươi là năm 1945 cũng là năm Ất Dậu, chùa miễu ở núi Tượng bị đốt phá một lần nữa. Đó là hai lần đại nạn của tín đồ Hiếu Nghĩa.
Sau cuộc đốt phá và bắt bớ năm 1885, tín đồ Hiếu Nghĩa phần nào được thả thì trở về lo cất lại nhà cửa. Chùa miếu lần lượt cũng được trùng tu, nhưng nhà cầm quyền Pháp bắt phải đặt dưới sự chỉ huy của hương chức hội tề, nhứt cử nhứt động gì cũng phải xin phép, tín đổ không được tụ hợp đông đảo như trước; mỗi lần vào chùa lễ bái không quá con số bốn người.
Từ ngày xảy ra tai nạn. Đức Bổn Sư cùng một số cao đệ đi lánh mặt. Để tránh sự truy nã của quân Pháp, Ngài phải giả dạng ra nữ nhơn rầy đây mai đó. Khi thấy tình thế hơi dịu. Ngài trở về núi Tượng tu chỉnh chùa miễu và tiếp tục công cuộc phổ hóa.. Nhưng cho được ổn thỏa với hương chức hội tề luôn luôn đứng một bên chỉ huy, hay hơn nữa để đánh tan lòng nghi ngờ của quân Pháp. Ngài canh cải cách thờ phượng và tụng niệm. Thay vì thờ một tấm trần điều thì Đức Bổn Sư bảo thờ một bức tượng Đức Quan Đế. Thật ra thì bức tượng ấy không có để nguyên mà bị vanh bỏ chung quanh, chỉ lấy phần hình mà thôi. Và cái phần hình ấy được dán lên trên tấm trần điều. Chỉ những người có để ý mới nhận thấy.
Việc lọng hình Đức Quan Đế trên trần điều xét ra không khác trường hợp Đức Huỳnh Giáo chủ dạy tín đồ đổi trần điều ra trần đà và viết lên chín chữ "Nam mô Bổn sư Thích Ca Mâu ni Phật", trong lúc nhà cầm quyền Pháp làm khó khăn và khủng bố Đạo.
Ngoài Đức Quan Đế, tín đồ Hiếu Nghĩa còn thờ nhiều hình tượng khác nữa. Như ở thôn đạo An Thành thì thờ Đức Quan Âm. Thôn đạo An Hòa thì lập miếu gần chùa Phổ Đà thờ Na Tra. Còn ở gia đình của tín đồ Hiếu Nghĩa thì nhà nào cũng có thờ ông Táo.
Cách thờ phượng của đạo Hiếu Nghĩa, xem đó, không khác cách thờ phượng của nhà thiền mà chúng ta thường thấy. Cho đến cách tụng niệm cũng không khác. Nơi chùa cũng như nơi nhà của tín đồ Hiếu Nghĩa, hằng đêm đều có tụng kinh gõ mõ. Kinh được tụng phần nhiều là kinh Kim cang. Di Đà. Phổ môn. Bát Dương. Tâm Kinh… tức là những kinh trong nhà thiền thường đọc tụng. Nhưng ngoài mấy bộ kinh vừa kể, tín đồ Hiếu Nghĩa còn tụng những kinh chính của Đức Bổn Sư sáng tác, như Hiếu Nghĩa kinh, Siêu thăng kinh, Phổ độ, Thiên đồ, Âm chất. Đào viên minh thánh kinh…
Tóm lại từ cách thờ phượng tượng Đức Quan Đế cho đến cách tụng niệm, vì để đánh lạc hướng của nhà cầm quyền Pháp. Đức Bổn Sư đã rập theo hình thức của nhà thiền. Mặc dù Ngài cố gắng thay hình đổi dạng như thế, nhưng quân Pháp cũng không vì đó mà để cho Ngài và tín đồ Hiếu Nghĩa ở yên. Chúng vẫn tầm bắt Ngài và khổ khắc tín đồ Hiếu Nghĩa. Nhiều khi Ngài phải hóa trang và ẩn lánh. Có một lần nọ, trong lúc chùa có lễ cúng lớn, quân Pháp biết chắc Ngài có mặt tại đó, nên kéo binh đến vây bắt. Tín đồ đều hồn kinh phách tán, vì không còn ngõ nào cho Đức Bổn Sư thoát thân. Môn đệ đến cho Ngài hay tình thế nguy biến thì Ngài vẫn thản nhiên bảo mấy cao đệ hãy núp theo bóng của Ngài mà đi. Ngài cùng môn đệ đi ra một cách tự nhiên trước mặt quân Pháp mà chúng ta không thấy.
Tuy gặp nhiều lúc nguy biến như thế, nhưng Ngài cứ một mực phổ hóa chúng sinh, tiếp tục phát phái Bửu- Sơn Kỳ- Hương. Thật không có thời kỳ nào tín đồ Bửu- Sơn Kỳ- Hương chịu nhiều tai ách bằng thời kỳ này. Trong suốt thời gian từ ngày Đức Bổn Sư ra đời cho đến ngày Ngài Tịch (năm canh dần 1890), không quyết tâm tiêu diệt, nhưng nhờ có Ngài ra công bảo thủ mà giáo hệ Bửu- Sơn Kỳ- Hương được giữ vững, chỉ được giữ vững thế cũng là may lắm rồi, chớ không dễ gì bành trướng như hồi thời Đức Phật Thầy Tây An được.
Thế nên thời kỳ Đức Bổn Sư phổ hóa, có thể gọi là thời kỳ củng cố.
2. GIÁO LÝ
Như mọi người đều biết, giáo hệ Bửu- Sơn Kỳ- Hương chủ trương pháp môn Tu Nhân Học Phật. Đức Bổn Sư khi ra mở đạo cũng phát lòng phái Bửu- Sơn Kỳ- Hương cho môn nhơn đệ tử; như thế đủ chứng rằng Ngài là vị kế truyền của Đức Phật Thầy Tây An.
Nhưng khi xét đến nghi thức thờ phượng và lễ bái của Đức Bổn Sư, không khỏi có người ngạc nhiên mà nhận thấy có sự bất đồng gần như tương phản giữa Ngài và Đức Phật Tầy về phương diện hành đạo. Đức Phật Thầy thì chủ về vô vi, còn Đức Bổn Sư thì trọng về sắc tướng.
Tại đâu có chỗ tương phản ấy? Thế thì Đức Bổn Sư chẳng cùng một tôn chỉ Bửu- Sơn Kỳ- Hương sao?
Tuy nhiên, nếu có đi sâu vào giáo lý của Đức Bổn Sư , mới nhận thấy Ngài cũng vẫn chủ trương pháp môn Tu Nhân Học Phật và xiển minh giáo lý vô vi của Đức Thích Ca. Nhưng sở dĩ, về nghi thức thờ phượng, Ngài còn trọng về phần hữu vi, ấy chẳng qua vì hoàn cảnh lúc bấy giờ bắt buộc. Trước sư đàn áp nghiệt ngã của quân Pháp đối với giáo hệ bắt đầu, nếu Ngài không biến đổi cách thờ phượng và lễ bái trọng về sắc tướng như nhà thiền thì hẳn Ngài không sao gây được mối đạo Hiếu Nghĩa để bảo tồn giáo hệ Bửu- Sơn Kỳ- Hương.
Mặc dù hình thức có khác, và đó chẳng qua là sự bất đắc dĩ trong chỗ quyền xảo, chớ kỳ thật về giáo lý thì Đức Bổn Sư vẫn giữ chủ trương pháp môn Tu Nhân Học Phật.
TU NHÂN
Cũng như Đức Phật Thầy Tây An, Đức Bổn Sư khuyến tu nhân đạo, vì đạo nhân là căn bản của các mối đạo, như Ngài đã nói:
Làm người thời phải tu nhân.
Nhân là thiên bổn can duơn vun trồng
Vì đâu làm người phải tu đạo nhân trước hết ? Vì rằng đạo nhân là bước đầu để đi đến con đường tu Tiên tác Phật. Nếu đạo nhân mà làm không rồi thì khó mong giữ được hột giống nhân luân. Mã đã không còn hột giống nhân luân thì lấy thân người đâu để tu thành Tiên thành Phật. Thế nên Đức Bổn Sư khuyên nhủ:
Làm người chẳng xét lo lường.
Cũng như se cát dã trường nhọc thân
Sao bằng giữ đạo nhân luân.
Mang lông cũng khổ, đội sừng dễ chi
Nhưng muốn tu nhân đạo, theo Đức Bổn Sư không chi bằng thực hành theo đạo Thánh Hiền, trước phải trau sửa thân mình để trở thành người quân tử:
Muốn cho tỏ đạo Thánh Hiền.
Đặng làm quân tử phải chuyên trau mình
Và có làm được quân tử thì mới mong gần bực Thánh Hiền.
Sao cho văn chất lân lân
Đặng làm quân tử Thánh nhân mới gần
Ngoài việc tu thân theo đạo Nho để trở nên người quân tử. Đức Bổn Sư còn khuyến tu Tứ Ân Hiếu Nghĩa. Nhưng trong bốn ân: ân tổ tiên cha mẹ, ân đất nước , ân tam bảo và ân đồng bào nhân loại. Đức Bổn Sư đặc biệt biểu dương và xiển minh ân tổ tiên cha mẹ và ân quốc vương thủy thổ mà Ngài lập thành một mối đạo mạng danh là Đạo Hiếu Nghĩa.
Trong Hiếu Nghĩa Kinh. Đức Bổn Sư giải rõ lý do tại đâu tông phái của Ngài lại lấy tên Hiếu Nghĩa. Ngài cho biết rằng: Đường Tam Tạng qua Tây phương thỉnh kinh về Đông độ để cứu tế sanh linh, nhưng "từ Hậu Hán truyền lại đây khuyết đi Hiếu Kinh. Biết rõ cớ ấy nên nay Phật thuyết bổn tông, hoằng đạo lợi sanh, tự tha đều độ. Công đức của đạo Hiếu thật là rộng lớn". Vì rằng hành được Hiếu Nghĩa thì "lợi nhân thủy vương sanh, quốc gia hưng xương thạnh, tam bảo đạo quang minh".
Như thế đủ thấy Hiếu Nghĩa là đầu mối Tứ Ân. Nếu hành được Hiếu Nghĩa thì chẳng những trả được ân tổ tiên cha mẹ và ân quốc vương thủy thổ mà đồng thời cũng trả được ân tam bảo và ân đồng bào nhân loại.
Nói tóm lại, theo Đức Bổn Sư, muốn đền đáp Tứ Ân, chỉ cần làm xong Hiếu Nghĩa. Người mà làm xong Hiếu Nghĩa giữ trọn tam cang thì chẳng những làm tròn đạo nhân mà còn vượt khỏi nẻo luân hồi trong vòng lục đạo.
Quán Vương nghĩa trọng biết bao.
Làm tôi lo báo công lao ở đời.
Song thân ân lớn bằng trời.
Làm con lo trả biết đời nào xong.
Kiếp trần nhiều nỗi long đong,
Tam cang giữ trọn sau vòng đành qua.
HỌC PHẬT
Về phương diện học Phật. Đức Bổn Sư cũng chủ trương pháp môn Thiền tịnh song tu như Đức Phật Thầy Tây An. Không có pháp tu nào dễ bằng pháp môn niệm danh hiệu Phật A di đà cầu vãng sinh về Cực lạc. Chẳng lựa phải nhọc công nhiều, chỉ chuyên niệm sau chữ Nam mô A di đà Phật là được về cõi Tây phương Đức Bổn Sư hằng nói:
Di Đà hai chữ rộng suy
Một câu liễu đặng luận chi muôn vàn
Vì đâu chỉ niệm có 6 chữ Nam mô A di đà Phật lại được vãng sanh về cực lạc dễ dàng như thế? Là vì Đức Phật A di đà có phát ra 48 lời nguyện, trong đó có câu nói rằng nếu chúng sanh nào niệm đến danh hiệu của Ngài thì khi lâm chung sẽ được Ngài và các Thánh chúng tiếp dẫn về cõi Tịnh độ.
Phật xưa bốn tám lời thề.
Chúng sanh độ hết chớ hề bỏ ai.
Ai mà giữ đạo Như Lai,
Ngân kiều khỏi xuống, Kim đài bước lên.
Thế nên Đức Bổn Sư chẳng dứt khuyên người niệm Phật, niệm một cách tha thiết tinh chuyên thì chắc chắn sẽ được vãng sanh:
Niệm Phật đừng có lôi thôi.
Niệm cho chánh niệm mới ngồi tòa sen.
Cần nhứt là phải chánh niệm:
Ai mà chánh niệm tinh chuyên
Trong thánh ắt trổ kim liên báu thành.
Ngoài pháp môn Tịnh độ tông tha cầu Phát lực. Đức Bổn Sư còn khai thị pháp môn Thiền tông, tức pháp môn tự lực tu hành, tự mình trau tâm sửa tánh, trừ diệt thất tình lục dục cho không còn ô nhiễm :
Thoát vòng tứ tướng mới khôn
Ly đường lục tặc lập đồn minh quân
Và cho đạt được Bồ đề diệu quả, đến bờ bên kia, cần phải tinh tấn tu hành, quyết tâm lướt mọi gian lao nguy khổ:
Quyết lòng lên chốn tháp san
Tầm Ba la mật gian nan chi sờn.
Kỳ viên quyết dạ đời chơn.
Tầm Bồ để quả làm huờn hộ thân
Chủ yếu của phép tu Thiền tông là đạt đến chỗ minh tâm kiến tánh. Mỗi chúng sanh đều sẵn có bản tâm thanh tịnh, vĩnh viễn trường tồn, bất di bất dịch, nhưng vì thiên chấp sắc tướng mà lu mờ chơn giác; vì thế mà lầm nhận cái không làm có, cái có làm không. Do chỗ mê lầm ấy mà lăn lộn mãi trong tam đồ lục đạo. Chỉ có trở về với bản tánh thanh tịnh, nhận rõ cái lý: sắc tức thị không, không tức thị sắc thì mới dứt đường sanh tử, phản bổn hoàn nguyên, như Đức Bổn Sư đã nói:
Sao cho sắc tức thị không,
Một câu phản lão hoàn đồng mấy ai!
Phật xưa từ chốn kim giai,
Ma ha hai chữ giồi mài tánh gương
Và cho được đạt lý chơn không, theo Đức Bổn Sư, phải dùng phép tham thiền quán tưởng.
Trong siêu thăng kinh, Ngài có luận giải về phép quán như vầy: "Quán dung thông tức là chơn quán, như thanh tịnh quán, quảng đại trí huệ quan, từ bi quán; hễ tường nguyện thường chiêm ngưỡng thanh tịnh thì ánh sáng trí huệ hiện ra, phá tan mọi hắc ám. Khi đã đạt lý viện dụng , mới biết: có niệm như không niệm, có sanh như không sanh, có tu như không tu, có chứng như không chứng, có thuyết như không thuyết. Sự tức là lý, lý tức là sự, tướng tức là phi tướng, phi tướng tức tướng; vô lượng là một, một là vô lượng; Tha Phật tức ngã Phật, ngã Phật tức tha Phật, ta nói pháp tức Phật nói pháp, Phật nói pháp tức ta nói pháp. Thế nên tâm tức Phật, Phật tức tâm".
Chỉ một cái tâm đó mà hễ giác thì thành Phật, còn mê thì làm chúng sanh.
Trong đời già trẻ ai ai.
Biết thời làm Phật. mê thời chúng sanh
Thiên đàng Địa ngục chẳng quanh,
Nương theo bổn phận, lợi danh chớ gần.
Đó là yếu lý thiền pháp vô vi Phật. Trong Siêu thăng kinh, Đức Bổn Sư cũng nhận rằng: " Hữu động chi động xuất ư bất động. Hữu vi chi vi xuất ư vô vi.Vô vi tắc thần qui, thần qui tắc vạn vật vân tịch. Bất động tắc khí manh, khí manh tắc vạn vật vô sanh". Có nghĩa: Cái động là từ trong hữu động mà ra, cái vi là từ trong vô vi mà có. Hễ vô vi thì ngươn thần qui tụ mà ngươn thần qui tu thì vạn vật vắng lặng. Còn bất động thì khi ngưng, mà khi ngưng thì vật không sanh.
Vì vậy mà Ngài cực lực bài bác âm thinh sắc tướng, vì Ngài cho đó là phi đạo, nếu nương theo thì không khỏi huân tập tà kiến. Ngài có viết:
Xuất thế vi nhân tu hướng thiện
Phỏng cầu Đại Đạo lão tham thiền
Thinh âm sắc tướng giai phi đạo.
Thiết vật tin tà tập ngoại biên…
Tạm dịch :
Kẻ xuất thế khá tua hướng thiện
Sớm tham thiền mới kiến Ma ha,
Âm thinh sắc tướng đều tà.
Chớ nên tập nhiễm đọa sa lạc lầm.
Xem đó đủ thấy giáo lý của Đức Bổn Sư không khác giáo lý của Đức Phật Thầy Tây An. Sở dĩ về nghi thức hành đạo của Ngài còn thiên trọng về thính âm sắc tướng như chúng ta đã thấy, chẳng qua là một phương tiện quyền xảo để bảo tồn giáo hệ Bửu- Sơn Kỳ- Hương trong lúc quân Pháp thẳng tay đàn áp. Cốt yếu của một nền đạo là ở phần giáo lý, người hành đạo nên nhân chân để khỏi thiên trệ về hình thức Phật-pháp có quyền có thiệt, từ hoàn cảnh mà thực hành, miễn không trái nghịch đến giáo lý thì thôi. Nếu không dùng được thiệt pháp thì dùng đến quyền pháp. Đó là chỗ thắng diệu của giáo pháp nhà Phật.
Đức Bổn Sư thâm hiểu lý đó, nên chi có viết:
Học thời phải xét cho mình.
Phật Nho cũng cứ thơ, kinh mà quyền.

(BSKH - sdd).

THĂM CÁC HUYNH ĐỆ TRONG ĐẠO TỨ ÂN HIẾU NGHĨA VÙNG BA CHÚC - TRI TÔN - AN GIANG.

Đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa, còn có tên là Đạo Lành, gọi tắt là đạo Hiếu Nghĩa, do Ngô Lợi (thường được tín đồ gọi là Đức Bổn Sư) sáng lập vào năm 1867 tại Ba Chúc, huyện Tri Tôn , tỉnh An Giang. Buổi đầu, đạo là một trong những phong trào Cần Vương, nhưng dùng hình thức tôn giáo để qui tập tín đồ và để che mắt thực dân Pháp, nhưng sau khi vua Hàm Nghi bị đày, Ngô Lợi mất, phong trào tan rã chỉ còn lại những hoạt động tín ngưỡng.
Hơn 140 năm hình thành và phát triển, đạo Hiếu Nghĩa đã qui tụ gần 80.000 tín đồ, sống rải rác ở nhiều tỉnh, thành thuộc Nam Bộ, nhưng nhiều nhất là ở huyện Tri Tôn. Đây là đạo thuần túy nội sinh, tín đồ đa phần là nông dân.
Cũng như Phật Thầy Tây An (người sáng lập ra Bửu Sơn Kỳ Hương), Ngô Lợi chú trọng phát triển Phật giáo theo hình thức "cư sĩ", nghĩa là tín đồ không cần "ly gia cắt ái" hay "đầu tròn áo vuông", tín đồ mặc áo vạt hò, quần lá nem, bới tóc hoặc để xõa tự nhiên và tu đâu cũng được... Ít quan tâm đến giáo lý mà chú tâm nhiều đến việc thờ cúng, bố thí và lấy việc "Tu Nhân - Học Phật" làm nền tảng cho sự hành đạo.
 Tôn chỉ
• Tu Nhân: được thể hiện qua việc kính thờ và phụng sự tứ ân:
• Tứ đại trọng ân bao gồm: đất, nước, gió, lửa.
• Tứ trọng ân bao gồm: ân tổ tiên, ân đất nước, ân tam bảo, ân đồng bào và nhân loại.
Ngoài việc kính thờ trên, người tín đồ còn phải hành xử việc "Hiếu" (hiếu thảo với ông bà tổ tiên) và việc "Nghĩa" (nghĩa vụ với đất nước, đồng bào và nhân loại).
• Học Phật:
Là học những điều Phật giáo hóa chúng sanh, thành tâm phụng thờ và trì niệm Phật để cầu được giảm “tội, nghiệp”, được cứu độ và giải thoát.
Ngô Lợi tức Đức Bổn sư dạy:
Một lòng giữ vẹn tứ ân,
Phụng thờ khuya sớm ân cần đừng sai.
Gắng công niệm Phật hôm mai,
Trì tâm thì đặng thiếc mài nên kim.
hay:
Việc làm cho Phật, phước nhiều
Cũng như hoa lại mai chiều nở vun.
(Sám giảng Ngũ giáo)
Mặc dù phát triển từ nền tảng của tông phái Bửu Sơn Kỳ Hương, nhưng đạo Hiếu Nghĩa còn chịu ảnh hưởng của các tôn giáo khác nữa:
• Phật giáo: Về tâm linh, đạo Hiếu Nghĩa chịu ảnh hưởng của Lâm Tế tông và Thiên Thai tông.
Đức Bổn sư viết:
Phật dạy lý chân không
Vì sợ người chấp có.
Bằng người lại chấp không,
Như chụp thỏ buông ó.
Người chấp vô thường tướng,
Phật nói hữu thường tâm.
Chẳng dè phương tiện pháp.
Ao xuân hiện lỗi lầm...
Yếu lý này thể hiện nhiều trong kinh giảng cùa đạo Hiếu Nghĩa.
Kinh Phật giáo được tín đồ đạo Hiếu Nghĩa trì tụng, đó là: "Bát Dương kinh", "Di Đà kinh", "Kim Cang thọ mạng kinh", "Phổ Môn kinh" và "Bổ khuyết Tâm kinh" (được tín đồ đọc tụng thường xuyên). Đức Bổn Sư cũng cho phép, người ít hiểu biết chỉ cần tụng "Linh Sơn hội thượng kinh" cũng đủ. Ngoài ra, ông cũng khuyến khích tín đồ trì niệm chú, ấn pháp theo Mật Tông.
Đàn, ấn, chú là pháp chư Phật
Người làm theo sẽ được hộ trì.
• Nho giáo: Quan niệm "Tu Nhân" chịu ảnh hưởng rất nhiều của tư tưởng Khổng Mạnh.
Chữ "Tu" ở đây hiểu theo nghĩa "Mạng trời gọi là tính, nương theo tính trời gọi là đạo, sửa mình theo đạo gọi là "giáo" (Thiên mệnh chi vị tính, xuất tính chi vị đạo, tu đạo chi vị giáo. Trung Dung). Vậy, Tu Nhân tức là sửa mình theo "đạo làm người" (nhân đạo), mà đạo làm người không hề xa với "đạo trời"...
Trong sinh hoạt của tín đồ, có những việc có liên quan đến đạo Nho, như:
Thờ cúng đất trời. Xây dựng chùa chiền, nhà cửa theo số vị vận hành của Kinh Dịch. Các lễ tế, hôn sự, tang ma theo thể thức của Nho giáo. "Thập Nhị lệ sự" tức 12 điều lệ mà tín đồ phải tuân theo, được mô phỏng từ khuôn mẫu của đạo Nho.
• Đạo Lão: Tư tưởng Lão giáo cũng là tư tưởng chủ đạo trong giáo thuyết của đạo Hiếu Nghĩa.
Người tín đồ phải nằm lòng những bài kinh sau: "Tâm Ấn kinh", "Động cổ kinh", "Tam mao chơn kinh". Trích:
Động cổ kinh.
(dịch nghĩa)
Có động cũng xuất nơi không động.
Hữu vi cũng xuất nơi vô vi.
Vô vi thời thần về, thì muôn vật yên lặng.
Bất động thì khí điều hòa.
Khí yên lặng điều hòa, thì muôn vật không sanh.
Tóm gọn, pháp môn tu hành của đạo hiếu Nghĩa là:
Trì niệm theo Thiền tông
Xử sự theo Nho giáo.
Luyện tinh, khí, thần theo Lão giáo.
Trong đạo chia làm 24 Gánh nội thôn và 15 Gánh ngoại thôn, chỉ có ông Gánh (tức trưởng Gánh) mới có quyền thu nhận tín đồ, nhưng không quá cách biệt giữa giáo phẩm (ông Trò, ông Gánh) và giáo dân (tín đồ). Người tín đồ ngoài việc hành xử theo "Tứ trọng ân" và "Thập nhị giáo điều" (còn được gọi Thập Nhị lệ sự), còn phải lễ lạy (vào hai thời: sáng từ 5 giờ đến 7 giờ sáng , và chiều từ 5 giờ đến 7 giờ tối), công phu (tụng kinh có chuông mõ. Kinh đọc được rút ra từ bộ "kinh Siêu độ" của đạo) và niệm pháp (lần chuỗi bồ đề).
Trong nhà của tín đồ thờ nhiều thứ, như: trên cùng thờ Quan Thánh, bên dưới thờ Hội đồng gồm Phật, Thánh, Tiên. Dưới nữa thờ Thập Vương, bàn Hộ pháp Vi Đà. Bên trái thờ Cửu phẩm, bên phải thờ Tam giáo v.v... Trước cửa nhà tín đồ có bàn thờ thông thiên hai tầng, tầng trên thờ "Chánh đức thiên La thần" và tầng dưới thờ "Thổ Trạch Long thần".
Và trong nền đạo Hiếu Nghĩa, sự thờ cúng được coi là nguồn ân phúc thiêng liêng, giúp tín đồ tăng thêm lòng chánh tín, lấy hình thức chuyển vào nội tâm, đem nghi lễ hướng con người đến việc thực thi phúc lợi chân chánh.
• Cúng Phật: bằng hương, đăng, hoa, trà, quả, các món chay. Phẩm cúng có ý nghĩa nhất là ngọt (chè xôi nước) và dẽo (xôi nếp)...
• Cúng Thần: vật phẩm như cúng Phật, có thêm món cá, không được cúng các thức ăn từ thịt ngoài loài thủy tộc.
• Cúng giỗ người mất: vật phẩm như cúng Thần.
Ngoài ra, tín đồ còn phải thường tham gia các lễ cúng chính ở chùa miếu, thành tâm cầu nguyện cho quốc thới dân an, cầu cho ông bà tổ tiên được siêu thăng tịnh độ v.v...
 Nhận xét
Tuy cốt lõi trọng "Tứ Ân", chuộng "Vô vi" (tôn chỉ của đạo Bửu Sơn Kỳ Hương), nhưng đạo Hiếu Nghĩa vẫn còn "ham chuộng hình thức: nhiều buổi làm chay, đến nghe thuyết pháp, lãnh bùa mà đeo, có chuông mõ, quì lạy quá nhiều, thờ Quan Công, có thêm ngôi Long Đình, dành cho người khuất mặt sắp xuất hiện (ám chỉ vua Hàm Nghi), cổ xuý ngày tận thế sắp cận kề, sắp đổi đời, ma quỷ đã hiện ra đầy đường và vẫn là núi Cấm sắp mở hội "Long Hoa"
Về mặt thờ phượng, đạo Hiếu Nghĩa theo mô hình "trước miễu, sau chùa". Miễu thờ thần cựu trào, gồm bá quan văn võ. Riêng chùa Phi Lai ở núi Tượng là điện, thờ đấng tối cao là Ngọc Hoàng Huyền khung Cao thượng đế, tượng trưng với tấm vải đỏ, không hình tượng (gọi trần điều). Một bàn thấp hơn dành cho “tứ đại thần châu”, tức bốn hòn đảo của cõi tiên. Đúng là tu tiên, đạo Lão...Những điều đó cho thấy, hướng đi và việc làm của Ngô Lợi không thoát khỏi tư tưởng phong kiến và thần quyền, như câu ca dao còn truyền tụng ở vùng Núi Tượng:
Ai về nhắn với áo dà,
Sửa sang khăn áo đặng mà chầu vua.
Nhưng khách quan mà xét, về mặt đạo, Ngô Lợi động viên được tín đồ cùng nhân dân phát huy tinh thần yêu nước. Về mặt đời, ông đã liên kết với Khả và Ong cùng khởi nghĩa ở Cai Lậy năm 1878, qui tụ được những người từng tham gia kháng Pháp, từ những phong trào như của Nguyễn Trung Trực, Võ Duy Dương, Nguyễn Hữu Huân thiết lập được mối quan hệ với phong trào kháng Pháp của ông hoàng Si-Vatha ở các tỉnh phía Nam nước Campuchia và những người dân tộc Khmer vùng Bảy Núi (Thất Sơn).
Trong một bài viết trên website của Thông tấn xã Việt Nam có đoạn:
Đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa là một đặc trưng của văn hóa Nam Bộ, trong quá trình hình thành và phát triển luôn gắn liền với quá trình di dân, khai hoang lập làng, xây dựng căn cứ kháng chiến, hoạt động theo đúng tôn chỉ mục đích “Học Phật tu thân”, “Tứ đại trọng ân”, “Hòa hợp đoàn kết dân tộc”, lấy công tác xã hội từ thiện làm mục tiêu hoạt động.
 
Chùa của Đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa canh chân núi Tượng - Ba Chúc.
 
 
 
 
Núi Tượng còn được gọi là Liên Hoa Sơn, nằm tại thị trấn Ba Chúc, huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang, Việt Nam. Núi Tượng thấp nhỏ, chỉ cao 145 m và chu vi 3.825 m. Nhiều người cho đây là một trong Thất Sơn. Từ xa, hình núi trông giống hình dạng con voi nên có tên là Núi Tượng.
Nhà văn Sơn Nam viết:
Vùng Ba Chúc (quanh núi Tượng), thung lũng nhỏ, cổ kính, có cảnh “trước miễu, sau chùa”, miễu (là đình làng độc đáo, thờ trăm quan đại thần) cất phía trước, chùa phía sau, kề sát nhau. Câu ca dao khá xưa, dễ gợi giây phút lâng lâng:
Dạo chơi trước miễu sau chùa.
Đụng người mua bán quê mùa thiếu chi.
Ở miền đất này đã xảy ra một số sự kiện:
 Đạo nạn
Trước năm 1870, vùng núi này hãy còn hoang vu, nhưng kể từ năm này, nhờ ông Ngô Lợi , người khai sáng đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa (gọi tắt là đạo Hiếu Nghĩa), dẫn dắt một số đệ tử vào vùng núi Tượng khai hoang lập những thôn ấp, mà sau này trở thành làng An Định, An Hòa, An Thành, An Lập; dựng chùa Tam Bảo, chùa Phi Lai khiến nơi đây ngày một trở nên đông đúc.
Chỉ tính trong 12 năm (1876 - 1888), quân lính Pháp đã đến đốt phá, bắt bớ, tra tấn, tù dày những tín đồ ở làng An Ðịnh cả thảy bảy lần, tín đồ Hiếu Nghĩa gọi là “đạo nạn”. Đơn cử năm 1885, Ngô Lợi cùng với tín đồ đạo Hiếu Nghĩa kết hợp với nghĩa quân của Hoàng Thân Sivôtha (Campuchia) nổi dậy, nhưng bị Pháp nhanh chóng đưa quân vào trấn áp rồi còn cho đóng đồn dọc kênh Vĩnh Tế để dễ theo dõi, chế ngự. Lần đạo nạn này, Ngô Lợi phải cùng với nhiều tín đồ phải chạy sang Vườn Dầu, thuộc Campuchia để lánh nạn. Đến khi trở về, nhà cửa, chùa chiền chỉ còn lại những đống tro tàn.
 
CHÙA TAM BỬU Ở NÚI TƯỢNG-BA CHÚC.
Trần Thế Vinh

 


Là ngôi chùa do ông Ngô Lợi, tức Đức Bổn Sư-Người sinh trưởng ở Trà Tân(Cai Lậy), một đạo sĩ chống Pháp nhiều lần ở Mỹ Tho thất bại, dẫn hơn bốn trăm hộ gia đình khắp lục tỉnh lên Núi Tượng (Liên Hoa Sơn), một trong bảy địa danh của Thất Sơn, thuộc tỉnh Châu Đốc lúc bấy giờ. Ông hướng dẫn số “tín đồ” trảm thảo khai hoang, thiết lập chùa miếu và thôn ấp mới - đặt Thôn An Định, và khai sáng đạo Tứ An Hiếu Nghĩa vào giữa cuối tháng giêng năm Bính Tý- 1876 - trích dẫn Lịch Sử An Giang của nhà văn Sơn Nam.
Nhưng thực sự ngôi chùa Tam Bửu, được xây dựng vào ngày 26/6 năm Nhâm Ngủ-1882. Nằm về phía Đông vách núi Tượng và cách chân núi hơn ba mươi mét . Khởi đầu dựng lên bằng cây lá đơn sơ, nhưng chắc chắn bởi các loại cây núi giá trị như cam đàn,căm xe,cà chất… nhưng sau đó phải trãi qua nhiều lần bị lính Mã Tà đốt phá, trong gần l0 năm đến 7 lần Pháp nạn ! – Người xưa, truyền miệng kể- Chúng ( tức Pháp và chính quyền thuộc địa ) đưa lính tráng vào đuổi dân làng, cướp giật nhiều thứ, từ heo, gà…cho đến vật dụng quý, trong đó có ngôi Long Đình của bổn Chùa- do tên Trần Bá Lộc lấy đi và sau đó đưa vào Bảo tàng SàiGòn, chúng xem đây là vùng căn cứ tự trị do Ông Ngô Lợi cầm đầu trong suốt thời gian từ 1876 đến năm 1888.Theo sử liệu của tủ sách sưu khảo PG.Bửu Sơn Kỳ Hương do Hà Tân Dân biên soạn và những vị cao đồ địa phương, thì đến năm 1885 chùa tái thiết lại và vào tháng 2/1888 chính quyền Pháp mới cho Thôn An Định sáp nhập vào xã Ba Chúc của người Miên, thuộc tỉnh Châu Đốc bấy giờ, và chùa Tam Bửu mới được trùng tu khang trang. Năm 1890 Ông Ngô Lợi viên tịch, giao lại cho các Ông Trò, Ông Gánh duy trì thờ phượng. Đây là ngôi chùa Trung tâm ( Thánh địa ) của tôn giáo Tứ Ân Hiếu Nghĩa. Mãi đến năm 1971, Ngôi Long Đình quý hiếm mới được chính quyền Sài Gòn- Nguyễn Văn Thiệu trao trả lại bổn chùa.
Thăng trầm trên 125 năm, ngày nay chùa Tam Bửu vẫn còn nét cổ , chùa dựng nhiều mái, nhiều gian, lợp ngói cổ, nóc chóp cao… và hằng năm đều được ngành Bảo Tàng tôn tạo, sửa chửa…nằm trong một khuôn viên rộng trên 3 hecta. Ngoài ngôi chùa chính ,còn có nhiều gian phụ như nhà khách, tiếp tân, nhà bếp, gian nghỉ ngơi rộng, có sức chứa cả trăm người qua đêm…Tam Bửu Tự cổ kính, và theo hành đạo của tôn giáo Tứ Ân Hiếu Nghĩa là Tứ Đại Trọng Ân, nên thờ cúng trên 30 bàn thờ từ gian chính điện ra tận ngoài cột phướng. Trong chính điện thờ Quan Thánh Đế Quân(Quan Công,Quan Bình,Châu Xương), thứ hai là thờ Hội đồng thượng Phật, kế bên là Cửu huyền bá tánh, thập Vương, Hộ pháp, phía trong là Chánh Tăng, Phật Vương, Phật Thầy, Phật Trùm…Trước tiền sảnh tạc 4 rồng đeo 4 trụ, ngoài gần cột cờ phướng thờ Thiên, Địa thần, Thổ Trạch… Việc cúng bái rất nhiều lễ, ngoài rằm ,ba mươi hằng tháng, còn những đại lễ khác như Đức Bổn Sư viên tịch (13/10 âl), rằm tháng 7(Trai đàn), Cúng hội Chánh đán, Đoan ngủ, Giỗ cúng tập thể thường niên ngày 16/3 al cho trên 3.017 nạn nhân bị bọn diệt chủng PônPốt, Iêngsary sát hại ngày 16/3 âl năm 1978. Trong chùa Tam Bửu còn có thờ Ngôi Long Đình, một cổ vật do Đức Bổn Sư thiết kế,và được làm bằng gỗ quý ( Cây Cam Đàn ở Thất Sơn), cách nay hơn 115 năm.
Tam Bửu Tự là ngôi chùa trung tâm của trên tám chục ngàn tín đồ đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa, không chỉ riêng ở thôn An Định- Núi Tượng, hay các thôn lân cận như An Hòa, An Thành, An Lập, An Phước…mà người theo đạo khắp cả miền Tây, do Ông Ngô Lợi-Đức Bổn Sư sáng lập, nay thuộc thị trấn Ba Chúc,Tri Tôn, An Giang. Vừa có kiến trúc cổ kính, mang dấu ấn lịch sử thời khai mở vùng Thất Sơn huyền bí. Được nhà nước công nhận di tích lịch sử kiến trúc cấp quốc gia hơn 20 năm qua, là một địa chỉ danh tiếng ở vùng Thất Sơn ,An Giang. Hiện nay thu hút mỗi ngày hàng trăm người hành hương trong và ngoài nước đến tham quan, chiêm bái theo tua từ Chùa Bà –Núi Sam, vào Núi Cấm rồi đến Núi Tượng-chùa Tam Bửu-Nhà mồ Ba Chúc…

 Lần này, đoàn của dienbatn tới thăm một người bạn là Mười Trác ( Nguyễn Ngọc Trác ) là trưởng gánh trong 24 gánh tại thôn An Định nơi Thánh Địa của Đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa. Từ sáng sớm , thày Mười đã điện cho chúng tôi hẹn về sớm để ăn cơm cùng một đoàn từ thiện từ TP. HỒ CHÍ MINH mới xuống. Loanh quanh mãi bên Châu Giang , Thị xã Tân Châu , mải mê nghe chuyện về lễ hội " đâm xuyên quai " mãi tới tối mịt chúng tôi mới tới được Tam Bửu Gia là ngôi chùa do Thày Mười trụ trì. Thày Mười là Trưởng gánh ở khu vực này , có nhiệm vụ ghìn giữ mối Đạo trong vùng và làm những công việc về Quan - Hôn -Tang- Tế cho đồng bào trong khu vực. là một người đàn ông trạc ngoài 40 cao lớn , tráng kiện và rất đẹp trai. Gia đình Thày Mười đã nhiều đời nắm giữ mối Đạo trong khu vực này. Đón chúng tôi hết sức niềm nở thân tình , Thày chỉ cho chúng tôi chỗ tắm rửa thay đồ và giục người nhà dọn cơm cho chúng tôi ăn. Chùa này sở dĩ có tên Tam Bửu Gia là do nằm dưới sự chỉ đạo của Tam Bửu Tự như dienbatn đã giới thiệu ở phần trên. Ngày xưa Đức bổn sư Ngô Lợi có 24 vị đệ tử ruột cận kề cho đến khi viên tịch và là trưởng gánh của 24 gánh. Sau này do chiến tranh ly tán , chỉ còn khoảng 5,6 gánh là đúng theo danh chính ngôn thuận , còn các gánh khác chưa thực sự là những gánh theo đúng ý nghĩa của ngày trước. Hiện nay có khoảng 6 Tam Bửu Gia còn đang hoạt động, giữ ghìn riềng mối Đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa trong vùng. Cơm xong , chúng tôi ngồi quanh bàn trà đàm Đạo thật vui vẻ. Thày Mười là một người có tư chất hành Đạo , thông minh , tế nhị và hiểu biết rất sâu về bổn Đạo của mình. Ngồi một chút , dienbatn thấy Thày có điện thoại liên tục do những người dân trong vùng gọi tới kêu Thày làm giúp các việc Quan , Hôn , Tang , Tế. Thày kể cho chúng tôi nghe công việc hàng ngày của mình. Có nhiều lần mấy Thày trò phải nhảy xe đò đi giúp những đám tang , khi xong do thân chủ quá nghèo lại tự bỏ tiền ra đi về . Là người chăm sóc phần tâm linh trong một khu vực nghèo như Ba Chúc , Thày và các vị phụ tá vẫn phải tự làm ruộng nuôi thân hành Đạo . Cách đây vài năm , Thày Mười đã một thân một mình sang thăm các vị Thánh Tổ tại dãy núi Tà Lơn bên Cămpuchia. Nhiều chuyện ly kỳ và nhiều ân sủng của Thày Tổ đã đến với Thày Mười.Hàng ngày Thày và các đồng Đạo tại đây vẫn công phu ngày bốn thì : Tý - Ngọ - Mão - Dậu hết sức nghiêm túc. Đêm đó , dienbatn và Thày Mười gần như không ngủ để đàm đạo . Sáng hôm sau , vì Thày bận công chuyện giúp một đám tang cho bà con trong vùng , chúng tôi cùng Thày lên chùa chụp ảnh kỷ niệm và lại tiếp tục lên đường. Thày Mười tặng cho dienbatn mấy cuốn sách hay được Thày sử dụng trong công việc của mình.

dienbatn - Thày Trưởng gánh Mười Trác - Sư Điền núi Cô Tô và một sư huynh trong Tứ Ân Hiếu Nghĩa Ba Chúc.

 

Thày Mười Trác cùng các thành viên trong đoàn du khảo.

Sách Thày Mười tặng dienbatn.


HÌNH ẢNH THÀY MƯỜI TRÁC TRÊN DÃY TÀ LƠN - CAMPUCHIA.







http://vn.360plus.yahoo.com/lythienhuonghn/article?mid=635

Xin xem tiếp bài 9. Thân ái. dienbatn.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét