Thứ Bảy, 16 tháng 4, 2016

KHẢO SÁT MỘT SỐ NGÔI MỘ CỦA TIỀN NHÂN ĐỂ LẠI . BÀI 2.

KHẢO SÁT MỘT SỐ NGÔI MỘ CỦA TIỀN NHÂN ĐỂ LẠI . BÀI 2.

Sau rất nhiều chuyến điền dã khảo sát Phong thủy âm trạch , dienbatn còn giữ được một số tư liệu về những ngôi mộ cổ do tiền nhân đặt từ xưa . Nay đăng lại trong Blog này làm tư liệu và mong rằng những Thày Địa lý của Việt Nam hiện nay nghiên cứu và hy vọng sẽ rút ra được những điều bổ ích cho mình , ngõ hầu có thể giúp cho những thân chủ của mình một cuộc sống an vui , hạnh phúc.
Sách có câu :"Tiên tu nhân lập âm chất,nhi hậu tầm Long ". 
Người người đều muốn có được một Địa trạch tốt tươi,nhằm thăng hoa cuộc sống vật chất đầy đủ,công danh hiển hách,vợ đẹp con ngoan,Gia đình hạnh phúc.Sách THÔI QUAN THIÊN viết :"Trong nhà có người đức hạnh cao thượng thì đất đá trên núi gần đó nhất định có Linh khí ".Qua câu nói trên tức là con người làm chủ Linh khí vạn vật do phần Tâm khí của chính mình.Các Phong Thủy Sư không hiểu điều này thì dủ có Trích Huyệt Tầm Long được Bảo địa cũng chẳng linh nghiệm. 
Những việc Tầm Long Địa Huyệt còn phải hội thêm phần cảm ứng tức là Thiên Đạo (Đạo Trời );sự ứng nghiệm của việc hành thiện lập âm chất,tạo nhân quả tốt.Tục ngữ có câu :"Âm địa tốt không bằng Tâm địa tốt ".Do vậy,tìm kiếm chọn lọc được Địa mạch Huyệt vị,Phong Thủy Sư phải tích đức hành thiện làm căn bản.Nếu kẻ nào có phẩm chất cao thượng,thì ắt Thiên cơ sẽ ứng,Địa cơ theo đó mà tăng thêm sự tốt lành cho con cháu đời sau hưởng Phúc.Bởi Tâm địa thiện lương thì tương ứng với Địa mạch cát lợi ,vận Trời ứng cho,chứ chẳng phải chủ quan tâm về hình thức mà quên đi nội dung,cứ tưởng rằng tầm được Long huyệt rồi,con cháu đời sau sẽ được hưởng Phúc,cái gốc chúng ta chẳng lo mà lại đi lo cái ngọn,rõ là ta chẳng biết gì cả.Nếu như các Phong Thủy Sư họ tài giỏi như thế thì ắt họ phải giành những huyệt Đế Vương,Công Hầu,Khanh tướng cho con cháu họ,chứ dại gì mà họ chỉ cho ai ? 
Quách Phác nói :"Cát hung cùng cảm ứng lẫn nhau,họa phúc cũng tự nhiên theo Tâm khí chiêu cảm mà đến ". 
Khi táng di hài Tổ tiên,chắc người ta phải chọn Địa huyệt thật tốt mà an táng,song song với việc trên ,người tại tiền phải nỗ lực tu dưỡng thân,tâm cầu lấy gốc rễ của Đạo.Nếu chỉ chú trọng quan sát hình thể Địa huyệt,sẽ cho kết quả trái ngược,làm tổn hại đến con cháu đời sau. 
Nếu như có Nhân,tất phải có Quả;nhưng Nhân -Quả thiện ác tùy vào Tâm khi chiêu lấy họa phúc.Cũng như ngày xưa có người chết được Thiên táng hay Địa táng một cách ngẫu nhiên,con cháu sau này phát Đế Vương,Công hầu.
Triệu Quang viết cuốn :"PHONG THỦY TUYỂN TRẠCH TỰ ",có nói rằng :"Vô phước cho ai không có nhân duyên mà được Huyệt tốt ".Dẫu cái tốt,xấu của Phong thủy Huyệt mộ ảnh hưởng đến cát hung,nhưng Âm đức của con người có thể cải biến được Vận -Mạng.Đến như các bậc Tiền bối Phong thủy như Cao Biền,Quách Phác tài giỏi kinh Thiên động Địa ,nhưng khi gặp Huyệt Đế Vương cũng không dám dành cho mình,bời biết đạt Địa lợi,nhưng Thiên thời và Nhân hội còn khuyết,không dám nghỉ bàn.Tóm lại việc "TIÊN TÍCH ĐỨC,NHI HẬU TẦM LONG " của người xưa dạy quả không sai. 

2/ KHẢO SÁT MỘ CỤ PHẠM VĂN THỤ . 
(Tại  xã Bạch Sam, huyện Mỹ Hào, tỉnh Hưng Yên  ).

Di ảnh cụ Phạm Văn Thụ

Phạm Văn Thụ (1866 - 1930) là một đại thần triều Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. Trước đây, ông từng bị đánh giá là người "tiêu cực", là người "có vấn đề"; nhưng hiện nay ông đã được nhìn nhận là một nhà văn, một chí sĩ, và là một viên quan "yêu nước, thương dân, giản dị và cương trực".

Ông là người xã Bạch Sam, huyện Mỹ Hào, tỉnh Hưng Yên.
Xuất thân trong một gia đình nhà nho nghèo, nhưng ông Thụ rất có chí học tập. Theo hồi ký của ông, thì lúc trai trẻ, ông từng được gặp lãnh tụ Tán Thuật (Nguyễn Thiện Thuật). Được cụ khuyên đại ý là: "...đi học phải thi đỗ, phải ra làm quan, nhưng làm quan không phải để vinh thân phì gia, mà phải vì dân", và ông Thụ đã nghe theo.
Năm 20 tuổi, ông thi đỗ Tú tài. Sau đó, ông vừa làm (dạy học) vừa học. Năm Tân Mão (1891) dưới triều vua Thành Thái, ông thi đỗ Cử nhân tại trường Hương Nam Định.
Năm Nhâm Thìn (1892), ông vào Huế thi, và đỗ Phó bảng cùng khoa với Nguyễn Thượng Hiền (đỗ Hoàng giáp).
Được bổ đến làm việc ở tỉnh Thái Bình, ông lần lượt thăng tiến từ Tri huyện đến Tri phủ (Kiến Xương). Sau khi được cử làm Án sát Thái Bình, Tổng đốc Bắc Ninh, Tổng đốc Nam Định, ông nhận lệnh vào làm việc tại triều đình Huế.
Ở nơi ấy, ông lần lượt giữ chức Thượng thư bộ Hộ, Thượng thư bộ Binh, và được sung làm Cơ mật viện đại thần. Ngoài ra, ông cũng từng làm "chân đọc đơn từ" trong Sở Liêm phóng (tức Sở mật thám) của người Pháp ở Bắc Bộ vào năm 1908-1910.
Trong những năm cuối đời, ông được phong hàm Thái tử thiếu bảo, Đông các học sĩ, và được tước nam.
Dưới triều vua Bảo Đại, Phó bảng Phạm Văn Thụ qua đời ngày 7 tháng 7 năm 1930 (Canh Ngọ) tại quê nhà, thọ 65 tuổi (tuổi ta).
Phó bảng Phạm Văn Thụ đã để lại:
Thái Bình thông chí (địa chí bằng chữ Hán).
Đàn viên ký ức lục (văn chữ Nôm).
Có một thời gian dài, ông Phạm Văn Thụ bị xếp vào hàng ngũ những người "tiêu cực", là người "có vấn đề", vì ông từng làm việc ở Sở Liêm phóng, và từng có mối quan hệ với Công sứ Darles và một số viên quan có tiếng là tàn ác.
Khoảng năm 2006, vấn đề trên lại bắt đầu được đặt ra, và công việc sưu tầm, xác minh tài liệu đã được các nhà nghiên cứu xúc tiến. Cuối cùng, tất cả các công trình nghiên cứu đều cho thấy ông là "một nhà văn hóa, một viên quan yêu nước, thương dân, giản dị và cương trực" .
Trong "Hồ sơ di tích của tỉnh Hưng Yên", công lao Phạm Văn Thụ đã được ghi nhận đại khái như sau:
-Trong quãng đời làm quan, ông đã tỏ ra là một người yêu nước, thương dân. Ông đã chú ý đến việc canh nông, việc đê điều, mở trường học, mở chợ, khai sông...
-Ông đã có dịp gặp gỡ các nhà yêu nước như Phan Chu Trinh, Nguyễn Thượng Hiền, Đinh Chương Dương, Nghiêm Xuân Quảng...; và đã đem tiền lương ủng hộ phong trào Đông Du. Nghi ngại, chính quyền Bảo hộ Pháp đã đề cử ông vào làm ở Sở Liêm phóng để dễ quản lý. Từ chối mãi không xong, ông chỉ nhận làm "chân đọc đơn từ" (1908-1910). Cũng chính nhờ vậy, mà ông đọc được nhiều đơn thư mật tố giác những người chống thực dân Pháp, và ông đã tìm cách cứu họ. Trong số người ông cứu thoát, có Nguyễn Hữu Cương, Chu Dưỡng Bình...và hàng trăm người liên quan đến khởi nghĩa Yên Thế (1884-1913) và vụ Hà thành đầu độc (1908).
-Ông cũng đã từng góp sức ngăn chặn mưu đồ của quân Pháp phá lăng Tự Ðức để tìm vàng bạc, đồng thời ông cũng kiên quyết không cho họ phá đền Sóc Sơn (vì cho rằng đây là nơi liên lạc của nghĩa quân Yên Thế) và phá hủy Văn Miếu Thăng Long (để xây dựng bệnh viện).
-Ngoài việc sáng tác, ông cũng từng đề tựa và hiệu duyệt nhiều cuốn sách về lịch sử, về tôn giáo...
Ngày 23 tháng 10 năm 2006, chính quyền tỉnh Hưng Yên đã ký Quyết định số 2111 QĐ-UBND xếp hạng "di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh" cho khu mộ của ông . ( https://vi.wikipedia.org ).


Khu lăng mộ.
Hướng toàn khu mộ.

KHU MỘ CÓ HƯỚNG 207 độ 5 – LÀ HUYỆT KHÍ BẢO CHÂU TÂN SỬU – ĐINH MÙI - TỌA SỬU HƯỚNG MÙI - TÂY NAM.








THƯỢNG THƯ CƠ MẬT VIỆN ĐẠI THẦN - THÁI TỬ THIẾU BẢO ĐÔNG CÁC HỌC SĨ .


Khu mộ nằm trên một cái gò thấp , cạnh những thửa ruộng cấy lúa, gần khu dân cư tại xã Bạch Sam, huyện Mỹ Hào, tỉnh Hưng Yên. Toàn khu mộ là một mảnh đất vuông vắn nằm trên một địa thế rất đẹp. Đặc điểm nổi bật của toàn khu mộ là được xây dựng bằng đá xanh nguyên khối có những nét khắc hoa văn khá cầu kỳ. Phía trước là 4 trụ cổng có thiết kế khá lạ. Ở phần giữa là tấm bình phong có gắn tên của khu lăng mộ . Hai bên là 2 lối vào được xây hình vòm và có mái ở trên . Hai góc đằng sau cũng có hai cột trụ giống hai cột trụ góc ở phía trước. Phía sau tấm bình phong là nhà bia được vây quanh 4 cạnh , trong có tấm bia ghi bằng chữ Việt ghi : "THƯỢNG THƯ CƠ MẬT VIỆN ĐẠI THẦN - THÁI TỬ THIẾU BẢO ĐÔNG CÁC HỌC SĨ ".
Ba cạnh còn lại được xây hàng rào cao và có những ô đón khí rất đẹp. Ở rất nhiều khu mộ , người ta làm đã không biết được điều này, đem xây tường kín mít như thành bể nước làm chi đường Khí bị ngăn cản không thông được . Phía đằng sau khu lăng mộ có một cửa thoát khí nhưng thường đóng .


Cổng sau thường đóng.

Xung quanh khu lăng một được xây be bằng tường gạch.


Trong khu lăng mộ có ba ngôi mộ làm bằng đá xanh hình vuông khá cao là mộ của cụ Phạm Văn Thụ ( có ghi dòng chữ Pháp : PHẠM VĂN THỤ - SINH 30/6/1866 , MẤT 7/7/1930 ) đặt cạnh ngôi mộ của bà PHẠM THỊ LIÊN - mất tháng Giêng năm 1x62.






Tấm bia đã bị gãy.




Lỗ âm dương trên mộ.


Bên cạnh phía sau là mộ của cụ Phạm văn Kỳ ( 1916-2010 ) chắc là con của cụ Thụ.


ĐỌC THÊM :

Danh nhân Phạm Văn Thụ - người bảo vệ Văn Miếu, giữ gìn linh khí giang sợn .

Trải qua hàng trăm năm lịch sử, những di tích văn hóa lịch sử như Văn Miếu Quốc Tử Giám hay đền Sóc Sơn… đã trường tồn cùng thời gian và trở thành nơi gìn giữ linh khí giang sơn. Nhưng mấy ai biết rằng, trong bối cảnh loạn lạc, cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, những nơi linh thiêng trên đã suýt bị thực dân Pháp phá bỏ để xây bệnh viện hoặc san phẳng vì nghi là căn cứ nghĩa quân. Chỉ có một danh sĩ, lấy đạo làm quan là vì dân vì nước đã khéo léo và cương trực can ngăn, bảo vệ được những di tích ấy. Đó chính là danh nhân Phạm Văn Thụ, một trong những danh nhân đất Việt – người gìn giữ linh khí giang sơn.

Chăm học để kỳ trả “cái thù” đèn sách .

 Theo trang Cội nguồn họ Phạm thì Phó bảng Phạm Văn Thụ tự Đàn Viên sinh ngày 30/ 6/ 1866, tức ngày 18/5 năm Bính Dần, niên hiệu Tự Đức thứ 19, tại xã Bạch Sam, huyện Mỹ Hào, tỉnh Hưng Yên, là là chốn quê hương văn hiến thi thư của nhiều nhà khoa bảng nổi tiếng, ngay cạnh làng Xuân Dục là quê hương, căn cứ của cụ Tán Thuật và cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy.
Phát biểu trên chương trình Danh nhân đất Việt của VTV về cụ Phạm Văn Thụ, GS sử học Lê Văn Lan nhận định: “cụ Phạm Văn Thụ giống như danh nhân lịch sử khác, luôn luôn là kết tinh của truyền thống Địa linh nhân kiệt. Quê hương Bạch Sam của cụ nằm ở giữa xứ Sơn Nam và Hải Đông ngày xưa, cho nên sự kết tinh về mặt địa linh của hai xứ Nam và Đông đã chung đúc nên giá trị của miền đất Bạch Sam. Để từ đó, vùng đất này có dòng họ Phạm với ít nhất 5 đời có truyền thống văn hiến thi thư, luôn lấy nghề đọc sách là điều cao quý và nghề dạy học là chức phận thiêng liêng.
Ngay từ nhỏ, Phạm Văn Thụ đã nổi tiếng là người thông minh học giỏi, được phụ thân Phạm Xuân Đồng là một trong Đường An Tứ Kiệt khai tâm dạy chữ và rèn luyện chí khí. Vì thế, nghe theo lời cha dạy:  “Phải xem việc đèn sách không chỉ là cái nghiệp mà phải coi đây là một “mối thù” phải nếm mật nằm gai để mà trả cho kì được cái mối thù đèn sách học hành”, Phạm Văn Thụ lớn lên không chỉ cần kiệm học hành, toàn dùng giấy một mặt để viết mà còn đến những bậc danh sư đương thời như sang Thành Nam học trường cụ Đặng Xuân Bản, tìm tới trường Huê Cầu của cụ Đốc Tô để thụ giáo. Trải qua những tháng năm học hành vất vả, đồng thời được thừa hưởng những truyền thống của quê hương, dòng tộc không có gì  lạ khi Phạm Văn Thụ đã có những cuộc vượt vũ môn ngoại mục, để trở nên người hữu dụng, danh giá và trở thành danh nhân đất Việt.

Làm quan vì dân .

Năm 20 tuổi, niên hiệu Đồng Khánh nguyên niên (1886), Phạm Văn Thụ đỗ tú tài khoa Bính Tuất,
Năm Thành Thái thứ 3 (1891), ông đỗ Cử nhân trong đợt thi Hương tại trường thi Nam Định.
Ngay năm sau, 1892 ở kỳ thi Hội tại kinh thành Huế, ông đậu Phó bảng, cùng khoa với Nguyễn Thượng Hiền và được hậu bổ làm tri huyện Thư Trì. 
Năm 1894, Phạm Văn Thụ được bổ sang làm tri huyện Thần Khê - Thái Bình. Ngay từ ngày đầu ra làm quan, ông đã thực hiện nghiêm túc lời dạy của Nguyễn Thiện Thuật dặn dò trước đó là: “Đã học thì phải thi, đã thi thì phải đỗ, đã đỗ thì phải làm quan, mà làm quan không phải để vinh thân phì gia mà phải vì dân” để nghĩ làm những việc có ích cho dân như ông đã khắc cốt:“Phàm những việc lợi cho dân Thái Bình, hết thảy ta được dự phần tài quyết”. 
Khi giải quyết việc, bao giờ ông cũng hỏi ý kiến thân, hào, quốc, lão trong vùng. Ngoài ra, ông còn lập toà Hội đồng để xét thưởng phạt phân minh. Việc làm của ông rất được sự đồng tình của nhân dân. Thời kỳ ông làm quan ở đâu, nhân dân vùng đó đều được hưởng cảnh ấm no, các tệ nạn, tội ác đều bị ngăn chặn. Ông luôn quan tâm đến sông nước, đê điều, cầu, cống. Làm quan ở phủ, huyện nào ông cũng nắm vững bản đồ địa hình của nơi đó. Bên cạnh chuyện quan tâm đến đời sống người dân, mỗi tháng ông lại mở một kỳ thi văn và bình văn cùng các thân sỹ. 
Đặc biệt, khi đang làm quan ở phủ Kiến Xương trong hai năm từ 1097-1899, nhân thấy huyện Tiên Hưng nghèo nhất tỉnh Thái Bình, ông đã xin sang làm quan ở huyện này để cải thiện đời sống cho người dân. 
Năm 1910, Phạm Văn Thụ được bổ làm Tuần phủ Phúc Yên. Tại đây, ông đã vận động các quan lại khác ủng hộ việc cải tiến: cách ăn mặc, họp hành chào tết nên vận áo chẽn xanh và bỏ lối mặc lụng thụng, cầu kỳ đi. 
Vừa nhậm chức chưa được bao lâu thì xảy ra vụ vỡ đê An Hội, ông đã xuất tiền nhà ứng trước để mộ phu từ Thái Bình. Vì đã quen việc giữ đê nên ông cắt đặt công việc đâu vào đấy ngay trước mặt quan trên khiến mọi người đều khâm phục khi thấy đê được giữ chắc chắn … Ông còn trình bày theo địa đồ, hiểu tường tận chỗ nào không nên ngăn nước, chỗ nào có thể làm được. Cũng nhân dịp này, Phạm Văn Thụ đã xin xá thuế cho tỉnh Phúc Yên. Việc làm khi ấy của Phạm Văn Thụ khi đó được nhiều lần đề nghị tặng thưởng, nhưng ông từ chối vì cho rằng: “Đó chỉ là làm đủ bổn phận thôi, không đáng lấy thưởng”.
Từ năm 1913 đến năm 1920 ông đã một lần làm quan tuần phủ và hai lần làm Tổng đốc ở ba nơi là Thái Bình, Bắc Ninh và Nam Định. Cuối năm 1922, Phạm Văn Thụ đã nhiều lần đệ đơn xin về hưu và thậm chí là thảo một bức sớ xin từ chối nhậm chức nhưng đều bị triều đình bác bỏ. Những năm về sau, ông lần lượt giữ chức Thượng thư bộ Hộ, Thượng thư bộ Binh, và được sung làm Cơ mật viện đại thần. 

Giữ gìn linh khí quốc gia .

Chính quyền Pháp, nhận thấy “mối nguy”, nên đã triệu tập ông bắt nhận chức ở phủ Liêm Sở để dễ bề quản lý. Nhưng chính tại vị trí này, ông Phạm Văn Thụ đã nhiều lần khéo léo nhưng mạnh mẽ và cương trực ngăn chặn các ý đồ phá hoại để giữ gìn những di tích văn hóa quan trọng cho đất nước.
 Ông đã từng góp sức ngăn chặn mưu đồ của quân Pháp muốn phá lăng Tự Ðức để tìm vàng bạc sung quân quỹ. 
Khi chính quyền Pháp nghi ngờ đền Sóc Sơn, nơi thờ Thánh Gióng là nơi liên lạc của nghĩa quân Đề Thám, nên lệnh cho hào lý địa phương đốt đền Sóc Sơn, Phạm Văn Thụ đã đứng ra thuyết phục để cứu được một trong những ngôi đền mang ý nghĩa văn hóa to lớn thờ một vị thần trong Tứ bất tử của tín ngưỡng người Việt 
Ðặc biệt, ông nhân danh thân sĩ Bắc Kỳ đứng lên đấu lý sắc bén, đầy tinh thần tự tôn dân tộc khi chính quyền Pháp định âm mưu biến Văn Miếu Quốc Tử Giám thành nhà thương và bỏ hai vạn lạng bạc để dời Văn Miếu về tỉnh Hà Đông. Phạm Văn Thụ tỏ thái độ cương trực và quyết liệt giữ lại Văn Miếu với lập luận: “Dẫu triều Nguyễn dời đô vào Phú Xuân cũng không hủy được Văn Miếu, phải để nguyên làm cổ tích nước Nam”. Việc làm của ông càng chứng tỏ Phạm Văn Thụ là một vị quan lo cho dân, có cái nhìn sâu rộng và rất hiểu thời cuộc để ứng biến uyển chuyển nhưng vẫn bản lĩnh, có công lớn cho con cháu ngàn đời sau khi kiên quyết không để người Pháp làm ô uế mảnh đất linh thiêng, xâm phạm vào biểu tượng văn hóa, tri thức của dân tộc. 
Thế mới biết, non sông gấm vóc được như ngày hôm nay, công lao không chỉ của riêng mình ai mà còn thuộc về vô số những danh sĩ âm thầm cống hiến cả đời mình cho dân cho nước. Những việc họ làm là để vì dân vì nước, sống trọn đạo hiếu với gia đình dòng tộc chứ không chỉ để vinh danh cá nhân, Phạm Văn Thụ là một trong số những danh nhân như thế và có lẽ những việc ông làm không phải để đời sau nhớ ơn nhưng chính ông đã góp phần quan trọng giữ gìn linh khí giang sơn để hậu thế còn có gốc mà giữ. 
{Trong cuộc đời mình, cụ Phạm Văn Thụ cũng đã viết rất nhiều cuốn sách phản ánh tỷ mỉ cuộc sống và các biến thiên xã hội thời kỳ đó. Khi còn làm quan, ông đã đọc và viết các bài từ, bài bình luận cho nhiều cuốn sách mà hiện vẫn còn lưu giữ tại Viện Hán- Nôm. Đó là các cuốn: Trung học Việt sử toát yếu, Việt sử kính, Quốc triều luật học giản yếu, Nữ huấn truyện, Đại Việt tam tự sự, Hương Sơn hành trình tạp vịnh. Trong đó, hai tác phẩm lớn được gìn giữ cho đến ngày nay là hai bộ Thái Bình thông chí (địa chí bằng chữ Hán) và đặc biệt là cuốn Đàn viên ký ức lục (văn chữ Nôm) không chỉ viết về tiểu sử cá nhận, gia đình, quê hương mà quan trọng là ông đã ghi lại được nhiều sự kiện chính trị xã hội thời đó với tình cảm cởi mở, chân thành, làm rõ nhiều vấn đề lâu nay hậu thế còn nghi hoặc.}


ĐÀN VIÊN KÝ ỨC LỤC.

(PHẠM ĐỨC DUẬT - Hội văn nghệ Thái Bình).

       Đàn viên ký ức lục là tập hồi ký gần một nghìn trang viết tay bằng chữ Nôm củ một tác gia Hán Nôm hồi đầu thế kỷ XX. Ông tên là Phạm Văn Thụ, tự Đàn Viên, hiệu Đông Bạch Phái, người làng Bạch Sam, huyện Mỹ Hào, nay thuộc tỉnh Hưng Yên. Năm Thành Thái thứ tư (1892), ông đậu Phó bảng, rồi làm tri huyện các huyện Thư Trì, Thần Khê, Duyên Hà, Phụ Dực, Tri phủ Kiến Xương, Tiên Hưng thuộc Thái Bình. Sau đó ông được thăng Tuần phủ Phúc Yên. Sau vụ Tuần phủ Nguyễn Duy Hàn bị ám sát trước dinh thự Thái Bình ngày mùng 6 tháng 2 năm Quý Sửu (13-3-1913), Phạm Văn Thụ được thăng Tổng đốc Thái Bình. Tháng 8 – 1923, ông vào Huế làm Thượng thư Bộ Hộ dưới triều Khải Định. Tháng 6 năm 1926, Phạm Văn Thụ về hưu ở quê làng Bạch Sam.
       Khi còn làm quan ông từng viết sách Thái Bình tỉnh thông chí, An Nam sơ học sử lược dịch,và đề tựa, viết lời bạt một số sách như Trung học Việt sử toát yếu, Việt sử tam tự tân ước toàn biên, Quốc triều luật học giản yếu... v.v
       Sau khi hưu quan, ông để thời gian viết bản thảo Đàn Viên ký ức lục này. Tập bản thảo không chỉ viết về tiểu sử cá nhân, gia đình, quê hương tác giả, mà điều quan trọng là nhiều sự kiện chính trị xã hội của địa phương nơi ông làm quan được kể lại với tình cảm cởi mở, chân thành, làm rõ nhiều vấn đề lâu nay còn nghi hoặc.
       Có lẽ rất ít tác gia Hán Nôm hồi đầu thế kỷ trước, có được tiểu sử cụ thể, tỉ mỉ như Phạm Văn Thụ tự thuật về mình trong Đàn Viên ký ức lục. Mở đầu ông viết “Ta sinh năm Bính Dần, ngày 18-5, hoàng hiệu Tự Đức năm thứ 19 (tức dương lịch 30-6-1866). Thuở bé mệnh danh là Phạm Văn Trúc, theo tục phối với tên thân huynh ta cho dễ nhận. Năm 21 tuổi, gặp kỳ Bính Tuất ân khoa, hoàng hiệu Đồng Khánh nguyên niên (1886), chưa kịp tục bộ, đội tên làng là Phạm Văn Viên, ứng thí trúng Tú tài. Cách khoa Mậu Tý (1888) đến khoa Tân Mão (1891), cải chính là Phạm Văn Thụ, thi trúng Cử nhân. Khoa hội Nhâm Thìn (1892) liền trúng Phó bảng. Đương buổi phong trào thay đổi, đúng câu thơ cổ:
Giang sơn phong cảnh còn nguyên đó,
Thành quách nhân dân đã khác rồi.
       Chính khi ta ứng hạch, quán chỉ còn đề theo hạt tân thiết là Đạo Địch Lâm. Khi nộp quyển vào trường lại được gửi về tỉnh Hải Dương cũ. Đến khi thành mệnh Cử nhân, mới cải sáp sang tỉnh Hưng Yên.
Nước non vẫn nước non nhà,
Gò cây in dấu ông bà mở mang.
       Chỉ đáng nực cười trong thời kỳ ngoài hai mươi tuổi mà cái huy hiệu ta, nào Khoá Trúc, nào Tú Viên, nào Cử Thụ, nào Bảng Thụ, thay hình đổi dạng đến đôi ba lần, an nhiên không lấy làm phiền, cũng chưa vượt khỏi ra ngoài không khí tập quán vậy. Ta vốn tính đã đa sầu, đa cảm, cuộc đời lại bán cựu bán tân, có dám đâu thừa nước mắt khóc người xưa, cũng học đòi ăn cơm mới nói chuyện cũ”.
       Khi làm Tri phủ Kiến Xương, ông được chứng kiến vụ tập hợp nghĩa binh của sư chùa Lãng Đông tiến lên thị xã toan đánh chiếm các dinh thự của công sứ Davis và Tuần phủ Vương Hữu Bình. Ông nhận xét “hạt Kiến Xương là nơi phồn kịch, khó cai trị nhất tỉnh Thái Bình. Ta ở mới gần một năm, quan dân yên vui, không điệp đổi làm huyền ca, đương có cái cảm tình điền trù tử đệ. Bỗng đâu kỳ tháng một, năm Đinh Dậu (Thành Thái cửu niên, tức tây lịch 1897) nổi biến Mạc Thiên Binh.
       Hết thẩy toàn kỳ, hại nhất là Hải Dương, Hải Phòng, vì có can đến tính mệnh người Tây. Vậy dân mắc phải một phan kỳ thảm. Phủ, huyện nào hoặc hạt dân tiềm khởi, hoặc Thiên Binh kinh quá, người thì cách, người thì phát vãng. Quan huyện Thuỷ Nguyên Nguyễn Ngọc Kiểm, quan phủ Kiến Thụy Phạm Du, tiến sĩ và bạn hương niên với ta vô tình mà phải tống tử tại đảo Côn Luân. Phúc tướng như cụ Đỗ Văn Tâm, tổng đốc Hải Dương, nửa đêm quan toàn quyền tiếp báo, tức thì đến tỉnh, đòi đem cụ ra pháp trường hành hình”.
       Năm 1913, Tuần phủ Nguyễn Duy Hàn bị ám sát bằng tạc đạn ở cửa dinh, Phạm Văn Thụ ghi: “Năm 1913, mùng 6 tháng 2 Quý Sửu, tỉnh Thái Bình phát sự tạc đạn, cụ tuần Hành Thiện Nguyễn Duy Hàn bị hại. Ta phải đổi về chịu lấy gánh nặng, chối từ không được. Thầy tớ cũ phần nhiều lo thay cho ta. Vì tạc đạn đã lâu chỉ thấy đồn, chưa ai biết rõ hình dạng nó thế nào. Đột nhiên, một tiếng thực như sấm dậy đất bằng, ai cũng choáng váng. Vậy mà ta khổ tâm đối phó, nhất ngôn nhất động, may trúng cơ nghi...”
       Mùa nước năm ấy (Quý Sửu 1913), đê Phú Chử huyện Thư Trì bị vỡ, mấy huyện bị lụt, công sứ Perret tự tử. Sau nạn lụt lớn này, Phạm Văn Thụ làm bài thơ song thất lục bát gần một trăm câu để uý lạo đồng bào.
       Vụ Pháp truất ngôi vua Thành Thái, khi đó ông đương quyền Tuần phủ. Một hôm phó sư Dupuy hỏi ông: “Không biết những khi phế lập lễ nghi như thế nào? Còn lúc định rước xuống thuyền, đem ngài sang Tây, ngộ ngài không chịu thì xử trí làm sao?”
       Ông cảm động ứa nước mắt mà trả lời: “Đã sinh biến phế lập, còn có lễ nghi gì?...
       Tôi trộm nghe đức Thành Thái sở dĩ sinh điên, cũng chỉ vì có thông minh mà vô sở dụng. Nhà nước muốn đem sang Tây tưởng nên dùng cách êm ả để ngài đỡ chứng uất... Rồi lại để ở chỗ đức Hàm Nghi, đãi lấy Vương lễ. Mà rước đức Hàm Nghi về chấp chính, thực có phúc cho nước Nam tôi”...
       Tất nhiên, bọn quan cai trị Pháp chỉ nói lấy lòng quan lại nước ta vậy thôi, không khi nào chúng dám đưa vua Hàm Nghi về thay vua Thành Thái. Thế mà thân hào Thái Bình vẫn làm đơn, có hàng trăm chữ ký, xin rước vua Hàm Nghi về chấp chính. Một hôm ông và quyền án sát Trần Thiện Kế đến Hội Nam Phong, tại nhà cụ tuần Luật Trung đông đủ các cụ đại lão. Cụ Khâm Nhân Mục nói: “Chà chà! Thái Bình giỏi nhỉ. Xin rước đức Hàm Nghi về làm vua à?”
       Cuối năm ấy đúng 30 tết, ông Phan Chu Trinh cùng ông Đinh Dụng Hưởng cưỡi ngựa ở huyện Mỹ Lộc sang chơi. Ông tiễn ông Đinh Dụng Hưởng về Ninh Bình, còn ông Phan Chu Trinh ở lại ăn tết với ông một tuần lễ. Đêm nào cũng nói chuyện đến khuya. Ông Phan nói: “Thời cục này, tất phải thi hành chính thể dân chủ mới tiến hoá được...”. Sau cụ Nguyễn Thượng Hiền lấy tình niên bảng cứ chủ nhật thường sang trò chuyện, nào là ông Phan Chu Trinh, ông Nguyễn Sinh Huy có tiếng chí sĩ cũng hay vãng lai giao du. Thứ nhất can hệ là cổ động rước đức Hàm Nghi. Vì thế nhà nước dùng cách ky mi (trói buộc-PĐD) cốt đem ta lên phủ Thống Sứ để tiện phòng thám những chốn ẩn vi của ta hành động”.
       Về việc ông Hoàng Tăng Bí bị Pháp tình nghi, ông nói: “Ông Hoàng Tăng Bí đỗ trẻ, sẵn lòng nhiệt hiểu, cảm ngộ lời hiểu của quan toàn quyền, định đổi tư tưởng về đường thực nghiệp. Ông Hoàng đi khắp các nơi diễn thuyết lập hội buôn bán nội hoá, hiệu là Hội Đông Thành Xương... Nói cho phải, giá bắt lỗi ông Hoàng Tăng Bí vào luật “Khi trá quan tư thủ tài” (dối trá việc công việc tư để giữ tiền bạc của người khác – PĐD) thì đúng, chứ bắt vào luật “mưu phản” thì rất oan”.
       Đàn Viên ký ức lục còn ta ta biết khá tường tận về việc hoạt động của nghĩa quân Bãi Sậy do Nguyễn Thiện Thuật làm thủ lĩnh và việc thực dân Pháp đối phó với quan quân Đề Thám ở Yên Thế như thế nào.
       Tháng 6-1926, sau nhiều lần đề nghị, Phạm Văn Thụ được nghỉ hưu. Tuy vậy mỗi khi có cuộc bạo động nào, các quan lại Pháp cũng thỉnh cầu hỏi ký kiến ông. Thí dụ, vụ nghĩa quân đánh huyện Phụ Dực và Vĩnh Bảo. Tri huyện Hoàng Gia Mô bị hạ sát. Mô là con Hoàng Mạnh Trí. Mô gọi Hoàng Trọng Phu là chú. Tính Mô kiêu ngạo và rất tàn nhẫn. Bọn Pháp cai trị định nghiêm trị dân Cổ Am, nhưng Phạm Văn Thụ can ngăn. Mặc dầu vậy, Thống sứ Robin vẫn cho ném bom làng Cổ An.
       Mấy năm nghỉ hưu, bên cạnh việc thăm thân hữu đôi bên nội ngoại, phần nhiều ông giành thời gian viết tập hồi ức, công phu, tỉ mỉ, chân thực này. Bản thảo được cử nhân Bùi Lương, con rể cả ông phiên ra quốc ngữ. Toàn bộ bản quốc ngữ do Phạm Văn Thảo, con trai cả ông đóng thành mấy tập để gia đình giữ làm vật gia bảo.
       Phạm Văn Thụ về hưu được hơn bốn năm, ngày 12 tháng 6 Canh Ngọ (7-7-1930) ông bị bệnh đột ngột rồi mất tại quê nhà, thọ 65 tuổi.
       Đàn Viên ký ức lục là tập tư liệu rất quý. Ngoài việc phản ánh nhiều sự kiện chính trị quan trọng ở các tỉnh phía Bắc, ở triều đình Huế suốt hơn 30 năm Phạm Văn Thụ làm quan, nó còn cho chúng ta hiểu nhiều tập tục cả tốt và xấu của xã hội nông thôn phía Bắc nước ta thời kỳ thuộc Pháp. Tự nội dung tập tư liệu cũng cho chúng ta thấy tinh thần yêu nước của nhân dân và sĩ phu cùng thủ đoạn cai trị của hàng loạt quan lại Pháp và những tên Việt gian khoác áo quan lại những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX.
(Thông báo Hán Nôm học 2002, tr.102-107).
Xin theo dõi tiếp bài 3 - dienbatn.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét