Thứ Bảy, 11 tháng 11, 2017

CUỘC CHIẾN GIỮA CÁC PHÁP SƯ VÀ HAI CÕI ÂM DƯƠNG. BÀI 32.

CUỘC CHIẾN GIỮA CÁC PHÁP SƯ VÀ HAI CÕI ÂM DƯƠNG. BÀI 32.
NHỮNG NĂM THÁNG HỌC HUYỀN MÔN.
Từ phần này trở đi có tên gọi là NHỮNG NĂM THÁNG HỌC HUYỀN MÔN. Đó là những tháng ngày vô cùng vất vả, trải nghiêm đủ Hỉ- Nộ- Ái - Ố của dienbatn . Cũng đã qua từ lâu rồi , xin kể lại để các bạn cùng chiêm nghiệm . Thân ái. dienbatn. 

PHẦN IV.MÔN HỌC ĐẦU TIÊN VỚI THÀY BẢY TÂY NINH.

Môn học đầu tiên mà ông thày Bảy dạy cho tôi là pháp môn phái Trà Kha. Thày giảng giải cho tôi rất tỷ mỷ về Nguồn Gốc Phái Trà Kha.

" Các hệ phái thuộc miền Nam của Việt Nam gồm có phái Trà Kha, Lỗ Ban, Năm Ông, Thần Quyền Thất Sơn, Mẹ Sanh vv...

Thường hay được giới Huyền Môn gọi chung là Nam Tông để phân biệt với các phái miền Bắc Việt Nam.

Hệ phái thuộc Nam Tông tại miền Nam chủ yếu được truyền thừa theo kiểu truyền khẩu, và các đạo sĩ thường hay ẩn dật ở những nơi hoang vu ít người lui tới, đơn cử như vùng Thất Sơn là nơi hội tụ của rất nhiều đạo sĩ, các hệ phái Nam Tông sử dụng cách truyền pháp là Khẩu Truyền cho nên tài liệu về các phái này hết sức là ít ỏi, gần như là không có, 1 phần cũng vì sự kiêng kị của các phái là không muốn các Phù Chú của Tổ mình bị lan truyền ra ngoài, họ sợ làm vậy sẽ mang tội, ngày nay thời đại đã thay đổi những chuyện Phù Chú Huyền Bí rất ít người tin tưởng, người theo học cũng chả còn bao nhiêu, trong khi  thực tế thế giới huyền bí vẫn cứ hiện diện trong đời sống chúng ta, hàng ngày, hàng giờ, mà vẫn chưa có 1 lời giải thích nào thỏa đáng. 

Xin thưa với các bạn là 1 chữ Bùa, 1 câu chú, các cụ ngày xưa đã phải đúc kết và học hỏi thậm chí giữ gìn hết sức cẩn thận từ đời này sang đến đời khác, ngày nay tôi nghĩ là với tình trạng như hiện nay, người theo học Pháp chả còn là bao nhiêu, sớm hay muộn gì các chữ Bùa các câu chú cũng sẽ bị thất truyền đi, bởi vậy vì muốn giữ gìn văn hóa cha ông nay tôi xin chép lại các phép này, chữ bùa và câu chú trong sách được lấy từ các tài liệu chép tay mà tôi may mắn có được, ở đây tôi xin chép rõ theo nguyên văn, những chữ bùa tôi biết sẽ có thêm phần chú giải, còn không tôi sẽ để nguyên bản, tôi xin nói rõ để các bạn nghiên cứu và tìm hiểu về phù chú biết vậy."( Phần tài liệu của Tantric).

CẢNH BÁO : Các tài liệu trong loạt bài này các bạn không nên tự luyện tập nếu không có Chân sư hướng dẫn. dienbatn không chịu trách nhiệm về hành vi tự ý luyện tập của các bạn nếu có hậu quả đáng tiếc. dienbatn.

Căn Bản Của Phù Chú Nam Tông .

Các pháp thuộc hệ Nam Tông khác xa với các Pháp Bắc Tông, Nam Tông không chú trọng nhiều đến Thủ Ấn, khi học Nam Tông cần nhất phải có thầy điểm đạo, cấp sắc, khi học bất cứ 1 phái nào đều có Tổ của phái đó, các phái đều có Kinh Cầu Tổ, Sắc Tổ Truyền, các phép lớn còn cần những Âm Binh để trợ giúp cho, nếu không có thầy điểm Đạo , cấp Sắc thì Tổ nào, âm nào biết mà theo giúp đỡ, về căn bản tu luyện bên các pháp Nam Tông thì người học thường phải luyện Bùa theo các phép sau đây.

Quán Tưởng .

- Nghĩa là vẽ 1 chữ bùa ra sau đó Quán Tưởng đọc chú, luôn luôn tưởng chữ Bùa đó trong đầu cho đến khi có cảm giác chữ Bùa nhập vào cơ thể mình, khi tưởng ra chữ Bùa có cảm giác nó ngay trước mắt mình, thậm chí có trường hợp chữ Bùa lóe sáng, xoay chuyển theo ý nghĩ của người luyện.

Các Cách Luyện.

- Khi họa 1 chữ Bùa thường phải nín hơi, chữ bùa đó ngắn, dài, đều phải nín hơi, định tâm thần vào đó, khi khoán bùa cũng vậy.

Hình thức vẽ Bùa có sự quy định như sau, các chữ Bùa thường có vòng khuyên xoắn ốc, bình thường là Bùa nam sẽ xoắn 7 vòng, Bùa nữ là 9 vòng, dùng chung cho 2 phái là 1,2..... số vòng sẽ thay đổi theo số lẻ như 3,5,7,9,12,21,36 tuy nhiên thường không bao giờ vượt quá 36 vòng. 

( Lỗ Ban Sát – Mạch Chí Nhân 1974 )

Cách Luyện Âm Dương .


Luyện Âm Dương : Sáng luyện mặt trời mới mọc, chiều luyện mặt trời khi ở ngọn cây, nóc nhà, đêm có trăng thì luyện trăng, không trăng thì chọn 1 ngôi sao nào sáng nhất khởi luyện.

Cách Luyện Đèn .

( Còn gọi là dòm đèn cầy Phái Lỗ Ban Sát )

Khi luyện đèn có 2 cách luyện:  *1 là vẽ chữ Bùa lên 1 mảnh giấy sau đó đặt sau nó 1 ngọn đèn cầy, sau đó dùng mặt tập trung ngó vào nó và dùng mắt vẽ theo nó, tùy loại bùa mà thời gian nhanh hay chậm, thường thời gian luyện sẽ là 1 cây nhang, và luyện 49 hoặc 100 ngày, đến khi trong đầu thấy chữ Bùa đó lóe sáng hoặc giả khi nhìn bất cứ vào chỗ nào là ta đã có thể cảm giác chữ bùa hiện lên ở chỗ đó, ( các thầy giỏi khi nhìn vào cốc nước là đã khoán đước chữ Bùa vào cốc nước rồi ) 

* 2 là cách luyện đèn khác là lấy 1 cái đèn như cái đèn bão bên ngoài có 4 mặt kính, trước tiên thắp 1 ngọn đèn cầy vào trong sau đó dùng nến vẽ ở bên ngoài kính, rồi dùng phấn, vôi, son vẽ bùa lên mặt kinh đó và ngó luyện.

Các cách luyện khác gồm có vẽ bùa bằng ngón trỏ, ngón chân cái, và vẽ bằng lưỡi, nhưng tựu chung đều là phải thuộc chữ bùa và làm sao cho chữ Bùa phải có tâm mình và nhập vào bản thể của mình, tương tự như người tu Mật Tông quán chữ Om vậy.

Thông thường các chữ để trị bệnh chỉ cần 7 ngày là thành, còn các loại chữ Bùa khác như hộ thân, Chiêu Tài, vv.....mất thời gian hơn và có luật định riêng.

Dụng Bùa.

Khi dụng bất cứ 1 loại bùa nào nên lưu ý về thứ mình dụng, trị tà, thì phải theo nghi thức trị tà, chữa bệnh phải xem rõ căn bệnh, chọn phù thích hợp, nhưng quan trọng nhất phải cầu Tổ, hội phép, vẽ bùa, niệm chú, khi niệm thường nín thở niệm chú.

Theo thầy TDT thì khi luyện các phép bên Nam Tông nếu là Miên, Lèo, Xiêm, lục, cần chú ý như sau 

Chú Niệm Hương (Nam Tông) 

Bud' thăn bô chăng 

Thơm măn bô chăng 

Son khăn bô chăn 

Ten năng bô chăng 

Sanh lăn bô chăn 

Kích năn ka rô mí . 

(Đốt 3 cây hương chấp trước trán tập trung niệm 3 lần trước khi công phu bên Pháp cũa Nam Tông ) 

Những chữ thường gặp trong trường phái này như : Bud' Thăn = Phật , Thơm Măn = Pháp , Son Khăn = Tăng . Ắ Rặc Hăn = A La Hán , Ề hế hoặc Ê hí = Sắc Lịnh . Mặc mặc = cấp cấp , Cà Ra Mây = tập hợp , Xắ Xây = chứng minh .

Trước tiên khi muốn thỉnh mời bất cứ vị nào để luyện phép nên cần đọc câu chú sau, thiếu câu chú này không có sự linh diệu nào cả ( đặc biệt với các bạn nghiên cứu không có 1 hệ phái nào chính tông cả )

Nắc mô ta sắc , phắc cá wá to , á rá há to , sam ma sam Bud' ta sắc 

                                             (3 lần , lạy 3 lạy) . 

Trong các hệ phái Nam Tông người thầy thường cấp cho các đệ tử các lá Sắc như Sắc Hộ Thân, Sắc Triệu Thần, Sắc Triệu Âm Binh.

Sắc Hộ Thân : khi gặp những tà ma, hoặc những vị Thần lớn quá không hại đến thân thể.

Sắc Triệu Thần : để kêu gọi các vị thần tướng theo mình.

Sắc Triệu Âm Binh : để kêu gọi âm binh đi theo giúp đỡ hoặc các thầy sẽ nuôi âm để giúp việc sai khiến.

36 VỊ TỔ CHÁNH.
PHÁP DANH HỘI 

Nam mô Tây Phương Phật Tổ Thích Ca Như Lai. 

Bồ Đề Tổ Sư. 

36 vị Lục Tổ Phật 

Chuẩn Đề Bồ Tát. 

Quan Thế Âm Bồ Tát.

Ông Già Lam Quan Đế. 

Chín phương trời. Mười phương Phật . 

Tả ông Quan Châu. Hữu ông Quan Bình. 

Đấu Chiến Thắng Phật. 

Bạch Hổ Sơn Động. 

Nam Mô Ngọc Hoàng Thượng Đế. 

Chư vị Phật Tổ. 

Ba ông Quốc Vương Đại Thần. 

Cửu vị Tiên Nương. 

Vong hồn sư ông. 

Sống cứu thế trợ dân. Vãng về chầu Phật Tổ. Cảm ứng chứng minh cho đệ tử ......... cầu Ông Tổ ........... nhập xác chửa bệnh, xuất quyền, luyện phép).


PHÁP DANH 36 VỊ TỔ CHÁNH.
1./ XÁ XÂY KÀ RA MÂY

2./ NO THĂN NGÂN 

3./ NO NẠC NĂNG

4./ HẾ XA SẤP 

5./ PHÁCH GIÁ BÀ TÁ

6./ NÁ MÁ BÀ TÁ 

7./ NÚM NÁ BRUM

8./ NÁ Á MO RI 

9./ NA SA PA 

10./ NÁ CÀ XA DÁ MẮC MẮC 

11./ NÍT KHÉT BĂNG CÀ RA MÍ 

12./ Ề HẾ NẮP CẶP BANH NAM PHỜ RA MẮC MẮC 

13./ Ề HẾ SA MA THÍ Á 

14./ Ề HẾ A CÚ SA GIÁ MẮC MẮC 

15./ Ề HẾ Ế Á TẾ GIÁ MẮC MẮC 

16./ Ề HẾ KHEO QUĂN TẾT MĂNG KỆ RÊ THA 

17./ Ề HẾ PÚT THỐ PÚT LÀ MANH TUA MẮC MẮC 

18./ PÚT THỐ KHAI NĂN SĂN TUA MẮC MẮC 

19./ Ề HẾ MÊ BỜ RÂY CÔ MA VĂN MẮC MẮC

20./ Ề HẾ PÚT THỐ ĐUM BỜ RÂY CÔ MA DĂN MẮC MẮC 

21./ THÓC THỊA QUĂN SĂN SÓC CĂN 

22./ ẮC CÀ RA ĐUM TĂN SĂN LĂN Á THÍ Á THÁ MÍ 

23./ Á HĂN BĂN SẾ TA SA LA VĂN SA MAO 

24./ Á MÊ MÍ CĂN ÔNG PHÚC CHẤC Ề HẾ 

25./ Ề HẾ CA RA MÂY TỐ TA TÊ TIN DĂN ÔNG PHÚC CHẮC Ề HẾ 

26./ Ề HẾ NA RA MO MẮC MẮC 

27./ Ề HẾ MẮC HUẤN SUNG Ắ HUẤN SUNG Ú HUẤN SUNG 

28./ Ề HẾ MÍ TẾ CHỀ TẾ BẾ TẾ CĂN 

29./ ÔNG CÀ RA MÍ NÍT KHÉT BĂN CÀ RA MÍ MẮC QUAN TÂY 

30./ CÀ RA KHA KHA KHÁ KHÁ

31./ PÚT THỐ MA HĂN SĂN TUA MẮC MẮC 

32./ KHÁ KHÁ KHA KHA CÀ RA 

33./ Ề HẾ Á SA NGĂN MẮC MẮC 

34./ Ề HẾ NẮC MÔ PÚT THÊ DẮC 

35./ PÚT THÔ BÔN RÁP BRÂY MẮC MẮC 

36./ ÔNG MẮC ĐẶC CĂN ĐẶC CĂN ĐÁT THÔ MÔN SÔN CĂN QUAN CÔNG MẮC MẮC THÍ Ắ.

Còn một bản khác ghi các vị Tổ như sau : 

cầu 36 vị trang tổ chứng: 

-1-bili 

2-núsê 

-3-no tho ngan 

-4-tế sa 

-5bề mắc 

-6-săn khê 

-7-da tô 

-8-a sa thá 

-9-a quê săn 

-10-bạch hổ 

-11-lục cham 

-12-lục chi 

-13-lục nha rây 

-14-lục cà chui 

-15-a sà lam 

-16-ngủ hổ 

-17-nha thô 

-18-nha bênh 

-19-ba lưu 

-20-ná ba nặc 

-21-but no má 

-22-no nặc hăn 

-23-bi sa tha 

-24-tăc đà bà 

-25-lưu quan chơn 

-26-cám rừng 

-27-thần hưu thánh 

-28-thần hoàng 

-29- a chàm 

-30-bửu da đà bửu 

-31-buôl thá 

-32-á sa ngăn 

-33-ná cà xa dá 

-34-nha rây 

-35-bí sa tha 

-36-bi nha rây. 

-Cầu chứng luyện mau thành:

Trời trên,Trời dưới,Phật tổ,Phật thầy, mẹ Quan thế âm ,5 sư ,6 tổ,Lục tổ-Lục Mun-Lục Xiêm hiệp-Lục Lèo-ông 5, ông 6, ông 7-Trời Phật Thánh Thần-ông trạng mình-cho con luyện phép siêu xuất giúp đời .

Mỗi đệ tử theo học đều có 1 vị tổ theo hộ mạng. Sau khi đọc Pháp danh hội người thầy dùng nhang khoán bùa  số 6 vào người của đệ tử và 1 số nghi lễ khác, rồi cho đệ tử đọc mời chư Tổ về luyện võ.

Trên là phần giới thiệu cơ bản chung chung của các pháp thuộc hệ phái Nam Tông .

 PHÁI TRÀ KHA .

Môn phái Trà Kha hiện ở Việt Nam rất ít người nắm rõ bởi phái này không phát triển rầm rộ như các môn phái khác như Lỗ Ban, Năm Ông Thần Quyền, người biết về phái này và theo học cũng không có nhiều cho nên về tài liệu cũng như nguồn gốc rất ít người nắm rõ, cũng như tất cả những môn phái thuộc hệ Nam Tông ( theo cách gọi của giới Huyền Môn) các phái Huyền Thuật  thuộc hệ Nam Tông tại Việt Nam thường không có 1 dòng truyền thừa chính thức mà thường là lai tạo hoặc truyền khẩu, 1 người học Huyền môn thường học rất nhiều phái khác nhau mà tất cả các phái này đều cũng không thuộc hệ chính tông truyền thừa cho nên việc truy tìm về gốc của 1 phái là rất khó, thậm chí có rất nhiều truyền thuyết được truyền miệng ra, sau đây tôi xin chép về nguồn gốc của phái Trà Kha theo 1 thuyết mà có rất nhiều người hiện nay cho là đúng với gốc phái.

Về mặt tôn giáo thường hay có rất nhiều chuyện hoang đường được thêu dệt ra môn phái Trà Kha cũng không ngoại lệ này. Về gốc phép có 1 thuyết như sau :

Phái Trà Kha có nguồn gốc từ Ấn Độ sau đó được truyền vào Thái Lan theo hệ Tiểu Thừa Phật Giáo, Phái này nằm trong gốc Phật Giáo, khi xưa Phật Tổ khi còn mang xác tục của mình đi giảng đạo, ngài di chuyển trong những nơi hang sâu cùng cốc, khi ngài đi giảng đạo thì gặp đủ thứ những chuyện gian truân như sự thù hận, ganh ghét, chém giết của loài người cho đến những khó khăn khi gặp thú dữ, ác quỷ, khi đó Thượng Đế  tức là ông trời thấy vậy mủi lòng thương xót mới sai 3 vị thần tướng xuống để giúp đỡ đức Phật làm tròn sứ mệnh tu thành đạo và cứu vớt chúng sinh, ba vị thần tướng đó đội lốt rắn và khi ẩn khi hiện luôn theo sát Đức Phật, nhưng vì Đức Phật có lòng từ bi thương xót luôn cả những kẻ gian ác có lòng hại mình, cho nên mỗi khi 3 vị thần tướng ra tay trừng trị là kẻ ác là Đức Phật lại cầu xin Thượng Đế tha lỗi cho họ, nghĩ vậy Thượng Đế không biết làm sao vì Đức Phật quá nhân từ, Thượng Đế liền ra lệnh cho 3 vị Thần Tướng phải truyền cho Đức Phật các phép để giữ mình, 3 vị tướng liền trao cho Đức Phật phép thần thông làm cho ngài khi gặp chuyện thú dữ, kẻ ác, đâm chém làm hại mà thân thể không có 1 vết xước nhỏ, ba vị tướng lại uốn mình thành những hình kì lạ và Đức Phật chép lại gọi là Bùa, 3 vị truyền lại cho Phật những câu Thần Chú và Phật gọi là Kinh, bởi vậy nên Phép Trà Kha mới có hình bùa như rắn vậy, pháp Trà Kha thường vẽ bằng son đỏ trên giấy vàng, bởi khi xưa 3 vị tướng uốn mình trên đất vàng.

Phái Trà Kha thờ thần rắn gọi là NaGa, phái này còn có 1 hệ ở bên Thái Lan là hệ phái gốc, còn được gọi là Xiêm, thực tế khi truyền vào Việt Nam mới có tên là Trà Kha ( lấy theo tên ấp Trà Kha ở Bạc Liêu ) các phép của Xiêm và Cambot thường du nhập vào Việt Nam qua những ông thầy người Việt gốc Miên, Chà, sau đó các thầy người Việt được truyền lại, về phái Trà Kha có những điều căn bản và những pháp rất phổ thông nhiều người biết như sau.

Các Điều Căn Bản Về Phép Trà Kha.

Căn bản của người luyện phép Trà Kha cần phải hội đủ 5 bài Kinh và Chú gồm có : Kinh Tam Giáo, Chú Thỉnh Tổ, Chú Hội Phép, Chú Gọi Âm Binh, Kinh Cầu Nguyện các bài chú này thường được thầy cho kèm theo chữ Bùa để luyện hàng đêm, phép Trà Kha cũng có những cách thức luyện tương tự như các phái Nam Tông khác đó là Đọc Kinh , Đọc Chú Thỉnh Tổ, Chú Hội Phép và Quán Tưởng bùa.

Kinh là gì ?

Kinh tức là các câu Thần chú, các bài kinh chủ yếu theo ngôn ngữ PaLi, Kinh khác Thần chú ở chỗ khi đọc có thể cho lưỡi chạm vào răng, Kinh thường đọc đầu tiên để bắt đầu làm 1 phép gì đó, có những phép mà Kinh có luôn chức năng là Thần Chú nếu như chữ Bùa đó không có Thần Chú đi kèm thì có thể lấy Kinh mà thay Thần Chú, nhưng tất cả đều phải có quy tắc và cách dùng rõ rệt, điều này do thầy truyền thụ chỉ bảo mới nắm rõ.

Chú là gì ?

Cũng giống như Kinh Chú là những ngôn ngữ bí mật rất khó dịch nghĩa, khi chuẩn bị làm 1 phép nào đó cần phải đọc Kinh, vẽ Bùa sau đó niệm chú, khi niệm Chú thì lưỡi không được chạm vào răng.

Bùa là gì ?

Bùa là những kí tự bí mật, thường được vẽ bằng son trên giấy vàng, phái Trà Kha thường vẽ bùa uốn lượn như rắn, các Bùa được vẽ theo lối xoáy vòng khuyên từ 1- 7 vòng thậm chí nhiều hơn, tùy vào công dụng mỗi lá Bùa, người khi đã thấu hiểu được quy tắc hoặc thuộc hàng cao thủ có thể tự chế và vẽ Bùa mới, hầu như Phái Trà Kha ở Việt Nam đều dùng các lá Bùa chế do sự va chạm giữa trình độ các Pháp với nhau cho nên cùng 1 công dụng nhưng Bùa của Việt Nam và Xiêm cũng có sự khác nhau, bản thân câu chú và kinh cũng vậy, do truyền thừa không chính tông nên bị tam sao thất bản rất nhiều, tuy nhiên về nguyên tắc Huyền Môn quan trọng nhất vẫn là thành tâm và tin tưởng, bởi vậy mới có chuyện 1 người chưa hề học qua về Huyền Môn nhưng vì quá thành tâm và thù ghét kẻ khác mà đã vẽ 1 đạo bùa rồi dồn hết tâm lực vào trù ếm kẻ kia, dĩ nhiên trong Huyền Môn sự thành tâm chỉ chiếm 50 % những việc tu luyện và được thầy chỉ dẫn vẫn quyết định sự thành công.

Cầu Tổ Là Gì ?

Cầu tổ là 1 hình thức như lên đồng cốt, người học phải thành tâm tin tưởng mới cầu Tổ được, về các hệ phái Nam Tông rất chú trọng việc cầu Tổ bởi các hệ phái này chủ yếu là nhờ Tổ giúp đỡ hay làm phép gì đó đơn cử như Phép Gồng Trà Kha, Võ Bùa, các phép này họ chủ yếu là nhờ Thần Lực của Tổ về nhập xác để đánh võ hoặc chịu gồng, vì với xác phàm thì khó có thể chịu được những xung lực như dao chém không đứt hoặc đánh võ chịu đòn, tất cả đều nhờ thần lực hoặc sự nhập xác của Tổ bởi vậy nên người học các phép này cần kiêng cữ để cho cơ thể không bị ô uế, như vậy các Tổ hoặc thần linh mới nhập xác được, hoặc phép không bị mất.Tuy nhiên cầu Tổ không phải ai cũng có thể làm được nếu không nắm rõ cách thức, tế lễ, niệm kinh cầu, hoặc giả phải có sự truyền thừa.

Phái Chà Kha xuất xứ từ Ấn Độ và đã truyền vào Thái Lan nhiều năm rồi, phái này thờ Thần Rắn còn gọi là Naga (cho nên những nét Bùa của Chà Kha uốn lượn như rắn). Căn bản cho người luyện Phép Chà Kha thì phải hội đủ 5 bài Kinh Chú, bao gồm: Kinh Tam Giáo, Thỉnh Tổ, Chú Hội Phép, Chú gọi Âm Binh, Kinh Cầu Nguyện, và cộng thêm10 chử Buà của 10 Vị Tổ trong bài Thỉnh Tổ (cho Thầy mỗi đêm luyện và uống). Buà Phép của Chà Kha rất nhạy bén và công dụng sài cho trăm việc như: thư ếm, chửa bệnh, trục tà, lên đài đấu, sên dầu thơm ăn nói, buà chú thương, gồng, .v.v.,

KINH HỘ TỔ 1 :Cam Cò Cây, Cam Manh Manh, Cam Hanh Phanh, Cam Mành Mảnh, Cam Mây Nghanh, Cam Manh Nganh, Cam Sắc Xi, Cam So Rẹc, Cam Chuốt, Cam Phược.

KINH HỘI TỔ  2 : Bra ti ít sắc nặc – Bra sao ti ni phịt nặc – Bra chôm sắc sắc nặc – Bra xây tha na mặc nặc – Bra chôm bry rặc nặc .

KINH HỘI PHÉP:

Công dụng của bài hội phép, ngoài luyện ra còn có thể sên buà và dùng cho những chử buà Chà Kha mà không có chú kèm theo. Đây chỉ là căn bản cho người nhập môn luyện pháp Cha Khà, còn biến hoá và sử dụng thì nhiều lắm.

Bờ Ri Ti Ti Tích Nặc, Bờ Ri Tích Ti Na Nặc, Phắc Cu Bờ Rích Nặc, Sắc Phịch Phổ Nặc, Ô Mạc Ten Ka Bơ Ra, Quýt Sơn Manh Manh Lơn.

 Kiêng Kị Khi Học Phép Trà Kha.

Phép Tra Kha có nguồn gốc Phật Giáo nhưng sự kiêng kị không quá khắt khe như Phật Giáo, cũng giống như các hệ phái thuộc Nam Tông khác học phái Trà Kha cần kiêng các thứ sau.

- Khế, Ngò Om, 

- Cá Không Vảy

- Các Vật Thuộc Hệ Bò Sát

- Trâu,Ngựa, Chó, Rắn, Rùa.

Tại sao lại kiêng các thứ đó ? 

Các thứ như Trâu, Chó là những thứ thuộc hàng hôi tanh người học phép không nên ăn, và còn 1 điều nữa theo như người xưa truyền lại đó là con Chó nó có đủ 4 thứ Trung, Tín, Lễ, Nghĩa chỉ thiếu đúng chữ Nhân, theo tục truyền Trâu,Ngựa, Chó đều là con người khi chết mắc tội phải đầu thai làm Trâu, Ngựa,Chó trả nghiệp cho người, cho nên giết nó tội cũng ngang giết người, tục xưa có câu : Kiếp Sau Sẽ Làm Thân Trâu (Ngựa ) Chó để đáp đền, bởi vậy nên mấy tay nhậu hay kêu là ăn mấy thứ này đen là vậy, bởi giết nó là mang tội, mang nghiệp, nên phải trả ngay, có người chịu quả báo nhãn tiền là vậy, trong Lục Đạo Luân Hồi Đồ của Phật Giáo cũng có chép cảnh kẻ ác khi chết kiếp sau đạo vào làm súc sinh cũng có vẽ hình Trâu, Ngựa, Chó. Bởi vậy người học phép chớ nên ăn mấy con này mà mang tội.

Con Rắn và Khế thì tại sao kiêng đó là vì Rắn thuộc loài bò sát mà Rắn lại là xác tục của 3 vị Thần Tướng đã giúp Đức Phật, cũng được coi là Tổ của Phái, ( Bên Xiêm họ thờ Tổ là Naga Rắn ) khi không còn giúp Đức Phật nữa 3 vị này nằm vắt lên cành Khế, bởi vậy nên kiêng Khế, đây là cách kiêng kị để tỏ lòng thành kính với Tổ, bởi thực tế nếu vi phạm sẽ khó mà được Tổ chấp nhận, mà Tổ đã không chấp nhận thì kết quả ra sao chắc các bạn cũng hiểu.

Các loại bò sát thì sao lại kiêng vì bò sát là có họ hàng liên hệ với Rắn ví như Lươn, Trạch vv.......

Học Phép Trà Kha Cần Những Điều Gì ?

Học phép Trà Kha điều tiên quyết nên phải có thầy truyền Đạo, như đã nói ở trên tất cả các phép thuộc hệ Nam Tông thường hay cần sự truyền thừa hoặc có thầy truyền bởi các phép cần có Tổ theo chứng và giúp đỡ nếu thầy không cho phép thì Tổ nào biết mình là ai mà về chứng, không có Tổ hoặc không có bàn thờ Tổ thì khó mà luyện thành.Có những phép không cần Tổ nhưng có những phép phải có Tổ chứng mới làm được, họa chăng có những người hết sức thành tâm trong lòng luôn nghĩ đến Tổ thì may ra có thể học được, tuy nhiên khuyến cáo nên có thầy truyền chỉ cấp Sắc Ấn không khuyến khích tự học.

Nhập Môn Trà Kha Học Phép Gồng Trà Kha.

Học phép này cần có những thứ sau :

Lễ vật : Lễ vật học Gồng Trà Kha cần phải có là các thức cúng chay, nguyên tắc nên cúng chay ( Gồng Tra Kha – Vũ Ồn ) cúng rất sơ sài gồm có 1 cục than, 1 đĩa bỏng ( Nổ ), 1 nải chuối , 1 đĩa Hoa , 1 chén nước trong, 9 ngọn nến, và 9 cây nhang.

Hoa để cúng phật, Chuối và Than để cúng 3 vị Thần Tướng trong lốt rắn

Tranh Tổ : Người học cần có 1 bức tranh Tổ để thờ, cách thức thờ như là ta thờ bài vị, tranh thờ cho người học biết rõ về gốc tích của phép Trà Kha, người học có thể vẽ tùy theo ý thích hoặc cần phải được thầy cho cách thờ, cách thức tranh có thể vẽ tùy theo sự tích gốc của Phái miễn sao khi vừa trông thấy tranh là có thể biết được nguồn gốc của Phái Trà Kha có tranh vẽ trên cùng là 1 Vị Phật từ bi dưới là xác 3 vị thần rắn, có tranh vẽ 3 thần rắn cuốn quanh cây khế, có tranh vẽ hình 3 thần tướng đứng sau Đức Phật vv............


Hình minh họa Tranh Tổ Trà Kha tại Cambot

Lời Thề : khi học phép học trò đều phải đứng trước bàn thờ Tổ thề nguyện những điều sau đây.

( chiếu theo sách Trà Kha của thầy TPL )

1  Con tên là ................tuổi .............

2  Nay nhận thầy ...............là thầy của con.

3 Con xin học ................( Phép gì nói rõ ) và xin nguyện như sau :

Không Phản Thầy Phản Tổ.

Không Làm Trái Lương Tâm

Không Làm Việc Ác

Không Dùng Phép Vào Những Việc Bất Lương

Không Tham Tài Danh 

Nếu học gồng thì có thêm lời thề Không dùng Gồng vào việc vô nhân đạo, không ỷ có Gồng mà hại kẻ khác, nếu làm trái xin thày Tổ thu lại phép và không ân hận gì ( Gồng Trà Kha – Vũ Ồn ).

Nghi Thức Truyền Phép .

Người dạy truyền phép cho đệ tử trong 6 lần, hoặc 6 tối hoặc 3 ngày, mỗi ngày 2 lần, muốn cho nhanh có thể rút ngắn lại chỉ 2 ngày 3 buổi cuối dồn vào 1 ngày, làm vậy cũng không có gì mất thiêng cả.

Nghi Thức Khoán Bùa .

Có 2 cách khoán Bùa khoán Bùa : Trên giấy và khoán bùa vào người học vẽ bùa trên giấy rồi lấy 1 cây hương đốt cháy sau đó hua hua theo các đường vẽ trên giấy như vậy gọi là khoán bùa, cũng có khi khoán trên người mà không cần vẽ giấy.Khi khoán bùa miệng phải đọc kinh chú, khoán vào người thì khoán vào Đầu, Ngực,Lưng, Tay, Chân, uống bao nhiêu Bùa phải khoán bấy nhiêu lần lên người.

Khi vẽ Bùa lòng phải hết sức thành tâm tưởng Tổ, và nghĩ hết sức tập trung vào việc mình làm, lúc bắt đầu khoán xong phải quán tưởng như là Tổ đã nhập vào mình rồi, ngậm 1 hơi thổi mạnh vào giấy bùa, hay là khoán lên thân mình.

Người học phải mua 4 thước vải trắng, 2 thước vải đen người dạy luyện phép vào vải, để dùng trong khi truyền phép, vải ấy sau này thầy chôn ở 1 nơi khác để yểm phép cho bền, khi truyền phép thì vải trắng xếp quanh cổ người học còn vải đen thì xếp dưới chân.

( Qua thực tế đây là nghi thức truyền Đạo, thầy sẽ truyền và vẽ lên vải 10 chữ bùa Tổ, đây là 1 hình thức gần như cấp sắc sau này người luyện đã thành công có thể truyền lại cho người khác phép, tự học hoặc nghiên cứu thì cần thành tâm tìm hiểu là đủ ).
Tối thứ nhất : Sau khi đã bày lễ vật lên ban thờ , thắp đèn , hương, nến, đọc kinh cầu Tổ sau.

Kinh Thỉnh Tổ. 

Cam Cò Cây, Cam Manh Manh, Cam Hanh Phanh, Cam Mành Mảnh, Cam Mây Nghanh, Cam Manh Nganh, Cam Sắc Xi, Cam So Rẹc, Cam Chuốt, Cam Phược...

 Kinh Cầu Tổ 1 

Bờ Ri Ti Ti Tích Nặc, Bờ Ri Tích Ti Na Nặc, Phắc Cu Bờ Rích Nặc, Sắc Phịch Phổ Nặc, Ô Mạc Ten Ka Bơ Ra, Quýt Sơn Manh Manh Lơn.                      

Kinh Cầu Tổ 2.

Bờ Ra Tít Ít Xắc Nặc.

Bờ Ra Xao Ti Ni Phịch Mặc.

Bờ Ra Chôn Xắc Xắc Nặc.

Bờ Ra Xây Tha Na Mặc Nặc.

Bờ Ra Chôn Bờ Ruy Dặc Nặc.

Sau khi đọc xong kinh liền đốt 3 bùa sau đây cho vào nước uống khi uống xong liền thư ( khoán ) 3 đạo bùa đó vào đầu , ngực, lưng, tay, chân.


3 lá bùa này cần phải vẽ và luyện tập trước khi bắt đầu luyện và đọc Kinh Cầu Tổ , khi vẽ Bùa cần đọc bài chú sau.

Chú Vẽ Bùa.

Ô Ma Ten, Cu Tha Na MaNia Ta Rằng Ten, Căng Xoa Hạ

Ô Pê Ma Pa, A Pạ Ê Tệ, Pê Xô Phắc, A Quy A Xắc

Sau khi đốt bùa uống xong thì khoán bùa lên người, uống bao nhiêu Bùa cần khoán lên người những bùa đó, khi khoán vẫn câu chú trên.

Tại sao phải luyện tập trước để khi khoán bùa thì khoán 1 mạch luôn không bị nhầm lẫn, bởi các bùa đều dùng 1 nét mà thành, 1 điều nữa khi luyện tập trước cũng là để cho thần lực khoán có lực hơn ( đỗi với người tự tìm hiểu, còn với người có thầy truyền thì đã có thầy làm rồi ).

Tối Thứ 2 : Vẫn dùng như nghi thức trên và khoán các bùa sau đây.


Các bùa trên vẫn dùng như ngày đầu tiên, tốt nhất vẫn luôn phải tập trước, sau khi khoán xong nên ngồi trước bàn tổ quán tưởng đến các lá bùa này trong thân mình và liên tục tưởng tổ hoặc niệm kinh.

Tối Ngày Thứ 3 : Vẫn Kinh Cầu Tổ và khoán bùa như trước.



CCách làm vẫn như các ngày trước, cần tập luyện và vẽ trước bùa này Nhưng lại khác 1 chút là đốt là bùa sau ra tro hòa với dầu lạc, hoặc dầu Tràm ( theo người viết ) sau đó ngậm dầu này vào mồm phun khắp người khi ngậm nên tưởng đến chú thư bùa, nhẩm trong đầu, phun dầu lên mình xong sau đó thoa khắp cơ thể, không nên tắm ngay mà chờ đến ngày mai khi bắt đầu thư bùa thứ 4 mới tắm, nếu để lâu càng tốt ( nếu chịu được dơ và nhớt dầu ), khi phun dầu lên người chính là nghi thức để cho bùa phép được ngấm vào cơ thể, sự linh nghiệm sẽ khó mà mất đi được.bởi vậy nghi thức này rất cần trong phép học Gồng Trà Kha.

2 Đạo Bùa dùng hóa ra tro rồi hòa cùng dầu lạc ( Tràm ) rồi phun thoa lên người.

Tối ngày thứ 4 : Vẫn như các ngày trên chỉ khác 1 điều là bài Kinh khoán bùa có khác đi. 

( Theo sách Gồng Trà Kha thì không đọc Kinh Cầu Tổ nữa mà dùng bài Kinh Sau đọc thay Kinh Cầu Tổ, kể cả khoán Bùa cũng dùng Kinh này luôn, có nghĩa là ngày thứ 4 chỉ dùng duy nhất 1 bài Kinh sau.

Kinh Khoán Bùa.


Tối ngày thứ 5 : Làm y như ngày thứ 4 với bài Kinh này, và khoán đạo bùa sau:

Thu Na Ca Môn Bu Chôn.

Xô Ca Mi Bờ Ri Xọt Xọt.

Thu Na Thắc Mặt Ít Ắc.

Bờ Rô Ôi Ca Nít Y It Ti Ni.

Bờ Ra Chôn Tha Na Thắc Mặt.


Tối ngày thứ 6 : Lại đọc kinh của ngày thứ 4 và 5 và vẽ 2 đạo Bùa sau rồi uống khoán.


Lời Dặn : Riêng vải trắng và vải đen lễ vật chỉ dùng được 1 lần, sau 6 đêm có thể gọi là thành tài, sự linh nghiệm sẽ không bị mất đi. Xin nhắc lại 1 lần nữa, pháp thuật không nên đem đi làm bừa, nếu không đến khi mất phép lại tưởng ta đây vẫn còn mà hống hách có ngày bị chém chết mà chả biết tại sao.

Phép Đánh Võ Trà Kha.

Căn Bản Của Phép.

Phép này tương tự như 1 phép thuộc Thần Quyền, được gọi là Thế Công, phép này luyện chữ Bùa vào bàn tay trong vòng 100 ngày, khi dùng thì họa vào tay chữ Bùa rồi đánh ra, nếu chưởng lực mạnh có thể đánh ngã người khi cách xa 1,2 mét, các phép thuộc hệ đánh như vậy môn phái nào cũng có, Bắc Tông có những pháp dùng Kiếm Ấn họa chữ Lôi  ( ) vào lòng bàn tay rồi đánh ra, ma quỷ, thần tiên, cũng phải ngã bổ nhào, tuy nhiên lưu ý các phép sau không nên dùng bừa, nếu ỷ mình có phép này đánh bừa bãi sẽ có hậu quả nhãn tiền ngay, nhẹ là mất phép, nặng sẽ bị hành đến phát ốm, bởi vậy hết sức lưu ý thận trọng.

Cách Luyện .

Cũng giống như tất cả các pháp khác thuộc hệ Nam Tông, do có sự bắt nguồn từ Phật Giáo Mật Tông cho nên khi học bất kì 1 pháp nào đều cần nhất 1 chữ Quán Tưởng, người học cần mỗi ngày bỏ ít thời gian ra để tu luyện trước tiên cầu Tổ, sau đó ngồi tưởng tượng trong tay trái có đạo bùa sau.

 


Trước tiên nên vẽ đạo bùa này ra giấy rồi để trước 1 ngọn đèn cầy luyện bằng mắt và tâm trí cho thuộc lòng hình bùa đi, rồi sau đó bắt đầu quán tưởng chữ bùa này nằm trong bàn tay trái của mình, khi quán tưởng mồm đọc kinh sau :

     Giặc Nắc Thắc Úc Rốc ( 3 lần )

Làm liên tục trong vòng 100 ngày thậm chí hơn, người giỏi học nhanh có thể ngắn ngày hơn tùy từng người, khi mà luyện đến mức nhắm mắt lại là đã nhìn thấy lá bùa hiện rõ trong đầu lóe sáng đỏ lên như ngay trước mắt vậy là thành công.

Cách Dùng .

Trước khi chuẩn bị ra tay đánh thì trong đầu tưởng nghĩ đến Tổ, có thể đọc Kinh Cầu Tổ sau đó tưởng nghĩ đến bùa trong lòng bàn tay trái, mồm niệm bài kinh và ra tay.

Khi ra tay niệm bài kinh : Giặc Nắc Thắc Úc Rốc  ( 7 lần ) rồi đánh.

Phép đánh võ tay trái.

Thời hạn luyện 100 ngày, 

Cách luyện : Mỗi ngày sau khi cầu Tổ như trên , ngồi quán tưởng trên tay mình có một lá bùa như sau :

Đọc chú sau :

Giặc nắc thắc úc rốc – 3 lần.

Ngồi quán tưởng cho nhuần nhuyễn đạo bùa. Khi vào tình thế hiểm nghèo, quán tưởng Tổ, miệng đọc chú ở trên rồi đẩy nắm đấm về phía địch. Khi đạt trình độ cao có thể cách không đả thương địch.

Phép Đánh Võ Tay Phải

Phép này cũng tương tự với phép trên về cách thức luyện tập chỉ khác về câu chú và chữ Bùa và tay là tay phải. Luyện chữ Bùa sau đây.

Câu kinh khi luyện như sau :

Bờ Ra Quýt Xôn ( 2 lần )

Ô Pê Ma Pa  ( 2 Lần )

Các phép trên nên sử dụng vào việc nhân đạo, nếu dùng vào việc ác đặc biệt là đánh người vô cớ, hoặc đánh phải kẻ có phúc đức lớn thì sẽ lãnh chịu hậu quả gấp nhiều lần.

Phép Đánh Tam Sao Thất Bản

Lời Tựa

Pháp này dùng đánh hoặc trị tà đều được cả, cách thức tu luyện cũng gần giống các pháp trên, tuy nhiên đây là pháp do người chép sách gốc là người đã học rất nhiều môn phái nên gọi là Tam Sao Thất Bản e cũng không phải quá lời.

Cách Luyện.

Như cách luyện ở trên chỉ khác là chữ phù này tập quán trong đầu sau khi đã học thuộc thì họa vào không khí, dùng kiếm ấn họa vào không khí, hoặc tưởng tượng trong không khí rồi dùng tay phải đánh ra.

Khi đánh 2 tay chắp kiếm quyết sau đó họa phù vào không khí hoặc tưởng chữ phù, niệm chú.

Bờ Ra Quýt Chuôl ( 9 lần )

Có 1 cách luyện khác như sau không rõ thuộc hệ phái nào, trước khi luyện niệm bài kinh sau thay cho bài kinh cầu tổ :

Nam Mô Ì Hí Lục Cụ Lục Chui Mặc Mặc Trợ Lực Cho Đệ Tử Tu Luyện. Nam Mô A Di Đà Phật.

Niệm xong kinh dùng Ấn Kiếm vẽ chữ Bùa trên vào không khí 3 lần, khi vẽ niệm bài chú Bờ Ra Quýt Chuôl 3 lần rồi há miệng thâu chữ Bùa đó vào miệng hớp nuốt, luyện liên tục 1 thời gian 100 ngày, có thể ngắn hơn tùy người học. Khi dùng thì dùng Ấn Kiếm họa chữ Bùa trên rồi sau đó thổi ra bằng miệng, tay phải buông kiếm ấn vẩy về phía người cần đánh.

*** Lưu ý các chữ Bùa trên thuộc vào loại Pháp Thuật Nội Công bởi vậy nên chú ý về cách luyện khí công mới có thể dụng được.

Các Bài Hội Phép Trà Kha Khác

Lời Tựa

Như đã viết ở trên phép Trà Kha căn bản cần nhất là thuộc 5 bài kinh gồm có Kinh Tam Giáo, Thỉnh Tổ, Hội Phép, Chú Gọi Âm Binh, Kinh Cầu Nguyện, và 10 chữ Bùa Tổ thày cho, dưới đây gồm 10 chữ Bùa.


10 chữ bùa tổ trên tương tự với các tên Tổ trong bài Thỉnh Tổ Trà Kha sau đây.

 Chú Thỉnh Tổ.

Cam Cò Cây, Cam Manh Manh, Cam Hanh Phanh, Cam Mành Mảnh, Cam Mây Nghanh, Cam Manh Nghanh, Cam Sắc Xi, Cam So Rẹc, Cam Chuốt, Cam Phược.

Chú Hội Phép.

Bờ Ri Ti Ti Tích Nặc, Bờ Ri Tích Ti Na Nặc, Phắc Cu Bờ Rích Nặc, Sắc Phịch Phổ Nặc, Ô Mạc Ten Ka Bơ Ra, Quýt Sơn Manh Manh Lơn.

Dưới đây là 1 bài chú Hội Phép Khác mà theo như sách gốc chép là bài chú này được truyền từ Thái Lan ( Gốc của Trà Kha ) bài chú này dùng cho rất nhiều việc, khi niệm bài chú này tà ma sợ thấy rõ không cần phải tụng các bản kinh khác, niệm 3-5-7 lần.

Chú Hội Phép Trà Kha

Ô Bờ Ri Tíc Ta Na Nặc, Bờ Ri Tíc Tic Nặc, Fách Cu Lơ Tic Nặc, Sắc Fích Lịch Phổ Nặc, Mặc Mặc Uộc Mặc, Dắc Mặc Tê Uốc, Ton Ton Tanh Tanh, Ton Qui Hưa Coc Mitl, Ta Răn Ton Căng, Mặc Uôc Uôc Mặc.

Phép Luyện Cành Khế.

Chọn bất cứ 1 cành khế nào, khế chua hoặc ngọt đều được, chọn lấy 1 cành thẳng khoảng 50 phân, dóc hết vỏ ngoài chỉ để lõi, vẽ đạo bùa sau đây.


Bùa này vẽ bằng giấy vàng chữ đỏ, giấy vẽ Bùa dài đúng bằng cành khế, trước tiên cầu Tổ, sau đó vẽ bùa, rồi quấn chung quanh cành khế, sau đó để thờ trên ban thờ Tổ, luyện tập trong 100 ngày, ngày nào cũng cầu Tổ, khoán bùa vào cành khế,( Khoán Bùa chứ không phải vẽ ) vừa khoán Bùa vừa đọc kinh cầu Tổ, xong liền tưởng tổ thổi mạnh vào chỗ vừa Khoán, nhất định không được dùng dao trong khi chặt cành dóc vỏ, khi luyện thành chỉ đánh lướt 1 cái là đối phương té nhào.Chớ nên đánh thẳng vào người sẽ gây nên sự nguy hiểm khó lường.

 Các Chữ Bùa Xin Sức Mạnh Hàng Đêm.

Các chữ Buà họa đốt uống để vô sức mạnh câu chú khi vẽ và khoán Bùa như sau :

San Sá Cam Ên Chênh Bên Canh Sanh, Ề Ế Bi Mal Xa Buôc.

Bùa trừ trộm .

Nếu như trong nhà ta bị trộm vào nhà lấy mất đồ và để lại dấu chân thì chớ có để mất dấu chân đó mà nên giữ kĩ lại, sau đó khoán chữ Bùa này lên chỗ dấu chân của nó rồi dùng 5 cái đinh đóng lên, sau đó lấy cái thúng úp lên chỗ dấu chân đó, 3 ngày sau tên trộm bàn chân sẽ bị sưng vù lên, nếu như nó ở cạnh nhà của mình thì nhìn thấy chân nó xưng lên là biết.

Khi đóng đinh vẽ bùa niệm chú sau.

Trầm Mây Mê Xem Mặt Bi Sô Hấp

Trục Người Về.

Nếu như có người nào bỏ đi không quá 3 ngày thì dùng Bùa chú sau để trục về, trước tiên lấy giấy vàng viết lá Bùa này.

Chép tên họ người cần trục về vào trong lá Bùa. Lấy 1 cái hột gà sống chôn xuống dưới đất, để lá bùa lên trên hột gà, vỗ tay 7 cái 

( Nam ) Vỗ 9 cái ( Nữ ) kêu tên họ bảo là về gấp. Hoặc để cái Bùa này trong gối người đó, vỗ 7 cái ( Nam ) 9 cái ( Nữ ) kêu tên họ bảo họ về gấp. 


Chú : Ề Hế Nha Ăn Sên Mặt Mặt .

Phép Yêu Thương.

Phép này dành cho những người có vợ hoặc chồng bất hòa ý kiến hoặc là đôi tình yêu nào hay giận hờn nhau mà đâm ra xa cách, phù phép này có tính thông cảm với nhau và sẽ yêu thương nhau hơn, tuy nhiên phải có thực tế là 2 người yêu nhau như vì 1 lý do nhỏ nào đó mà xa cách còn Bùa này không thể giúp cho tình cảm từ 1 phía mà có thể kết hợp được.

( Tình yêu đơn phương )

Cách Làm 

Lấy giấy vàng viết tên tuổi của ta và người ấy vào giấy rồi sau đó, sau đó lấy son đỏ hoặc mực đỏ ( tốt nhất là mài son đỏ, chu sa ) vẽ chữ Bùa số 1 chồng lên tên tuổi đó ( khi vẽ nín thở, vẽ càng ít nét càng tốt ) tập trung thần khí lên đó, sau đó thắp lấy 12 cây nhang đứng trước ban thờ phật họa lại bóng lá phù đó 3 lần, mỗi lần họa hoặc khoán bùa đều phải đọc chú sau :

Thiên linh linh, địa linh linh, cầu phật tổ, phật thầy, chư vị binh gia của đức Thiên Thủ Thiên Nhãn, xin gia hộ cho cặp ( Vợ Chồng ) ( Đôi bạn trẻ ) tên .........tuổi...........địa chỉ.......được đoàn tụ cho ôn hòa, án thần phù, tuc ba la, tuc ba la, tuc đắc sắc.

Niệm xong, khoán bóng bùa xong thì lập tức hít sâu 1 hơi rồi thổi lên lá phù, khoán bóng 3 lần thì thổi lên 3 lần.

Lưu Ý : Trong Huyền Môn có quy tắc khi niệm chú hành pháp chớ nên ăn các thứ Hành, Tỏi, Ngò , Khế và các thứ kiêng cữ khác, nếu không hơi thở ô uế thần chú không linh, Thánh Thần xa lánh.

Sau khi làm xong liền gấp lá bùa đó làm 4 lần, để dưới lư hương ban thờ Phật, mỗi ngày 4 lần, Sáng, Trưa, Chiều, Tối, thắp nhang vái bài chú trên 3 lần, riêng khóa tối khoảng 6,7 giờ thắp 3 cây nhang và 1 đĩa gạo muối, 3 li nước sạch, ra bàn thờ thiên vái bài chú ấy 3 lần, rồi rải gạo ra 4 hướng thực hiện liên tục trong 1 tuần sẽ có kết quả.

*** Theo thầy TPL có dặn các phép đều phải có sự tin tưởng tuyệt đối mới linh diệu, nếu làm thử làm chơi thì e sẽ không thành, trong Huyền Môn quan trọng nhất là sự tin tưởng.

Trường hợp xấu khi sử dụng Bùa số 1 nếu trong 1 tuần đầu làm phép mà vẫn không có kết quả tốt, thì ta nên vái xin làm tiếp trong 3 hôm nữa, sau 3 hôm mà vẫn không được nữa thì ta nên vái xin rồi đem lá Bùa đó đi đốt vì Duyên Nợ chỉ có vậy, cưỡng cầu e rằng không tốt cho cả 2 bên.

Dưới Đây Là Hình Thức Bùa .


2 lá Bùa “ Nam và Nữ ” ở trên dùng trong trường hợp khi 2 người cãi nhau, sau khi đã làm như ở trên, muốn đến gặp người Nam hoặc Nữ để nói chuyện hòa giải.

Cách Làm 

Người làm phép là Nam cần giảng hòa với Nữ thì ta vẽ cái “ Bùa Nam ” vẽ và họa bóng, đọc chú Bùa 7 lần, thổi bùa 7 lần, kêu tên người Nữ, sau đó để Bùa trong túi áo, và đi đến chỗ hẹn gặp để nói chuyện hòa giải.

Người làm phép là Nữ cần giảng hòa với Nam thì ta vẽ cái “ Bùa Nữ ” vẽ và họa bóng, đọc chú Bùa 9 lần, thổi bùa 9 lần, kêu tên người Nam, sau đó để Bùa trong túi áo, và đi đến chỗ hẹn gặp để nói chuyện hòa giải.

Bài chú cũng y hệt như Bùa Số 1.Riêng 2 đạo Bùa Nam và Nữ phải nín hơi vẽ 1 nét là phải xong, khi vẽ niệm chú, khi họa cũng vậy luôn.

Một số nghi quỹ chung khi tác pháp.

1/Pháp danh hội .  

Nam mô Tây phương Phật tổ thích ca như lai, Bồ đề tổ sư , 36 vị lục tổ lục cụ, Chuẩn đề bồ tát, Quan âm , Già lam quan đế , 9 phương Trời 10 phương Phật , tả quan Châu hửu quan Bình , đấu chiến thắng Phật , bạch hổ sơn động .

Nam mô Ngọc hoàng Thượng đế , chư vị Phật tổ , Linh sơn Thánh mẩu , Cửu thiên huyền nử , Nguyên nhung chúa tướng ,cửu vị Tiên nuơng, 3 ông Quốc vương đại thần , vong hồn sư ông sống cứu thế trợ dân , vảng về chầu Phật tổ cảm ứng chứng minh cho đệ tử ...(xưng tên họ tuổi mình ra) hội cầu tổ ........(chửa bịnh , xuất quyền, luyện phép v.v...đọc 3 lần như trên )

ề hế no thăn ngăn

xá xây cà ra mây chư vị nhập xác cho đệ tử .

Còn một phiên bản khác như sau : 

Nam mô con nguyện ơn trên Cha Trời mẹ Đất , Dưới có Phật Tổ, Phật Thày, Phật bà, Phật mẹ. 9 phương Trời, 10 phương Phật , con nguyện trên 36 Thánh , dưới 72 hiền Thần, Thần hoàng lục bộ đài quan , Thần hoàng bổn cảnh, đêm 5 du Thánh , ngày có 6 khắc có 6 Thánh tuần giảng Đông, Tây, Nam, Bắc, con nguyện vong hồn sư ống sống cứu Thế , trợ dân , xin ông giáng về chầu Phật Tổ , hộ độ cho đệ tử ( tên...tuổi...) cứu dân , độ thế.

2/ Xin luyện phép tắc.  

Sắc lệnh Thiên hoàng, Địa hòang, Nhơn hoàng-án Thiên linh linh-Địa linh linh-kim mộc thuỷ hoả thổ linh linh-Phật linh-Tiên linh-Thánh linh-Thần linh-Phù linh-Pháp linh-chơn linh-tâm linh-đức trọng quỷ thần kinh-khẩu xuất niệm thần chú-thọ lảnh sắc Trời-cấp cấp như luật lịnh-sắc sắc lịnh-Nam mô a di đà Phật (3 lần ) . Xin ông Giảng về chầu Phật tổ hộ độ đệ tử tên ... tuổi ...làm gì ...

3/ Kinh xin luyện phép .

Nam mô các chư Tổ chánh-Nam mô 36 chư Tổ trang-Nam mô các chư vị Thánh tổ về giúp đệ tử luyện phép-Nam mô adi đà Phật.    

4/ Cầu 36 vị trang Tổ chứng: 

 -1-bili  2-núsê  -3-no tho ngan  -4-tế sa  -5bề mắc  -6-săn khê  -7-da tô  -8-a sa thá  -9-a quê săn  -10-bạch hổ  -11-lục cham  -12-lục chi  -13-lục nha rây  -14-lục cà chui  -15-a sà lam  -16-ngủ hổ  -17-nha thô  -18-nha bênh  -19-ba lưu  -20-ná ba nặc  -21-but no má  -22-no nặc hăn  -23-bi sa tha  -24-tăc đà bà  -25-lưu quan chơn  -26-cám rừng  -27-thần hưu thánh  -28-thần hoàng  -29- a chàm  -30-bửu da đà bửu  -31-buôl thá  -32-á sa ngăn  -33-ná cà xa dá  -34-nha rây  -35-bí sa tha  -36-bi nha rây.  

5/ Cầu chứng luyện mau thành:

Trời trên,Trời dưới,Phật tổ,Phật thầy, mẹ Quan thế âm ,5 sư ,6 tổ,lục Tổ-lục Mun-lục Xiêm hiệp-lục Lèo-ông 5, ông 6, ông 7-Trời Phật Thánh Thần-ông Trạng mình-cho con luyện phép siêu xuất giúp đời-xin thỉnh ông ca sa-ông mel ha bal ta-ông a sa ca li. 

6/ Xin Phật tổ phép chứng :

-Nam mô cam mô ranh-buôl thô a ra hăn – nec mec ă ú. 

 Nhập môn luyện câu chú Phật nầy 7 đêm liên tục : 

sôc rô mit thô –et thăng ăc crê-nam mô bửu ni đà dá –đa dạ dà ta.

(Từ nay không có tà Thần nào xên vô xác hành giả ) .

Tất cả bài cơ bản như đả nêu trên xong ,sau đó niệm kinh Đại bi tâm đà la ni hay luyện phép nào theo ý hành giả (bất kì phép của Lổ bang hay Xiêm Miên Lèo Lục Ấn Chà Hồi đều được)  

Khi ngưng luyện hành giả vuốt mặt 3 lần nói :

-ta săc …và cúng 3 chung nước mới , đọc thần chú :-put đằng put sế ní-đà nằng put sế ní-tằng giằng put sế ní-á hàng quan đà mí tăc đà bà .

(mai ngày thay nước thì uống 3 chung nước cũ,không được đổ bỏ)  .

Người luyện phép Trà Kha thường hay triệu thỉnh Đại mãng xà vương - Ma hô la ga đê va .

Hội phép Chà Kha-Tam sao thất bổn.   

Sau đây là các phù lục tam sao thất bổn từ phái Chà Kha:  

 Ba chữ phù đầu tiên : Trị đau nhức - Trị đau cuống họng - Họa vào trứng gà lăn mở ngãi. 





Sư Phụ dạy rằng : Môn này phãi có Kinh Tam Giáo Trấn Môn rồi Hội Tỗ , hội Phép như  đã trình bày , sau đó Chú Triệu Binh đễ sai khiễn và sau cùng là Chú cầu nguyện cho mọi việc thành tựu (Dù làm cho mình hay cho người cũng được) . 

Xin theo dõi tiếp BÀI 33. DIENBATN.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét