Chủ Nhật, 8 tháng 5, 2016

KHẢO SÁT MỘT SỐ NGÔI MỘ CỦA TIỀN NHÂN ĐỂ LẠI . BÀI 13.

KHẢO SÁT MỘT SỐ NGÔI MỘ CỦA TIỀN NHÂN ĐỂ LẠI . BÀI 13.

Sau rất nhiều chuyến điền dã khảo sát Phong thủy âm trạch , dienbatn còn giữ được một số tư liệu về những ngôi mộ cổ do tiền nhân đặt từ xưa . Nay đăng lại trong Blog này làm tư liệu và mong rằng những Thày Địa lý của Việt Nam hiện nay nghiên cứu và hy vọng sẽ rút ra được những điều bổ ích cho mình , ngõ hầu có thể giúp cho những thân chủ của mình một cuộc sống an vui , hạnh phúc.
Sách có câu :"Tiên tu nhân lập âm chất,nhi hậu tầm Long ". 
Người người đều muốn có được một Địa trạch tốt tươi,nhằm thăng hoa cuộc sống vật chất đầy đủ,công danh hiển hách,vợ đẹp con ngoan,Gia đình hạnh phúc.Sách THÔI QUAN THIÊN viết :"Trong nhà có người đức hạnh cao thượng thì đất đá trên núi gần đó nhất định có Linh khí ".Qua câu nói trên tức là con người làm chủ Linh khí vạn vật do phần Tâm khí của chính mình.Các Phong Thủy Sư không hiểu điều này thì dủ có Trích Huyệt Tầm Long được Bảo địa cũng chẳng linh nghiệm. 
Những việc Tầm Long Địa Huyệt còn phải hội thêm phần cảm ứng tức là Thiên Đạo (Đạo Trời );sự ứng nghiệm của việc hành thiện lập âm chất,tạo nhân quả tốt.Tục ngữ có câu :"Âm địa tốt không bằng Tâm địa tốt ".Do vậy,tìm kiếm chọn lọc được Địa mạch Huyệt vị,Phong Thủy Sư phải tích đức hành thiện làm căn bản.Nếu kẻ nào có phẩm chất cao thượng,thì ắt Thiên cơ sẽ ứng,Địa cơ theo đó mà tăng thêm sự tốt lành cho con cháu đời sau hưởng Phúc.Bởi Tâm địa thiện lương thì tương ứng với Địa mạch cát lợi ,vận Trời ứng cho,chứ chẳng phải chủ quan tâm về hình thức mà quên đi nội dung,cứ tưởng rằng tầm được Long huyệt rồi,con cháu đời sau sẽ được hưởng Phúc,cái gốc chúng ta chẳng lo mà lại đi lo cái ngọn,rõ là ta chẳng biết gì cả.Nếu như các Phong Thủy Sư họ tài giỏi như thế thì ắt họ phải giành những huyệt Đế Vương,Công Hầu,Khanh tướng cho con cháu họ,chứ dại gì mà họ chỉ cho ai ? 
Quách Phác nói :"Cát hung cùng cảm ứng lẫn nhau,họa phúc cũng tự nhiên theo Tâm khí chiêu cảm mà đến ". 
Khi táng di hài Tổ tiên,chắc người ta phải chọn Địa huyệt thật tốt mà an táng,song song với việc trên ,người tại tiền phải nỗ lực tu dưỡng thân,tâm cầu lấy gốc rễ của Đạo.Nếu chỉ chú trọng quan sát hình thể Địa huyệt,sẽ cho kết quả trái ngược,làm tổn hại đến con cháu đời sau. 
Nếu như có Nhân,tất phải có Quả;nhưng Nhân -Quả thiện ác tùy vào Tâm khi chiêu lấy họa phúc.Cũng như ngày xưa có người chết được Thiên táng hay Địa táng một cách ngẫu nhiên,con cháu sau này phát Đế Vương,Công hầu.
Triệu Quang viết cuốn :"PHONG THỦY TUYỂN TRẠCH TỰ ",có nói rằng :"Vô phước cho ai không có nhân duyên mà được Huyệt tốt ".Dẫu cái tốt,xấu của Phong thủy Huyệt mộ ảnh hưởng đến cát hung,nhưng Âm đức của con người có thể cải biến được Vận -Mạng.Đến như các bậc Tiền bối Phong thủy như Cao Biền,Quách Phác tài giỏi kinh Thiên động Địa ,nhưng khi gặp Huyệt Đế Vương cũng không dám dành cho mình,bời biết đạt Địa lợi,nhưng Thiên thời và Nhân hội còn khuyết,không dám nghỉ bàn.Tóm lại việc "TIÊN TÍCH ĐỨC,NHI HẬU TẦM LONG " của người xưa dạy quả không sai. 

10 / KHẢO SÁT LĂNG MỘ VÀ TỪ ĐƯỜNG NGÔ THÌ SĨ - NGÔ THÌ NHẬM - LÀNG TÓ.


1.LÀNG TÓ – TẢ THANH OAI.

Làng Tả Thanh Oai (làng Tó hay Tó Tả) thuộc xã Tả Thanh Oai huyện Thanh Trì được cả nước biết đến là làng khoa bảng với 12 người đỗ đại khoa, gồm 4 Hoàng giáp và 8 Tiến sĩ, có họ Ngô với dòng Ngô gia văn phái và các danh nhân Ngô Thì Sĩ, Ngô Thì Nhậm đã đi vào lịch sử đất nước. Ngoài ra còn có 27 hương cống thời Lê, 10 cử nhân thời Nguyễn .
Những người đỗ đại khoa thuộc 4 họ: Nguyễn Khai Khoa, Ngô Vi, Ngô Thì và Nguyễn Thế. Họ Nguyễn k Khai Khoa có 3 tiến sĩ là Nguyễn Chỉ (đỗ năm 1453), Nguyễn Khánh Dung (1478). Nguyễn Tông Trình (1754). Trước đây, đầu dịp hội làng (ngày 14 tháng giêng), quan viên trong làng phải ra lễ ở mộ tổ và ở nhà thờ họ này.
Họ Ngô Thì (Ngô Thời) có 6 tiến sĩ là: Ngô Tuấn Dị (đỗ năm 1688), Ngô Đình Thạc (1700), Ngô Đình Chất (em Đình Thạc, 1721), Ngô Thì Sĩ (Hoàng giáp, 1766),Ngô Thì Nhậm (1775) và Ngô Điền (Hoàng giáp, 1841).
Họ Ngô Vi là dòng họ lập ấp đầu tiên, có 2 người đỗ là Ngô Vi Thực (Hoàng giáp, 1691) và Ngô Vi Nho (1694).
Những người đỗ đại khoa của làng Tó có Ngô Đình Thạc làm Tham tụng (Tể tướng), Ngô Đình Chất, Ngô Thì Nhậm làm Thượng thư, 2 người phụng mệnh đi sứ là Ngô Đình Thạc, Ngô Thì Nhậm (Chánh sứ sang nhà Thanh, có nhiều đóng góp cho việc ngoại giao của triều Tây Sơn). Ngô Thì Sĩ có nhiều công lao trong việc giữ yên và phát triển vùng biên giới Lạng Sơn. Ngô Đình Thạc là Trấn thủ Lạng Sơn, khi thành bị quân phỉ vây, ông chịu chết chứ không đầu hàng.
Đóng góp lớn nhất của các nhà khoa bảng làng Tó là về văn học, giáo dục. Hai cha con Ngô Thì Sĩ - Ngô Thì Nhậm là những danh nhân kiệt xuất, học vấn sâu rộng, làm rạng rỡ cho tông phái nhà Nho, vừa là quan văn, vừa là tướng, vừa là nhà sử học, nhà thơ, để lại nhiều tác phẩm có giá trị. Họ Ngô còn nổi tiếng với dòng Ngô gia văn phái, với thiên tiểu thuyết Hoàng Lê nhất thống chí có giá trị lớn về tư liệu lịch sử.
Để có sự thành đạt về khoa bảng, làng Tả Thanh Oai chế độ khuyến học thoả đáng. Làng dành 40 mẫu ruộng để làm học điền. Những người đỗ đạt được trọng vọng. Trong tâm thức của người làng, thế đất của làng phát đạt về mặt học hành nên có ý thức với việc học. Cuốn Lư sử điển yếu điều lệ (soạn năm 1791), viết:"Làng Tả Thanh Oai đất do sông Tô dẫn mạch, miếu do sông Nhuệ bồi cơ, danh đăng khoa giáp, thế phiết thi thư, quý mà không phú, phần nhiều là sĩ dân sính về đường học, coi là việc hàng đầu...".
Làng Tả Thanh Oai trước đây có 2 đình là đình Tổ Thị và đình Hoa Xá (nay chỉ còn đình Hoa Xá), thờ Lê Hoàn và Bà Chúa Hến – cô gái làng Tó được Lê Hoàn lấy làm phi trong dịp dẫn đại quân theo đường sông ra Bắc để tiêu diệt quân xâm lược Tống, ghé thăm làng (năm 981). Hội làng tổ chức trong 3 ngày: 13, 14, 15 tháng Giêng, có rước cỗ thờ và rước Giầu vàng từ đình Hoa Xá đến Minh Ngự Lâu (nhà Bà Chúa Hến) để kỉ niệm cuộc gặp gỡ tình duyên giữa Bà và Vua Lê Đại Hành. Ngoài ra còn các nghi lễ hát xướng ca ngợi công đức thành hoàng, cảnh đẹp, có đọc "Mục lục" đề cao truyền thống văn vật của làng, cầu chúc dân làng an khang thịnh vượng. Làng còn giữ được 4 chùa và đặc biệt là 4 nhà thờ của các dòng họ khoa bảng, nhà thờ các danh nhân Ngô Thì Sĩ, Ngô Thì Nhậm- các di tích phản ánh truyền thống hiếu học và khoa bảng của làng .

2.CÁC DI TÍCH LỊCH SỬ VĂN HOÁ

1 - ĐÌNH HOA XÁ , MINH NGỰ LÂU.
Hai di tích nằm gần bên nhau, phía tả sông Nhuệ, thuộc làng Tả Thanh Oai xã Tả Thanh Oai huyện Thanh Trì. Mảnh đất này được Dư địa chí của Nguyễn Trời, coi “là 1 trong 4 kinh trấn phên dậu phía nam của kinh đô Thăng Long – Hà Nội ta”.
Tả-Hữu Thanh Oai là một địa phương có truyền thống văn hoá lâu đời. Nhiều truyền thuyết, ca dao, tục ngữ...  được lưu truyền mãi đến ngày nay - mà truyền thuyết về cô gái Tó (hay bà Chúa Hến) được kể lại từ đời này qua đời khác, và cũng được in sâu vào tâm khảm của nhân dân địa phương như “chuyện cổ Tấm Cám” khi xưa. Nơi này, chính là nơi Lê Hoàn dừng binh để lấy quân lương, là quê hương - nơi sinh trưởng của bà chúa Tó - một người con gái đã vận động nhân dân vùng Hữu Thanh Oai đóng thuyền, vùng Tả Thanh Oai góp lương thực cho quân Lê Hoàn đánh trận - còn chính bản thân mình lại làm ra loại bánh dùng làm lương khô cho quân lính - đó chính là loại bánh chè lam - đặc sản trong ngày hội làng... Người được vua phong thứ phi.
Đình Hoa Xá là một ngôi đình cổ to đẹp. Đình cách cầu Tó không xa, ở kề bờ tả sông Nhuệ. Kiến trúc đình mang dáng vóc cung đình. Tương truyền đình được xây từ lâu đời, trước mặt là hồ bán nguyệt, giáp đường trục chạy theo sông Nhuệ, cổng được gọi là Ngọ Môn. Đình thuộc thôn Tả Thanh Oai, xã Tả Thanh Oai, huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội có quy mô khá lớn, bao gồm các bộ phận kiến trúc: giếng đình - sân - nghi môn ngoại - sân - nghi môn nội - sân - hai dãy tảo mạc - đình chính và khu vườn rộng. Phía sau nghi môn nội là đôi ngựa đá tạc đủ yên cương, tác phẩm thời Tây Sơn do Tiến sĩ Thượng thư Bộ binh Ngô Thì Nhậm, người làng tiến cúng vào đình từ năm 1798. Đình Hoa Xá, được kiến trúc 5 gian nối liền với hậu cung, chạm trổ rất tinh vi. Mái đình uốn cong, trên nóc có rồng chầu mặt nguyệt. Hai bậc thềm có đôi sư tử ôm quả cầu. Hiện còn giữ được các sắc phong của các triều đình, thần phả, ngọc phả, lư sử, đồ thờ tự, nhiều hoành phi câu đối.
Đình thờ vua sáng lập nhà Tiền Lê, là vua Lê Hoàn tức Lê Đại Hành và bà phi người làng Tó, được dân tôn danh là bà Chúa Hến hay bà Chúa Trai.
Theo cuốn “Hoa Xá Lê đế- phi miếu phả lục”, do quan Hàn lâm Đông các Đại học sĩ Nguyễn Bính soạn vào năm Hồng Phúc nguyên niên (1572) và quan Quản giám bách thần chi điện, Hùng lĩnh thiếu khanh Nguyễn Hiền sao lại vào năm Vĩnh Hựu (1740) thì:
“Một hôm, Vua qua ấp Hoa Xá ở Tả Thanh Oai, tạm dừng quân để lấy binh lương, giờ Ngọ, nhà vua trông thấy một người con gái cùng gánh gạo trong đám dân công. Cô đội nón lá, mặc áo vải thô, mắt sáng, mày thanh, mặt xinh như ngọc, miệng cười tươi như hoa. Trong phút nghỉ ngơi, cô xuống sông vốc nước rửa tay, tóc búi tó. Trên trời có đám mây năm sắc che thân. Nhà vua cho rằng người con gái đó không phải bình thường. Rồi đem lòng thầm ước nhưng mặt ngoài còn e.
Ít lâu sau, thiên hạ thái bình. Quân sĩ reo ca khải hoàn rước Vua về kinh đô Hoa Lư. Nhà Vua mở tiệc thưởng người có công. Các đình thần tôn tặng vua Lê mỹ hiệu: “Minh Càn Ứng Vận Thần Vũ Thăng Binh, Trí Nhân, Quảng Hiếu Đại Hành Hoàng Đế”. Lê Hoàn chọn ngày ngự giá Bắc tuần, thăm hỏi dân làng. Ngày về tại ấp Hoa Xá: bên tả giang, mời già trẻ trong ấp cùng đến dự yến. Rồi cho vời nàng Đô Hồ, ban quần gấm áo ngự, phong làm quý phi. Sai bà tắm gội, thay áo mũ, cùng sánh xa giá về kinh.
Lúc đó bà con, họ hàng và dân ấp đều vui mừng lấy làm vinh hiển. Vua Lê lại cấp 185 mẫu ruộng đất, tiền của để bà đóng thuyền thả sông và lập cung điện ở vườn cũ, gọi là “Đô Hồ phi cung”. Khi vua băng hà “dân ấp Hoa Xá có lập đền thờ để tưởng nhớ ơn đức giúp dân, ghi tạc công lao phá Tống của ngài”.
Lúc thánh phi mất, dân làng hàng năm cúng giỗ. Nơi ở cũ của bà dựng lầu Minh Ngự. Nhà cung phi sửa thành miếu điện. Từ đó, miếu - đình Hoa Xá là nơi phối thờ hai vị và hồn thơm hiển ứng, đời đời linh thiêng giúp cho dân làng”.
Nhớ ơn bà, nhân dân tôn thờ bà cùng với vua Lê Đại Hành làm Thành Hoàng làng và thường gọi bà với cái tên dân dã là bà Chúa Hến hay bà Chúa Trai.
Minh Ngự Lầu xưa được gọi là miếu bà Chúa Hến, tương truyền là ngôi nhà mà bà Chúa Hến đã sinh ra. Sau khi bà trở thành Đô Hồ phi nhân, dân làng Tó sửa sang thành Minh Ngự Lâu. Di tích có quy mô không lớn, nhưng liên quan chặt chẽ đến đình Hoa Xá. “xưa kia, khi ngày rằm tháng Giêng làm lễ hội làng, thì từ tối 14, tượng và ngai của ông bà được rước về Minh Ngự Lầu. Sau khi tắm rửa, ở lại một đêm đến sáng hôm rằm thì rước trở về đình...”. Sau đó là nghi thức Tế: Thành Hoàng, dâng hương, chia lộc cho dân làng.
Trong các ngày hội, ngoài nhiều trò chơi còn có nghi lễ hát xướng ca nhằm ca ngợi công đức thành hoàng, ca ngợi cảnh đẹp, truyền thống hiếu học của làng, cầu chúc dân làng an khang thịnh vượng.
Đình Hoa Xá và Minh Ngự Lầu được làm theo lối kiến trúc - nghệ thuật truyền thống, hiện vẫn còn một số mảng chạm khắc mang phong cách nghệ thuật thế kỷ 18 và lưu giữ được rất nhiều hiện vật mang giá trị cổ vật quý hiếm: 16 đạo sắc phong thần của các triều đại phong kiến Lê - Tây Sơn và Nguyễn phong tặng cho Đô Hồ phi nhân là “Nhân uyển chi thần”, phong cho Lê Đại Hành là “hoàng đế –thượng đẳng thần”; rất nhiều- câu đối, bài thơ ca ngợi công đức của hai vị Thành Hoàng, đặc biệt còn bút tích để lại của Ngô Thì Nhậm trong bài cung tiến ngựa đá” ở cuối thế kỷ 18, là những tấm bia đá, những bộ kiệu đòn, kiệu Bát Cống thế kỷ 18 và tượng Đô Hồ phi nhân.
Tượng ghi lại hình tượng bà Đô Hồ thể hiện người con gái trẻ, nền nã, đoan trang, nhưng lại có chất giảm dị của cô thôn nữ, dáng đứng thẳng, tay phải cầm bơi chèo, tay trái cầm một túm hoa quả thể hiện một chiến công trèo thuyền tải lương và công tác hậu cần của Bà khi xưa. (Đó là dân làng tỏ lòng biết ơn công lao của vua Lê Đại Hành, bà Đô Hồ Phi Nhân. Lãnh đạo xã và thôn Tả Thanh Oai mời ông Vũ Tiến nhà nghệ nhân điêu khắc tạc tượng Bà bằng gỗ cây Mít ở trước cửa chùa Phe. Khánh thành tượng của Bà được trịnh trọng đặt ở một bệ trong hậu cung đúng ngày 10-10-1981).
Dưới thời Quân chủ, đình làng là nơi công quyền, rất nghiên minh, phụ nữ ít khi được ra đình, còn khi việc làng: tế, lễ, khao vọng, đón quan trên, thưởng phạt dân chúng thì ở đình ngồi theo thứ bậc lệ làng.
Tại Minh Ngự Lầu, Bác Hồ đã về thăm Tả Thanh Oai và nói chuyện, căn dặn dân làng phải chăm lo đồng ruộng và gìn giữ những di tích lịch sử quý giá của làng xã.
Đình Hoa Xá (được trùng tu lớn gần đây nhất vào năm Quý Mùi niên hiệu Bảo Đại – 1943).
Gần đây hàng năm ban khánh tiết các cụ quản lý đình và nhân dân vẫn liên tục trùng tu Đình Hoa Xá  và Minh Ngự Lâu.
Đình Hoa Xá và Minh Ngự Lầu được Bộ Văn hoá - Thông tin (nay là Bộ Văn hoá - Thể thao và Du lịch) xếp hạng tại Quyết định số 226/QĐ-BT ngày 5/2/1994.

2 - ĐÌNH TỔ THỊ.
Đình Tổ Thị và đền thờ Chúa Bà ở ngay đầu chợ Tó, đình Tổ Thị là nơi thờ bà Ngô phu nhân, cùng chồng là ông Trần Phổ Hoá có công nuôi công chúa (con của vua Lê Đại Hành và Đô Hồ Phi Nhân) nên bà được vua phong là Thượng Ban nhũ mẫu (hay Ngô Thượng ban). Hội làng tổ chức  trong 4 ngày: 13, 14, 15, 16 tháng Giêng, Trong ngày Rằm rước sách linh đình, có rước cỗ thờ và  rước Giầu vàng từ đình Tổ Thị đến Ngự Lâu (nhà Bà Chúa Hến) để kỉ niệm cuộc gặp gỡ tình duyên giữa Bà và Vua Lê Đại Hành. Ngoài ra còn các nghi lễ hát xướng ca ngợi công đức thành hoàng, cảnh đẹp, có đọc “Mục lục” đề cao truyền thống  văn vật của làng, cầu chúc dân làng an khang thịnh vượng. Ngày 16 lễ “Giã đám” đặc biệt đám rước Giầu vàng từ đình Hoa Xá lên đình Tổ Thị đông vui vô kể. Năm 1947 giặc Pháp đã đốt phá đình Tổ Thị, dân làng không khôi phục lại đình được, mà đất đình đã bị dân sinh hoá không còn dấu tích. Hiện chỉ còn 13 đạo sắc phong cho ông bà, lưu ở đình làng Hoa Xá .

3 - KHU DI TÍCH LỊCH SỬ NHÀ THỜ NGÔ THÌ NHẬM.
Nhà thờ Ngô Thì Nhậm trước đây được gọi là đền Sùng Đức. Theo bia Sùng Đức từ ký. Có niên đại Cảnh Thịnh thứ hai (năm 1794) thì đều do thân phụ của Ngô Thì Nhậm là Văn Dụ vương (tức Ngọ Phong công Ngô Thời Sĩ) xây năm Bính Tuất đời Cảnh Hưng (1766), sau khi ông thi đậu Hoàng giáp. Trong nhà thờ còn lưu giữ được chân dung Ngô Thì Nhậm, Ngô Thì Sĩ và một số đồ dùng của Ngô Thì Nhậm.
Qua nhà thờ Ngô Thì là khu mộ Ngô Thì Sĩ và Ngô Thì Nhậm, vốn là nhà ở của Ngô Thì Nhậm, hướng Tây Nam, phía trước là cánh đồng rộng. Ngôi mộ Ngô Thì Nhậm trước đây ở đồng Hoa Cà, năm 1976 dời về đây, còn mộ của Ngô Thì Sĩ trước đây ở cánh đồng Dọc Muống, chuyển về đây.
4 - DI TÍCH LỊCH SỬ NHÀ THỜ HỌ NGUYỄN KHAI KHOA.
Nhà thờ họ Nguyễn Khai Khoa (còn gọi là Nguyễn Thừa Chính) đã có từ lâu đời. đến năm Khải Định thứ 6 Nhâm Tuất 1922, họ tái thiết nhà thờ. Toạ lạc bên bờ sông Nhuệ, trước cửa đình Hoa Xá 50 mét nhìn hướng Nam. Năm 1994 cấp giấy chứng nhân quyền sử dụng đất số D 0196781 thuộc tờ bản đồ số 6 thửa 210 diện tích 383 m2 đề chứng nhận nhà thờ họ Nguyễn. Nhà thờ chính hướng Nam. Ba gian trong thờ Tổ, ba gian ngoài nghị bàn, tế lễ, nội tự ngoại khách. Tường gạch vôi, mái gỗ lim lợp ngói. Nhà nghỉ ba gian nhỏ, hướng Tây lợp ngói. Phía trước là sân gạch, vườn hoa, bình phong, hai bên và phía sau là vườn cảnh. Tường xây bao quanh. Cổng ra Đường Tả Thanh Oai sông Nhuệ.
Nội tự nhà thờ họ Nguyễn Khai Khoa được thờ cúng lâu đời gồm khám thờ, bài vị, bát hương, đài nến, hoành phi, câu đối, cờ, lọng, biển, chiêng, trống. Mỗi năm tế Tổ 3 dịp: 14- Giêng tế Xuân; mùng 10- 8 giỗ cụ Thuỷ Tổ khảo; 13- 12 giỗ cụ Thuỷ Tổ tỷ. Ngày 14 tháng Giêng tế Tổ trùng với hội làng lễ nghi long trọng hơn cả, rất đông vui cả họ các nơi nô nức về dự lễ Tổ và hội làng.

5 - CHÙA BÙI: (Bùi Linh tự).
Số Đời trụ trì: Hiện được biết 3 đời (còn trước nữa không nắm được).
Sư cụ trụ trì: Thích Đàm Tâm, được trên 40 năm tại chùa Bùi, nay đã trên 90 tuổi. Sư Thầy Thích Bàn Thiện ở chùa được gần 20 năm.
Nguồn gốc: Xa xưa, vốn là quán Linh Tiên của người phương Bắc dựng, trải qua bao năm tháng nay đã trở thành chùa Bùi.
Vị trí nhà thờ, hình thể (quang cảnh): Chùa toạ lạc ở dưới đường tầu gần cuối làng, mảnh đất rộng trên 3000m2, gồm: nhà điện 3 gian; nhà thờ Tổ 5 gian (mới xây dựng năm 2009); nhà ngang 6 gian; nhà vong 3 gian; nhà khách 3 gian (3 nhà trên xây dựng lại những năm gần đây); Tam quan, Lầu Đức Quan Âm, sân chùa, chùa chính, gian thờ các vị sư tổ và chỗ ở cho: thầy chùa, các sư, tiểu chủ trì.
Ngày giỗ Tổ: 28/4, 10/7, 30/12 Âm lịch.

6 - CHÙA THẮM: (Linh Am tự).
Biết được trước sư Thầy Hưng, trụ trì là: Sư thầy Phượng, Sư thầy Hằng.
Truyền rằng từ thời cụ Ngô Thì Sĩ, dân làng tổ chức xây chùa thờ phật ở gần Minh Ngự Lâu, cũng với đầy đủ: Tam quan, sân chùa, chùa chính, gian thờ các vị sư tổ và chỗ ở cho: thầy chùa, các sư, tiểu chủ trì. Chùa là nơi sinh hoạt của các cụ bà quy y cửa phật. Thường là mùng 1, ngày rằm lễ phật, giải vận hạn đầu năm, sám hối tâm linh cho chúng sinh cải tà quy chính, cầu xin phúc lộc thọ, tụng kinh, cúng âm phần cho người mới khất.v.
Hiện tại chùa Thắm đang trùng tu: sửa chữa, xây dựng.

7 - ĐỀN Chúa Bà: (Giao Trì Linh Từ).
Đền nằm trong quần thể khu di tích lịch sử đình Tổ Thị, đã có cùng với ngôi Đình.
Ngôi Đền thờ Mẫu Liễu Hạnh, sau này tục truyền lại là thờ Công Chúa con của vua Lê Đại Hành và bà Đô Hồ Phi Nhân. Vì sau khi bị giặc Pháp Phá nền còn lại một số như: Tượng Mẫu, Tượng Chúa Bà và một tấm bia Hạ Mã.
Từ xưa đến nay được biết đã qua năm đời các cụ trụ trì: Cụ Đô Đen; Cụ Cả Phác; Cụ Nhiêu Hợi; Cụ Đỗ Thị Thảo và trụ trì hiện nay Cậu Nam (Nguyễn Hoàng Nam).
Gĩô Tổ từ xưa đến nay đều làm vào ngày 24 – 4 Âm lịch hàng năm.
Đền hiện nay đã được sửa sang nhiều lần và là nơi hoạt động tín ngưỡng của toàn thể nhân dân trong thôn.

8- MIẾU ÔNG.
Thờ: Dũng mãnh Tướng Quân.
Theo “Ngọc phả lục miếu thờ đức Lê Đại Hành Hoàng Đế và Thánh Phi đình Hoa Xá” của làng:
“Mời phối hưởng có vị Lê triều phò Thánh Gía, phá Tống từng lập đại công dũng mãnh Tướng Quân linh thần vị tiền. Dũng mãnh Tướng Quân có đền thờ chính ở giáp Phúc Lâm, do dân giáp thờ phụng. Nay còn một bãi cây rậm quanh chỗ thờ, tương truyền là nơi ngày xưa Dũng mãnh Tướng Quân đóng quân tại đó”.
Nay ở dưới ngõ Khánh Hội, hiện còn có quần thể Miếu Ông, giếng Miếu Ông. Dân làng từ xưa tới nay vẫn ra Miếu Ông cầu cúng xin Ngài phù hộ. Đám ma khi đưa linh cữ người quá cố đi chôn của làng qua Miếu Ông đều dừng chân và không đánh trống.

9 - VĂN CHỈ CỦA LÀNG.
Văn chỉ (Từ vũ), ở phía trên chùa Tổ Thị. Theo Lư sử điển yếu điều lệ thì Văn chỉ ở hướng Đinh rồng nhập cước (rồng chạm chân tới). Chỗ gần thì lấy Thổ tinh miếu làm án tiền; xa thì lấy Tam thai xuyên châu làm án ngự. Sông Nhuệ quanh co uốn chầu, nối với cầu Quang Liệt, bãi Rồng ôm phía sau, không biết bồi đắp từ đời nào. Văn chỉ do Binh bộ Thượng thư, Tình Phái hầu Ngô Thì Nhậm cho làm, mua nhà của quan huyện Hoài An, tu sửa lại để tế lễ. Hàng năm, tư văn hàng huyện tế tiên hiền tại đây (trước đó, tế ở Văn chỉ hàng huyện tại thôn Cầu Đơ). Đến triều Nguyễn, tư văn sáu tổng trong huyện bỏ lệ tế chung tại đây mà về tế riêng ở từng tổng. Về sau, năm 1947 giặc Pháp chiếm, đốt phá làng cả khu Văn chỉ không còn dấu tích, còn Bia “Văn Chỉ” các cụ trong làng Tả Thanh Oai phải đưa về sau đình Hoa Xá lưu giữ.
Tháng 3 năm 2011, chính quyền kết hợp với dân làng đang tiến hành xây dựng Văn chỉ, trên diện tích 200m2 ở cạnh khu Minh Ngự Lâu, để khích lệ phong trào học tập của địa phương.

10 - ĐÀN THIÊN NÔNG.
Ngày xưa nghề nông: cấy, cày ở làng phụ thuộc hoàn toàn vào thiên nhiên, mưa, nắng, úng, hạn, thiên tai, dịch hoạ thất thường, nên việc Tế Thần Nông rất là quan trọng.
Đàn Thiên nông, xưa đặt ở xứ Mả Thí, đến tiết Thượng điền, các giáp cử người ra quét dọn để tế lễ. Về sau đàn được dời đến xứ Mả Sổ, xung quanh đắp tường đất, đến tiết Thượng điền các giáp làm lễ tế thần. Tế xong, các giáp thi nấu cơm làm trò vui, lấy lứa ở cây, lấy nước ở thượng lưu sông. Ai nấu chín sớm nhất được hạng ưu.
Ngày nay, áp dụng khoa học: giống, phân, cần, nước (chủ động được tưới, tiêu) đã hạn chế được rất nhiều mất mùa, nên không còn lệ tế lễ thần ở đàn Thiên nông nữa. (Theo ttài liệu của Bác sĩ Tưởng Văn Hòa .)
3.NGÔ THÌ SĨ (吳時仕).


Ngô Thì Sĩ (chữ Hán: 吳時仕, 1726-1780), tự: Thế Lộc, hiệu: Ngọ Phong (午峰), đạo hiệu: Nhị Thanh cư sĩ ; là nhà sử học, nhà văn, nhà thơ nổi tiếng ở thế kỷ 18 tại Việt Nam; được Phan Huy Chú đánh giá là người có "học vấn sâu rộng, văn chương hùng vĩ, làm rạng rỡ cho tông phái nho gia, là một đại gia ở Nam Châu".
Tiểu sử .
Ngô Thì Sĩ sinh ngày 20 tháng 9 năm Bính Ngọ (tức 15 tháng 10 năm 1726) tại làng Tả Thanh Oai (làng Tó), huyện Thanh Oai, trấn Sơn Nam (sau thuộc tỉnh Hà Đông, và nay thuộc huyện Thanh Trì Hà Nội).
Ông sinh ra trong một dòng họ lớn ở làng, có nhiều người nổi tiếng hay chữ...
Ông nội ông là Ngô Trân, hiệu Đan Nhạc, là một người nổi tiếng về sức học uyên bác và tài văn chương, được người đương thời liệt là một trong "bảy con hổ của kinh thành Thăng Long" (Trường An thất hổ).
Ông là con trưởng Ngô Thì Ức, cũng nổi tiếng hay chữ. Năm 14 tuổi, ông Ức đỗ thứ hai kỳ thi Hương nhưng sau đó hỏng liền hai khoa thi Hội, nên không để chí vào khoa cử nữa. Khi Ngô Thì Sĩ lên 10 tuổi, thì ông Ức mất.
Từ 7 đến 11 tuổi, Ngô Thì Sĩ được ông nội rèn dạy. Sau đó, ông được cho ra Thăng Long theo học các bậc danh nho như Nghiêm Bá Đĩnh, Nhữ Đình Toản . Năm Quý Hợi (1743), Ngô Thì Sĩ thi đỗ Hương tiến (Cử nhân), nhưng bị hỏng khoa thi Hội ngay sau đó.
Năm 1752, Ngô Thì Sĩ lại đi thi Hội, nhưng bị khảo quan Trần Tố đánh hỏng (vì "nhầm"). Chúa Trịnh Doanh rất tiếc, truất chức của Trần Tố và trao cho Ngô Thì Sĩ chức Thiêm tri Công phiên thẩm ứng vụ (trước đó ông giữ một chức nhỏ trong Binh tào).
Năm 1756, nhân đỗ đầu một kỳ thi tuyển người, Ngô Thì Sĩ trở thành một thành viên trong Văn ban của phủ chúa Trịnh, được giao trách nhiệm soạn thảo giấy tờ, và làm Tùy giảng cho con chúa là Thế tử Trịnh Sâm.
Năm 1761, ông được sai làm "bạn tiếp" tiếp sứ nhà Thanh sang sắc phong và điếu tang Lê Ý Tông.
Năm 1763, ông được cử làm Cấp sự trung công khoa.
Năm 1764, ông làm Giám sát ngự sử đạo Sơn Tây, rồi Đốc đồng Thái Nguyên (1765).
Năm Bính Tuất (1766), đời Cảnh Hưng, ông thi đỗ Hoàng giáp, năm sau (1767), được thăng Đông các hiệu thư rồi đổi làm Hiến sát sứ Thanh Hoa (tức Thanh Hóa). Khi ở đây, ông khai thác núi Bàn A dựng chòi xem sóng biển và lập hội Quan lan sào, tự mình làm hội trưởng.
Năm 1769, ông được về triều; năm sau (1770), làm Tham chính Nghệ An.
Năm 1771, ông coi việc chấm thi ở trường thi Nghệ An, bị Nguyễn Văn Chu, người ở Hà Tĩnh kiện vì ăn của đút của học trò, bị án "hoàn dân thụ dịch" (nghĩa là trả về làm dân chịu sai dịch) vào năm 1772 .
Năm 1774, chúa Trịnh Sâm đi tuần phương Nam, biết ông bị oan, mới có ý cất dùng. Năm 1775, cho triệu ông vào kinh giữ chức Hiệu lý Viện Hàn lâm kiêm Hiệu chính quốc sử, sau đó thăng Thiêm đô ngự sử.
Năm 1777, ông được bổ làm Đốc trấn Lạng Sơn. Trong thời gian ở đây, sau khi ổn định được tình hình địa phương, giúp dân an cư, ông đặt doanh Lộc Mã, dựng đình Kinh lược, sửa sang động Song Tiên, khai thác động Nhị Thanh làm cho nó trở thành một thắng tích.
Ngày 29 tháng 8 năm Canh Tý (tức 22 tháng 10 năm 1780), ông mất ở nơi đó, lúc 54 tuổi.
Ngô Thì Sĩ là cha của các danh sĩ: Ngô Thì Nhậm, Ngô Thì Chí, Ngô Thì Trí, Ngô Thì Hương và là cha vợ của Phan Huy Ích.
Tác phẩm.
Sử học .
Việt sử tiêu án (Những nghi án nêu lên trong sử Việt)
Đại Việt sử ký tiền biên
Đại Việt sử ký tục biên (soạn chung)
Văn học.
Anh ngôn thi tập (Tập thơ chim vẹt học nói), quyển thượng và quyển hạ
Anh ngôn phú tập (Tập phú chim vẹt học nói)
Quan lan thi tập (Tập thơ xem sóng)
Nhị thanh động tập (Tập thơ làm ở động Nhị Thanh)
Khuê ai lục (Ghi nỗi buồn đau về chuyện phòng khuê)
Ngọ phong văn tập (Tập văn Ngọ phong), quyển nhất và quyển nhị
Hậu hiệu tần thi tập
Bảo chương hoằng mô
Sách chế khải tập
Khoa sớ tập biên
Theo Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam, ông còn có Hải Dương chí lược (hay Hải Đông chí lược).
Trích đánh giá .
Phan Huy Chú:
Tổ tiên (ông) trước mấy đời theo nghiệp Nho. Lúc trẻ ông sẵn nề nếp gia đình, càng chăm học; do văn chương mà được nổi tiếng. Trong cuộc tuyển cử để lấy người, ông được đứng đầu, rất được Nghị tổ (Trịnh Doanh) yêu và chú ý...Nhà vốn nghèo mà chí không nhụt. Ông có bài văn trách ma nghèo... Lúc tạm giữ chức Thiêm đô ngự sử, ông có điều trần 4 việc: Xin định rõ phép khảo xét (các quan), xin sửa sang luật lệ kiện tụng, xin truy tôn bậc tiên nho, xin sửa lại thể thức làm văn. Ông lại điều trần về việc binh, việc dân, chúa đều khen ngợi và nghe lời. Qua một tháng, ông được sai ra trấn Lạng Sơn. Bấy giờ hạt Lạng Sơn đói vì mất mùa, dân 7 châu phần nhiều đi nơi khác và chết đói ngoài đường. Khi ông đến, tìm cách cấp cứu. Rồi chiêu dụ dân lưu tán về khai khẩn ruộng hoang, tự mình đôn đốc việc cày bừa để khuyến khích dân biên giới. Đến vụ gặt mùa lúa tốt lắm. Do đó trộm giặc tiêu tan, trong hạt yên ổn. Khi việc tuần phòng rỗi rãi, ông lại nhởn nhơ nơi núi khe, tìm chốn thanh u, dò nơi hiểm trở, không có chỗ nào ông không đến. Ở phía Bắc trấn thành cách sông, ông mở mang động Nhị Thanh làm cảnh trí rất lạ. Khi việc quan thong thả ông thả thuyền tới động, leo lên bậc đá ngâm thơ, uống rượu; thật là hứng thú, phóng khoáng...

Trần Thị Băng Thanh:
Ngô Thì Sĩ vốn là một người hăng hái làm việc. Ông thấu được rằng quyền lợi kẻ ăn lộc nước gắn bó mật thiết với cuộc sống yên lành của "dân đen"...Ngô Thì Sĩ cũng là người đưa ra nhiều dự án, đề nghị sửa đổi về các mặt: thuế khoá khai hoang, chỉnh đốn văn thể, thay đổi chính sách, chấn chỉnh các cấp quan liêu...Ông mong muốn "vua làm hết phận vua, tôi làm hết phận tôi" để cứu vãn tình trạng bê bối của xã hội Bắc Hà đương thời, nhưng rất tiếc ở hoàn cảnh ấy, ý muốn hay tài năng một cá nhân không dễ gì xoay chuyển nổi cục diện... Là một chính khách, một quan chức, nhưng bên cạnh đó, ở Ngô Thì Sĩ còn nổi bật lên một tư chất khác, đó là một tâm hồn nghệ sĩ, một con người đa cảm. Ở ông, mọi rung động đều mãnh liệt, sâu sắc. Ông luôn nhìn thấu tâm tư con người và cảm thông cùng họ, từ những bâng khuâng vì một duyên cớ mơ hồ đến những trăn trở, day dứt về số phận, cuộc sống... Với nội dung và số lượng phong phú của hơn 2000 trang tác phẩm, Ngô Thì Sĩ đã là một tác gia lớn không chỉ của dòng họ Ngô Thì. Ông đã đóng góp nhiều tư liệu quý qua hai hộ sử Tiền biên, Tục biên đồng thời còn là một ngòi bút bình luận sử, bình luận văn chương sắc sảo, nhiều ý kiến mới và giàu chất trữ tình qua Việt sử tiêu án. Ngô Thì Sĩ sáng tác nhiều, nhưng tựu trung có thể quy vào bốn đề tài lớn: nông thôn, kẻ sĩ, quan chức, tình yêu và hạnh phúc gia đình. Bốn mảng đề tài đó trong văn học các thế kỷ trước cũng đã được đề cập đến, nhưng đặc sắc riêng của Ngô Thì Sĩ là cách lý giải, nhìn nhận.
Tài năng Ngô Thì Sĩ được tạo thành từ nhiều nguồn...tuy nhiên, điều kiện quan trọng nhất để Ngô Thì Sĩ có được sự nghiệp trước tác phong phú là tinh thần lao động nghiêm túc, say mê và tính năng động, sáng tạo trong học tập. Tất cả những điều đó cũng xuất phát từ một tấm lòng yêu dân, yêu đất nước, một tấm lòng đôn hậu, giàu tinh thần nhân ái. Ngày nay xem xét toàn bộ cuộc đời hoạt động và trước tác của Ngô Thì Sĩ, xem xét những đóng góp của ông trên các lĩnh vực chính sự và trước tác, có thể khẳng định ông là một nhân cách đẹp, một nhà văn, một nhà sử học có nhiều cống hiến, lãnh tụ của Ngô gia văn phái và là một trong không nhiều nhân vật lớn, tiên phong của thế kỷ 18.

Nguyễn Lộc:
Trong những công trình trước tác của Ngô Thì Sĩ, đáng chú ý hơn cả là quyển Việt sử tiêu án. Ông soạn sách này nhằm mục đích sửa chữa lại những sai lầm trong sử cũ. Trong sách, nhiều ý kiến của ông khá xác đáng, thể hiện tinh thần dân tộc sâu sắc, được các nhà sử học đời sau, trong đó có Phan Huy Chú trích dẫn lại. Về sáng tác thơ văn, hầu hết viết bằng thể thơ Đường luật, thỉnh thoảng mới có bài theo thể cổ phong, thể phú...Nội dung phần lớn viết về những phong cảnh ở những nơi ông có dịp đặt chân tới, không có gì thật đặc sắc. Ngoài đề tài thiên nhiên, ông dành riêng tập Khuê ai lục để viết về nỗi đau khổ của ông trước cái chết của người vợ thứ. Lời thơ thống thiết, xúc động. Về văn, ông có bài Cách tệ sách (Sách trừ tệ nạn) cũng đáng chú ý. Trong bài này, ông trình bày rất rõ tình cảnh khổ cực, đói nghèo, lưu tán của nhân dân lúc bấy giờ do nhiều nguyên nhân gây ra như chiến tranh, nạn hà hiếp cướp bóc của cường hào, thiên tai mất mùa và đề nghị phương hướng giải quyết tình trạng ấy.

Tạ Ngọc Liễn:
Qua hàng loạt các bài biểu, bài khải...chứng tỏ ông là nhà chính trị có tầm nhìn xa rộng, có tâm huyết và có nhiều ý tưởng cải cách nền chính sự đương thời với mong muốn làm cho xã hội ổn định, nhân dân được sống, lao động yên vui. Trên lĩnh vực sử học, ông là một sử gia nổi tiếng, vì có tinh thần làm việc cẩn trọng, có ngòi bút sinh động, có nhiều phát hiện mới và có suy nghĩ riêng. Trong Ngô gia văn phái, có nhiều người viết sử tài ba, và ông chính là người mở đầu cho truyền thống ấy của dòng họ Ngô Thì. Về thơ cũng như văn xuôi, dù bàn chuyện chính sự hay bộc lộ tình cảm trữ tình, ngòi bút của ông thường khoáng đạt, đa dạng và hướng vào đời sống thực, ít dùng lối ước lệ, tượng trưng…Riêng ở văn, tính lạc quan, tính hài hước cũng là một phong cách văn chương của Ngô Thì Sĩ. Về quan niệm sáng tác, ông cho rằng văn chương phải thiết thực, hữu dụng, mới mẻ và có cốt cách riêng. Ông đả phá lối thơ chuộng hình thức, phù phiếm...
Đúc kết lại, Ngô Thì Sĩ là một tác giả có nhiều bài thơ trữ tình, ngâm vịnh cảnh thiên nhiên, ca ngợi lòng ưu ái nhân hậu. Ông còn là người đi trước trong loại văn hồi ức, tự truyện, đã đưa lại cho văn học trung đại Việt Nam một nét trữ tình mới. Ông cũng có nhiều trang điều trần, ghi chép sắc sảo, in đậm phong cách nghị luận và ý thức chấn chỉnh, đổi mới đất nước.

Nghi vấn .
Theo Trần Văn Giáp và Trần Thị Băng Thanh, thì Ngô Thì Sĩ mất sau lần đi công cán trên ải Nam Quan trở về vào nằm nghỉ trong động Nhị Thanh, có lẽ là do bị cảm lạnh . Nhưng có sách lại cho rằng Ngô Thì Sĩ đã uống thuốc độc chết.
Sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục chép:
Trước khi Ngô (Thì) Nhậm tố cáo cơ mưu của Trịnh Khải, có đem bàn với cha là Ngô (Thì) Sĩ. Ngô (Thì) Sĩ cố sức ngăn...Đến khi hay tin Ngô (Thì) Nhậm đã tố cáo, Ngô (Thì) Sĩ buồn bực mà uống thuốc độc tự tử. Ngô (Thì) Nhậm, vì có công tố giác, được thăng làm Hữu Thị lang bộ Công, nhưng thiên hạ lúc ấy lại có câu rằng: "Sát tứ phụ nhi Thị lang", nghĩa là "giết bốn người cha mà làm Thị lang".
Sách Lê quý dật sử chép tương tự:
...(Ngô Thì) Sĩ thấy con bè đảng xu phụ Tuyên Phi (Đặng Thị Huệ), vu khống Thế tử, ông bất bình, ra sức khuyên ngăn, nhưng (Ngô Thì) Nhậm không nghe, ông phẫn uất uống thuốc độc tự tử...(Sau vụ án) cất nhắc Ngô Thì Nhậm làm Công bộ tả thị lang, vì tố cáo Thế tử (Trịnh Khải) nên được ban thưởng, thăng vượt cấp bảy lần.
Chép khác có Hoàng Lê nhất thống chí. Theo sách này, chỉ có một mình Nguyễn Huy Bá đứng ra tố giác, còn Ngô Thì Nhậm thì đã có lời khuyên Nguyễn Khắc Tuân phải hỏa tốc về kinh can ngăn Trịnh Khải dừng lại cơ mưu, nhưng không được nghe. Đến khi ông Tuân bị bắt giam, ông Nhậm định tìm cách gỡ tội, nhưng vì việc tang (cha mất) nên phải về.
Để sáng tỏ vấn đề này cần phải nghiên cứu thêm.

4. NGÔ THÌ NHẬM.


Ngô Thì Nhậm (吳時壬; còn gọi là Ngô Thời Nhiệm 吳時任 ( 25/10/1746–1803), tự là Hy Doãn(希尹), hiệu là Đạt Hiên(達軒), là danh sĩ, nhà văn đời hậu Lê–Tây Sơn, người có công lớn trong việc giúp triều Tây Sơn đánh lui quân Thanh. Ngô Thì Nhậm xuất thân gia đình vọng tộc chốn Bắc Hà, là con Ngô Thì Sĩ, người làng Tả Thanh Oai, ngày nay thuộc huyện Thanh Trì Hà Nội.
Sự nghiệp .
Ngô Thì Nhậm thông minh, học giỏi, sớm có những công trình về lịch sử. Ông thi đỗ giải nguyên năm 1768, rồi tiến sĩ tam giáp năm 1775. Sau khi đỗ đạt, ông được bổ làm quan ở bộ Hộ dưới triều Lê–Trịnh, được chúa Trịnh Sâm rất quý mến. Năm 1778 làm Đốc đồng Kinh Bắc và Thái Nguyên. Khi đó cha ông làm Đốc đồng Lạng Sơn. Cha con đồng triều, nổi tiếng văn chương trong thiên hạ.
Sau Vụ án năm Canh Tý (1780), ông bị nghi ngờ là người tố giác Trịnh Khải nên phải bỏ trốn về quê vợ ở Thái Bình lánh nạn.
Năm 1788, Nguyễn Huệ ra Bắc lần hai, xuống lệnh "cầu hiền" tìm kiếm quan lại của triều cũ. Danh sĩ Bắc Hà đã đầu quân cho nhà Tây Sơn từ trước đó mới chỉ có Trần Văn Kỉ , Ngô Văn Sở và Đặng Tiến Đông. Tuy vậy, tới thời điểm này thì cả vua Lê lẫn chúa Trịnh đều đã đổ. Ngô Thì Nhậm và một số thân sĩ Bắc Hà khác như Phan Huy Ích, Bùi Dương Lịch ; các tiến sĩ Ninh Tốn, Nguyễn Thế Lịch, Nguyễn Bá Lan; Đoàn Nguyễn Tuấn (anh rể Nguyễn Du); Vũ Huy Tấn; Nguyễn Huy Lượng (tác giả "Tụng Tây Hồ phú")...lần lượt ra làm quan cho nhà Tây Sơn. Sử cũ viết khi được Thì Nhậm, Nguyễn Huệ mừng mà rằng: "Thật là trời để dành ông cho ta vậy", và phong cho ông chức Tả thị lang bộ Lại, sau lại thăng làm thượng thư bộ Lại-chức vụ cao cấp nhất trong Lục bộ.
Cuối năm Mậu Thân (1788) do vua Lê Chiêu Thống cầu viện, 29 vạn quân Thanh kéo sang Đại Việt, với chiêu bài diệt Tây Sơn dựng lại nhà Lê. Ngô Thì Nhậm đã có kế lui binh về giữ phòng tuyến Tam Điệp - Biện Sơn (Ninh Bình) góp phần làm nên chiến thắng của nhà Tây Sơn.
Năm 1790, vua Quang Trung đã giao cho Ngô Thì Nhậm giữ chức Binh bộ thượng thư. Tuy làm ở bộ Binh, nhưng Thì Nhậm chính là người chủ trì về các chính sách và giao dịch ngoại giao với Trung Hoa. Ông là người đứng đầu một trong những sứ bộ ngoại giao sang Trung Hoa.
Sau khi Quang Trung mất, ông không còn được tin dùng, quay về nghiên cứu Phật học.
Sau khi Gia Long tiêu diệt nhà Tây Sơn, Ngô Thì Nhậm, Phan Huy Ích, Nguyễn Thế Lịch và một số viên quan triều Tây Sơn thì bị đánh bằng roi tại Văn Miếu năm 1803. Nhưng do trước đó có mâu thuẫn với Đặng Trần Thường nên cho người tẩm thuốc vào roi. Sau trận đánh đòn, về nhà, Ngô Thì Nhậm chết.

Tấm bia đá năm Cảnh Hưng thứ 36 tại Văn Miếu Quốc Tử Giám có tên của Ngô Thì Nhậm đã bị đục bỏ.

Trong bia ký Tiến sĩ khoa ất Mùi đặt tại Văn miếu Hà Nội còn ghi lại: “... Qua trường bốn lấy trúng cách bọn Phan Huy Ích 18 người. Sang tháng sau thi Điện, ban cho bọn Ngô Thế Trị đỗ Đồng Tiến sĩ xuất thân. Lại sai khắc vào đá để lưu truyền bất hủ. Đệ tam giáp Đồng Tiến sĩ xuất thân, 18 người trong đó: Ngô Thì Nhậm, xã Tả Thanh Oai, huyện Thanh Oai.
Phan Huy Ích xã Thu Hoạch, huyện Thiên Lộc.”
Câu ứng đối nổi tiếng.
Tương truyền Ngô Thì Nhậm và Đặng Trần Thường có quen biết với nhau.
Lúc Ngô Thì Nhậm được vua Quang Trung trọng dụng thì Đặng Trần Thường đến xin Nhậm tiến cử. Trông thấy vẻ khúm núm làm mất phong độ của kẻ sĩ, Nhậm thét bảo Thường:
Ở đây cần dùng người vừa có tài vừa có hạnh, giúp vua cai trị nước. Còn muốn vào luồn ra cúi thì đi nơi khác.
Đặng Trần Thường hổ thẹn ra về, rồi vào Nam theo Nguyễn Phúc Ánh.
Sau khi nhà Tây Sơn mất, các võ tướng và một số quan văn bị giải về Hà Nội để bị xử phạt đánh bằng roi ở Văn Miếu, trong số đó có Phan Huy Ích và Ngô Thì Nhậm. Chủ trì cuộc phạt đánh đòn đó là Đặng Trần Thường.
Vốn có thù riêng, Đặng Trần Thường kiêu hãnh ra vế câu đối cho Ngô Thì Nhậm:
Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Ngô Thì Nhậm khẳng khái đáp:
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
Có thuyết nói rằng, nguyên câu đối lại của Ngô Thì Nhậm là:
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, dù thời thế, thế nào cũng thế
hoặc là:
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế nào vẫn thế
Đặng Trần Thường bắt ông phải sửa lại như câu nói "thế đành theo thế" (hay thế thời theo thế hoặc là thế thì phải thế). Ngô Thì Nhậm không nói lại. Thường tức giận sai người dùng roi tẩm thuốc độc đánh ông.
Sau trận đòn về nhà, Phan Huy Ích không bị đánh bằng thuốc độc nên còn sống. Còn Ngô Thì Nhậm bị thuốc độc ngấm vào tạng phủ, biết mình không qua khỏi, trước khi qua đời ông có làm bài thơ gửi tặng Đặng Trần Thường như sau:
Ai tai Đặng Trần Thường
Chân như yến xử đường
Vị Ương cung cố sự
Diệc nhĩ thị thu trường
Nghĩa là: Thương thay Đặng Trần Thường. Nay quyền thế lắm đấy, nhưng khác nào như chim yến làm tổ trong cái nhà sắp cháy, rồi sẽ khốn đến nơi. Giống như Hàn Tín giúp Hán Cao tổ, rồi bị Cao tổ giết ở cung Vị Ương. Kết cục của ngươi rồi cũng thế đó.
Tạm dịch:
Thương thay Đặng Trần Thường
Tổ yến nhà xử đường
Vị Ương cung chuyện cũ
Tránh sao kiếp tai ương?
Quả nhiên sau này bài thơ ứng nghiệm, Thường bị Gia Long xử tử.
Tác phẩm chính.
Bang giao hảo thoại (văn)
Bang giao tập (văn)
Kim mã hành dư (văn)
Hàn các anh hoa(Văn, thơ)
Doãn thi văn tập (văn, thơ)
Yên đài thu vịnh (thơ)
Hoàng hoa đồ phả (thơ)
Cúc đường bách vịnh (thơ)
Hải Dương chí lược
Hy Doãn thi văn tập
Xuân Thu quản kiến
Xem thêm.
Phòng tuyến Tam Điệp
Ngô Thì Sĩ
Nguyễn Huệ
Đặng Trần Thường
Chú thích .
 Ngô Thì Nhậm trùng với tên húy vua Tự Đức (Hồng Nhậm, Nguyễn Phúc Thì) nên phải đọc và viết thành Ngô Thời Nhiệm (theo Họ và tên người Việt Nam, PGS.TS Lê Trung Hoa, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, 2005).
 Trần Văn Kỉ đỗ giải nguyên, quê ở huyện Hương Trà, Thuận Hóa chưa làm quan cho triều nào.Theo nhà Tây Sơn từ 1786,sử chép là Nguyễn Huệ "việc gì cũng bàn với Kỷ, không mấy khi rời"
Ðặng Tiến Ðông thuộc dòng họ nhiều đời đỗ đạt, làm quan to dưới triều Lê-Trịnh. Ông tìm vào Quảng Nam ra mắt Nguyễn Huệ năm 1787. Hai năm sau, lĩnh chức đô đốc, ông dẫn đầu cánh quân đánh vào đồn Ðống Ða, kéo quân vào Thăng Long sớm nhất
 Dương Lịch về sau cũng làm quan cho nhà Nguyễn Gia Long
 Thái độ của danh sĩ Bắc Hà đối với Nguyễn Huệ là chia rẽ và phức tạp. Bên cạnh với những người đầu Tây Sơn, một số khác đi theo hoặc vua Lê hoặc chúa Trịnh, hoặc sau này làm quan cho Gia Long như Nguyễn Ðăng Trường, Nguyễn Ðình Giản, Lê Duy Ðản, Trần Danh Án, Ngô Thì Chí , Nguyễn Du...
 Sau chiến thắng Kỉ Dậu 1789, nhà Tây Sơn đã phái nhiều sứ đoàn sang Trung Hoa, trong đó có sứ đoàn do Ngô Văn Sở cầm đầu, một sứ đoàn khác do Võ Văn Dũng đứng đầu khi Quang Trung có ý định xin cưới con gái của Càn Long và xin đất Lưỡng Quảng, nhưng khi đoàn này vừa khởi hành (có tài liệu nói là khi đoàn đã sang tới nơi) thì Quang Trung qua đời .
( https://vi.wikipedia.org/wiki).
Đọc thêm .

NGÔ THÌ NHẬM VỚI ĐỜI THƯỜNG -LÂM GIANG

Mỗi khi nhắc đến Ngô Thì Nhậm, người đời sau thường nói đến “Nước cờ Tam Điệp” một cống hiến to lớn của Ngô Thì Nhậm, giúp vua Quang Trung hành quân thần tốc từ Phú Xuân ra Thăng Long đánh tan bọn xâm lược nhà Thanh vào mồng Năm tết Kỷ Dậu (1789). Nói đến Ngô Thì Nhậm, người đời sau không thể nào quên vụ án năm Canh Tý về việc phế trưởng lập thứ của phủ chúa Trịnh mà Ngô Thì Nhậm có chút dính líu và tiếp theo đó là cái chết đột ngột của cha (Ngô Thì Sỹ) tại nhậm sở Đoàn Thành (Lạng Sơn). Bài viết này xin đề cập lại nỗi oan về vụ án năm Canh Tý và một số chi tiết liên quan tới đời thường của ông qua các tác phẩm: Hào mân ai lục, Kim mã hành dư và một số tác phẩm khác của Ngô Thì Nhậm.
1. Nỗi oan về vụ án năm Canh Tý
khi nghiên cứu Thiền học lấy đạo hiệu Hải Lượng. Ông đỗ Tiến sĩ năm Cảnh Hưng thứ 36 (1775), làm quan tới Đốc đồng Kinh Bắc, thăng Công bộ Hữu thị lang. Năm 1788, Ngô Thì Nhậm ra với nhà Tây Sơn và được Nguyễn Huệ trọng dụng, trao cho chức Thị lang Bộ Công, tước Tình Phái hầu, sau thăng Thượng thư Bộ Binh. Ông mất ngày 16 tháng 2 năm Quý Hợi (9-3-1803).Ngô Thì Nhậm sinh ngày 11 tháng 9 năm Bính Dần, tức ngày 25 tháng 10 năm 1746, tại làng Tả Thanh Oai, tục gọi là làng Tó, trấn Sơn Nam, nay thuộc huyện Thanh Trì, ngoại thành Hà Nội, thuở nhỏ tên là Phó, sau đổi Nhậm, tự Hy Doãn, hiệu Đạt Hiên, 
Ngô Thì Nhậm để lại những sáng tác với số lượng rất lớn, hiện còn các tập văn: Kim mã hành dư, Hào mân ai lục, Xuân thu quản kiến, Hàn các anh hoa, Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh và các tập thơ: Bút hải tùng đàm, Thủy vân nhàn vịnh, Ngọc đường xuân khiếu, Hoàng hoa đồ phả, Cúc hoa thi trận, Thu cận dương ngôn. Trong số thơ văn hiện còn có 5 tác phẩm viết thời Lê Trịnh: Bút hải tùng đàm, Thủy vân nhàn vịnh, Kim mã hành dư, Hào mân ai lục, Xuân thu quản kiến, số còn lại đều được viết dưới thời Tây Sơn.
Dòng họ Ngô đến lập nghiệp tại Tả Thanh Oai đã nhiều đời, nhưngNgô gia thế phả cũng chỉ coi từ đời cụ Phúc Cơ (khoảng đầu thế kỉ XVI) là người mở đầu cho dòng họ Ngô tại Tả Thanh Oai. Tên thuỵ hiệu của cụ tổ đều không rõ, năm Giáp Ngọ, cháu đời thứ 12 là Ngọ Phong, họp họ, xin đặt thuỵ hiệu, tôn làm Triệu tổ (Ngô gia thế phả).
Đời thứ hai là cụ Mỹ Đức, giữ chức Cao Sơn cục chính trưởng.
Đời thứ ba là cụ Hoằng Nghị, tự Minh Dực tướng quân.
Đời thư tư là cụ Cẩn Tiết, Nho sinh trúng thức.
Bắt đầu từ đây dòng họ Ngô chia ra làm hai chi Giáp và chi ất. Ngô Thì Nhậm thuộc chi Giáp, và kể từ đời cụ Phúc Cơ thì ông thuộc đời thứ 13 của dòng họ.
Ngô Thì Nhậm là con trưởng của Ngô Thì Sỹ (1726-1780), Ngô Thì Sỹ thuộc đời thứ 12, tên tự Thế Lộc, hiệu Ngọ Phong, biệt hiệu Nhị Thanh cư sĩ. Ngô Thì Sỹ có tài, từ chương nổi tiếng, nhưng nhiều năm liền thi không đỗ, gia cảnh nghèo túng. Đến khoa Nhâm Thân, niên hiệu Cảnh Hưng thứ 12 (1752), ông thi lại trượt, nhưng được Minh Đô Vương Trịnh Doanh mến tài cho làm một chức nhỏ Thiêm sai tri Công phiên ở Phủ Chúa.
Năm Quý Mùi (1763), Ngô Thì Nhậm 18 tuổi, người cha là Ngô Thì Sỹ được chúa Ân Vương Trịnh Doanh, đặc cách cho tiến triều, trao cho chức Cấp sự trung Bộ Công, năm sau Giáp Thân (1764) trao chức Giám sát Ngự sử đạo Sơn Tây, không đầy vài tháng thăng làm Đốc đồng xứ Thái Nguyên (Hào mân ai lục).
Năm Bính Tuất (1766), Ngô Thì Nhậm đã 20 tuổi, ông cùng với Lưu Hi Trí (người cùng ấp, đỗ đầu thi Hương khoa ất Dậu) đến theo học thầy Đan Sỹ, là Tham chính Thanh Hoa, và cũng năm đó Ngô Thì Sỹ thi đậu Hoàng giáp (khoa Bính Tuất, niên hiệu Cảnh Hưng thứ 26 - 1766).
Năm Mậu Tý (1768), Ngô Thì Nhậm 23 tuổi, thi Hương đậu Giải nguyên và năm sau (1769), ông đỗ khoa Sỹ vọng, được bổ chức Hiến sát phó sứ Hải Dương (hàm Chánh thất phẩm).
Năm Tân Mão (1771), Ngô Thì Sỹ làm Tham chính Nghệ An. Tư đồ Hoàng Ngũ Phúc ghen ghét, ghép ông vào tội gian lận ở trường thi Hương. Khi ông bị cách tuột chức tước, thì Ngô Thì Nhậm cũng xin cáo quan về nhà, với lý do sớm hôm phụng dưỡng cha, năm đó ông 26 tuổi.
Năm Ất Mùi (1775), Ngô Thì Nhậm tròn 30 tuổi mới thi đỗ Đệ tam giáp Đồng Tiến sĩ xuất thân và đứng hàng thứ 5. Sau khi thi đỗ ông được bổ làm Hộ bộ Đô cấp sự trung. Năm sau lại thăng Giám sát Ngự sử đạo Sơn Nam, lại được bổ làm quan Giám khảo trường thi Hương ở Hải Dương.
Năm Mậu Tuất (1778), Ngô Thì Nhậm được thăng chức Đốc đồng Kinh Bắc. Năm ấy, Ngô Thì Sỹ cũng nhậm chức Đốc trấn Lạng Sơn. Hai cha con cùng đi nhận chức một ngày (Kim mã hành dư, Ngô gia thế phả). Năm ấy, Ngô Thì Nhậm còn kiêm giữ chức Đốc đồng Thái Nguyên. ở đây ông đã từng cùng cha phối hợp với Trấn thủ Tuân Vãng hầu đánh dẹp loạn tại vùng Vũ Nhai và năm đó ông soạn xong tập Công vụ thành thư. Năm Kỷ Hợi (1779), Ngô Thì Nhậm thăng chức Đông các hiệu thư, phụng mệnh hiệp đồng với Trấn thủ Tuyên, Thái đánh dẹp cuộc nổi dậy của Hoàng Văn Đồng ở Tuyên Quang. ít lâu sau ông lại được sai đi kinh lược ở mỏ bạc Tống Tinh. Năm Canh Tý (1780) trở về, dâng sớ về phương sách thu thuế ở xưởng bạc, được chúa Trịnh Sâm khen ngợi, ban thưởng trọng hậu. Gần cuối năm ấy xảy ra vụ án tranh đoạt ngôi chúa, người đời sau thường gọi “Vụ án năm Canh Tý.”
Nguyên Trịnh Tông con trưởng của Trịnh Sâm, vì là con của một phi tần và không vừa ý chúa, nên đã 18 tuổi mà vẫn chưa được lập làm thế tử. Con thứ của nhà chúa là Trịnh Cán do Tuyên phi Đặng Thị Huệ sinh ra, được chúa rất yêu mến. Nhân lúc chúa Trịnh Sâm ốm nặng, Trịnh Tông bèn cùng tôi tớ trong nhà, sửa soạn khí giới, đợi khi chúa mất, đóng cửa thành lại, bắt trói Đặng Thị Huệ, giết phe cánh là quyền thần Quận Huy Hoàng Tố Lý, rồi báo cho hai trấn Sơn Tây và Kinh Bắc đem quân về hộ vệ đưa Trịnh Tông lên ngôi. Nhưng vừa lúc đó thì bệnh của Trịnh Sâm khỏi, sự việc bị phát giác. Trịnh Sâm sai Quận Huy Hoàng Tố Lý triệu Trấn thủ Sơn Tây là Nguyễn Khản và Trấn thủ Kinh Bắc là Nguyễn Khắc Tuân về, bắt trói giam trong phủ. Hai vị Trấn thủ cầu cứu Ngô Thì Nhậm thanh minh với nhà chúa. Chúa Trịnh Sâm càng tức giận, giao cho Ngô Thì Nhậm xét xử, giữa lúc ấy Ngô Thì Sỹ qua đời tại Lạng Sơn, Ngô Thì Nhậm dâng khải xin về chịu tang. Chúa bèn giao vụ án cho Lê Quý Đôn xử trí.
Về sự kiện này, các sử gia triều Nguyễn, trong Việt sử thông giám cương mục viết rằng, chính Ngô Thì Nhậm cùng với Nguyễn Huy Bá đã cáo giác vụ án; rằng Ngô Thì Nhậm khi đó là thày dạy (nhật giảng) của Trịnh Tông, rất rõ vụ việc, nhân cáo giác để nhận chức Công bộ Hữu thị lang; rằng Ngô Thì Sỹ vì can ngăn con mình không được, dẫn đến cái chết của bạn mình là Nguyễn Khắc Tuân, Nguyễn Phương Đĩnh, Chu Xuân Hán... buồn dầu uống thuốc độc chết tại Lạng Sơn. Cho nên đương thời truyền tụng câu: Sát tứ phụ nhi đắc Thị lang(Giết bốn cha để được làm chức Thị lang).
Đây là cách đánh giá không thiện ý của triều đình nhà Nguyễn, vốn thù địch với nhà Tây Sơn, không ưa gì những người đi theo phong trào Tây Sơn mà Ngô Thì Nhậm là một trong những người tích cực nhất.
Sách Hoàng Lê nhất thống chí, cho biết: Tên giữ sổ sách Hà Như Sơn, là học trò Ngô Thì Nhậm biết việc đó, báo cho ông biết, ông đã nói rằng: “Thế tử là người thay thế chúa nắm quyền hành. Nước là nước của Thế tử, lo gì mất ngôi mà làm chuyện ấy...” Rồi lập tức báo cho Trấn thủ Nguyễn Khắc Tuân đình chỉ ngay, nhưng không kịp. Vụ án xử xong, khi xét công phát giác, quyền thần Hoàng Tố Lý vốn ghét Ngô Thì Nhậm, muốn nhân chuyện này tìm cách dè bỉu, nên ra sức xin thăng cho ông chức Công bộ Tả thị lang. Ngô Thì Nhậm giận lắm, lấy cớ có tang cha, không dâng biểu tạ ơn. Sách Hậu Lê thời kỉ lược, bộ sử có những quan điểm độc lập, và Ngô gia thế phả do Ngô Giáp Đậu viết cuối đời Nguyễn cũng cùng quan điểm trên.
Sự thực bốn người cha bị giết đó là những ai, chưa rõ lắm. Có thuyết cho rằng bốn người cha đó là: Trịnh Tông (quân phụ), Ngô Thì Sỹ (thân phụ), Nguyễn Khắc Tuân, Chu Xuân Hán (phụ chấp - bạn của cha). ở đây, Trịnh Tông chỉ bị truất xuống làm con thứ, chưa bị giết, thuyết này chưa thuyết phục. Lại có thuyết cho rằng, bốn người cha đó là: Ngô Thì Sỹ, Nguyễn Khản, Nguyễn Phương Đĩnh, Nguyễn Khắc Tuân, nhưng sự thật thì có Ngô Thì Sỹ bị bệnh chết, chỉ có Nguyễn Khắc Tuân, Chu Xuân Hán ép phải uống thuốc độc chết (Hoàng Lê nhất thống chí).
Vụ án xảy ra khoảng cuối tháng 7, đến cuối tháng 9, Ngô Thì Sĩ bị cảm tại động Nhị Thanh, rồi ít ngày sau thì qua đời. Trong bài Tiên công hạnh trạng (Hạnh trạng Ngô Thì Sỹ) do Ngô Thì Nhậm viết, cho biết: “Ngày 17 tháng 9 năm Canh Tý (1780), có việc công ở cửa Nam Quan về, đi qua núi, dừng cờ quạt mà vào trong động, gục trước tượng mà chợp ngủ, ước hơn nửa trống canh. Thân thể thấy không được khỏe liền trở về trấn, đóng cửa lại không tiếp khách, mà cũng không làm việc nữa. Ngày 25 bệnh hơi đỡ, lại dựa gối xem sách, bạn bè hầu tiếp, cười nói tự nhiên, tới nửa đêm, lên giường nằm tắt thở. Tin cáo phó tới kinh thành, chúa rất thương xót, trao cho chức Thừa chánh sứ xứ Tuyên Quang, tặng hàm Hữu thị lang Bộ Hộ, cho tên thụy là Ôn Bác...” (Hào mân ai lục).
Lời vè Sát tứ phụ nhi đắc Thị lang là của những người không cùng chính kiến, ghen ghét Ngô Thì Nhậm đặt ra sau đó ít lâu. Sự thực không phải do Ngô Thì Nhậm vì cáo giác vụ án mà được thăng chức. Như đã biết, năm đó trước khi vụ án xảy ra, Ngô Thì Nhậm cũng đã có công lao về việc xử trí xưởng đúc bạc ở mỏ Tống Tinh, sau khi trở về Trịnh Sâm mới chỉ khen ngợi, chưa thưởng chức. Khi vụ án xảy ra, ông được giao cho xử trí, nhưng công việc chưa tiến hành thì Ngô Thì Sỹ đột ngột qua đời tại Lạng Sơn. Có thể để thưởng công cho những việc đã làm trước đây, an ủi phần nào trước nỗi đau mất cha của Ngô Thì Nhậm mà Trịnh Sâm đã thăng chức cho ông. Việc làm ngẫu nhiên mà trở thành hữu ý. Chính Ngô Thì Nhậm cũng không ngờ rằng sự việc lại dẫn đến nông nỗi ấy, ông từng tâm sự: “Thật khó hiểu, mầm họa lại do cái phúc gây ra, Bỗng xui nên tội trạng chính vì cái công dắt rủ đến...”(Hoản nhĩ ngâm - Thủy vân nhàn vịnh).
Sự ưu ái của Trịnh Sâm đối với Ngô Thì Nhậm được ông thể hiện trong bài Trần tình cáo Tĩnh vương văn, viết khi lánh nạn tại Sơn Nam, rằng: “Thần được Chúa thượng quá lòng chú ý tới... Không cho thần là ngu vụng mà dạy dỗ, vun vén, mong cho làm nên nghiệp lớn... Chính vì có sự ưu ái ấy mà thần ở vào cái thế qua ruộng dưa sửa dép, qua gốc mận sửa mũ” (Kim mã hành dư). Một việc làm ngay thẳng, nhưng ở vào thế bị hiềm nghi.
Đoạn văn ấy như sau:

庚 子 密 案 事 發 , 臣 處 瓜 李 之 地 , 有 所 聞 知 , 暴 白 冒 陳 。 聖 人 深 惟 春 秋 大 義 , 不 容 己 於 家 庭 之 訓 , 以 臣 不 敢 隱 情 於 君 父 , 故 吝 重 賞 以 明 示 天 下 。 臣 亦 不 敢 以 惡 居 下 蓅 之 情 , 施 於 事 君 , 故 寧 受 重 賞 , 以 尸 眾 謗 。 然 天 下 之 不 知 者 , 皆 曰: 聖 上 之 所 以 福 臣 者 , 乃 所 以 禍 臣 也 , 臣 之 中 聖 上 者 , 乃 所 誤 聖 上 也 。 

“Canh Tí mật án sự phát, thần xử qua lý chi địa, hữu sở văn tri, bạo bạch mạo trần. Thánh nhân thâm duy Xuân thu đại nghĩa, bất dung kỷ ư gia đình chi huấn, dĩ thần bất cảm ẩn tình ư quân phụ, cố lận trọng thưởng dĩ minh thị thiên hạ. Thần diệc bất cảm dĩ ố cư hạ lưu chi tình, thí ư sự quân, cố ninh thụ trọng thưởng, dĩ thi chúng báng. Nhiên thiên hạ chi bất tri giả, giai viết: “Thánh thượng chi sở dĩ phúc thần giả, nãi sở dĩ hoạ thần dã, thần chi trung thánh thượng giả, nãi sở dĩ ngộ Thánh thượng dã”. (Mật án năm Canh Tý (1780) vỡ lở, thần ở vào thế bị hiềm nghi, hễ nghe biết được gì, đều đánh bạo bộc bạch hết. Thánh thượng hiểu sâu nghĩa lớn của sách Xuân thu, không dừng lại ở sự giáo huấn trong nhà, vì vậy thần không ẩn tình với quân phụ, không tiếc trọng thưởng để bảo rõ cho thiên hạ biết sự thật. Thần cũng không dám lấy cái tình ghét ở chỗ thấp để thờ vua, hoặc thà nhận trọng thưởng mà làm bung xung cho người phỉ báng. Nhưng kẻ không biết trong thiên hạ, đều bảo rằng: “Thánh thượng làm phúc cho thần mà gây hoạ cho thần, thần thì trung với Thánh thượng mà làm cho Thánh thượng sai lầm.” (Trần tình cáo Tĩnh vương văn - Kim mã hành dư).

Bài trần tình này, Ngô Thì Nhậm làm sau Trịnh Sâm mất đã ba năm, chắc lời nói với người đã khuất là lời nói thật. Tình cảm của ông đối Trịnh Sâm cũng là tình cảm thật:
Đức chí hiếu của Tiên Vương, sánh ngang Ngu Thuấn, 
Ai ngăn được tiếng khóc kêu trời sau trận mưa thu.
Một bữa cơm tế xã, chén uất sưởng nẫu lòng; 
Muôn dặm non Kiều, cây tùng cành thu nhỏ lệ.
(Vãn Tiên thánh vương - Thủy vân nhàn vịnh)
Lại trong khi lánh nạn bị một trận ốm nặng, Ngô Thì Nhậm làm bài Mật đảo văn (Bài văn bí mật cầu được bình yên), đã nói thẳng ra rằng, mình nhận chức Thị lang khi mất cha là chuốc lấy tai vạ, không chỉ cho riêng bản thân mình phải long đong lẩn tránh, mà còn khổ đến gia đình, vợ con: “Tự mình sơ hở mà liên lụy cả nhà. Mất cha mà được chức, đắn đo sự được mất, tiểu nhân này quả là có tội nặng.” Nhận chức trước tình cảnh bị mất cha, nên bị đặt điều Sát tứ phụ nhi đắc Thị lang, dẫn đến việc “vơi người” mà “đầy mình” ấy, ông chỉ biết kêu lên: “Con tạo hỡi sao mà khéo tá!” Ông tỏ ra ân hận: “Tự xét: Ngay từ nhỏ đã hanh thông, nên không thấu lẽ rủi may tốt xấu, thành thử ở chỗ tối tăm mà chuốc lấy thất bại, vì mau chóng mà chịu tai ương; ngửa mong đức lớn hiếu sinh, mở ra lối sửa chữa lỗi lầm, khiến cho lúc cùng mà biết đến sai lầm, khi khốn mà nghĩ đến điều thiện.” (Mật đảo văn - Kim mã hành dư). Lời bộc bạch trên ông viết trong hai bài văn mật đảo, dưới đây xin dẫn bài thứ hai:

又 密 禱 天 地 文
臣: 忝 以 庸 常 , 幸 蒙 培 壅 。
國 澤 濫 叨 溫 寵, 負 乘 皆 非 分 之 恩 ; 身 謀 徒 巧 應 酬 , 操 履 少 澄 心 之 事 。
釁 實 招 自 己 ; 禍 延 及 所 親 。
關 山 萬 里 奔 喪 , 父 子 不 相 聞 , 契 闊 實 無 窮 之 悔 ; 雨 露 九 天 沛 澤 , 君 王 新 有 命 , 傴 僂 增 非 據 之 慚 。
深 惟 倚 伏 之 機 關, 莫 測 幹 旋 之 樞 紐。
失 父 而 得 官 , 權 衡 於 失 得 , 小 人 罪 惡 之 太 深 ; 虧 人 而 盈 己 , 推 測 於 盈 虧 , 大 造 飄 陶 之 更 巧 。
撫 躬 而 增 懼 ; 仰 隆 鋻 之 無 私 。
伏 願: 不 遠 監 觀 曲 加 矜 閔 。
恢 浩 浩 好 生 之 德 , 卑 聽 孔 昭 ; 佑 敻 敻 在 疚 之 兒 , 可 貞 獲 吉 。
Phiên âm:

HỰU MẬT ĐÁO THIÊN ĐỊA VĂN
Thần: Thiệm dĩ dung thường, hạnh mông bội ủng.
Quốc trạch lạm thao ôn sủng, phụ thừa giai phi phận chi ân; thân mưu đồ xảo ứng thù, thao lý thiếu trừng tâm chi sự.
Hấn thực chiêu tự kỷ, hoạ diên cập sở thân.
Quan san vạn lý bôn tang, phụ tử bất tương văn, khế khoát thực vô cùng chi hối; vũ lộ cửu thiên bái trạch, quân vương tân hữu mệnh, khu lũ tăng phi cứ chi tàm.
Thâm duy ỷ phục chi cơ quan; mạc trắc cán tuyền chi khu nữu.
Thất phụ nhi đắc quan, quyền hành ư thất đắc, tiểu nhân tội ác chi thái thâm; khuy nhân nhi doanh kỷ, suy trắc ư doanh khuy, đại tạo phiêu đào chi cánh xảo.
Phủ cung nhi tăng cụ; ngưỡng long giám chi vô tư.
Phục nguyện: Bất viễn giám quan, khúc gia căng mẫn.
Khôi hạo hạo hiếu sinh chi đức, ty thính khổng chiêu; hựu quỳnh quỳnh tại cữu chi nhi, khả trinh hoạch cát.
Dịch nghĩa:

LẠI VĂN MẬT CÁO VỚI TRỜI ĐẤT:
Thần, hổ phận tầm thường, nhờ ơn vun đắp.
Giúp nước những lạm nhờ vinh sủng, việc gánh vác đều do ơn phi phận thấm nhuần; xuất thân chỉ khéo ở ứng thù, sự dày đạp ít, hẳn lặng lòng suy nghĩ.
Tự mình khơi ra hiềm khích; cả nhà liên luỵ tới tai ương.
Đường chạy tang muôn dặm non sông, cha con vắng tin nhau, nỗi xa cách thật vô cùng hối hận; ơn tưới mát chín tầng mưa móc, mệnh Chúa ban khen vừa tới, bước lom khom không được đáng thẹn thùng.
Cơ quan dựa dẫm nghĩ cho sâu; bộ máy chuyển vần khôn đo được.
Mất cha mà được chức quan, đắn đo sự được mất, tiểu nhân này tội quá sâu dầy; vơi người mà đầy mình, suy xét việc đầy vơi, đại tạo hỡi nặn vo sao khéo tá?
Ngẫm thân hèn thêm sợ sệt; nhờ gương sáng chẳng riêng tây.
Cúi mong: soi xét không xa, rủ lòng thương tới.
Mở đức hiếu sinh rộng lớn, để nghe được rõ ràng; thương con côi vò võ cư tang, được ban điều tốt đẹp.
Đây cũng là những điều khấn trước thần minh, chắc là lời nói thật, để mong cho được phù trợ, mau tai qua nạn khỏi. Trong bài có nói “Tự mình khơi ra hiềm khích” tức là nói việc ông nhận thưởng chức và nhận cả việc đứng ra xét xử vụ án là không đúng lúc.
Còn như Ngô gia thế phả hay Hoàng Lê nhất thống chí và một số sách khác nói rằng, Hoàng Tố Lý vốn ghen ghét Ngô Thì Nhậm, nên cố xin thăng chức cho ông, để xỉ nhục ông. Có lẽ mối quan hệ giữa hai người không đến nỗi thế, mà ngược lại. Chẳng thế sau khi chạy thoát xuống Bách Tính, Sơn Nam, Ngô Thì Nhậm mới kịp làm bài văn điếu Quận Huy. Trong lời điếu tỏ rõ nỗi thương xót thực sự:
“Sinh ra, khí phách anh hùng đã tự gửi vào thân xác,
Chết đi, tinh thần còn lưu trong vũ trụ mênh mông...”
Và viếng:
“Xin nhờ ngòi bút viếng hồn người trung nghĩa,
Ngàn năm nơi chín suối người vẫn có thể vùng đứng lên...”
(Điếu Huy Quận công - Thủy vân nhàn vịnh).
Như vậy, nếu có sự ghen ghét nhau chắc không có được những lời như thế.
Những lời tâm sự trên đây cho thấy Ngô Thì Nhậm có nhiều công lao với triều đình, được Trịnh Sâm tin tưởng và ưu ái, ban thưởng trọng hậu. Ngô Thì Nhậm cho rằng việc nhận thưởng là chính đáng, chỉ có điều lần lĩnh thưởng chức Tả thị lang đồng thời nhận việc đứng ra xử lý vụ án, sau đó thì Ngô Thì Sỹ qua đời đột ngột, dẫn đến lời đồn đại Sát tứ phụ nhi Thị lang khiến ông băn khoăn, cho rằng lần nhận thưởng này là chưa đúng lúc! Thực ra đúng như lời Hoàng Lê nhất chí nhận xét, Ngô Thì Nhậm nhận đứng ra xét xử vụ án là muốn gỡ tội cho những người bạn của cha mình, như Trấn thủ Sơn Tây Nguyễn Khản và Trấn thủ Kinh Bắc Nguyễn Khắc Tuân... Những chi tiết trên đây cho thấy Ngô Thì Nhậm không phải cố tình cáo giác vụ án để lĩnh thưởng!
2. Ngô Thì Nhậm với đời thường
Ngô Thì Nhậm thuở nhỏ cũng như những trẻ nhỏ khác, phải lo toan học hành, trau dồi kiến thức, thi cử..., nhưng nhà ông nghèo, nhiều năm người cha thi không đỗ, nên cuộc sống gia đình càng thêm khó khăn. Nhưng có lẽ, cả cuộc đời ông xảy ra mấy việc, khiến ông đau lòng nhất, ngoài nỗi oan về vụ án năm Canh Tý:
Năm Ngô Thì Nhậm 17 tuổi thì mẹ qua đời để lại 5 người con: Ngô Thì Nhậm con cả, con thứ hai Ngô Thị Thục, sau lấy Tiến sĩ Phan Huy Ích, con thứ ba Ngô Thì Chí, con thứ tư Ngô Thị Viêm, con thứ năm Ngô Thì Điện.
Năm 1763, Ngô Thì Sỹ được chúa Ân Vương Trịnh Doanh mến tài, đặc cách cho tiến triều, trao cho chức Cấp sự trung bộ Công, năm sau Giáp Thân (1764) trao chức Giám Ngự sử đạo Sơn Tây, không đầy vài tháng thăng làm Đốc đồng xứ Thái Nguyên (Hào mân ai lục). Từ đây gia đình Ngô Thì Sỹ mới dần dần thoát khỏi cảnh nghèo khó. Năm 1764 Ngô Thì Sỹ lấy vợ kế họ Nguyễn, bà cùng 4 người con chồng đến nhậm sở tại Sơn Tây ở với ông; chỉ còn Ngô Thì Nhậm ở nhà với người vợ mới cưới là Ngô Thị Anh, người Bách Tính, Sơn Nam Hạ (Kim mã hành dư).
Năm Tân Mão (1771), Ngô Thì Sỹ làm Tham chính Nghệ An, Tư đồ Hoàng Ngũ Phúc ghép ông vào tội gian lận trường thi Hương, bị cách tuột chức tước. Cũng năm đó, bà vợ kế của Ngô Thì Sỹ mất, khi ấy Ngô Thì Sỹ còn đang ở Nghệ An. Mọi việc thuốc thang, rồi tang ma đều do Ngô Thì Nhậm lo toan. Bà sống với Ngô Thì Sỹ được 7 năm, để lại hai người con (Ngô Thì Trí, Ngô Thì Hoàng). Trước cái chết của mẹ kế, Ngô Thì Nhậm rất đau xót:
“Than ôi, thương thay ! vào tuần tháng 6, thứ mẫu mắc bệnh ở trong Kinh, cha ta thì ở châu Hoan chưa nhận được tin. Ta ở xứ Hải Dương bắt được thư của em gái và em trai Diễm gửi tới, đêm mưa dấn thân mà về, thì bệnh đã hấp hối rồi, đương muốn viết thư báo cấp cho vợ và em ta về Kinh hỏi thăm, thì bà gạt đi, vì không muốn làm phiền đến con bà đích. Đến như rước thày lang và trông coi thuốc thang, chỉ có tin tưởng ở ta. Hỏi bà muốn trối lại điều gì, thì ngoài việc nhớ cha ta ra, không có lời gì khác. Với tấm lòng cẩn thận chu đáo của thứ mẫu như thế thì người thường không thể sánh kịp. Ta thật lòng mong bệnh của thứ mẫu có thể chỉ trong tuần nhật sẽ khỏi. Than ôi, thương thay! thứ mẫu ra đời 29 năm, giúp cha ta tới nay vừa 7 năm, tuy ở vào cảnh thuận, nhưng đủ mùi cay đắng, những việc chưa được như ý chiếm tới tám chín phần mười. Hốt nhiên hoá đi như là thánh cõi trần, khiến cho cha ta vừa nhớ vừa buồn, hai em ta mất chốn nương cậy. Các con bà đích cũng bàng hoàng chưa chút đáp đền, đau thương này có thể nguôi được ư?...” (Tế thứ mẫu Thuận Nhân văn – Kim mã hành dư). Bà mất tặng Thuận Nhân hiệu Trang Chính (Ngô gia thế phả).
Năm 1780 xảy ra vụ án Canh Tý. Vụ án xảy ra khoảng cuối tháng 7, đến cuối tháng 9, Ngô Thì Sỹ bị cảm tại động Nhị Thanh, rồi ít ngày sau thì qua đời. Ngô Thì Nhậm dâng biểu xin với Chúa đưa thi hài cha về quê. Trịnh Sâm liền cấp ngay cho tiền bạc và 20 tên lính đi áp tải quan tài. Đoàn người vội vã lên đường, đến nơi lập tức trở về ngay. Ngày Canh Dần, tháng 10 năm Canh Tý khởi hành, mười chín ngày sau vào ngày Nhâm Thân, tháng mười thì đưa quan tài về tới quê Tả Thanh Oai. Công việc đưa linh cữu về quê chậm trễ, dài ngày vì ngoài việc khiêng vác vất vả, hàng ngày dừng đợi cúng cơm ra; còn xảy ra một việc rất đau lòng là: Người vợ thứ tư của Ngô Thì Sỹ họ Hoàng, hiệu Tuệ Trang, theo ông lên Lạng Sơn, sinh được một trai nhưng không nuôi được, sau mới sinh được bé gái còn nhỏ thì Ngô Thì Sỹ qua đời. Lúc đưa linh cữu về quê, bà quá đau xót mà sinh bệnh, không thể đi cùng. Linh cữu đi được vài ngày, có tín báo bà đã mất. Ngô Thì Nhậm phải dừng linh cữu giữa đường, quay lại Đoàn Thành lo tang ma cho người mẹ kế, chôn cất tại đó, hẹn ba năm sau cải táng đưa về quê, cái thế lúc này không thể đưa linh cữu mẹ kế về cùng. Ngô Thì Nhậm, kể: “Mệnh của Cơ sao quá mỏng, sinh một trai thì không nuôi được, một gái thì còn nhỏ. Tiên quân ta lại bỏ mà đi, đàn con côi không nơi nương tựa, Cơ cũng chẳng được trông cậy, trăm cảnh khổ cực, lòng sợ mắt buồn. Gần đây chạy tang ở dinh thự Đoàn Thành, thấy Cơ bị bệnh rên rỉ, xin theo tiên quân. Lòng ta thương buồn, vì Cơ lễ bái thuốc thang nhưng không kiến hiệu. Ngày trở về đã tới, không thể săn sóc. Ngày 12 đưa tang ra khỏi thành, để Cơ ở lại dinh, còn mong cho khỏi, nhưng vào ngày 14 Cơ bèn theo tiên quân mà lìa cõi trần. ở giữa đường nghe được tin, rất lấy làm buồn. Cơ sống hay chết đều theo tiên quân ta, có thể coi là bậc trinh thuận thành thực, còn bọn ta thờ phụng đấng thân, không có công trạng gì, không những đắc tội với cha, mà cũng thẹn với Cơ nữa. Nay linh cữu ở dọc đường, tính đường đất đến cuối tháng mới tới quê nhà. Tang sự là việc lớn, chính đương lúc chật vật nơi núi cao khe thẳm, đường đi xa xăm này, thế không thể cho phép mang cả di hài của Cơ cùng đi theo mà về. Vậy xin chọn ngày tốt, tạm chôn ở cánh đồng Vĩnh Trại, ấp này phụng thờ đền tiên quân, có động Truyền thần ở đó. Khí thiêng chung đúc, um tùm âm u, Cơ có thể lại nương tựa, để phụng thờ tiên quân. Đặt hai khoảnh ruộng để hàng năm tuần tiết thờ cúng Cơ, đều khắc vào mặt sau bia, truyền lại lâu dài. Cơ có con dại, lũ tôi xin vì Cơ nuôi dạy, Cơ có mẹ già, lũ tôi xin vì Cơ thăm hỏi, Cơ ở dưới chín suối, sẽ không để lòng lo buồn. Ba năm đã sạch sẽ rồi, sẽ cải cát đưa hài cốt về để hầu hạ mồ mả tiên quân, sẽ yên ủi lòng mong mỏi của Cơ” (Tế thứ mẫu Hoàng Thị văn - Kim mã hành dư).
Khi linh cữu về gần đến kinh thành Thăng Long, vì tang đại thần, không được đi qua kinh đô, Ngô Thì Nhậm phải đưa đi đường vòng xuống phía hạ lưu sông Hồng, vượt sông về đến đầu làng Tả Thanh Oai, dựng rạp bên bờ sông Nhuệ, làm ma. Lại cũng vì lệ người chết nơi tha hương không được đem linh cữu về nhà mình ! Tại nhà tế này Ngô Thì Nhậm đề đôi câu đối, bao quát cả cuộc đời hoạt động của người cha:
Tam đô xuất trấn kiêm văn vũ;
Lưỡng tiến đăng triều sáng cổ kim.
(Hào mân ai lục).
(Ba lần ra trấn thủ xứ ngoài, tài kiêm văn võ;
Hai lượt được tiến triều, là dịp hiếm có xưa nay).D
Năm Nhâm Dần (1782), trong kinh có biến. Trịnh Sâm qua đời, nhân ngày cúng cơm, kiêu binh nổi loạn, giết Quận Huy, phế Trịnh Cán, lập Trịnh Tông. Những người có liên quan ít nhiều đến vụ án năm Canh Tý hoặc bị giết, hoặc bị bắt giam, tịch thu gia sản. Ngô Thì Nhậm vì trước đây bị dư luận ghép cho là người cáo giác vụ án, phải lánh về quê vợ cả ở am Lệ Trạch, xã Đội Trạch, trấn Sơn Nam (Vũ Thư, Thái Bình). ở đây ông nương nhờ tại nhà người em vợ là Đồng Lạc thị.
Năm Bính Ngọ (1786), Nguyễn Huệ kéo quân ra Bắc diệt chúa họ Trịnh, giao quyền cho Lê Hiển Tông, rồi lại trở về Nam. Em ông là Ngô Thì Chí về am Lệ Trạch, nơi ông đang lánh mình đón về kinh, nhận chức Hộ bộ Đô cấp sự trung, thăng Hiệu thảo kiêm Toản tu của triều đình Lê Chiêu Thống.
Năm Đinh Mùi (1787), Vua Lê Chiêu Thống được Nguyễn Hữu Chỉnh giúp, chống lại nhà Tây Sơn. Nguyễn Huệ cho Vũ Văn Nhậm ra đánh. Chiêu Thống chạy về vùng núi Bảo Lộc (nay Lục Nam, tỉnh Bắc Giang), sai người sang nhà Thanh xin cầu viện, còn Ngô Thì Nhậm ẩn náu tại làng Kim Lan, huyện Thạch Thất (nay thuộc tỉnh Hà Tây).
Năm Mậu Thân (1788), Nguyễn Huệ ra Bắc lần thứ hai, xuống lệnh tìm kiếm quan lại cũ của triều đình nhà Lê -Trịnh ra giúp việc nước. Ngô Thì Nhậm được Nguyễn Huệ trao cho chức Hữu thị lang bộ Công, tước Tình Phái hầu, cùng với Võ Văn Ước coi tất cả các quan văn võ của nhà Lê. Nguyễn Huệ lại trở về Phú Xuân.
Tháng 10 năm Mậu Thân (1788), Tổng đốc Lưỡng Quảng Tôn Sĩ Nghị đem 29 vạn quân, cùng hàng chục vạn dân phu phục dịch, vượt biên giới, tiến sâu vào nội địa nước ta, với dã tâm xâm lược. Ngô Thì Nhậm cùng tướng của Tây Sơn là Ngô Văn Sở bàn tính kế lui giặc. Một cống hiến to lớn của Ngô Thì Nhậm là “Nước cờ Tam Điệp” giúp cho Quang Trung hành quân thần tốc ra Thăng Long lập nên chiến thắng mùa xuân năm Kỷ Dậu (1789) lừng lẫy.
Năm Nhâm Tý (1792), Ngô Thì Nhậm kiêm chức Quốc sử thự Tổng tài. Giữa lúc vua sáng tôi hiền gặp gỡ thì vua Quang Trung lâm bệnh đột ngột qua đời vào ngày 29 tháng 7 (nhuận), năm ấy.
Tháng 2 năm sau (1793), Ngô Thì Nhậm lãnh chức Chánh sứ sang Thanh (Trung Quốc) báo tang và cầu phong cho vua mới Quang Toản.
Đi sứ là việc hết sức hệ trọng, không những đối với quốc gia đại sự mà ngay bản thân người đi sứ cũng lo lắng đến cả tính mạng của mình, e rằng lần đi sứ này khó có thể sống xót trở về, nên trước khi lên đường Ngô Thì Nhậm đã viết lời dặn lại con cháu rất cặn kẽ:
“Học Tốn công em ta (tức Ngô Thì Chí), đã quy tiên trước ta rồi, cháu Phẩm (tức con Ngô Thì Chí) nên lập từ đường ở bản ấp để thờ cúng em ta. Từ đường đó cứ theo như nhà cũ, sau này cháu, rồi con trưởng của cháu nối tiếp phụng thờ. Sủng là em cháu, sau khi khôn lớn, nên làm nhà ở làng Bảo Triện cùng nương tựa vào cậu là Hoàng giáp công (Định Lĩnh hầu), đợi khi nào mẹ cháu tuổi già, rước về Bảo Triện, lúc trăm tuổi hợp táng với cha cháu. Nay mẹ cháu tuổi chưa tới 50, ta chưa cho về.
Em thứ ta là Quảng Nghiệp quân, không có con, nay giao cho em Thiệm, (Thiệm là con ông chú: Ngô Tưởng Đạo) sau này thờ chú ta (Ngô Tưởng Đạo, bố của Thiệm) làm hàng chiêu, thờ Quảng Nghiệp quân ở hàng mục. Em (tức Thiệm) là người có tài, không phải tục tằn, ta đâu phải nhiều lời.
Em thứ nữa là Trí, ở chi ta là ngành thứ, song đối với bà thứ mẫu Thuận Nhân lại là ngành trưởng (Ngô Thì Chí là em thứ ba của Ngô Thì Nhậm, nhưng là con đầu của bà mẹ kế (thứ mẫu) là Thuận Nhân sinh ra), đã thờ thần chủ bà thứ mẫu Thuận Nhân phối hưởng với Tiên công, đó là lòng hiếu kính của ta theo chí hướng của các cụ trước, đời đời không dám vượt quá. Trí, em nên cùng với Thân con cả ta ở chung (trong Ngô gia văn phái và Ngô gia thế phả chép Ngô Thì Điển, chữ Điển 典 và Thân 伸 tự dạng gần giống nhau, có lẽ ở đây chép lầm chữ “Điển” ra chữ “Thân”?. Chú cháu phụng thờ tư tết phải kính cẩn, không được trái cái ý hiếu thuận của ta. Em [Trí] nên ở một khu đất phía trước, bên phải nhà của cháu Thân. Đất đó do Tiên công ta cho, lại một chiếc ao nữa, ta thu lại làm ao hương hỏa, sẽ lấy một chiếc ao đào cũ, sào thước cũng đúng bằng ấy để đổi.
Em thứ thứ nữa là Hoàng, vợ em có công nhưng không may không có con, cho em được ở quê vợ, cùng nương tựa với anh em họ ngoại. Em nên lấy vợ lẽ, người trong họ của vợ em, để kế về sau. Hàng năm lễ tết giỗ chạp thì về quê quán cùng anh em tôn tộc hội họp yến ẩm, là được.
Em thứ thứ nữa là Hương, mẹ em đã cải giá, vợ em cũng mất sớm, cảnh ngộ em rất lận đận, ta thương lắm. Nhưng sau em cưới vợ nữa, đó là điều không chỉ nói về đạo làm người, mà là theo đạo trời đấy. Vì ngay từ khi còn nhỏ đã phải đơn côi khổ cực, đạo trời thì thêm bớt, ắt trưởng thành hanh thông. Sau này để tang sinh mẫu và giá mẫu. Hiện tại không được gặp mặt em. Vợ em hiện không có con, cho phép em lấy em gái vợ làm kế thất. Em nên làm nhà ở xã Cao Xá, nhập tịch xã đó. Còn như thổ cư ở thôn Đức Lâm, nay chị dâu thứ nhì tạm ở, sau này lấy nhà đó làm nơi thờ vợ (cả) của em. Bố mẹ vợ em đem con gái thứ hai gả cho em, con rể cũng như con đẻ, sau này, theo lễ thì để tang 1 năm, theo tình thì để tang 3 năm, không được làm trái lời ta.
Con trưởng Thân ! Con là con cả, ở quê cha mẹ, phụng thờ tổ tông, con cùng chú Trí ở chung, phải lấy hiếu thuận khuyên bảo, lấy thành thực đối xử, chớ phá hoại nền nếp ông cha. Con giữ một khu ao hương hỏa và các thửa ruộng tế của đàn Truy Viễn, siêng năng sản nghiệp, để đủ dưa muối, không được khiếm khuyết.
Con thứ Nghi ! năm Nhâm Dần (1782) lúc ta phải trốn tránh, cùng bàn với mẹ con, cho con ở quê ngoại xã Bách Tính, để phụng thờ những giỗ chạp về họ ngoại. Con nên cùng cậu Đồng Lạc thị nhập tịch làng đó. Nay cho con một ngôi nhà ở bên phải nhà anh Thân con, đó là một khu đất đằng sau suốt mãi tới phần đất của chi trưởng, để khi tuần tiết hàng năm, trở về ở đó mà cúng tế cho tiện.
Con thứ thứ nữa Quán ! Đã cho làm thừa tự em gái ta là Cung Hòa huy nhân, vợ Trác Lĩnh hầu, cho con làm nhà ở xã Bằng Liệt để thờ tự bố mẹ nuôi. Còn mẹ đẻ con, cho một ngôi nhà ở bên trái nhà anh Thân con, đằng sau suốt mãi tới vườn sau từ đường, cho có nơi dựa dẫm, ăn ở được yên.
Ngoài ra, con trai, con gái còn nhỏ, phó cho mệnh trời, không dám mong ước nhiều.
Lại ông anh họ là Hựu, được nhờ cha ta xưa nuôi làm con, kể tuổi thì phải làm em ta, nay ta đã xây dựng gia đình cho em để giữ hương khói ngành trưởng, em phải cùng anh Trí và cháu Thân ở chung, phải một nhà hòa thuận yêu mến, có thủy có chung, nhất là chia rẽ người này người nọ, phải cấm hẳn. Nếu trái lời ta, tổ tiên chứng giám !
Này, ta là người ứng phó với việc đời, từng làm bài phú Mộng Thiên Thai, có câu rằng:
“Lấy cả vũ trụ làm lều chừ, 
Ôi sao buộc được cánh chim hồng đây?”
Con đường dong ruổi chạy vạy của ta, tương lai chưa thể đoán được. Ngửa trông phúc lớn, việc đi sứ xong, khi cưỡi ngựa nhìn thấy cái vui của gia đình, nào cha con, nào anh em, nào ông cháu, càng có nhiều truyện lý thú.
Một thiên nghị luận về việc họ này, chỉ là sơ lược mà thôi”.
Trên đường đi sứ, đi đến Nam Ninh, được tin quê nhà mở khoa thi, ông lại viết thư về dặn dò con cháu:
“Năm nay mở khoa thi, lấy học trò đỗ bằng những bài Kinh nghĩa và văn sách. Khi thi tuyển, quan hữu ty dẫn dắt, cất nhắc vào kinh. Bước đường mây xanh dài rộng, người học giỏi mới được nộp danh sách.
Xem ra, lũ chúng mày học thì đểnh đoảng, cần nên sửa chữa, đừng có chơi đùa, để đợi khoa sau sẽ gặp dịp tốt. Là con em nhà thế gia, đứng trong hàng đai mũ, không thể ví với con em nhà thường dân, gặp bước tiến mau, sức học thì không đủ, nhưng mong muốn những việc ngoài bổn phận, để nhục tới danh tiếng gia đình. Chú cháu chúng mày ở nhà, càng nên bảo nhau cố gắng, chăm đọc sử sách, vì ở đời người có văn chương là quý. Đến như việc khoa cử, phận trời đã định. Truyện nhà Đào Bính, để lại trò cười cho các nhà đại gia, phải răn cấm, phải răn cấm! Chớ cho lời ta nói là viển vông không thiết thực. Nếu nhà chức trách cho việc không nộp danh sách ứng cử mà trách móc, thì khi ra ứng khảo hạch ở huyện, nếu có mỗ mãng mà bị đánh hỏng, cũng không hại gì. Cần nhất là không nên “vẽ rắn trổ chim,” tài sức không đủ mà cứ miễn cưỡng làm, đến lúc thi lại, bị trượt, rất là hổ thẹn.
Đường xá xa xôi, trong lòng nhớ nhung, nghĩ tới các ngươi, mượn bút gửi lời, ghi lòng chớ trái.
Cuối tháng trọng Xuân, viết ở nhà trọ Nam Kinh, và để báo tin bình an mà mừng.”
(Giới đệ tử điệt thư)
Lần đi sứ này Ngô Thì Nhậm trở về bình yên. Về đến Thăng Long, ông chỉ kịp ghé qua nhà viếng mộ con trai Văn Trang vương vừa mất trước khi đi sứ ít ngày, rồi vào Phú Xuân ngay, mãi đến cuối năm Giáp Dần (1794) mới trở lại quê nhà.
Vua Quang Trung mất, Ngô Thì Nhậm mất đi người hiểu mình, biết đến tài năng và tin dùng mình. Quang Toản mới 15 tuổi lên nối ngôi, nội bộ triều đình dần dần bị chia rẽ sâu sắc, rồi lâm vào cuộc khủng hoảng nghiêm trọng, bởi người cậu Bùi Đắc Tuyên lợi dụng vua Quang Toản còn nhỏ tuổi, chuyên quyền, lộng hành, vơ vét của cải cho bản thân, gây ra năm bè bảy mối, gạt bỏ dần những bầy tôi giỏi, trung thành của vua Quang Trung. Rồi việc gì sẽ đến cũng đã đến. Triều đình Quang Toản sụp đổ. Nhà Nguyễn lên thay, Ngô Thì Nhậm bị đưa ra Văn Miếu đánh đòn. Trận đòn thù làm cho ông uất ức mà qua đời. L.G
VĂN BẢN HÀO MÂN AI LỤC CỦA NGÔ THÌ NHẬM -PHẠM THỊ THOA.
Hào Mân ai lục (HMAL) là tác phẩm được chép trong tùng thư Ngô gia văn phái của dòng họ Ngô Thì làng Tả Thanh Oai. Song hầu như chưa được giới thiệu và khai thác. Sách gồm các bài cáo văn, tế văn, hành trạng Ngô Thì Sĩ do Ngô Thì Nhậm soạn sau khi cha ông qua đời; ngoài ra HMAL còn tập hợp các câu đối mà Ngô Thì Nhậm đã đề ở đình chùa, nhà thờ họ, nhà tế cha... Nhân dịp kỷ niệm 200 năm ngày mất của ông, chúng tôi giới thiệu đôi nét về tác phẩm này.
1. Câu đối:
Số câu đối ở đây gồm cả câu đối trong Kim mã hành dư, cùng nằm trong quyển 7).
Cụ thể là câu đối ở Từ đường Ngô Thì Sỹ 83 đôi, đền Sùng Đức 7, nhà bia 2, nhà thờ Vĩnh Tư 3, điện tế vua Lê Hiển Tông 43, trai đường Thái Phi 47, phủ chúa Trịnh 10, nhà giải nhiệt 7, Khôn Hậu đường 11, Vương phủ đường 4, công phủ 10, lầu Minh Ngự ở đình bản xã 10, từ vũ bản huyện 9, miếu Chử Đồng Tử 3, chùa Linh Am 1, điện tế mẹ vợ 3, đền Hoàn Tiết 1, đền Sài Sơn 1, đền Tượng Hiền 2, đền Tiên Căn 7, Tam tự 1, nhà tế 19, câu đối mừng quan về hưu 18, đàn Truy Viễn 1, Tư Sảnh 8, nhà ở Kinh 2, chùa Trúc Lâm 6, ở sảnh đường 2 đôi.
Như vậy tất cả có 321 đôi câu đối, được chép ở 28 nơi khác nhau, từ đền chùa miếu mạo, đến nhà tế Ngô Thì Sỹ. Trong số câu đối trên, có câu ngắn gọn, dễ hiểu, nhưng cũng có câu được dùng điển tích điển cố, khiến người đọc phải tinh thông kim cổ mới có thể hiểu được. Điều này thể hiện sự thông minh lỗi lạc, học rộng hiểu nhiều của Ngô Thì Nhậm. Nội dung các câu đối cũng đa dạng theo địa điểm thờ cúng. Chẳng hạn ở nhà thờ Ngô Thì Sỹ câu đối ca ngợi văn chương đạo đức của cha:
師 世 文 章 奎 璧 燦 
宗 儒 道 德 斗 山 高
Sư thế văn chương Khuê Bích xán;
Tông nho đạo đức Đẩu Sơn cao.
(Văn chương bậc thầy sáng ngời như sao Khuê sao Bích;
Đạo đức đại nho cao ngất tựa Bắc Đẩu, Thái Sơn)
Chỉ một đôi câu đối ông cũng nêu hết công danh sự nghiệp của cha mình:
三 都 出 鎮 兼 文 武 
兩 進 登 朝 創 古 今
Tam đô xuất trấn kiêm văn võ;
Lưỡng tiến đăng triều sáng cổ kim.
(Ba lần ra trấn thủ xứ ngoài tài kiêm văn võ;
Hai lượt được tiến triều gây sự nghiệp xưa nay).
Câu đối ở điện tế vua Lê Hiển Tông Dụ Hoàng đế thì ca ngợi đức cao vọng trọng của nhà vua:
深 仁 厚 澤 久 涵 濡 如 化 日 光 天 所 在 尊 親 冒 怙 
盛 德 茂 功 齊 溥 博 雖 深 山 窮 谷 罔 不 奔 走 悲 號
Thâm nhân hậu trạch cửu hàm nhu, như hóa nhật quang thiên, sở tại tôn thân mạo hỗ;
Thịnh đức mậu công tề phổ bác, tuy thâm sơn cùng cốc, võng bất bôn tẩu bi hào.
(Nhân sâu ơn hậu, thấm nhuần đã lâu, như bóng mặt trời tỏa khắp, bầu trời sáng trưng, mọi nơi được thương yêu nương tựa;
Đức thịnh công cao, rộng che hết thảy, dù trên núi xa xăm, hang cùng ngõ tối, không đâu phải chạy vạy kêu gào).
Đền Sài Sơn ông chỉ còn để lại một đôi câu đối, song nó đã nêu được đầy đủ triết lý về nhân sinh, về đạo lý:
道 則 無 始 終 可 能 始 盡 制 終 盡 倫 昭 焄 豈 在 地 
人 皆 有 生 死 惟 有 生 完 美 死 完 局 壽 天 不 爭 天
Đạo tắc vô thủy chung, khả năng thủy tận chế, chung tận luân, chiêu huân khởi tại địa;
Nhân giai hữu sinh tử, duy hữu sinh hoàn mỹ, tử hoàn cục, thọ thiên bất tranh thiên.
(Đạo thì không có đầu không có cuối, sao cho đầu thì làm hết chế độ, cuối thì hết luân thường, sáng soi rực rỡ đâu phải tại đất;
Người đều có sống có chết, miễn sao sống cho hoàn mỹ, chết cho vẹn toàn, tuổi thọ không ganh đua được với trời).
(    http://hannom.org.vn/ ).
Xin theo dõi tiếp bài 14. dienbatn.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét