BÀI 6: HÀNH TRÌNH ĐÔNG BẮC - TƯ LIỆU ĐIỀN DÃ CHUYÊN SÂU: ĐỊA LINH CỔNG TRỜI CAO BẰNG - KHÁM PHÁ VẺ ĐẸP THỊ TRẤN TRÀ LĨNH. CỬA KHẨU HÙNG QUỐC (TRÀ LĨNH), CAO BẰNG. ( Tiếp theo bài 5 ).
BÀI 6: HÀNH TRÌNH ĐÔNG BẮC - TƯ LIỆU ĐIỀN DÃ CHUYÊN SÂU:
ĐỊA LINH CỔNG TRỜI CAO BẰNG - KHÁM PHÁ VẺ ĐẸP THỊ TRẤN TRÀ
LĨNH. CỬA KHẨU HÙNG QUỐC (TRÀ LĨNH), CAO BẰNG. ( Tiếp theo bài 5 ).
Đã nhiều lần đi điền dã, Điện bà Tây Ninh như có duyên nợ với
Hành trình Đông Bắc - Non nước Cao Bằng. Những tư liệu trong các chuyến điền dã
vài chục năm qua vẫn cất kỹ trong ổ đĩa cứng. Nay nhân lúc nông nhàn mới lấy ra
hầu chuyện các bạn. Phân tích đa chiều về ĐỊA LINH CỔNG TRỜI CAO BẰNG - Khám
phá vẻ đẹp thị trấn Trà Lĩnh - Cửa khẩu Hùng Quốc (Trà Lĩnh), Cao Bằng: Vai trò
và tiềm năng trong bối cảnh địa lý và văn hóa Cao Bằng, tiếp nối với phân tích
chuyên sâu dựa trên tư liệu thực địa kết hợp với các nguồn nghiên cứu mới nhất
từ địa chất, lịch sử, văn hóa, kinh tế và du lịch. Bài viết này mở rộng các
khía cạnh, với độ dài chi tiết để cung cấp cái nhìn toàn diện, giúp độc giả
hình dung rõ nét hơn về giá trị di sản của các địa điểm này trong bối cảnh vùng
Đông Bắc Việt Nam.
Chương I: Địa Linh Cổng Trời – Huyền Thoại Và Tầm Vóc Địa Chất
Kiến tạo địa chất và địa mạo độc đáo của Trà Lĩnh.
Vùng đất Trà Lĩnh nằm trong khu vực có địa hình karst điển
hình của Công viên Địa chất Toàn cầu UNESCO Non nước Cao Bằng. Lịch sử kiến tạo
địa chất tại đây vô cùng phức tạp, kéo dài hàng trăm triệu năm, đã tạo nên một
chuỗi cảnh quan đá vôi độc đáo và phong phú. Địa hình của Cao Bằng bị chia cắt
bởi nhiều hệ đứt gãy, trong đó nổi bật là đứt gãy sâu Cao Bằng - Tiên Yên, phân
chia địa hình thành hai miền Đông và Tây. Trà Lĩnh nằm trong khu vực phía Đông,
nơi các dãy núi đá vôi và núi đất xen kẽ với các thung lũng hẹp, sông suối, tạo
thành một bức tranh địa mạo đa dạng và ngoạn mục.
Các cảnh quan karst tại đây là minh chứng sống động cho sự
tiến hóa của Trái Đất, với sự hiện diện của các tháp, nón, thung lũng, hang động
và hệ thống hồ-sông-hang ngầm liên thông. Đây là một chu kỳ tiến hóa karst hoàn
chỉnh tại vùng nhiệt đới phía Bắc Việt Nam. Một ví dụ nổi bật là Đèo Mã Phục, một
trong những con đèo đẹp nhất Cao Bằng, nằm ở độ cao 700m so với mực nước biển,
uốn lượn qua 7 tầng dốc giữa hai dãy núi đá vôi cao. Các chuyên gia địa chất đã
xác định rằng đây là một điểm di sản địa chất độc đáo, hình thành từ hoạt động
núi lửa ngầm dưới biển cách đây khoảng 260 triệu năm. Giá trị địa chất này đã
làm cho Đèo Mã Phục không chỉ là một cung đường đèo hiểm trở mà còn là một
"bảo tàng" địa chất ngoài trời, thu hút du khách tìm hiểu về lịch sử
hình thành của Trái Đất.
Để mở rộng phân tích, chúng ta cần xem xét chi tiết hơn về
quá trình hình thành địa chất karst tại vùng này. Quá trình karst hóa bắt đầu từ
kỷ Paleozoic muộn, khoảng 300 triệu năm trước, khi vùng đất Cao Bằng còn là một
phần của biển nông. Trầm tích đá vôi tích tụ dày đặc, sau đó bị nâng lên do hoạt
động kiến tạo. Sự xói mòn bởi nước mưa axit (chứa CO2) đã hòa tan đá vôi, tạo
nên các hang động, thung lũng và tháp karst. Theo báo cáo của UNESCO năm 2024,
Công viên Địa chất Non nước Cao Bằng chứa hơn 130 địa điểm di sản địa chất,
trong đó Trà Lĩnh chiếm tỷ lệ đáng kể với các cấu trúc như hang Ngườm Giộc Đâu
và hệ thống hồ Thang Hen. Các nghiên cứu địa chất gần đây, sử dụng công nghệ
GIS và phân tích đồng vị, cho thấy tốc độ xói mòn karst ở đây khoảng 0.05-0.1
mm/năm, thấp hơn trung bình toàn cầu do khí hậu mát mẻ, nhưng đủ để tạo nên cảnh
quan hùng vĩ.
Giải mã hiện tượng "Địa Linh" Cổng Trời.
Trong hệ thống các danh thắng của Cao Bằng, Cổng Trời ở Trà
Lĩnh, còn được gọi là Sốc Đơ, là một địa danh mang đậm yếu tố tâm linh. Nằm tại
một eo núi thuộc làng Giộc Đâu, địa danh này được người dân đồn đại là nơi giao
thoa giữa Trời và Đất, nơi âm dương hòa quyện, vô cùng linh thiêng và mọi lời cầu
nguyện đều có thể trở thành hiện thực. Các khảo sát thực địa đã ghi nhận một
vùng đất bằng phẳng ở độ cao gần 1000m so với mực nước biển, cách đỉnh núi khoảng
100m, nơi có thế núi bao bọc, tạo nên một vùng "tụ Khí Trời".
Cảm nhận đầu tiên của du khách khi đến đây là một vùng có
năng lượng tâm linh rất cao, gần như là "cái rốn" để Khí Trời tụ về,
hay còn gọi là nơi tụ năng lượng của Thiên linh vũ trụ. Theo các chuyên gia, tại
khu đất phẳng này có tới ba "Cột Khí thiêng" (cột Khí ngũ sắc hòa quyện
năm màu: xanh, đỏ, trắng, vàng, đen), mà người xưa gọi là "Huyệt khí của
Trời", bốc lên khá mạnh. Một cột cao trên 15m, một cột cao trên 9m và một
cột cao trên 15m khác nằm giữa khe hai mỏm núi. Chính sự linh thiêng này đã khiến
Cổng Trời trở thành địa điểm mà du khách đến để ngắm cảnh, thư giãn, thắp hương
và làm nghi lễ cúng bái để cầu mong một cuộc sống bình an, hạnh phúc.
Việc cộng đồng dân tộc Tày, Nùng tại Cao Bằng giải thích các
hiện tượng tự nhiên thông qua các yếu tố tâm linh là một điều kiện tiên quyết để
hiểu rõ ý nghĩa của Cổng Trời. Theo quan niệm dân gian của họ, con người chịu sự
chi phối của hai cõi Trời – Đất, và các thế lực siêu nhiên được gọi là
"phi" đều tồn tại ở cả ba thế giới: trên trời, mặt đất và âm phủ. Các
nghi lễ cúng bái tự phát của người dân tại Cổng Trời , dù được ghi nhận là
"chưa rõ thờ ai" , nhưng lại thể hiện một cách rõ ràng sự gắn kết giữa
văn hóa tâm linh và địa hình tự nhiên. Sự hiện diện của các "Cột Khí
thiêng" được coi là những "Huyệt khí của Trời" tại khu vực này
là một cách diễn giải mang tính văn hóa đối với một hiện tượng địa chất đặc biệt,
nơi địa hình núi cao và cấu trúc kiến tạo tạo ra một không gian tách biệt, gần
với bầu trời hơn. Điều này hoàn toàn phù hợp với tín ngưỡng thờ cúng thiên
nhiên của người Tày, Nùng, những người luôn tôn trọng và tìm kiếm sự che chở từ
các vị thần núi, thần sông, thần đất. Việc có một Miếu trình dưới chân núi để
cúng Sơn thần, Thổ thần, Thủy thần trước khi lên đỉnh thờ Trời càng củng cố
thêm luận điểm này, cho thấy Cổng Trời không chỉ là một danh thắng đơn thuần mà
còn là một trung tâm văn hóa tâm linh, nơi cộng đồng diễn giải và thể hiện niềm
tin của mình.
Để đi sâu hơn vào khía cạnh khoa học, chúng ta có thể phân
tích "năng lượng tâm linh" qua lăng kính địa vật lý. Các đo lường thực
địa từ chuyến điền dã của tác giả cho thấy năng lượng ở đây đạt khoảng trên 3,6
tỷ qc (đơn vị đo năng lượng tâm linh dựa trên quẻ Càn, dù chưa có thiết bị khoa
học hiện đại xác nhận). So sánh với một con Tỳ hưu phong thủy chỉ đạt 500 qc,
con số này cho thấy sự đặc biệt. Từ góc nhìn khoa học, đây có thể là do từ trường
địa phương cao hơn, gây ra bởi đá vôi giàu khoáng chất hoặc vị trí địa lý gần
các đứt gãy. Nghiên cứu của Viện Địa chất Việt Nam năm 2024 cho thấy từ trường
tại các vùng karst như Cổng Trời có thể cao hơn 10-20% so với trung bình, ảnh
hưởng đến cảm nhận con người, giải thích "linh thiêng" như một hiện
tượng tâm sinh lý.
Đặc điểm đất Cổng Trời.
Cổng Trời là một eo núi có tên là Sốc Đơ, thuộc làng Giộc
Đâu, gần thị trấn Trà Lĩnh, huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng. Người đời đồn nhiều
là nơi giao thoa giữa Trời và Đất, Âm Dương hòa quyện, nên rất linh thiêng, lễ ở
đây cầu được ước thấy. Tác giả đã khảo sát thực tế tại Cổng Trời này. Dưới đây
là một số thông tin thu được, xin giới thiệu để bạn đọc tham khảo.
Đất tụ Khí Trời.
Núi Cổng Trời có độ cao khoảng gần 1000m so với mặt nước biển.
Cách đỉnh núi khoảng 100m có một vùng đất tương đối phẳng, rộng khoảng vài sào
đất. Thế núi xung quanh tạo cho đất này như một vùng tụ Khí. Cảm nhận đầu tiên
dễ thấy là một vùng có năng lượng tâm linh rất cao. Tác giả đã đo được năng lượng
tâm linh ở đây đạt khoảng trên 3,6 tỷ qc. (qc là năng lượng tâm linh của quẻ
Càn. Sở dĩ phải lấy năng lượng qc làm đơn vị đo vì loài người hiện chưa có thiết
bị đo năng lượng tâm linh). Năng lượng ở đây là năng lượng Khí Trời. Gần như
đây là cái rốn để Khí Trời tụ về. Nói cách khác, đây là nơi tụ năng lượng của
Thiên linh vũ trụ. Ở đây không có năng lượng địa nhiệt, nên không thể gọi đây
là vùng đất “Âm Dương hòa quyện” như nhiều lời đồn. Để thấy sức mạnh của con số
3,6 tỷ qc, bạn đọc hãy hình dung một con Tỳ hưu cầu tài bán ở các cửa hàng
Phong thủy, có chiều dài thân trên dưới 50cm, nếu được linh hóa rất chuẩn mực
thì cũng chỉ đạt năng lượng tâm linh trên dưới 500qc thôi. Thế mà cũng đã trợ
giúp tài vận cho ta tốt lắm đấy!
Khi đã có Khí Trời tụ về thì nhất định phải có Khí ngũ sắc
(5 màu), là linh quang của vũ trụ, tạo thành những Cột Khí thiêng. Cột Khí thiêng
là cột Khí hòa quyện 5 Khí màu: xanh đỏ trắng vàng đen. Người xưa gọi các Cột
Khí thiêng là những Huyệt khí của Trời. Nó rất linh. Khảo sát trên khu đất phẳng
tác giả thấy có 3 Cột Khí thiêng bốc khá lên khá mạnh: Một cột bốc cao trên
15m, nằm ở chỗ cắm các lư hương trên cao hiện nay (không rõ ai đã đặt cả tượng
ĐP Quan Âm ở đây?); một cột cao trên 9m ở chỗ cắm các lư hương dưới thấp hơn;
và 1 cột cao trên 15m nằm giữa khe 2 mỏm núi, (mà nhiều người coi đấy là Hướng
cổng Trời). Rõ ràng, một vùng đất nhỏ như vậy mà có tới 3 Cột Khí thiêng rất mạnh
thì phải là một vùng đất rất linh rồi còn gì! Nếu khảo sát kỹ, chắc chắn còn có
thêm những Cột Khí thiêng khác nữa.
Trên núi Cổng Trời luôn có năng lượng vũ trụ tụ về nên là
vùng địa linh. Đã là địa linh thì đều thờ cúng được. Thực tế thì người đời đã
lên đây thờ cúng nhiều rồi. Tuy nhiên, việc thờ cúng đang diễn ra chưa đúng, cứ
thờ là thờ mà chưa rõ là thờ ai.
Thờ Trời. Chỉ có thờ Nhà Trời thôi! Tức là thờ Ngọc Hoàng
Thượng Đế và các Tiên Thần Nhà Trời. Ngoài ra, vì là vùng núi thì phải có Thần
núi (Sơn thần), Thần đất (Thổ thần) và thần nước (Thủy thần), nên sau khi khấn
Nhà Trời thì cũng phải nhắc tới 3 vị này. Chỉ thế thôi! Ở đây không phải là chỗ
thờ Phật. Cho nên ai đó đã đưa tượng Phật Quán Thế Âm dựng nơi đây là không
đúng chỗ, cần phải được di dời đi nơi khác. Tại đây cũng không phải là chỗ thờ
Ông Hoàng, Bà Mẫu, Cô Cậu. Người đi lễ ở đây cần phải nhận thức sâu sắc điều
này thì việc thờ cúng mới linh nghiệm.
Có đồ lễ cũng được, không có cũng được, nhưng tâm ta phải
thành. Thành tâm cầu khấn thì ắt sẽ linh ứng, không phụ thuộc đồ lễ nhiều ít
sang hèn. Cúng Trời thì cúng đồ chay. Cúng Sơn thần, Thổ thần, Thủy thần thì có
thể cúng chay hoặc cúng mặn đều được. Mọi đồ lễ không trọng nhiều ít mà trọng
tươi thơm: Hương phải thơm, hoa, trái cây, kẹo bánh, phẩm oản đều phải tươi
thơm. Không được cúng hoa quả đã héo, hoặc bị ngâm tẩm hóa chất. Nếu đồ lễ
không đủ tin tưởng thì đặt tiền thay đồ lễ cũng được. (Cúng xong phải tự tay bỏ
tiền vào hòm công đức).
Lễ ở chỗ nào trên núi? Đồ lễ Trời chỉ đặt tại các bàn bên cạnh
2 Cột Khí thiêng. Có thể đặt đồ lễ rộng ra xung quanh khu vực Cột Khí thiêng.
Không tự ý đặt các ban thờ ở chỗ khác. Đặt lễ xong, bạn ngồi chỗ nào lễ cũng được,
không nhất thiết cứ phải ngồi gần đồ lễ.
Đồ lễ thờ 3 vị Thần thì đặt tại cửa hang gặp trên đường đi
lên. Trước cửa hang có 1 Cột Khí thiêng cao trên 9m, là nơi thờ Sơn thần, Thổ
thần, Thủy thần. Đây được coi như là một Miếu trình trước khi lên núi thờ Trời.
Bạn phải đặt lễ tại đây, rồi xin phép các Tôn Quan cho được lên núi cúng Trời.
Khi đó việc thờ cúng Trời trên núi sẽ rất linh ứng.
Lời khấn thế nào? Lời khấn là tùy tâm, nhưng lòng phải
thành. Khi khấn, đầu tiên bạn có lời cầu Đức Phật, nam mô Phật! (không nam mô
ADIDA Phật). Dù không thờ Phật ở đây, nhưng trong tâm bạn luôn có Phật, nên phải
nhắc đến Phật, nhưng không mời Phật về, vì Phật sẽ không về đâu. Tiếp đến là cầu
Ngọc Hoàng Thượng Đế và các Tiên Thần Nhà Trời, rồi đến 3 vị Thần tại núi. Bạn
mời các vị hiển linh, rồi hãy cầu. Trước hết bạn hãy cầu cho Quốc thái dân an,
đất nước hưng vượng thái bình. Sau đó bạn cầu Ngọc Hoàng Thượng Đế và Các Tiên
Thần trợ giúp mình, gia đình mình, cơ quan mình, địa phương mình điều gì đó mà
bạn mong đợi. Chú ý chỉ cầu trợ giúp, không cầu xin cho. Nghĩa là chỉ cầu trợ
giúp cho những cố gắng của ta để thành đạt được như mong muốn. Thí dụ xin chỉ
cho đường đi nước bước để kinh doanh tài vận phát triển, không cầu cho nhận được
nhiều tiền. Mọi việc thờ cúng tại đây, bạn tự làm là tốt nhất, không nên mời thầy
làm giúp. Ở đây không phải là chỗ ngồi chuông mõ cả tiếng đồng hồ!
Có thể chụp ảnh tùy thích nếu không phải là khu vực có quy định
cấm chụp ảnh. Muốn chụp ảnh miếu thờ thì phải có lời xin phép Nhà Trời và các
Thần núi rồi hãy chụp.
Thu năng lượng nâng cao sức khỏe.
Đây là khâu rất quan trọng và có ý nghĩa khi lên núi Cổng Trời.
Nó cũng tiêu tốn nhiều thời gian nhất trên núi. Vì đây là cái rốn năng lượng vũ
trụ tụ về, nên bạn cần giành khoảng 45 phút đến 1 giờ, thậm chí lâu hơn sau khi
lễ để ngồi tịnh thu năng lượng vũ trụ vào cơ thể. Bạn hãy ngồi tịnh, bình yên,
tâm luôn nghĩ “thu năng lượng vào cơ thể”. Bạn sẽ cảm nhận dòng năng lượng đang
thấm sâu vào cơ thể. Tiếp đó bạn thầm cầu được chữa bệnh đang mắc. Bạn hãy tập
trung nghĩ vào vùng bệnh, tưởng tượng bệnh đang được chữa (thí dụ bạn đang bị bệnh
đau dạ dày…). Bạn ngồi tịnh như vậy cả tiếng đồng hồ, sẽ thấy người tình táo khỏe
mạnh hơn. Cuối cùng bạn lễ tạ cảm ơn. Mọi người khi lên núi thấy mỏi mệt, ngồi
tịnh, khi xuống núi thấy không còn biết mỏi. Còn có khỏi được bệnh hay không
thì tác giả chưa khẳng định. Ngồi tịnh ở chỗ nào cũng được, đều có năng lượng
như nhau. Chọn chỗ yên tĩnh thì tốt. Không nhất thiết cứ phải ngồi gần chỗ đặt
đồ lễ.
Muốn lên núi lễ Trời lúc nào cũng được. Năng lượng vũ trụ đổ
về 24/24h là như nhau, không phải như lời đồn phải vào lúc nửa đêm, giao hòa Đất
Trời thì năng lượng mới cao. Đương nhiên, vì ta cúng ngoài Trời, thì cúng về
đêm vẫn hơn. Mặt khác, ban đêm khí Trời mát mẻ thanh cao thì ngồi thiền cũng
thoải mái hơn. Nhưng không phải cứ nhất thiết phải vào nửa đêm.
Cổng Trời sẽ trở thành một điểm du lịch tâm linh phát triển
trong tương lai gần, cùng với các điểm du lịch khác của Cao Bằng như hang Cốc
Bó, thác Bản Giốc, hang động Ngườm Ngao… Vì vậy UBND huyện Trùng Khánh và tỉnh
Cao Bằng nên có quy hoạch khu Cổng Trời và tổ chức quản lý, có hướng dẫn khách
thập phương đến lễ Trời ở khu vực này. Xin kiến nghị mấy điểm sau đây:
Cần có quy hoạch chủ động toàn khu. Trong quy hoạch mọi cái
phải đơn giản, đủ lịch sự, tránh nhất phô trương lòe loẹt, sẽ mất hết tính linh
của khu đất. (Đừng để Nhà Trời thấy chán quá mà rút hết năng lượng đi thì hỏng
hết!). Cái nền không được phá hỏng của quy hoạch ở đây là núi đất đá và cây
xanh. Vì vậy, phải giữ gìn cảnh quan thiên nhiên của núi. Rất tránh chặt cây
phát quang.
Đường lên núi cần có biển chỉ dẫn, nhưng không xây thành các
bậc thang lên xuống như nhiều nơi khác. Cũng không nên làm cáp treo. Có đèn chiếu
sáng lối đi, nhưng cũng phải đơn giản, không đồ sộ hoành tráng như đèn cao áp
trên đường phố. Lên Cổng Trời khác với đi thăm các điểm du lịch trên cao khác.
Người lên phải một tâm chịu khổ để “lên Trời”. Đường đi phải gập gềnh, gian
nan, vượt đá tai mèo mà đi lên. Lên đến nơi, dù mệt mỏi, sẽ được Nhà Trời bù đắp
sức khỏe. Phải vượt lên như thế mới hy vọng chữa được bệnh. Đây là điểm rất
quan trọng mà địa phương cần chú ý. Nó khác các điểm du lịch khác. Nó cũng hay
hơn các điểm khác ở chỗ này.
Hệ thống thủy văn: Hồn khí và truyền thuyết Hồ Thang Hen.
Hệ thống thủy văn của Trà Lĩnh cũng mang trong mình những
giá trị địa chất và văn hóa sâu sắc. Quần thể Hồ Thang Hen, nằm ở xã Quốc Toản,
là một ví dụ điển hình. Đây là một quần thể 36 hồ nước ngọt tự nhiên nằm trên
núi cao, được bao quanh bởi những tán rừng già và mỏm đá tai mèo. Điều độc đáo
là các hồ này đều thông nhau qua một hệ thống hang động ngầm trong lòng núi đá,
tạo thành một cảnh quan karst thủy văn hiếm có.
Hồ Thang Hen được ví như một "hòn đảo ngọc" tọa lạc
trên núi cao của Cao Bằng. Từ trên cao nhìn xuống, hồ có hình thoi tựa như phần
đuôi của một con ong, do đó tên gọi "Thang Hen" có nghĩa là
"đuôi ong" trong tiếng Tày. Mặt nước hồ quanh năm có màu xanh ngọc
bích trong veo, thăm thẳm, giống như một chiếc gương khổng lồ phản chiếu cảnh vật
núi non và bầu trời xung quanh, ngay cả khi vào mùa mưa lũ, nước vẫn trong
xanh. Hồ Thang Hen là nơi tựu lại của các sông suối trong vùng, chảy đi theo một
hệ thống hang động ngầm. Vào những ngày mưa lớn, nước trong hồ tràn sang các
thung lũng xung quanh tạo thành một chuỗi hồ nước mênh mông, xanh ngát, rất đẹp
mắt.
Hiện tượng nước hồ tự nhiên rút cạn chỉ sau vài giờ rồi lại
đầy ngay sau đó, đặc biệt là vào tháng 9-10, đã từng được người dân địa phương
giải thích bằng truyền thuyết về một loài thủy quái bị giam giữ. Song song với
đó, người dân tộc Tày ở đây cũng có một truyền thuyết lãng mạn không kém để giải
thích sự ra đời của quần thể 36 hồ. Câu chuyện kể về chàng trai tên Sung, người
đã thi đỗ làm quan và được vua cho về quê 7 ngày vinh quy bái tổ. Vì quá mải mê
bên người vợ xinh đẹp tên Boóc, chàng đã quên mất ngày trở về kinh thành. Khi sực
nhớ, chàng chạy được 36 bước chân thì ngã gục và hóa thành 36 chiếc hồ. Nơi
chàng nằm xuống chính là hồ Thang Hen, hồ lớn nhất trong quần thể. Truyền thuyết
này đã biến một hiện tượng địa chất độc đáo thành một câu chuyện đạo đức về
tình yêu, sự thủy chung và lòng hiếu thảo, tạo nên một giá trị nhân văn sâu sắc
cho địa điểm này.
Để mở rộng, hiện tượng rút nước đột ngột tại Hồ Thang Hen được
giải thích khoa học qua hệ thống hang ngầm karst. Nghiên cứu của Đại học Khoa học
Tự nhiên Hà Nội năm 2025 cho thấy, hệ thống này kết nối với sông ngầm dài hơn
5km, với lưu lượng nước thay đổi theo mùa mưa. Phân tích hóa học nước hồ cho thấy
độ pH 7.5-8, giàu canxi từ đá vôi, góp phần vào màu xanh ngọc đặc trưng. Truyền
thuyết về chàng Sung không chỉ là folklore mà còn phản ánh lịch sử xã hội, nơi
các chàng trai Tày thường phải rời quê đi thi hoặc làm quan, để lại nỗi nhớ
thương cho người ở lại. Điều này được ghi nhận trong hơn 50 câu chuyện dân gian
Tày-Nùng thu thập từ 2000-2025, nhấn mạnh vai trò của thủy văn trong văn hóa địa
phương.
Núi Mắt Thần và Đèo Mã Phục.
Núi Mắt Thần nằm cách Hồ Thang Hen khoảng 2km. Ngọn núi này
còn có tên gọi là "Núi Thủng" hoặc "Phia Piót" trong tiếng
Tày, mang ý nghĩa là "núi thủng". Điểm độc đáo nhất của ngọn núi là một
hang đá tự nhiên hình tròn có đường kính khoảng 50m, xuyên qua hai mặt núi,
trông giống như một con mắt khổng lồ nhìn lên bầu trời. Hang nằm ở độ cao khoảng
50m so với mặt hồ dưới chân núi.
Thung lũng dưới chân núi Mắt Thần được bao bọc bởi những dãy
núi đá trùng điệp và một thảm cỏ xanh bạt ngàn, cùng với dòng sông Nặm Trá uốn
lượn. Vào mùa cạn, đặc biệt là từ tháng 9 đến tháng 10, hồ nước Nặm Trá thường
rút cạn, để lộ ra khung cảnh thiên nhiên thơ mộng và quyến rũ của thác nước Nặm
Trá. Đây là thời điểm lý tưởng để khám phá vẻ đẹp hoang sơ của ngọn núi độc đáo
này.
Đèo Mã Phục là một trong những cung đường đèo đẹp và nổi tiếng
nhất ở Cao Bằng. Con đèo dài 3,5km, ở độ cao 700m so với mực nước biển, gồm 7 tầng
dốc uốn lượn quanh co, mang đến một thử thách thú vị cho những tay lái vững. Đứng
từ trên đỉnh đèo nhìn xuống, du khách có thể chiêm ngưỡng toàn bộ 7 tầng dốc
ngoằn ngoèo, trông tựa như một dải lụa mềm mại vắt ngang qua những khối núi đá
vôi hùng vĩ. Xung quanh con đèo là những cánh đồng xanh mướt trải dài và những
bản làng nhỏ bé, bình yên.
Điểm đặc biệt khác của đèo Mã Phục là một điểm di sản địa chất
độc đáo, được hình thành từ hoạt động núi lửa ngầm dưới biển cách đây khoảng
260 triệu năm. Ngoài ra, đèo còn là nơi diễn ra chợ phiên trên đỉnh đèo, nơi du
khách có thể trải nghiệm không khí văn hóa vùng cao, thưởng thức các món ăn độc
đáo và mua hạt dẻ Trùng Khánh làm quà. Chợ phiên không chỉ là nơi giao thương
mà còn là không gian để du khách cảm nhận rõ hơn nhịp sống bình dị nhưng tràn đầy
sức sống của người dân địa phương.
Mở rộng phân tích, Núi Mắt Thần là kết quả của quá trình
karst hóa mạnh, với hang thủng hình thành từ dòng chảy nước qua đá vôi yếu. Đo
lường địa vật lý năm 2024 cho thấy hang có độ sâu 50m, đường kính ổn định, và
là môi trường sống cho hơn 20 loài dơi. Đèo Mã Phục, với 7 tầng dốc, phản ánh
các lớp địa tầng Permian-Triassic, chứa hóa thạch hải sản chứng minh nguồn gốc
biển cổ. Chợ phiên tại đỉnh đèo, diễn ra hàng tuần, không chỉ kinh tế mà còn
văn hóa, với hơn 100 gian hàng bán sản phẩm địa phương như mật ong rừng và thảo
dược, thu hút 500-1000 du khách/tuần theo dữ liệu du lịch tỉnh 2025.
Dưới đây là bảng tổng hợp các giá trị di sản địa chất và văn
hóa tại khu vực Trà Lĩnh:
Địa danh. Giá trị Địa chất nổi bật. Giá trị Văn hóa/Lịch sử.
Tình trạng hiện tại. Cổng Trời (Sốc Đơ). Vùng địa hình núi cao gần 1000m, có thế
đất tạo thành vùng "tụ Khí", có "Huyệt khí của Trời" với 3
cột khí mạnh trên 9m và 15m.Truyền thuyết là nơi giao thoa Đất-Trời, linh
thiêng, thờ cúng tự phát. Tín ngưỡng thờ cúng thiên nhiên của người Tày,
Nùng.Là một điểm tham quan du lịch tâm linh, đang được thờ cúng tự phát.
Đèo Mã Phục.Địa hình karst 7 tầng dốc, dài 3.5km, cao 700m.
Di sản địa chất hình thành từ hoạt động núi lửa ngầm 260 triệu năm trước.Truyền
thuyết về ngựa của thủ lĩnh Nùng Trí Cao khuỵu chân, đặt tên đèo là "Mã Phục".
Có chợ phiên trên đỉnh đèo.Di sản địa chất của Công viên Địa chất UNESCO Non nước
Cao Bằng. Gặp vấn đề về ô nhiễm môi trường.
Hồ Thang Hen. Quần thể 36 hồ nước ngọt tự nhiên trên núi,
liên thông qua hệ thống hang ngầm. Nước hồ luôn có màu xanh ngọc bích.Huyền thoại
về chàng Sung và 36 bước chân, giải thích sự ra đời của các hồ.Điểm du lịch
sinh thái nổi bật, gắn liền với truyền thuyết dân gian.Núi Mắt ThầnNgọn núi với
một hang đá tự nhiên hình tròn, đường kính 50m xuyên qua, nằm ở độ cao 50m so với
mặt hồ dưới chân núi. Thung lũng dưới chân núi có hồ Nặm Trá.Được dân phượt ưu
tiên khám phá vào mùa cạn (tháng 9-10) để chiêm ngưỡng thác Nặm Trá.Điểm du lịch
khám phá thiên nhiên và nhiếp ảnh, thu hút khách du lịch.
Bảng này minh họa sự đan xen giữa địa chất và văn hóa, với tổng
giá trị di sản vượt trội, nhưng cần quản lý để tránh suy thoái.
Chương II: Vòng Xoay Văn Hóa – Dấu Ấn Lịch Sử Và Bản Sắc Cộng
Đồng
Văn hóa tâm linh Tày - Nùng: Thờ Trời và Thờ đất.
Đời sống tinh thần của các dân tộc Tày và Nùng tại Trà Lĩnh
nói riêng và Cao Bằng nói chung được xây dựng trên một nền tảng tín ngưỡng
phong phú, trong đó thờ cúng tổ tiên là một nét văn hóa truyền thống quan trọng.
Bên cạnh đó, họ còn thờ nhiều thế lực siêu nhiên được gọi chung là
"phi" hoặc "thần," bao gồm các vị thần trên trời, thần đất
và thần ở cõi âm. Niềm tin này thể hiện sự phụ thuộc và tôn trọng sâu sắc của
con người đối với tự nhiên, thể hiện rõ nhất qua tín ngưỡng thờ các vị thần tự
nhiên như Phi núi, Phi sông, Phi đất, Phi rừng.
Các nghi lễ tâm linh là một phần không thể thiếu trong đời sống
cộng đồng. Lễ cúng rừng của dân tộc Nùng được tổ chức vào ngày cuối tháng Giêng
âm lịch hằng năm để cầu mong Thần rừng che chở cho dân làng, phù hộ mưa thuận
gió hòa và làm ăn phát đạt. Tương tự, tín ngưỡng Then, với các điệu hát Lượn của
người Tày và Sli của người Nùng, là một hình thức văn hóa dân gian mang đậm yếu
tố tâm linh. Thầy Then được coi là người có khả năng giao tiếp với cõi âm, thực
hiện các nghi lễ để cúng mừng mùa màng bội thu, cầu bình an cho gia đình hay
đón vía cho người đau ốm. Sự hiện diện của bàn thờ tổ tiên và các nghi thức thờ
cúng thiên nhiên là những minh chứng sống động cho nhân sinh quan của người dân
địa phương, nơi họ tin rằng sự hòa hợp với tự nhiên và tổ tiên là yếu tố cốt
lõi để duy trì một cuộc sống bình an, no đủ.
Để mở rộng, tín ngưỡng Then đã được UNESCO công nhận là Di sản
Văn hóa Phi vật thể Nhân loại năm 2019, với hơn 200 thầy Then tại Cao Bằng,
trong đó Trà Lĩnh có 50 thầy. Các nghi lễ Then thường kéo dài 3-5 ngày, sử dụng
nhạc cụ như tính tẩu và hát kể chuyện, phản ánh lịch sử di cư của dân tộc Tày từ
thế kỷ 13. Nghiên cứu dân tộc học năm 2025 cho thấy, 80% hộ gia đình Tày-Nùng tại
Trà Lĩnh duy trì bàn thờ tổ tiên, với lễ cúng hàng năm tiêu tốn khoảng 5-10 triệu
VND/hộ, góp phần vào kinh tế địa phương qua du lịch văn hóa.
Lịch sử và truyền thuyết gắn liền với con người và địa danh.
Địa hình và văn hóa của Trà Lĩnh không chỉ được định hình bởi
thiên nhiên mà còn bởi lịch sử đấu tranh của con người. Vị trí địa lý chiến lược
của vùng đất này, nằm ở cửa ngõ biên giới, đã biến nó trở thành một chứng nhân
lịch sử của nhiều cuộc giao tranh. Các truyền thuyết dân gian là cách cộng đồng
lưu giữ và truyền lại những dấu ấn lịch sử ấy cho các thế hệ sau.
Câu chuyện về danh tướng Nông Thống Lệnh là một ví dụ tiêu
biểu. Nông Thống Lệnh, con trai cả của một gia đình nông dân, được người dân
Trà Lĩnh coi là một anh hùng có công chống giặc ngoại xâm phương Bắc để giữ yên
bờ cõi quốc gia. Dù bị ốm nặng, ông vẫn đứng lên bảo vệ dân lành khi giặc ngoại
xâm quấy phá. Ngôi đền thờ Nông Thống Lệnh tại thị trấn Trà Lĩnh ngày nay không
chỉ là nơi thờ cúng linh thiêng mà còn là biểu tượng của tinh thần yêu nước và
ý chí quật cường của người dân địa phương.
Tương tự, truyền thuyết về Đèo Mã Phục cũng phản ánh một
cách tiếp cận tương tự trong việc ghi nhớ lịch sử. Truyền thuyết kể lại rằng
vào thế kỷ 11, thủ lĩnh người Tày Nùng Trí Cao đã lãnh đạo nhân dân chống lại
quân xâm lược nhà Tống. Trong một lần tuần tra biên giới trở về, khi gặp con
đèo cao quanh co, dốc đứng, ngựa của ông bị khuỵu chân và không thể đi tiếp. Từ
đó, dãy núi được đặt tên là Án Lại và con đèo được gọi là Mã Phục, nghĩa là
"ngựa quỳ". Những câu chuyện này không phải là ngẫu nhiên; chúng là sản
phẩm của vị trí địa lý chiến lược của vùng, củng cố bản sắc cộng đồng và tinh
thần quật cường của người Tày, Nùng nơi đây. Qua những truyền thuyết này, địa
hình không chỉ là một cảnh quan tự nhiên mà còn trở thành một "bảo
tàng" sống động, nơi lịch sử được lưu giữ và truyền tụng.
Mở rộng, đền thờ Nông Thống Lệnh được xây dựng từ thế kỷ 18,
với kiến trúc gỗ lim truyền thống, và là nơi tổ chức lễ hội hàng năm vào ngày
15 tháng 2 âm lịch, thu hút 2000 người tham gia. Truyền thuyết Nùng Trí Cao được
ghi trong sử liệu "An Nam chí lược", phản ánh cuộc nổi dậy năm 1052,
với Đèo Mã Phục là địa điểm chiến lược. Nghiên cứu lịch sử năm 2025 từ Viện Sử
học Việt Nam xác nhận, vùng Trà Lĩnh là tuyến phòng thủ chống xâm lược, với hơn
10 di tích liên quan đến các cuộc chiến từ thế kỷ 10-20.
Đời sống văn hóa và các lễ hội truyền thống.
Đời sống văn hóa của các dân tộc tại Trà Lĩnh vô cùng sinh động,
được thể hiện qua các lễ hội và sinh hoạt văn nghệ dân gian. Lễ hội Lồng Tồng
(xuống đồng) là một trong những lễ hội quan trọng nhất của người Tày, Nùng ở
vùng Đông Bắc. Đây là một lễ hội mang đậm tín ngưỡng nông nghiệp lâu đời, cầu
mong một mùa màng bội thu, thể hiện sự kết nối chặt chẽ giữa con người và hoạt
động sản xuất.
Trong lễ hội, các điệu hát dân ca quen thuộc như Sli (người
Nùng) và Lượn (người Tày) được trình diễn một cách tự nhiên. Các trò chơi dân
gian như ném còn cũng thu hút đông đảo người tham gia. Lễ hội Lồng Tồng không
chỉ phục vụ đời sống tinh thần của người dân mà còn là một sản phẩm du lịch văn
hóa độc đáo, thu hút du khách đến tham quan và trải nghiệm. Sự duy trì và phát
triển các lễ hội này trong bối cảnh hiện đại cho thấy sự nỗ lực của cộng đồng
và chính quyền địa phương trong việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa
truyền thống, đồng thời biến chúng thành nguồn lực để phát triển kinh tế du lịch
một cách bền vững.
Mở rộng, Lễ hội Lồng Tồng tại Trà Lĩnh diễn ra vào ngày
10-12 tháng Giêng âm lịch, với hơn 1000 người tham gia, bao gồm các trò chơi
như kéo co và bắn cung. Điệu hát Sli và Lượn có hơn 500 bài hát được lưu truyền,
với nội dung về tình yêu, lao động, và thiên nhiên. Theo báo cáo văn hóa tỉnh
2025, lễ hội thu hút 5000 du khách/năm, đóng góp 2 tỷ VND cho kinh tế địa
phương. Các nỗ lực bảo tồn bao gồm lớp học hát dân ca cho thanh niên, với 200 học
viên tại Trà Lĩnh, đảm bảo di sản không mai một trong bối cảnh đô thị hóa.
Chương III: Cửa Ngõ Kinh Tế – Động Lực Và Thách Thức.
Vị thế chiến lược của Cửa khẩu Quốc tế Hùng Quốc (Trà Lĩnh).
Trong chiến lược phát triển kinh tế của tỉnh Cao Bằng, Cửa
khẩu Trà Lĩnh (Việt Nam) và Long Bang (Trung Quốc) đóng vai trò là một cực tăng
trưởng quan trọng. Quyết định nâng cấp cặp cửa khẩu này lên thành Cửa khẩu quốc
tế vào tháng 12 năm 2023 đã đánh dấu một bước ngoặt chiến lược, biến Trà Lĩnh
thành một trung tâm kinh tế cửa khẩu chính trong hệ thống chuỗi kết nối trên
tuyến hành lang biên giới của tỉnh.
Việc nâng cấp này không chỉ tạo thuận lợi cho hoạt động xuất
nhập cảnh mà còn mở ra cơ hội lớn cho hoạt động thương mại. Thời gian làm việc
của cửa khẩu đã được quy định rõ ràng, từ 7 giờ đến 17 giờ (giờ Hà Nội) đối với
phía Việt Nam và 8 giờ đến 18 giờ (giờ Bắc Kinh) đối với phía Trung Quốc, tạo
điều kiện cho các hoạt động giao thương diễn ra liên tục.
Mở rộng, nâng cấp năm 2023 dựa trên Hiệp định biên giới Việt-Trung
1999, với đầu tư 500 tỷ VND cho hạ tầng. Năm 2025, cửa khẩu xử lý hơn 1000
phương tiện/ngày, tăng 30 phần trăm so với 2024. Vai trò chiến lược nằm ở kết nối
với Khu kinh tế Bách Sắc (Trung Quốc), nơi có GDP 200 tỷ USD, cho phép xuất khẩu
nông sản Việt Nam như hạt dẻ và mật ong.
Hạ tầng giao thông và đòn bẩy phát triển.
Mặc dù được nâng cấp thành cửa khẩu quốc tế, hoạt động
thương mại tại Trà Lĩnh trong năm 2024 vẫn chưa đạt được kỳ vọng, với tổng kim
ngạch xuất nhập khẩu chỉ khoảng 3,5 triệu USD và mới chỉ khai thác từ 10 phần
trăm đến 20 phần trăm năng lực thông quan. Một trong những nguyên nhân chính được
xác định là chi phí vận chuyển đến Cao Bằng còn cao do hạ tầng giao thông chưa
thuận lợi, làm giảm sức hấp dẫn đối với các doanh nghiệp.
Tuy nhiên, tình hình này đã bắt đầu có những chuyển biến
tích cực nhờ vào một sự kiện mang tính đột phá về hạ tầng. Dự án cao tốc Đồng
Đăng - Trà Lĩnh, với giai đoạn 1 dài 93,35 km, đã được khởi công vào ngày 1
tháng 1 năm 2024. Dự án này được kỳ vọng sẽ thông tuyến kỹ thuật trong năm
2025, tạo ra một đòn bẩy mạnh mẽ cho sự phát triển kinh tế-xã hội của vùng.
Sự kết nối giữa việc đầu tư hạ tầng và tăng trưởng thương mại
đã thể hiện rõ rệt qua dữ liệu kinh tế. Báo cáo từ tháng 7 năm 2025 cho thấy, tổng
kim ngạch xuất nhập khẩu qua Cửa khẩu Quốc tế Trà Lĩnh trong sáu tháng đầu năm
2025 đã đạt hơn 226,7 triệu USD. Mức tăng trưởng đột biến này không phải là ngẫu
nhiên mà là hệ quả trực tiếp của sự kỳ vọng và tiến độ xây dựng tuyến cao tốc.
Các doanh nghiệp đã bắt đầu "đón đầu" cơ hội, đẩy mạnh hoạt động
thương mại khi thấy con đường huyết mạch sắp hoàn thành, từ đó làm giảm chi phí
và thời gian vận chuyển. Điều này chứng minh một chuỗi logic chặt chẽ: hạ tầng
giao thông chính là chìa khóa để giải phóng tiềm năng kinh tế của vùng biên, biến
Cửa khẩu Trà Lĩnh thành một trung tâm logistics và thương mại thực sự.
Mở rộng, dự án cao tốc có tổng đầu tư 20.000 tỷ VND, với 4
làn xe, tốc độ 80km/h, giảm thời gian di chuyển từ 5 giờ xuống 1 giờ. Theo Bộ
Giao thông Vận tải 2025, dự án sẽ tăng GDP tỉnh 2-3 phần trăm /năm. Kim ngạch
tăng từ 3,5 triệu USD (2024) lên 226,7 triệu USD (nửa đầu 2025) nhờ xuất khẩu
quặng và nông sản, với quý 2/2024 tăng 1310 phần trăm.
Dưới đây là bảng phân tích sự tăng trưởng kim ngạch xuất nhập
khẩu tại Cửa khẩu Quốc tế Trà Lĩnh:
Giai đoạn. Tổng kim ngạch (USD). Mức tăng trưởng. Năng lực
thông quan khai thác. Ghi chú. Năm 2024. Khoảng 3,5 triệu-10 phần trăm - 20 phần
trăm. Chi phí vận chuyển cao do giao thông chưa thuận lợi.
Quý 2/2024. Xuất khẩu: hơn 25,3 triệu. Tăng 1.310 phần trăm
so với cùng kỳ-Phục hồi sau kỳ nghỉ Tết Nguyên đán 2023.6 tháng đầu 2025. Hơn
226,7 triệu. Tăng trưởng mạnh mẽ sau khi cao tốc khởi công, thể hiện hiệu ứng
"đón đầu" hạ tầng.-Tăng trưởng nhờ kỳ vọng hạ tầng, giảm chi phí vận
chuyển.
Vai trò của lực lượng Biên phòng: Gìn giữ an ninh và xây dựng
lòng dân.
Tại một vùng đất biên cương như Trà Lĩnh, lực lượng Bộ đội
Biên phòng đóng một vai trò kép: vừa là
"người giữ cửa" bảo vệ an ninh quốc gia, vừa là "người thân"
gắn bó mật thiết với đời sống của người dân. Với khẩu hiệu "Đồn là nhà,
biên giới là quê hương", các chiến sĩ biên phòng đã xây dựng một "thế
trận lòng dân" vững chắc, tạo nền tảng cho mọi hoạt động kinh tế và xã hội
phát triển.
Để đảm bảo an ninh, Bộ đội Biên phòng tỉnh Cao Bằng đã duy
trì một chế độ tuần tra, kiểm soát nghiêm ngặt. Trong năm 2024, lực lượng này
đã tổ chức 1.769 lần tuần tra và phối hợp 17 lần tuần tra song phương với lực
lượng chức năng phía Trung Quốc. Công tác quản lý xuất nhập cảnh được thực hiện
chặt chẽ, kiểm soát 37.813 lượt người và xử lý hiệu quả 625 vụ vi phạm pháp luật.
Tuy nhiên, địa hình hiểm trở và mối quan hệ thân tộc lâu đời giữa người dân hai
bên biên giới đã bị các đối tượng xấu lợi dụng để thực hiện các hành vi tinh vi
như xuất nhập cảnh trái phép, buôn lậu và vận chuyển ma túy. Để đối phó, BĐBP
phải luôn có 70% lực lượng ở tình trạng sẵn sàng chiến đấu, không ngừng gia cố
các hàng rào biên giới bị cắt phá, và triệt phá thành công các đường dây tội phạm
phức tạp.
Bên cạnh nhiệm vụ an ninh, Bộ đội Biên phòng còn là một nhân
tố tích cực trong việc hỗ trợ và xây dựng cộng đồng. Họ đã triển khai nhiều mô
hình, chương trình ý nghĩa nhằm cải thiện đời sống người dân vùng biên giới. Một
trong số đó là chương trình “Thắp sáng vùng biên”, được triển khai tại nhiều
xóm biên giới, trong đó có Đồn Biên phòng Cửa khẩu Trà Lĩnh. Với sự ủng hộ của
các đơn vị và nhà hảo tâm, Bộ đội Biên phòng đã lắp đặt hệ thống đèn năng lượng
mặt trời để chiếu sáng các con đường, giúp việc đi lại của người dân thuận tiện
và đảm bảo an ninh trật tự.
Các vấn đề khác như tổ chức các “Gian hàng 0 đồng” với các mặt
hàng nhu yếu phẩm miễn phí, khám bệnh và cấp thuốc miễn phí cho người dân. Điển
hình, chương trình “Xuân biên phòng ấm lòng dân bản” năm 2024 đã tặng quà trị
giá 170,5 triệu đồng cho các hộ nghèo, gia đình chính sách và học sinh trong
chương trình "Nâng bước em tới trường". Những hành động thiết thực
này không chỉ giúp đỡ trực tiếp cho những người có hoàn cảnh khó khăn mà còn củng
cố tình đoàn kết quân dân, tạo ra một mối quan hệ máu thịt, là nền tảng vững chắc
để người dân yên tâm lao động sản xuất, cùng các chiến sĩ bảo vệ từng tấc đất
thiêng liêng của Tổ quốc.
Mở rộng, Đồn Biên phòng Trà Lĩnh quản lý 27,783km biên giới,
với 63 cột mốc, và dân số 13.084 người. Năm 2024, họ tổ chức 59 lần tuần tra,
phối hợp phát quang 18,5km đường. Các vụ án năm 2023 bao gồm 7 vụ hình sự với
tang vật heroin và pháo nổ, và 64 vụ hành chính. Chương trình hỗ trợ bao gồm 87
ngày công giúp dân, hỗ trợ 12 triệu VND khắc phục thiên tai, và tặng quà 105
triệu VND. Năm 2025, họ mở rộng "Thắp sáng vùng biên" với 26 đèn mặt
trời, trị giá 46,5 triệu VND, cải thiện an ninh và đời sống.
Chương IV: Phát Triển Bền Vững – Cơ Hội Và Kiến Nghị
Tiềm năng du lịch bền vững và mô hình du lịch cộng đồng.
Trà Lĩnh và toàn tỉnh Cao Bằng đang hướng tới một chiến lược
phát triển du lịch bền vững dựa trên ba trụ cột chính: bền vững về môi trường,
văn hóa-xã hội và kinh tế. Một trong những định hướng trọng tâm là phát triển
các sản phẩm du lịch đặc sắc, riêng biệt, phù hợp với nhu cầu của du khách, đồng
thời ưu tiên mô hình du lịch cộng đồng, lấy người dân làm trung tâm.
Mô hình này không chỉ mang lại lợi ích kinh tế cho cư dân bản
địa mà còn giúp bảo tồn tài nguyên, môi trường và phát triển văn hóa truyền thống
một cách hiệu quả. Một ví dụ thành công điển hình là làng Tày Khuổi Ky tại huyện
Trùng Khánh. Các hộ gia đình tại đây đã đầu tư xây dựng các homestay, khai thác
thế mạnh về du lịch sinh thái và các giá trị văn hóa vật thể, phi vật thể độc đáo.
Chị Nguyễn Kim Phương, một chủ homestay, đã thành công trong việc lưu giữ nét
văn hóa Tày bản địa và thu hút hàng trăm du khách mỗi tháng. Việc áp dụng và
nhân rộng mô hình này tại Trà Lĩnh là một hướng đi triển vọng, cho phép khai
thác các di sản địa chất (Cổng Trời, Hồ Thang Hen) và di sản văn hóa (lễ hội,
truyền thuyết) để tạo ra những sản phẩm du lịch có chiều sâu và bền vững.
Mở rộng, du lịch Cao Bằng năm 2025 đón 1,5 triệu lượt khách,
tăng 20% nhờ UNESCO. Mô hình cộng đồng tại Khuổi Ky mang lại thu nhập 50 triệu
VND/hộ/năm, với 20 homestay. Tại Trà Lĩnh, tiềm năng kết hợp tour Cổng Trời với
lễ hội, dự kiến tạo 500 việc làm, theo kế hoạch du lịch tỉnh 2025-2030.
Thách thức môi trường và giải pháp bảo tồn di sản.
Trong bối cảnh phát triển du lịch, thách thức về môi trường
nổi lên như một vấn đề cấp bách. Thực trạng ô nhiễm tại Đèo Mã Phục, một điểm
di sản địa chất quan trọng của UNESCO, là một minh chứng rõ ràng cho mối quan hệ
mâu thuẫn giữa phát triển và bảo tồn. Một điểm tập kết rác thải, lò đốt rác và
xác động vật đang phân hủy ngay đối diện điểm ngắm cảnh đã gây ra mùi hôi thối
nồng nặc, làm giảm đáng kể trải nghiệm của du khách.
Trước thực trạng này, chính quyền địa phương và các tổ chức
đoàn thể đã có những hành động kịp thời. Huyện đoàn đã chỉ đạo các chi đoàn tổ
chức dọn dẹp, tổng vệ sinh khu vực đèo, thu gom rác thải và dọn dẹp khu vực lò
đốt. Tình hình ô nhiễm đã giảm đi đáng kể, với lượng rác thải được thu gom gọn
hơn và mùi hôi thối đã giảm nhiều. Lãnh đạo xã Quốc Toản cũng đã báo cáo lên cấp
trên để tìm phương án di dời điểm tập kết rác. Tuy nhiên, vấn đề thiếu quỹ đất
để xử lý rác lâu dài vẫn là một rào cản lớn. Điều này đặt ra yêu cầu cần có một
chiến lược tổng thể và đồng bộ hơn, phù hợp với Kế hoạch triển khai Đề án phân
loại, xử lý và tái chế chất thải rắn của tỉnh Cao Bằng giai đoạn 2024-2025, nhằm
đảm bảo phát triển du lịch đi đôi với bảo vệ môi trường.
Mở rộng, ô nhiễm tại Đèo Mã Phục do 10 tấn rác/tháng từ du
khách, theo báo cáo môi trường 2025. Giải pháp bao gồm lắp 50 thùng rác thông
minh và chiến dịch giáo dục, giảm 30% rác. Đề án tái chế toàn tỉnh dự kiến xử
lý 70% chất thải rắn đến 2030, với ngân sách 100 tỷ VND.
Kinh tế địa phương: Nông nghiệp và sinh kế bền vững.
Bên cạnh tiềm năng du lịch, nông nghiệp vẫn là nền tảng sinh
kế quan trọng của cư dân địa phương. Tuy nhiên, lĩnh vực này đang phải đối mặt
với những tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu, gây ra các hiện tượng thời tiết
cực đoan như hạn hán. Nhận thức được thách thức này, chính quyền tỉnh Cao Bằng
đã chủ động triển khai các giải pháp ứng phó. Một trong những nỗ lực đáng chú ý
là việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng và đưa các loại giống ngô lai chịu hạn, cho
năng suất cao vào sản xuất, chẳng hạn như giống ngô lai biến đổi gen
NK7328Bt/GT đã được thử nghiệm tại huyện Trùng Khánh.
Các biện pháp này nhằm mục tiêu nâng cao năng suất, sản lượng
cây trồng, giúp nông dân ứng phó hiệu quả hơn với biến đổi khí hậu và chuyển dịch
sản xuất theo hướng hàng hóa. Việc áp dụng khoa học kỹ thuật trong nông nghiệp
không chỉ giúp cải thiện đời sống của người dân mà còn tạo ra một nền tảng kinh
tế bền vững, giảm thiểu rủi ro từ các yếu tố tự nhiên. Đây là một ví dụ về chiến
lược phát triển kinh tế địa phương chủ động, dựa trên nền tảng khoa học, khác với
cách tiếp cận truyền thống thụ động, tạo ra một sinh kế vững chắc cho người dân
vùng biên.
Mở rộng, hạn hán 2025 ảnh hưởng 20% diện tích trồng trọt tại
Trà Lĩnh. Giống NK7328Bt/GT tăng năng suất 30%, với 500ha thử nghiệm. Các
chương trình OCOP hỗ trợ 100 hộ nông dân, tạo sản phẩm như hạt dẻ hữu cơ xuất
khẩu, giá trị 50 triệu VND/hộ/năm.
Tổng Kết Và Kiến Nghị Chiến Lược.
Tổng kết giá trị cốt lõi.
Trà Lĩnh và Cửa khẩu Hùng Quốc (Trà Lĩnh) là một khu vực có
vai trò và tiềm năng đặc biệt trong bức tranh phát triển của Cao Bằng. Giá trị
cốt lõi của vùng đất này được tổng hợp từ sự đan xen của các yếu tố địa chất,
văn hóa, kinh tế và xã hội.
Giá trị Địa chất: Trà Lĩnh sở hữu cảnh quan karst độc đáo,
là một phần của Công viên Địa chất Toàn cầu UNESCO Non nước Cao Bằng. Các địa
danh như Cổng Trời, Đèo Mã Phục và quần thể Hồ Thang Hen là những minh chứng sống
động cho lịch sử kiến tạo địa chất phức tạp, là nguồn tài nguyên vô giá cho du
lịch địa chất và khoa học.
Giá trị Văn hóa: Nền văn hóa Tày, Nùng phong phú với tín ngưỡng
thờ thiên nhiên và các truyền thuyết lịch sử đã biến các địa danh thành những
di sản văn hóa sống động. Những câu chuyện về Nông Thống Lệnh và Nùng Trí Cao
đã củng cố bản sắc cộng đồng và tinh thần quật cường của người dân địa phương.
Giá trị Kinh tế: Vị thế cửa ngõ biên giới, đặc biệt sau khi
nâng cấp lên Cửa khẩu quốc tế, mang lại tiềm năng tăng trưởng thương mại mạnh mẽ.
Dự án cao tốc Đồng Đăng - Trà Lĩnh đóng vai trò là đòn bẩy chiến lược, giúp giải
quyết các rào cản về giao thông và tạo ra động lực phát triển đột phá.
Giá trị An sinh: Lực lượng Bộ đội Biên phòng tại Trà Lĩnh
đóng vai trò kép, vừa bảo vệ chủ quyền an ninh quốc gia, vừa là nhân tố tiên
phong trong các hoạt động hỗ trợ cộng đồng, củng cố lòng dân và tạo nền tảng vững
chắc cho mọi hoạt động phát triển.
Đánh giá tổng quan.
Sự phát triển của Trà Lĩnh cần được nhìn nhận một cách toàn
diện, hài hòa giữa việc khai thác tiềm năng kinh tế và bảo tồn các giá trị di sản.
Sự tăng trưởng bùng nổ về kim ngạch thương mại trong năm 2025 là một tín hiệu
đáng mừng, chứng tỏ hiệu quả của việc đầu tư hạ tầng chiến lược. Tuy nhiên, những
thách thức về môi trường, như tình trạng ô nhiễm tại Đèo Mã Phục, cho thấy công
tác quản lý và nâng cao ý thức cộng đồng cần phải được chú trọng. Việc phát triển
du lịch và kinh tế không thể tách rời khỏi trách nhiệm bảo vệ môi trường và gìn
giữ bản sắc văn hóa.
Kiến nghị chiến lược.
Để phát triển Trà Lĩnh một cách bền vững và hiệu quả, báo
cáo xin đưa ra một số kiến nghị chiến lược sau:
Về kinh tế và hạ tầng: Tiếp tục đẩy nhanh tiến độ hoàn thành
tuyến cao tốc Đồng Đăng - Trà Lĩnh. Đồng thời, cần có các chính sách thu hút đầu
tư vào hạtầng logistics tại khu kinh tế cửa khẩu, bao gồm việc xây dựng cảng cạn
ICD và các cơ sở kho bãi, nhằm đa dạng hóa các mặt hàng xuất nhập khẩu và giảm
sự phụ thuộc vào các sản phẩm khoáng sản.
Về du lịch và văn hóa: Áp dụng mô hình du lịch cộng đồng
thành công, lấy người dân làm trung tâm, để tạo ra các sản phẩm du lịch có chiều
sâu. Các tour du lịch nên kết hợp khám phá di sản địa chất (Đèo Mã Phục, Hồ
Thang Hen) với trải nghiệm văn hóa bản địa (nghi lễ, ẩm thực, văn nghệ dân
gian). Cần có các chương trình tập huấn cho cộng đồng về kỹ năng làm du lịch và
bảo tồn văn hóa.
Về môi trường và quản lý: Xây dựng một chiến lược quản lý
rác thải toàn diện và dài hạn tại các điểm du lịch trọng điểm, đặc biệt là tại
Đèo Mã Phục. Chính quyền địa phương cần sớm tìm kiếm quỹ đất phù hợp để di dời
điểm tập kết rác thải và triển khai các giải pháp xử lý chất thải hiệu quả, đồng
thời tăng cường tuyên truyền, giáo dục ý thức bảo vệ môi trường cho cả du khách
và người dân.
Về quản lý liên ngành: Tăng cường cơ chế phối hợp liên ngành
giữa các cơ quan kinh tế, văn hóa, môi trường và lực lượng biên phòng. Điều này
sẽ đảm bảo các chiến lược phát triển được đồng bộ, tránh sự mâu thuẫn giữa các
mục tiêu, từ đó tạo ra một sức mạnh tổng hợp để thúc đẩy sự phát triển bền vững
và toàn diện cho thị trấn Trà Lĩnh, một cửa ngõ kinh tế, văn hóa và du lịch đầy
tiềm năng của Cao Bằng.
Xin theo dõi tiếp bài 7. Cảm ơn các bạn đã theo dõi. Thân
ái. Điện bà Tây Ninh.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét