GƯƠNG MẶT THẦN CHẾT
Cổ nhân có câu “nhân tình con người là con dao hai lưỡi” – mấy cụ bà
miệt vườn còn ngâm nga “Họa hổ họa bì nan họa cốt, tri nhân tri diện bất tri
tâm….ở xa không biết thì lầm…”, sách xưa còn viết “ núi cao sông sâu là
hiểm mà lòng người còn hiểm hơn”….
Con người ngày xưa mộc mạc chân chất còn như vậy thì con người hiện đại lại
càng phải cần hơn hai gương mặt để tồn tại. Các chính khách, các doanh nhân…
thậm chí phải có tới vô số gương mặt để đối phó với mọi tình huống, lúc thì
quần chúng, lúc thì hội họp, lúc thì thượng cấp, lúc thì nhân viên, lúc thì đối
tác, lúc gặp bạn bè, lúc phải thượng đội, lúc thì hạ đạp, lúc ở nhà với vợ con,
lúc với thư ký hoặc bồ nhí……mỗi một trường hợp phải có một gương mặt sao cho
phù hợp. Người bình thường….làm những công việc bình thường lắm khi cũng cần
phải có vài gương mặt, tối thiểu là hai gương mặt để còn khả dĩ sinh tồn trong
một cái xã hội đầy phức tạp.
Thế còn Thần Chết ? không lẽ để tồn tại Thần Chết cũng phải cần đến nhiều gương
mặt ?
Đó là một ngày đẹp trời, phải nói là một ngày rất đẹp thì mới đúng, trời quang,
mây tạnh, làn gió thổi vi vu mát rượi, mục đồng dắt trâu về thong dong như
trong cảnh thần tiên. Khu đây gọi là khu Mả Lò, con đường đây là con đường đất
đỏ, ngọn gió này là gió từ phương nam thổi lại….phía dưới là cánh đồng đang vào
mùa dưa bắt đầu chín tới, những trái dưa gang vàng ươm nằm ngổn ngang dưới
ruộng nom như những con heo con đang nô giỡn. Hai bên đường nở rộ những bụi hoa
dại trắng trắng li ti, lá cây nhiều khi lại bị phủ một lớp bụi màu đỏ lựng.
những bụi cỏ may hồng hồng phất phơ trong gió. Lúc bấy giờ ĐHC và hai người bạn
đang ngồi trên thảm cỏ, dưới một cây gòn cao vợi, những trái gòn nở xòe, bông
gòn bị gió thổi bay phơ phất trong không gian càng làm cho cảnh vật thêm màu
huyền ảo... Công việc vừa hoàn tất, đã có thể yên tâm mà uống vài xị đế hay ngả
lưng nằm trên thảm cỏ mà ngắm bầu trời xanh cao vút.
Ngồi đối diện là Tư Hường, một tay gạo cội trong nghề “đào mồ khoét mả”, nhưng
đừng tưởng là y nghèo, y thuộc loại cũng có của ăn, của để. Y từng đi vòng
quanh châu Á, châu Âu, ...từng ở bên Thái, bên Miên, nhất là y lại từng đi vào
cái thời còn bế quan tỏa cảng, người Việt lúc đó như con ếch ngồi trong cái
giếng, chẳng biết thế giới là cái gì… Y mơ được đặt tay lên vách Kim Tự Tháp là
y đặt tay lên thật, mơ được đặt chân lên Giáo Đường Đỏ là y đặt chân lên thật.
Chỉ có một lần y bị xộ, đó là cái lần y lén lút qua Ấn độ, được mấy ngày thì bị
trục xuất về lại. Lần đó thiên hạ đã xầm xì “thằng Tư qua bển vào một ngôi đền
Balamon tính chôm đồ quý, bị bắt quả tang phải quỳ lạy như tế sao” – “nó qua đó
tính theo học Phép thuật, gặp phải Pháp sư cao tay rờ phía sau ót thấy có cái
bướu “phản chủ”, cái tướng “lừa thầy phản bạn” nên đâu có thèm nhận…” – miệng
lưỡi thế gian thêu dệt đủ thứ chuyện, còn Tư Hường thì chỉ cười khì “linh hồn
ông cụ chắc hết độ tớ rồi…”. Tính y khoái bình dân, lúc nào cũng mặc một cái
quần kaki cũ xì, sờn rách, còn cái áo thì đố ai biết là màu gì. Y lại nghiện
thuốc hạng nặng, hai túi quần cất hai gói, túi áo ngực cũng cất một gói, còn
trên mép lúc nào cũng phì phèo, hết điếu này châm điếu khác liên tục, chẳng cần
phải dùng tới cây quẹt. Cuộc đời của y là cả một kho tư liệu, kỳ lên Đức Hòa,
Đức Huệ tham quan mấy di chỉ khảo cổ, dẫn ĐHC vào trong chợ Đức Hòa ăn tô cháo
cá với rau đắng, y nói “ tớ khoái nhất là vào trong chợ, không phải để mua đồ
mà là để nhìn ngắm…chợ là một xã hội thu nhỏ, ở đó có tất cả mọi thứ thượng
vàng hạ cám. Muốn hiểu rõ con người của một vùng nào đó thì khi đến nơi đó chỉ
cần vào trong chợ, quan sát…đặc biệt quan sát những người đàn bà là có thể hiểu
được vùng đất đó như thế nào…” – “đàn bà không lẽ quan trọng như thế..?” –
“hiển nhiên rồi, chú thấy đó, đàn bà đẻ ra…đàn ông mà, mấy ông tướng ra trận
hét ra lửa chứ ở nhà cũng sợ mấy bà một phép. Ở cái xứ mà đàn bà ra đường phải
trùm kín mít thì đàn ông là hổ, là sói…còn ở xứ mà đàn bà tha hồ tung tác, ăn
mặc hở hang thì đàn ông là cú, là quạ….Chú cứ nhìn xem, đàn bà ở chợ này còn
lam lũ lắm, quanh năm mặc cái quần lãnh đen, cái áo bà ba bạc màu, nhưng họ vẫn
cố mà bươn chải buôn bán để nuôi gia đình con cái, nuôi mấy ông chồng say
xỉn…..Họ cực khổ hơn đàn ông nhiều.…”. Xem ra không phải ngẫu nhiên mà Tư Hường
tuy rất giỏi nhưng không thăng quan tiến chức được, y có cái lối ăn nói rất vạ
miệng nên Sáu Vĩnh kể “có lần định đề bạt lên trưởng phòng, nó viện lý do này
lý do khác lần khần hoài, cuối cùng để thằng khác nhanh chân hơn chụp mất cơ
hội”. Sáu Vĩnh đây chính là người ngồi bên cạnh, y cũng tài giỏi lắm, thuộc
loại tay ngang, không có ăn học nhiều nhưng nhờ trời phú cho tư chất thông
minh, hoạt bát nên xem ra thành công hơn Tư Hường. Y to cao, đẹp trai, mồm mép
nên có cái diễm phúc lọt vào mắt cô con gái rượu của một quan chức. Cô con gái
tuy nhan sắc tầm thường nhưng được cái rất biết chiều chồng, săn sóc từng ly
từng tý, còn mua cho Sáu Vĩnh chiếc Cúp Nữ Hoàng đỏ chói chiều chiều chạy đi
uống cà-phê cho thiên hạ lác cả mắt. Mua là thế nhưng lại sợ chồng có bồ bịch
nên chị ta kiểm soát rất kỹ, chỉ phát tiền đủ uống ly cà phê và 5 điếu con mèo
hút trong ngày. Vì thế sau lưng y cũng khối kẻ dèm pha, ghanh ghét “thứ đồ chó
chui gầm chạn ấy mà…chứ hay ho gì ?”. Y lấy vợ đã hơn năm sáu năm mà chưa tòi
ra được mống con nào làm sau lưng y lắm kẻ nhiều phen khoái chí “cái thứ ăn ở
thất đức nên làm sao mà có con được…”…miệng lưỡi thiên hạ đúng là sắc như đao
như kiếm, hiểm độc như rắn như rết…khi cần nhờ vả thì ngọt còn hơn mật ong
chính hiệu, còn khi đã ghét rồi thì ôi thôi…đến ma quỷ cũng còn phải cong đuôi
mà chạy. Thế mà Tư Hường lại nói “chúng nó chửi mình như vậy nên mình còn đất
mà sống, còn những kẻ cứ khen mình tới tới thì phải coi chừng, chết lúc nào
không biết…”. Quần thảo với y cũng nhiều phen, từ Sài Gòn đến Mỹ Thơ, qua Long
An, rồi Cần Thơ, Sa Đéc, Cà Mau… Bôn ba hết mảnh đất chín rồng, đụng đủ thứ mả
hồi, mả dựng, mả kết, mả táng, mả xuôi, mả ngược, mả miêu, mả ngựa… rồi Bù
Đăng, Bù Đốp, đến Đăkmin, Đăklắc… xuống tới miền Đông “Mã Đà Sông Bé anh
hùng tận”, đến Mỹ Sơn, Hội An, Sa Huỳnh…ghé thăm Cố đô đang hồi tàn tạ “rường
xưa mối cũ giờ đã đổ, chỉ có lại đây miếng gạch thừa…”. Qua tận Bắc Thái,
Hà Giang, nhìn những dãy núi đá cao vời vợi mà bàng hoàng khiếp sợ…rồi lên Lai
Châu, Sơn La…Chùa Hương, Chùa Thầy, nhìn nam thanh nữ tú dập dìu :
Gái chưa chồng trông hang Cắc cớ
Trai chưa vợ trẩy hội chùa Thầy
Đến Kinh Đông, Kinh Bắc,… mò đến tận xứ “non xanh nước biếc” mà chiêm
ngưỡng cái giếng ngày nào đã vớt được một viên ngọc lưu ly to bằng cái đấu bảy
màu lung linh huyền ảo tương truyền chính là “truyền quốc ngọc tỷ” của Thái hậu
Dương Vân Nga dâng cho Lê Hoàn, để rồi rơi vào tay Lê Long Đỉnh cũng phải chịu
cảnh mất nước…“thế viên ngọc ấy đâu rồi nhỉ ?” – “chỉ có trời biết, chỉ có đất
biết…nếu anh nói cho chú biết thì đầu anh chắc không còn trên cổ…”. Dấu chân Tư
Hường dẫm nát cả mọi miền, tiếng xấu có ở khắp nơi “bọn nó nói tớ mà đái trúng
cây chuối là cây chuối có bầu đó…” – “thế anh có để rơi rớt nơi nào không ?” –
“hồi xưa ở Cà mau có quen một bà… thôi đừng nhắc chuyện cũ mà làm gì !”.
Chuyện cũ thì không nhắc nữa, mà bây giờ nhắc sang chuyện mới….
Cái ngày đẹp trời nhiều khi
lại là cái ngày định mệnh. Ai có thể biết trước được định mệnh sẽ tới vào lúc
nào? thần chết sẽ gõ cửa vào lúc nào? Trời hôm ấy đẹp quá nên sáu tay du kích
xã đào thật hăng hái…từng nhát cuốc từ trên xuống băm nát luôn một phiến đá
thạch anh trắng dày độ hai ly, ngang khoảng tám tấc, dài chừng một mét rưỡi.
Đúng ra chỉ có năm người thôi, vì Hai Đụi đã xỉn quắc, lủi ra bụi chuối nằm một
đống. Mới chỉ có chín giờ sáng mà không hiểu sao mấy tay du kích đều đã ngà ngà
cả. Bảy Bụng nói : “Hồi hôm nhậu tới khuya nên sáng ra đây cuốc đất cho nó giã
bớt rượu, hổng dè đào hăng quá nên khi thấy có cái gì trăng trắng mới dừng lại
thì đã băm nát nó rồi…” – Tư Hường không có ở đó, Sáu Vĩnh cũng không có ở đó,
chỉ có ĐHC và “Lý Thông” chịu trách nhiệm giám sát công trình, thấy đã xong
việc rồi nên bỏ đi uống cà phê, không dè… Lý Thông than thở “chỉ sơ sẩy một
chút thôi là có chuyện…”. Mà quả thật, công việc đã xong rồi, đã kết thúc, mấy
tay du kích say xỉn, rảnh rang rủ nhau đào bới lung tung ở bên ngoài không dè
lại lại trúng phải một di tích mới, khác hẳn di tích vừa hoàn thành nên cũng
chưa biết nó là cái gì ?
Đến trưa thì Tư Hường mới lặc lè xuất hiện, nhìn hiện trường vừa đào y lắc đầu
nói “cũng may Sáu Vĩnh đi Hn họp gấp rồi, chuyện này nhớ bỏ qua đừng ghi vào
nhật ký đào” – “Nhật ký đào” là một phần quan trọng của công việc khảo cổ, đòi
hỏi người giám sát lúc nào cũng phải ghi từng chi tiết quá trình đào bới. Khi
gặp hiện vật thì đo độ sâu, xác định vị trí, địa tầng để từ đó mới rút ra kết
luận và sau này xác định được hiện vật nói lên điều gì, là thật hay giả…Bọn Tư
Hường , Sáu Vĩnh , Lý Thông chỉ là những chuyên gia đánh mướn, còn chủ nhiệm
công trình thực ra là một người khác, người này chẳng mấy khi xuất hiện vì thế cái
“nhật ký đào” tha hồ vặn vẹo sao cũng được.
Lúc bấy giờ chỉ còn có Tư Hường, Lý Thông và ĐHC. Tư Hường chép miệng nói “công
trình đã nhiệm thu rồi…chỗ này là nằm bên ngoài di chỉ nên nếu đào thì cũng hết
kinh phí , hơn nữa muốn đào tiếp thì cũng phải xin giấy phép khai quật, chờ xin
được cái giấy phép thì mấy tay du kích xã cũng đào tung chỗ này thành cái ao
rồi…”. Lý Thông ngồi săm soi mấy miếng đá thạch anh vỡ vụn, thực ra y chỉ có
cái tên là Thông thôi, còn họ là Nguyễn, Trần, hay Trương…gì đó – “việc đã như
vậy rồi không đào nữa cũng không được, tuy thời gian đã hết nhưng cũng có thể
kéo dài thêm năm ba ngày, hiện trường nới rộng thêm chút ít cũng không ai biết
gì, tiền bạc cũng còn đủ để chi phí…”.
Chiều hôm đó, trong lúc ngồi uống cà phê, Tư Hường nhả khói liên tục, phiến đá
thạch anh đúng là một kỳ tích, nhất là nếu nó có khắc hay ghi chữ gì đó, hoặc
có ghi dấu hiệu, ký tự trấn yểm cái gì đó bên dưới…bây giờ nó chỉ còn là một
đống nát vụn, không còn biết đó là gì ? Tư Hường gặp chuyện này y rất bực bội,
càng bực bội y càng hút dữ, nhả khói còn hơn cái máy tàu nữa.
Đến tối, Lý Thông kêu ĐHC ra nói nhỏ “hồi chiều tui đã hỏi ra được chỗ đó là gì
rồi….ông có nghe kể chuyện ở đây có một đứa con gái tên là Đẹt bao giờ chưa?”
Nghe nói đến cái tên Đẹt, bất giác rùng cả mình. Đối với những nhóm chuyên đi
đào mộ, đào cổ vật thì điều đáng sợ nhất, khủng khiếp nhất chính là gặp phải
những ngôi mộ có “thần giữ cửa”,… nếu gặp thì cầm chắc là chết, mà là một cái
chết không toàn thây, toàn mạng, nhiều khi chết cả nhà, cả làng, cả xóm….Biết
là kinh khủng như thế mà khi gặp vẫn cố đào bới, tìm kiếm chỉ vì chính những
nơi như vậy mới có được những đồ thật trân quý, những món đồ độc nhất vô nhị,
lòng tham đúng là làm con người mờ mắt, làm con người trở nên không biết sợ….
- Có nghe phong phanh về chuyện con nhỏ này, hình như nó trong băng chuyên đi
đào trộm mộ của Huỳnh Đỏ thì phải?
- Ông có biết là cả băng đó chết hết rồi không?
- Nghe nói con Đẹt cũng chết lâu rồi mà ?” – “mới chết hồi năm ngoái, nó là đứa
chết cuối cùng trong cái băng đó thì phải…”
Nghe Lý Thông nói đến đó, bất giác nhớ lại hồi chiều bỗng dưng Tư Hường hỏi một
câu rất vu vơ “chú có nhớ hồi ra Bắc đào nhằm ngôi mộ bên dưới cây Gạo không?”
- Tư Hường kinh nghiệm quá nhiều, hồi sáng đào phải phiến đá thạch anh kỳ lạ y
đã nghi là đào nhằm phải một ngôi mộ cổ rồi, có điều không hiểu sao toàn bộ
ngôi mộ này lại bị chìm trong lòng đất mới là kỳ? Từ vụ này y mới liên tưởng
đến lần ra Bắc, lần đó cũng đào nhằm phải một cái quan tài chôn luồn dưới gốc
một cây Gạo.
Lúc đó là buổi chiều, tiết
trời mới chuyển sang đông, bầu trời bao phủ một màu xám xịt, làn gió se se
lạnh, mưa phùn rơi lất phất. Tư Hường và ĐHC đứng bên cái giếng làng – Cái
giếng làng bên cây gạo to lớn xù xì – Từ lâu đã nghe đồn cây Gạo này ma dữ lắm…
Xung quanh giếng mọc đầy những bụi cây duối dại, thường hay có rắn Mai Gầm
trong những bụi duối dại như thế này.
Ngôi làng này là làng G, nằm bên cạnh là hai làng T và N – cả ba ngôi làng này
cùng có một con đường lát gạch nho nhỏ chạy xuyên qua, con đường làng này rất
quanh co, khúc khuỷu. Đình làng G nom thật cổ kính, trước cổng lát ba phiến đá
to, bên cột có hai con nghê đá nằm chầu. Đình không một bóng người, phía sau có
một cây đa cổ thụ, ngoài sân lại có một cây bàng, vào mùa này lá cây chuyển sang
màu đỏ lựng, lá rụng đầy sân càng làm tăng cảm giác buồn bã thê lương. Trời
chưa tối mà đã thấy đóm đóm bay lập lòe, lập lòe. Bên cạnh đình là cái giếng
làng, gọi là giếng nhưng nó to như cái ao vậy, có bậc thang bằng gạch đi xuống
hẳn hoi. Mặt nước trong veo, phẳng lặng như một tấm gương, chỉ có một vài đám
bèo hoa nhỏ. Ngày xưa khi quân pháp bắt được một người vệ quốc quân, khi đi
ngang qua đây ông đã nhảy xuống cái giếng này tự tử. Nghe đồn ông vệ quốc quân
này rất linh hiển, mấy lần trẻ con nghịch ngợm rớt xuống giếng, lúc sắp chết
đuối lại được ông đẩy lên bờ.
Phải chi mà là mùa hè thì đã được chiêm ngưỡng vẻ đẹp của những bông hoa Gạo có
màu đỏ ối, còn vào mùa này cây đã trở nên trơ trụi, gốc cây xù xì nom càng thêm
phần ma quái. Cây Gạo này ma nổi tiếng, có lần, vào một buổi tối, tay bí thư
chi bộ xã đi ngang qua thấy một cái cục tròn đỏ lòe trên cây, cái cục đỏ đó đột
nhiên phóng xuống lao thẳng vào, báo hại tay bí thư chi bộ lần đó phải chạy
thục mạng, rớt cả cái túi dết lẫn đôi dép râu. Đó là thời kỳ chiến tranh,
chuyện ma quỷ chỉ là đồn thổi thôi chứ đố ai dám nói, dám kể, còn bây giờ cái
người mời Tư Hường đến mọi người gọi là ông Cả Quận.
Đi tìm của cải chôn giấu là một chuyện vạn bất đắc dĩ, đằng sau cái của cải đó
nhiều khi là cả một tội ác, đến khi mang được nó lên rồi thì sự tranh giành nó
lại tạo thêm nhiều cái ác khác nữa, - nếu bạn là người mang nó lên, không lẽ
bạn không phải trả nghiệp ? Thế nhưng điều gì đã khiến Tư Hường xuống giúp Cả
Quận, phải nhiều năm sau việc này mới có thể biết rõ.
Cả Quận là người có vai vế trong làng nên ông ta mới làm được chuyện này. Gốc
là địa chủ thứ thiệt, cái thời “cải cách ruộng đất” Cả Quận chỉ bị “vặt” trụi
râu trụi tóc, còn cái mạng không hiểu sao lại may mắn không bị “vặt” nốt. Nhưng
mấy lần đấu tố cũng đủ làm Cả Quận sợ đến vãi cả linh hồn, đi không dám ngẩng
mặt, nói không dám mở miệng… Sau này ông ta có hai người con trai đi bộ đội hy
sinh trong thời chống Mỹ, nên gia đình nghiễm nhiên trở thành “gia đình liệt
sĩ”, thoát được cái tiếng là “địa chủ cường hào ác bá”. Còn bây giờ thì cái gốc
địa chủ của ông ta càng được mọi người trong làng nể trọng. Dòng dõi địa chủ có
khác, đi đứng đâu cũng đường bệ, nói năng lại khoan thai, lúc nào cũng có đầu
có cuối, đâu phải tự nhiên mà ai cũng gọi là Ông Cả Quận. Ngoài hai người con
đã mất, ông ta còn một người con trai bị khèo từ nhỏ tên là Quýnh, mọi người
trong làng gọi là “Quýnh khèo”. Còn một cô con gái phải nói là đẹp nhất làng,
nhưng bây giờ vẫn chưa có chồng. Cô ta luôn phải ở tuốt nhà sau nấu cơm, rửa bát,
nuôi lợn, quét nhà… Cả Quận không cho lên nhà trên, khi nào cần lắm ông ta mới
gọi “cái Quý đâu rồi, mau lên cho thầy bẩu”, thì lúc đó cô Quý “đẹp người đẹp
nết” mới dám đi lên. Cái đầu óc phong kiến hạng nặng của Cả Quận phun ra một
câu xanh rờn “Đàn bà mà được cái tích sự gì, chỉ thêm rách việc”.
Buổi sáng ngồi uống chung trà, Cả Quận mới bảo “ thằng Quyền, thằng Quyết đi bộ
đội, hi sinh trong chiến trường miền Nam nên được tiếng là gia đình liệt sĩ,
chính quyền vì chuyện này trở nên dễ chịu, chứ như hồi xưa làm gì cũng khó. Hồi
đó có được manh áo vá, bát cơm ăn với bắp chuối là may rồi, nhiều khi cả gia
đình quây lại ăn cơm độn với sắn, chỉ có mấy trái cà pháo. Bây giờ khá hơn thì
chỉ còn mỗi thằng Quýnh thì lại vừa khèo vừa khùng, vừa khùng vừa khèo. Có lẽ
do hồi nhỏ nó hay chơi bên cây Gạo. Nhà ở ngay cạnh cái cây này, vào mùa hoa
rụng nó suốt ngày theo đám trẻ con nhặt hoa Gạo rơi, miệng nói lảm nhảm, hỏi
đến thì nó giả nhời “con nói chuyện với cây gạo”, có lẽ nó bị con ma cây gạo
nhập cũng nên…”.
Cả Quận tin rằng xung quanh ngôi nhà chắc chắn có chôn dấu của quý, bởi vì suốt
bao nhiêu năm nay ông ta nằm mơ thấy nó, bây giờ về già, ông lại càng cố tìm để
chết đi còn được nhắm mắt. Cũng có mấy nhóm đến đây tìm rồi, nhưng nghe hơi có
ếm “thần giữ cửa” đều chối từ. Có nhóm đào được nửa chừng trong bọn bỗng có
người lăn ra chết bất đắc kỳ tử nên cũng xin thôi. Cả Quận đành phải nhờ đến Tư
Hường. Lần đó đào ở bên cạnh gốc cây Gạo, sâu xuống hơn năm mét thì bất ngờ gặp
một cỗ quan tài chôn nghiêng 45 độ, một phần của cỗ quan tài đen sì này luồn
sâu vào bên trong gốc cây, không lẽ của cải chôn giấu ba đời nhà Cả Quận lại là
cái cỗ quan tài này?
Nếu thế thì dòng họ nhà Cả Quận tuyệt tự là phải rồi.
Cái chuyện mơ mộng chỉ là một
kế sách của Cả Quận, thực ra ông ta làm theo lời dặn dò của cha trước khi mất,
xem ra cả mấy đời dòng họ nhà Cả Quận đã bỏ công sức cho việc này nhưng chưa
thành công. Phần vì chiến tranh, phần vì sợ chính quyền dòm ngó, có đào được
thì chưa chắc đã có thể giữ được nên công việc không được thực hiện liên tục.
Lần này ông Cả Quận sợ mình sắp chết, còn mỗi thằng con trai bị khùng thì coi
như di chúc của ông cha không còn ai làm nữa, nên ông ta quyết tâm tìm cho bằng
được. Cái lời đồn về “thần giữ của” không biết ở đâu mà có, có khi do Cả Quận
tung ra cũng không chừng. Có điều lần đào vừa rồi tay trùm cũng là một Địa sư
khá nổi tiếng...Buổi sáng hôm đó thằng Quýnh chạy vào, nó khoe với Cả Quận
“Thày ơi, có con chim trên cây Gạo tự nhiên nó sa xuống tay con”, Cả Quận nhìn
thấy con chim bất giác giựt mình, con chim đó chính là con chim Lợn, cái mặt nó
tròn quay, hai mắt nhắm nghiền, có lẽ trời sáng mắt nó bị chóa nên mới sa vào
tay thằng Quýnh. Đúng là điềm trời báo trước. Tối hôm đó ông thầy địa lý nằm
ngủ ngay trong nhà Cả Quận đến sáng hôm sau thì đã trở thành một cái xác lạnh
ngắt. Vụ việc đâm ra trở nên phiền phức vì chính quyền tới lui để điều tra, rồi
bên ngoài tiếng đời đồn thổi “một xé ra mười” nên bẵng đi hàng mấy năm làm Cả
Quận điêu đứng và chẳng có nhóm nào dám đến tìm của nữa.
Lần này Tư Hường cho đào thật sâu xuống gốc cây Gạo, xuyên qua lớp cát và lớp
than củi thì phát hiện ra cái quan tài chôn theo thế đầu chúc xuống dưới, cái
này người ta gọi là “mả dựng”. Thường người thành niên chết bất đắc kỳ tử mà
còn là đồng nam (điều này rất hiếm), không cam chịu mà hay về quậy phá thì gia
đình phải cải táng chôn đứng cái quan tài, đầu phải chúc xuống. Nhìn kiểu dáng
cái quan tài thì chắc nó đã được chôn trên trăm năm rồi, ký ức về nó hầu như
không còn ai nhớ nữa. Hồi mới chôn chắc nó không ở vị trí sâu như vậy, nhưng
thời gia đã làm nó ngày một lún xuống và nghiêng hẳn một bên, cái này còn gọi
là “mả động”, rất nguy hiểm cho những người sống xung quanh. Xem ra những lời
đồn về ma ở cây gạo này không phải là ngẫu nhiên mà có.
Gặp phải “mả dựng” thì phải lấp đất lại ngay, sau đó lập đàn cúng tế, nếu không
thì phải có pháp sư cao tay làm phép trấn yểm, lại phải xây một cái miếu để thờ
hương khói. Đến lúc này thì Cả Quận mới nhớ ra là hồi xa xưa lúc ông còn là một
đứa trẻ nơi đây cũng đã từng có một cái miếu, qua năm 45 nạn đói xảy ra, người
chết chất đống bên gốc cây gạo, rồi không hiểu sao tới thời cải cách thì cái
miếu bị phá mất.
Trước lúc đào ĐHC đã đưa cho cha con ông Cả Quận hai tấm phù nhỏ bằng gỗ đeo
trước ngực để “hộ tâm”. Những tấm linh phù này là đồ gia bảo của Tư Hường, chỉ
các pháp sư người Hoa mới biết, mới có, mà Tư Hường thì đích thị là người Việt
gốc Hoa rồi. Đúng ra y có bố là một ông thầy địa lý người Tiều còn mẹ thì là
người Việt, hai ông bà gặp nhau ở tận xứ Cà Mau. Ông Văn Tích Chúc là người của
Thiên Địa Hội, chạy loạn qua đây chỉ có hai bàn tay trắng, nhưng ông biết coi
phong thủy, địa lý nên đoán được vùng đất nào có thể đại phát. Chưa đến chục
năm ông đã dựng được một cơ ngơi kha khá và lấy được vợ. Tư Hường là người con
thứ tám trong gia đình cả thảy 14 anh chị em. Y có cặp mắt hí hí, đôi môi mỏng
quẹt, hai mép trễ xuống còn cái trán thì sói sọi, lỗ mũi khoằm khoặm. Nom mặt y
nhìn giống như Tăng Quốc Phiên của Thanh triều vậy, đó là một gương mặt nhìn
thấu cả tâm can người khác, đố ai có thể qua mặt được. Nhưng Tư Hường từ nhỏ đã
thoát ly gia đình, theo Việt Minh nên không học được ở cha bao nhiêu. Trong nhà
chỉ có người anh thứ sáu là theo nghề của dòng họ, nhưng về sau ông lại lên núi
tu hành, không lấy vợ và cũng không dính gì tới trần thế nữa nên xem như sở học
của ông thầy Văn Tích Chúc là thất truyền.
Có rất nhiều kiểu “Thần giữ
cửa”, ví như thần canh giữ đền đài, thần canh giữ kho tàng binh khí, thần canh
giữ kho tàng là các đồ vàng bạc trân quý của vua chúa, thần canh giữ các mỏ
quặng, thần canh giữ cả một vùng đất… Mỗi một vị thần đều có một cách tạo tác
khác nhau tùy theo vị Pháp sư. Có một điều chung nhất là khi kêu gọi âm binh
hay quỷ thần đều phải thực hiện các nghi lễ hiến tế. Đặc biệt “thần giữ cửa”
đền đài, thành quách thường phải hiến nhiều trinh nữ sùng đạo và các trinh nữ
này chấp nhận hy sinh một cách tự nguyện.
Riêng cái cách trấn yểm “thần giữ cửa” kho tàng trân quý là một việc làm hết
sức tàn bạo mà chỉ có các pháp sư người Trung Hoa mới nghĩ ra được để phục vụ
cho đám vua chúa, quan lại thống trị, tuyệt nhiên người Việt không có vụ này,
vì thế cách hóa giải cũng chỉ các pháp sư người Hoa mới biết được tường tận.
“Thần giữ cửa” thường là một cô gái đồng trinh, cô gái này được chay tịnh hàng
tháng trời và phải tắm bằng thứ nước có ngâm tẩm những hương liệu đặc biệt. Sau
đó trinh nữ bị ép buộc ngậm trong miệng một củ “thiên niên tuyết sâm”, mắt và
miệng sẽ được hàn kín bằng nhựa hổ phách. Trinh nữ bị cột ngồi trong tư thế bó
gối trên một tấm gỗ dầy, hai tay quặt ra sau lưng choàng lấy một thanh gỗ dài
có ghi những chữ bùa do pháp sư đích thân dùng “xạ mực” để viết. Sau đó trinh
nữ lúc này đang còn sống sẽ được trang trọng đặt ở nơi hội tụ linh khí nhất
trong kho tàng, trên đầu sẽ đội một ngọn đèn cháy trong 7 ngày. Kho tàng hay
huyệt mộ sẽ được lấp lại, như vậy cô gái xem như bị chôn sống và sẽ trở thành
“thần giữ cửa”, có nhiệm vụ vật chết bất cứ người nào xâm nhập kho tàng, chỉ có
vị pháp sư trấn yểm là biết được cách hóa giải. Thực ra bí quyết là ở chỗ “thần
giữ cửa” chỉ giữ cửa thôi chứ không “giữ của”, tức là nếu lúc “đi xuyên qua
cửa” mà thần không nhận ra được thì xem như không có vấn đề gì xảy cả. Ngoài
cách dùng thần quyền, âm binh để giữ mộ, người xưa còn dùng vô số các cách khác
nữa. Ví như đổ hàng triệu mét khối cát vào bên trong và che phủ ngôi mộ, gặp
cách này thì không thể đào trôm được vì đào đến đâu cát sẽ đổ xuống đến đó. Có
khi họ xây những bể thủy ngân khổng lồ, hơi độc của nó bốc lên giết chết tức
thì bất cứ ai xâm nhập vào ngôi mộ. Có những ngôi mộ xây chìm hẳn trong hồ nước
sâu cả chục mét, kẻ trộm vô phương vào được.
Ít có người biết rằng loại gỗ dùng để trấn yểm trong việc này không phải là gỗ
thường mà bắt buộc phải là một loại gỗ rất đặc biệt, có những tính năng tâm
linh phi thường mà nếu không dùng thứ gỗ này thì việc trấn yểm “thần giữ cửa”
sẽ không thành công. Loại gỗ này có tên là Trắc hương, người Việt còn gọi là
Trắc thối, Huê xà, hay cây Sưa…nó có vân màu vàng nhạt, lõi màu đỏ thẫm, để tự
nhiên có mùi thơm như trầm, lan tỏa xa hàng chục mét và âm ỉ thơm trong nhiều
ngày. Thứ gỗ này có vân bốn mặt, khi đưa nghiêng ra ánh sáng thấy óng ánh 7 màu
đẹp như xà cừ. Vua chúa Trung Hoa dùng gỗ này để xây cột và kèo trong cung
đình. Nếu dùng làm “Long sàng” thì sẽ duy trì cho người nằm không bao giờ bị
cảm cúm, đau lưng, nhức mỏi, và một khả năng tình dục lâu dài. Các quan tài ướp
xác của các hoàng đế đều dùng loại gỗ này, bên trong phủ bột gỗ, trải qua hàng
ngàn năm nó vẫn như nguyên, không hề bị mối mọt hay mất mùi, xác giữ được lâu,
không bị phân hủy, linh hồn người chết mau được siêu thoát, đem lại điều may
mắn hiển đạt cho dòng họ. Ngọn đèn đội trên đầu trinh nữ chính là thứ bột gỗ
này trộn với nhựa thông và “xạ hương” của một con cầy vàng, khi cháy sẽ tỏa ra
một mùi thơm mạnh khủng khiếp, diệt sạch tất cả các loại vi khuẩn trong huyệt
mộ. Thứ gỗ này khi đốt lại không cho bột đen mà bột của nó lại có màu trắng
đục, cực kỳ mịn, khi đốt để một chậu hoa Mẫu đơn kế bên sẽ tỏa mùi hương vô
cùng quyến rũ.
Chính vì thế tấm linh phù khắc chế “Thần giữ cửa” bắt buộc phải làm bằng loại
gỗ này, và dùng phần lõi có màu đỏ sậm, đó là lý do vì sao nó rất khó có. Hơn
nữa khi sử dụng pháp sư phải dùng loại xạ mực để viết chữ bùa và tên của người
sẽ đeo nó. Loại mực này đắt như vàng, có thể dùng làm thuốc uống, bên trong có
pha trộn rất nhiều xạ hương và bột vàng nên mùi thơm của nó tràn ngập cả không
gian, khi viết thứ mực xạ này lên tấm phù, mùi của nó lại càng lan tỏa nhiều
hơn nữa. Tùy theo từng trường hợp,tấm phù được đốt trước hoặc sau khi khởi sự.
Chính cái “mả dựng” đã làm linh cảm của người Địa sư bị sai lệch, dẫn đến phải
tổn phí rất nhiều công sức và tiền bạc, thậm chí trả giá bằng cả sinh mạng.
Sau khi nghỉ ngơi vài ngày
thì công việc bắt đầu lại. Lần này phải xác định phương hướng thật chính xác bằng
nhiều cái La bàn và căng dây chia ô, đánh dấu và ghi chú kỹ lưỡng, dùng máy
quan trắc đo độ cao và đào các hố thám sát để xác định địa tầng, treo dây dọi
và dùng que để định vị các tia xạ. Khu vực này nhìn chung thuộc loại đất phù sa
cổ, sâu xuống phía dưới có rất nhiều than củi nhưng chưa đủ thời gian để biến
thành than đá, có nhiều chỗ pha cát, khả năng nơi đây nằm trên vết nứt thuộc
lưu vực sông Hồng, một dạng long mạch mà ngày xưa Cao Biền đã từng trấn yểm mà
không được, nếu đúng như thế thì khả năng có kho tàng là rất lớn. Sau hơn năm
ngày thám sát cật lực, cuối cùng thì cũng giả định được vị trí có khả năng chôn
giấu nhiều nhất, chỗ này nằm trong vườn nhà, cách khá xa cây Gạo nơi có cái “mả
dựng”.
Sau mấy lần đào thất bại, chẳng còn con cháu nào dám theo Ông Cả Quận, đành
phải thuê ba thợ đấu bên ngoài là Bình Sứt, Tiến Chài và một tay thương binh là
Thắng Còi.
Bình Sứt không phải bị sứt môi, mà là do con của ông Tám Sứt nên mới có tên là
Bình Sứt, tuy còn nhỏ tuổi nhưng rất lẻo mép “Thầy U nhà cháu cho cháu đi làm
với các bác, ngày được ăn hai bữa cơm có trái cà pháo, có con săn sắt rán vàng
là Thầy U mừng lắm rồi, ông Cả cần gì chỉ nói một tiếng cháu xin sẵn sàng làm
hết ạ”. Tiến Chài thì có cặp mắt láo liên, chắc là người của phe nào đó trong làng
cài vào, việc Cả Quận đào của chôn giấu tuy hết sức bí mật nhưng người trong
làng chắc cũng đã biết. Còn Thắng Còi thì nhỏ con, ốm nhách, mỏ dơi, tai chuột,
lúc nào cũng mặc cái áo bộ đội cũ xì, đầu đội cái nón cối, chín phần mười là
“tai mắt” của chính quyền. Cả Quận hiển nhiên là tương kế tựu kế, dùng cả hai
tên để cho chúng canh chừng lẫn nhau.
Khó có thể biết được kho tàng nào là có phù phép trấn yểm và kho tàng nào là
không, nên khi khai quật cứ nên phòng bị cho chắc chắn. Vì thế từ sáng sớm Ông
Cả Quận đã chuẩn bị sẵn sàng mọi thứ cho lễ cúng. Một cái bàn trải khăn đỏ, một
cặp nến đại, bảy cốc riệu trắng, con gà sống thiến luộc vàng ươm, một mâm ngũ
quả gồm nải Chuối, quả Phật Thủ, Đào, Lê, Cam và mấy quả Bòng, vàng mã kim tiền
đầy đủ, chỉ chờ đúng giờ ngọ là động thổ. Ngoài ra Tư Hường còn bắt Cả Quận cố
tìm cho được hơn chục chậu hoa Hải Đường để khắp trong vườn. Hôm đó may sao
trời không mưa mà lại hoe hoe nắng, thời khắc đang tốt đẹp thì mới khoảng hơn
mười giờ nghe phía xa xa gần sân đình trở nên ồn ào. Thì ra một bà ở đó tên là
Nụ, buổi sáng bà ta giặt đồ mang ra phơi ngoài sào, mới có một lát ra xem thì
thấy đâu mất mấy cái quần nên tức quá chửi bới om sòm “tiên sư bố thằng lào con
nào đang tâm lấy mất cái quần của bà, bà mà bắt được thì bà cho mày đội lên đầu
cái quần của bà… Con nào lấy cái quần của bà mặc đi ra đường thì bị xe cán chết
thây phanh làm ba, làm bốn, mà ở nhà thì bị chết tươi, hộc máu mồm máu mũi… mày
ăn không ngon , mày ngủ không yên...bà trù cho cả tam đại dòng họ nhà đứa lấy quần
của bà phải chết đường, chết chợ, chết sông, chết suối…”. Bà ta chống nạnh đứng
chửi vang khắp cả làng, đến cao trào bà ta nhảy dựng lên, hai tay vỗ phành
phạch vào hai đùi, tru tréo thêm một hồi. Cái lạ là bà ta cứ ngó về phía nhà Cả
Quận, nơi có đám thợ đấu là Bình Sứt, Tiến Chài…đang đứng, đang kê bàn chuẩn bị
thắp hương làm lễ, nên Cả Quận giận tím cả mặt mà đố dám nói gì. Chắc có bọn
nào tư thù với Cả Quận gây ra việc này. Đúng là cái điềm chẳng lành trước lúc
khởi sự. Còn Tư Hường đứng xem một hồi thì như bị nhập tâm hay sao, lúc quay
vào mặt đỏ ké, miệng lảm nhảm “tiên sư bố thằng lào con nào…lần này ông mà đào
không được thì ông bỏ nghề luôn”
Đúng ra thì Tư Hường phải
cúng, phải làm lễ, nhưng y lại phù phép biến hóa đẩy việc này cho Cả Quận, làm ông
ta hôm đó phải mặc cái áo the nửa đen nửa trắng, đầu đội khăn, thắp nhang đứng
trước. Quýnh khèo, Tư Hường và ba thợ đấu đứng đằng sau, nghi lễ cúng bái xem
ra kéo dài cả tiếng.
Cặp mắt cú mèo của Cả Quận đang chăm chú đọc tờ sớ.
Đám thợ thì đang sì sụp vái.
Cô Quý đang nấu nồi cám lợn to xù…
Cô Quý đúng là “đẹp người đẹp nết”, nước da rám nắng, răng đều tăm tắp, đôi mắt
lá răm đen lay láy, mái tóc gội bồ kết đen mượt mà. Dáng vẻ của cô mới thật là
tuyệt đẹp, một vẻ đẹp đằm thắm của thiếu nữ chân quê miền Bắc. Chắc đám trai
làng cũng dòm ngó dữ lắm nhưng vì sợ Cả Quận nên chưa dám mó máy gì – Từ khi mẹ
mất, cô Quý phải nghỉ học quán xuyến hết cả việc nhà, từ sáng sớm đến tối mịt
không lúc nào ngơi tay, chăm lợn, nuôi gà, đi chợ, cơm nước, quét dọn, giặt giũ…vì
thế hai bàn tay nhìn thấy nổi gân rất rõ. Tuy vậy trong nhà bếp luôn gọn gàng
sạch sẽ.
“sao anh không ở trên đó cúng, xuống dưới này làm gì ạ ?”
Cô Quý hỏi như thế, giọng cô thật dịu dàng và trong trẻo. Cả Quận không chăm
sóc con gái, nhưng y canh chừng thì lại rất kỹ. Khu vườn nhà Cả Quận rộng mênh
mông, xung quanh trồng cây dâm bụt làm hàng rào, vườn chủ yếu là trồng Cam, có
một vài cây Muỗm…
“nghe nói em từng học trường THSP” – “dạ, em đang học năm thứ nhất thì Mợ mất,
Thầy bảo em nghỉ học lo việc nhà”.
Tuổi nào vừa thoáng buồn áo gầy vai
Tuổi nào ghi dấu chân chim qua trời
Xin cho tay em còn muốt dài
Xin cho cô đơn vào tuổi này
Tuổi nào lang thang thành phố….tóc mây cài…*
“Sáng nay em có thấy ai tới tìm anh Quýnh không ?” – “Có, hồi sáng em thấy ai
đó thập thò ngoài cổng sau, sau đó họ vẫy vẫy anh Quýnh” – “lần đào trước anh
nghe nói có người chết ?” – “lúc đó em đang học nội trú nên em không biết ạ”.
Tuổi nào nhìn lá vàng úa chiều nay
Tuổi nào ngồi hát mây bay ngang trời…*
“Nhà ở ngay cạnh cây Gạo, em có sợ ma không ?” – “Hồi nhỏ em hay ra chỗ cây Gạo
chơi với anh Quýnh. Nhất là vào tháng ba, hoa Gạo nở đỏ rực cả một vùng, lúc đó
trẻ con trong làng tụ tập ở đây vui lắm”.
“ở nhà mãi em có buồn không ?” – “lâu rồi em cũng quen ạ”
Tuổi nào ngồi khóc tình đã nghìn thu
Tuổi nào mơ kết mây trong sương mù
Xin chân em qua từng phiến ngà
Xin mây xe thêm mầu áo lụa
Tuổi nào thôi hết từng tháng năm mong chờ...*
(*nhạc Trịnh)
Ấy là cái chuyện đã qua rồi,
còn bây giờ thì đụng phải cái mả cổ. Nhưng tấm đá thạch anh đã bị băm nát như
cám, không biết là nó có khắc những hàng chữ gì ? trấn yểm hay cảnh báo điều gì
? Mãnh lực thần bí trong những ngôi mộ có thể tồn tại trong suốt nhiều ngàn
năm, xâm nhập vào một cách bất cẩn có thể phải trả giá rất đắt. Theo như dự
đoán thì nơi đây có hai ngôi mộ cổ chôn cặp sát nhau, ngôi mộ mới đào hồi chiều
nằm ở phía đông, còn ngôi mộ phía tây đã bị một nhóm khác đào rồi, nhưng nhóm
này đã bị chết hết.
Băng chuyên đi đào trộm mộ này nổi tiếng dữ dằn, đứng đầu là Từ Chính Huỳnh.
Y hay đội cái nón màu đỏ nên có biệt danh là Huỳnh Đỏ, người cao cao, xương
xương, mặt nhăn nhúm vằn vện, hai lưỡng quyền nhô lên che cặp mắt tinh anh như
mắt sói. Trên người y xăm đủ thứ bùa chú, cánh tay trái xăm một con rít chúa
cực lớn, con rít này rất đặc biệt, nửa trên màu đỏ, nửa dưới màu đen, có một
trăm lẻ tám cái chân cả thảy. Huỳnh Đỏ tự nhận mình là “con rít chúa hai đầu”
có trăm tay nghìn mắt để chinh phục thiên hạ. Y thuộc loại “nửa người nửa quỷ”,
hình dạng thì là người nhưng tâm địa độc ác còn hơn quỷ dữ. Từng nổi tiếng ở
khu vực Cây Da Xà với nghề đánh bài, xóc đĩa, nhưng bị truy bắt quá nên chuyển
qua hành nghề thầy bùa, lừa đảo, săn tìm đồ cổ và đào trộm mộ. Băng Huỳnh Đỏ
gồm năm tên là Huỳnh Đỏ, Ba Cang, Sơn Chùa và Tý Khờ, cùng với một ả làm cò
mồi, đi dò la là Hạnh Mèo, chuyên đào trộm những ngôi mộ nhà giàu mới chôn để
lấy đồ, nếu gặp hòm bằng gỗ quý giá cả trăm triệu thì lấy luôn cả cái hòm. Băng
này còn lấy cả xương người chết mang bán, giả làm hài cốt lính Mỹ. Có khi bọn này
còn được thuê để đào phăng đi những ngôi mộ vô chủ để lấy chỗ “đắc địa” chôn
người khác. Còn nếu phát hiện được ngôi mộ cổ vài trăm năm thì coi như trúng
mánh lớn…
Thường khi khâm liệm, gia đình cho vào miệng người chết một miếng vàng để làm
lộ phí khi xuống âm phủ. Bỏ vào trong hòm những đồ vật thân thiết của người quá
cố, nhiều khi là những đồ vật rất có giá trị về vật chất. Những đồ tùy táng đó
có ẩn chứa những điềm rất nguy hiểm. Đặc biệt đồ vật lấy ra từ trong các ngôi
mộ cổ như vàng ngọc, ly chén, y phục...luôn bị những ảnh hưởng thần bí của ngôi
mộ. Từ trong các ngôi mộ đó, vô số những âm binh bị giam hãm từ lâu tràn ra
khắp nơi, khi nó đã thoát ra ngoài thì những mãnh lực hắc ám vô hình đó không
thể triệt hạ được nữa… Nếu người sở hữu bảo vật ấy lại có một tâm địa bất hảo,
thì họ sẽ dần dần trở nên hung ác, tàn bạo, sau đó sẽ là điên loạn, tự tìm đến
cái chết.
Bọn Huỳnh Đỏ lấy những đồ vật bất tường đó, bán đi bán lại, qua tay nhiều
người, khi vào tay một số người nào đó, họ không biết rõ nguồn gốc của món đồ,
đến khi bị những tai bay vạ gió, hay tự mình biến thành điên khùng mà vẫn không
hiểu lý do là vì sao cả.
Trước lúc đào Huỳnh Đỏ và đàn
em uống mỗi người ba chung rượu “cáo trùng”, là nghi lễ xin phép Thần Trùng,
bao gồm một ly lúc khởi hành thường là khoảng nửa đêm, một ly bên mộ và một ly
đổ lên ngôi mộ cho hương hồn người chết. Sau đó y lên đồng, người giật giật,
cái miệng chép chép liên tục, hai mắt trợn trắng, lắp bắp phát ra những thứ
tiếng Lạ, đại loại như :
- “ka ta la chắc ba rắc ku si pa sớt tờ rớt ba ha ba ha ba ha...”
- “mê cha ti la ku pa cờ ta la chắc chắc…”
- “pa ta la tắc tắc tắc…ku si pa sắc…tắc tắc tắc…”
Miệng nói liến láu, tay thì múa máy vẽ bùa, có điều những tiếng này chẳng theo
một thứ bùa chú hay ngôn ngữ nào - Huỳnh Đỏ bốc láo với đồng bọn là do một Đại
pháp sư nhập vào khiến y nói được những lời “cao siêu” đó để xua ma đuổi quỷ.
Nếu cuộc đào vào ban ngày, thường là vào giờ ngọ thì Huỳnh Đỏ còn biểu diễn
nhiều hơn nữa, y làm mặt lúc thì xanh, lúc thì đỏ, rú lên như quỷ sứ, đồng thời
lấy một cái nhíp xe hàng bằng thép to đùng đập chan chát vào ngực, làm người
yếu bóng vía sợ đến vỡ cả mật.
Vậy mà mấy lần phát hiện ra những ngôi mộ lắm tiền nhiều của thì đều bị một kẻ
nào “hớt tay trên” đào trước rồi nên Huỳnh Đỏ tức lắm, quyết tâm tìm ra kẻ nào
dám “vuốt râu hùm” để “xin tí huyết”. Lần đụng độ đó, Huỳnh Đỏ dẫn theo Ba
Cang.
Ba Cang có cái tên cúng cơm cúng cháo là Quách Trung Cang, Y được trời phú cho
cái tài đào đất cực siêu, không ai bì kịp. Dòng họ Quách hồi trước cũng thuộc
loại tư sản có tên tuổi, có máu mặt nên sau giải phóng bị đi KT mới, xuống tận
nông trường Cờ Đỏ, hình như thuộc Đồng Tháp hay Cần Thơ gì đó...cuốc đất trồng
khoai, đào kinh, đào mương quanh năm mà vẫn ăn đói, mặc rách. Khổ quá chịu
không nổi, Ba Cang mới dội về SG sống lang thang, xin vào làm mướn cho mấy chủ
thầu xây dựng. Lúc đó y chuyên đào mấy trụ móng, đào nhanh bằng ba bốn người,
được trả tiền rất hậu hĩ, nhưng sau lại chán cái nghề tầm thường này nên xin về
làm nghề cải táng, thiêu xác ở khu Bình Hưng Hòa. Có lần trong lúc thu dọn tro
tàn, xương cốt sau khi thiêu, Ba Cang thấy một vài mẩu xương còn dính thịt cháy
vàng, ngửi thấy “thơm thơm mùi thịt nướng”, làm y có cảm giác thòm thèm, sau
thấy một miếng gan chưa cháy hết, liền lấy bỏ vào túi mang về nhắm rượu. Riết
rồi thành quen, Ba Cang còn nói “trong các món gan, gan người nướng là ngon hơn
hết thảy”, chính vì thế khi say rượu ngà ngà, lâu lâu Ba Cang lại thấy “thòm
thèm” thịt người…
Hôm đó là ngày trăng khuyết nên cảnh vật chỉ nhìn thấy
mờ mờ, Huỳnh Đỏ thấy một cái bóng cao gầy đào mộ thật nhanh. Khu này là khu mộ
cổ đá ong, một vị trí rất đẹp, rất đắc địa. Vừa rồi có một gia đình trọc phú đã
thuê bọn Huỳnh Đỏ don sạch nơi này để chôn thằng con trai mới đua xe bị chết.
Chôn ở đây đã được hơn hai tháng, mộ đã được xây bằng đá hoa cương đen cực kỳ
chắc chắn, gia đình còn cử người canh gác rất kỹ. Không hiểu sao hôm nay hai kẻ
gác mộ lại nằm ngủ say sưa như chết đã lâu. Cái bóng đào mộ dường như mặc váy,
nó kéo dạt cái bia sang một bên, sau đó lấy len đào sâu xuống nhanh như máy…
Khi thấy cái hòm, nó dùng tay không bấu lấy một đầu kéo lên. Sau đó nó nhảy
xuống, dùng một tay bợ phía dưới nhấc bổng cái hòm quăng lên mặt đất. Nhìn cái
cảnh đó bất giác Huỳnh Đỏ toát mồ hôi lạnh, bên cạnh y Ba Cang cũng không khác
gì, xương sống thiếu điều nổi cả gai. Y đã nghe con Hạnh Mèo kể con Đẹt này có
thần lực phi thường, bây giờ mới được thấy tận mắt.
Con Đẹt này chẳng biết từ đâu hiện hình về, nó gầy gò, cao dong dỏng nên dân
địa phương gọi nó là Đẹt chứ tên thật nó là gì thì chỉ có trời biết. Nó hay
lang thang ngoài ruộng, nghĩa địa, những nơi vắng vẻ đêm hôm một thân một mình.
Nó tuy gầy gò “ngực phẳng như lưng” nhưng gương mặt lại khá đẹp, mũi cao, mắt
sâu, tóc quăn, nên có lần bốn thằng trai làng nảy sinh tà ý, sau một chầu nhậu
sương sương mới mai phục ngoài nghĩa địa định bề cưỡng hiếp con Đẹt. Theo thói
quen, khoảng nửa đêm con Đẹt sẽ mò về nghĩa địa để “ngủ”. Khi nó mới đi vào khu
đất, bốn thằng trai làng lực lưỡng tưởng bở nhảy ra bao vây, một thằng phóng vào
tính ôm liền bị trúng ngay một đá vào be sườn, lăn quay ra đất không dậy nổi.
Một thằng bị vả một cái sái cả quai hàm, bay hết mấy cái răng, trào máu mồm máu
mũi. Hai thằng còn lại tính bỏ chạy nhưng cũng không kịp, bị con Đẹt đánh cho
một trận “lên bờ xuống ruộng”, mới chỉ có mấy phút mà bốn thằng nằm chèm bẹp,
lạy lục xin tha.
Sau lần ấy bốn thằng đâm ra kính phục con Đẹt, tôn nó làm sư tỷ, nhưng con Đẹt
chỉ thích làm một mình, đỡ mắc công chia chác, chỉ khi nào cần lắm thì nó mới
kêu tới bốn thằng “đệ tử”. Còn về “chuyện ấy” nó tuyên bố “khi nào bà thấy cần, bà sẽ tự kiếm”.
Cái hòm cả sáu thằng lực điền khiêng còn niểng mà con Đẹt chỉ dùng một tay để
bợ lên thì chắc người nó bằng sắt thép quá. Ba Cang bình thường coi trời bằng
vung mà bây giờ xem ra cũng cảm thấy run ruột. Huỳnh Đỏ chợt nghĩ “Không phải
hai thằng liên thủ mà cả chục thằng nữa e rằng cũng đánh không lại con Đẹt
này”. Tuy vậy việc nồi cơm bị người ta tranh mất nếu bỏ qua sẽ mang tiếng là
hèn nhát, khó mà ngóc đầu lên trong chốn giang hồ nên hai thằng cũng đành bấm
bụng ráng từ từ tiến tới…
Hai thằng đến gần sát mà con
Đẹt cũng không thèm nhìn tới… khi Huỳnh Đỏ tiến đến thật sát, trong cái ánh
trăng khuyết nhàn nhạt con Đẹt mải lo làm nên mấy cúc áo ngực bật tung, lộ một
khoảng trăng trắng… con này là đàn bà mà sao nó không thèm bận áo ngực, chính
vì thế Huỳnh Đỏ mới nhìn thấy một cái hình xăm mờ mờ, cố nhìn thấy rõ cái hình
đó Huỳnh Đỏ bất giác giựt mình kinh sợ.
Khi đưa được cái hòm lên bọn Huỳnh Đỏ phải lấy xà beng nạy mới bung nắp lên được,
việc này thường làm bể nắp nên phải mang sẵn theo một cái nắp khác để thay vào.
Nếu gặp cái hòm bằng gỗ quý có giá vài chục hoặc trên trăm triệu thì mang sẵn
theo một cái hòm gỗ tạp khoảng mấy trăm ngàn để đánh tráo, sau đó lấp đất lại y
như cũ. Con Đẹt chỉ cần dùng tay vỗ mạnh vào thành hòm làm mấy cái đinh hơi nhú
lên, sau đó nó dùng tay không nhổ đinh nhanh như người ta nhổ cỏ vậy làm Huỳnh
Đỏ lẫn Ba Cang há hốc cả mồm ra kinh ngạc. Sau khi bật nắp hòm, con Đẹt kiểm
tra cái đầu xác chết rất kỹ, xác chết nam này rất trẻ, chỉ độ mười sáu mười bảy
tuổi, bố mẹ nó rất giàu nên cái hòm được làm bằng gỗ quý, chạm trổ rất cầu kỳ.
Con Đẹt xem xét một hồi rồi lầm bầm chửi rủa “mồ tổ thằng cha con bà nhà nó,
mới tí tuổi đầu mà đã không còn là đồng nam rồi”, sau đó nó bóp miệng xác chết
lấy miếng vàng, lột sạch dây chuyền, vàng vòng của quý tử. Nó đóng nắp hòm,
nhét trở xuống huyệt rồi lấp đất, kéo cái mộ bia lại, toàn bộ chưa đến nửa giờ,
nhanh không thể tả.
Đến lúc này nó mới thèm nhìn đến bọn Huỳnh Đỏ và Ba Cang - con Đẹt đưa mớ vàng
ra nói “hai thằng bay muốn lấy cái này ?” – Huỳnh Đỏ vội đáp “không dám, không
dám…” – con Đẹt nghe thế liền nói tiếp “hai thằng mày có gan thì đi theo tao”.
Nghe nó nói thế, hai thằng đành lểnh mểnh đi theo. Con Đẹt đúng là “đi nhanh
như quỷ”, ra tới ngoài lộ thì trời khuya lắm rồi, phía bên kia cầu còn một cái
quán bán đêm cho khách qua đương và đám lái xe. Con Đẹt mua hơn ba chục ổ bánh
mì và năm chục cái bánh bao rồi thảy qua cho Huỳnh Đỏ và Ba Cang, hai thằng
đang định đi đánh nhau trong bỗng chốc trở thành hai thằng khuân vác.
Con Đẹt dẫn hai thằng đi sâu vào khu nghĩa địa, đến một căn nhà mồ rất rộng, có
cả chục đứa con nít đang ở đó. Con Đẹt lấy bánh ra chia cho bọn nhóc, xem ra
bọn trẻ này rất quý mến con Đẹt, đứa nào đứa nấy đen nhem nhẻm, tóc tai bù xù,
quần áo rách rưới, đứa lớn thì bồng đứa bé…loáng cái là xơi sạch số bánh. Huỳnh
Đỏ và Ba Cang từng thấy mấy đứa trẻ này lang thang ăn mày ngoài chợ nên chợt
hiểu tại sao con Đẹt lại có thông tin nhanh chóng như vậy. Lát sau con Đẹt lệnh
cho bọn trẻ đi ngủ, sau đó nó ngồi xếp bằng giữa nhà mồ, ra hiệu cho Huỳnh Đỏ
và Ba Cang ngồi theo. Nó quấn cái Xà rông ngang bụng, mặc cái áo sơmi đứt cúc
nên Huỳnh Đỏ thấy ngực trái nó có cái hình “quỷ ba mặt” đen sì…
Ngày xưa ở xứ Ghi-nê-bít-xao
có những bộ lạc ăn thịt người, thổ dân nơi này có cái thú “săn đầu người”, lấy
sọ của kẻ thù đóng cọc hay đeo trên cổ để tăng thêm sức mạnh. Họ có bí thuật có
thể thu cái đầu người nhỏ lại bằng nắm tay, sau đó đeo thành chuỗi trên cổ. Họ
quan niệm như thế là có thể sai khiến được linh hồn của kẻ đã chết, bắt nó phải
đi theo phụng sự cho họ. Những thổ dân này có tục lệ xăm trổ đầy người, đặc
biệt xăm hình quỷ có ba mặt đang nhe nanh nom rất dữ tợn, xem đó là thần hộ
mệnh, phải lấy máu của kẻ thù để hiến tế thường xuyên. Họ sống lẩn lút ở một số
đảo vùng Nam Thái Bình Dương… chỉ có những tên cướp biển Mã Lai hay Indo là có
thể quan hệ được với họ và dần dần cũng trở thanh môn đồ của “quỷ ba mặt”.
Những tên cướp biển tàn bạo này lại tiếp tục truyền bá thứ quỷ thuật khủng
khiếp này cho những đồng đạo là cướp biển Thái lan và Campuchia… Chính vì có
một nguồn gốc kinh khủng như thế nên môn đồ của “quỷ ba mặt” đều là những kẻ
tàn ác, điên loạn.
Số mệnh của Con Đẹt sinh ra đã là môn đồ của “quỷ ba mặt”, nó bắt buộc phải sưu
tầm sọ người đồng nam, đồng nữ, hoặc đầu người bị sét đánh để duy trì sức mạnh
vô địch. Môn quỷ thuật này kêu gọi những thế lực hắc ám từ cõi âm ty địa ngục –
mượn lấy quyền năng của chúng, nếu không hiến tế thường xuyên sẽ bị ma quỷ hành
cho trở nên điên loạn. Con Đẹt bị ám bởi quỷ thuật này là do bàn tay của một
tên cướp biển. Tên cướp này đã lượm một đứa trẻ bị bỏ rơi, sau đó bỏ công sức
ra nuôi nấng, dạy dỗ và nhuộm đen tâm hồn đứa bé, mong biến nó thành một con
“quỷ ba mặt” thực sự, xem như là món quà phi thường nhất để hiến tế cho quỷ dữ.
Con Đẹt được luyện thần lực từ nhỏ, tập đeo chì chạy bộ hàng chục km, leo vách
đá bằng tay không, dùng chân đá bể cả mái vú, lấy nước sôi dội lên người để da
thịt cứng chắc như sắt thép, có thể nhảy từ trên núi cao cả chục mét xuống mà
không hề hấn gì… Huỳnh Đỏ có một thời trốn lệnh truy nã của chính quyền, phiêu
dạt trên vài hòn đảo ngoài khơi xa, từng tiếp xúc với cướp biển Campuchia nên
có kinh nghiệm về chuyện này.
Con Đẹt ngồi đối diện có phần hớ hênh nên Ba Cang tính thừa cơ rút dao đâm lén,
nhưng y nhìn qua thấy Huỳnh Đỏ gương mặt lỳ lỳ nên chưa dám… Bỗng Huỳnh Đỏ ghé
tai Ba Cang khào nhẹ “đừng làm chuyện dại dột, đâm nó không thủng đâu, chớ nhúc
nhích…” . Biết con Đẹt có sức mạnh và pháp thuật phi thường nên Huỳnh Đỏ muốn
lôi kéo nó về nhập băng để gây thêm thanh thế. Từ khi có nó, băng Huỳnh Đỏ vốn
đã hùng mạnh lại càng thêm hùng mạnh, nghe hơi thôi cũng đủ làm mọi người khiếp
vía, còn chính quyền cũng không làm được gì vì chẳng có ai dám tố cáo và cũng
không có bằng cớ gì. Bọn này đi săn tìm khắp Miền Tây, Miền Đông… lên tận Tây
Nguyên, phá phách các khu nhà mồ, đánh cắp các loại tượng nhà mồ và gỗ quý của
người dân tộc, không một điều gì mà không dám làm.
Chính vì thế mà khi hai người Đài Bắc qua đây, muốn đào mộ tổ tiên đã phải liên
hệ với băng Huỳnh Đỏ. Lần trước cũng lần theo tài liệu cổ của dòng họ, họ xuống
tận Bến Tre, liên hệ với chủ đất nơi mà họ nghi có kho tàng xin được mua lại
miếng đất với giá cao. Không dè lần ấy do thiếu kinh nghiệm, lại lạ nước lạ
cái, họ gặp phải chủ đất ma mãnh, dứt khoát không chịu bán. Chờ đến khi họ đi,
gia đình chủ đất mới tự tổ chức đào bới, do không biết cách nên đào cả khu đất
thành một cái ao sâu cả sáu bảy mét, rộng hàng chục mét mà chẳng có gì. Tiền
mất, lỗ công lỗ của, bị “thần giữ cửa” trừng phạt nên nghe đâu sau này tay chủ
đất đó bị điên điên khùng khùng. Lần này hai người Đài Bắc kinh nghiệm hơn, qua
môi giới họ liên hệ trước với băng Huỳnh Đỏ để làm áp lực với chủ đất, họ không
mua hẳn miếng đất mà chỉ thuê một thời gian để đào. Tiền bạc chung chi lo lót
đầy đủ nên công việc tiến hành khá thuận lợi, nhất là lần này có thêm con Đẹt
“thần thông quảng đại” nên họ càng mười phần tin tưởng. Có điều do quy mô cái
ngôi mộ này quá to, bề dài hơn hai chục mét, rộng hơn bốn chục mét, phía trên
bị cát bao trùm, hết phân nửa lại nằm cả ra ngoài lô đất của tay chủ nhà nên
công việc không được suông sẻ. Hơn nữa chính hai người Đài Bắc cũng không thể
ngờ được đây lại là một khu mộ cặp.
Trong bọn Huỳnh Đỏ cũng cần
phải nhắc đến hai tên là Sơn Chùa và Hạnh Mèo.
Hạnh Mèo có dáng đi uốn éo, lắc lư mềm dẻo như con mèo. Ả có một thời làm cave
ở Queenby, sau chuyển qua làm gái gọi ở mấy quán bar khu vực đường LTT, ĐK…
Hạnh Mèo có thể đánh bài thâu đêm suốt sáng, ngày này qua ngày khác…Ả ta vuốt
bài, xào bài, tráo bài còn nhanh hơn cả nhà ảo thuật. Khi thua bài cháy túi thì
chỉ cần có ai bỏ tiền ra cho ả chơi tiếp là ả sẵn sàng qua đêm với người đó.
Khi về với băng Huỳnh Đỏ ả nhanh chóng trở thành cánh tay đắc lực trong những phi
vụ lừa đảo. Có một nhan sắc mê hoặc, Hạnh Mèo đưa khá nhiều kẻ lắm tiền của vào
bẫy để đồng bọn “xẻ nai”, “làm thịt”… nhưng những đồng tiền bất chính kiếm được
Hạnh Mèo cũng nướng sạch vào sòng bài cả.
Còn Sơn Chùa thì có cái đầu lúc nào cũng trọc lóc, có một thời y chuyên đóng
giả thầy chùa để đi… khất thực. Kiếm cơm bằng nghề này cũng khá nên về sau bị
cạnh tranh rất dữ, hơn nữa bị CA truy bắt rất gắt nên y bỏ nghề “giả sư”, nhập
vào bọn chuyên lừa đảo cờ bạc ở mấy bến xe. Tranh giành lãnh địa sao đó Sơn
Chùa mới “mổ” một thằng đi đứt, phải bóc lịch cả chục năm. Trở về y đầu quân
theo Huỳnh Đỏ…cái đầu y trọc lóc chắc là do linh hồn “cằn cỗi” quá đến tóc cũng
không thèm mọc, râu thì lại càng trụi lủi, hai con mắt trắng dã, một vết sẹo
dài từ đuôi mắt đến mang tai, nhìn Sơn Chùa toát lên một vẻ thâm độc, gian xảo
không chịu nổi. Hai đầu gối Sơn Chùa lại xăm hình hai cái đầu voi, cái vòi
thòng xuống chân, khi y ngồi nhìn giống đầu con voi y hệt, đó là biểu tượng cho
sức mạnh bền bỉ, dẻo dai vô địch của loài chúa tể. Trước đây Sơn Chùa đã từng
biết rõ về con Đẹt nên lần đụng độ đó y chắc bọn Huỳnh Đỏ phen này “một đi
không trở lại” nên không tới. Chẳng dè Huỳnh Đỏ trở về có thêm cả con Đẹt đi
theo làm Sơn Chùa càng thêm nể mặt.
Vậy mà “Thiên thần mũ đỏ” rồi cũng phải gãy cánh một cách đau đớn, vật vã.
Chính là ở cái lần đang đào dở ngôi mộ phía Tây, chiều hôm đó Huỳnh Đỏ lên cơn
co giựt, miệng sùi bọt mép, hai mắt lòi cả ra ngoài, người cong lên như cái đòn
gánh, ngón chân, ngón tay co quắp… trong bọn thì nói Huỳnh Đỏ bị “phong đòn
gánh” mà chết, còn người ngoài thì nói y bị “thần giữ cửa” vật chết…
Cái chết của Huỳnh Đỏ không làm các chiến hữu của y nao núng, Ba Cang còn lấy
làm mừng vì tự nhiên bớt được một phần chia. Con Đẹt lên làm thủ lãnh thay
Huỳnh Đỏ. Công việc đào gần xong thì bất ngờ tai họa lại đổ xuống, lần này là
ông chủ nhà. Đúng là của nuốt chưa trôi thì lại phải nôn ra, bọn Ba Cang chủ
yếu là đào ban đêm để tránh bị dòm ngó, hôm đó tay chủ nhà xớ rớ ra xem bất ngờ
trúng phải một luồng khí độc, ngã lăn ra hôn mê, đưa đi cấp cứu mãi mà vẫn
không tỉnh. Chưa hết, mấy ngày sau một trong hai tay người Đài Bắc khi đi đường
bị xe tải tông, “đứt chến” ngay tại chỗ, tay còn lại hồn vía bay tận chín tầng
mây, hoảng sợ dông luôn về nước…
Ngay tối hôm có một chiếc xe tải đến móc toàn bộ đồ trong ngôi mộ mang đi hết.
Không ai biết trong đó có những gì ?
Không ai biết chúng được mang đi đâu ?
Ai đứng sau lưng con Đẹt để có thể làm những chuyện kinh người như thế ? Chỉ
biết sau đó mấy ngày người ta thấy xác của Ba Cang nằm chết dưới mương, sọ bị
đập vỡ. Có người cho rằng do y lén giấu bớt đồ đi nên bị đồng bọn thanh toán.
Bọn Sơn Chùa, Hạnh Mèo, Tý Khờ nghe đồn cũng lần lượt đi đong hết…
Một hôm con Đẹt dẫn đám con
nít xuống chợ Đệm.
Đây là một khu chợ “trên bến dưới thuyền” ồn ào, náo nhiệt và cũng không kém
phần thơ mộng. Tiếng mái chèo khua nước ràn rạt, tiếng gọi nhau í ới, nghe xôn
xao cả một góc sông. Bọn nhóc ăn mày tỏa đi khắp nơi, đến chiều thì tập hợp
lại, xin được bao nhiêu tiền đều gom hết cho con Đẹt .
Con Đẹt thuê nguyên chiếc tắc ráng, đặt cái cà ràng chính giữa, nấu một nồi
cháo lòng to đùng. Nó mua nguyên một cái đùi heo luộc, sắt ra từng miếng lớn để
đãi bọn nhóc ăn với dưa leo và rau húng chỉ. Bọn nhỏ đứa nào đứa nấy đen thui
thủi, tóc tai bù xù, quần áo rách rưới, gày ốm nên hai con mắt đứa nào cũng có
vẻ to to, được cái chúng rất thương nhau, đứa lớn đùm bọc cho đứa bé. Lâu lâu
bọn trẻ mới được ăn một bữa ngon nên nhảy múa, la hét um sùm, không khí vui như
tết. Bấy giờ hoàng hôn bắt đầu buông xuống, mặt trời đang từ từ lặn, chiếu cái
ánh vàng nhợt nhạt lung linh… Con Đẹt cho ghe len lỏi dưới những rặng dừa nước
um tùm. Trên dòng sông ghe thương hồ chen nhau đậu san sát, tiếng nói cười rộn
rã, đâu đây văng vẳng câu ca :
Hò…ớ….ơ…ơ…
Gái có chồng như gông đeo cổ
Phận gái thương hồ khổ lắm… ai ơi
Thương người kết tóc buông lơi
Kiếp giang hồ không bờ bến…anh ơi có dám đèo…?
Em thương anh vì bởi anh nghèo
Hò…ớ….ơ…ơ…
Em có chồng rồi sao anh vẫn còn theo ?
Đêm nằm đệm suốt đu anh đắp sao cho khéo
Chờ trăng lặn rồi , em đắp xéo mới nghe…
Hò…ớ….ơ…ơ…
Đến đêm thì con Đẹt cho tắc ráng thẳng xuống Bến Lức, sau đó nó hứng chí
men theo dòng Vàm Cỏ xuôi ra biển. Cái máu cướp biển có lẽ đang trỗi dậy trong
huyết quản con Đẹt, ra đến cửa Soài Rạp nó cho tắc ráng chạy hết tốc lực, đang
rẽ sóng băng băng thì bất ngờ xuất hiện một con cá lớn dài cả mấy mét, da màu
trắng nhưng hai mắt và vây, đuôi lại đỏ rực. Con cá lạ dường như khiêu khích,
nó cứ vờn qua vờn lại trước mũi làm con Đẹt nổi khùng phóng tắc ráng bạt mạng
theo con cá. Ghe nhỏ gặp sóng lớn đâu có chịu nổi, nó lật nghiêng sang một bên
làm bọn con nít nhốn nháo, la hét ầm ĩ, lúc trời bắt đầu sáng thì chiếc tắc
ráng từ từ chìm xuống. Con Đẹt đập bể một thanh gỗ lớn, cho bọn nhỏ bám vào rồi
nó cố đẩy vô bờ. Có điều sóng lớn quá, hơn nữa giờ này ghe thuyền qua lại còn
ít nên khi nó đẩy được tấm gỗ vào tới bờ thì có mấy đứa bị rớt lại mà không ai
tiếp cứu. Con Đẹt bèn bơi ngược trở ra túm được hai đứa đưa vào bờ nhưng vẫn
còn thiếu một đứa, nó liền ôm thanh gỗ bơi trở ra một lần nữa… nó ráng đưa được
đứa cuối cùng lên trên tấm gỗ thì bất ngờ bị một con sóng dữ cuốn đi mất tích.
Những môn đồ của “quỷ ba mặt” bao giờ cũng phải chết trên biển cả…
Những chuyện đó đều là nghe
người ta kể lại, không biết là thật hay là hư nữa. Nhưng cái mả cổ với phiến đá
thạch anh thì đang sờ sờ ra đó, Sáu Ri cũng ngồi sờ sờ ra đó, cái mặt của y
thật đậm chất CA, cái mép miệng cứ nhếch nhếch, cười cũng chẳng ra cười mà khóc
cũng chẳng ra khóc.
Sáu Ri ghé từ sáng sớm, bọn Hai Đụi, Ba Nửa, Tư Thăng, Bảy Bụng, Chín Cò, Út
Thứ đều là lính của y cả.
Sáu Ri đến tất nhiên đến không phải để chơi hay để nói chuyện, cũng không phải
để thăm hỏi – Y thăm hỏi bọn Tư Hường làm cái con khỉ gì ? – cái lý do y đến
tất nhiên không nói ra nhưng ai cũng hiểu…Thế mà Tư Hường lại làm như không
hiểu gì cả, cái mặt của y lúc đó nhìn thật… khù khờ. Sáng sớm chưa rửa mặt súc
miệng mà y đã móc thuốc ra hút, lại còn mới Sáu Ri một điếu “chú chắc toàn hút ba
số, hôm nay thử với anh một điếu củi cho vui”…
ĐHC đã từng gặp nhiều người có gương mặt lạnh lùng, nhưng chưa từng thấy ai có
gương mặt lạnh như Sáu Ri cả, nó là đá, là gỗ, là… cái gì đó không thể tả được,
không lẽ đó lại là gương mặt của thần chết ? Hiển nhiên Bảy Bụng đã tâu hót gì
đó nên y mới ghé sớm như vậy. Sáu Ri không dò la gì cả, nhưng sự xuất hiện của
y cho biết một điều rất đơn giản “Sáu Ri lúc nào cũng có… có rất đúng lúc, muốn
sống thì phải nhớ điều đó…”.
Trung Hiếu Thuận Thiên và Đại Hồng Cát.
Từ trong căn lều, nhìn ra cánh đồng buổi sớm xanh mươn mướt, một màu xanh bát
ngát hòa quyện vào bầu trời mênh mông với những áng mây bồng bềnh, vài cánh cò
trắng bay chấp chới… loài cò đi kiếm ăn sớm thật, cũng như con người, chúng
sống nhờ nước, không khí và các sản vật của ruộng đồng. Nhưng có lẽ loài cò
không phải lo nghĩ nhiều như con người, không phải tranh đấu để tồn tại nhiều
như con người. Tư Hường từng nói “thiên hạ muốn bắt cò thì dùng con cò làm chim
mồi, muốn bắt cu thì dùng con cu làm chim mồi,… muốn bắt người tất nhiên phải
dùng con người làm mồi” – “thế với ma quỷ thì sao?” – “với ma quỷ thì rất khó,
bởi vì chúng vô hình… không thể dùng một hình hài nào đó để làm mồi được”. –
“thế muốn bắt ma đuổi quỷ thì phải làm thế nào?” – “Chúng là vô hình thì cũng
phải dùng những điều vô hình…”.
Chẳng biết theo Tư Hường thì
điều gì là vô hình, nhưng trong mấy tay DK xã, Tư Thăng bao giờ cũng là kẻ hiện
hình đến sớm hơn cả. Y không mập cũng không gầy, không cao cũng không lùn,
không trắng cũng chẳng đen. Lúc nào y cũng chỉ mặc một bộ đồ như vậy, đi một
đôi dép như thế, không bao giờ thay đổi. Y lầm lỳ hơn cả, ngược hẳn với Ba Nửa
nói không ngớt miệng. Ba Nửa lúc nào cũng say ngà ngà, sáng sớm là y đã súc
miệng bằng rượu, rượu vào rồi là Ba Nửa nói liên tục, trong lúc Út Thứ hì hục
đào thì Ba Nửa ngồi phía trên nói không ngừng “…hai đứa chúng nó dắt nhau vào
trong lùm… tao đang nằm ngủ phía trên cây, con bà nó…tao thấy rõ ràng..hé hé
hé…” –- Ba Nửa chỉ nói về một đề tài duy nhất, đó là chuyện “ấy ấy”, “đời chỉ
có thế mà thôi…”, vào hùa với Ba Nửa bao giờ cũng là Bảy Bụng. Bảy Bụng hiển
nhiên là cánh tay mặt của Sáu Ri chứ còn ai vào đây nữa. Chuyện “hai đứa” mà Ba
Nửa nói đây chính là Chín Cò, y mới lấy vợ được vài ba tháng, cô vợ cũng khá
trẻ đẹp, đúng típ con gái miệt vườn. Thỉng thoảng chiều chiều Chín Cò lại tổ
chức nhậu tại nhà với anh em để khoe căn nhà mới khá khang trang, có cô vợ
nhiều khi vui chuyện cũng tham gia lai rai cho vui. Buổi tối ở nông thôn chừng
tám giờ là đã tối như hũ, không nhậu thì làm cái gì ? Cô vợ Chín Cò mặc bộ đồ
bà bà trắng, tà áo xẻ đã cao mà bên trong lại mặc nội y màu đen, nhìn khiêu
khích không chịu được. Cô ta uống vài ly, mặt đỏ phừng phừng, cất tiếng ca cải
lương nghe cũng rất mùi. Lắm khi tất cả cùng gõ ly, gõ chén và hát:
“Năm mười, mười tám… hai mươi…
Năm mười, mười tám… hai mươi…
Yêu em… anh dẫn em vào xi nê,
Vào xi nê anh sẽ làm em mê…
Yêu em… anh dẫn em vào công viên,
Vào công viên anh sẽ làm em điên…”
Thỉnh thoảng Ba Nửa cũng nhảy xuống đào phụ với Út Thứ, nhưng y chẳng đào được
bao nhiêu vì quá yếu. Vợ Ba Nửa chán chồng nên cặp với người khác, tiếng đồn
cũng đến tai Ba Nửa nhưng rượu đã làm cho y kiệt quệ, không còn ý chí và nghị
lực gì nữa. Cũng có lúc buồn quá thì Ba Nửa than thở “Nhiều khi ngủ một giấc
dậy vẫn thấy mình còn ở cái thế giới chó chết này không biết để làm gì ?”.
Người du kích quân Ba Nửa cũng từng có một thời, nhưng cái thời đó đã qua lâu
lắm rồi“Ai vượt Cửu Long Giang, vững trí lướt sóng ngàn, có đoàn quân du
kích, đón đưa được an toàn. Quân giặc tuy hung hăng, nhưng nào thắng anh hùng,
vững chèo khi tách bến, lướt dòng sông Cửu Long…”
Hôm đó trời không có trăng mà cũng không có sao, Ba Nửa nhậu xỉn bò được về đến
nhà thì khuya lắm rồi, y nằm gục luôn trước cửa. Trong cơn say, y bỗng thấy một
gương mặt đen sì với hai con mắt sáng quắc đang nhìn chằm chằm, Ba Nửa không
cảm thấy sợ hãi, y chợt thốt “mày đấy à ? Sao bây giờ mày mới tới ?” – Y quờ
quạng tay với lấy chai rượu, lẩm bẩm nói tiếp “Tao đợi đã lâu lắm rồi, sao mày
tới muộn thế, có muốn uống với tao một ly không ?...” – Đến sáng mụ vợ ra mở
cửa thì thấy Ba Nửa đã chết cứng từ lúc nào – Đó cũng là lúc khởi sự đào cái mả
cổ mới được có hai ngày…
Tư Thăng lúc nào cũng như
thế, lạnh lẽo và lầm lỳ, y có thói quen hút thuốc là nhai đầu điếu thuốc nát
nhừ, vì thế nhiều khi cả bọn còn một điếu thuốc truyền tay nhau, đến khi điếu
thuốc qua tay Tư Thăng là Bảy Bụng chửi um lên “cái thằng này nó hiếp dâm điếu
thuốc nát bét rồi”. Cũng như Út Thứ, y là tay đào chủ lực, không so đo, không
tính toán thiệt hơn, lúc nào cũng làm việc như là để quên đi chính cái cuộc đời
này. Gương mặt của y mới thật là kỳ lạ với những đường ngang dọc, hóc hẻm trên
đó e còn nhiều hơn cả kinh rạch ở Miền Tây. Đôi mắt thì tròng trắng nhiều hơn
tròng đen, tròng đen thì lại không đen mà lại vàng vàng. Y lại có cái tật tự
nhiên lắc lắc cái đầu, biểu hiện của một kẻ thần kinh không bình thường. Cách
đây khoảng hơn mười năm, tức lúc đó Tư Thăng mới hơn hai mươi tuổi, người chị
của y bị chết vì bệnh ung thư, người cha già, một ông cụ có bộ râu bạc phất phơ
thật đẹp, nhìn cứ như ông Bụt trong truyện cổ tích, trong giây phút cuối cùng
“nghĩa tử là nghĩa tận”, đã làm một cử chỉ vượt trên những điều bình thường,
tức là một “hành động phi thường”, gọi y đến và bảo “người chết đó thực ra
không phải là chị con mà chính là mẹ con đó, như vậy không phải con để tang chị
mà là để tang mẹ” – Khó có thể tả được cái cảm giác của Tư Thăng lúc đó như thế
nào ? Cái con người trước đó là một người chị, bây giờ nằm đó lại là một người
mẹ… điều gì đã khiến bà ta phải che dấu điều này hàng bao năm trời ? cho đến
tận lúc chết cũng không dám nói ra ? Thảo nào mà bao nhiêu năm nay bà chị này
là người trong gia đình tỏ ra thương yêu Tư Thăng nhiều nhất. Thuở còn đi học,
người chị đã săn sóc Tư Thăng ân cần như thế, thì ra y là một đứa con hoang của
người chị.
Nếu y là một đứa con hoang thì cũng đã là ghê gớm lắm rồi, nhưng người trước
đây là chị y lại có con với chính cha ruột của mình, vì thế Tư Thăng vừa là con
lại vừa là em, còn cha thì lại là ông nội… Số phận lại cho y cái đặc ân là
giống cha như đúc.
Là một đứa con của tội ác… chính y cũng đâu có muốn điều đó, nhưng số phận lại
là như thế. Một đứa con của tội ác thì trước sau gì cũng trở thành một kẻ ác…
Tư Thăng có một ham thích tột cùng là được chà đạp, giày xéo lên những sinh
linh đang sống. Nếu đang chạy xe trên đường mà nhìn thấy xác một con chuột, y
sẽ cho xe chạy qua cán dẹp đầu, sau đó quay xe lại cán tới cán lui cho đến khi
con chuột biến thành một đống nát nhừ. Y cũng có tài bắt rắn, trong lúc đào
thường hay bắt được rắn hổ mây, lúc đó Tư Thăng bao giờ cũng dùng một sợi dây
để treo cổ con rắn lên cành cây với một niềm sung sướng tột cùng.
Y còn là một tên bạo dâm, người vợ đầu vì quá hoảng sợ ngay tháng đầu tiên đã
trốn biệt về nhà cha mẹ ruột, sau đó bỏ đi đâu không rõ. Người vợ thứ hai cũng
không hơn gì, sau một tháng cũng trốn biệt tăm. Đến người thứ ba thì y phải
xuống tận xứ “Chắc Cà Đao” xa lơ xa lắc, lần này y phải mướn mấy thằng bạn giả
làm huynh trưởng, đại diện, chứ gia đình chán quá rồi đâu còn ai chịu đi nữa.
Khi say khướt Tư Thăng mới nói y thích nhất là chơi “kiểu ngựa”, tức là phải đá
cho con vợ thật bầm dập… “phải đá như ngựa đá” – Có người đàn bà nào lại chịu
đựng nổi mới là chuyện lạ ?
Dạng người như Tư Thăng đến thần chết cũng còn phải sợ, vì thế chắc là y còn
phải sống thật lâu, lâu lắm lắm…
Thảo nào mà hôm khởi đầu đào cái mả cổ, Tư Hường hỏi có cần phải đeo bùa, làm
lễ cúng không, Tư Thăng chỉ cười gằn gặn.
Y cần đếch gì đến bùa chú ?
Ai lần đầu tiên gặp Út Thứ
đều phải giật mình kinh ngạc, nhất là đàn bà, bởi vì nó đẹp trai đến lạ lùng,
một vẻ đẹp hoàn hảo như pho tượng David của Michelangielo vậy. Mái tóc loăn
xoăn vờn nhẹ trước trán, nụ cười tươi tắn, Út Thứ là một thanh niên dũng cảm và
tốt bụng. Trong lúc đào, chỗ nào khó khăn nhất thì chỗ đó có Út Thứ. Nhiều lần
trong lúc đào trúng phải những hầm đạn chôn giấu, lúc đó ai cũng dạt ra cả, chỉ
có Út Thứ là dám xông pha, dùng một chiếc len để đào từ từ…mà ở những vùng đất
VN này, cái chuyện đào gặp phải những trái rocket to xù là chuyện quá bình
thường, từng có chuyện một nông dân trong lúc cuốc đất, cuốc nhằm quả mìn nổ
lớn đến nỗi khi gia đình đến chỉ thấy còn những mảnh vụn thịt … Nhiều khi trong
lúc đào gặp cả một hầm quân nhu từ thời xưa, những thùng đạn, vải dù, bi-đông
bằng inox của Mỹ qua thời gian vài chục năm chôn dưới đất vẫn còn nguyên xi…
Buổi chiều hôm ấy về nhà Út Thứ, đó là một ngôi nhà tranh vách lá trong một khu
vườn rất rộng đầy lá vàng rơi. Một bà già Nam bộ gầy gò có đôi mắt trũng sâu,
hai gò má hóp nhăn nheo đang ngồi trước sân tỏ ra vô cùng mừng rỡ khi thấy Út
Thứ về và lại dẫn theo một người bạn.
Bà già chính là bà nội của Út Thứ…
Trong nhà chỉ có một bộ ván ngựa và một cái tủ thờ…
Trên cái bàn thờ cũ kỹ là bảy tấm hình, bảy người đàn ông…
Ông già trong tấm hình có lẽ là ông nội của Út Thứ.
Trong sáu tấm hình còn lại có một người là cha của Út Thứ.
Một người có vầng trán cao và đôi mắt rất sáng.
Một người cũng có vầng trán cao và đôi mắt rất sáng, nhưng thêm bộ ria mép nom
rất oách.
Có người đội nón tai bèo còn có người thì lại mặc quân phục sĩ quan VNCH.
Trong sáu người đó thì ba người theo MTDTGPMN còn ba người là lính VNCH.
Những người con của bà mẹ đã từng cùng sinh ra, cùng lớn lên và vui đùa bên
nhau, bên những hàng dừa nước, bên những đụn rơm, cùng nhau ra đồng cắt lúa,
cấy mạ, đào hang bắt chuột, bắt lươn, cùng tắm chung một dòng sông, uống chung
một giếng nước…. Nhưng khi trưởng thành thì chiến tranh làm cho họ phải chia
lìa, thậm chí trở thành kẻ thù chĩa súng vào nhau giữa hai chiến tuyến… Nhưng
rồi linh hồn họ lại cùng nhau trở về căn nhà bé nhỏ của người mẹ, không điều gì
có thể chia cách họ khỏi vòng tay bao la của người mẹ…
Mẹ già chờ con ngồi đếm lá rơi
Đếm bao nhiêu lá mà con chưa về
Ngày xưa con bé ngây thơ
…………………………….
Giờ đây con đã đi xa
Mẹ già chờ mong con hoài…
Sự chờ đợi của Người Mẹ là sự chờ đợi của cả nhân loại, ngày xưa thì mẹ già chờ
những người con, còn bây giờ thì bà chờ đợi thằng cháu. Sau khi cha mất, mẹ Út
Thứ bỏ nhà ra đi khi nó mới được hai tuổi, kể từ đó gánh nặng dồn hết lên đôi
vai già nua của bà nội. Nhưng càng lớn Út Thứ càng ham vui, từ khi vào DK xã Út
Thứ hầu như đi suốt ngày, suốt đêm, không mấy khi ở nhà…
Tối hôm đó đi ruộng đâm cá
lóc với Út Thứ.
Bầu trời về đêm thật là đẹp, những vì sao lung linh dường như chớp sáng trên
từng ngọn lúa, trải dài xa tít tắp, không còn nhận ra đâu là bầu trời đâu là
mặt đất. Làn gió thổi mơn man mát rượi, mang theo mùi đất mới, mùi mạ non, mùi
cỏ dại thơm thơm nhè nhẹ. Tiếng côn trùng, tiếng ếch nhái kêu rỉ rả. Một vài
con vạc ăn đêm xòe đôi cánh rộng bay ngang qua, cất tiếng kêu ngơ ngác. Út Thứ
đi trước, ĐHC đi theo sát phía sau, đi chân trần nên cảm giác được cái mềm mại
và lành lạnh của những bờ đất ruộng. Trên đầu hai thằng đội hai cái đèn soi,
dây nối với cái bình điện đeo ngang hông. Thông thường ban ngày cá lóc sẽ lặn
sát dưới đáy, lâu lâu mới trồi lên táp trên mặt nước nghe “ùm” một cái, nhưng
đến tối, khí trời mát mẻ, cá lọc lại trồi lên. Khi chiếu đèn vào nhiều khi thấy
con cá to bơi lững lờ trong những vũng nước ven bờ ao, bờ ruộng. Lúc đó Út Thứ
tay cầm một cây chĩa ba sắc nhọn, từ xa khoảng ba mét là nó phóng ngọn chĩa
bách phát bách trúng, con cá lóc to bằng bắp vế được kéo lên khỏi mặt nước dãy
dụa dữ dội. Một đêm như thế có khi đâm được cả chục con, tối về nấu nồi cháo cá
là có thể thức nói chuyện đến sáng.
Ven bờ kinh dừa nước mọc san sát, những bụi dừa nước đan xen với nhau chằng
chịt, làn gió đêm về thổi nghe xào xạc. Buổi tối chim Mỏ nhác thường hay ngủ
trong những tán lá dừa này. Giống chim Mỏ nhác có bộ lông rằn ri rất đẹp, khi
soi đèn vào thấy là Út Thứ lại nhảy xuống kinh, lội ra bắt chim bỏ vào trong
một cái túi lưới, chim Mỏ nhác ngủ rất say, bắt lúc này dễ như lấy đồ trong túi
vậy.
Khi vầng trăng lên tới đỉnh đầu, tràn ngập cả không gian cái ánh sáng bàng bạc
dịu dàng mướt mát, lúc đó đồng ruộng như có một màn sương trắng nhẹ nhàng bao
phủ. Hai thằng lang thang đi như trong một giấc mơ… Đến khi thấm mệt thì leo
lên bờ kinh, nằm dài trên mặt đất, nhìn lên bầu trời lấp lánh sao, tha hồ gửi
hồn cho gió. ĐHC và Út Thứ nói với nhau đủ thứ chuyện trên trời dưới đất, lâu lắm
rồi không còn nhớ được nữa, chỉ còn nhớ mỗi một câu mà Út Thứ có lần tâm sự “
Mẹ đã bỏ em ra đi khi em mới 2 tuổi, em chỉ mơ được thấy mặt mẹ một lần trong
đời” – “em có bao giờ mơ thấy bà không ?” – “chưa lần nào, bà nội không bao giờ
nhắc đến bà, em chỉ nghe vài người hàng xóm kể là bà rất đẹp” - “anh thấy con
bé hàng xóm nó hay kiếm cớ qua bên này, chắc nó thương em đó” – “em làm khổ bà
nội nhiều rồi nên không muốn làm khổ thêm người nào nữa…”.
Út Thứ có thể là rất tốt bụng, nhưng cái tốt của nó lại nhiều khi bị xem là dại
dột. Trong công việc bao giờ nó cũng làm nhiều hơn, nhưng lại không hưởng được
bao nhiêu. Bọn Ba Nửa, Bảy Bụng, Chín Cò luôn luôn toa rập với nhau để chơi gác
Út Thứ, thảo nào lúc mới gặp là bà cụ đã vội vàng gửi gắm Út Thứ… lúc hai thằng
chuẩn bị đồ nghề để đi đâm cá, bà cụ còn dặn với theo thằng cháu “chó dại có
mùa, người dại quanh năm, nhớ làm gì cũng phải suy nghĩ nha con !”
Hôm đó có một đàn sếu bay
ngang qua bầu trời… Những con sếu có cái mỏ và đôi chân thật là dài. Quýnh khèo
say đắm nhìn những con sếu, chắc chưa có người đàn bà nào được Quýnh khèo nhìn
say đắm như thế.
Tiết trời càng ngày càng lạnh mà công việc thì chưa tiến triển gì nhiều. Tư
Hường cho đào một đường theo hướng bắc-nam rộng khoảng bốn tấc, sâu xuống hai
mét, dài hơn hai mươi mét, sau đó cứ cách một mét rưỡi là đào một đường y như
vậy theo hướng đông–tây nhưng chỉ dài khoảng năm mét. Lối đào này gọi là đào
“xương cá”, thám sát được một diện rất rộng nhưng tiết kiệm rất nhiều công sức
và tiền bạc.Xương cá thì đã thành hình rồi mà kho tàng cũng chẳng thấy đâu.Hôm
đó lại bị cúp điện, Cả Quận thắp một ngọn nến ngồi bên bàn, gương mặt ông ta im
phăng phắc dưới ánh nến lung linh.Cả Quận thật là đẹp lão, mái tóc bạc như
cước, sống mũi thật cao, đôi mắt thật sáng, bộ râu bạc phơ phất, có điều chưa
bao giờ thấy ông ta cười.
Ông ta nói “Thằng Quýnh được sinh tại nhà lúc nửa đêm, lúc đó nhà có trồng rất
nhiều hoa quỳnh… đêm đó hoa quỳnh nở trắng cả một góc vườn nên mới đặt tên nó
là Quỳnh, không dè sau này khi làm khai sinh bà cán bộ lại viết nhầm dấu huyền
thành dấu sắc, nên thay vì tên Quỳnh thì lại là tên Quýnh. Âu cũng là cái số
trời, còn một thằng con cuối cùng thì lại vừa khèo vừa khùng, vì thế mà nó
không phải đi bộ đội, vì thế mà nó còn sống được đến bây giờ, cái tên Quýnh
dường như hợp với nó hơn là cái tên Quỳnh…”.
Bọn nào đó đã lấy mấy cái quần của bà Nụ, sau đó cho vào một cái hộp, bỏ đằng
sau vườn nhà, dụ Quýnh khèo lấy cất đi… Quýnh khèo lấy cất đi thật, hôm nay cô
Quý lục tủ ra mới thấy. Nghe nhắc đến tên mình thì Quýnh khèo cảm thấy sung
sướng lắm nên nó nở toét nụ cười. Cả Quận thì không bao giờ cười, còn Quýnh
khèo thì lại cười suốt ngày, thậm chí lâu lâu nó còn hát :
Hôm qua tôi ra thăm đồng đêm tối không trăng không sao
Cây tre cao cao gió đưa vi vu, vi vu…hình như có bóng người đu
Răng ma nhe dài như cái đinh ba toong
Răng ma nhe dài như cái đinh ba toong
Răng ma nhai nhai nuốt phá thân tôi…lưỡi dài ba thước giời ôi
Tôi lăn ra đồng tôi khóc tôi kêu u tôi
Tôi lăn ra đồng tôi khóc tôi kêu u tôi…
………………………………………
Tư Hường cũng cảm thấy buồn phiền nên hôm đó y rủ ĐHC ra bờ đê sông Hồng ngồi
hóng gió… Bạn có bao giờ ngồi bên dòng sông ? Bạn có bao giờ nhìn một dòng sông
thật lâu đến khi cảm thấy nó hòa nhập vào chính bạn, một dòng sông thẫm đỏ phù
sa với những bãi bồi xanh mơn mởn từ từ sẫm xuống trong một buổi chiều tàn. Bạn
sẽ cảm thấy cuộc sống không còn buồn tẻ, những khát vọng sẽ lại bừng cháy và có
những khoảnh khắc nào đó bạn cảm thấy tinh thần mình cũng tuôn chảy như dòng
sông không bao giờ dừng lại…
Ngồi ở đây thả hồn theo dòng
sông Hồng bao la vĩ đại, thả hồn theo những làn gió chiều, theo từng làn sóng
lăn tăn. Dòng sông từng có những cơn lũ dũng mãnh cuộn trào, vì thế mà phải có
bờ đê cao trên chục mét nhưng giờ đây sao thật hiền hòa…
Nếu quay lại thì sẽ thấy xa xa một cái hồ nổi tiếng của làng G cũng mênh mông
không kém. Hồ trải rộng đến tận chân trời, trong hồ nuôi hàng triệu con cá mè
hoa. Buổi chiều dân trong làng tụ tập ở đây để câu trộm, đồ nghề câu gọi là “ba
tiêu”, đó là một cái móc sắt ba ngạnh, gắn vào đầu cần câu bằng tre hoặc trúc,
trên đầu cần có cái vòng nhỏ bằng sứ, khi câu thì dùng sức quăng lưỡi ra thật
xa sau đó giật mạnh sẽ trúng vào những con cá mè rất lớn, lên đến hàng chục ký.
Cá mè hoa còn gọi là “cá chép bạc” vì khi bơi dưới hồ, lâu lâu nó nổi lên hay
nhảy lên khoe bộ vảy lấp lánh ánh bạc dưới nắng nom rất đẹp. Cá nấu canh chua
với quả dọc thì ngon tuyệt, nhất là cái đầu rất béo, dân gian còn có câu “mắt
cá trôi, môi cá mè”, mắt cá trôi thì chẳng biết như thế nào, nhưng môi cá mè thì
thật dầy cơm và béo ngậy…
Trong đám thợ đấu thì Bình Sứt và Tiến Chài mỗi chiều đều ra đây câu trộm.
Tiến Chài là một tay thợ “chài” trên cạn, chuyên quăng lưới vào các nhà kho,
các công trường… Tiến Chài sống một cuộc sống phóng đãng bởi vì y mồ côi cha mẹ
từ nhỏ, y còn có một đứa em gái thì lớn lên nó cũng hành nghề đứng đường đâu
đó, ở khu ga Hàng Cỏ thì phải.
Câu trộm cũng là một nghề của y, là một cao thủ trong nghề “quăng ba tiêu”, có
thể quăng xa năm, sáu chục mét, giựt được những con cá mè rất lớn.
Trong nghề “quăng ba tiêu” thì Bình Sứt còn hay hơn cả Tiến Chài nữa. Đó là
nghề mưu sinh của nó để nuôi ông bố già nua ốm yếu, để phụ với bà mẹ lưng còng
bán rau ngoài chợ, được vài con cá là có thêm “đồng ra đồng vào”, có thêm chút
cháo…
Bấy giờ là cuối thu, đầu mùa đông nên cá mè còn chịu nổi trên mặt hồ, hôm đó
Bình Sứt giựt được mấy con cá lớn nên nó mừng lắm… câu trộm một buổi chiều bằng
hai lần đi hôi cá, bằng mấy lần đi đào mả…. Vì thế nên nó mới nhảy xuống hồ
tắm, bơi vài vòng cho đã… và nó không bao giờ quay vào bờ nữa.
Có những cái chết đến thật bình thản nhẹ nhàng như những cánh hoa bay theo làn
gió, nhưng cũng có những cái chết đau đớn vật vạ từ tháng này sang tháng khác…
Bình Sứt chắc là chết rất êm đềm, bởi vì nó nằm đó nom thật yên bình.
Không biết giây phút cuối cùng nó nhìn thấy điều gì ?
Không biết giây phút cuối cùng nó có nhìn thấy gương mặt của thần chết ?
Không hiểu sao con ma cây Gạo lại không bắt Tiến Chài, một tên lưu manh chuyên
nghiệp, mà lại bắt đi Bình Sứt, một đứa trẻ mới lớn chưa biết gì ?
Còn đối với Cả Quận thì đúng là một gáo nước lạnh cho mùa đông sắp tới…
Có một người bạn nói rằng Tư
Hường nổi tiếng là kẻ “đào sâu”, đến bây giờ mới thấy được điều đó. Tiền đã hết
rồi mà cứ phải đào sâu xuống mãi, bây giờ không phải đào vì tiền nữa mà là vì
danh dự. Khi đào sâu đến năm mét thì Tư Hường linh cảm thấy điều gì đó, y chăm
chú nhìn Tiến Chài, sau đó lại nhìn Thắng Còi…
Y không nhìn Bình Sứt vì nó không có ở đó, nó đã chết rồi.
Cái chết của Bình Sứt không ảnh hưởng gì nhiều lắm đến cuộc đào vì nó chết ở
ngoài hồ, nhưng những lời đồn về con ma cây Gạo thì ngày càng ám ảnh.
Ám ảnh đến mức cả Tiến Chài lẫn Thắng Còi đều hoảng sợ xin nghỉ. Xem ra những
thế lực đen tối xuất phát từ cõi giới vô hình luôn ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống
của con người trần thế.
Sáng sớm hôm đó khi mặt trời chưa mọc, âm khí còn tràn ngập,Tư Hường lấy một
cái nhẫn cổ đen thui treo thành sợi dây dọi. Chiếc nhẫn này rất đặc biệt, chỉ
nhỏ vừa đủ đeo vào ngón tay út, làm bằng một chất có tên dân gian là “đồng
lửa”, màu đen sì, rất nặng, tuy nhiên nó không phải là đồng đen nhưng cách bảo
quản cũng tương tự. Thông thường người ta dùng mỡ bò bọc nó lại và đựng trong
một cái hộp bằng sừng hay ngà voi, không bao giờ được cho nó tiếp xúc trực tiếp
với mặt đất, vì nếu đặt sát mặt đất lâu ngày dần dần nó sẽ không còn được nhạy
cảm nữa. ĐHC và Cả Quận đứng hai bên đường đào, trên vai là một cây gỗ tròn to
bằng bắp vế, chính giữa treo sơi dây dọi có chiếc nhẫn, sau đó cả hai bắt đầu
đi từ từ dọc theo những đường đã đào sâu năm mét. Do tác động không đồng đều
của các tia đất, cái nhẫn cứ đưa qua đưa lại, quan trọng là khi đi phải thật
chậm, thở thật đều và thật nhẹ, trong đầu không được suy nghĩ gì cả nếu không
sẽ làm chiếc nhẫn bị nhiễu, nó sẽ dự báo sai lệch. Cứ đi như thế, đến một chỗ
tự nhiên chiếc nhẫn dừng lại và quay tít, dường như có một cái gì đó đã hút nó
ở phía dưới…
Căn nhà của Cả Quận là một căn nhà cổ, nó được xây dựng theo thuật phong thủy
một cách tỉ mỉ. Nóc nhà nhìn úp úp như cái mai rùa, phía dưới những cái chân
cột nhà đều chạm hình móng rùa, còn cửa chính căn nhà hướng về phía bắc theo
tượng Huyền Vũ, có lẽ nhờ cái tượng này mà Cả Quận thoát chết thời cải cách.
Nếu là đền thờ thì cửa chính sẽ phải hướng về phía nam. Quan trọng nhất là cái
trụ ở trước cửa chính. Cái trụ ấy lâu ngày đã bị phá mất, Tư Hường loay hoay dò
dẫm suốt chính là y đang cố tìm cái trụ đó. Trước cửa chính có thềm đá xanh,
thềm đá tuy lâu ngày nhưng vẫn còn nguyên vẹn. Phía sau vườn có một cái hầm, Cả
Quận nói đó là cái hầm đào để tránh bom vào năm 65 – 66 gì đó. Dãy tường cổ
phía sau nhà đã bị lấn chiếm từ lâu và bây giờ phải dùng cây dâm bụt làm hàng
rào tạm. Thành ra Huyền Vũ bây giờ chỉ còn một nửa hình tượng, nếu may mắn thì
cái chỗ mà chiếc nhẫn xoay tít đó có thể chính là “Trụ”. Có được “Trụ” rồi thì
từ đó có thể tìm ra Thanh Long, Bạch Hổ và Chu Tước. Tư Hường đã đứng hàng giờ
để ngắm nhìn một tấm hoành phi cổ trong nhà Cả Quận, tấm hoành phi đó có hình
Chu Tước.
Trưa hôm đó thì khởi sự cho lấp lại tất cả, cuộc đào xem như thất bại, bọn Tiến
Chài và Thắng Còi chắc chắn sẽ truyền tin tức này khắp đầu trên xóm dưới.
Buổi trưa cô Quý nấu món canh riêu cua đồng với rau đay, ăn tô canh nóng vàng
rượm riêu cua vừa thơm vừa ngọt, có trái cà pháo và dưa cải muối dòn tan, bữa
cơm chia tay ngon tuyệt vời.
Cô Quý muối dưa cải và cà pháo nổi tiếng cả làng.
Cái khạp muối dưa của cô là do u để lại, nếu dùng cái khạp khác thì dưa cũng
không ngon bằng. Cả hòn đá để dằn dưa cũng chỉ được một mình cô Quý đụng tới,
nếu có bàn tay lạ sờ vào thì mẻ dưa lần đó sẽ không được ngon. Cô Quý không
dùng đường mà lại dùng cây mía lau để lèn chặt giữa các bẹ dưa nên vị dưa rất
lạ, thơm và ngọt. Nghe nói người càng thanh cao thì vị dưa muối càng thanh tao,
có lẽ vì thế mà cà và dưa của Cô Quý là một món ăn đơn sơ nhất mà cả làng đều
thèm muốn… chả trách mà Bình Sứt khi còn sống cứ nhắc đến mãi.
Trước khi chia tay, Tư Hường nói với Cả Quận “đến mùa chim sẻ về thì hãy khởi
sự đào tiếp”…
Ba Nửa chết vì rượu hay là vì
đụng đến cái mả cổ, điều này chưa biết chắc nhưng đã phải ngưng đào vài ngày,
nhiều khi có thể phải ngưng vĩnh viễn.
Cái hòm của Ba Nửa đặt chình ình trong trụ sở xã đội, bản nhạc hồn tử sĩ từ cái
cát xét lâu ngày đã bị nhão ngân nga nghe thật thảm não “đêm khuya âm u….ma
đánh đu trên nóc nhà…tòng teng…”. Ba Nửa tuy nghèo nhưng y chết bất đắc kỳ
tử nên cũng có khối kẻ tò mò đến viếng để xem hư thực, bên ngoài đã nghe phong
phanh đồn đại trong dân về lời nguyền dành cho những kẻ dám động vào ngôi cổ
mộ.
Nhân lúc phải ngưng vài ngày, Tư Hường và ĐHC tranh thủ qua bên phía tây của
khu mộ cổ, vào gặp tay chủ nhà vẫn còn chưa hết hồn vía vì lần đào trước,
thuyết phục y mãi, sau cùng phải chi ra một ít tiền thì tay chủ nhà mới dẫn cho
xem chỗ mà bọn Huỳnh Đỏ đã từng đào.
Đó là một cái hố đã bị lấp lại một cách sơ sài nên có thể hình dung được bọn
Huỳnh Đỏ đã đào như thế nào. Bọn này đào đến đâu thì dùng tôn chắn đến đó để
cát không tràn xuống, đục xuyên qua khoảng ba lớp đá ong dày thì đến được trung
tâm của ngôi mộ… nếu không nắm được cấu trúc của ngôi mộ thì chắc chắn không
thể đào được như vậy, một đường đào vô cùng chuyên nghiệp, hơn nữa phải có máy
khoan xuyên đá mới có thể làm được, loại máy này ở VN chưa có, chắc mấy tay Đài
Bắc mang lậu từ nước ngoài vào. Bọn Huỳnh Đỏ không thể đủ trình độ để đào được
như vậy, chắc chắn một trong hai tay Đài Bắc là tác giả của đường đào này, có
thể chính là tay đã bị xe tải tông chết… Xem chừng cái chết của y không ngẫu
nhiên chút nào, và tay còn lại bỏ của tháo chạy về nước cũng là phải rồi, ở lại
có khi cũng về chầu ông bà sớm. Không thể hỏi tay chủ nhà là bọn Huỳnh Đỏ đã
thấy những gì, đã lấy đi những gì… bởi vì hoặc là y không biết, hay biết cũng
không bao giờ dám nói.
Buổi chiều hôm đó có một người lạ mặt đến tìm ĐHC, y gầy gầy, đi đôi dép lẹp
xẹp, mặc một bộ đồ cũ xì, nói giọng Quảng Bình “có rất nhiều đơn kiện các ông,
có một cái đơn tố cáo mấy ông đào được một pho tượng phật vàng nặng cả chục ký
mà ém cất đi không báo cáo chính quyền…”. Người này trong quá trình đào đã từng
thấy y xuất hiện mấy lần, lẫn vào mấy người dân đến xem. Thực ra việc thuê mấy
tay DK xã không phải để đào đất mà là để canh chừng dân đào thuê là chủ yếu,
cao điểm có khi lên đến cả trăm người đào trong ngày, đều là dân tứ xứ, nếu
không có DK thì khó có thể quản lý trật tự được. – Tay Quảng Bình nói tiếp “tôi
hầu như theo dõi suốt nên biết chắc là không có chuyện đó…” – Tay này chắc
thuộc ban nội chính…, những vụ lớn, dính líu đến các quan chức tầm cỡ, đến CA
hay QĐ đều là do cái ban này triệt phá, trong ban tập hợp những người có thể
nói là tinh hoa nhất của cơ chế…Tay Quảng Bình này chắc cũng muốn kiếm chút
cháo, chỉ tiếc là nồi cháo của Tư Hường giờ đã cạn, may ra còn được cái tộ kho
quẹt thì quá mặn… chắc là y đang lần theo dấu một đường dây buôn đồ cổ, có thể
dính cả đến cái mả cổ… mà trong đó Sáu Ri cũng rất sáng giá. Sáu Ri tên là
Nguyễn Văn Ri, con của Nguyễn Văn Rạng, cháu của Nguyễn Văn Rô, ba đời thuộc
dòng dõi gốc gác… Trời đánh bảy búa mà Sáu Ri còn chạy lúp xúp, lúp xúp thì thử
hỏi có việc gì mà y không dám làm ?
Hai Đụi có một gương mặt rệu
rạo, nhăn nhúm, bèo nhèo như cái mền rách. Y ốm cà tong cà teo, suốt ngày say
xỉn như Ba Nửa, một thời nào đó Hai Đụi cũng là một người du kích thật sự, bàn
chân từng dẫm lên gai nhọn, đạp trên đá cứng, từng nằm đất phơi sương, lướt đi
dưới làn đạn. Thỉnh thoảng hôm nào không say, trong lúc mọi người đào thì Hai
Đụi rảnh rang ngồi phía trên cũng kể nhiều chuyện quá khứ vào sinh ra tử của y
rất hấp dẫn, như chuyện “Cọp xám Bình Long” chẳng hạn:
Cọp Bình Long có bộ lông màu xám tro, nặng cỡ chừng 80 đến 120 ký, con to lắm
cũng chừng 150 ký là hết cỡ. Có điều tuy nhỏ nhưng cọp xám Bình Long lại rất dữ
và nhanh nhẹn phi thường. Do chiến tranh ác liệt, bom đạn ầm ầm nên dần dần cọp
xám Bình Long trở nên quen thuộc, không hề sợ hãi khi nghe tiếng súng, tiếng
bom nổ mà ngược lại mỗi lần nghe thấy chỗ nào có đánh nhau, súng nổ đì đoàng là
cọp xám Bình Long lại mò tới để bắt thương binh đang nằm một chỗ không chạy
được hay lính mới vừa chết trận xác hãy còn nóng mang vào rừng sâu ăn thịt. Ăn
thịt người riết trở nên ghiền nên cọp xám Bình Long càng ngày càng trở nên hung
dữ, cứ nghe tiếng súng ở đâu là lại kéo nhau mò tới.
Lần đó trong trung đội DK có Tám Ngàn, cao gần thước chín, vai u thịt bắp,
chuyên gánh cơm cho anh em. Anh ta có sức khỏe phi thường, có thể vác ba hòm
đạn trên vai mà vẫn chạy như bay. Trong lần chống càn ở Bình Long, Tám Ngàn và
Tư Theo có nhiệm vụ cáng thương binh mang về cứ. Đang gom được hơn bảy tám
người đặt nằm một chỗ thì cọp xám Bình Long ở đâu xuất hiện, con này rất to… Tư
Theo bất ngờ thấy con cọp lù lù hiện ra, sợ quá đứng đờ cả người, con cọp vụt
nhảy tới tính vồ lấy một thương binh lôi vào rừng thì Tám Ngàn về tới liền xông
đến chiến đấu với con cọp. Ban đầu Tám Ngàn có cây đòn vông trong tay nên chiếm
lợi thế, phang con cọp tới tấp, lát sau cây đòn vông bị gãy nên đành tay không
đánh nhau với con cọp. Do bị trúng phải một cái vả vào sườn, mất cả một mảng
thịt, ra nhiều máu nên Tám Ngàn từ từ suy yếu, cuối cùng anh ta bị con cọp cắn
vào gáy, quăng lên lưng cõng chạy vào rừng mất hút. Khi toán DK Hai Đụi trở về
thì chỉ còn thấy Tư Theo đứng cứng ngắc như người chết rồi, anh ta không nói
được, ú ớ đưa tay chỉ vào trong rừng… toán DK liền xông vào rừng thì không còn
kịp nữa, cọp xám Bình Long đã ăn hơn một nửa người của Tám Ngàn rồi…
Tuy nhiên không phải lúc nào cọp xám Bình Long cũng chiến thắng, đó là lần DK
bị càn quá phải rút sâu vào rừng. Trong lúc chỉ còn có mấy thương binh và hai
cô y tá ở lại trong lán thì cọp xám Bình Long lại mò tới, có lẽ nó khoái thịt
phụ nữ hơn hay sao mà lần này thay vì bắt thương binh thì nó lại chụp lấy chân
một cô y tá lôi đi, cô này la hét dữ dội, có anh thương binh chợt tỉnh liền
ráng chồm đến níu lấy cô y tá, giằng co với con cọp. Cô còn lại đang giặt quần
áo, mùng mền dưới suối nghe tiếng la liền chạy lên phóng luôn một đá trúng ngay
bụng con cọp. Cọp xám Bình Long bị một đá chắc là rất đau nên nó bỏ cô kia ra,
quay lại tấn công cô này. Cô y tá này tên Xiếu, rất to khỏe, là con nhà nòi võ
Tây Sơn, Bình Định… cô ta chỉ hai tay không, vừa vờn vừa đánh, vừa lùi dần
xuống suối…
Cô Xiếu có mái tóc dài chấm
gối, đen mượt… quần thảo với con cọp một hồi thì tóc cô xõa xượi, quần áo lúc
thì bị móng cọp vụt phải, lúc thì bị vướng vào bụi gai nên rách te tua, người
gần như trần truồng, da thịt tươm máu. Cọp xám Bình Long mắt thì nhìn thấy thân
thể đàn bà ngồn ngộn, mũi thì ngửi thấy mùi máu người tanh nồng nên càng lồng
lộn điên cuồng, lúc cô Xiếu vớ được một khúc cây thì đã lùi đến sát bờ suối…
Bấy giờ bên bờ suối có mặt cát rất rộng nên con cọp tính đánh đòn quyết định,
nó lùi lại, thu mình xuống, cái đuôi đưa qua đưa lại… còn bên kia cô Xiếu cũng
kịp quấn mái tóc dài vào hai cánh tay, cầm chắc lấy khúc cây đưa ra phía trước,
người hơi khum xuống. Con cọp thấy ngon ăn liền phóng tới, hai vuốt nó chụp lấy
hai cánh tay cô gái nhưng bị mái tóc dầy của cô làm cho vướng víu, nó tính hả
cái họng khổng lồ táp tới thì bất ngờ cô Xiếu ngả người, con cọp chưa kịp phủ
lên thì bị trúng cú đạp bằng cả hai chân vào hạ bộ bật lộn tuốt qua phía bên
kia bờ suối. Cọp xám Bình Long bị trúng phải cú đá trời giáng ngay chỗ nhược,
nằm chết lè lưỡi dài cả tấc…
Cọp xám Bình Long đã ghê gớm lắm rồi nhưng theo Hai Đụi thì chưa ăn nhằm gì với
con rít chúa, khi nào cao hứng y lại kể chuyện “Rít chúa vùng biên giới”:
Lần đó Hai Đụi đang đóng quân ngoài bìa rừng sát biên giới Cao Miên thì nghe ào
ào, ào ào… nhìn ra thì thấy mấy tay lái trâu đang bỏ chạy thục mạng, Hai Đụi và
mấy tay DK nữa xách súng lật đật chạy ra, gặp mấy con trâu cũng đang bỏ chạy
tán loạn, có điều mấy con trâu này như bị trúng tà khí hay sao mà con nào con
nấy sùi bọt mép, chạy lảo đảo như không muốn nổi… Rồi cát bụi ở đâu bay đầy
trời, một con gì đen thui phóng đến, dài cả hàng mấy mét, Hai Đụi còn kịp nhìn
thấy nó có hàng chục cái chân. Con thú phóng như bay tới một con trâu, con trâu
này dường như quá sợ hay sao, nó lắc lư cái đầu, bọt mép sùi ra ngoài giọt
giọt… Con thú cắn cổ con trâu vật ngã một cái rầm, sau đó nó phóng lên trên cắn
thủng bụng con trâu lôi nguyên cả bộ đồ lòng ra ngoài, có điều nó không ăn liền
mà để đó, quay ra phóng theo mấy con trâu khác để vật tiếp. Bọn Hai Đụi thấy
thế liền chĩa ngay mấy khẩu AK vào con thú nã đạn dồn dập… con thú cứ như là
bằng thép hay sao, đạn bắn cả băng như vậy mà dường như không ăn thua gì. Thấy
bắn không thủng, mấy tay DK cũng bỏ chạy, may là con quái thú không đuổi theo,
nó chỉ lo vật mấy con trâu…
Sáng hôm sau kéo quân ra thì thấy ba con trâu đã biến thành ba bộ xương, chẳng
còn dính một chút thịt nào. Dân buôn trâu kể đó là con rít chúa, chắc nó đang
nuôi con nên vật mấy con trâu làm mồi… Gặp phải rít chúa thì chỉ có cách bỏ của
chạy lấy người vì đạn bắn không thủng được nó, còn trâu gặp nó thì sợ hãi đến
mức không chạy nổi, chỉ lết lết và sùi bọt mép chờ rít chúa đến moi bụng. Chỉ
có mỗi con rít mà không làm gì được thì mang tiếng DK làm cái quái gì? nên toàn
đội DK bàn bạc với nhau quyết chí phải diệt cho bằng được con rít chúa. Hôm sau
đám buôn trâu chấp nhận hy sinh thêm một con trâu nữa để làm mồi, con trâu được
cột vào một sợi dây thật chắc đề phòng khi gặp con rít nó bứt dây bỏ chạy, còn
đội DK thì mỗi người đều cột ba trái lựu đạn lại thành một chùm, bao vây xung
quanh.
Con rít chúa này quá dạn, ngửi thấy mùi trâu là nó phóng đến liền. Con trâu
thấy nó thì quýu cả giò, khụy xuống, con rít phóng đến vật con trâu ngã cái rụp,
sau đó nó moi ruột gan con trâu ra lòng thòng… Con Rít chúa rít lên mấy tiếng
nghe chói cả tai, từ trong mấy cái hang sâu xuất hiện cả trăm con rít con, gọi
là rít con chứ con nào con nấy to bằng bắp vế bò ra ào ào, bu lấy con trâu ăn
thịt. Lúc bấy giờ mấy tay DK mới quăng mấy trái lựu đan xuống dưới bụng con Rít
chúa, nó mải ăn nên không để ý, chỉ nghe một tiếng nổ long trời, con Rít chúa
bị đứt ra hàng mấy khúc văng tứ tán. Hai Đụi còn kể lần đó mang mấy khúc thịt
rít về làm gỏi nấu cháo ăn ngon và thơm còn hơn cả thịt gà nhiều.
Cũng như Ba Nửa, đối với Hai Đụi cái thời đó đã là dĩ vãng, bây giờ y chỉ là
một cái xác không có linh hồn. Linh hồn y đã ngã xuống cùng với những người
đồng đội từ thời xa xưa rồi. Thời gian khổ nhưng oanh liệt đó may ra chỉ còn ở
trong câu hát ngày nào:“Mòn mỏi ánh trăng thu soi mơ màng trên đường xa, nấp
sau bóng mờ ta xung phong. Lướt qua hầm qua hố, qua giông tố, mưa gió hiểm
nguy, đứng lên liều thân cứu nước nhà… Bọn phát xít khát máu, chúng bay run lên
đi, run lên đi… chúng bay sẽ đến ngày bại vong. Trong tối đám quân ma âm thầm
đi bủa vây, âm thầm đi chăng lưới…”.
Bảy Bụng và Chín Cò thì không
thế, họ mới vào DK sau này, họ là những kẻ thức thời, sẵn sàng đạp lên cái quá
khứ đau buồn để tìm đến một tương lai no cơm ấm áo hơn… Điều đó không phải là
đúng hay sao? Đó không phải là cái mà mọi người đang tìm đến hay sao? Đối với
họ chỉ cần có nhiều tiền là được, tiền là sự bảo đảm cho tương lai, tiền là tất
cả trong tâm trí, tình cảm và hành động của Bảy Bụng và Chín Cò. Đất cát lên
giá thì đời Chín Cò lên hương vì y được thừa hưởng khá nhiều ruộng đất từ ông
bà để lại. Vì thế y xây được căn nhà ba gian khá khang trang, vì thế y được bạn
bè vây bọc nịnh nọt xung quanh, thượng cấp chiếu cố và nhất là cưới được cô vợ
xinh tươi như bông hoa súng vào buổi bình minh.
Ngoài cái thú đếm tiền, cái thú đặc biệt nhất của y là rình xem phụ nữ tắm, cái
thú đó có từ khi y còn rất bé, hầu như cả xóm biết chuyện này, vì thế sau lưng
mọi người gọi y là con “Cò Ma”.
Ở miền quê, nhà tắm thường làm ngay ngoài vườn, nhiều khi chỉ che tạm vài tấm
nilon, có tấm lâu ngày rách te tua nên con Cò Ma có điều kiện trường kỳ mai
phục. Nhiều khi buổi trưa trời nắng chang chang như đổ lửa, Chín Cò gồng mình
chui vào đống rơm, phía bên kia là cái nhà tắm che sơ sài mấy tấm nilon rách,
em gái nào nực nội nhảy tùm xuống ao bơi vài vòng sau đó lên bờ vào nhà tắm
thay đồ, xối lại vào gáo nước là lúc đó con Cò Ma được thỏa sức ngắm nhìn cái
tòa thiên nhiên của tạo hóa.
Rình xem phụ nữ tắm là một cái thú trải dài từ nam chí bắc, từ vùng quê nghèo
nàn lạc hậu đến những vùng thị thành sầm uất, văn minh. Hình như đó là một bản
năng khá phổ biến ở đàn ông, nghe kể ngày xưa có một vị vua Trung Hoa cũng có
cái khoái cảm này, mặc dù có trong tay cả ngàn phi tần nhưng ông ta lại khoái
lén rình xem họ tắm hơn cả, vua mà còn như thế thì việc Chín Cò làm đâu có gì
là lạ ?
Từ khi vào DK thì Chín Cò có điều kiện phát huy tối đa cái sở thích rình rập
của mình. Y rình rập mọi lúc, mọi nơi, mọi điều thầm kín của con người đều được
y dòm ngó, xem trộm và trình báo, vì thế y được Sáu Ri ưu ái hơn hết thảy.
Bảy Bụng thì không làm được điều đó vì y quá dềnh dàng, cái bụng to như cái
trống, bộ ngực còn to hơn cái trống nữa nên nhìn cứ như một người khổng lồ. Y
lại để bộ ria xù nom giống hệt con chuột cống nhum, một con chuột cống vai u
thịt bắp, một tay sai cần mẫn đích thực. Nom lực lưỡng là thế nhưng đừng tưởng
Bảy Bụng thuộc loại “đầu óc ngu si, tứ chi phát triển”, y giảo hoạt còn hơn
Chín Cò nhiều. Y biết đưa biết đẩy, biết môi miếng, biết dùi sâu vào những mâu
thuẫn hay những nỗi đau của người khác để từ đó thêm phần hưởng lợi. Con Chuột
Cống Bảy Bụng cũng được thừa hưởng gia sản của ông bà để lại như con Cò Ma,
trong đó có nhiều món đồ cổ rất có giá trị như cái tủ thờ bằng gỗ mun khảm xà cừ,
bộ lư đồng cổ, một số đồ sứ cổ và đặc biệt có cả một cái sừng tê giác… Ngoài ra
nhờ những phi vụ môi giới đất đai cho xã y cũng kiếm chác được khá nhiều…
Y cũng thích rình xem phụ nữ tắm, mà lại rình đúng ngay cô vợ của Chín Cò nên
lần đó hai thằng xách súng mém bắn nhau, may mà có Sáu Ri can thiệp kịp thời.
Tuy ngoài mặt thì dàn hòa như vậy nhưng trong bụng con Cò Ma và con Chuột Cống
cũng còn “hầm” nhau lắm…
Có rất nhiều lời đồn đại xung
quanh cái chết của Ba Nửa, trong đó có lời đồn thổi về lới nguyền của ngôi cổ
mộ, lời đồn này cũng có cái lợi là làm đám dân đen thấp cổ bé họng, đám đầu
trộm đuôi cướp hoảng sợ mà tránh xa. Lần đó viện cớ không có tiền, vợ Ba Nửa
không chịu làm cúng thất, DK xã đành phải cùng nhau làm một bàn tiệc nho nhỏ để
cúng cho hương hồn Ba Nửa khỏi tủi thân. Bàn tiệc làm ở nhà Chín Cò, hôm đó hầu
như có mặt đông đủ nhưng giữa chừng Sáu Ri cáo việc phải đi. Khi tất cả đã ngà
ngà, vợ Chín Cò cất tiếng ca một bài “tân cổ giao duyên”:
“Nghe tiếng đàn ai rao sáu câu
Như sống lại hồn Cao Văn Lầu
Về Bạc Liêu danh tiếng
ôn lại giấc ngủ vàng son
Một thời để nhớ ngày đó xa rồi…
Bên nước mặn biển cho muối nhiều
Bên nước ngọt phù sa vun bồi
Bạc Liêu đưa ta tới
thăm đồng lúa trải ngàn khơi
Cò bay thẳng cánh nhìn mỏi mắt người…”
…………………………………
Đang vui vẻ nhậu nhẹt, cười nói ca hát ồn ào, bỗng nhiên Bảy Bụng đứng dậy chỉ
ngay mặt Chín Cò “mày đừng tưởng có tiền là mày ngon, mày chỉ là cái con củ c…”
– giữa bàn nhậu đông đủ chiến hữu, quan khách lại bị chửi một cách lãng xẹt,
Chín Cò quê mặt, y cũng đứng dậy chỉ ngay mặt Bảy Bụng “mày đúng là cái thằng
ngu…đm…mày càng liếm đít Sáu Ri mày càng ngu, tao nói cho mày biết…cỡ mày chưa
đáng xách dép cho tao” – “… mày đừng tưởng mày tâu mày hót, mày rình mày rập là
làm tao sợ, cỡ mày chỉ đi rình được mấy con đàn bà… có ngon ra giữa sân chơi
với tao…” – Bị chửi đúng vào chỗ nhột, nghe “búp” một cái, Chín Cò cầm luôn
chai rượu đập thẳng vào đầu Bảy Bụng, may mà Út Thứ đưa tay ra đỡ được, lúc này
Hai Đụi cũng đứng dậy, dù sao thì y cũng có quá khứ, cái quá khứ đó tuy chẳng
là cái đinh gì nhưng cũng làm đàn em phải kiêng nể “các chú nể mặt anh thì im
hết… hôm nay là cúng thất của anh Ba mà các chú làm lung tung thế thì coi sao
được ? anh đề nghị chú Bảy với chú Chín yên lặng, thằng nào uống được thì uống
tiếp, còn không uống nổi thì về… không được cãi nhau làm anh em mất đoàn kết…”
Chín Cò tuy làm ra vẻ lốp xốp như vậy nhưng thật ra y rất nhát… còn Bảy Bụng
thì được dịp không có Sáu Ri, làm bộ bộc phát chửi tứ tung cả lên chứ thực ra y
còn nhát hơn cả Chín Cò nữa. Tư Thăng nãy giờ lầm là lầm lỳ, chuyện hai thằng
tay sai ghanh ghét nhau đâu có gì là lạ…nhưng y cũng khều Út Thứ kêu nó ca tiếp
vài bài hát cho không khí bớt căng thẳng.
Út Thứ vén mái tóc xoăn lòa xòa trước trán, nốc luôn một ly “xoay chừng” rồi
cất tiếng ca, bài ca nghe thật ảo não :
“Ai nhớ chăng ai …
Ai nhớ chăng hôm nào
Hôm nào mưa rớt trên sông dài
Bên cầu em tiễn anh một chiều
Chiều chia ly còn chưa phai
Trời buồn khóc giùm duyên ai
Giọt lệ tuôn ngắn dài…”
Lúc bấy giờ trời đã chiều lắm rồi, mặt trời đã khuất sau cánh đồng, một vài
gia đình đang nổi lửa đốt rơm, khói bay lên nghi ngút, không biết hương hồn Ba
Nửa có đến dự tiệc hay sao mà bỗng một ngọn gió từ ngoài sông thổi về mang theo
làn hơi lành lạnh và nỗi buồn man mác…
Chim sẻ về tất phải vào mùa
hè.
Mùa hè cây Gạo nở hoa đỏ rực cả một vùng, Quýnh khèo đã lớn rồi mà vẫn thích
theo đám con nít trong làng nhặt hoa gạo rơi như ngày nào. Trong tiếng ve sầu
kêu ra rả, cái ánh nắng rực rỡ làm gương mặt cô Quý ửng hồng phơn phớt...
Lần đào ấy chỉ có Cả Quận và mấy đứa cháu trong nhà, sâu xuống “trụ” hơn chín
mét thì thấy có cát đen, xuyên qua lớp cát đen thì gặp một phiến đá màu đỏ bầm,
dưới phiến đá là ba cái chum sành.
Đó là chuyện sau này nghe Tư Hường kể lại.
Thế đất đó theo Tư Hường là cái thế “Chu Tước trấn Huyền Vũ”. Nếu hôm khởi sự
đào trong bầy chim sẻ bay về có con chim sắc đỏ thì phước đức nhà Cả Quận vẫn
còn, có thể đào thấy của. Còn hôm đó mà trong đàn chim sẻ không có con sẻ sắc
đỏ thì xem như âm đức nhà Cả Quận đã tận, dù đào banh cả mảnh vườn cũng sẽ
chẳng thấy gì.
Xem ra số Cả Quận cũng không đến nỗi…
Nghe nói sau này Quýnh khèo tự nhiên bớt khùng, nó lấy được vợ và có một đứa
con trai, chỉ tiếc là lúc đó thần chết đã đến rước Cả Quận đi rồi nên ông ta
không được thấy điều may mắn đó.
Hôm nay đã là ngày thứ chín từ khi phát hiện ra cái mả cổ, nhưng tính ra mới
khở sự đào có ba ngày, vậy mà biết bao nhiêu việc đã xảy ra.
Đây là một ngôi mộ của người Hoa… nghe đâu còn có câu “nơi nào có mồ mả của
người TQ thì nơi đó là đất của người TQ”.
Nếu đào một cách bài bản, quy củ thì e rằng phải mất bốn tháng, mà nhân lực tối
thiểu cũng phải là hơn hai mươi người, không đủ thời gian và tiền bạc cho điều
này. Cần phải chạy đua với thời gian vì đã thấy khá nhiều kẻ lạ mặt lảng vảng,
nếu thiên hạ không ngán Sáu Ri thì e rằng nơi đây đã thành bình địa từ lâu…
Nếu là mộ song táng thì mộ phía đông chắc kết cấu cũng phải giống mộ phía tây,
vì thế Tư Hường cho đào giống y hệt đường đào của bọn Huỳnh Đỏ. Nhưng không có
máy khoan đá thì không thể xuyên qua lớp đá ong dày cả thước nổi. Đành phải đào
theo đường bao để tìm cửa, điều này cũng khá dễ vì đã có phiến đá thạch anh để
định vị. Phiến đá này tuy vỡ nát nhưng cũng có thể nhận định nó nằm phía trên
ngôi mộ, sau đó do thời gian cát dần dần đẩy nó trôi xuống dưới. Không dè cửa
ngôi mộ lại nằm dưới gốc một bụi gai dại rậm rạp. Sau khi phát sạch bụi gai và
đào sâu xuống hơn hai mét cát thì lộ ra một tấm bia đá màu đỏ hồng, bề mặt đã
mòn hết cả không còn đọc được gì. Tấm bia bên ngôi mộ bên kia chắc cũng như vậy
vì dân đào mộ đại kỵ đụng đến bia của người chết.
Cuối cùng cũng tìm được cửa vào ngôi mộ, nó nằm sau tấm bia hơn ba thước và sâu
xuống cát cũng độ ba mét.
Chặn cửa là một phiến đá to, phía trên có khắc một cái hình bằng lòng bàn tay,
lâu ngày quá cũng chỉ còn thấy mờ mờ.
Tư Hường cứ ngần ngừ nhìn cái hình, không biết y đang lo lắng điều gì ?
Những ngôi mộ hoang thường
chứa nhiều bí ẩn, những ngôi cổ mộ còn ẩn chứa nhiều điều phi thường hơn nữa.
Cái điều xui xẻo nhất đã diễn ra, đó chính là phíến đá thạch anh bị băm nát,
nếu biết được trên đó có khắc gì thì cũng có thể tránh được nhiều chuyện. Cái
cửa đá này lâu ngày nên nó dính chắc vào thành mộ như liền một khối muốn mở ra
cũng không phải là chuyện dễ. Đó là chưa kể cái kết cấu ba lớp đá dày cả thước
và cát hầu như bao phủ ngôi mộ làm cuộc đào vô cùng khó khăn.
Tối hôm đó ngồi uống trà trong cái lều dựng tạm ngay bên cạnh ngôi mộ chỉ có ba
người là Tư Hường, ĐHC, Lý Thông, bất ngờ Tư Hường nói “có thể đây chỉ là một
ngôi mộ giả, bên trong có quan tài nhưng chưa chắc đã chôn người chết.” – “sao
anh lại có ý nghĩ đó?” – “Vì cái hình khắc trước cửa ngôi mộ.”
Tư Hường nói tiếp “chú có biết ở bên Miên tượng Phật có bốn mặt còn Quỉ chỉ có
ba mặt không ?” – “ tôi thấy tượng Phật bốn mặt rồi còn tượng Quỷ ba mặt thì
chưa thấy” – “vì những người thấy nó đều khó thoát khỏi cái chết bất đắc kỳ tử”
– “ vậy anh nghĩ cái hình mờ mờ đó là hình mặt quỷ ?”– “e rằng điều đó là sự
thật” – “vậy phiến đá thạch anh đó cảnh báo điều gì?” – “ngôi mộ cổ này thật là
kỳ lạ, bên ngoài nhìn vào thì giống như mộ người Hoa, nhưng lại khắc hình kiểu
người Miên, chắc người trong ngôi mộ này lúc còn sống có một liên hệ nào đó với
các pháp sư người Miên, chỉ tiếc là những dòng chữ lâu ngày quá bị mòn hết cả,
có khi nó được khắc chữ Phạn cũng chưa biết chừng” – “Ngôi mộ này của người
Hoa, không lẽ họ lại trấn yểm theo kiểu người Miên?” – “Chỉ vòng đai bên ngoài
thôi, chủ yếu là để đánh lạc hướng, còn bên trong thì chắc là họ lại yểm theo
cách khác, cái khó, cái nguy hiểm chính là ở chỗ đó, dù như thế nào thì cũng
vẫn phải tiếp tục, có tận nhân lực thì mới tri thiên mạng…”
Từ trong lều nhìn ra bầu trời đêm lấp lánh sao, tiếng côn trùng rỉ rả, tiếng
gió thổi vào những rặng dừa xào xạc, đồng quê dường như vang lên khúc nhạc hân
hoan…Ngôi cổ mộ đã ló ra một phần, cái bóng đen sì sì càng trở nên kỳ bí. Thông
thường mộ song táng thường có hai cỗ quan tài đặt cạnh nhau. Riêng khu mộ này
lại có hai ngôi mộ được xây sát nhau, giống nhau y hệt ở phần bên ngoài, còn
bên trong thì chưa thể xác định được. Nếu là một ngôi mộ giả thì có thể có hai
trường hợp, một là cả hai ngôi mộ sẽ có quách, nhưng bên trong là cái gì đó
chưa biết, hai là một bên mộ sẽ chôn người, bên còn lại sẽ là thứ khác… Vẫn
chưa hiểu được là tại sao mấy tay Đài Bắc đã biết được kết cấu của ngôi mộ
nhưng lại không thấy đào ngôi mộ phía bên này ? Cũng có thể là họ chưa kịp đào
đến thì đã mạng vong rồi, nếu thế thì lời nguyền của ngôi cổ mộ phải ghê gớm
lắm…
Đục suốt hai ngày không nghỉ
thì mới qua được lớp cửa đá đầu tiên, đến đây thì tai họa lại giáng xuống. Lần
này là một người chắng dính gì đến chuyện này, đó là một người đàn bà nhỏ bé,
hiền lành, một bà giáo… nhưng bà giáo đó lại là vợ của Tư Hường, bà ta đang
khỏe mạnh bình thường bỗng tự nhiên lăn ra chết, chẳng có một lý do gì cả ?
Đã nhiều năm nay chẳng mấy khi Tư Hường ở nhà, y bôn ba khắp nơi, có điều vợ
chồng thì vẫn là vợ chồng, nghĩa tử là nghĩa tận, vợ chết cũng là đại tang… Y
nói với ĐHC và Lý Thông “Đang có đại tang thì đại kỵ đào mộ, nếu cố sẽ làm chết
lây cả đám, nên hai chú thay anh tiếp tục, có điều khi tiến vào trung tâm ngôi
cổ mộ phải cố tìm một người tuổi Rồng, người đó sẽ phải vào đầu tiên, nếu không
làm đúng điều đó thì có thể sẽ phải trả giá thêm nữa…”
Tư Hường nghỉ rồi thì cuộc đào càng trở nên căng thẳng, Hai Đụi bình thường nói
nhiều nhưng lúc này cả ngày cũng không nói một câu, Bảy Bụng, Tư Thăng còn đòi
ở lại ban đêm canh gác.
Phải mất thêm hai ngày nữa, tức là đến ngày thứ mười ba kể từ lúc phát hiện ra
phiến đá thạch anh thì đục đến được lớp trong cùng, phải dùng cả vài chục tấm
tôn để chắn và che xung quanh không cho cát tràn xuống và dân hiếu kỳ dòm ngó.
Trong đám DK xã té ra Út Thứ lại là người tuổi Rồng, như vậy khi đục thủng lớp
đá cuối cùng, người xông vào đầu tiên sẽ phải là Út Thứ.
Ngày xưa khu vực này chắc là một đầm lầy mênh mông, việc vận chuyển nguyên vật
liệu, xây dựng chắc là cực kỳ khó khăn, vậy mà người xưa đã xây một ngôi mộ quy
mô như vậy, nếu không phải là một ngôi mộ giả để chôn kho báu thì nhân vật nằm
ở đây chắc là một người không phải tầm thường, cần phải phòng ngừa sự trấn yểm
là lẽ đương nhiên. Trước khi đục lớp đá cuối này, Lý Thông bày một mâm cỗ cúng
bao gồm nhang đèn, vàng mã, rượu, heo quay, trái cây…Nhìn gương mặt trầm trọng
của y, bất giác nhớ lại hôm qua bỗng nhiên Lý Thông nói “kiểu chết của một
người ít nhiều đều bắt nguồn từ kiểu sống của họ” – im lặng một lúc y nói tiếp
“không phải lúc nào cái chết cũng là một điều xấu…” – Xem ra y đã chuẩn bị tinh
thần rất chu đáo, nhìn cái cách cắm ba cây nhang vào cái lư hương có thể ngầm
hiểu nếu lời nguyền là có thực thì Lý Thông đã sẵn sàng…
Riêng Tư Thăng thì có vẻ xem thường điều này, suốt quá trình đào ngôi mộ, y bắt
được cả thảy hơn mười con rắn hổ mây trong mấy khe cát, những con rắn đó đều bị
hành hình bằng cách treo cổ lên cây cả. Đào đến tầng cuối này thì lại càng phải
coi chừng rắn độc, nhất là rắn Hổ mang chúa hay rắn Chung đầu đỏ đầu đen, chỉ
cần bị cắn một phát là chết không kịp đi ba bước.
Lớp đá trong tầng cuối cùng này cứng khủng khiếp, đến ngày thứ mười bảy mới đục
thủng qua được, lúc này phải lấy một khúc xạ mực ra để trong một cái chén sành,
sau đó châm lửa đốt… một mùi thơm tỏa ra sực nức cuộn sâu vào trong cổ mộ, mùi
thơm này có tác dụng diệt khuẩn cực mạnh, sẽ diệt sạch mọi vi trùng đến từng
ngõ ngách, xua đuổi rắn độc, côn trùng độc… Đàn bà có thai tuyệt đối không được
ngửi mùi này vì nó sẽ làm sảy thai ngay lập tức. Ngoài ra nó còn có một tác
dụng vô cùng quan trọng là kỵ tà khí, âm khí và cũng có thể vô hiệu “thần giữ
cửa” trong một thời gian.
Sau khi Út Thứ xông vào thì tất cả mọi người cũng lần lượt tiếp bước. Khó có
thể tả được cái cảm giác khi đứng ở khu trung tâm của ngôi mộ, mùi thơm của xạ
hương vẫn còn lan tỏa, trải qua nhiều năm sao nơi đây không hề có đến một hạt
bụi, bóng tối lan trùm khắp nơi, cái đèn cầy leo lét không đủ để tỏa sáng.
Trong cái ánh sáng mờ ảo đó vẫn có thể thấy thấp thoáng trên vách có khắc chìm
hình núi non, cây cỏ, hình chim với các hoa văn mây… phía dưới nền lát một loại
gạch hay đá gì đó màu nâu đen, rõ ràng là kiểu thức của người Hán. Bốn góc đều
có bốn cái bệ, trên có bốn cái trụ có khắc hình gì đó nhìn không rõ lắm. Ngay
giữa ngôi mộ là một cái quách to và dài hàng mấy mét, cao ngang tầm người bằng
đá cẩm thạch xanh, dưới cái ánh đèn cầy nom thật lạnh lẽo và quỷ dị. Đặc biệt
phía trên nắp lại đặt một viên đá vuông đen sì… hình như trên viên đá còn có
dấu vết của một cái gì đó…?
Lúc đó tất cả mọi người không ai bảo ai đều sững sờ yên lặng…
Những gì mà con người không
tự quyết định được thì gọi là định mệnh... Vài ngày sau đó Út Thứ đi ruộng đâm
cá lóc, đến nửa đêm thì nó cảm thấy mệt mỏi nên leo lên bờ kinh ngồi nghỉ. Út
Thứ móc trong người ra một vật giơ lên ngắm nghía, dưới ánh trăng vật đó dường
như chói sáng… thì ra đó là một tấm phù bằng ngọc phỉ thúy trắng… một tấm “Bạch
Hổ Phù” khắc hình cái đầu con hổ đang nhe nanh nom vô cùng dữ tợn.
Tư Hường đã có nhắc đến tấm phù này, nhưng lúc vào trong lòng ngôi mộ thì lại
không thấy, y nói rất rõ “bên ngoài tuy có hình mặt quỷ nhưng bên trong khả
năng sẽ có hình bạch hổ”, vì thế mà cần phải có một người tuổi Rồng vào đầu
tiên, đó là cái thế “Thần Long trấn Bạch Hổ”.
Sở dĩ không ai thấy tấm linh phù vì khi vào Út Thứ đã nhanh tay lấy trước,… ai
là kẻ đã nói cho nó biết về tấm phù này? Đây là một khu mộ song táng, nên chắc
mộ bên kia cũng phải có một cái tương tự… cái đó hiện đang nằm trong tay ai vậy
nhỉ?
Trong màn đêm đen thẫm bỗng có một cái đầu trọc lóc ló ra, cái đầu trọc lóc với
đôi mắt trắng dã, khoác cái áo cà sa màu vàng. Út Thứ giật mình nói hoảng “Sơn
Chùa, mày chưa chết à ?” – Sơn Chùa bây giờ đã biến hình thành một Thầy Chùa
thật sự, y nhe hàm răng sún ra nhăn nhở “có người nhắn tao muốn lấy cái đó thì
đến kiếm mày, không ngờ đúng thật, mày cũng là tay khá đấy!” – nhìn tấm phù
sáng trắng trong tay Út Thứ, bỗng Sơn Chùa cười lên sằng sặc “tao vào sinh ra
tử, đánh biết bao nhiêu trận, cỡ thằng ĐHC mà còn chưa chết thì tao làm sao mà
chết được?” – Út Thứ quờ tay định cầm lấy cái chĩa, nhưng cái chĩa đó đã nằm
trong tay Sơn Chùa rồi… chỉ nghe “phập” một cái, Sơn Chùa ra tay nhanh hơn chớp
giật, Út Thứ làm sao mà đỡ nổi, mũi chĩa cắm ngập vào cổ Út Thứ hất nó văng
tuốt xuống dưới mương nước. Tấm phù trong nháy mắt đã lọt vào tay Sơn Chùa,
nghe nói ai có được cặp “Bạch Hổ Phù” thì sẽ có một quyền năng vô hạn...
Dưới ánh trăng vàng lung linh ma quái, bóng Sơn Chùa đứng sừng sững dường như
che khuất cả một góc trời, tấm áo cà sa bay phần phật trong gió… Nhưng Út Thứ
đã không còn nhìn thấy cái cảnh đó, một màn đen thăm thẳm đã bao trùm lên nó…
Trong cái màn đêm đen thẳm đó bỗng hiện ra một gương mặt sáng ngời với ánh mắt
thật là dịu hiền, đó chỉ có thể là gương mặt của một Người Mẹ… giây phút đó Út
Thứ bỗng mấp máy môi, nó kêu lên khe khẽ “mẹ…”, lần đầu tiên cũng là lần cuối
trong cuộc đời Út Thứ được thấy một gương mặt tuyệt đẹp của người đàn bà với
đôi mắt thật dịu dàng và nụ cười hiền hậu như thế…/.
dienbatn giới thiệu.
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét