Home
»
NGHIÊN CỨU PHONG THUỶ
Blog chuyên nghiên cứu và chia sẻ văn hóa phương Đông - phong thủy - tâm linh - đạo pháp - kinh dịch...
EMAIL : dienbatn@gmail.com
TEL : 0942627277 - 0904392219.LOẠT BÀI NGHIÊN CỨU VỀ THANH HÓA – NƠI PHÁT TÍCH CỦA CÁC DÒNG HỌ, SẢN SINH RA CÁC VUA CHÚA VIỆT NAM. BÀI 1: GIỚI THIỆU CHUNG VỀ ĐẤT THANH HÓA – NƠI PHÁT TÍCH CỦA CÁC DÒNG HỌ, SẢN SINH RA CÁC VUA CHÚA VIỆT NAM.
LOẠT BÀI NGHIÊN CỨU VỀ
THANH HÓA – NƠI PHÁT TÍCH CỦA CÁC DÒNG HỌ, SẢN SINH RA CÁC VUA CHÚA VIỆT NAM.
BÀI 1: GIỚI THIỆU
CHUNG VỀ ĐẤT THANH HÓA – NƠI PHÁT TÍCH CỦA CÁC DÒNG HỌ, SẢN SINH RA CÁC VUA
CHÚA VIỆT NAM.
Lời Mở Đầu: Thanh
Hóa - Một Vương Quốc Thu Nhỏ Với Vị Thế "Yết Hầu".
Trong nhiều năm qua, Điện bà Tây Ninh đã không biết bao
nhiêu chuyến điền dã tại Thanh Hóa, được mệnh danh là "quê vua, đất
chúa", là cái nôi sản sinh ra nhiều vua chúa và các dòng họ có ảnh hưởng lớn
đến lịch sử Việt Nam. Những tư liệu còn cất kỹ trong các ổ đĩa cứng, nay nhân
lúc nông nhàn đem ra hầu chuyện các bạn, ngõ hầu muốn trả nợ những người bạn
thân tại Thanh Hóa trong suốt vài chục năm qua đã tận tình giúp đỡ trong suốt
quá trình điền dã. Đây sẽ là loạt bài nghiên cứu chuyên sâu về Phong thủy, quá
trình lịch sử từ xưa đến nay, các địa danh là cái nôi sản sinh ra nhiều vua
chúa và các dòng họ có ảnh hưởng lớn đến lịch sử Việt Nam. Điện bà Tây Ninh sẽ
cố gắng hết mức đi tìm nguyên nhân một vùng đất rất hẹp có đủ núi, rừng, đồng bằng,
sông, biển này lại là nơi phát tích, là cái nôi sản sinh ra nhiều vua chúa và
các dòng họ có ảnh hưởng lớn đến lịch sử Việt Nam. Tư liệu rất nhiều nên Điện
bà Tây Ninh sẽ chia thành nhiều bài nhỏ trong LOẠT BÀI NGHIÊN CỨU VỀ THANH HÓA
– NƠI PHÁT TÍCH CỦA CÁC DÒNG HỌ, SẢN SINH RA CÁC VUA CHÚA VIỆT NAM. Vì là bài
nghiên cứu chuyên sâu nên rất dài. Cảm ơn các bạn đã cố gắng theo dõi. Thân ái.
Điện bà Tây Ninh.
Thanh Hóa, vùng đất cổ có nhiều tên gọi trong sử sách như Cửu
Chân hay Ái Châu, từ lâu đã đi sâu vào tâm thức dân tộc như một miền đất
"địa linh nhân kiệt," cái nôi sản sinh ra nhiều bậc đế vương, chúa tể.
Báo cáo này được xây dựng không chỉ trên những ghi chép chính sử mà còn dựa
trên những tư liệu điền dã quý giá, các truyền thuyết dân gian và niềm tin tâm
linh sâu sắc, nhằm lý giải một cách chuyên sâu nguyên nhân khiến một vùng đất hẹp
như Thanh Hóa lại trở thành nơi phát tích của nhiều dòng họ có ảnh hưởng lớn đến
lịch sử Việt Nam.
Phạm vi của nghiên cứu này vượt ra ngoài việc tổng hợp các sự
kiện lịch sử đơn thuần. Chúng tôi tiến hành phân tích sự tương quan giữa các yếu
tố:
1) địa hình tự nhiên và vị thế địa chính trị;
2) quá trình phát triển văn hóa bản địa lâu đời từ thời tiền
sử;
3) vai trò của các dòng họ trong việc định hình lịch sử dân
tộc.
Đặc biệt, báo cáo sẽ khám phá các thuyết dân gian về
"long mạch" và "trấn yểm" để làm sáng tỏ thêm ý nghĩa văn
hóa và tâm linh của vùng đất này, coi đó là một phần không thể tách rời trong
nhận thức của người dân về cội nguồn. Báo cáo này là bài đầu tiên trong một loạt
chuyên khảo, cung cấp một cái nhìn tổng thể, hệ thống về Thanh Hóa, từ thuở hồng
hoang cho đến thời kỳ phong kiến, làm nổi bật vai trò độc nhất vô nhị của nó
trong dòng chảy lịch sử Việt Nam.
Phần I: Vị Thế Thiên
Nhiên và Quá Trình Kiến Tạo Địa Chất.
1.1. Bức Tranh Địa Lý
- Địa Hình: Thế "Yết Hầu" Vô Song.
Thanh Hóa sở hữu một cấu trúc địa hình vô cùng phức tạp và
đa dạng, một đặc điểm hiếm thấy trên bản đồ địa lý Việt Nam. Toàn tỉnh với tổng
diện tích 11.129,48 km vuông được phân chia thành bốn dải địa hình rõ rệt: miền
núi, trung du, đồng bằng và ven biển. Cụ thể, địa hình núi và trung du chiếm phần
lớn diện tích, lên tới 73,3 phần trăm , trong khi đồng bằng chiếm 16 phần trăm
và vùng ven biển là 10,7 phần trăm. Địa hình có xu hướng nghiêng dần và thấp từ
Tây Bắc xuống Đông Nam, với những đồi núi cao trên 1.000m đến 1.500m ở phía Tây
Bắc thoải dần và mở rộng về phía Đông Nam. Sự đa dạng về địa hình này không chỉ
tạo ra tiềm năng kinh tế phong phú mà còn quy định một vị thế địa chính trị đặc
biệt cho Thanh Hóa. Trong lịch sử, vùng đất này vừa là một thực thể khép kín với
cấu trúc tự trị khá hoàn chỉnh, vừa là một vùng đất trung chuyển quan trọng, được
ví như "yết hầu" của cả nước, nơi giao thoa giữa Bắc Bộ và Bắc Trung
Bộ. Vị thế này cho phép Thanh Hóa dễ dàng trở thành một "trọng trấn có
hình thế tốt" (theo sách Đại Nam nhất thống chí), nơi có thể dễ dàng phòng
thủ và cũng thuận lợi để tiến đánh ra các vùng khác. Địa thế hiểm yếu với núi
non che chở ở phía Tây và Bắc, sông ngòi chằng chịt, cùng bờ biển dài đã tạo ra
một lớp lá chắn tự nhiên, giúp các thế lực quân sự tại đây có thể xây dựng và củng
cố lực lượng một cách bền vững. Chính vị trí chiến lược này đã góp phần giải
thích tại sao nhiều cuộc khởi nghĩa lớn và các triều đại đã chọn Thanh Hóa làm
căn cứ địa để gây dựng cơ nghiệp, thay vì chỉ là nơi phát tích ngẫu nhiên.
Lịch sử hình thành địa lý của Thanh Hóa có thể truy ngược về
thời kỳ tiền Cambri, khi vùng đất này là một phần của khối địa chất Việt Lào và
Tây Bắc. Tỉnh Thanh Hóa nằm ở tọa độ từ 19 độ 18' Bắc đến 20 độ 40' Bắc và 104
độ 22' Đông đến 106 độ 05' Đông, với diện tích khoảng 11.114,71 km vuông , xếp
thứ 5 cả nước về diện tích. Địa hình nghiêng dần từ Tây Bắc xuống Đông Nam, với
đồi núi chiếm 3/4 diện tích, đồng bằng ven biển là một trong những đồng bằng lớn
nhất Trung Bộ, và bờ biển dài 102 km. Quá trình hình thành địa lý bắt nguồn từ
các quá trình kiến tạo địa chất lâu dài, từ kỷ Paleozoic đến Kainozoi, tạo nên
một vùng đất đa dạng về địa hình, từ núi cao, đồi trung du, đồng bằng châu thổ
đến ven biển. Theo các nghiên cứu địa chất, tỉnh thuộc hai miền kiến tạo chính:
phía Đông Bắc là miền uốn nếp Tây Bắc, và phía Tây Nam là miền uốn nếp Trường
Sơn (Việt Lào). Các vận động địa chất đã nâng lãnh thổ lên thành núi đồi, với các
đới đứt gãy lớn như đứt gãy Sông Mã, kéo dài gần 400 km từ Mường Ảng (Điện
Biên) đến bờ biển Tĩnh Gia (Thanh Hóa), chủ yếu là trượt bằng phải thuận. Đới đứt
gãy này đã định hình địa động lực khu vực, với các hoạt động địa chấn và nâng hạ
địa hình trong Kainozoi, dài trên 300 km chủ yếu ở Thanh Hóa.
Phía Đông Thanh Hóa giáp biển Đông; phía Tây giáp Lào; phía
Bắc giáp Sơn La, Hòa Bình, Ninh Bình và phía Nam giáp Nghệ An. Trong kỷ
Mesozoic, các vận động Indosinian đã tạo nên các dãy núi đá vôi và hệ tầng Mường
Lống, với các dải núi đá vôi phong phú, như hệ tầng được xác lập bởi Nguyễn Văn
Hoành (1978), tạo nên những dải núi đá vôi và địa hình karst điển hình ở miền
núi Thanh Hóa. Đồng bằng sông Mã, một trong những đồng bằng châu thổ lớn, hình
thành qua các đợt biển tiến lùi trong Holocene, cách nay khoảng 6.000 năm, với
địa mạo động lực ven biển sông Mã thể hiện quy luật hình thành địa hình hiện đại.
Phía Tây Bắc có đồi núi cao trên 1.000-1.500 m, thoải dần về Đông Nam, với các
sông lớn như sông Mã, sông Chu, sông Yên, sông Bạng được nạo vét và nối liền từ
thời Tiền Lê (năm 982).
1.2. Nguồn Gốc và
Thành Phần Địa Tầng: Lớp Nền Cho Nền Văn Minh Cổ.
Thành phần địa tầng của Thanh Hóa cũng góp phần lý giải cho
sự phát triển rực rỡ của các nền văn minh cổ. Tỉnh sở hữu nhiều nhóm đất đặc
trưng, mỗi loại phù hợp với một loại hình kinh tế khác nhau. Đất phù phù sa,
chiếm 141.275 ha, tập trung chủ yếu ở vùng đồng bằng, rất thích hợp cho cây lúa
và các cây trồng nông nghiệp khác. Đất Feralit đỏ vàng (335.537 ha) và đất vàng
nhạt (136.737 ha) ở vùng núi lại là nguồn tài nguyên dồi dào cho kinh tế lâm
nghiệp và cây công nghiệp. Vùng ven biển có đất mặn (12.004 ha) và đất cát
(15.961 ha) phù hợp cho nghề trồng cói, nuôi thủy sản và làm muối. Thậm chí,
vùng núi Nưa còn có đất đen quý hiếm (3.830 ha).
Sự phong phú và đa dạng của thổ nhưỡng đã tạo ra một hệ thống
kinh tế tự chủ, không phụ thuộc vào nguồn lực bên ngoài. Điều này đã thúc đẩy sự
phát triển của các nhóm cư dân chuyên biệt và cộng sinh trên toàn địa bàn, từ
cư dân làm nông nghiệp ở đồng bằng, đến những người săn bắn và hái lượm ở miền
núi, và những bộ lạc chuyên về đánh cá, làm muối ở ven biển. Mạng lưới thủy văn
phức tạp với các con sông lớn như sông Mã, sông Chu, sông Yên cũng đóng vai trò
huyết mạch, không chỉ cung cấp nguồn nước mà còn là tuyến giao thông đường thủy
quan trọng, kết nối các vùng trong tỉnh và ra biển. Việc này đã tạo điều kiện
cho dân số tăng trưởng và phân bố rộng khắp, hình thành một cộng đồng dân cư lớn
mạnh, là cơ sở nhân lực và vật lực vững chắc cho các phong trào xã hội và quân
sự sau này.
Về tài nguyên địa chất, Thanh Hóa có 296 mỏ và điểm khoáng sản
với 42 loại, bao gồm granit, marble, đá vôi, sét, crôm, sắt, serpentin,
đôlômit, vàng sa khoáng, phản ánh sự đa dạng địa tầng từ các vận động địa chất.
Quá trình kiến tạo địa chất của Thanh Hóa là một phần của lịch sử địa chất Việt
Nam, trải qua các giai đoạn từ Paleozoic đến Kainozoi, với các vận động uốn nếp,
đứt gãy và trầm tích. Theo các nghiên cứu, tỉnh thuộc hai miền kiến tạo: miền uốn
nếp Tây Bắc (phía Đông Bắc) và miền uốn nếp Trường Sơn (phía Tây Nam), với vận
động địa chất nâng lãnh thổ thành núi đồi phức tạp. Đới đứt gãy Sông Mã là yếu
tố then chốt, với chiều dài trên 300 km, ảnh hưởng đến địa động lực Kainozoi,
bao gồm các hoạt động địa chấn và biến dạng địa hình.
Trong kỷ Paleozoic, các hệ tầng đá vôi hình thành qua trầm
tích biển, dẫn đến địa hình karst ở miền núi, như hang động Thẩm Hai, Thẩm Tiên
ở Thường Xuân. Kỷ Mesozoic chứng kiến vận động Indosinian, tạo nên các khối uốn
nếp và hệ tầng Mường Lống, với đá bazan từ núi Đọ được sử dụng chế tác công cụ
thời tiền sử. Kainozoi là giai đoạn quan trọng, với biển tiến lùi hình thành đồng
bằng châu thổ sông Mã, và địa mạo động lực ven biển, xác lập quy luật phát triển
địa hình hiện đại. Các vận động nâng hạ địa tầng đã tạo nên thềm lục địa rộng
18.000 km vuông, và các mỏ khoáng sản phong phú, từ đá vôi đến kim loại màu.
Quá trình này còn liên quan đến địa chất thủy văn, với các suối nước nóng và
hang động, như động Tiên Sơn, phản ánh hoạt động địa nhiệt. Tổng thể, kiến tạo
địa chất đã tạo nên một vùng đất "địa linh nhân kiệt", với phong thủy
hài hòa giữa núi sông biển, góp phần vào sự phát tích của các dòng họ và vua
chúa.
Bảng 1: Phân Tích Địa
Hình và Địa Chất Thanh Hóa và Ý Nghĩa Vị Thế.
Đặc điểm địa hình. Diện tích. Các nhóm đất tiêu biểu. Ý
nghĩa vị thế lịch sử và kinh tế .
Núi và Trung du. 73,3 phần trăm diện tích. Feralit (Fs), Mùn
vàng đỏ (Fh). Căn cứ địa quân sự hiểm yếu. (Khởi nghĩa Lam Sơn), nguồn tài
nguyên lâm nghiệp dồi dào.
Đồng bằng16 phần trăm diện tích .Phù sa (P), Bạc màu (Ba). Trung
tâm nông nghiệp lúa nước, nguồn cung lương thực chính, nơi tập trung dân cư.
Ven biển 10,7 phần trăm diện tích. Mặn (M), Cát biển (Cc). Tiềm
năng kinh tế biển (hải sản, muối), cửa ngõ giao thương đường thủy.
Phần II: Từ Nơi Phát
Tích Của Người Nguyên Thủy Đến Cái Nôi Văn Hóa Việt Cổ.
2.1. Dấu Vết Của Người
Vượn Cổ Đại và Cuộc Cách Mạng Đồ Đá.
Các phát hiện khảo cổ học đã chứng minh Thanh Hóa là một
trong những cái nôi của loài người trên lãnh thổ Việt Nam. Tại núi Đọ và núi
Nuông (nay thuộc thành phố Thanh Hóa và huyện Thiệu Hóa), các nhà khảo cổ đã
tìm thấy nhiều rìu tay, mảnh tước có niên đại hàng chục vạn năm, minh chứng cho
sự tồn tại của người vượn nguyên thủy sơ kỳ đồ đá cũ. Người vượn cổ tại đây đã
biết cách ghè đẽo đá bazan để chế tạo công cụ lao động, thể hiện trí thông minh
và sự sáng tạo. Quá trình phát triển của cư dân cổ đại ở Thanh Hóa là một dòng
chảy liên tục, không bị ngắt quãng. Tiếp nối văn hóa Núi Đọ là văn hóa Sơn Vi
và Hòa Bình, với các di chỉ hang động nổi bật như Hang Con Moong (huyện Thạch
Thành), Mái đá Điều (huyện Bá Thước). Tại Hang Con Moong, các nhà khảo cổ đã
tìm thấy tầng văn hóa dày tới 3,5m với sự tiếp diễn liên tục từ hậu kỳ đồ đá cũ
đến đồ đá mới. Di cốt của người cổ và các công cụ bằng xương, đá được tìm thấy
tại đây cho thấy sự chuyển đổi dần từ săn bắt, hái lượm sang một nền kinh tế sản
xuất sơ khai với việc trồng trọt và thuần dưỡng động vật. Sự phát triển này đã
dẫn đến việc hình thành chế độ công xã thị tộc mẫu hệ, đặt nền móng vững chắc
cho xã hội sau này.
Thời đồ đá cũ, văn hóa núi Đọ (Thiệu Hóa) là nền văn hóa sơ
kỳ, với rìu tay và mảnh tước, cư dân là người vượn đứng thẳng sống thành bầy.
Văn hóa Sơn Vi (hậu kỳ) ở Bá Thước, Thạch Thành, với mái đá Điều và hang Con
Moong, có mộ táng và bếp lửa. Thời đồ đá mới, văn hóa Hòa Bình (11.000 năm) ở Cẩm
Thủy, Bá Thước, với công cụ Xumatơra và mộ chôn co bó. Văn hóa Bắc Sơn (7.000
năm) phát minh đồ gốm, và văn hóa Đa Bút (6.000-7.000 năm) chiếm lĩnh đồng bằng,
phát triển nông nghiệp lúa nước. Nguồn gốc dân cư Thanh Hóa bắt nguồn từ thời
tiền sử, với dấu vết người nguyên thủy cách nay khoảng 6.000 năm, thuộc bộ Cửu
Chân trong nước Văn Lang. Dân cư ban đầu là các bộ lạc Việt cổ, với văn hóa
Phùng Nguyên, Hoa Lộc, và Đông Sơn, từ miền núi đến ven biển. Người Kinh chiếm
đa số, nhưng tỉnh có 7 dân tộc: Kinh, Mường, Thái, Thổ, Dao, H'Mông, Khơ Mú, với
dân số 4.357.523 người (2022), mật độ 392 người/km vuông. Dân tộc Mường đứng thứ
nhất về số lượng thiểu số, gắn với cộng đồng Tây Bắc, với nguồn gốc từ dòng họ
Lò Khăm (Thái Đen).
Thành phần dân cư đa dạng, với hơn 700.000 đồng bào dân tộc
thiểu số ở 1.548 thôn bản, trong đó 316 bản đặc biệt khó khăn. Người Thái Thanh
Hóa gắn với cộng đồng Thái Tây Bắc và Nghệ An, sống tập trung ở miền núi, với
văn hóa phi vật thể phong phú. Người Thổ bản địa định cư từ xa xưa, trong khi
người Dao dựa vào nương rẫy, chuyển sang định canh định cư. Dân cư hình thành
qua di cư, từ thời Bắc thuộc (thuộc quận Cửu Chân), với ảnh hưởng từ các dân tộc
lân cận như Lào và Trung Quốc, nhưng cốt lõi là người Việt cổ. Hiện nay, 38,02
phần trăm dân cư thành thị, 61,98 phần trăm nông thôn, với lao động qua đào tạo
chiếm 27 phần trăm. Ngôn ngữ địa phương gần phương ngữ Bắc Bộ, nhưng có đặc
trưng riêng về phát âm và từ ngữ, phản ánh sự hòa quyện văn hóa đa dân tộc.
2.2. Thời Đại Đồng
Thau: Văn Hóa Hoa Lộc và Quỳ Chử.
Khi con người bước vào thời đại đồng thau, Thanh Hóa lại nổi
lên với hai nền văn hóa tiền sử tiêu biểu là Hoa Lộc và Quỳ Chử, đại diện cho
hai khu vực địa lý khác nhau. Văn hóa Hoa Lộc, thuộc sơ kỳ đồ đồng, phát triển ở
vùng ven biển huyện Hậu Lộc cách đây khoảng 4.000 năm. Cư dân Hoa Lộc đã biết đến
kim loại, có nền nông nghiệp dùng cuốc phát triển mạnh mẽ và đặc biệt giỏi
trong nghề đánh cá. Các hiện vật như cuốc đá, chì lưới, cùng xương răng các
loài cá biển và động vật thuần dưỡng đã chứng minh điều này. Kỹ thuật chế tác đồ
gốm của họ cũng rất độc đáo, với những chiếc bình miệng loe, vai gãy và hoa văn
hình bọ gậy được tạo bằng vỏ sò biển, thể hiện một đời sống tinh thần phong phú
và một nền văn hóa bản địa đã đạt đến trình độ cao.
Tại vùng đồng bằng sông Mã, cư dân ở di chỉ Cồn Chân Tiên đã
bước vào sơ kỳ đồ đồng sớm hơn, với đồ gốm và công cụ đá tương đồng với văn hóa
Phùng Nguyên. Cồn Chân Tiên được coi là cốt lõi mở đầu trong quá trình hình
thành bộ Cửu Chân trong nước Văn Lang, và cùng với các di chỉ Đông Khối, Quỳ Chử,
đã tạo thành một "dòng sông văn hóa riêng" tiến tới sự hội tụ và kết
tinh thành Văn hóa Đông Sơn vĩ đại. Văn hóa Đông Sơn đã đạt được sự thống nhất
trên một địa bàn rộng lớn, chứng tỏ sự hòa hợp các bộ lạc để hình thành một Nhà
nước sơ khai, đó chính là Nhà nước Văn Lang thời các vua Hùng dựng nước. Điều
này cho thấy Thanh Hóa không chỉ là một trong những trung tâm của Văn hóa Đông Sơn
mà còn là nơi các nền văn hóa bản địa đã phát triển một cách độc lập, liên tục,
sau đó hội tụ để tạo nên một sức mạnh tổng hợp, là tiền đề cho sự ra đời của
các nhà nước sau này. Thanh Hóa trong thời kỳ các vua Hùng dựng nước thuộc bộ Cửu
Chân. Vào đầu thời đại đồng thau, văn hóa Phùng Nguyên lan rộng, với di chỉ ở
miền núi như Thẩm Hai, Thẩm Tiên (Thường Xuân), nơi tìm thấy rìu đá mài nhẵn và
đồ gốm khắc vạch. Ở miền biển, văn hóa Hoa Lộc (Hậu Lộc) phát triển, với cư dân
đánh cá, chăn nuôi, trồng lúa nước, và đồ gốm độc đáo in hoa văn vỏ sò. Di chỉ
Cồn Chân Tiên (Đông Sơn) là cốt lõi hình thành bộ Cửu Chân, với công cụ đá cao
cấp và dấu vết lúa nước. Giai đoạn Đông Khối (trung kỳ đồng thau) chứng kiến
trung tâm chế tác đá phong phú, với rìu tứ giác và bôn, tương đương văn hóa Đồng
Đậu. Thời Bắc thuộc (179 trước công nguyên - 938), thuộc quận Cửu Chân, trải
qua các triều Hán đến Đường, với dân cư chịu đô hộ nhưng giữ gìn bản sắc.
Phần III: Thanh Hóa -
Cái Nôi Sản Sinh Các Dòng Vua Chúa.
3.1. Phân Tích Chi Tiết
Các Dòng Họ Phát Tích.
Câu nói "Vua xứ Thanh, thần xứ Nghệ" không phải là
một sự ngẫu nhiên mà được minh chứng rõ ràng qua sự phát tích của nhiều dòng họ
vương giả tại vùng đất này. Dòng họ Nguyễn Phước và Vương triều Nguyễn: Vương
triều quân chủ cuối cùng của Việt Nam có nguồn gốc từ làng cổ Gia Miêu Ngoại
trang, huyện Tống Sơn (nay thuộc xã Hà Long, huyện Hà Trung). Vua Gia Long
(Nguyễn Ánh), sau khi lên ngôi, đã trở về đất tổ, xây dựng lăng miếu Triệu Tường
để thờ Triệu Tổ Nguyễn Kim và phong Gia Miêu là "đất quý hương," huyện
Tống Sơn là "quý huyện". Việc này không chỉ thể hiện lòng kính trọng
của nhà vua đối với cội nguồn mà còn khẳng định vị thế đặc biệt của vùng đất
này trong tâm thức của vương triều.
Dòng họ Trịnh và Phủ Chúa: Dòng chúa Trịnh, với người khởi
nghiệp là Trịnh Kiểm, có nguồn gốc từ làng Sóc Sơn, huyện Vĩnh Lộc. Mặc dù sau
này quyền lực tập trung ở kinh thành Thăng Long, nhưng các di tích và gia phả vẫn
minh chứng cho cội nguồn sâu xa tại vùng đất Biện Hạ, Vĩnh Lộc. Sự hiện diện
lâu dài của họ Trịnh tại nhiều địa phương như Hoằng Hóa, Hậu Lộc, Thiệu Hóa, Thọ
Xuân cho thấy sự gắn bó mật thiết của dòng họ này với Thanh Hóa.
Nhà Hậu Lê và Lam Sơn (Thọ Xuân): Lê Lợi, người sáng lập nhà
Hậu Lê, quê ở xã Xuân Lam, huyện Thọ Xuân. Vùng đất Lam Sơn không chỉ là nơi
ông phất cờ khởi nghĩa Lam Sơn (1418-1428), mà sau khi đất nước độc lập, Lam
Sơn còn được đổi tên thành Tây Kinh (Lam Kinh), trở thành nơi an táng các vị
vua và là biểu tượng của sự nghiệp trung hưng.
Nhà Hồ và Tây Đô (Vĩnh Lộc): Hồ Quý Ly, sau khi thoán ngôi
nhà Trần, đã chọn động An Tôn (huyện Vĩnh Lộc) để xây dựng thành Tây Đô vào năm
1397. Đây là một quyết định chiến lược, không chỉ để rời xa kinh thành cũ mà
còn là sự trở về với cội nguồn xứ Thanh. Thành Tây Đô, với kiến trúc bằng đá
kiên cố, là trung tâm quyền lực của nhà Hồ và là minh chứng cho vị thế của vùng
đất này trong việc gây dựng vương triều. Việc nhiều dòng họ lớn phát tích tại
các địa danh cụ thể của Thanh Hóa không phải là ngẫu nhiên. Các địa điểm như Thọ
Xuân, Vĩnh Lộc, Hà Trung thường nằm ở những vị trí chiến lược, có địa hình hiểm
trở, thuận lợi cho việc xây dựng lực lượng và căn cứ địa. Điều này đã giúp các
thế lực mới nổi có thể tập trung nhân tài, vật lực để đối phó với kẻ thù, và
sau đó sử dụng chính vùng đất này như một biểu tượng để khẳng định tính chính
danh và uy thế của vương triều.
Thanh Hóa là "quê vua, đất chúa", phát tích của 44
đời vua từ Tiền Lê, Hồ, Hậu Lê, Nguyễn, và hai dòng chúa Trịnh, Nguyễn. Các địa
danh nổi bật: Làng Gia Miêu (Hà Trung): Nơi phát tích vương triều Nguyễn, quê
hương chúa Nguyễn Hoàng, với khu lăng miếu Triệu Tường. Thọ Xuân: Quê hương Lê
Lợi (Xuân Lam), an táng nhiều vua Hậu Lê như Lê Thần Tông, với Lam Kinh - di
tích quốc gia đặc biệt. Thiệu Hóa: Quê Dương Đình Nghệ (Thiệu Dương), và dòng họ
Lê (Thiệu Trung), nơi Lê Văn Hưu soạn Đại Việt sử ký toàn thư. Triệu Sơn: Núi
Nưa, nơi Bà Triệu khởi nghĩa (248), và động Thiên Tôn liên quan Hồ Quý Ly. Vĩnh
Lộc: Thành nhà Hồ (Vĩnh Long), Tây Đô của Đại Ngu, di sản UNESCO. Hậu Lộc: Bồ
Điền (Phú Điền), nơi họ Lý hội quân với Bà Triệu, và đền Bà Triệu. Yên Định:
Quân Yên, quê Bà Triệu, và dấu tích văn hóa Sơn Vi. Bá Thước (Hạ Trung): Dấu
tích văn hóa Sơn Vi, trung tâm cư trú thời đồ đá cũ. Hoằng Hóa: Làng Hoằng Lộc,
quê họ Bùi khoa bảng. Vĩnh Lộc (Sóc Sơn): Quê Trịnh Kiểm, phát tích chúa Trịnh.
Những địa danh này, với phong thủy đắc địa, là cái nôi sản sinh các dòng họ
Nguyễn Phước, Trịnh, Bùi, Lê, Hồ, gắn với 4 vương triều lớn.
3.2. Chân Dung Những
Vị Vua và Chúa Xứ Thanh.
Thanh Hóa là quê hương của 44 đời vua từ các triều đại Tiền
Lê, Hồ, Hậu Lê, Nguyễn và cả hai dòng chúa Trịnh, Nguyễn. Dưới đây là chân dung
của một số nhân vật tiêu biểu:
Bà Triệu (Triệu Thị Trinh): Là một trong những nữ tướng anh
hùng đầu tiên trong lịch sử chống ngoại xâm, bà đã khởi nghĩa tại núi Nưa (Triệu
Sơn) vào năm 248, khiến quân Ngô phải kinh sợ và tôn xưng là "vua
bà".
Dương Đình Nghệ: Người làng Giàng (Thiệu Hóa), ông đã đánh
đuổi quân Nam Hán vào năm 931, tự xưng Tiết độ sứ, chấm dứt vĩnh viễn hơn 1.000
năm Bắc thuộc và khôi phục nền độc lập tự chủ cho dân tộc.
Lê Hoàn: Người xã Xuân Lập (Thọ Xuân), được tôn lên làm vua,
sáng lập nhà Tiền Lê. Ông đã dẹp tan quân Tống xâm lược và bình Chiêm, mở ra một
triều đại thịnh trị đầu tiên của Đại Cồ Việt. Lê Lợi: Người xã Xuân Lam (Thọ
Xuân), lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Lam Sơn đánh đuổi quân Minh, lập nên nhà Hậu Lê
- một triều đại hưng thịnh bậc nhất trong lịch sử phong kiến Việt Nam.
Năm Mậu Thìn (248), tại núi Nưa, Triệu Sơn, Thanh Hóa, Bà
Triệu đã chiến thắng quân Ngô. Quân giặc vừa khiếp sợ vừa thán phục tài năng,
lòng dũng cảm của bà. Vì thế, dân gian vẫn có câu: “Hoành qua đương hổ dị/ Đối
diện bà Vương nan” (Dễ múa giáo chống hổ, nhưng đối diện với bà Vương thì khó).
Mặc dù chưa lập triều chính, quân Ngô đã tôn Bà Triệu làm vua ngay khi đối mặt
với sức mạnh của bà. Vào tháng 12 năm Tân Mão (931), Dương Đình Nghệ, người
làng Giàng (nay thuộc xã Thiệu Dương, huyện Thiệu Hóa, Thanh Hóa), đã đánh đuổi
quân đô hộ nhà Đường, chiếm thành Đại La và tự xưng là Tiết Độ sứ. Tuy vậy, thực
tế ông là một "vua không ngai", kế thừa nền độc lập tự chủ từ dòng họ
Khúc, bắt đầu từ năm 905. Đến tháng 7 năm Canh Thìn (980), Thái hậu Dương Vân
Nga đã mời Lê Hoàn lên ngôi, thống nhất lòng dân để chống lại quân xâm lược Tống,
tạo ra Nhà Tiền Lê (980-1009). Lê Hoàn tức vua Lê Đại Hành, là người quê xã
Xuân Lập, huyện Thọ Xuân, Thanh Hóa. Nhà Tiền Lê tồn tại qua ba đời vua gồm Lê
Đại Hành (980-1005), Lê Trung Tông (1005) và Lê Ngọa Triều (1005-1009).
Hơn 500 năm sau, vào năm Canh Thìn (1400), Hồ Quý Ly - một
ngoại thích trong triều Trần, đã lập ra Nhà Hồ, với quốc hiệu Đại Ngu và kinh
đô ở thành Tây Giai (Tây Đô) của Thanh Hóa. Nhà Hồ chỉ tồn tại trong 7 năm
(1400-1407), là triều đại phong kiến ngắn nhất trong lịch sử Việt Nam. Nhà Hậu
Lê (1428-1789), chia thành hai giai đoạn: Lê sơ (1428-1527) và Lê Trung Hưng
(1533-1789). Người sáng lập nhà Hậu Lê là Lê Thái Tổ (Lê Lợi), xuất thân từ xã
Xuân Lam, Thọ Xuân, Thanh Hóa. Sau khi chiến thắng quân Minh trong cuộc khởi
nghĩa Lam Sơn (1416-1428), Lê Thái Tổ đã tạo dựng một nền tảng vững chắc cho Đại
Việt. Giai đoạn Lê sơ kéo dài qua 10 vua, đỉnh cao là dưới triều Lê Thánh Tông
(1460-1497). Sau khi bị Mạc Đăng Dung cướp ngôi, Nhà Lê phục hồi trong giai đoạn
Lê Trung Hưng, bắt đầu với Lê Trang Tông (1533-1548) và kết thúc với Lê Chiêu
Thống (1786-1789).
Nhà Nguyễn, triều đại cuối cùng của Việt Nam (1802-1945), được
thành lập bởi Nguyễn Ánh (Gia Long), người có tổ tiên gốc từ Gia Miêu, huyện Tống
Sơn (nay thuộc xã Hà Long, huyện Hà Trung, Thanh Hóa). Nhà Nguyễn trải qua 13 đời
vua, bắt đầu từ Gia Long (1802-1820) đến Bảo Đại (1926-1945). Lịch sử Việt Nam
ghi nhận hai dòng chúa lớn là Trịnh và Nguyễn, cả hai đều có gốc gác từ Thanh
Hóa. Dòng chúa Trịnh do Trịnh Kiểm sáng lập vào thế kỷ XVI, quyền lực của họ lớn
đến mức vượt qua cả vua Lê, dù chỉ là những người phò tá. Dòng Trịnh kéo dài
qua 11 đời, từ Trịnh Kiểm (1545-1570) đến Trịnh Bồng (1786-1787), cho đến khi bị
Nguyễn Huệ dẹp bỏ. Về dòng chúa Nguyễn, vào năm Mậu Ngọ (1558), Nguyễn Hoàng,
con trai của An Thành hầu Nguyễn Kim, đã theo lời Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm
khuyên rời Bắc vào trấn giữ đất Thuận Hóa. Dòng họ Nguyễn trải qua 9 đời, từ
Nguyễn Hoàng (1558-1613) đến Nguyễn Phúc Thuần (1765-1777), có công mở rộng đất
Đàng Trong, kéo dài về phía Nam tới Mũi Cà Mau.
Di tích tại Thanh Hóa gắn liền với lịch sử Việt Nam. Thanh
Hóa có lịch sử lâu dài và phong phú, là nơi lưu giữ nhiều di tích gắn liền với
các triều đại phong kiến Việt Nam, mang đậm giá trị văn hóa, lịch sử và kiến
trúc nghệ thuật. Dưới đây là một số di tích nổi bật: Di sản Văn hóa thế giới
Thành nhà Hồ: Thành nhà Hồ tọa lạc ở huyện Vĩnh Lộc, Thanh Hóa, được xây dựng
vào năm 1397 dưới triều đại Hồ Quý Ly, là thủ đô của nước Đại Ngu. Đây là một
công trình kiến trúc nổi bật với kết cấu hoàn toàn bằng đá, mỗi viên đá có kích
thước lớn, dài tới hơn 6m và nặng khoảng 20 tấn. Thành nhà Hồ không chỉ là
trung tâm quyền lực của triều đại Hồ mà còn là một pháo đài quân sự kiên cố.
Đây là một trong những thành lũy bằng đá hiếm hoi còn tồn tại ở Đông Nam Á. Thành
nhà Hồ đã được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa thế giới và là một trong 62
di tích quốc gia đặc biệt của Việt Nam.
Di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật quốc gia đặc biệt
Lam Kinh: Lam Kinh cách thành phố Thanh Hóa khoảng 50km về phía Tây Bắc, là quê
hương của nhà Lê. Khu di tích này không chỉ nổi bật với những công trình kiến
trúc cổ kính mà còn hài hòa với thiên nhiên. Các điện miếu và lăng mộ tại đây gắn
kết chặt chẽ với cảnh quan thiên nhiên, tạo nên một không gian trang nghiêm, uy
nghi, thể hiện mối liên kết giữa con người và thiên nhiên. Lam Kinh là di tích
lịch sử quan trọng, ghi dấu sự ra đời và phát triển của nhà Lê. Di tích lịch sử
và kiến trúc nghệ thuật quốc gia đặc biệt đền Bà Triệu. Đền Bà Triệu nằm trên
ngọn núi Gai thuộc xã Phú Điền, huyện Hậu Lộc (tỉnh Thanh Hóa), là nơi thờ bà
Triệu - nữ anh hùng dân tộc nổi tiếng trong lịch sử Việt Nam. Đền lưu giữ nhiều
cổ vật quý giá, trong đó có 65 đạo sắc phong qua các triều đại phong kiến Việt
Nam và 10 cuốn thần phả viết bằng chữ Hán. Đặc biệt, đền là nơi lưu giữ những
huyền thoại và ca dao, tục ngữ gắn liền với cuộc đời và chiến công của Bà Triệu.
Hàng năm, từ ngày 21 – 24 tháng 2 âm lịch, lễ hội Bà Triệu được tổ chức tại đây
với nhiều hoạt động truyền thống như tế lễ, rước kiệu, tế nữ quan, thi đấu thể
thao dân gian, biểu diễn hát chầu văn và trò chơi dân gian, thu hút sự tham gia
của đông đảo người dân và du khách. Những di tích này không chỉ có giá trị lịch
sử to lớn mà còn là minh chứng cho sự phát triển mạnh mẽ của nền văn hóa, nghệ
thuật và phong kiến Việt Nam qua các thời kỳ. Chúng còn là điểm đến lý tưởng để
du khách tìm hiểu và trải nghiệm lịch sử phong phú của vùng đất Thanh Hóa.
Bảng 2: Danh Sách Các
Dòng Họ Vương Giả Phát Tích Tại Thanh Hóa.
Dòng họ. Thời kỳ. Nhân vật khởi nghiệp. Địa danh phát tích.
Nhà Tiền Lê. 980-1009. Lê Hoàn. Xã Xuân Lập, huyện Thọ Xuân.
Nhà Hồ. 1400-1407. Hồ Quý Ly. Thành Tây Đô, huyện Vĩnh Lộc.
Nhà Hậu Lê. 1428-1789. Lê Lợi. Lam Sơn, huyện Thọ Xuân.
Chúa Trịnh.Thế kỷ 16-18. Trịnh Kiểm. Làng Sóc Sơn, huyện Vĩnh
Lộc.
Chúa Nguyễn/Nhà Nguyễn. 1558-1945. Nguyễn Hoàng/Nguyễn Ánh. Làng
Gia Miêu Ngoại trang, huyện Hà Trung.
Phần IV: Giải Mã Hiện
Tượng "Vua Xứ Thanh, Thần Xứ Nghệ".
4.1. Giải Thích Truyền
Thống Dân Gian và Sử Sách.
Câu nói dân gian "Vua xứ Thanh, thần xứ Nghệ" phản
ánh một sự thật lịch sử sâu sắc và được nhiều tư liệu lịch sử xác nhận. Thanh
Hóa là nơi sản sinh ra nhiều vua chúa, với tổng cộng 44 vị vua từ các triều đại
Tiền Lê, Hồ, Hậu Lê, Nguyễn và cả hai dòng chúa Trịnh, Nguyễn. Trong khi đó, xứ
Nghệ (gồm Nghệ An và Hà Tĩnh ngày nay) lại là nơi sản sinh ra nhiều bậc quan thần,
danh nhân, đứng đầu nhiều khoa bảng trong thời phong kiến. Sự phân chia vai trò
này cho thấy mối quan hệ tương hỗ giữa hai vùng đất. Sự khác biệt này có thể được
lý giải thông qua quá trình phát triển văn hóa bản địa. Thanh Hóa, với bề dày lịch
sử phát triển liên tục từ các nền văn hóa đồ đá đến thời kỳ Đông Sơn, đã bồi đắp
một nền tảng văn hóa vững chắc, tạo ra những con người có khí phách, "rộng
rãi, có mưu trí," dám đứng lên xưng vương dựng nước. Điều này chứng tỏ
Thanh Hóa không chỉ là một "nơi" phát tích ngẫu nhiên mà là một
"cái nôi" sản sinh, nuôi dưỡng và hun đúc những tinh hoa về con người
và văn hóa để rồi từ đó tạo ra những bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử dân tộc.
Từ khởi nghĩa Chu Đạt (156-160) đến Bà Triệu (248), rồi Lý
Nam Đế (542), Dương Đình Nghệ (931), Ngô Quyền (938), Tiền Lê (980), Lý (1010),
Trần (1226), Hồ (1400), Hậu Lê (1428), Trịnh-Nguyễn phân tranh, Tây Sơn, Nguyễn
(1802), đến cách mạng hiện đại (1930-1945). Thanh Hóa là trọng trấn, với các di
tích như Thành nhà Hồ (UNESCO), Lam Kinh, đền Bà Triệu. Từ đầu triều đại nhà Lý
1009 đến 1028, lúc đầu Lý Thái tổ đặt tên gọi Trại Ái Châu. Đến năm 1029, dưới
triều vua Lý Thái Tông, năm Thiên Thành thứ hai đặt tên Phủ Thanh Hóa. Từ đó
các triều đại tiếp theo lúc gọi phủ, lúc gọi lộ, lúc gọi trấn và gọi là tỉnh
Thanh Hóa vào thời nhà Nguyễn. Tên Hóa có lúc lại đổi thành Hoa, rồi lại trở lại
Hóa; đến đời vua Thiệu Trị, triều đại nhà Nguyễn (1841), nhà vua có một chỉ dụ
đại ý nói: Thanh Hóa là một tên cổ, do các triều đại trước đã định danh, vì vậy
không có lý do gì đổi tên này, mà phải giữ nguyên tên gọi tỉnh Thanh Hóa. Ngày
12/7/2017, tại kỳ họp thứ ba, HĐND tỉnh khóa 17 đã quyết nghị lấy năm 1029 là
năm ra đời Danh xưng Thanh Hóa với tư cách đơn vị hành chính trực thuộc Trung
ương. Sự kiện lịch sử này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, tạo sự phấn khởi, lan
tỏa trong cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân các dân tộc trong tỉnh.
4.2. Thuyết
"Long Mạch" và Hiện Tượng "Trấn Yểm".
Trong tâm thức dân gian, Thanh Hóa được xem là vùng đất chứa
"long mạch," hội tụ linh khí trời đất, là nguyên nhân sâu xa sản sinh
ra các bậc đế vương. Truyền thuyết về núi Hàm Rồng và núi Nít (Ngọc) tạo thành
thế "rồng vờn hạt ngọc" là một minh chứng sống động cho niềm tin đó.
Dãy núi uốn lượn như hình rồng, với các địa danh như Long Hàm (hàm rồng), Long
Tị (mũi rồng) và động Long Quang (mắt rồng), càng củng cố thêm niềm tin về một
vùng đất thiêng liêng và vô cùng quý giá. Điều đặc biệt là niềm tin này không
chỉ tồn tại trong dân gian mà còn được ghi chép trong chính sử và trở thành một
yếu tố có ảnh hưởng chính trị. Đại Việt sử ký toàn thư chép rằng, vào năm 1248,
vua Trần Thái Tông đã sai các nhà phong thủy đi khắp nơi để "trấn áp vượng
khí" đế vương, đặc biệt là ở Thanh Hóa. Họ đã tiến hành đào núi Chiếu Bạc,
sông Bà và sông Lễ (sông Mã, sông Chu), đồng thời lấp các khe và mở đường ngang
dọc không kể xiết. Hành động "trấn yểm" này không phải là một sự kiện
ngẫu nhiên, mà là một bằng chứng lịch sử rõ ràng cho thấy triều đình phong kiến
đã nhận thức được vị thế đặc biệt của Thanh Hóa như một mối đe dọa tiềm tàng, một
nguồn sức mạnh có thể sản sinh ra đối thủ. Việc cố gắng phá bỏ "long mạch"
chính là một sự công nhận ngầm về "vượng khí" của vùng đất này, biến
quan niệm tâm linh thành một yếu tố có ảnh hưởng thực tế, sâu sắc đến chính
sách cai trị và an ninh quốc gia.
Cũng vì là đất đế vương, cho nên không phải ngẫu nhiên mà
nhà Trần đã từng phải cho người đục núi, lấp sông ở nơi đây để trấn yểm các huyệt
mạch đế vương. Điều này được chứng thực bởi Việt sử địa dư của Phan Đình Phùng,
nguyên văn như sau: “Trần Thái Tông niên hiệu Thiên Ứng Chính Bình năm thứ 17
(1248), sai người giỏi về phong thủy đi trấn áp vượng khí trong khắp núi sông,
như núi Chiêu Bạc, sông Bà, sông Lễ ở Thanh Hóa, đều đào và đục đi. Lấp các khe
kênh, mở đường ngang lối dọc không kể xiết”. Núi Chiêu Bạc chính là núi Chiếu
Sơn thuộc huyện Nga Sơn. Sông Bà thuộc địa giới huyện Đông Sơn, còn sông Lễ
chính là sông Mã. Nhưng việc làm ấy cũng chỉ như muối bỏ biển, bởi ngay sau nhà
Trần thì nhà Hồ đã phát ra từ xứ Thanh rồi. Thế nên lời của sử thần Ngô Sĩ Liên
quả chẳng sai chút nào: “Từ khi có trời đất này, thì đã có núi sông này, mà khí
trời chuyển vận, thánh nhân ra đời, đều có số cả. Khí trời từ Bắc chuyển xuống
Nam, hết Nam rồi lại quay về Bắc. Thánh nhân trăm năm mới sinh, đủ số lại trở lại
từ đầu. Thời vận có lúc chậm lúc chóng, có khi thưa khi mau mà không đều, đại
lược là thế, có can gì đến núi sông? Nếu bảo núi sông có thể lấy pháp thuật mà
trấn áp, thì khí trời chuyển vận, thánh nhân ra đời có pháp thuật gì trấn áp được
không? Ví như Tần Thủy Hoàng biết là phương Đông Nam có vượng khí thiên tử, đã
mấy lần xuống phương ấy để trấn áp, mà rút cuộc Hán Cao vẫn nổi dậy, có trấn áp
được đâu”.
Bảng 3: Sự Kiện Lịch
Sử và Ý Nghĩa Phong Thủy - Truyền Thuyết.
Sự kiện lịch sử. Địa danh liên quan. Yếu tố phong thủy/truyền
thuyết.
Khởi nghĩa Bà Triệu (năm 248). Núi NưaTương truyền là
"huyệt đạo linh thiêng bậc nhất Việt Nam.
"Nhà Trần "trấn yểm" (năm 1248). Núi Chiêu Bạc,
sông Mã.
Vua Trần sai người trấn áp "vượng khí đế vương" tại
Thanh Hóa bằng cách đào núi, lấp sông. Xây thành Tây Đô (năm 1397).Động An Tôn
(Vĩnh Lộc).
Hồ Quý Ly chọn nơi có địa thế hiểm trở với núi non bao
quanh, sông nước che chở.
Khởi nghĩa Lam Sơn (1418-1428).Lam Sơn (Thọ Xuân).Vùng đất
hiểm trở, thuận lợi để xây dựng căn cứ địa, sau này trở thành Tây Kinh.
Kết Luận: Thanh Hóa -
Từ Địa Linh Đến Nhân Kiệt.
Tổng hợp các phân tích trên, có thể thấy vai trò lịch sử đặc
biệt của Thanh Hóa không phải là một hiện tượng đơn lẻ mà là kết quả của sự hội
tụ nhiều yếu tố. Từ cấu trúc địa lý đa dạng tạo nên một thế phòng thủ tự nhiên
và nền kinh tế tự chủ, đến quá trình phát triển văn hóa bản địa liên tục qua
hàng vạn năm đã bồi đắp nên một nền tảng con người mạnh mẽ, kiên cường. Chính sự
kết hợp của địa thế hiểm yếu, tài nguyên phong phú, và một truyền thống văn hóa
hun đúc từ thời tiền sử đã tạo ra một môi trường thuận lợi để sản sinh và nuôi
dưỡng những con người tài giỏi, có chí khí, và trở thành cái nôi của nhiều dòng
họ vĩ đại nhất trong lịch sử Việt Nam. Câu nói "Vua xứ Thanh, thần xứ Nghệ"
không chỉ là một câu nói dân gian mà còn là một sự thật lịch sử được chứng minh
qua các bằng chứng khảo cổ học, sử sách và các di tích còn tồn tại đến ngày
nay. Hơn nữa, những truyền thuyết về "long mạch" và hiện tượng
"trấn yểm" đã đưa ra một lớp diễn giải sâu sắc hơn, chứng minh rằng
ngay cả các triều đại phong kiến cũng tin vào sức mạnh và "vượng khí"
của vùng đất này.
Báo cáo này là một góc nhìn tổng thể, đặt nền móng cho những
chuyên khảo tiếp theo. Chúng tôi hy vọng sẽ tiếp tục đi sâu vào từng triều đại,
từng nhân vật lịch sử, và từng địa danh cụ thể để làm rõ hơn nữa bức tranh toàn
diện về vùng đất "địa linh nhân kiệt" Thanh Hóa. Xin theo dõi tiếp
bài 2. Cảm ơn các bạn đã theo dõi. Thân ái. Điện bà Tây Ninh.
Bài 5. Phong thủy luận.
Xin theo dõi tiếp bài 6. Cảm ơn các bạn đã theo dõi. Thân ái. dienbatn.
Bài 4. Phong thủy luận.
Xin theo dõi tiếp bài 5. Cảm ơn các bạn đã theo dõi. Thân ái. dienbatn.
Bài 3. Phong thủy luận.
Xin theo dõi tiếp bài 4. Cảm ơn các bạn đã theo dõi. Thân ái. dienbatn.
Bài 2. Phong thủy luận .
Xin theo dõi tiếp bài 3. Cảm ơn các bạn đã theo dõi. Thân ái. dienbatn.
Bài 1. Phong thủy luận.
Xin theo dõi tiếp bài 2. Cảm ơn các bạn đã theo dõi. Thân ái. dienbatn.
Bài 14. Loạt bài về lăng mộ hoàng gia thời Nguyễn tại Huế. Các lăng khác của triều Nguyễn .
Cảm ơn các bạn đã theo dõi. Thân ái. dienbatn.
Bài 13. Loạt bài về lăng mộ hoàng gia thời Nguyễn tại Huế. Các lăng khác của triều Nguyễn.
Xin theo dõi tiếp bài 14, Cảm ơn các bạn đã theo dõi. Thân ái. dienbatn.
Bài 12. Loạt bài về lăng mộ hoàng gia thời Nguyễn tại Huế. Các lăng khác của triều Nguyễn .
Xin theo dõi tiếp bài 13. Cảm ơn các bạn đã theo dõi. Thân ái. dienbatn.
Bài 9. Loạt bài về lăng mộ hoàng gia thời Nguyễn tại Huế. Bia Lăng Tự đức.
Xin theo dõi tiếp bài 10. Cảm ơn các bạn đã theo dõi. Thân ái. dienbatn.
Bài 8. Loạt bài về lăng mộ hoàng gia thời Nguyễn tại Huế. Bia Lăng Tự đức.
Xin theo dõi tiếp bài 10. Cảm ơn các bạn đã theo dõi. Thân ái. Dienbatn.
Bài 7. Loạt bài về lăng mộ hoàng gia thời Nguyễn tại Huế. Lăng Tự đức.
Xin theo dõi tiếp bài 8. Cảm ơn các bạn đã theo dõi. Thân ái. dienbatn.
Cửa biển Hội Thống .
Cảm ơn các bạn đã theo dõi. Thân ái. dienbatn.
Bài 6. Loạt bài về lăng mộ hoàng gia thời Nguyễn tại Huế. Lăng Thiệu trị.
Xin theo dõi tiếp bài 7. Cảm ơn va1v bạn đã theo dõi. Thân ái. Dienbatn.
Bài 5. Sông Thiên Phù và những ngôi cổ tự. Chùa Tảo Sách .
Cảm ơn các bạn đã theo dõi. Thân ái. dienbatn.
Bài 4. Loạt bài về lăng mộ hoàng gia thời Nguyễn tại Huế.
Xin theo dõi tiếp bài 5. Cảm ơn các bạn đã theo dõi. Thân ái. dienbatn.
Bài 4. sông Thiên phù và những ngôi cổ tự.
Xin theo dõi tiếp bài 5. Cảm ơn các bạn đã theo dõi. Thân ái. dienbatn.
Bài 3. Loạt bài về lăng mộ hoàng gia thời Nguyễn tại Huế.
Xin theo dõi tiếp bài 5. Cảm ơn các bạn đã theo dõi. Thân ái. dienbatn.
Bài 3. Sông Thiên Phù và những ngôi cổ tự.
Xin theo dõi tiếp bài 4. Cảm ơn các bạn đã theo dõi. Thân ái. Dienbatn.
Bài 2. Loạt bài về lăng mộ hoàng gia thời Nguyễn tại Huế.
Xin theo dõi tiếp bài 3. Cảm ơn các bạn đã theo dõi. Thân ái. dienbatn.