Phú luận về Kinh Dịch
Người Việt ai cũng nghe nói tới Kinh Dịch? Một triết học cổ Phương Đông. Nguyễn Thiếu Dũng cho rằng vị sứ giả hiển hiện trên trống đồng thuần Việt. Theo Ngô Tất Tố biên khảo dịch từ sách Tàu- thì Kinh Dịch có từ Phục Hy (thủy tổ giống người da vàng phương Nam) cách nay hàng vạn năm..(?) sau đến Tây Chu (bên Tàu)- khoảng 1100 năm TrCN, Vua Văn Vương mới đặt tên Quẻ- chua ý Quẻ: gọi là Thoán, đến Chu Công (con trai Văn Vương) lại viết thêm ý hào từ... Tiếp đến KhổngTử (551-trCN, nước Lỗ) lại soạn ra 6 thứ: tượng, văn, hệ, thuyết, tự, tạp (+quái)... Người Trung Quốc đã phát triển Kinh Dịch và dụng để Chiêm sự thế theo cách “bói dịch” (tức suy đoán) còn cách dụng như thế nào bớt “tùy biện” đi, thì không có sách nào chỉ một cách tường tận hoặc cố định. Cho nên chỉ cần hai kí ngôn vạch-chấm (dương- âm) mà có thể viết và luận bình ra thiên kinh vạn quyển, rất thú lạ! Bàn về nguồn gốc thì cứ nói thuộc Trung Quốc, nhưng “xét về biến cố lịch sử và hình tích Văn hóa Đông Sơn” thì ta thấy có lẽ xuất xứ gốc Kinh Dịch là của Việt Nam từ thời Hồng Bàng mà Kinh Dịch là bảo khí của Kinh Dương Vương- Càn chi- thủy tổ Việt- Ngài húy là Lộc Tục, anh của Lộc Linh, vốn có tài biến hóa, không tham đất rộng, nhường cho Lộc Linh làm vua phương Bắc, còn mình chỉ làm Vua phương Nam từ Động Đình Hồ dọc Trường Giang trở xuống... (PVH).
“Gẫm” trong Sấm vọng lưu truyền
lần theo con tạo gắng tìm tuệ kinh
“Cửu thiên”(1) sáng rạng cung đình
“Nhật hồng ”(1) sao lại minh minh mù mù
“Cơ trời lâm trận mê đồ” (2),
khốn thay non Việt dị hồ ngửa nghiêng?
**
mấy ai“xét” việc thiên niên
mà không sử sách khui tìm thiện căn
mấy ai hóa giải kiến văn
mà không kiến giải lê dân bụi lầm
dạy rằng “ôn cố tri tân” (3)
nhìn xa thửa lối... nhìn gần thửa đi...
ví như tiếng vọng ầm ì...
chân trời mây phủ liệu thì bão giông..?
ví như mưa gió bịt bùng
nắng xiên... ắt có cầu vồng thất tinh..?
phút giây vẫn bảo là nhanh
triệu năm một khắc vô tình bỏ qua..?
chẳng ai không trẻ đã già
âm dương thái dịch sinh ra trạng hình...
**
mới hay chung? thỉ? ngọn? ngành?
mà nên Bát Quái- Dịch Kinh lưu truyền
đã nghe luận giải thì- phen
ngọn nguồn Kinh Dịch vẫn tìm chưa ra
rằng Kinh Dịch của Trung Hoa
nhưng sao gốc tích lại là Việt Nam?
đem ra kiến giải luận bàn...
tưởng như vớt giải khói loang lam chiều?
nghiêng ly cụng cốc vèo vèo
bao năm trắc dịch suy siêu lạc loài
tầm nhìn đích ngắm đà sai
một ly một dặm chệch ngoài biển xa?
Có gì phân biệt tàu ta
lấy gì để nói của nhà thửa nên?
chiều tà phủ bóng đêm đen
còn kia Chim Lạc lộ then Rồng Vàng!
**
“Nước non từ thuở Hồng Bàng
bể dâu cuộc thế giang sang đổi vần
Trải Đinh Lê Lý Trần giữ nước...
đã bao lần ngôi nước đổi thay
Núi sông Thiên định đặt bày
Đồ thư một quyển xem nay mới rành
Hòa đao mộc lạc, thập bát tử thành”(4)
**
lật trang sử chiến dã tranh
mấy ngàn năm trước tung hoành ra sao?
Cho hay sóng vỗ ba đào
màn thâm sơn thủy thấp cao lại về...
Đông Nam Tây Bắc phân kỳ
Quốc gia sinh? diệt? quần nghi “dê đàn”...
một Tần khởi đất Hàm Dương
giới biên ngót triệu kilô- vuông Sở Hùng
kiếm côn bá đạo bão giông
tính kiêm sáu nước(5) vẫy vùng dọc ngang
lập ra Hoa Lục Trung Nguyên
trải bao triều đại thay quyền đọat ngôi
ngàn năm bành trướng chuyển rời
mà nay rộng lớn gấp mười lần hơn!?
nghề ăn cướp được suy tôn?
ấy nghề ăn cướp chiếm chôm đất- người..!
ngỡ câu khái quát nực cười
mà là sự thực muôn đời đẻ ra...
thưa rằng văn minh Trung Hoa?
thì văn minh ấy chỉ là... lăng xâm!
(bây giờ là một Trung Quốc ngót 10 triệu km2, dân số~ 1,3tỷ, hiểu rằng: xưa quen bá đạo đồ vương, anh hùng gây cảnh chiến trường mà nên; mấy ai hiểu được căn nguyên, phải là: dân ý- nhân quyền- tự do!)
**
lại xem đất Việt người Nam
địa danh Lưỡng Quảng Giang Nam có thừa?
hơn ba triệu kilô-vuông xưa
bao phen loạn lạc gió mưa hoành hành
ngàn năm chống chọi Bắc xâm
cụm về cố thủ Cửu Chân- Tống Bình(6)
xưng danh con Lạc cháu Hồng
mười lần nhỏ lại muôn phần xót xa?
(nay chỉ là một Việt Nam hơn 300 ngàn km2 đất, dân số 80 triệu)
thời gian chẳng trẻ chẳng già
vẫn còn khói lửa trên toà Luy Lâu(7)
hỏi ai? Ai? cướp của nhau
cảo văn? thư khố? ...ngọc châu ai giành?
cướp của người làm của mình
vốn nghề xâm lược đã thành thói quen...
tài năng cẩm tú thì- phen
còng tay- khóa- trói bắt đem công triều
thông tin bịt miệng đủ điều
cướp cướp? mất mất? bấy nhiêu phũ phàng..?
Ví như cung điện Thiên An(8)
của người Nam Việt Đình làng chế ra...
miệng đời nói ấy Trung hoa
sao không biết nói của ta đình làng?
trống đồng ta đánh lừng vang
làm sao chống được bạo tàn lắm phen
cho nên Nam Bắc trắng đen?
Kẻ quen ăn cướp... Người quen chạy dài...
ngàn năm xưa- dám nói sai?
chứng nhân- chứng vật- hình hài huyết chi..!?
giặc vào lấy hết... đem đi...
Dịch Kinh- Quốc Bảo nghiệm suy cũng là...
**
Than ôi khí vận yên hà!
hồn xửa trắc ẩn thấm xa muôn trùng
Tàng thư Nam Việt rỗng không
chỉ còn khắc quẻ trống đồng(9) làm tin...
đầu Càn “hanh lợi nguyên trinh”
Lý Càn- Nhân- Cách(10) dưỡng sinh giống nòi
ngữ ngôn “vật khí” thay lời
Đồng nhân quây lấy mặt trời đúng tâm
biểu nghi Chấm- Vạch(11) làm vần
“thụ căn diểu diểu” dương âm lập trình
cơ quyền còn chút kiện hanh
tự tôn mười tám bản danh công đường
Càn Vương tức Kinh Dương Vương
chữ đầu tiên khởi cội nguồn nước Nam
Cách nay hơn: năm ngàn năm..?
là người biến hóa tiếng tăm lẫy lừng
Khảm Vương là Lạc Long Quân
thuận hành bát quái... thuộc vần cửu cung
lại xưng... Giáp Ất... đủ vòng...
làm thành mười tám đời Hùng(12) nối nhau...
(Lần lượt <8tự quái>: Càn Vương, Khảm Vương, Cấn Vương, Chấn Vương, Tốn Vương, Ly Vương, Khôn Vương, Đoài Vương...
<10 thiên can>:Giáp Vương, Ất Vương, Bính Vương, Đinh Vương, Mậu Vương, Kỷ Vương, Canh Vương,Tân Vương, Nhâm Vương, Quý Vương)
thần cơ dịch số cơ màu
“sa phù dĩ chỉ” đời sau chớ lầm...
Rõ ràng “mộc biểu thanh thanh”
“Thập bát tử thành”(18) tiên tổ đã gieo?
“Toàn thư sử ký” (13) cũng nêu
“Đông A nhập địa”... gặp nhiều tai ương!
cho hay khí dịch đoạn trường
phải chờ “ma quỷ dọn đường” (14) loé ra..?
**
Xem thêm dã sử nước nhà
“Lĩnh Nam chích quái” (15) truyền qua miệng đời
dân man hay bị lọc lòi
quỷ ma xâm hại buông lời rủ rê
Long Quân thường phải trở về
cứu dàn con dại trăm bề khốn nguy
diệt xương cuồng diệt hồ ly(16)...
nạn từ phương Bắc chi chi... thực thà...
**
ngàn năm xưa ngỡ rất xa
chẳng qua khép lại bóng qua một ngày
luận thời ai biết ai hay
tháng năm con cháu ngày rày đã quên..!
văn nhân sĩ tử mọi miền
hãy đem chớp mắt nối liền ngàn năm
mới hay Kinh Dịch trữ tàng
gốc từ bảo khí Hồng Bàng Rồng Tiên!?
(Lys.T.T)*
Chú thích: (1)Nguyên văn Sấm Trạng: “Sáng cửu thiên ám vầng hồng nhật”-trên trời sáng mà trần gian hàng ngày sao tối tăm thế!; (2)Sấm Trạng: ý nói trời mở cơ làm thiên hạ mù mịt, không rõ lối mà đi, người dân như lâm vào mê cung; (3)Lời dạy của Khổng Tử :“ôn cố tri tân, khả dĩ vi sư”: thông hiểu sử sách, việc cũ để biết cách thức hệ quả... nên làm thời nay, việc mới ra sao? thì có thể làm thày; (4)Một đoạn mở đầu trong một bài Sấm Trạng Trình; (5)Năm 221TrCN Tần Thủy Hoàng kiêm tính 6 nước gồm: Sở, Tề, Triệu, Ngụy, Hàn, Yên- thống nhất Trung Quốc quy mô khoảng gần 4 triệukm2; (6)Cửu Chân chỉ Thanh Nghệ ngày nay;Tống Bình chỉ đất Hà Nội tên gọi thời cổ khoảng năm 800 TrCN; (7) Luy Lâu tên cổ chỉ Bắc Ninh ngày nay; (8)Cung điện lớn nhất của Trung Quốc xây dựng vào thời Minh khoảng thế kỷ XIV, do Nguyễn An- một thợ cả tài hoa của Việt Nam bị giặc Minh bắt- ông làm tổng công trình sư thiết kế và xây dựng; (9)Bát Quái được cho là đã khắc trên trống đồng Ngọc Lũ- Hoàng Hạ thuộc văn hoá Đông Sơn Việt Nam, các nhà khảo cổ tìm được ở Thanh Hoá, đồng bằng Bắc Bộ; (10) Trên trống đồng có khắc các quẻ Thuần Càn, Đồng Nhân, Cách- đúng như nhà NC Nguyễn Thiếu Dũng xác định; (11)Thực chất ký quái đầu tiên là Chấm và Vạch, biểu nghi hai khí Âm- Dương, khi viết nhuận tay hơn, nhưng sau này người ta (có thể là Văn Vương) thấy nét chấm dễ bị mờ khuyết, mới đổi chấm sang vạch đứt; (12)Theo phả tịch Đền Hùng còn ghi đến nay đủ 8quái và 10thiên can; (13)Sử ký toàn thư của Ngô Sĩ Liên, viết vào thời Lê Thánh Tông (1460-1497); (14)Sấm Trạng Trình nguyên văn “trời sinh lũ quỷ dọn đường, để cho thánh xuất khảm phương sau này”; (15)Lĩnh Nam chích quái: truyện cổ dân gian Việt Nam tác giả là Nguyễn Qùynh và Kiều Phú biên soạn vào thế kỷ XV có viết “Than ôi! Lĩnh Nam liệt truyện có phải chỉ riêng khắc vào đá, viết vào tre, mới là quí hơn bia miệng đâu? từ đứa trẻ hoi sữa đến cụ già bạc tóc, đều truyền tụng để tỏ lòng yêu dấu, để tỏ ý chê trách thì tất là có quan hệ tới cương thường phong hóa..!”; (16)Truyện xương cuồng tức là Mộc tinh, Hồ ly tinh, Ngư tinh, là những truyện trong Lĩnh Nam nói về công lao của thuỷ tổ Việt Nam (Lys.T.T)./.
Truyện phụ thêm:
Đã từ lâu, nhiều người cứ băn khoăn về câu hỏi tại sao xưa các “bậc Nam kiệt” cứ gọi người phương bắc, các “bậc hảo Hán” tức người Tàu là “Các chú”- lúc sẵng giọng thì “ôi dào! bọn các chú” có nơi chuyển âm thành “cắc chú”, chê họ thâm hiểm; Lại nhớ rằng hồi nhỏ nghe các vị túc nho rành rọt chữ nghĩa kể về chuyền tiên tổ Hồng Bàng mới biết rằng sở dĩ gọi như vậy là vì người Nam và người Bắc vốn tổ tiên xưa cũng là anh em, mà người Việt là anh và người Tàu là em đích thị. Cụ thể là cháu ba đời của Viêm Đế- Thần Nông theo lệnh trời, và cha mình làm Vua toàn cõi, khai sinh loài người, theo lời cha dặn dạy giống người da vàng phương đông trồng lúa- Ngài Biểu danh là Đế Minh. Ngài lấy bà Vụ Tiên- một vị nữ tiên ở thượng giới, sinh được hai người con trai, lớn là Lộc Tục, nhỏ là Lộc Linh. Khi già về trời, Đế Minh định truyền ngôi cho con trưởng là Lộc Tục, làm vua phương Bắc, cho Lộc Linh làm vua phương Nam . Nhưng Lộc Tục nói với cha, phương Nam nóng nực, có nhiều chướng khí, đất đai hẹp hơn, dân sự ít lại ham chơi, xin nhận khó khăn làm vua thay em, để Lộc Linh kế ngôi ở phương Bắc, đất đai rộng lớn, dân sự phồn thịnh hơn, thuận tiện cho em hơn. Đế minh cho là người nhân hậu, ngài chấp nhận. Sau đó Lộc Linh lên ngôi làm vua phương bắc, trông coi từ tả ngạn sông Trường Giang trở lên, lấy hiệu là Đế Nghi. Lộc Tục làm vua phương Nam, từ hữu ngạn sông Trường Giang trở xuống, thủ phủ ở Động Đình Hồ, lấy hiệu là Kinh Dương Vương, Miếu hiệu là Càn vương, Ngài hay đi đây đó, sống rất phóng túng, biến hóa không biết đâu mà lường. Ngài lấy con gái Thần Long Động Đình hồ mà sinh ra Sùng Lãm, Lãm kế ngôi, tự xưng là Lạc Long Quân, tài giỏi như cha, đi dưới nước như đi trên cạn, Miếu hiệu là Khảm vương... nghi biểu theo quái dịch. Sau Lạc Long Quân lấy con gái Thần Núi Đế Lai là bà Âu Cơ sinh ra cái bọc trăm trứng nở ra trăm người con trai... là tổ tiên người thuần Việt ngày nay...
Nhiều lần tôi kể lại và giải thích cho mọi người nghe, cố tìm trong sách để dẫn, nhưng các sách thông sử thời nay viết về Hồng Bàng thị lại nói, Lộc Tục là em, Đế Nghi là anh? thậm chí không có cả cái tên “Lộc Linh”. Sách “Lĩnh Nam chích quái” xuất bản 1990- nhà xuất bản văn học, cũng nói vậy! tôi cứ băn khoăn mãi!.. Tết 2010, đi du xuân, thắp hương Đền Hùng, tôi mua quyển “truyền thuyết Hùng Vương- thần thoại vùng đất Tổ” do Vũ Kim Biên sưu tầm biên soạn, xuất bản 2008, tôi thấy câu chuyện trở lại đúng với truyện hồi nhỏ tôi được nghe... Vậy là hơn 50 năm mới thấy mình không phải là ốc xạo với bạn bè con cháu. Ôi! Dã sử vẫn có giá trị ở chỗ đó! thiện tai, nam mô phật!.
(PVH)
Bài chiêm soạn cho năm 2012-1013
Kiến trúc sư Phạm vũ Hội
Xưởng kiến trúc tạo hình Hải Phòng
Thân gửi: Ông Bùi Quốc Hùng- Bút danh DIENBATN
Trung tâm Nghiên cứu Lý học Đông Phương
Bài chiêm để đăng tải về nghiệm lý Sấm Ký Trạng Trình
(tiếp tục với hư thực muôn đời 1-2)
(E-mail: dienbatn@yahoo.com)
Nhâm Thìn diễn nghĩa- 2012
1-Thiên tượng
Gập ghềnh muôn thác vượt lên, chọn thì “lợi thiệp đại xuyên”vu tòng
Rồng bay “bảy sắc” cầu vồng, lấy nước “bối pháp” chiêu dòng trường xa
thiện phùng nhân nghĩa bước ra, để xua quỷ quái yêu ma hại người
“đoài phương phúc địa” sáng soi, âm dương tiêu tức đất trời chuyển xoay
chấn cung khói bụi giăng đầy, “giang hồ sử sĩ” điều ngay hiệp bàn
khảm nghi quy tử quy hàng, “nắm cơm bầu nước” tỉnh tang dần dần
bui lòng hanh chuộng quyền nhân, đạo trong thiên hạ thăng trầm tự nhiên
2-Nhân sự
loạn ru bởi vẫn cuồng điên, trùng lai hiểm dã dược tiên trị đời
tự do dĩ đạo làm người, cộng sinh dĩ đạo ông tôi nhân quyền
“báo thù báo phục” đã phen, “non xanh căng trắng” chuân chuyên đã nhiều
“đồng khô hồ cạn” họa thiêu, “lông chìm đá nổi” bao điều lạ tai
ầm ào đạn súng trong ngoài, nước sôi lửa bỏng giêng hai dập dồn
bốn năm sáu bảy ta ương, “thần quy cơ nỗ” khôn lường hiểm nguy
“ba ngày trói” chặn đường đường đi, cháy nhà ra ngõ đông kỳ thoát thân
3-Thiên tặc
Phong lôi chuyển động canh luân, nóng khô trộn với mưa dầm thối thây
Phát ban cảm sốt chầy chầy, cấn khôn phân vị bão dây tuyết dồn
chấn cung bốc lửa đạo ôn, cây khô lá héo người còm đói ăn
hai ba cứu giúp nhì nhằng, vận thì sóng quật đất quăng chẳng thường
bởi đâu mà lắm tai ương, bởi chưng hút sạch “huyết tương địa cầu?”
“đến thời thịnh vượng còn lâu?” hiểu rằng “tam hợp chia sau” ắt là!
-Chiêm lịch 2012- Nhâm Thìn
Stt Ngày tháng
Dương lịch Biến cố
Binh cách Biến cố
Ngũ tặc Phương vị(+/-3ngày)
1 23-1
17-2*
13-3 Căng thẳng chiến sự
Chiến sự-......
Bùng nổ.... Bệnh dịch khí
Gió bão.....
động đất đông-Nam
Nam
Tây bắc- tây
2 21-4*
26-6 Hoà hoãn....Hội họp....
Xung đột... động đất....
lũ lụt.. mưa gió.. đông bắc
đông Nam
3 22-7*
17-8 Binh cách....Chiến sự......
Chiến sự...... Nóng nực khô hanh
cuồng phong tây bắc
đông
4 11-9*
6-10 Binh lửa
Hội họp- căng thẳng...
Hòa hoãn... dich bệnh thời khí
hạn nóng
mưa lũ tây nam
nam
tây bắc
5 14-11*
20-12 Hoà hoãn hội họp
Chiến sự
............ lũ lụt sụt lở
động đất
sóng thần tây bắc
đông nam
nam
6 15-1-2013*
10-2-2013 Chiến sự- binh nổ
------------
------------ mưa bão
dịch bệnh tây bắc
tây nam
Phạm Vũ Hội-14-12-2009
(28-10 Kỷ Sửu)
Quý tỵ diễn nghĩa- 2013
1-Thiên tượng
thói đâu thệ thói đàn bà, “nữ công thực bắc” lại là đàn ông
trời lùa kể cũng bất công, làm cho lộn ngược cửu trùng mà cam
chỉ quen học nói học bàn, ít cảnh lam làm, lắm cảnh ba hoa
chừng con rắn nước bò ra, quay đầu lột xác quả là khốn nguy
“tượng trời gia trước” nhiều khi, “đã đàn cửu khúc còn thi thơ đề”
đến thời ích lý u mê, anh hùng quyết quyết đường về gặp cha
“xà đầu long vĩ” chuyển qua, ngựa hồng bảy sắc nhảy ra trình làng...
2-Nhân sự
năm dương vượng khí dâng tràn, một âm thượng lục bẽ bàng nãi chung
nhìn lên bắc khí thuần hung, “đại lai tiểu vãng” nhịp cùng thế gian
giêng hai súng nổ đôi đàng, “một còn... hai mất” ngón đàn thực chi
càn khôn “chính vị phân kỳ”, ba tư năm sáu ngược đi xuôi về
chấn ly hiệp hội địa kê, “trùng hưng dĩ bốc bên lề mã giang”
phím trầm tích tịch tình tang, thiên cầm mượn gió so hàng vũ văn
hết thời “nhị ngũ nhị phân”, “đông tàn tây bại” chắp vần họa tai...
3-Thiên tặc
đông phương gió lửa ra bài, nóng khô năm trước kéo dài năm sau
khí trì- dịch bệnh ốm đau, làm cho nhức trán tê đầu rối ren
hỏa thiên hỏa địa hạo nhiên, núi rung đất sập bể chìm sóng reo
đói ăn thiên hạ bao nghèo, thần cơ lặp lại những điều nghĩa nhân
đoài phương tuyết dải mưa dầm, thành trì có lúc tối tăm mịt mù
tứ phương khốc nạn ngoạn du, họa vô đơn chí linh phù tái biên
-Chiêm lịch 2013- Quý Tỵ
Stt Ngày tháng
Dương lịch Biến cố
Binh cách Biến cố
Ngũ tặc Phương vị(+/-3ngày)
1 10-2
13-3*
14-4 Binh cách
chiến sự
bùng nổ Bệnh dịch khí
khô nóng
đông nam
nam
2 14-5*
14-6 Binh lửa...
xung đột lũ lụt- động đất
gió lốc... nóng đông bắc
đông nam
3 16-7*
16-8 Binh cách...
.…chiến sự bão lụt- động đất
gió lốc- nóng hạn tây bắc
đông
4 16-9*
18-10 Binh lửa...
hội họp dịch bệnh khí
gió lốc- mưa lũ tây nam
đông nam- đông
5 18-11*
19-12 ....chiến sự
lũ lụt sụt lở
động đ ất sóng thần bắc- tây bắc
đông bắc
6 09-1-2014*
30-1-2014 ....chiến sự
động đất
dịch bệnh tây bắc
đông nam
Phạm Vũ Hội-14-12-2009
(28-10 Kỷ Sửu)
Phạm Vũ Hội có thơ chiêm rằng:
À.. ơ!
chừng ai qua đất Thương Khâu(1)
xuôi về Đông Hải(2) nhắc nhau đôi lời
mênh mông biển cả đầy vơi
dây văn dây vũ... rạch ròi đã quen...
hóa phong thắm đỏ hoa đèn
thiên cơ dịch khí mọi miền đã gieo
bão giông ai vững tay chèo
“đáo tầm sử địa...”(3) căng lèo thửa nên...
“đế cư định tại thư thiên” (4)
sơn hà xã tắc tổ tiên khơi dòng...
vẫn thì núi Tản non Nùng(5)
mười tám Đời Hùng cháu cháu con con...
chữ rằng: non nước nước non
tổ tiên tiên tổ(6)...mãi còn dài lâu
À ơ!
dù ai buôn đâu bán đâu
đến ngày giỗ Tổ bảo nhau mà về(7)
dù ai vàng ngãi bộn bề
nhớ cha nớ mẹ mau về hỡi con..!
À.. ơ!
“nó lú thì chú nó khôn” (8)
một vầng sinh thái vẫn luôn tươi nhuần
“nguyên hanh trinh lỵ” (9) - dụng tâm
“trí tri cách vật” (10) hồi lần mới ra
chừng ai dấy loạn can qua?
chừng ai quấy đảo sơn hà đòi phen?
hải hồ sửa cấy giáp tên
cơ quyền lắm bận chinh yên đã từng(11)...
À.. ơ!
vang vang ấy tiếng trống đồng
âm âm ấy tiếng binh nhung dậy trời
“tốn” cung ấy chốn à ơi...
từng phen triệt phá chôn vùi bóng “khôn”
quái trời nắng gió tròn vuông
“tốn khôn” (12) ngũ quỷ chuyện buồn lắm thay!
mấy phen mặt dạn mày dày
hùng binh xâm phạm thửa ngay bóng chồn(13)
bon chân ngựa đá tung bờm
Kim Âu non Việt phú thơm để đời(14)
bằng chừ! chén rượu làm vui
chả chi thù tạc dập vùi mà thương!
ừng nên bá đạo đồ vương
thửa sinh cái nết chết trương chẳng chừa(15)...
biển Đông vốn vẫn biển xưa
dịch Nam khí Bắc gió lùa vẫn Nguyên(16)
ngõ hầu từ thuở tiên thiên
một vùng Đông Á nghề riêng cũng từng...
cờ đi xe chạy thì hung
anh hùng lại nẩy anh hùng thì phen...
chỉ buồn con đỏ con đen(17)
nghiêng trời lệch đất nổi chìm khốn thay
xanh kia thăm thẳm cao dầy
cuồng phong chiến nọ trận này vấn vương
À.. ơ!
rày ai gây cảnh chiến trường
người thua kẻ thắng mối giường lặng đau(18)
ngàn năm trước ngàn năm sau
vẫn là hai tiếng: hây tàu..! hầy ta..!
vẫn là Trác Việt- Lục Hoa(19)
vẫn là khí mạch sơn hà rạch ngang...
hỏi ai thấu lý Khôn Càn(20)
cát hung phù dịch mênh mang cõi trời
chỉ khi nhắm mắt lìa đời
mới hay thiên mệnh vận thời song song...
“kê lai hầu đáo...” (21) thửa chưng
“chính kỳ phân vị... ” (21) cũng mong rõ ràng...
nhắn ai uống nước nhớ nguồn
“nuôi ong tay áo” (22) thì buồn lắm thay!
“cáo trong nhà” (23) đấy vẫn đây
sát trăm năm cũ chửa hay cũng đành
“ưng phòng hậu họa...” (24) phù kinh
lời truyền nhắn nhủ hư danh chớ màng
À.. ơ !
“nước non từ thuở Hồng Bàng
bể dâu cuộc thế...” (25) tính toan cũng nhiều
cũng nhiều cũng bấy cũng nhiêu
Bắc Nam chiến họa... ai điều họa ai?
Sấm rằng:
“Nước Nam thường có thánh tài(26)...
Sơn hà vững đặt mấy ai tỏ tường
Kìa Nhị Thủy(27) nọ Đao Sơn(28)...
Bãi Ngọc(29) đất nổi Âu Vàng(30) trời cho...
Học cách vật(31) mới dò tới chốn...
chép ghi làm một bổn xem chơi
muôn việc cũng bởi tại trời
suy thông mới thấy sự đời nhường bao!”
(P.V.H)
Chú thích: (1)-Thương Khâu- một địa danh ở nước Lỗ (TQ) 770-450 tr.CN, thời Xuân Thu, nay thuộc đất Trịnh Châu. (2)- Đông Hải- tức Biển Đông thuộc Việt Nam ngày nay, trước gồm cả đảo Hải Nam từ thời Triệu Đà Lập nước Nam Việt- xưng Nam Việt Vũ Vương 207trCN, thời Tần Nhị Thế gồm cả vùng Lĩnh Nam. (3)- Sấm Trạng nguyên văn: “hữu tình hữu thủy thực chi danh, mã ngưu chi tuế thị rành rành, can qua trư thử giang đông xuất, đáo tầm sử địa ngộ minh quân- 有 情 有 始 食 之 名.馬 牛 之 歲 視 伶 伶.干 戈 豬 鼠 江 東 出.到 尋 史 地 悟 明 君- hiểu rằng có tình có nghĩa đó là chính danh, tức có nguồn cơn thì ai ai cũng đã biết; từ năm 2002 tới 2009 đã bắt đầu đôi co thấy rõ, can qua 2007- 2008 chiến tranh xuất hiện (giữa VN và TQ về biển Đông)- chỉ có ngược dòng lịch sử mới phân định được trắng đen phải trái vững chủ quyền minh quân sáng suốt (4)- Nguyên văn: “Nam quốc sơn hà Nam Đế cư, hiệt nhiên phân định tại thiên thư, như hà nghịch lỗ lai xâm phạm, nhữ đẳng hành khan thủ bại hư- 南國山河南帝居.頁然分定在天姐 .如何逆鹵來侵犯 .女等行看守敗噓-Là tuyên ngôn đầu tiên của Việt Nam, được cho là của Lý Thương Kiệt, một danh tướng thời Lý (1010-1225). (5)- Núi Tản tức núi Tản Viên có thờ Thần Tản Viên một thượng đẳng thần khai sinh nước Việt- ngài tên thực là Nguyễn Tuấn cũng tức là Sơn Tinh; non Nùng là đất Hà Nội ngày nay. (6)- Lấy ý từ câu đối của nhà thơ Tản Đà “Tiên tổ tổ tiên tiên tổ cũ; nước non non nước nước non nhà” dâng lên Đền Hùng nhắn nhủ rằng:
tiên tổ nước non là một sự thống nhất có ngọn nguồn. (7)- Nguyên văn: ca dao “dù ai đi ngược về xuôi, nhớ về giỗ Tổ mồng mười tháng ba, dù ai buôn bán đâu xa, nhớ về giỗ Tổ tháng ba mồng mười. (8)- Ngạn ngữ Việt: ý nói người này có kém cỏi bất tài nhưng còn người khác chẳng kém cỏi như thế! Anh kém thì... em chăng? Già kém... thì trẻ chăng? (9)- Chỉ “tính dịch” của quẻ Càn nguyên văn: “Càn, nguyên hanh lỵ trinh- 乾元亨利貞“ quẻ đầu tiên trong bát quái (quái cũng gọi là quẻ). (10)- hai điều trong tám điều (bát mục tam cương) do Đức Khổng Tử nêu dạy, mà con người cần nắm bắt tự tu; Trí tri: là sự biết và sự hiểu đến cùng tận; Cách vật: là nắm được quá trìng vận động, trạng thái sự khởi đầu và kết thúc của muôn vật muôn
việc... (11)- Nước Việt Nam từ khởi Tổ Kinh Dương Vương- Lạc Long Quân nhiều phen chống xâm lược đếu chủ yếu họa từ phương Bắc, khí Bắc nhưng gặp dịch Nam đều được hóa giải. (12)- Tốn, cư cung của Việt Nam, Khôn, cư cung của Hán Hoa, theo quái dịch Tốn- Khôn sinh ngũ quỷ, Tốn hoá giải được Khôn nhưng hay bị Khôn làm hại... Lịch sử minh chứng từ xưa y mực hệt. Người Trung Quốc xân lược phương Đông phương Nam thì không thể vững, Asean đoàn kết có thể đánh bại các ý đồ bất thiện của Trung quốc muốn bá chủ bá quyền, muốn biến các nước nhỏ thành sân trước sân sau của mình. (13)- Giặc phương Bắc kéo xuống phương Nam thường bị đánh và bỏ chạy. (14)- Thửa ý theo câu thơ của Vua Trần Nhân Tông “Xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã, sơn hà thiên cổ điện kim âu- 社則兩回勞石馬.山河千古殿 金甌”. (15)- Các nhà cầm quyền Trung Quốc hiện nay chủ trương bá đạo trong thời kỳ mới với một nền kinh tế và quân sự hùng mạnh trong điều kiện cực quyền với từ ngữ che đậy “trỗi dậy hòa bình” sẽ là một sai lầm dẫn tới phát xít hóa làm hại chính dân tộc minh. (16)- khí lạnh từ phương bắc “địa khí” tràn xuống phương nam gặp khí nóng “thiên khí” hóa dịch bệnh, chủ họa hại hủy diệt, biến ngẫu. (17)- Con đỏ con đen: ám chỉ lê dân, bách tính, trăm họ, trong sự trói trịt của pháp trị cực quyền. (18)-người dân bị kẻ cầm quyền ra lệnh, như đàn dê theo con đầu đàn. Sấm dạy: “dê đi dê lại tuồn luồn, đàn đi nó cũng một muôn phù trì” vì thế đi xâm lược nước người rất vô lý mà vẫn đi? sinh ra người thua kẻ thắng, tạo thành thù hận, khi chưa có dân quyền tự do nên khó hóa giải, phản đối thì bị truy chụp, làm mất thiện khí và đau lòng người. (19)- Chỉ dân tộc Việt Nam và Trung Hoa. (20)- Lý Học xuất từ Càn Khôn: “Càn nãi thiên chi thống, Khôn nãi thuận vi thiên- 乾乃天之統.坤乃 順 為天“: phương tây ứng Càn, phương đông ứng Khôn. Hãy hiểu ra rằng: phương đông mà thuận với phương tây sẽ làm được cái việc sinh khí ở thế gian, thái bình thịnh trị, thế giới sẽ mau mắn (như người vợ theo người chồng, âm theo dương) ngược lại sẽ tranh hành loạn lạc mà lịch sử đã hiển hiện xưa nay rất rõ- đây là bí mật thiên cơ- độn thấy rằng: nay có thể nói ra được!. Dịch nói: Càn: nguyên hanh lỵ trinh, Khôn: nguyên hanh, lỵ tẫn mã chi trinh- 乾:元亨利貞-坤:元亨.利牝馬之貞“- Cho nên phương tây (và một phần cực bắc) luôn đi đầu trong khoa học kỹ thuật phát minh sáng chế, làm ra máy móc, thiết bị, ánh sáng, linh kiện điiện tử ứng dụng... vân vân... phương đông chỉ học theo (cả ăn cắp, bắt chước...) mà làm thì có thể khéo léo hơn, lịch sử cũng đã chứng minh y mực hệt (như TQ ngày nay là đại công xưởng của TG); đủ cơ sở minh giải cho cuộc tranh luận gần đây trong giới báo chí hỏi rằng tại sao Trung Quốc chi ra nhiều tiền cho khoa học kỹ thuật mà ít có phát minh đủ tầm của trao giải Nobel. Minh chứng: hơn 2000 người được trao giải Nobel từ giữa thế kỷ XX đến nay thì 97% là người gốc ở phương “tây- tây bắc”- chỉ 3-4% là người gốc ở phương đông, nhưng những người này cũng đã phải cư trú hoặc có môi chứng tại phương “tây- tây bắc”. Cho nên có thể nói “trái đất cũng có đầu”. Sấm Trạng Trình có câu “đoài phương phúc địa giáng linh” hoặc “người đoài ấy cũng thực tài, mà cho người sở toan bài lập công” là cái ý như thế! người đoài lài người p.tây, cũng thực tài đấy! sao ta lại xua họ đi mà để cho người phương đông toan lập công? người sở là người p.đông (ám chỉ...ai- giờ ta đều biết!)- lại dạy “hiểu xuôi cũng được ngược thời mới nên!” cũng là ý ấy cả. Ta cũng xem: thế kỷ XXI người phương đông đua nhau sang phương tây học tập rồi từ đó trở về phương đông làm cho phương đông phát triển rực rỡ- cho nên cần biết ơn phương tây và không nên cạnh tranh theo kiểu thiếu văn hóa với phương tây. (21)- Sấm Trạng nguyên văn: “hầu đáo kê lai vị chính kỳ, quốc dân hãm nịch quốc dân di, dân dã dục dĩ chu như tống, phong nghĩ tung hoành thị mạc phi, thượng huyển hạ đảo nhân vô thủ, tài tận tâm hao thế lực suy, huyết chiến dê đàn nhân huyết chiến, kham tiếu không huyền tiệm thất ky-猴 到 雞 來 位 政 旗.國 民 陷 惄 國 民 移.民 野 欲 已 朱 如 宋.蜂 蟻 鏦 珩 視 抹 誹.下 懸 上 倒 人 旡 首.才 尽 心 耗 勢 力 衰.血 戰 羝 壇 因 血 戰.堪 笑 空 弦 漸 失 箕“- tức là năm hầu qua năm kê (79-80), phân biệt mằu cờ sắc áo dân đen bị bức hãm mà di tản, nhưng là dân thì nhà chu nhà tống cũng vậy thôi! cuộc sống yên thân kiếm ăn là được;con ong cái kiến giặc giã đâu có coi trọng tiếng thị phi? mọi thứ đảo lộn dưới trên, chiến tranh tiếp tục là nguyên nhân của chiến tranh huyết chiến. nực cười cho nhân thế như cây đàn đứt giây! Thiên cơ lạc phách. (22)- Ngạn ngữ Việt khi Lê Quý Ly cướp ngôi nhà Trần mới lộ là Hồ Quý Ly mới có câu “nuôi ong tay áo nuôi cáo trong nhà”- không biết rằng âm khí nuôi dưỡng ngay trong lòng non sông đất nước. (23)- ý nói vẫn lảng vãng khí dịch phản trắc khi là cư dân nước Việt- ngược lại dân Việt vẫn cả tin, nhưng cũng là vận thời. (24)- Nguyên văn 2 câu trong một bai thơ của Trạng “trùng hưng dĩ bốc độ giang mã, hâu họa ưng phòng nhật thất khu- 重興已卜度江馬後禍 應防入七區“ ý rằng hưng dực có thể vào năm Ngọ (2014),, nhưng khí quái đã xông tận cung đình tới bảy phần!? (25)- Nguyên văn Sấm Trạng Trình “nước non từ thuở Hồng Bàng, bể dâu cuộc thế giang san đổi vần...”. (26)- Một đoạn mở đầu trong một bài Sấm Ký của Trạng Trình- biết nước Nam ta luôn có thánh tài. (27)- Nhị Thủy- là hai vùng tụ thủy của đất nước Việt Nam ta gồm đồng băng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long (mà trước nay các bậc túc nho thức giả vẫn hiểu nhầm là chỉ sông Nhị Hà tức Hồng Hà). Vậy là Trạng đã biết rõ vùng Chiêm Thành, Chân Lạp vận thế sẽ thuộc Việt Nam. (28)- Đao Sơn chính là dãy núi Trường Sơn chạy dọc tận hoành sơn như một lưỡi đao, cái xương sông của Việt Nam ta (trước nay các bậc túc nho thức giả không rõ cứ hiểu nhầm là 2 chữ Đảo Sơn rồi cho rằng Trạng nói đến đảo Côn Lôn ở phía Đông đất Nam Bộ). (29)- Bãi Ngọc- Chính là Hoàng Sa và Trường Sa gồm nhiều bãi đá ngầm ngoài khơi mà Chủ Quyền Việt Nam đã thực hiên từ thời Gia Long phục quốc. (30)- Âu Vàng chính là toàn bộ Biển Đông cùng hải đảo mà Việt Nam giữ vững chủ quyền hình anh như một cái Âu đựng nước dân ta vẫn dùng. (31)- Cách vật- đã giải thích xem mục (10), vận này hiểu ra? mới có thể “...bấy giờ quét sạch thú ly”./.
( 18/4/2010-Phạm Vũ Hội)
(Bài 2 tiếp theo kỳ trước...)
“kim kê khai lựu” là đây,
đồ rằng non nước tới ngày mát trong
ngờ đâu đục nước ngược dòng,
nào ai thoát khỏi được vòng kim cô
muông sinh có mắt như mờ,
kẻ say kẻ tỉnh bơ phờ lạ thay
hung hăng tranh cạnh ngày ngày,
“quý phương hoàng cái” từ nay thảm sầu
“thụy trình ngũ sắc” cơ màu,
thùy vi nhân nghĩa đạo đầu: dữ đương!”
“tộ truyền nhị thập” tai ương,
“ngũ diên vận khải” bất tường nhân gian
“danh vi gia tử” họ hàng,
“ngưu lang bản tính” đại gian bản thần
Đúng là “danh thế nan lường”,
“thủy trung bảo cái” chính phường sát nhân
Đúng là ma quỷ hiện hình,
tiểu nhân đắc ý lộng hành đế vương
Làn cho “bách tính tai ương”,
“can qua tranh đấu” chiến trường hồn oan
“quần gian phạm địch hung hoang”
“ma vương đại quỷ” ám tàng hoàng thiên!
Than ôi Sấm ký đã truyền,
mà sao thiên hạ mãi nhìn chẳng ra
“rừng xanh núi đỏ bao la,
đông tàn tây bại sang gà mới yên...
sửu dần thiên hạ đảo điên,
ngày nay thiên số vận niên rành rành!”
điềm trời thủy động địa sinh,
thăng trầm tới bước chuyển mình chẳng sai
sau khi hết thế chiến hai,
Pháp đã tính bài trở lại Đông Dương
đầu tiên quay lại Việt Nam ,
nhân danh kẻ thắng trong làng Đồng minh
núp sau Anh quốc điều đình,
không công nhận nước Việt minh nắm quyền
Việt Nam mở trận thư hùng,
chín năm binh lửa cuối cùng Pháp thua
“càn khôn cửu cửu” có thừa,
“thanh minh thời tiết” cũng vừa đúng niên
ngọ mùi quân “nhập Tràng An”,
“hồ binh đủ tám” sư đoàn tiến vô...
cho hay thế sự biến cơ,
từng câu Sấm ký chẳng ngờ một ly
cứ đem Sấm Trạng ra suy,
bao nhiêu sự kiện sự gì chẳng hay?
nhiễu nhương thời thế đổi thay,
thiên cơ khéo đã phơi bày cả ra
nghe lời càng thật thiết tha,
“thời trung quân tử” khuyên ta giữ mình
“âm dương cơ ngẫu ngộ sinh,
thái nhâm thái ất trong mình có hay?”
trước là giữ được điều ngay,
sau là nuôi chí chờ ngày góp công
sang giàu đố kị tham lòng,
“lưới chài đâu dễ” mà công cán gì
“đừng nên bội bạc nghịch vi”
ích gia phì kỷ dân thì khốn thay”
lời khuyên vẻ rạng đường mây,
cho ai biết lối đến ngày thửa ân...
từ ngày Trịnh- Mạc kỳ phân,
“sương sâm tuyết lạnh muông dân dập vùi”
“đàn dê tranh phá đôi nơi”,
quân thần tá sứ càng đồi hung hăng
đến khi thế kiệt lực cùng,
“kẻ ngàn Đông hải, người rừng Bắc lâm”
liên miên binh lửa cát lầm,
“kẻ nằm đầy đất người trầm đầy sông”
nhớ khi lánh nẻo đường trong,
Nguyễn Hoàng chèo chống một vùng trời Nam
đợi thời tu dựng nghiệp vương,
những mong Nghiêu Thuấn Ngu Đường có phen
bỗng đâu “sừng sực Tây sơn”
“mười bốn năm trường” sấm sét chuyển rung
nước non ngàn trận thư hùng,
vẻ xanh muốn rạng Lạc Hồng muốn nên?
chỉ trong gang tấc lâm tuyền,
“kiến nhân rời tổ... phụ nguyên” sinh hồi
bấy giờ rộng mở quy khôi,
thần châu thu cả mọi nơi vạn toàn
Hà Tiên tới Mục-Nam-Quan,
nước non một dải kim quang ngõ hầu
Gia Long ấy chẳng sai đâu,
“mặt rồng lồ lộ trên đầu chữ vương”
“thiên sinh tai lạ khác thường,
Thuấn Nghiêu là chí Cao Quang là tài”
tuất hợi “điều đỉng độ mai”,
Việt Nam là chữ so bài dài lâu...
thoắt đà tám chục năm sau,
Việt Nam lại mắc vào cầu ngoại xâm
ấy là giặc Pháp dã tâm,
từng đi xâm chiếm xa gần đất đai
đạo truyền mượn cớ vãng lai,
đường đi đã tỏ trong ngoài đông lân
đợi khi triều Nguyễn suy dần,
thừa cơ súng nổ quyền thần bó tay
thiên cơ quy nỗ vần xoay,
nước Nam lại chọi với bầy thực dân
bừng bừng kháng chiến duy tân,
độc lập dân tộc quốc dân dựng cờ
được thua ai dễ khôn dò,
lời truyền Sấm Trạng có thừa trăm năm
“ngựa hồng quỷ mới nhăn răng,
cha con dòng họ thày tăng hết thời”
truyền cho đừng lẫn sự đời
“nhện giăng lưới gạch dại thời mắc mưu”
“chín con rồng lộn” mỹ miều,
luận cho ra nhẽ rặt điều trái tai!
lại còn dắng dẻ một hai,
“cuộc tàn mới rõ rằng tàu thấp cao”
thấy Sấm từ nay chép vào,
một mảy tơ hào chẳng dám sai ngoa?”
con Hồng cháu Việt đường xa,
thịnh suy nào hiểu cho ra lối đời
đắn đo Sấm lại thêm lời
“hiểu xuôi cũng được ngược thời mới nên!”
Than ôi tạo hoá u huyền,
nào ai biết được biến thiên những là...
vả chăng mà dám nói ra,
nói ra thì bị quỷ ma tội hình
trăm năm vùi dập sinh linh,
một thiên hạ dại riêng mình ta đâu?
“chờ cho nhân doãn đến sau,
đến chừng đời ấy thấy âu nhiều nàn
trời xui những kẻ ác gian,
kiếp độc đạo thiết làm loàn có hay
vua nào tôi ấy đã bày,
trên đầu bất chính dưới nay dấy loàn”
đến khi hết lẽ khuyên can,
biết rằng chẳng được lòng càng tai tê
“thôi thôi mặc lũ thằng hề,
gió mây ta lại theo về gió mây!”
(Phạm Vũ Hội)
Chú thích:(1)-chữ”thửa”:dùng trong Sấm Trạng theo văn nghĩa cổ là làm cho mình; thí dụ: thửa cái áo mà mặc; hoặc làm cái gì cho vừa vặn:thửa đôi giày, thửa cái nhẫn; hoặc kiến giải điều gì cho đạt ý: thửa nên...thửa chăng?; hoặc so sánh: công lênh phụ mẫu thửa ấy ai bằng?;(2)-người Đoài:chỉ người ph.Tây, kẻ Sở: chỉ người ph. Đông- cách nói theo tích Đông Chu liệt quốc, vì nước Sở nằm về phía đông Bành Thành: kinh đô nước Tần;(3)-Giáp Ất Bính Đinh: là các năm1954,1955,1956,1957, Giáp Ngọ, Ất Mùi, Bính Thân, Định Dậu, chính quyền miền Bắc bắt tập trung sách dưới thời Phong kiến- Thực dân gồm chữ Tây, chữ Nho đem đốt hết, ai không nộp cất dấu thi bị bắt giam hoặc đấu tố;(4) “Hùm già lạc dấu”: Giáp Dần 1914:Thái tử nước Ấo và vợ bị mội thanh niên Bôsnia giết ở Bôsnia trong 1cuộc bạo động, người chỉ huy là một người Secbia, không liên quan đến chính phủ Secbia; nhưng Ấo lấy cớ, tuyên chiến với Secbia, Nga bênh Secbia, Đức bênh Ấo, Pháp nhảy vào cuộc, Đức tuyên chiến với Nga, Pháp; Anh hòa giải không được... diễn tiến thành Đại chiến thứ nhất (WW.I) cho nên nói là “lạc dấu khôn về”, Hùm là năm con hổ, chữ Giáp- thuộc can dương- mộc nên nói là “Hùm già”;trường hợp chữ Ất- thuộc can âm mộc, nên Ất Mão là mèo non “mèo non chí chí tìm về cố hương”;(5)-Sau WW.I- Ông Wilson Tổng Thống Hoa Kỳ đã có ý lập Hội Quốc Liên (Hội vạn quốc) nhằm bênh vực độc lập tự do cho tất cả các quốc gia, không phân biệt lớn nhỏ- chung sông hòa bình, mãi đến 1945 mới chính thức thành lập, nay là Liên Hiệp quốc.
-(PVH)
dienbatn giới thiệu .
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét