CẬN CẢNH BÙA NGẢI XỨ MƯỜNG THANH SƠN.

4/25/2011 |
CẬN CẢNH BÙA NGẢI XỨ MƯỜNG THANH SƠN.
Phóng sự bằng Video clip của dienbatn.
GIỚI THIỆU : Cách đây vài năm , dienbatn và nhà báo Hoàng Anh Sướng có thực hiện một loạt bài về " BÙA NGẢI XỨ MƯỜNG" , giới thiệu về một nét văn hóa cổ của người Mường Thanh Sơn - Phú Thọ. Trong bài viết đó , dienbatn có đề cập đến hai vị thày Mo người Mường giỏi nhất là cụ Hoàng Văn Thục và cụ Hoàng Văn Nhẻo. Nay cụ Hoàng Văn Nhẻo đã về với ông bà tổ tiên , còn lại cụ Hoàng Văn Thục. Nay dienbatn thực hiện loạt video clip   này để bạn đọc có thể thấy cận cảnh một nét văn hóa cổ xưa của người Mường Thanh Sơn - Phú Thọ.
Các bạn có thể đọc lại những bài đó theo địa chỉ sau :
Đường lên xứ Mường Thanh Sơn.
PHỎNG VẤN THÀY MO HOÀNG VĂN THỤC.

MỘT SỐ BÀI NÈM DO CÔ PHÙNG THỊ ĐÁO , con dâu thày Thục thực hiện.

MỘT SỐ LOẠI NGẢI TẠI NHÀ THÀY THỤC.



Thân ái. dienbatn.
Read more…

NHỮNG ÔNG ĐẠO VÀ SỰ HÌNH THÀNH ĐẠO MỚI Ở VIỆT NAM.BÀI 8

4/22/2011 |

NHỮNG ÔNG ĐẠO VÀ SỰ HÌNH THÀNH ĐẠO MỚI Ở VIỆT NAM

Các thời kỳ phổ hóa
1. Thời kỳ thứ nhứt.
A. Đức Phật Thầy Tây An
B. Đức Phật Trùm
2. Thời kỳ thứ hai.
Đức Bổn Sư
3. Thời kỳ thứ ba.
A. Ông Sư Vãi Bán Khoai
B. Đức Huỳnh giáo chủ

1/Đức Phật Trùm.


Phật Trùm (? - 1875) tên thật: Tà – pênh, người Việt gốc Khmer, ở ấp Sàlon, xã Lương Phi, huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang. Ông được tín đồ các giáo phái Bửu Sơn Kỳ Hương, Tứ Ân Hiếu Nghĩa, Phật giáo Hòa Hảo gọi tôn là Phật Trùm.
Đời thực lẫn huyền thoại.



Bàn thờ Phật Trùm tại nhà ở của ông khi xưa, nay thuộc ấp Sà lon, xã Lương Phi.

Phật Trùm, từ nhỏ đến lớn, sống như một người bình thường. Khi trưởng thành, ông cưới vợ và có được bốn cô con gái. Là người Việt gốc Khmer ít học, nói tiếng Việt không thạo; vậy mà vào năm 1866, sau những ngày lâm bệnh nặng đến hôn mê, ông bỗng dưng tỉnh táo và khỏe lại, tự nhận mình là hậu thân của Phật Thầy Tây An tức Đoàn Minh Huyên, là hồn Trùm của Phật (nên được tín đồ gọi tôn là Phật Trùm), theo như mấy câu sám giảng của ông còn lưu truyền:
Ở đời hạ giới yêu ma,
Phật cho Thầy xuống để mà giảng dân.
Tuy là phần xác của Miên,
Hồn Trùm của Phật xuống lên dạy đời.
Từ đấy, Phật Trùm bắt đầu giảng giáo lý toàn bằng tiếng Việt. Bà Néang-Suông xưng là cháu chắt Phật Trùm cho biết ông có để lại một cuốn kinh bằng tiếng Việt, nhưng Tà-Sao là cháu của Phật Trùm đã đem nạp cho Pháp, bởi vậy chỉ có thể biết được một phần nội dung:

Thương đời ta phải bị đày,
Phật môn vạn pháp không ngoài cái Tâm.
Hạ ngươn sanh chúng lạc lầm,
Nên đem diệu lý âm thầm độ sinh.
Tu Nhân, Học Phật khá gìn,
Long Hoa đến hội, Phật tiên đến gần...


Nhà Phật Trùm sinh sống khi xưa tại ấp Sàlon, nay trở thành nơi thờ cúng ông.

Và cũng tương tự lối hành đạo của Đoàn Minh Huyên, Phật Trùm cho phân phát “lòng phái”, trổ tài trị bệnh thật lạ thường. Người ta kể rằng Phật Trùm thường dùng đèn sáp đốt lên, bảo bịnh nhơn ngửi hơi khói mà hết bịnh, nên ông còn được gọi là Đạo Đèn.
Cái tên ấy, đã được nhắc đến trong sám giảng của ông:
Lâm san nghe tiếng Đạo Đèn,
Gần xa thiên hạ ngợi khen vô cùng.
Kẻ thời đến lãnh giấy thông,
Người thời đến lãnh phù ông đem về...


 Mộ Phật Trùm trên lưng chừng núi Sàlon, ấp Sàlon, xã Lương Phi.
Khoảng năm 1870, lúc này tín đồ người Việt theo ông đã khá đông. Thấy vậy, một số người Việt gốc Khmer trong xóm vu cáo là ông mượn chuyện đạo, chuyện trị bệnh để quy tụ, để cổ xúy nhân dân nổi loạn, nên nhà cầm quyền Pháp cho bắt giam ông rồi kết án tù đày.
Trong tù, ông chăn heo. Sau vài năm, Pháp thấy ông hiền lành, không có biểu hiện gì chống đối, nên ông được trả tự do. Về lại quê nhà, Phật Trùm tiếp tục hành đạo, có khi rao giảng đạo sang tận bên nước Campuchia.
Ngày 13 tháng 3 âm lịch năm Ất Hợi (1875), Phật Trùm viên tịch.
Hiện mộ Phật Trùm nằm lưng chừng núi Sàlon., một núi nhỏ, thấp thuộc ấp Sàlon, xã Lương Phi, huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang. Mộ không đấp nấm, theo chủ trương của giáo phái Bửu Sơn Kỳ Hương.


http://vi.wikipedia.org/wiki/Ph%E1%BA%ADt_Tr%C3%B9m

Đức Phật Trùm (1868-1875)
Nguyễn văn Hiệp (Sacramento, CA)
      Mười hai năm sau ngày Đức Phật Thầy tịch diệt, Đức Phật Trùm ra đời. Ngài tên thật là gì và sanh năm nào, chưa ai biết (có Tài liệu ghi Ngài tên là Ta-Poul hay Paul ?). Chỉ biết Ngài là người Cao Miên có vợ và bốn người con gái. Quê của Ngài ở sóc Lương Phi, núi Tà Lơn (nằm trong vùng Thất sơn, gần kinh Tám Ngàn) thuộc quận Tịnh Biên, tỉnh Châu Đốc. Năm Mậu Thìn (1868), quanh vùng Tà Lơn xảy ra bịnh ôn dịch khiến cho người ta chết vô số kể, Ngài cũng mắc phải bịnh nầy mà chết vào ban đêm nhưng có điều lạ lùng là sáng hôm sau khi người nhà định đem đi hỏa táng thì Ngài bỗng nhiên sống lại. Điều lạ kỳ nữa là khi sống lại, Ngài không còn nói được tiếng Miên mà chỉ nói ròng tiếng Việt. Sau đó, Ngài bắt đầu nói giọng nửa hư nửa thực, có người nghi ngờ hỏi thì Ngài trả lời :
-“Tuy là phần xác của Miên,
Hồn Trùm của Phật xuống lên dạy đời.”
Và “Hồn Trùm” ấy không ai khác hơn là Đức Phật Thầy như lời Ngài thố lộ :
      “Ở đời hạ giái yêu ma, 
    Phật cho Thầy xuống giáo mà chúng sanh.”
      Rõ ràng, Ngài cho biết :
“Trùm của Phật sai xuống dạy đời”.
 Vì vậy, người đời gọi Ngài là Phật Trùm. Chẳng những để dạy đời mà Ngài còn ra tay cứu độ chúng sanh bằng phương pháp huyền diệu. Khởi đầu là cứu khỏi những người đang mắc bịnh ôn dịch quanh vùng, sau đó, người ta đem đến bịnh gì Ngài cũng trị được hết. Đặc biệt, khi trị bịnh, Ngài hay dùng đèn sáp đốt lên rồi bắt bịnh nhơn ngữi hơi khói mà hết bịnh, nên Ngài còn được gọi là ông Đạo Đèn. Song song với việc chữa bịnh, Ngài bắt đầu dạy đạo, thu nhận đệ tử, phát lòng phái nên tín đồ BSKH tin rằng Đức Phật Trùm là người kế thừa Đức Phật Thầy để tiếp nối hoằng dương chánh pháp, do đó, từ khắp nơi họ ào ạt kéo về lễ bái, xin trị bịnh và qui y ngày càng đông đảo. Ngài có làm bài KỆ sau đây :
      Hạ ngươn mạt pháp khổ trời Nam,
     Thừa lịnh Phật Tôn xuống cõi phàm. 
    HỌC PHẬT TU NHÂN noi diệu pháp, 
    Long Hoa ký hội độ hiền nhân.
      Hai năm sau đó, vì thấy Ngài được nhiều người tín ngưỡng nên có một số người Cao Miên ở Xà-Tón sanh lòng ganh ghét nên đến báo cáo với quân Pháp ở Châu Đốc rằng Ngài đang chiêu mộ binh sĩ có ý khởi nghĩa Cần Vương, mưu cuộc dấy binh chống Pháp. Thế là, Ngài bị quân Pháp bắt về Châu Đốc và giam giữ.
      Theo lời của ông Nguyễn Phước Còn (còn gọi là ông Bảy Còn) ở tổng Định Hòa, (Long Xuyên) thì mặc dầu Ngài đang bị giặc Pháp giam cầm trong ngục thất nhưng người ta vẫn thấy Ngài thong thả dạo chơi ở ngoài phố chợ. Sau đó, bọn Pháp còn đem Ngài bỏ vào cũi sắt rồi liệng xuống sông nhưng Ngài vẫn không bị chết ngộp hay bắt Ngài ngồi trong đụn dầu sôi nhưng Ngài vẫn không bị chết phỏng. Cuối cùng, thực dân Pháp đem Ngài đày ra hải ngoại nhưng không ai biết là ở nơi nào (Côn Đảo hay đảo Réunion ? không tài liệu nào ghi rõ).
      Trước khi bị đày, Ngài có để lại một bài Sấm giảng nhưng bị thất lạc, chỉ còn lại mấy câu (do gia đình một tín đồ BSKH truyền miệng) như sau :
      …“Thương đời ta phải bị đày,
      Phật môn vạn pháp không ngoài cái Tâm.
     Hạ ngươn sanh chúng lạc lầm,
     Nên đem diệu lý âm thầm độ sinh. 
    Tu Nhân Học Phật khá gìn,    
 Long Hoa đến hội Phật tiên đến gần…”
      Sau một thời gian an trí, nhà chức trách Pháp thấy Ngài hiền lành, không có gì là nguy hiểm nên tha Ngài về xứ. (Có nhơn chứng tên là Quăng quê ở Long Kiến, tỉnh Long Xuyên kể lại rằng Ngài bị giam chung với tội nhơn thường phạm và lãnh phần chăn hai con heo, nơi đây, Ngài cũng bị bọn cai ngục cho uống nước cường toan (eau régale) là chất độc nhưng Ngài vẫn không chết lại mạnh khoẻ như thường.). Khi về đến Châu Đốc, Ngài được nhà cầm quyền Pháp cấp cho một cây súng hai lòng để đi săn bắn nhưng buộc Ngài phải trình diện họ mỗi tuần một lần vào sáng thứ Hai. Sau đó, Ngài trở về núi Tà-Lơn tiếp tục cứu nhơn độ thế và nhắc nhở người đời lo việc tu hành. Ngài tịch diệt ngày 21 tháng Mười một năm Ất Hợi (1875) sau bảy năm ra đời hoằng khai chánh pháp và cứu độ sanh linh.
      Trước khi tịch diệt, Ngài có cho vợ con và tín đồ biết trước rằng Ngài sẽ về cõi Phật, rồi bỏ nhà đi lên núi. Nhà cầm quyền Pháp thấy đã quá mấy ngày mà Ngài không đến trình diện nên cho người tìm bắt. Sau khi nghe nói Ngài đã tịch rồi, bọn chúng không tin nên bắt vợ con của Ngài giải về Châu Đốc, buộc Ngài phải lộ diện thì họ mới thả vợ con ra. Cuối cùng, Ngài phải trở về nhà, bảo tín đồ đóng cho một cái hòm rồi tự mình trải vào đó một cái khăn rộng và vào nằm trong đó. Sau đó, sai người đậy nắp lại cẩn thận rồi đi báo cho Pháp hay. Bọn Pháp sau khi đã khám nghiệm đủ cách, biết chắc Ngài không còn sống nên hạ lịnh đem chôn trước sự chứng kiến của họ. Tuy nhiên, một thời gian sau đó người ta vẫn thấy Ngài lảng vảng trong vùng Thất sơn.
      Ngài còn truyền lại một bổn “Sấm Giảng” khuyên người đời tu niệm và tiên đoán việc thiên cơ, trong đó có đoạn như sau :
      “Việc đời nghe cũng gần đây,
     Nghe lời Thầy dạy vậy thời ở yên.
      Rày kinh nay đã đóng biên,    
 Hai năm Tuất Hợi gần miền Phật ra.  
   Tử dân vô số Hằng hà,  
   Độc trùng ác thú đều ra hại người.  
   Phần thời giặc đánh tới nơi,    
 Phần thời giặc Trời ra hại người ta. 
    Chư hầu dấy động can qua,  
   Đến chừng thấy Phật thì còn bâu* không. 
    Loạn trong thập bát chư hầu,   
  Âm thinh ba tiếng đâu đâu cũng tàng.”
      (Viết theo quyển “Thất sơn Mầu nhiệm” của Dật Sĩ & Nguyễn văn Hầu)
         
 Chú thích :
      1/- Ngoài việc phát đèn sáp cho bịnh nhơn, Đức Phật Trùm còn phát cảbâu áo. Hễ ai là đệ tử thì được phát cho hai khuy hai nút, còn người thường thì phát cho một khuy một nút. Bâu áo nầy được bọc vải bên ngoài còn bên trong thì lót lá cây mần-dè, ngụ ý là không dè mà gặp Phật.
      2/- Bà Néang-Suông xưng là cháu chắt Đức Phật Trùm cho biết : Ngày Đức Phật Trùm tịch là 21 tháng 11 năm Ất Hợi (1875), mồ mả còn tại núi Tà-lơn, Ngài còn để lại một cuốn Kinh bằng tiếng Việt nhưng tên Tà-Sao là cháu của Ngài vì ham lợi đã đem nạp cho bọn Pháp. (Theo quyển “Nửa tháng trong miền Thất sơn” của Nguyễn văn Hầu).
 
http://tuanhieunghia.blogspot.com/2010/03/phat-trum.html

MỘT SỐ HÌNH ẢNH DIENBATN CHỤP TẠI
 ấp Sàlon, xã Lương Phi, huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang. 
 


ĐỨC PHẬT TRÙM
Điều mà ai đọc đến lịch sử Đức Phật Trùm đều phải kinh dị là trường hợp ra đời và mở đạo của Ngài không khác trường hợp của Đức Phật Thầy Tây An. Ngài vốn là một người Miên ở núi Tà Lơn vùng Xã Tón thuộc tỉnh Chấu đốc, nhưng bỗng một hôm, sau khi chết đi sống lại vì bịnh thời khí, Ngài hốt nhiên tỏ ngộ, không nói được tiếng Miên, lại nói ròng tiếng Việt. Rồi bắt đầu từ đó, Ngài phát phù trị bịnh, mở đạo giáo đời, nhứt nhứt như được Đức Phật Thầy truyền lại. Thế cũng chưa làm cho người đời ngạc nhiên bằng khi thấy Ngài cũng phát lòng phái Bửu- Sơn Kỳ- Hương. Thật là một điều kỳ diệu. Nếu không phải Đức Phật Thầy chuyển kiếp thì làm gì có trường hợp lạ lùng như thế.
Do những chỗ giống nhau ấy mà người đời quả quyết rằng: Đức Phật Trùm tức là Đức Phật Thầy tái sanh, nhiều đệ tử và tín đồ của Ngài tấp nập kéo đến. Nhân đó giáo hệ Bửu- Sơn Kỳ- Hương lại một phen mạnh truyền trong dân chúng.
Cũng như đệ tử của Đức Phật Thầy, đệ tử của Đức Phật Trùm cũng được mật truyền bí pháp và đắc pháp thần thông, trong số đó người ta được biết ông Đạo Sĩ ở Trà Kiết thuộc tỉnh Long Xuyên, ông Đạo Ớt ở Tân Lược thuộc tỉnh Cần Thơ, là những vị còn lưu lại ít nhiều tung tích và có công trong việc xây nền móng cho giáo hệ Bửu- Sơn Kỳ- Hương.
Công cuộc truyền giáo có cơ phát triển thì chẳng may Đức Phật Trùm gặp phải tai nạn. Mặc dù sau một thời gian bị đày lưu, Đức Phật Trùm được trả tự do và tiếp tục công việc cứu bịnh, qui tụ tín đồ đông như trước, nhưng về giáo hệ Bửu- Sơn Kỳ- Hương thì bắt đầu từ đó bước vào con đường khó khăn chẳng khác Phật-giáo gặp ách tam Võ (1) ở Trung Hoa.
Nên biết Đức Phật Trùm ra đời nhằm năm Mậu thìn (1868) tức là lúc quân pháp đã chiếm Nam kỳ Lục tỉnh. Các vị anh hùng ái quốc trong cuộc nổi lên gây phong trào kháng chiến Cần vương. Nào là Ngài Trương Công Định huy động nghĩa binh ở miền Đông, nào là ngài Võ Duy Dương chống Pháp ở Đồng Tháp, nào là các Ngài Nguyễn Trung Trực, Nguyễn Khoa Huân, Trần Văn Thành tức Đức Cố Quản… phát cờ khởi nghĩa ở miền Tây. Đặc biết là Ngài Nguyễn Trung Trực, kế đó Đức Cố Quản, là hai tướng lãnh kháng chiến, từng làm cho quân Pháp kinh danh khiếp sợ. Ngài Nguyễn Trung trực đã hỏa công chiếm hạm Pháp tại sông Nhựt Tảo thuộc tỉnh Tân An và hạ đồn Kiên Giang tức tỉnh Rạch Giá. Đến như Đức Cố Quản thì Ngài đã đánh nhau với Pháp ở đồng Bảy Thưa, giữa khoảng Châu đốc Long xuyên. Vả lại Ngài là đệ tử của Đức Phật Thầy có hàng vạn người làm hậu thuẫn, cho nên quân Pháp đạc biệt chú ý đến tín đồ Bửu- Sơn Kỳ- Hương. Sau khi Pháp phá tan lực lượng của Ngài vào năm 1873. quân Pháp truy nã tín đồ Bửu- Sơn Kỳ- Hương và thi hành một chánh sách khủng bố nghiệt ngã.
Chính lúc ấy, Đức Phật Trùm lại truyền mạnh giáo hệ Bửu- Sơn Kỳ- Hương, qui tụ tín đồ hàng vạn thì tránh sao cho khỏi quân Pháp nghi kỵ. Thế rồi Đức Phật Trùm bị bắt và đày đi. Bắt đầu từ đó, giáo hệ Bửu- Sơn Kỳ- Hương bước vào giai đoạn đình đốn ngưng trệ.
Nói tóm lại, giáo hệ Bửu- Sơn Kỳ- Hương từ khi Đức Phật Thầy Tây An khai sáng cho đến khi Đức Phật Trùm viên tịch, là ở vào giai đoạn thành lập xây đựng. Trong giai đoạn này, giáo hệ Bửu- Sơn Kỳ- Hương được Đức Phật Thầy và Đức Phật Trùm, cùng đệ tử của hai Ngài đặt vững cơ sở khắp nơi. Nhiều cảnh chùa đã xây dựng còn lưu lại đến ngày nay.
Mặc dù giữa Đức Phật Thầy và Đức Phật Trùm không có sự ấn chứng hay truyền y bát như hệ thống tổ , tổ tương truyền, nhưng Đức Phật Trùm cũng như bao nhiêu vị giác ngộ sau này, vẫn kế truyền và xiển dương giáo hệ Bửu- Sơn Kỳ- Hương như đã có một truyền cảm giữa vị giác ngộ này với vị giác ngộ khác.
Đó là một điều huyền diệu, chỉ giáo hệ Bửu- Sơn Kỳ- Hương mới có.
( BSKH - sdd).

2/Đức Bổn Sư.



Ngô Lợi (1831 -1890), tên thật là Ngô Viện (tên húy, còn Ngô Lợi là tên tự). Ngoài ra, ông còn có tên là Ngô Tự Lợi hoặc được người trong đạo gọi tôn là Đức Bổn sư hay Ông Năm Thiếp. Ông là Giáo chủ đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa (gọi tắt là đạo Hiếu Nghĩa), và là lãnh tụ phong trào kháng Pháp tại miền Nam Việt Nam vào cuối thế kỷ 19.
Thân thế
Ngô Lợi người Mỏ Cày, Bến Tre. Cha tên Ngô Nhàn (? - 1937), làm nghề thợ mộc, mẹ tên Phạm Thị Xuyến, người Bình An, tỉnh Định Tường (nay là tỉnh Tiền Giang).
Tương truyền từ nhỏ cho đến lúc trưởng thành, Ngô Lợi cũng không có biểu hiện gì khác lạ. Cho đến năm 1851, lúc 20 tuổi, ông viết Bà La Ni Kinh dài 223 chữ Hán, mang nội dung xưng tán Quán Thế Âm Bồ tát để khuyên người đời tu niệm, mà sau này trở thành quyển kinh quan trọng của đạo Hiếu Nghĩa.
Năm 37 tuổi, vào ngày mùng 5 tháng 5 năm Đinh Mão (1867), bỗng nhiên ông bất tỉnh. Sau 7 ngày 7 đêm, ông hồi tỉnh lại, trở thành người "giải thoát tẩy trần tâm, giáo nhơn tùng thiện đạo" (rũ sạch lòng trần, dạy người theo đạo lành).
Bởi đi "thiếp" vào ngày trên và thỉnh thoảng ông lại có những cuộc đi thiếp như thế, nên người đời còn gọi ông là Năm Thiếp. Mỗi lần đi thiếp xong, ông thường nói những việc quá khứ và đoán định việc tương lai, nên được nhiều người tin theo
.
 Sự nghiệp
Sau khi liễu đạo, ngày rằm tháng Giêng năm Nhâm Thân (1872), Ngô Lợi cho hợp ghe thuyền của tín đồ đi đến xã An Lộc, tổng An Lương, tỉnh An Giang cất chùa ở xã Bình Long, rồi lấy đó làm cơ sở truyền đạo.
Ông đã đi nhiều nơi vừa trị bệnh (nhất là trận dịch hoành hành dữ dội vào năm 1876), vừa thu nhận và dạy tín đồ thuyết "học Phật tu nhân, báo đáp tứ ân, hành xử theo thập nhị giáo điều". Tháng Giêng năm Bính Tý (1876), ông cho một tín đồ tên Trần Tịnh đi khảo sát vùng Núi Tượng (nay thuộc thị trấn Ba Chúc, huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang), rồi đưa một số đệ tử vào theo để khai hoang, lập chùa miếu và mở thôn ấp mới. Theo Địa chí An Giang thì vào năm này đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa đã được ông khai sáng tại đây.
 Khởi nghĩa ở Mỹ Tho năm 1878, Ngô Lợi tổ chức hai cuộc lễ đại trai đàn, kéo dài ba đêm liền, vừa để cầu siêu cho những vong linh "vị quốc vong thân", vừa để khơi dậy ngọn lửa yêu nước trong lòng của hàng ngàn người đến dự.
Lần đầu diễn ra vào ngày 16 tháng 2 năm 1878 qui tựu hơn 200 người, rao giảng thuyết "Hội Long Hoa" và tuyên bố "đời Minh Hoàng được thành lập, ai không theo thì bị thú dữ, cọp beo trong rừng ăn thịt".
Lần thứ nhì diễn ra vào ngày 30 tháng 4 năm 1878. Trong lần này, ông phong Võ Văn Khả làm chánh tướng, Lê Văn Ong làm phó tướng để cùng lãnh đạo công cuộc kháng Pháp.
Ngày 2 tháng 5 năm 1878, cuộc nổi dậy đã nổ ra ở Cai Lậy (Mỹ Tho) nhưng nhanh chóng bị dẹp tan. Hai ông Ong và Khả bị xử chém tại Thuộc Nhiêu năm 1879, còn Ngô Lợi cùng nhiều nghĩa quân trốn thoát về làng An Ðịnh, căn cứ của đạo Hiếu Nghĩa, do ông cùng tín đồ khai hoang, lập ấp thuở trước.
 Kháng Pháp nơi núi TượngMàn lưới do thám của Pháp liền được lệnh truy lùng Ngô Lợi ráo riết, nhưng rốt cuộc không thu được kết quả nào, bởi ông được tin đồ và đồng bào mến mộ che giấu. Ngay cả thuộc hạ đắc lực của Đốc phủ Trần Bá Lộc là Hai Phép lãnh trách nhiệm theo dõi ông, cũng bị ông cảm hóa rồi theo phe kháng Pháp luôn. Đốc phủ Đỗ Hữu Phương cho tên Bửu, người Minh Hương, mua ba ngàn xâu chuỗi bồ đề từ Chợ Lớn xuống Núi Tượng, cúng cho bổn đạo vẫn vẫn không dò hỏi được tin tức gì.
Một góc phố Ba Chúc tức thôn An Định xưa. Phía cuối đường là Núi Tượng
Tức tối, Pháp nhiều lần tổ chức ruồng bố. Chỉ tính trong 12 năm (1876-1888), Pháp đã đến đốt phá, bắt bớ, tra tấn, tù dày những tín đồ ở làng An Ðịnh cả thảy bảy lần, tín đồ Hiếu Nghĩa gọi là “đạo nạn”, đơn cử như vào năm 1885, Ngô Lợi cùng với tín đồ đạo Hiếu Nghĩa kết hợp với nghĩa quân của Hoàng Thân Sivôtha (Campuchia) nổi dậy, đánh chiếm hai bờ kênh Vĩnh Tế và làm chủ Tịnh Biên. Nhưng ngay đó, quân Pháp do đại úy Ferussac đem quân chiếm lại và còn tấn công vào An Định, khiến Ngô Lợi phải cùng với nhiều tín đồ phải chạy sang Vườn Dầu, thuộc Campuchia để lánh nạn. Ngày 2 tháng 6 năm 1886, quân Pháp mở cuộc hành quân sang Campuchia, đánh vào căn cứ Vườn Dầu nhưng thất bại. Mặc dù cản ngăn được được đối phương, nhưng khi Ngô Lợi trở về núi Tượng, nhà cửa, chùa chiền ở An Định chỉ còn là những đống tro tàn.
Nhưng bi thảm nhất là vào năm 1887, quân Pháp do thiếu tá Peiqnaux ở Châu Đốc chỉ huy, cùng hai cộng sự là Trần Bá Lộc và cai tổng Trương Văn Keo kéo quân vào An Định. Bị kháng cự ở núi Trà Sư, nên khi Pháp tràn được vào làng, họ đã đốt sạch nhà cửa, chùa chiền, bắt nhiều người tra tấn để tìm Ngô Lợi.
Kết cuộc, Pháp xử bắn 8 người, đày ra Côn Đảo 13 người, cưỡng bức 407 gia đình gồm gần hai ngàn người già trẻ xuống tàu về quê quán và cho sáp nhập thôn An Định vào xã Ba Chúc, sáp nhập thôn An Thành vào xã Lương Phi...
Qua đời
Ngày 13 tháng 10 âm lịch năm Canh Dần (1890), Ngô lợi mất vì bệnh tại thôn An Hòa, gần Núi Tượng, lúc 59 tuổi.Sau khi ông mất, phong trào kháng Pháp dần tan rã, chỉ còn lại đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa.
Ngoài bản kinh Bà La Ni Kinh, từ năm 1879 đến năm 1884, Ngô Lợi còn truyền dạy cho tín đồ nhiều bài cung văn sớ điệp, nhiều nghi tiết cúng lễ. Các vị đại đệ tử của ông đã ghi chép lại thành tập sách Ngọc Lịch Đồ Thơ Tập Chú.
 Nhận xét
Tháng 10 năm 1885, chủ tỉnh Châu Đốc báo cáo:
Toàn là dân bất hảo, chống đối sự khai hóa của người Pháp. Họ ở tứ xứ gom về và tất cả đều theo đạo Phật (ý nói đạo Hiếu Nghĩa), nhưng là những phật tử có nhiệt tâm đến mức cuồng tín. Họ ra vẻ chí thú làm ăn, nhưng gặp cơ hội là họ khởi loạn nữa...
Sau cuộc hành quân tìm diệt Ngô Lợi ở căn cứ Vườn Dầu vào năm 1886 nhưng thất bại, người Pháp viết:
Uy tín tinh thần của ông (Ngô Lợi) còn mạnh. Ông là giáo chủ tôn giáo mới...
Đinh Văn Hạnh nhận xét:
Có người nhận xét làng An Định là căn cứ của đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa và của phong trào Cần Vương toàn cõi Nam Kỳ. Thực ra, phong trào Cần vương mãi đến tháng 7 năm 1885 mới được phát động. Còn trước đó gần 10 năm, An Định đã là nơi hội tụ của những nghĩa quân thất bại trong những cuộc khởi nghĩa lớn... Họ về đây cùng với Năm Thiếp chờ cơ hội...
Sách Địa chí An Giang đánh giá:
Ngô Lợi là một sĩ phu yêu nước của phong trào Cần Vương. Bị thực dân Pháp truy nã, ông từ Mỹ Tho về Ba Chúc dựng chùa tu hành để che mắt đối phương.
Do vậy, làng An Định cùng đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa là nơi hội tụ của những người nuôi chí lớn, mong có ngày giải phóng quê hương khỏi tay quân xâm lược và đã gây cho Pháp nhiều khó khăn vất vả. Trong kháng chiến chống Mỹ, đã có nhiều đồng bào theo đạo này tham gia cách mạng...

http://vi.wikipedia.org/wiki/Ng%C3%B4_L%E1%BB%A3i

ĐỨC BỔN SƯ
1. HÀNH TRẠNG.
Thời kỳ thứ hai là thời kỳ củng cố giáo hệ Bửu- Sơn Kỳ- Hương. Thời kỳ này kéo dài trong suốt thời gian Đức Bổn Sư ra mở đạo
Cứ như được biết, trường hợp tỏ ngộ của Đức Bổn Sư cũng không khác trường hợp tỏ ngộ của Đức Phật Thầy Tây An và Đức Phật Trùm, nghĩa là hốt nhiên tỏ ngộ và dùng phép huyền điệu độ bịnh cứu dân. Điều làm cho mọi người phải ngạc nhiên, cũng như người ta đã ngạc nhiên về trường hợp của Đức Phật Trùm, là Đức Bổn Sư không hề được Đức Phật Thầy Tây An hay Đức Phật Trùm truyền giáo thế mà khi tỏ ngộ, Ngài cũng phát lòng phải Bửu- Sơn Kỳ- Hương và xiển dương pháp môn Tu Nhân Học Phật y như có suy truyền kế vậy.
Nhưng khổ nỗi ! Khi Ngài ra đời lại gặp phải thời kỳ quân Pháp sang chiếm nước Việt Nam. khắp nơi trong nước, các vị anh hùng ái quốc nổi lên phong trào Cần vương kháng chiến, trong số đó có Đức Cố Quản Trần Văn Thành, Nguyễn Trung Trực, và môn đệ của Đức Phật Thầy Tây An. Vì thế mà quân Pháp cực lực truy nã tín đồ Bửu- Sơn Kỳ- Hương. Đức Phật Trùm bị bắt đày đi cũng vì duyên cớ ấy.
Vả lại, pháp môn Tu Nhân Học Phật của giáo hệ Bửu- Sơn Kỳ- Hương lại khuyên tu Tứ Ân Hiếu Nghĩa, gây cho dân chúng một tinh thần hy sinh cao cả đối với đất nước quê hương, càng khiến cho quân Pháp, muốn đặt vững uy quyền của mình, phải thẳng tay đàn áp. Thế nên, không có thời kỳ nào mà giáo hệ Bửu- Sơn Kỳ- Hương chịu nhiều gian nguy khổ ách bằng thời kỳ Đức Bổn Sư ra hoằng hóa. Có đọc qua lịch sử của Ngài mới thấy Ngài rất dày công trong việc củng cố giáo hệ Bửu- Sơn Kỳ- Hương .
Trong kinh Hiếu Nghĩa gồm có ba quyền do Đức Bổn Sư sáng tác thì vào giờ ngọ ngày mồng 5 tháng 5 năm Đinh Mão (1867). Ngài dọn mình bỏ tục (chuyển thân khử tục). Trong bảy ngày bảy đêm, Ngài nằm đê mê cho đến ngày thứ bảy thì lặng nhiên tỉnh lại; Ngài cảm thấy lòng trần đã rửa sạch. Và bắt đầu từ đó, Ngài đi phổ hóa độ sanh. Tứ Dội, nơi quê quán thuộc tỉnh Châu Đốc. Ngài đi lần xuống Cù lao Ba, nơi đây Ngài ở một thời gian cứu dân đang gặp nạn ôn dịch.
Sau đó, Ngài đi vào vùng Thất Sơn, rồi thẳng theo kinh Vĩnh Tế, qua miệt Giang Thành. Khi đến hòn núi Nước, Ngài có lấy một cái ếm của người Tàu. Ý chừng phá vỡ mưu mô của họ, người Tàu sanh lòng thù oán cáo gian với nhà cầm quyền Pháp rằng Ngài có ý khởi nghĩa Cần vương. Vì thế mà Ngài phải một phen giả dạng làm nữ nhơn, ẩn lánh rày đây mai đó. Ngài có đến gặp Đức Cố Quản ở Nhà Láng.
Sau một thời gian đi hóa độ. Ngài trở về núi Tượng lập chùa phát phái, mở thành mối đạo Hiếu Nghĩa. Ngày Ngài chánh thức lấy danh hiệu Đức Bổn Sư là ngày rằm tháng 9 năm Canh Ngọ (1870), nhưng theo kinh Hiếu Nghĩa quyền thượng thì cho đến ngày 28 tháng 4 năm Kỷ Mão (1879) Ngài mới được thọ ký. Ngài dựng lên tại Núi Tượng ngôi Thanh Lương tự để thờ Địa Mẫu. cũng trên sở đất này, Ngài cho lập một cảnh chùa gọi là Chùa Lớn, chia làm hai ngôi; phía trước là An định miếu để thờ các vị công thần của đất nước. còn phía sau là chùa Phi Lai thờ Đức Phật Thầy Tây An ở bàn tỏ và một bức trần điều nơi bàn thờ chánh.
Công việc sắp đặt chưa được an bài thì một biến cố xảy ra. Nguyên trong một cuộc đàn áp Cần vương ở Tịnh Biên, quân Pháp có bắt được một tín đồ Hiếu Nghĩa trong hàng nghĩa binh. Thế là năm 1885 (Ất Dậu) quân Pháp đem binh đến Núi Tượng, một mặt thiêu hủy chùa miếu và nhà cửa, một mặt bắn giết và bắt bớ tín đồ. Đây là tai nạn đầu tiên mà đạo Hiếu Nghĩa đã gặp. Chừng như Đức Bổn Sư cũng đã tiên liệu tai nạn này, nên chi, trước đó mấy năm. Ngài nhìn bầy gà ăn lúa chung quanh cối xây ở trước chùa, có nói rằng: đầu cối gà bươi mà cuối cuối gà cũng bươi. Câu nói này không ai đoán ra. Đến năm Ất Dậu khi xảy ra tai nạn người ta mới hiểu. Nhưng đáo chỉ mới là đầu cối gà bươi, còn cuối cối gà bươi là năm 1945 cũng là năm Ất Dậu, chùa miễu ở núi Tượng bị đốt phá một lần nữa. Đó là hai lần đại nạn của tín đồ Hiếu Nghĩa.
Sau cuộc đốt phá và bắt bớ năm 1885, tín đồ Hiếu Nghĩa phần nào được thả thì trở về lo cất lại nhà cửa. Chùa miếu lần lượt cũng được trùng tu, nhưng nhà cầm quyền Pháp bắt phải đặt dưới sự chỉ huy của hương chức hội tề, nhứt cử nhứt động gì cũng phải xin phép, tín đổ không được tụ hợp đông đảo như trước; mỗi lần vào chùa lễ bái không quá con số bốn người.
Từ ngày xảy ra tai nạn. Đức Bổn Sư cùng một số cao đệ đi lánh mặt. Để tránh sự truy nã của quân Pháp, Ngài phải giả dạng ra nữ nhơn rầy đây mai đó. Khi thấy tình thế hơi dịu. Ngài trở về núi Tượng tu chỉnh chùa miễu và tiếp tục công cuộc phổ hóa.. Nhưng cho được ổn thỏa với hương chức hội tề luôn luôn đứng một bên chỉ huy, hay hơn nữa để đánh tan lòng nghi ngờ của quân Pháp. Ngài canh cải cách thờ phượng và tụng niệm. Thay vì thờ một tấm trần điều thì Đức Bổn Sư bảo thờ một bức tượng Đức Quan Đế. Thật ra thì bức tượng ấy không có để nguyên mà bị vanh bỏ chung quanh, chỉ lấy phần hình mà thôi. Và cái phần hình ấy được dán lên trên tấm trần điều. Chỉ những người có để ý mới nhận thấy.
Việc lọng hình Đức Quan Đế trên trần điều xét ra không khác trường hợp Đức Huỳnh Giáo chủ dạy tín đồ đổi trần điều ra trần đà và viết lên chín chữ "Nam mô Bổn sư Thích Ca Mâu ni Phật", trong lúc nhà cầm quyền Pháp làm khó khăn và khủng bố Đạo.
Ngoài Đức Quan Đế, tín đồ Hiếu Nghĩa còn thờ nhiều hình tượng khác nữa. Như ở thôn đạo An Thành thì thờ Đức Quan Âm. Thôn đạo An Hòa thì lập miếu gần chùa Phổ Đà thờ Na Tra. Còn ở gia đình của tín đồ Hiếu Nghĩa thì nhà nào cũng có thờ ông Táo.
Cách thờ phượng của đạo Hiếu Nghĩa, xem đó, không khác cách thờ phượng của nhà thiền mà chúng ta thường thấy. Cho đến cách tụng niệm cũng không khác. Nơi chùa cũng như nơi nhà của tín đồ Hiếu Nghĩa, hằng đêm đều có tụng kinh gõ mõ. Kinh được tụng phần nhiều là kinh Kim cang. Di Đà. Phổ môn. Bát Dương. Tâm Kinh… tức là những kinh trong nhà thiền thường đọc tụng. Nhưng ngoài mấy bộ kinh vừa kể, tín đồ Hiếu Nghĩa còn tụng những kinh chính của Đức Bổn Sư sáng tác, như Hiếu Nghĩa kinh, Siêu thăng kinh, Phổ độ, Thiên đồ, Âm chất. Đào viên minh thánh kinh…
Tóm lại từ cách thờ phượng tượng Đức Quan Đế cho đến cách tụng niệm, vì để đánh lạc hướng của nhà cầm quyền Pháp. Đức Bổn Sư đã rập theo hình thức của nhà thiền. Mặc dù Ngài cố gắng thay hình đổi dạng như thế, nhưng quân Pháp cũng không vì đó mà để cho Ngài và tín đồ Hiếu Nghĩa ở yên. Chúng vẫn tầm bắt Ngài và khổ khắc tín đồ Hiếu Nghĩa. Nhiều khi Ngài phải hóa trang và ẩn lánh. Có một lần nọ, trong lúc chùa có lễ cúng lớn, quân Pháp biết chắc Ngài có mặt tại đó, nên kéo binh đến vây bắt. Tín đồ đều hồn kinh phách tán, vì không còn ngõ nào cho Đức Bổn Sư thoát thân. Môn đệ đến cho Ngài hay tình thế nguy biến thì Ngài vẫn thản nhiên bảo mấy cao đệ hãy núp theo bóng của Ngài mà đi. Ngài cùng môn đệ đi ra một cách tự nhiên trước mặt quân Pháp mà chúng ta không thấy.
Tuy gặp nhiều lúc nguy biến như thế, nhưng Ngài cứ một mực phổ hóa chúng sinh, tiếp tục phát phái Bửu- Sơn Kỳ- Hương. Thật không có thời kỳ nào tín đồ Bửu- Sơn Kỳ- Hương chịu nhiều tai ách bằng thời kỳ này. Trong suốt thời gian từ ngày Đức Bổn Sư ra đời cho đến ngày Ngài Tịch (năm canh dần 1890), không quyết tâm tiêu diệt, nhưng nhờ có Ngài ra công bảo thủ mà giáo hệ Bửu- Sơn Kỳ- Hương được giữ vững, chỉ được giữ vững thế cũng là may lắm rồi, chớ không dễ gì bành trướng như hồi thời Đức Phật Thầy Tây An được.
Thế nên thời kỳ Đức Bổn Sư phổ hóa, có thể gọi là thời kỳ củng cố.
2. GIÁO LÝ
Như mọi người đều biết, giáo hệ Bửu- Sơn Kỳ- Hương chủ trương pháp môn Tu Nhân Học Phật. Đức Bổn Sư khi ra mở đạo cũng phát lòng phái Bửu- Sơn Kỳ- Hương cho môn nhơn đệ tử; như thế đủ chứng rằng Ngài là vị kế truyền của Đức Phật Thầy Tây An.
Nhưng khi xét đến nghi thức thờ phượng và lễ bái của Đức Bổn Sư, không khỏi có người ngạc nhiên mà nhận thấy có sự bất đồng gần như tương phản giữa Ngài và Đức Phật Tầy về phương diện hành đạo. Đức Phật Thầy thì chủ về vô vi, còn Đức Bổn Sư thì trọng về sắc tướng.
Tại đâu có chỗ tương phản ấy? Thế thì Đức Bổn Sư chẳng cùng một tôn chỉ Bửu- Sơn Kỳ- Hương sao?
Tuy nhiên, nếu có đi sâu vào giáo lý của Đức Bổn Sư , mới nhận thấy Ngài cũng vẫn chủ trương pháp môn Tu Nhân Học Phật và xiển minh giáo lý vô vi của Đức Thích Ca. Nhưng sở dĩ, về nghi thức thờ phượng, Ngài còn trọng về phần hữu vi, ấy chẳng qua vì hoàn cảnh lúc bấy giờ bắt buộc. Trước sư đàn áp nghiệt ngã của quân Pháp đối với giáo hệ bắt đầu, nếu Ngài không biến đổi cách thờ phượng và lễ bái trọng về sắc tướng như nhà thiền thì hẳn Ngài không sao gây được mối đạo Hiếu Nghĩa để bảo tồn giáo hệ Bửu- Sơn Kỳ- Hương.
Mặc dù hình thức có khác, và đó chẳng qua là sự bất đắc dĩ trong chỗ quyền xảo, chớ kỳ thật về giáo lý thì Đức Bổn Sư vẫn giữ chủ trương pháp môn Tu Nhân Học Phật.
TU NHÂN
Cũng như Đức Phật Thầy Tây An, Đức Bổn Sư khuyến tu nhân đạo, vì đạo nhân là căn bản của các mối đạo, như Ngài đã nói:
Làm người thời phải tu nhân.
Nhân là thiên bổn can duơn vun trồng
Vì đâu làm người phải tu đạo nhân trước hết ? Vì rằng đạo nhân là bước đầu để đi đến con đường tu Tiên tác Phật. Nếu đạo nhân mà làm không rồi thì khó mong giữ được hột giống nhân luân. Mã đã không còn hột giống nhân luân thì lấy thân người đâu để tu thành Tiên thành Phật. Thế nên Đức Bổn Sư khuyên nhủ:
Làm người chẳng xét lo lường.
Cũng như se cát dã trường nhọc thân
Sao bằng giữ đạo nhân luân.
Mang lông cũng khổ, đội sừng dễ chi
Nhưng muốn tu nhân đạo, theo Đức Bổn Sư không chi bằng thực hành theo đạo Thánh Hiền, trước phải trau sửa thân mình để trở thành người quân tử:
Muốn cho tỏ đạo Thánh Hiền.
Đặng làm quân tử phải chuyên trau mình
Và có làm được quân tử thì mới mong gần bực Thánh Hiền.
Sao cho văn chất lân lân
Đặng làm quân tử Thánh nhân mới gần
Ngoài việc tu thân theo đạo Nho để trở nên người quân tử. Đức Bổn Sư còn khuyến tu Tứ Ân Hiếu Nghĩa. Nhưng trong bốn ân: ân tổ tiên cha mẹ, ân đất nước , ân tam bảo và ân đồng bào nhân loại. Đức Bổn Sư đặc biệt biểu dương và xiển minh ân tổ tiên cha mẹ và ân quốc vương thủy thổ mà Ngài lập thành một mối đạo mạng danh là Đạo Hiếu Nghĩa.
Trong Hiếu Nghĩa Kinh. Đức Bổn Sư giải rõ lý do tại đâu tông phái của Ngài lại lấy tên Hiếu Nghĩa. Ngài cho biết rằng: Đường Tam Tạng qua Tây phương thỉnh kinh về Đông độ để cứu tế sanh linh, nhưng "từ Hậu Hán truyền lại đây khuyết đi Hiếu Kinh. Biết rõ cớ ấy nên nay Phật thuyết bổn tông, hoằng đạo lợi sanh, tự tha đều độ. Công đức của đạo Hiếu thật là rộng lớn". Vì rằng hành được Hiếu Nghĩa thì "lợi nhân thủy vương sanh, quốc gia hưng xương thạnh, tam bảo đạo quang minh".
Như thế đủ thấy Hiếu Nghĩa là đầu mối Tứ Ân. Nếu hành được Hiếu Nghĩa thì chẳng những trả được ân tổ tiên cha mẹ và ân quốc vương thủy thổ mà đồng thời cũng trả được ân tam bảo và ân đồng bào nhân loại.
Nói tóm lại, theo Đức Bổn Sư, muốn đền đáp Tứ Ân, chỉ cần làm xong Hiếu Nghĩa. Người mà làm xong Hiếu Nghĩa giữ trọn tam cang thì chẳng những làm tròn đạo nhân mà còn vượt khỏi nẻo luân hồi trong vòng lục đạo.
Quán Vương nghĩa trọng biết bao.
Làm tôi lo báo công lao ở đời.
Song thân ân lớn bằng trời.
Làm con lo trả biết đời nào xong.
Kiếp trần nhiều nỗi long đong,
Tam cang giữ trọn sau vòng đành qua.
HỌC PHẬT
Về phương diện học Phật. Đức Bổn Sư cũng chủ trương pháp môn Thiền tịnh song tu như Đức Phật Thầy Tây An. Không có pháp tu nào dễ bằng pháp môn niệm danh hiệu Phật A di đà cầu vãng sinh về Cực lạc. Chẳng lựa phải nhọc công nhiều, chỉ chuyên niệm sau chữ Nam mô A di đà Phật là được về cõi Tây phương Đức Bổn Sư hằng nói:
Di Đà hai chữ rộng suy
Một câu liễu đặng luận chi muôn vàn
Vì đâu chỉ niệm có 6 chữ Nam mô A di đà Phật lại được vãng sanh về cực lạc dễ dàng như thế? Là vì Đức Phật A di đà có phát ra 48 lời nguyện, trong đó có câu nói rằng nếu chúng sanh nào niệm đến danh hiệu của Ngài thì khi lâm chung sẽ được Ngài và các Thánh chúng tiếp dẫn về cõi Tịnh độ.
Phật xưa bốn tám lời thề.
Chúng sanh độ hết chớ hề bỏ ai.
Ai mà giữ đạo Như Lai,
Ngân kiều khỏi xuống, Kim đài bước lên.
Thế nên Đức Bổn Sư chẳng dứt khuyên người niệm Phật, niệm một cách tha thiết tinh chuyên thì chắc chắn sẽ được vãng sanh:
Niệm Phật đừng có lôi thôi.
Niệm cho chánh niệm mới ngồi tòa sen.
Cần nhứt là phải chánh niệm:
Ai mà chánh niệm tinh chuyên
Trong thánh ắt trổ kim liên báu thành.
Ngoài pháp môn Tịnh độ tông tha cầu Phát lực. Đức Bổn Sư còn khai thị pháp môn Thiền tông, tức pháp môn tự lực tu hành, tự mình trau tâm sửa tánh, trừ diệt thất tình lục dục cho không còn ô nhiễm :
Thoát vòng tứ tướng mới khôn
Ly đường lục tặc lập đồn minh quân
Và cho đạt được Bồ đề diệu quả, đến bờ bên kia, cần phải tinh tấn tu hành, quyết tâm lướt mọi gian lao nguy khổ:
Quyết lòng lên chốn tháp san
Tầm Ba la mật gian nan chi sờn.
Kỳ viên quyết dạ đời chơn.
Tầm Bồ để quả làm huờn hộ thân
Chủ yếu của phép tu Thiền tông là đạt đến chỗ minh tâm kiến tánh. Mỗi chúng sanh đều sẵn có bản tâm thanh tịnh, vĩnh viễn trường tồn, bất di bất dịch, nhưng vì thiên chấp sắc tướng mà lu mờ chơn giác; vì thế mà lầm nhận cái không làm có, cái có làm không. Do chỗ mê lầm ấy mà lăn lộn mãi trong tam đồ lục đạo. Chỉ có trở về với bản tánh thanh tịnh, nhận rõ cái lý: sắc tức thị không, không tức thị sắc thì mới dứt đường sanh tử, phản bổn hoàn nguyên, như Đức Bổn Sư đã nói:
Sao cho sắc tức thị không,
Một câu phản lão hoàn đồng mấy ai!
Phật xưa từ chốn kim giai,
Ma ha hai chữ giồi mài tánh gương
Và cho được đạt lý chơn không, theo Đức Bổn Sư, phải dùng phép tham thiền quán tưởng.
Trong siêu thăng kinh, Ngài có luận giải về phép quán như vầy: "Quán dung thông tức là chơn quán, như thanh tịnh quán, quảng đại trí huệ quan, từ bi quán; hễ tường nguyện thường chiêm ngưỡng thanh tịnh thì ánh sáng trí huệ hiện ra, phá tan mọi hắc ám. Khi đã đạt lý viện dụng , mới biết: có niệm như không niệm, có sanh như không sanh, có tu như không tu, có chứng như không chứng, có thuyết như không thuyết. Sự tức là lý, lý tức là sự, tướng tức là phi tướng, phi tướng tức tướng; vô lượng là một, một là vô lượng; Tha Phật tức ngã Phật, ngã Phật tức tha Phật, ta nói pháp tức Phật nói pháp, Phật nói pháp tức ta nói pháp. Thế nên tâm tức Phật, Phật tức tâm".
Chỉ một cái tâm đó mà hễ giác thì thành Phật, còn mê thì làm chúng sanh.
Trong đời già trẻ ai ai.
Biết thời làm Phật. mê thời chúng sanh
Thiên đàng Địa ngục chẳng quanh,
Nương theo bổn phận, lợi danh chớ gần.
Đó là yếu lý thiền pháp vô vi Phật. Trong Siêu thăng kinh, Đức Bổn Sư cũng nhận rằng: " Hữu động chi động xuất ư bất động. Hữu vi chi vi xuất ư vô vi.Vô vi tắc thần qui, thần qui tắc vạn vật vân tịch. Bất động tắc khí manh, khí manh tắc vạn vật vô sanh". Có nghĩa: Cái động là từ trong hữu động mà ra, cái vi là từ trong vô vi mà có. Hễ vô vi thì ngươn thần qui tụ mà ngươn thần qui tu thì vạn vật vắng lặng. Còn bất động thì khi ngưng, mà khi ngưng thì vật không sanh.
Vì vậy mà Ngài cực lực bài bác âm thinh sắc tướng, vì Ngài cho đó là phi đạo, nếu nương theo thì không khỏi huân tập tà kiến. Ngài có viết:
Xuất thế vi nhân tu hướng thiện
Phỏng cầu Đại Đạo lão tham thiền
Thinh âm sắc tướng giai phi đạo.
Thiết vật tin tà tập ngoại biên…
Tạm dịch :
Kẻ xuất thế khá tua hướng thiện
Sớm tham thiền mới kiến Ma ha,
Âm thinh sắc tướng đều tà.
Chớ nên tập nhiễm đọa sa lạc lầm.
Xem đó đủ thấy giáo lý của Đức Bổn Sư không khác giáo lý của Đức Phật Thầy Tây An. Sở dĩ về nghi thức hành đạo của Ngài còn thiên trọng về thính âm sắc tướng như chúng ta đã thấy, chẳng qua là một phương tiện quyền xảo để bảo tồn giáo hệ Bửu- Sơn Kỳ- Hương trong lúc quân Pháp thẳng tay đàn áp. Cốt yếu của một nền đạo là ở phần giáo lý, người hành đạo nên nhân chân để khỏi thiên trệ về hình thức Phật-pháp có quyền có thiệt, từ hoàn cảnh mà thực hành, miễn không trái nghịch đến giáo lý thì thôi. Nếu không dùng được thiệt pháp thì dùng đến quyền pháp. Đó là chỗ thắng diệu của giáo pháp nhà Phật.
Đức Bổn Sư thâm hiểu lý đó, nên chi có viết:
Học thời phải xét cho mình.
Phật Nho cũng cứ thơ, kinh mà quyền.

(BSKH - sdd).

THĂM CÁC HUYNH ĐỆ TRONG ĐẠO TỨ ÂN HIẾU NGHĨA VÙNG BA CHÚC - TRI TÔN - AN GIANG.

Đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa, còn có tên là Đạo Lành, gọi tắt là đạo Hiếu Nghĩa, do Ngô Lợi (thường được tín đồ gọi là Đức Bổn Sư) sáng lập vào năm 1867 tại Ba Chúc, huyện Tri Tôn , tỉnh An Giang. Buổi đầu, đạo là một trong những phong trào Cần Vương, nhưng dùng hình thức tôn giáo để qui tập tín đồ và để che mắt thực dân Pháp, nhưng sau khi vua Hàm Nghi bị đày, Ngô Lợi mất, phong trào tan rã chỉ còn lại những hoạt động tín ngưỡng.
Hơn 140 năm hình thành và phát triển, đạo Hiếu Nghĩa đã qui tụ gần 80.000 tín đồ, sống rải rác ở nhiều tỉnh, thành thuộc Nam Bộ, nhưng nhiều nhất là ở huyện Tri Tôn. Đây là đạo thuần túy nội sinh, tín đồ đa phần là nông dân.
Cũng như Phật Thầy Tây An (người sáng lập ra Bửu Sơn Kỳ Hương), Ngô Lợi chú trọng phát triển Phật giáo theo hình thức "cư sĩ", nghĩa là tín đồ không cần "ly gia cắt ái" hay "đầu tròn áo vuông", tín đồ mặc áo vạt hò, quần lá nem, bới tóc hoặc để xõa tự nhiên và tu đâu cũng được... Ít quan tâm đến giáo lý mà chú tâm nhiều đến việc thờ cúng, bố thí và lấy việc "Tu Nhân - Học Phật" làm nền tảng cho sự hành đạo.
 Tôn chỉ
• Tu Nhân: được thể hiện qua việc kính thờ và phụng sự tứ ân:
• Tứ đại trọng ân bao gồm: đất, nước, gió, lửa.
• Tứ trọng ân bao gồm: ân tổ tiên, ân đất nước, ân tam bảo, ân đồng bào và nhân loại.
Ngoài việc kính thờ trên, người tín đồ còn phải hành xử việc "Hiếu" (hiếu thảo với ông bà tổ tiên) và việc "Nghĩa" (nghĩa vụ với đất nước, đồng bào và nhân loại).
• Học Phật:
Là học những điều Phật giáo hóa chúng sanh, thành tâm phụng thờ và trì niệm Phật để cầu được giảm “tội, nghiệp”, được cứu độ và giải thoát.
Ngô Lợi tức Đức Bổn sư dạy:
Một lòng giữ vẹn tứ ân,
Phụng thờ khuya sớm ân cần đừng sai.
Gắng công niệm Phật hôm mai,
Trì tâm thì đặng thiếc mài nên kim.
hay:
Việc làm cho Phật, phước nhiều
Cũng như hoa lại mai chiều nở vun.
(Sám giảng Ngũ giáo)
Mặc dù phát triển từ nền tảng của tông phái Bửu Sơn Kỳ Hương, nhưng đạo Hiếu Nghĩa còn chịu ảnh hưởng của các tôn giáo khác nữa:
• Phật giáo: Về tâm linh, đạo Hiếu Nghĩa chịu ảnh hưởng của Lâm Tế tông và Thiên Thai tông.
Đức Bổn sư viết:
Phật dạy lý chân không
Vì sợ người chấp có.
Bằng người lại chấp không,
Như chụp thỏ buông ó.
Người chấp vô thường tướng,
Phật nói hữu thường tâm.
Chẳng dè phương tiện pháp.
Ao xuân hiện lỗi lầm...
Yếu lý này thể hiện nhiều trong kinh giảng cùa đạo Hiếu Nghĩa.
Kinh Phật giáo được tín đồ đạo Hiếu Nghĩa trì tụng, đó là: "Bát Dương kinh", "Di Đà kinh", "Kim Cang thọ mạng kinh", "Phổ Môn kinh" và "Bổ khuyết Tâm kinh" (được tín đồ đọc tụng thường xuyên). Đức Bổn Sư cũng cho phép, người ít hiểu biết chỉ cần tụng "Linh Sơn hội thượng kinh" cũng đủ. Ngoài ra, ông cũng khuyến khích tín đồ trì niệm chú, ấn pháp theo Mật Tông.
Đàn, ấn, chú là pháp chư Phật
Người làm theo sẽ được hộ trì.
• Nho giáo: Quan niệm "Tu Nhân" chịu ảnh hưởng rất nhiều của tư tưởng Khổng Mạnh.
Chữ "Tu" ở đây hiểu theo nghĩa "Mạng trời gọi là tính, nương theo tính trời gọi là đạo, sửa mình theo đạo gọi là "giáo" (Thiên mệnh chi vị tính, xuất tính chi vị đạo, tu đạo chi vị giáo. Trung Dung). Vậy, Tu Nhân tức là sửa mình theo "đạo làm người" (nhân đạo), mà đạo làm người không hề xa với "đạo trời"...
Trong sinh hoạt của tín đồ, có những việc có liên quan đến đạo Nho, như:
Thờ cúng đất trời. Xây dựng chùa chiền, nhà cửa theo số vị vận hành của Kinh Dịch. Các lễ tế, hôn sự, tang ma theo thể thức của Nho giáo. "Thập Nhị lệ sự" tức 12 điều lệ mà tín đồ phải tuân theo, được mô phỏng từ khuôn mẫu của đạo Nho.
• Đạo Lão: Tư tưởng Lão giáo cũng là tư tưởng chủ đạo trong giáo thuyết của đạo Hiếu Nghĩa.
Người tín đồ phải nằm lòng những bài kinh sau: "Tâm Ấn kinh", "Động cổ kinh", "Tam mao chơn kinh". Trích:
Động cổ kinh.
(dịch nghĩa)
Có động cũng xuất nơi không động.
Hữu vi cũng xuất nơi vô vi.
Vô vi thời thần về, thì muôn vật yên lặng.
Bất động thì khí điều hòa.
Khí yên lặng điều hòa, thì muôn vật không sanh.
Tóm gọn, pháp môn tu hành của đạo hiếu Nghĩa là:
Trì niệm theo Thiền tông
Xử sự theo Nho giáo.
Luyện tinh, khí, thần theo Lão giáo.
Trong đạo chia làm 24 Gánh nội thôn và 15 Gánh ngoại thôn, chỉ có ông Gánh (tức trưởng Gánh) mới có quyền thu nhận tín đồ, nhưng không quá cách biệt giữa giáo phẩm (ông Trò, ông Gánh) và giáo dân (tín đồ). Người tín đồ ngoài việc hành xử theo "Tứ trọng ân" và "Thập nhị giáo điều" (còn được gọi Thập Nhị lệ sự), còn phải lễ lạy (vào hai thời: sáng từ 5 giờ đến 7 giờ sáng , và chiều từ 5 giờ đến 7 giờ tối), công phu (tụng kinh có chuông mõ. Kinh đọc được rút ra từ bộ "kinh Siêu độ" của đạo) và niệm pháp (lần chuỗi bồ đề).
Trong nhà của tín đồ thờ nhiều thứ, như: trên cùng thờ Quan Thánh, bên dưới thờ Hội đồng gồm Phật, Thánh, Tiên. Dưới nữa thờ Thập Vương, bàn Hộ pháp Vi Đà. Bên trái thờ Cửu phẩm, bên phải thờ Tam giáo v.v... Trước cửa nhà tín đồ có bàn thờ thông thiên hai tầng, tầng trên thờ "Chánh đức thiên La thần" và tầng dưới thờ "Thổ Trạch Long thần".
Và trong nền đạo Hiếu Nghĩa, sự thờ cúng được coi là nguồn ân phúc thiêng liêng, giúp tín đồ tăng thêm lòng chánh tín, lấy hình thức chuyển vào nội tâm, đem nghi lễ hướng con người đến việc thực thi phúc lợi chân chánh.
• Cúng Phật: bằng hương, đăng, hoa, trà, quả, các món chay. Phẩm cúng có ý nghĩa nhất là ngọt (chè xôi nước) và dẽo (xôi nếp)...
• Cúng Thần: vật phẩm như cúng Phật, có thêm món cá, không được cúng các thức ăn từ thịt ngoài loài thủy tộc.
• Cúng giỗ người mất: vật phẩm như cúng Thần.
Ngoài ra, tín đồ còn phải thường tham gia các lễ cúng chính ở chùa miếu, thành tâm cầu nguyện cho quốc thới dân an, cầu cho ông bà tổ tiên được siêu thăng tịnh độ v.v...
 Nhận xét
Tuy cốt lõi trọng "Tứ Ân", chuộng "Vô vi" (tôn chỉ của đạo Bửu Sơn Kỳ Hương), nhưng đạo Hiếu Nghĩa vẫn còn "ham chuộng hình thức: nhiều buổi làm chay, đến nghe thuyết pháp, lãnh bùa mà đeo, có chuông mõ, quì lạy quá nhiều, thờ Quan Công, có thêm ngôi Long Đình, dành cho người khuất mặt sắp xuất hiện (ám chỉ vua Hàm Nghi), cổ xuý ngày tận thế sắp cận kề, sắp đổi đời, ma quỷ đã hiện ra đầy đường và vẫn là núi Cấm sắp mở hội "Long Hoa"
Về mặt thờ phượng, đạo Hiếu Nghĩa theo mô hình "trước miễu, sau chùa". Miễu thờ thần cựu trào, gồm bá quan văn võ. Riêng chùa Phi Lai ở núi Tượng là điện, thờ đấng tối cao là Ngọc Hoàng Huyền khung Cao thượng đế, tượng trưng với tấm vải đỏ, không hình tượng (gọi trần điều). Một bàn thấp hơn dành cho “tứ đại thần châu”, tức bốn hòn đảo của cõi tiên. Đúng là tu tiên, đạo Lão...Những điều đó cho thấy, hướng đi và việc làm của Ngô Lợi không thoát khỏi tư tưởng phong kiến và thần quyền, như câu ca dao còn truyền tụng ở vùng Núi Tượng:
Ai về nhắn với áo dà,
Sửa sang khăn áo đặng mà chầu vua.
Nhưng khách quan mà xét, về mặt đạo, Ngô Lợi động viên được tín đồ cùng nhân dân phát huy tinh thần yêu nước. Về mặt đời, ông đã liên kết với Khả và Ong cùng khởi nghĩa ở Cai Lậy năm 1878, qui tụ được những người từng tham gia kháng Pháp, từ những phong trào như của Nguyễn Trung Trực, Võ Duy Dương, Nguyễn Hữu Huân thiết lập được mối quan hệ với phong trào kháng Pháp của ông hoàng Si-Vatha ở các tỉnh phía Nam nước Campuchia và những người dân tộc Khmer vùng Bảy Núi (Thất Sơn).
Trong một bài viết trên website của Thông tấn xã Việt Nam có đoạn:
Đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa là một đặc trưng của văn hóa Nam Bộ, trong quá trình hình thành và phát triển luôn gắn liền với quá trình di dân, khai hoang lập làng, xây dựng căn cứ kháng chiến, hoạt động theo đúng tôn chỉ mục đích “Học Phật tu thân”, “Tứ đại trọng ân”, “Hòa hợp đoàn kết dân tộc”, lấy công tác xã hội từ thiện làm mục tiêu hoạt động.
 
Chùa của Đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa canh chân núi Tượng - Ba Chúc.
 
 
 
 
Núi Tượng còn được gọi là Liên Hoa Sơn, nằm tại thị trấn Ba Chúc, huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang, Việt Nam. Núi Tượng thấp nhỏ, chỉ cao 145 m và chu vi 3.825 m. Nhiều người cho đây là một trong Thất Sơn. Từ xa, hình núi trông giống hình dạng con voi nên có tên là Núi Tượng.
Nhà văn Sơn Nam viết:
Vùng Ba Chúc (quanh núi Tượng), thung lũng nhỏ, cổ kính, có cảnh “trước miễu, sau chùa”, miễu (là đình làng độc đáo, thờ trăm quan đại thần) cất phía trước, chùa phía sau, kề sát nhau. Câu ca dao khá xưa, dễ gợi giây phút lâng lâng:
Dạo chơi trước miễu sau chùa.
Đụng người mua bán quê mùa thiếu chi.
Ở miền đất này đã xảy ra một số sự kiện:
 Đạo nạn
Trước năm 1870, vùng núi này hãy còn hoang vu, nhưng kể từ năm này, nhờ ông Ngô Lợi , người khai sáng đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa (gọi tắt là đạo Hiếu Nghĩa), dẫn dắt một số đệ tử vào vùng núi Tượng khai hoang lập những thôn ấp, mà sau này trở thành làng An Định, An Hòa, An Thành, An Lập; dựng chùa Tam Bảo, chùa Phi Lai khiến nơi đây ngày một trở nên đông đúc.
Chỉ tính trong 12 năm (1876 - 1888), quân lính Pháp đã đến đốt phá, bắt bớ, tra tấn, tù dày những tín đồ ở làng An Ðịnh cả thảy bảy lần, tín đồ Hiếu Nghĩa gọi là “đạo nạn”. Đơn cử năm 1885, Ngô Lợi cùng với tín đồ đạo Hiếu Nghĩa kết hợp với nghĩa quân của Hoàng Thân Sivôtha (Campuchia) nổi dậy, nhưng bị Pháp nhanh chóng đưa quân vào trấn áp rồi còn cho đóng đồn dọc kênh Vĩnh Tế để dễ theo dõi, chế ngự. Lần đạo nạn này, Ngô Lợi phải cùng với nhiều tín đồ phải chạy sang Vườn Dầu, thuộc Campuchia để lánh nạn. Đến khi trở về, nhà cửa, chùa chiền chỉ còn lại những đống tro tàn.
 
CHÙA TAM BỬU Ở NÚI TƯỢNG-BA CHÚC.
Trần Thế Vinh

 


Là ngôi chùa do ông Ngô Lợi, tức Đức Bổn Sư-Người sinh trưởng ở Trà Tân(Cai Lậy), một đạo sĩ chống Pháp nhiều lần ở Mỹ Tho thất bại, dẫn hơn bốn trăm hộ gia đình khắp lục tỉnh lên Núi Tượng (Liên Hoa Sơn), một trong bảy địa danh của Thất Sơn, thuộc tỉnh Châu Đốc lúc bấy giờ. Ông hướng dẫn số “tín đồ” trảm thảo khai hoang, thiết lập chùa miếu và thôn ấp mới - đặt Thôn An Định, và khai sáng đạo Tứ An Hiếu Nghĩa vào giữa cuối tháng giêng năm Bính Tý- 1876 - trích dẫn Lịch Sử An Giang của nhà văn Sơn Nam.
Nhưng thực sự ngôi chùa Tam Bửu, được xây dựng vào ngày 26/6 năm Nhâm Ngủ-1882. Nằm về phía Đông vách núi Tượng và cách chân núi hơn ba mươi mét . Khởi đầu dựng lên bằng cây lá đơn sơ, nhưng chắc chắn bởi các loại cây núi giá trị như cam đàn,căm xe,cà chất… nhưng sau đó phải trãi qua nhiều lần bị lính Mã Tà đốt phá, trong gần l0 năm đến 7 lần Pháp nạn ! – Người xưa, truyền miệng kể- Chúng ( tức Pháp và chính quyền thuộc địa ) đưa lính tráng vào đuổi dân làng, cướp giật nhiều thứ, từ heo, gà…cho đến vật dụng quý, trong đó có ngôi Long Đình của bổn Chùa- do tên Trần Bá Lộc lấy đi và sau đó đưa vào Bảo tàng SàiGòn, chúng xem đây là vùng căn cứ tự trị do Ông Ngô Lợi cầm đầu trong suốt thời gian từ 1876 đến năm 1888.Theo sử liệu của tủ sách sưu khảo PG.Bửu Sơn Kỳ Hương do Hà Tân Dân biên soạn và những vị cao đồ địa phương, thì đến năm 1885 chùa tái thiết lại và vào tháng 2/1888 chính quyền Pháp mới cho Thôn An Định sáp nhập vào xã Ba Chúc của người Miên, thuộc tỉnh Châu Đốc bấy giờ, và chùa Tam Bửu mới được trùng tu khang trang. Năm 1890 Ông Ngô Lợi viên tịch, giao lại cho các Ông Trò, Ông Gánh duy trì thờ phượng. Đây là ngôi chùa Trung tâm ( Thánh địa ) của tôn giáo Tứ Ân Hiếu Nghĩa. Mãi đến năm 1971, Ngôi Long Đình quý hiếm mới được chính quyền Sài Gòn- Nguyễn Văn Thiệu trao trả lại bổn chùa.
Thăng trầm trên 125 năm, ngày nay chùa Tam Bửu vẫn còn nét cổ , chùa dựng nhiều mái, nhiều gian, lợp ngói cổ, nóc chóp cao… và hằng năm đều được ngành Bảo Tàng tôn tạo, sửa chửa…nằm trong một khuôn viên rộng trên 3 hecta. Ngoài ngôi chùa chính ,còn có nhiều gian phụ như nhà khách, tiếp tân, nhà bếp, gian nghỉ ngơi rộng, có sức chứa cả trăm người qua đêm…Tam Bửu Tự cổ kính, và theo hành đạo của tôn giáo Tứ Ân Hiếu Nghĩa là Tứ Đại Trọng Ân, nên thờ cúng trên 30 bàn thờ từ gian chính điện ra tận ngoài cột phướng. Trong chính điện thờ Quan Thánh Đế Quân(Quan Công,Quan Bình,Châu Xương), thứ hai là thờ Hội đồng thượng Phật, kế bên là Cửu huyền bá tánh, thập Vương, Hộ pháp, phía trong là Chánh Tăng, Phật Vương, Phật Thầy, Phật Trùm…Trước tiền sảnh tạc 4 rồng đeo 4 trụ, ngoài gần cột cờ phướng thờ Thiên, Địa thần, Thổ Trạch… Việc cúng bái rất nhiều lễ, ngoài rằm ,ba mươi hằng tháng, còn những đại lễ khác như Đức Bổn Sư viên tịch (13/10 âl), rằm tháng 7(Trai đàn), Cúng hội Chánh đán, Đoan ngủ, Giỗ cúng tập thể thường niên ngày 16/3 al cho trên 3.017 nạn nhân bị bọn diệt chủng PônPốt, Iêngsary sát hại ngày 16/3 âl năm 1978. Trong chùa Tam Bửu còn có thờ Ngôi Long Đình, một cổ vật do Đức Bổn Sư thiết kế,và được làm bằng gỗ quý ( Cây Cam Đàn ở Thất Sơn), cách nay hơn 115 năm.
Tam Bửu Tự là ngôi chùa trung tâm của trên tám chục ngàn tín đồ đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa, không chỉ riêng ở thôn An Định- Núi Tượng, hay các thôn lân cận như An Hòa, An Thành, An Lập, An Phước…mà người theo đạo khắp cả miền Tây, do Ông Ngô Lợi-Đức Bổn Sư sáng lập, nay thuộc thị trấn Ba Chúc,Tri Tôn, An Giang. Vừa có kiến trúc cổ kính, mang dấu ấn lịch sử thời khai mở vùng Thất Sơn huyền bí. Được nhà nước công nhận di tích lịch sử kiến trúc cấp quốc gia hơn 20 năm qua, là một địa chỉ danh tiếng ở vùng Thất Sơn ,An Giang. Hiện nay thu hút mỗi ngày hàng trăm người hành hương trong và ngoài nước đến tham quan, chiêm bái theo tua từ Chùa Bà –Núi Sam, vào Núi Cấm rồi đến Núi Tượng-chùa Tam Bửu-Nhà mồ Ba Chúc…

 Lần này, đoàn của dienbatn tới thăm một người bạn là Mười Trác ( Nguyễn Ngọc Trác ) là trưởng gánh trong 24 gánh tại thôn An Định nơi Thánh Địa của Đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa. Từ sáng sớm , thày Mười đã điện cho chúng tôi hẹn về sớm để ăn cơm cùng một đoàn từ thiện từ TP. HỒ CHÍ MINH mới xuống. Loanh quanh mãi bên Châu Giang , Thị xã Tân Châu , mải mê nghe chuyện về lễ hội " đâm xuyên quai " mãi tới tối mịt chúng tôi mới tới được Tam Bửu Gia là ngôi chùa do Thày Mười trụ trì. Thày Mười là Trưởng gánh ở khu vực này , có nhiệm vụ ghìn giữ mối Đạo trong vùng và làm những công việc về Quan - Hôn -Tang- Tế cho đồng bào trong khu vực. là một người đàn ông trạc ngoài 40 cao lớn , tráng kiện và rất đẹp trai. Gia đình Thày Mười đã nhiều đời nắm giữ mối Đạo trong khu vực này. Đón chúng tôi hết sức niềm nở thân tình , Thày chỉ cho chúng tôi chỗ tắm rửa thay đồ và giục người nhà dọn cơm cho chúng tôi ăn. Chùa này sở dĩ có tên Tam Bửu Gia là do nằm dưới sự chỉ đạo của Tam Bửu Tự như dienbatn đã giới thiệu ở phần trên. Ngày xưa Đức bổn sư Ngô Lợi có 24 vị đệ tử ruột cận kề cho đến khi viên tịch và là trưởng gánh của 24 gánh. Sau này do chiến tranh ly tán , chỉ còn khoảng 5,6 gánh là đúng theo danh chính ngôn thuận , còn các gánh khác chưa thực sự là những gánh theo đúng ý nghĩa của ngày trước. Hiện nay có khoảng 6 Tam Bửu Gia còn đang hoạt động, giữ ghìn riềng mối Đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa trong vùng. Cơm xong , chúng tôi ngồi quanh bàn trà đàm Đạo thật vui vẻ. Thày Mười là một người có tư chất hành Đạo , thông minh , tế nhị và hiểu biết rất sâu về bổn Đạo của mình. Ngồi một chút , dienbatn thấy Thày có điện thoại liên tục do những người dân trong vùng gọi tới kêu Thày làm giúp các việc Quan , Hôn , Tang , Tế. Thày kể cho chúng tôi nghe công việc hàng ngày của mình. Có nhiều lần mấy Thày trò phải nhảy xe đò đi giúp những đám tang , khi xong do thân chủ quá nghèo lại tự bỏ tiền ra đi về . Là người chăm sóc phần tâm linh trong một khu vực nghèo như Ba Chúc , Thày và các vị phụ tá vẫn phải tự làm ruộng nuôi thân hành Đạo . Cách đây vài năm , Thày Mười đã một thân một mình sang thăm các vị Thánh Tổ tại dãy núi Tà Lơn bên Cămpuchia. Nhiều chuyện ly kỳ và nhiều ân sủng của Thày Tổ đã đến với Thày Mười.Hàng ngày Thày và các đồng Đạo tại đây vẫn công phu ngày bốn thì : Tý - Ngọ - Mão - Dậu hết sức nghiêm túc. Đêm đó , dienbatn và Thày Mười gần như không ngủ để đàm đạo . Sáng hôm sau , vì Thày bận công chuyện giúp một đám tang cho bà con trong vùng , chúng tôi cùng Thày lên chùa chụp ảnh kỷ niệm và lại tiếp tục lên đường. Thày Mười tặng cho dienbatn mấy cuốn sách hay được Thày sử dụng trong công việc của mình.

dienbatn - Thày Trưởng gánh Mười Trác - Sư Điền núi Cô Tô và một sư huynh trong Tứ Ân Hiếu Nghĩa Ba Chúc.

 

Thày Mười Trác cùng các thành viên trong đoàn du khảo.

Sách Thày Mười tặng dienbatn.


HÌNH ẢNH THÀY MƯỜI TRÁC TRÊN DÃY TÀ LƠN - CAMPUCHIA.







http://vn.360plus.yahoo.com/lythienhuonghn/article?mid=635

Xin xem tiếp bài 9. Thân ái. dienbatn.

Read more…

NHỮNG ÔNG ĐẠO VÀ SỰ HÌNH THÀNH ĐẠO MỚI Ở VIỆT NAM.BÀI 7.

4/13/2011 |
NHỮNG ÔNG ĐẠO VÀ SỰ HÌNH THÀNH ĐẠO MỚI Ở VIỆT NAM
NHỮNG ĐỆ TỬ CỦA PHẬT THÀY TÂY AN.  (tiếp theo)
3/ Ông Đạo Lập (Phạm Thái Chung)
A. Lai LịchTên thật là Phạm-thái Chung, pháp danh Sùng-đức-Võ, danh từ Ông Đạo Lập mà người ta quen gọi, là ông có đứng ra thành lập một ngôi chùa mang tên Bồng-Lai tại Bài-Bài, thuộc xã Nhơn-Hưng, quận Tịnh-Biên (Châu-Đốc).
Trong một bài-vị để thờ tại chùa Bồng-Lai, còn ghi thêm, ông Đạo-Lập có một biệt hiệu nữa là Bồng-Lai La-Hồng.
Sinh quán của ông Đạo Lập tại xã Đa-Phước, bên kia thành phố Châu-Đốc, một nơi có phong cảnh nên thơ còn mang một danh xưng khác là Cồn-Tiên.
Khi Đức Phật Thầy Tây-An bị nhà đương cuộc thời Tự-Đức dời về tỉnh lỵ An-Giang, ông Đạo lập đã tìm đến thăm viếng và sau đó, ông quy-y với Đức Phật-Thầy.
Trong số các đại-tử của Đức Phật Thầy, phả nói ông Đạo Lập là một danh-nhân quan-trọng, có tài-ba, huyền-thuật dị-kỳ. Ông có thể đi mây về gió, làm lắm điều khác lạ với thế nhân mà ở quanh vùng Thất-Sơn không mấy ai là không biết danh.
Bóng dáng của ông, từ Hà-Tiên đến Châu-Đốc, từ núi Tà-Lơn đến niềm Đồng-Tháp, thoạt đó thoạt đây, thường xuyên không vắng suốt một thời gian vài mươi năm, khoảng từ 1856 đến 1877.
Đi trên bộ ông đội nóng to vành, phất-phơ đôi tay áo rộng. Đi qua sông, ông thả nón làm thuyền, lấy gậy làm chèo hoặc xăn tay áo mà bơi qua.
Phật-pháp của ông cao thâm. Tín-đồ của ông đông-đảo. Tất cả giáo-điều tu-nhân, học Phật mà ông lãnh-giáo được nơi Phật-Thầy, ông đều đem đi hoằng-dương khắp nơi. Trong những lúc đi vân du hóa chúng, truyền rằng có không biết bao nhiêu huyền-sử kinh-dị bao trùm chung quanh ông. Chúng tôi chỉ xin chọn lọc và kể lại với tất-cả sự e-dè.
B.Ông Đạo Lập canh-bốiBối là bọn kẻ trộm, thường cỡi xuồng nhẹ, chuyên ăn cắp của ghe thương-hồ đỗ nghỉ vào các bến sông về đêm. Trong các dịp vân-du, ông Đạo Lập thỉnh-thoảng cũng có giang trên một thương thuyền để nghỉ chân trên một vài chặn đường. Theo lời thuật của Mộng-Tuyết Thất Tiểu Muội, thì có một bận, ông Đạo Lập lãnh phần canh bối cho « bạn » ngủ. Có kẻ trộm mò vào, ông cứ để cho chúng cứ tự nhiên. Ông tựa mình vào cửa mui ngồi yên, lim-dim như ngủ. Thấy ông không động đậy, kẻ trộm tự-nhiên dọn đồ qua thuyền. Khi chúng dọn được một mớ và toan lấy thêm, bây giờ ông Đạo mới tằng-hắng, lên tiếng bảo:
-Thôi chớ ! bấy nhiêu đã đủ cho « ở nhà » đền cho chủ ghe rồi !
Kẻ trộm hoảng-kinh, nhè-nhẹ chèo lui mất.
Sáng ra ông kể chuyện cho bạn chèo ghe nghe ai nấy đều hậm-hực, tức vì không bắt được bối, để cho chúng một trận đòn. Nhưng ông đạo cười bảo:
-Các người chớ nóng. Tuy vậy mà từ đây các người sẽ được ngủ yên, khỏi phải thức mà canh chừng bối nữa.
Ai nấy đều tức mình, nhưng không dám cải và cũng chưa biết tại sao từ nay lại khỏi sợ bối !
Nhưng rồi đúng như lời của ông Đạo, không rõ ông đã làm gì mà từ đó lại sau, tuyệt-nhiên trên chiếc ghe nầy không hề bị bối, dù rằng chủ ghe hay bạn ghe đều không có một ai thức canh.
C. Ông Đạo Lập luyện phép và làm phépTrong lúc vân-du, ông Đạo thường dẫn theo một người đệ-tử tên là Huỳnh-văn-Thiện. Mỗi lần lên núi, ông Đạo kiếm chỗ cho đệ-tử tạm ngụ rồi tự mình tìm chỗ u-tịch ngồi thiền hoặc luyện phép.
Theo lời ông Huỳnh-văn-Thiện thường kể thì có ông Trương-hồ-Ngạc, cũng là một đệ - tử của ông Đạo, có tính hiếu kỳ, nên một lần lén thầy, rình xem coi thầy đã làm gì ở nơi thanh vắng. Ông Ngạc đã trông thấy ông Đạo làm một chiếc tàu nhỏ thả trên mặt nước rồi niệm chú. Ông Đạo có diệu thuật khiến chiếc tàu ấy chạy tới chạy lui theo ý muốn của mình.
Biết được cách đó và học lén được những câu chú của thầy, ông Ngạc mới bắt chước làm theo. Kết quả ông đã thành công. Nhưng liền sau đó ông Ngạc ngã lăn ra chết. Ông Huỳnh-văn-Thiện được chứng kiến cảnh ấy, đau khổ vô cùng vì lúc đó vắng Thầy. Ông phải ngồi thâu canh bên xác ông Ngạc để chờ Thầy về liệu tính xem sao !
Sáng ra ông Đạo về một tay xách gói và một tay xách chiếc đệm bàng. Ông Đạo không chờ ông Thiện trình bày tự-sự đã nói ngay trước:
-    Thì ta đã lo sẵn đồ vật, để xem về đây chôn nó !
Những câu chuyện như thế được truyền ra, danh của ông Đạo Lập càng lớn. Người ta đến nhờ ông cứu bịnh và lãnh phái quy-y cùng lúc càng đông. Nên để có chỗ nơi an-trụ và quy ngưỡng, các đệ-tử của ông hợp nhau dựng lên một ngôi chùa. Người ta đến làm công-quả thật đông và nhất là ngày khánh-thành, ghe xuồng đậu chật cả một khúc sông trên kinh Vĩnh-Tế.
Cũng bằng những diệu thuật như trên, ông Đạo từng lấy một cây ếm tại Ton-hon do người Tàu chôn. Cây ếm bằng đá trên mặt có khắc chữ: « Càng-Long, ngũ thất niên trọng thu, cốc dán ». Người ta đã nghĩ rằng cây ếm ấy do họ Mạc đã ếm với mục-đích bí ẩn ! cây ếm ấy bây giờ vẫn còn lại Bài-Bài, miền biên-giới xa-xôi.
D.Ông Đạo Lập qua hảiTheo một bài nhan-đề ông Đạo Lập, tác giả là bà Mộng-Tuyết Thất Tiểu Muội, đã thuật lại một cách tin-tưởng và cho rằng bác của tác-giả, người thường kể lại chuyện ông Đạo-Lập, vốn là người có học, không hề chịu tin những chuyện quàng-xiên, thì ông Đạo đã qua biển một cách dễ-dàng Đầu đuôi câu chuyện được chúng tôi rút gọn như sau:
                -Ông cố của tác-giả vốn là nhà hàng-hải, từng đi buôn sang Xiêm. Ông vừa đống xong một chiếc thuyền buôn đặt tên « Minh-Thuận ». và định cho xuất-cảng với những hồ-tiêu, sáp ong, hải sâm, đồi-mồi thì vừa đúng vào lúc ông Đạo Lập ghé chơi nhà. Sau lễ cúng kiếng, ông cố tác giả hỏi xin ông Đạo một điềm may-mắn, một phép bình-an cho chuyến khai-trương đặc-biệt đó.
Ông Đạo Lập đưa ra cho ba lá bùa, nói:
        - Chuyến đi nầy rồi cũng may-nắm phát-tài. Duy có vướng chút lo sợ. Nhưng cũng sẽ bình-an vô sự. Vậy bùa nầy, khi ra khỏi cửa Hà-Tiên đốt đi một lá, lá thứ nhì để lúc nào có một con cá to định làm hại thì đốt. Còn là thứ ba dành đốt khi vào cửa sông Bắc Nam.
Tất cả trên thuyền có mười người phần đông là Minh-Hương. Khi thuyền ra giữa vời, thình lình ở trước mũi thuyền sóng chỉ bắn lên cao. Một con cá to nhảy bổng lên khỏi mặt nước bằng một tầm người đứng. Vị thuyền trưởng nhớ lời dặn của ông Đạo Lập, đem lá bùa thứ hai thả tàn xuống biển. Thuyền bình yên, lại vượt khơi trên biển.
Một buổi chiều trước mũi thuyền bổng vụt hiện một vật gì to như hòn đảo. Cả thuyền kinh ngạc tưởng chừng tàu bị lạc vào một đảo hoang nào. Nhưng không, hòn đảo ấy biết cử-động và khi đến gần, mới rõ đó là một cái kỳ của một con kinh-ngư khổng-lồ đang đùng đùng lướt sóng chận đầu thuyền. Khi biết rõ đó là một vật ăn thịt người thì cả thuyền hoảng-kinh bối-rối. Vị thuyền trưởng bây giờ mới sực nhớ lại lá bùa thứ nhì đã đốt là lầm. Chắc-chắn nó phải được đốt vào lúc nầy để ngăn chận con kình ngư sát nhân mới đúng. Lúc túng-cùng, vị thuyền trưởng đành phải đem đốt lá bùa thứ ba và nó hoàn toàn vô hiệu. Cá lướt tới càng nhanh hơn, dễ thường cái quẩy nhẹ của-nó cũng đủ làm thuyền lật úp được. Mọi người trên thuyền đều trông rõ được từng cạnh khía của cánh vi cá khổng lồ. Vị thuyền trưởng ra lịnh cho thuyền đảo trịt một bên để tránh vật dữ, nhưng sóng bủa trùng trùng, tràn lên ngập cả sàn thuyền. Cánh vi và cánh buồm thuyền đã song song ngang nhau, cách khoảng không hơn mười thước. Lưng cá cọ và sườn thuyền, mình thuyền nghiêng về một bên. Phút nguy ngập đã tới.
Tuy-nhiên con cá không hành-hung. Đợi khi thuyền qua vừa khỏi, nó quạt đuôi một cái thôi thuyền quay tròn mấy vòng và mọi vật trong thuyền xô đổ. Rồi thuyền mới từ từ yên lại.
Từ hôm ấy cho đến khi trở về, thuyền được bình-yên không có gì trở ngại nữa. Nhưng khi thuyền về tới Mũi-Nai, thuyền trưởng lên bờ, thì đã thấy có ông Đạo-Lập đứng sẵn dưới đám dừa bên mé nước.
Ông Đạo Lập cười nói:
        -Ở nhà đoán biết ữa nay cậu thuyền trưởng về, nên ghé lại đón mừng… Chà ! bữa chiều hôm đó, ở ngoài vời Thổ-Châu, cậu thuyền thường sợ đã xanh mặt. Khi đó ở nhà ở trên chót cột buồm chớ đâu! Nếu ở nhà không giữ cho thuyền vững lại và không đuổi con quái-ngư đi, nó sẽ cấn đến và đột lật cho thuyền chìm, thì các người tất đều vào bụng nó rồi ! Các người đã chẳng thấy từ xa nói hướng thẳng về mũi thuyền đó hay sao !
Thuyền trưởng nghe nói thì hoảng-hốt trở lại như hồi đang lâm nguy giữa biển. Còn ông Đạo Lập thì nói tiếp:
-    Chỉ tội nghiệp cho con cá bè bỗng dưng chịu chết oan ! Vì lá bùa thứ hai của ở nhà cho, đáng lẽ phải để mà diệt con quái ngư ấy !
Nghe qua tự-sự ai nấy thảy kinh hồn.
E. Ông Đạo Lập ném daoVì thích sống giang-hồ, ông Đạo thường không ở nơi nào lâu. Do đó mà ông hay có giang trên các ghe buôn cho đỡ chân. Một lần ông Đạo Lập có giang trên một ghe bán mía. Ngồi buồn trên ghe, ông lấy dao ra róc mía thì gặp phải cây dao lụt quá, róc không sạch vỏ mía. Ông Đạo liền vứt cây dao xuống sông và phàn nàn:
    Dao lụt thế nầy không bỏ còn để làm gì !
Người chủ nghe thấy thế không được bằng lòng nhưng làm thinh không nói

Sáng hôm sau, ghe đến một chợ nhỏ. Bạn ghe lên bờ đi chợ mua về một rỗ cá. Bấy giờ chủ ghe mới có dịp lên tiếng hờn mát.
-    Mua cá làm chi? Có dao rựa đâu mà làm cá !
Bấy giờ ông Đạo Lập ngồi trong khoang ghe, lên tiếng :
           -Liệng xuống hôm qua chỗ nào thì hãy lặn chỗ đó mà mò lên. Đã mất mát đi đâu ! 
Nói rồi ông bước ra, chỉ mặt nước, chỗ cách mũi ghe một sãi, bảo người bạn ghe lặn xuống đó mà lấy dao lên. Quả nhiên cây dao yếm mà ông Đạo Lập liệng xuống nước bữa trước được lấy lại. Cần để ý rằng chiếc ghe mía mà ông Đạo Lập có giang, từ chỗ ném dao cho đến chỗ mò dao, cách xa một ngày rưỡi đường, thế mà cứ chỗ đánh dấu của ông Đạo Lập, lại tìm lại được một cách dễ-dàng.
Càng lạ lùng hơn cây dao lụt trước, nay được sáng trưng, bén ngót như có ai mài sẵn.
F. Ông Đạo Lập tàng-hìnhTrong buổi đầu thuộc Pháp, không rõ ông Đạo Lập đã góp tay vào các nghĩa đảng thế nào, mà thực dân thường theo dõi tìm bắt ông luôn. Trong các đệ-tử Đức Phật-Thầy Tây-An, ngoài Cố-Quản Trần-văn-Thành chắc-chắn có ông Đạo Lập là người có đứng hoạt-động cứu quốc.
Một lần ông Đạo Lập đến Hà-Tiên, vào thăm nhà quen thì cũng đúng là khi thực dân dò ra tung tích ông Đạo Lập nên tìm đến vây bắt.
Ông Đạo đang ngồi uống trà tại một vườn cam với chủ nhân, chợt nghe có tiếng động, ông liền đứng lên cắp nón, cầm gậy, xô cửa tầu khận - một cái nhà ngoài dùng chứa hàng-hóa - bước vào rồi bảo chủ nhân khóa chặt lại.
Chủ nhân trở vào nhà trên thì một bọn người Pháp đang lục soát kiếm tìm ông Đạo-Lập. Sau khi tìm khắp nơi, họ bắt phải mở tầu khậu cho xem. Và kết-quả là ông Đạo-Lập đã đi đâu mất, không hề một ai trông thấy bóng dáng gì !
Thêm một câu chuyện tàng-hình khác: Trong đảng Cần – Vương, có ông Học-Sanh-Thái người Châu-Đốc. Ông Thái về sau kết thông-gia với nhà Cách-Mạng Nguyễn-Thần-Hiến ở Hà-Tiên. Ông Thái lại cũng có kể một câu chuyện tàng-hình về ông Đạo-Lập như sau:
Khi đảng Cần-Vương còn hoạt-động, ông Thái vốn được trong đãng tín-nhiệm, ông giữ một tờ mật chiếu của Triều-đình. Ông Thái lấy làm lo sợ bại lộ tờ mật chiếu là một tang chứng thật nguy, nên ông mới đem giấu tại một cái miểu thờ Thần Nông bí mật, không một người thứ hai hay biết.
Nhưng ít lâu sau, tờ chiếu mật mất. Một điều lạ là ông Thái rất thận trọng ông đã nhét mật chiếu vào sau tờ giấy đỏ có viết chữ thần to tướng lại bàn chánh rồi dán kỹ lại thì ai biết và ai mà dám động tới chỗ tốn-nghiêm kia ! Ông Học-Sanh Thái rất lo sợ bại lộ cơ-mưu. Nhưng thời-gian qua, vẫn bình-yên không có gì lạ.  Một hôm ông gặp ông Đạo Lập. Ông Đạo Lập hỏi ngay
-    Chú có làm mất cái gì không?
-    Không ! Tôi chẳng có gì mà mất. Ông Đạo Lập nói:
                -Thử nhớ lại xem, vật không quý, bỏ thì thương, vương thì tội !
Bấy giờ ông Thái mới nhớ ra và nói rõ nỗi lo âu của mình bấy lâu nay. Ông Đạo Lập cười:
            -Ở nhà đốt đi rồi chớ mất đi đâu ! Chúng ta mưu đồ là vì đại nghĩa chứ đâu phải vì bổng lộc !
Bây giờ ông Thái mới tỉnh-ngộ và hỏi:
-    Thế sau ông biết tôi giấu ở miễu mà hủy bỏ ?
Ông Đạo Lập không đáp thẳng câu hỏi mà bảo ông Thái cố nhớ lại xem có gì lạ khí đem giấu tờ mật chiếu trong miễu. Ông Thái liền thuật lại là khi giấu xong đi ra, nghe tiếng động dưới cỏ, ông giật mình ngó xuống thì thấy con rắn bò sát bên chân. Ông Đạo Lập cười bảo:
            -Ở nhà đó chớ rắn-rít gì. Không hóa rắn, làm sao theo dõi để biết rõ chuyện bí mật của chú được !
Khi trở về già, ông Đạo Lập về Bài-Bài cư-ngụ và tịch-diệt tại đây. Không thấy bài-vị ghi rõ ông mất năm nào. Chỉ biết được ngày 29 tháng 9 hằng năm là ngày cúng vía của ông.
Mộ ông được chôn cất tại xã Vĩnh-Ngương, cũng theo căn-tích của Đức-Phật Thầy, không có đắp nắm.

Theo www.hoahao.org.
4/Ông Nguyễn Văn Xuyến (1834-1914) :
Còn gọi là Đạo Xuyến, quê ở Ba Giác, Mõ Cày tỉnh Bến Tre, quy y với đức Phật Thầy khi  ông lên 17 tuổi, cách đi giảng đạo của ông là đi ghe giăng buồm chạy trên sông, khi hết gió ngừng lại chỗ nào thì giảng đạo chỗ đó, ông đi quanh vùng Long Xuyên, Rạch Giá, Hà Tiên giảng đạo. Ông có dựng chùa Châu Long Thới ở Cái Dầu, Châu Đốc.
Ông Nguyễn văn Xuyến mà người đời thường gọi là ông Đạo Xuyến, sanh năm Giáp ngọ (1833) ở làng Bình long, tỉnh Châu đốc, trong một gia đình lễ giáo nho phong.
Trong hàng đệ tử của Đức Phật Thầy, có thể kể là người trẻ nhứt, vì khi Đức Phật Thầy ra đời độ thế vào năm Kỷ dậu (1819), ông đến qui y thọ phái thì lúc đó ông mới có 17 tuổi.
Ông bỏ gia đình mà theo Đức Phật Thầy từ ngày ra mở Đạo cho đến khi tịch diệt. Như các môn đệ khác, ông được liệt vào hạng Đạo, nghĩa là hàng đệ tử được truyền nhiều diệu pháp.
Cứ theo lời những người được ông bà kể lại cho nghe thì khi được Đức Phật Thầy truyền pháp, ông thường lên núi tự tu luyện lấy. Ông đạt được phép thần thông có thể sai binh khiển tướng, thuần phục các thú dữ. Bởi thế người đời không lấy làm lạ mà thấy ông thường cỡi bạch hổ hạ san.
Như có một lần nọ ông xuống núi gặp lúc người Cao miên ken, nghĩa là hợp nhau ruồng bắt người Việt theo cần vương. Họ vây ông mà hỏi: Anh là người Việt, anh định vào sóc Thổ để làm gì? Ông trả lời là lên núi để học đạo.
Họ nói: Nếu anh là người học đạo phải đi qua cái cầu này. Nói rồi, họ bắc một cái cầu bằng một cây sậy ngang qua một cái lạch nước rồi bảo ông đi. Hễ ông đi được thì thôi, còn bằng đi không được thì ông sẽ chung một số phận với cái cầu sậy ấy.
Thế mà ông vẫn đi qua cầu ậy không gẩy. Thấy vậy, đám người Miên kia đều mọp xuống bái phục.
Nhận thấy ông đạt nhiều phép thần thông, Đức Phật Thầy giao cho ông cái nhiệm vụ vân du đi cứu dân độ thế, khuyến giáo người đời. Ông đi gần khắp miền Nam nước Việt, cứ đi trong một hai tháng là về thăm Thầy, lãnh giáo một lần.
Có một lần nọ, ông đi ba tháng mà không thấy về. Đức Phật Thầy có ý trông đợi, nhắc nhở đến luôn. Lúc đó ông đương hóa độ ở Bà Rịa. Ông vụt thu xếp hành trang ra về, mặc dù tín đồ của ông khẩn khoản thế nào cũng không được. Khi về tới chùa Tây An ở núi Sam, gặp lúc Đức Phật Thầy bận việc hốt thuốc phát phù cho bá tánh, ông khép mình đứng ở phía xa, thế mà Đức Phật Thầy đã biết ông về nên xây lại nói: Ông Đạo Xuyến về đó hả? Thầy chào ông!
Khi phát thuốc xong, Đức Phật Thầy dắt ông vào liêu, khuyến giáo trong năm sáu tiếng đồng hồ.
Về sau ông thuật lại cho biết Đức Phật Thầy không bằng lòng cho ông tu hạnh ly gia cắt ái ấy, vì như thế ông sẽ tuyệt tự, không người nối nghiệp mà truyền lại giáo pháp, trong lúc còn lâu lắm mới tới đời.
Về điều này, người không hiểu pháp môn của Ngài không khỏi băn khoăn, vì nó trái với giới luật của nhà thiền.
Nhưng một khi hiểu được pháp môn hành đạo của Ngài, người ta mới không còn phải lấy làm lạ. Ngài là bực đẳng giác, thấu rõ cơ huyền và căn tánh của chúng sanh. Trong thời kỳ Hạ Nguơn sắp mãn để lập lên đời Thượng Nguơn, muốn cứu vớt chúng sanh cho kịp kỳ Long Hoa Đại Hội, Ngài chỉ dụng có phương pháp thức tỉnh cho họ cải ác tùng lương, trở nên con người hiền đức, nghĩa là khuyến giáo cho họ làm tròn nhơn đạo. (1)
Bởi thế, đạo của Đức Phật Thầy có thể hiểu là đạo: Tu nhân học Phật.
Ông Ba Thới đã khéo tóm lược ý nghĩa phép tu ấy trong hai câu:
Tu quốc vương có vợ có chồng,
Có con có cháu nối dòng an bang.
Về sau, ông Đạo Xuyến, vưng theo lời Thầy trở về quê lập gia thất, sanh đặng sáu người con:
Ba trai, ba gái. Ông dựng lên ở làng Bình Long, phía trên chợ Cái dầu, ngôi chùa Long Châu Thới để thờ Phật và làm nơi cứu dân độ thế bằng phù phép và pháp thuật của ông. Dân trong vùng đến nhờ ông cứu độ và qui y rất đông. Nhứt là những bịnh điên tà đều được ông chữa trị rất thần diệu. Ngoài cách chữa trị bịnh nhơn, ông còn lãnh nuôi con nít. Ai sanh con khó nuôi đều đem đến ký bán cho ông nuôi. Ông lên núi luyện được nhiều vị sơn thần đem về chùa. Mỗi vị được ông tượng cho một cái cốt. Ông khiển các vị tướng ấy lên, hễ vị nào chịu nuôi thì thân chủ rước về mà thờ.
Khi ông cả Tồn, người con trai thứ ba của ông lớn lên, ông giao lại ngôi chùa ấy.
Ông tịch ngày mồng bốn tháng tám năm giáp dần (1914) hưởng thọ 82 tuổi.
Nối nghiệp cha, ông cả Tồn cũng dùng một ít pháp thuật. Ông chấn chỉnh chùa Long Châu Thới và tiếp tục trị bịnh cho tới ngày ông mất, nhằm ngày 12 tháng 9 năm Bính Thìn (1916).
Chùa Châu Long Thới kể ra cũng là một ngôi chùa cổ, dựng lên có gần một trăm năm. Ban sơ chùa cất bằng tre lợp lá, sau nhiều lần tu bổ, cho đến năm Nhâm thìn (1952) Đức ông, thân sinh của Đức Huỳnh Giáo chủ và ông Lâm Thành Nguyên đứng ra chủ xướng việc sùng tu. Chùa cất lại bằng gạch ngói, có hậu tổ, đông lan, tây lan, phong cảnh đẹp đẽ như ngày nay
Sau khi tu chỉnh, nghi thức thờ phượng trong chùa đã được sửa đổi thờ trần đỏ theo chơn truyền của Đức Phật Thầy.

( http://www.hoahao.org)
5/Ông Đạo Ngoạn (1820-1890) :
Tên thật là Đặng Văn Ngoạn, người làng Nhị Mỹ, Cao lãnh tỉnh Đồng Tháp. Ông có lập chùa ở Trà Bông (Cao Lãnh) và có nhiều đệ tử ở đây.
A. Thân-ThếÔng Đạo Ngoạn nguyên danh là Đặng-Văn-Ngoạn, sanh năm Canh-thìn (1802) nhằm Minh-Mạng nguyên niên. Theo quyển « Đạo-Ông giảng-tập » bằng văn nôm, chép theo thể thượng-lục hạ-bát, lời lẽ thận-trọng đáng tin cậy nhưng không rõ tác-giả là ai, thì ông Ngoạn là một trong « thập-nhị hiền-thủ » của Đức Phật-Thầy Tây-An ngày xưa. Chính thế mà thời nhân quen gọi ông là ông Đạo-Ngoạn.
Sinh quán ông tại làng Nhị-Mỹ, tổng Phong-Thạnh, quận cao-Lãnh, tỉnh Định-Tường (nay là tỉnh Kiến-Phong). Trong lòng sông Cần-Lố, thuộc xẻo rạch Trà-Bông (Đồng Tháp-Mười).
Ông có ba đời vợ. Vợ đầu tiên tên Thị-Nhị, vợ giữa là Thị-Thu, vợ sau tên Nguyễn-Thị-Huê (?). Vợ đầu bà vợ giữa không con. Vợ sau tức là Thị-Huê, ở với ông chỉ sanh được một trai là Đặng-Công-Hứa. Hiện nay Công-Hứa còn sống, tuổi thọ được 76, nối chí cha và đang trụ-trì tại chùa Trà-Bông
Năm ngoài 20 tuổi, ông Ngoạn còn một mẹ già, một người anh và một em gái. Sau khi đã cần-mẫn làm ăn lập được một khoảnh ruộng vườn khả-dĩ nuôi sống đủ gia-đình, ông xin phép mẹ cho thong-thả tìm nơi dưỡng tính tu tâm, vì ông cảm thấy « lòng bồ-đề của mình đã bắt đầu nảy-nở ». Mẹ ông thuận cho. Ông liền vào rạch ông-Bường, lựa một nơi thanh vắng để tịnh-niệm.
Trong thân-tộc của ông có người ghét bỏ đến cáo với làng rằng ông ngầm mưu làm chuyện bất lương chứ không phải thực tâm tu-tỉnh. Làng bắt ông ra nhà việc Cây-Me (bây giờ là Doi-Me) để tra hỏi. Anh ông là Bổn Chính hay tin phẩn-nộ không cùng, Chính đến nhà làng Phản-đối rồi cũng bị bắt luôn.
Bấy giờ có người bà con với ông có thế-lực, đang làm chức Quản-Khám tại Mỹ-Trà (Cao-Lãnh) đến can-thiệp nên hai anh em ông được tha. Từ đó ông Ngoạn buồn lòng, lập chí về non tu-tỉnh để tránh cuộc đời dua-mị đê hèn của thế-nhân chen-lấn.
B.Đến núi SamTháng chạp năm canh-Tuất (1850) khi biết tin Đức Phật-Thầy Tây-An được phép nhà cầm-quyền tỉnh An-Giang cho vào núi Sam truyền đạo, ông Ngoạn liền từ-giã mẹ, tìm đến tận nơi để xin quy y. Với bẩm chất hiền-lương điềm-đạm, mới đầu ông được Đức Phật-Thầy ủy cho vào núi Voi hiệp cùng ông Bùi-Văn-Thân, tức Tăng-Chủ Bùi Thiền-Sư mở ruộng lập nhà, chùa rồi 14 tháng sau, ông được Đức Phật-Thầy đổi về núi Sam hiệp cùng ông Đạo Thạch để giúp Ngài trong việc phát phù trị bịnh và xem sóc trong chùa Tây-An.
Trong thời gian ở đây, ông được Đức Phật-Thầy tin yêu lắm. Đến những chuyện truyền đạo và thù-tiếp với những bậc nho giả bốn phương, Đức Phật-Thầy nhiều khi giao phó cho ông được trọn quyền định-liệu.
C. Trở về Trà BôngSuốt bốn năm theo hầu hạ bên Thầy để học điều đạo nghĩa, ông Ngoạn tự thấy tâm hồn nhẹ nhỏm vui-tươi. Bỗng một hôm, Đức Phật-Thầy kêu ông lại gần mà bảo phải trở về Trà-Bông để « bảo dưỡng mẹ già » và phải « tìm nơi kết tóc » để sanh con nối hậu, vì nợ trần của ông còn nặng. Tuân lịnh Thầy, nhưng ông Ngoạn còn bịn-rịn, xin nán lại ít ngày để thu xếp công việc trong chùa rồi sẽ trở về quê-quán.
Chuyện bay ra ngoài, Thị-Nhị là một tín-đồ của Đức Phật-Thầy, bấy lâu lo việc nấu nướng ở liêu sau, nghe tin bèn đến tận mặt ông Ngoạn nguyền xin trọn đời theo ông để « nâng khăn sửa trấp ». Ông Ngoạn bằng lòng. Hai người dẫn nhau đến trước Đức Phật-Thầy trình bày ý-định và xin Ngài cho phép đi về Trà-Bông.
Đức Phật-Thầy nói: « Việc ấy tùy ý các con. Nhưng sau nầy, riêng Đạo-Ngoạn phải chịu nhồi quá: nghèo nàn đến nổi vận khố, đi giữa chợ đông, khốn cùng, đến đỗi trèo non lội suối để trốn tránh, cho đến năm 60 tuổi mới được thảnh-thơi nhàn-hạ ».
Ngày rằm tháng 7 năm Giáp-Dần (1854) ông Ngoạn cùng vợ rời núi Sam, về Trà-Bông viếng mẹ rồi lập một ngôi chùa tại vàm. Từ ấy chuyên lo chữa bịnh và phổ-thông mối đạo.
D. Mối oan-khiênVới phương-tiện tại gia cư-sĩ và học Phật tu nhân, ông Ngoạn nhất-đán đã thu-phục được hàng ngàn tín-đồ. Vì thế Thị-Nhị sanh lòng lợi-dụng, thâu nạp của tiền, vật thực, chứa đựng đầy rương đầy lẫm. Mặc dù ông Ngoạn đã hết lời giảng-dứt cấm ngăn, Thị-Nhị vẫn làm liều không kiêng-nễ chi hết.
Một ngày kia chùa bỗng dưng phát hỏa, cháy sạch của tiền mà Thị-Nhị bấy lâu dành trữ. Kế tiếp, nạn binh lửa do Pháp vào chiếm đóng Nam-Kỳ tràn lan khắp nơi, ông Ngoạn cũng như muôn ngàn người khác, phải đem gia-đình truân-chuyên lánh nạn.
Năm 1867, quân Pháp cưỡng chiếm 3 tỉnh miền Tây và lập trật-tự ở Nam-Kỳ, ông Ngoạn trở về dựng lại chùa xưa, bổn đạo quy-tụ rất đông, sự chữa trị của ông càng linh mầu hơn trước nữa.
Phen nầy Thị-Nhị thâu thập của tiền đem về gởi cho quyến thuộc, lại còn sanh tâm chống-báng với ông Ngoạn mọi điều… Tín đồ của ông Ngoạn thấy vậy không dằn được lòng căm tức, yêu cầu ông cản ngăn. Thị-Nhị thấy thế lại càng kiếm chuyện hành-hung, buộc ông Ngoạn phải giao hết chùa-chiền, giao hết quần áo đang mặc trong mình chớ không được chừa lại một món chi cả. Nhị viện lý là nhờ công của mình chắc-mót.
Ông Ngoạn chỉ còn tay không với một cái quần đùi, để mặc ý cho Thị-Nhị dở chùa chở đi nơi khác, ông chẳng hề hở môi phàn-nàn than-trách.
Tín-đồ của ông rất đổi thương tâm, xúm nhau kẻ giúp lá người cho cây và ra công cất lại cho ông ngôi chùa khác.
Nhưng oan-quả vẫn chưa thôi, Thị-Nhị - sai khi dở chùa về cất tại giòng Thá-La gần đó - lại đến bắt ông về ở. Túng quá, ông Ngoạn chẳng biết làm sao với người ngoan phụ, chẳng lẽ mình tu-hành mà mãi rầy-rà, ông liền ẩn-lánh lên miền Thất-Sơn, với ý-định là mong Thị-Nhị quên ông, hay có chồng khác đi cho ông khỏi bận.
Nhưng sau đó ít hôm, Thị-Nhị dò biết được tin, bèn gom góp của tiền, lên núi Két là chỗ địa-cầu của Thất-Sơn, cất am ở đó để chận đón ông Ngoạn.
E. Sang Tà-LơnBiết là chuyện không hiền, ông Ngoạn sau khi chu-du cùng khắp Thất-Sơn, ông kết bạn với ông Tường (không rõ người gốc tích ở đâu) rồi rủ ông nầy sang Tà-Lơn tìm nơi tỉnh-dưỡng.
Trong khoảng ở Tà-Lơn, ông luyện được rất nhiều phép thuật. Có bận ông bảo ông Tường đem rỗ của ông đã đươn được trên non xuống Sốc-Thổ để đổi gạo về ăn. Ông Tường sợ lạc đường, lại sợ thú dữ nên từ chối không đi. Ông bảo ông Tường cứ đi, ông sẽ cho hùm thiêng dẫn lối. Ông Tường đánh bạo ra đi. Thế là quả thật, có cọp đi trước kêu chừng và giữ-gìn cho ông Tường một cách cẩn thận.
Ở Tà-Lơn một độ. Ngày kia thình-lình ông Ngoạn rơi lụy mà boả ông Tường rằng: « Chư thần cho tôi hay: hiện nay mẹ tôi ở nhà đau nặng, đang nguyện vái và mong mỏi tôi về. Vậy chú liệu xem có thể một mình ở lại hay cùng về với tôi ?».
Ông Tường nghe sao hay vậy chớ trong lòng bán tin bán nghi. Nhưng khi hai người về đến Trà-Bông thì quả thật, thân mẫu của ông Ngoạn còn đang trầm-kha trên giường bịnh.
F. Lên núi KétLo thuốc thang cho mẹ vừa mạnh, ông Ngoạn lại phải nghĩ đến việc mưu sinh, vì lúc nầy, đúng y như lời Phật-Thầy mách trước ngày xưa, ông Ngoạn thật nghèo nàn vất-vả, chỉ có một cái khố rách che thân mà thôi. Ông phải lên núi Két hái thuốc, nấu thuốc cao, thuốc dán để đổi kiếm chút tiền nuôi mẹ và độ hồ khẩu cho mình. Hồi nầy Thị-Nhị đã trở về giòng Tha-La, ông không còn lo vì sự trở ngại lôi-thôi ở núi Két nữa.
Theo tài-liệu trong « Đạo-Ông giảng-tập » thì khoảng nầy ông Ngoạn hiệp cùng ông Bùi-Văn-Thân ông Cả-Lăng, ông Chủ-Dương, chấn chỉnh tại chùa chiền trong làng Hưng-Thới. Và cũng chính lúc nầy ông bí-truyền tâm-pháp cho ông Từ-Đọt (hay từ Lão) một đệ-tử của Đức Phật-Thầy – và dặn-dò công việc truyền-đạo cho ông nầy trước khi ông Ngoạn rời khỏi Thới-Sơn.
G. Dựng lại chùa Trà-BôngRời Thới-Sơn, ông Ngoạn trở về Trà-Bông viếng mẹ. Một hôm, mẹ bảo rằng: Mẹ nghĩ con thì tuổi một ngày một lớn; mà mẹ thì mỗi lúc một già, nay mai mẹ nhắm mắt rồi, mẹ sẽ không vui lòng mà để con ở lại với cảnh lao-đao khổ cực như vầy mãi mãi. Nên mẹ đã lựa cho con một chỗ tại làng Mỹ-Long, con hãy sớm mà lo lập lại cho rồi gia-thất.
Vâng lời mẹ, ông Ngoạn xuống Mỹ-Long cưới vợ. Bà ấy tên là Thị-Thu: tánh nết thuần-hòa, dung-tư đứng-đắn. Không bao lâu bà đã lo làm lụng có một số vốn và mua muối đổi được một số lúa khá nhiều. Bà định giúp ông Ngoạn để dựng lại chùa-chiền, chấn bưng đạo-đức.
Nhưng Thị-Nhị với tấm lòng sâu độc, đem ghe từ giồng Tha-La xuống Cái-Sao-Hạ (Mỹ-Long) a vào nhà chở hết lúa và muối mà bà Thu đã dày công dành-dụm.
Thấy việc quá ngang trái, Hương-Chủ Sắc là người có thế-lực nhứt trong vùng, đến cản ngăn và thóa-mạ Thị-Nhị, nhứt quyết không cho chở lúa. Ông Ngoạn thấy vậy can ông Chủ Sắc và tự nhận là nghiệp quả của ông, vì theo lời tiên-tri của Đức Phật-Thầy, đến năm 60 tuổi sắp lên ông mới được thong-dong rổi-rảnh. Ông Chủ Sắc không biết tính sao, vì không có nguyên-cáo, ông đành để cho Thị-Nhị tự ý tung-hoành.
Nhưng trời vẫn còn tựa người lành, bà Thu lại ra sức làm lụng nuôi mẹ giúp chồng, ít lâu tiền bạc có dư, bà theo ông Ngoạn về Trà-Bông cất lại ngôi chùa ngay nền ngày trước, mà ông Ngoạn vì lánh Thị-Nhị đã bỏ hư, và nổ-lực vung trồng ruộng phước.
Bổn đạo nghe tiếng trở về thăm viếng và nghe thuyết Pháp rất đông. Nhưng công cuộc phổ-truyền đạo đức đang tiến hành hiệu quả thì bỗng bà Thu mang bịnh ngặt mà qua đời. Ông Ngoạn lại phải một phen bận lòng lo-lắng. Ông giao hết của cải của bà Thu cho hai người cháu là Hai Nhẫn và Bảy-Truyền rồi đóng cửa mà chuyên lo kinh-kệ. Năm ấy ông ngoài 50 tuổi.
H. Chữa bệnh thời-khíNăm Giáp-Tuất (1874), bệnh thời khí hoành nhiều nơi làm cho nhân-dân nhộn-nhàng kinh-sợ không làm ăn được. Hương chức làng Nhị-Mỹ thấy thế hội nhau bàn-tính, rồi kéo đến chùa Trà-Bông thỉnh-cầu ông Ngoạn chữa trị.
Vốn sẳn lòng đạo-đức, lại giỏi về khoa cứu chữa bịnh nầy từ khi còn gần-gủi bên Đức Phật-Thầy, ông Ngoạn liền đem hết năng-tài thi-thố. Công hiệu của sự trị binh và quần-chúng kéo tới đông-đảo thế nào, thiết tưởng đoạn văn dưới đây trong tập « Đạo Ông giảng-tập » đủ miêu-tả rõ.
         Đạo ông pháp-thuật gắn keo,
Ra oai Phật-lực cứu-điều muôn dân.
         Chuyển xoay kinh chú như thần,
Ôn-hoàng dịch khí một lần phải kiêng.
         Phù linh hay tợ thuốc tiên,
Phun đâu giải đó mạnh liền như xưa.
         Tổng nào tỉnh ấy đều ưa,
Biết bao nhiêu kể người ta đông vầy.
         Kẻ lui người tới dẫy đầy,
Dòng sông chật nức ghe cây chen luồn.
Sự đông đúc hiện giờ đến đổi làm cho quân Pháp ở Định-Tường kinh sợ. Họ xuống lệnh cho nhà chức-trách ở Sa-Đéc quan-sát coi nếu thật là gian đạo-sĩ « hội dân làm loạn thì cấp tốc bắt ngay ». Nhưng lúc này giới hữu quyền ở đây phần nhiều đều cảm-phục uy-đức của ông Ngoạn, họ mật bàn với nhau, thỉnh sắc thần đem về để sau hậu tổ chùa Trà-Bông rồi báo về tỉnh đường rằng sự tụ-hội đông-đảo là để cầu an bá-tánh và cúng thần chớ không chi lạ. Nhờ vậy mà từ ấy sự lui tới của dân chúng mới yên. Ngày nay tại chùa Trà-Bông vẫn còn để thờ Long-Đinh, ấy là nếp cũ ngày xưa vẫn còn roi dấu.
I. Sanh còn và tịch diệtTừ khi bà Thu là vợ giữa của ông Ngoạn mất đi, ông không hề nghĩ đến việc tục huyền nữa. Nhưng mẹ ông không nghe, thường dạy ông lấy vợ để sanh con nối hậu.
Nhớ lời Thầy xưa và tuân theo lệnh mẹ, ông Ngoạn cưới bà Nguyễn-thị-Huê ở rạch Cái-Vừng (thuộc làng Nhị-Mỹ) về coi sóc trong ngoài và sớm hôm nuôi dưỡng từ-mẫu. Bà nầy đức-độ thanh-cao, làm ăn giỏi-giắn. Trong việc giúp-đỡ bịnh-nhân và tiếp đãi tín-đồ của ông Ngoạn lúc sau nầy, một phần lớn nhờ ở bàn tay của bà giúp sức.
Căn-cứ theo bài du-ký Đế-Thiên (có lẽ là của ông Đặng-Công-Hứa) thì năm ông Ngoạn đúng 60 tuổi, tức là năm Canh-Thìn (1880), ông nằm mộng thấy có Khổng-tước bay đỗ vào lòng, rồi trong năm ấy bà Huê thọ thai và sanh hạ một trai. Nhân thấy điềm ứng chim công, ông Ngoạn theo đó mà đặt tên con là Đặng-Công-Hứa. Cuộc đời sóng gió của ông Ngoạn trước kia từ nay không còn có nữa. Ông sớm chiều thong-thả giảng đạo xem kinh, tịnh-niệm và tu bồi công-đức.
.Tết Canh-Dần (1890), giữa lúc có tín-đồ tựu về lễ Phật đông-đủ, ông Ngoạn vui vẻ nói: « Trong năm nay, chúng đệ-tử sẽ không còn gặp mặt ta nữa. Vậy mỗi người cứ trì-tâm đạo-tác phước-điền, chớ khá vì chẳng ai nhắc-nhở mà lảng-xao bổn-phận ». Tín-đồ nghe nói biết là lời trối nên đau đớn bịn-rịn chẳng chịu ra về, ông phải đem thuyết « hữu hình tắc hoại » ra giảng-giải, ai nấy mới chịu an lòng nghe theo.
Ngày 19 tháng 2 năm ấy, ông tắm gội sạch-sẽ rồi ngồi niệm Phật mà tịch-diệt, thọ được 70 tuổi. Tín-đồ xúm nhau chôn cất và thương-xót vô cùng, có người ở lại Trà-Bông đến ba năm để săn-sóc và bồi đắp chung-quanh nắm xương tàn của người liễu-ngộ cho thỏa-lòng luyến tiếc.
Qua mười năm khói lửa, ngôi chùa Trà-Bông đến giờ hãy còn giữ được nguyên vẹn phong-độ uy-nghiêm, mặc dù cây cối quanh chùa đã phải nhiều phen đương đầu với sự tàn-phá của miểng bom oanh-tạc.

(http://www.hoahao.org)
6/Ông Đạo Lãnh ( ? ) :
Còn gọi là ông Hai Lãnh, không rõ gốc gác ở đâu, ông có vợ là bà Nguyễn Thị Ngôn ở Nhà Bàn, tỉnh An Giang, hai ông bà đều là đệ tử của đức Phật Thầy. Năm  1859, người Miên nỗi loạn ở Láng Cháy, vợ con chết hết trong trận nầy, ông mới tu và đắc đạo, trị bệnh cho nhiều người, sau lên Gò Sặt ở Kampuchea hành đạo, có nhiều đệ tử người Miên. Ông tịch và thiêu ở nơi đây.
 (Người ta cho rằng ông Đạo Lãnh là thuộc tướng của đức Cố Quản, điều nầy hoàn toàn không đúng. Theo quyển gia phả do ông Huỳnh Bá Nhệ, giáo học tại Thị Xã Châu đốc và ông Nguyễn Văn Sáu, giáo học trường Tiểu Học Chợ Quán lập, có ghi sự tích ông Hai Lãnh : Ông Hai Lãnh có vợ là bà Nguyễn Thị Ngôn ở Nhà Bàn, tỉnh An Giang, hai ông bà đều là đệ tử của đức Phật Thầy, năm Kỹ Mùi 1859, Miên nỗi loạn ở Láng Cháy, ông bị Miên bắt với người em dâu thứ Năm của vợ và mấy đứa cháu. Bà Ngôn thấy chồng, em dâu là vợ của Năm Tín, và mấy cháu bị bắt, nghĩ rằng tất cả sẽ bị giặc giết nên bà bồng con vào nhà nổi lửa tự thiêu cả hai mẹ con, về sau bà cũng hiển linh lắm ( ông Sĩ Hiền có đăng một bài báo về sự linh hiển của bà hai Ngôn, vợ ông Lãnh đã cứu một đoàn nghĩa binh chống Pháp năm 1946, Báo Đuốc Nhà Nam ngày 22-6-1970 ), ông Năm Tín trốn gần đó, thấy chị mình tự thiêu chạy về định cứu, bị hai tên giặc Miên bắt, ông nắm kéo cả hai tên Miên vào nhà chết cháy luôn.
Giặc Miên lúc đó, hể ai bị bắt mà có vợ, có chồng thì tha, do đó vợ Năm Tín bèn chỉ ông Hai Lãnh là chồng, giặc tha cả hai và mấy con của người em. Ông Hai Lãnh được tha về, vì em dâu nhận mình là chồng, ông cho đó là sự loạn luân, lại thêm cảnh thê thảm, giặc giết dân làng, vợ con, em vợ bị chết, ông buồn bỏ nhà đi lang thang (có thể ông đã luyện đạo trong thời gian nầy chăng ?), lúc ấy ông hiển đạo, biết việc quá khứ, vị lai và trị bệnh rất linh nghiệm, cả người Miên cũng phục ông, nhức đầu, ông lấy tay vỗ lên trán, bệnh khác nặng nhẹ ông cho uống nước lã dạy niệm Phật sẽ khỏi, ông có chế thuốc cao và bán khoai lang ở kinh Vĩnh Tế, ông có ra cuốn sấm giảng “ Ông Bán Khoai” , vài năm sau ông lên Gò Sặt tu, bổn đạo ông khá đông là người Miên, sau ông tịch ở Gò Sặt, trong những vật dụng thiêu với ông, có một cây lọng bằng giấy cán tre không cháy, cháu ông để thờ, trong nhà trẻ con bệnh, mài cán lọng  pha với nước uống thì khỏi. Theo sự cúng giỗ của cháu vợ (con ông thứ Tư), ông mất vào ngày 14 tháng 4 âm lịch ( không rõ năm nào).
Ông truyền dạy cho người trong gia đình, khi ra khỏi nhà, khi đi đâu trở về nhà, lúc lên giường ngủ, lúc thức dậy nên niệm Nam Mô A Di Đà Phật .)

 (http://baynui.blogspot.com/2010/05/uc-phat-thay-tay.html)
7/ Ông Đình Tây (1802-1890) :
Tên thật là Bùi Văn Tây, không rõ gốc tích (có người cho là gốc gác ở Năng Gù, huyện Châu Thành tỉnh An Giang, điều nầy chắc không đúng, vì kẻ viết bài là người Năng Gù, chưa từng nghe ai nói như vậy), là cháu cũng là con nuôi của ông Tăng Chủ, người được đức Phật Thầy giao cho những vật để bắt sấu thần gọi là “Ông Năm chèo”.
Ông Năm Chèo : Người ta tin nó là con sấu thần, có năm chân ( như ghe có năm chèo, để chèo trên sông nước) mũi đỏ, ẩn mình dưới cù lao nào đó, sau sẽ nổi lên ở Vàm Nao, há miệng ra ăn thịt tất cả những người không có tu nhân tích đức.
Theo truyền khẩu, một đêm kia đức Phật Thầy vào trại ruộng Thới Sơn dạy ông Đình Tây đi xuống Láng Linh để cứu người, ông liền tức tốc xuống vùng đó, có người đàn bà đang đau bụng đẻ, nhà đơn chiếc, ông Đình Tây liền lo cất chòi, rước mụ cho người ấy sanh (hồi xưa, cách nay chừng 30 năm, ở nhà quê có người sanh, phải che một cái chòi bên cạnh nhà cho người ấy sanh, rước một bà mụ vườn để lo đở đẻ, cắt rốn cho trẻ sơ sanh).
Gia đình nghèo, người chồng tên Xinh phải đi câu phược (đi câu cá lóc ban đêm), khi trở về thấy vậy, người chồng mang ơn vô cùng, sẳn trong giỏ có con sấu mũi đỏ, năm chân, cho là con vật kỳ lạ nên anh ta biếu ông Đình Tây để đền ơn. Ông Đình Tây nuôi vài năm đã lớn, nó bỏ đi bắt vịt của người ta để ăn, sự phá hại ấy làm cho nhiều người kêu ca, ông Đình Tây không bắt nó lại được nên trình cho đức Phật Thầy rõ, Ngài cho biết nó là con vật linh, sau nầy nó sẽ nổi lên ở Vàm Nao (nơi sông Tiền Giang và Hậu Giang giao nhau ở vùng Hòa Hảo), nó sẽ ăn thịt tất cả những người không tu hành, do đó Ngài rèn một lưỡi câu, một cây mum, hai cây lao và đánh một sợi dây ngũ sắc, giao cho ông Đình Tây để sau nầy, dùng những vật ấy câu bắt con sấu thần có năm chân, được mệnh danh là “Ông Năm Chèo” đó.
Theo chỗ chúng tôi nghĩ, con sấu ấy có thật, các vật để câu sấu có thật, ngày nay con cháu ông Đình Tây ở Nhà Bàn, Châu đốc còn giữ, nhưng con sấu ấy cả trăm năm rồi, nó chẳng hề ăn vịt, bắt người nào cả. Đáng lý ra, nó cũng phải nổi lên mặt nước để thở, để bắt mồi, phải ăn để sống chớ, vậy mà tuyệt nhiên không có những việc ấy xảy ra, cho nên chúng ta phải hiểu đây là việc đức Phật Thầy dùng làm CƠ để răn đời, bởi vì ai mà không sợ “sấu tha, ma bắt !”, nhưng khi làm việc ác nhân thất đức, thì lại không sợ tội phước, chẳng màng đến nhân quả, cho nên Ngài dùng ông Năm Chèo để răn dạy những người ở ác phải rán mà tu nhân.
Có người nói rằng theo như sợi dây, lưỡi câu là những thứ không thể nào đủ sức giết một con vật sống lâu như vậy, và cho biết rằng theo như CƠ ấy mà suy ra thì, con sấu đầu Đỏ chỉ cho Cộng Sản, nổi ở Vàm Nao tức là Vào Nam, năm chân tức là ngôi sao vàng 5 cạnh, ai cũng vào bụng nó tức là ai cũng phải làm lý lịch nộp cho chúng, và phải câu nó bằng sợi dây ngũ sắc, đó là phải câu nó bằng : Ăn uống, ngủ nghỉ, tiền tài, danh lợi và sắc đẹp. Giải thích như vậy, nghe qua cũng có lý, nhưng đúng hay sai chỉ có thời gian mới trả lời được mà thôi.
 

Xin xem tiếp bài 8. dienbatn.
Read more…

THỐNG KÊ TRUY CẬP

LỊCH ÂM DƯƠNG

NHẮN TIN NHANH

Tên

Email *

Thông báo *