VŨ SƯ
(Thần Mưa)
I.- XUẤT XỨ :-
Vũ Sư tức là Thần Mưa, còn xưng là Thần Bình Ế, Thần Huyền Minh.
*Khởi nguyên của Thần Mưa có từ rất sớm ở xã hội Trung Quốc cổ đại.
*Sách “Chu Lễ” thiên “Đại Tông Bá” có nói :- “Dân gian đốt lửa để cúng tế các Thần chủ quản, như là Thần Tư Mệnh (hộ trì bổn mạng), Thần Gió, Thần Mưa”.
Trịnh Huyền chú giải là “Vũ Sư ý nói đến sao Tất, vì khi mặt trăng rời xa sao Tất thì có mưa tràn ngập đất. Vũ Sư là sao Tất vậy”.
-Thời Đông Hán, Sái Ung trong sách “Độc Đoán” nói rằng :- “Thần Vũ Sư chính là sao Tất, hình tượng ở trên trời, có thể làm mưa”. Sao Tất là một trong bảy sao ở phương Tây của Nhị Thập Bát Tú. Ý nói là vị tinh tú nầy có chức năng làm mưa.
*Ngoài ra, cũng có những nhân vật được xem là Thần Mưa. Như Khuất Nguyên trong “Thiên Vấn” nói là “Người họ Bình tạo ra mưa”. Vương Dật đời Hán chú thích “Họ Bình tức Bình Ế, tên của vị Thần Mưa”
-Trong “Phong Tục Thông Nghĩa” viết :- “Sách Tả Truyện Xuân Thu nói , con trai của Thần Cộng Công, là Huyền Minh Sư”. Lại nói “ Đại Phu họ Trịnh cúng tế cầu cho vợ sanh đẻ bình an nơi Ngài Huyền Minh. Ngài Huyền Minh là Vũ Sư (thần mưa)”.
-Sách “Sưu Thần Ký” đời Tấn nói :-“Xích Tùng Tử chính là Vũ Sư ở đời Thần Nông vậy”.
-Trong sách “Tam Giáo Nguyên Lưu Sưu Thần Đại Toàn ” thì cho rằng Thần Điểu là Vũ Sư, “Vũ Sư là họ Thương Dương. Mà Thương Dương lại là Thần Điểu (chim thần) chỉ có một chân, có thể biến lớn hay hóa nhỏ lại. Nó hút một hơi là cạn cả biển Minh Bột (Bột Hải), là thần làm mưa xuống nhân gian vậy”.
-Chỉ đến đời Đường, Tống chịu ảnh hưởng của Phật Giáo, mới bắt đầu có quan điểm cho Long Vương là Thần Mưa. Nhận thức nầy, có giá trị cho đến tận ngày nay.
II.- CHỨC NĂNG :-
Tên gọi Vũ Sư, có chữ “Sư” nêu lên tính chất của Thần. Theo từ điển “Phong tục thông nghĩa” thì “Sư nghĩa là chúng (rộng khắp). Tính rộng của thổ thì không bằng của thủy. Tuy sấm động đến muôn dặm, gió thổi khắp nơi cũng không thể bì với nước mưa được.. Chẳng cần to lớn như núi Thái Sơn, nhưng chẳng đầy một buổi sáng mà mưa xuống khắp thiên hạ. Khác với sấm và gió, đức ban rãi của nó phát ra rất lớn, nên chỉ có mưa mới độc xưng là “Sư” được”. Đức ấy chính là chỗ mưa gió đem lại sự tươi nhuận “nuôi lớn muôn vật, ban ơn cho người, vua chúa thờ Vũ Sư để đền ơn đó vậy”.
III.- THỜ PHỤNG :-
Việc thờ phụng Vũ Sư từ thời Tần Hán đã được đưa vào “Từ điển thờ cúng”.
Trong sách “Đường Hội Yếu” nói, thờ cúng Vũ Sư là đi vào trọng tâm của việc thờ cúng, nên khắp nơi đều có Miếu Thờ, cũng như thờ cúng vua chúa vậy.
*Cung Quán của Đạo Giáo đều có Điện thờ Phong Bá, Vũ Sư, Lôi Công, Điện Mẫu. Tượng thờ của Vũ Sư thường tạo hình là một thanh niên hùng mạnh, tay trái bưng một cái bồn, trong có đựng một con rồng. Tay phải đang làm động tác “rãi nước”. Tượng được tôn xưng là “ Vũ Sư Trần Thiên Quân”.
*Ngày đản sanh của Vũ Sư là ngày hai mươi tháng mười một.
*Do vì gần đây dân gian sùng bái Long Vương nhiều hơn Vũ Sư , nên việc cúng tế Vũ Sư ít thấy xuất hiện trong Từ điển thờ cúng. Chỉ còn trong các nghi thức cúng tế của Đạo Giáo ở các Đại Đàn, mới có thiết lập thần vị của Vũ Sư, lễ bái chung với các Thần khác.
*Nhược Thủy dịch
(từ http://www.taoism.org.hk)
*PHỤ LỤC :-
Lễ hội cầu mưa của người Chăm và người Thái
1.- Độc đáo lễ hội Cầu mưa của người Chăm – Bình Thuận
Ở xã Phan Hòa huyện Bắc Bình, tỉnh Bình Thuận, chỉ cần nói đến Lăng Pô là đồng bào Chăm hiểu ngay đó là ngôi đền thờ vị Thần PôklongK’Sách. Tương truyền rằng, đây là vị quan Thượng thư được Vua Chăm giao trông coi việc “Quốc nông”. Ngài còn được đồng bào Chăm tôn sùng và ngưỡng mộ bởi có công khai phá đất đai, dẫn thủy nhập điền, canh nông lúa nước.
Vì vậy, lễ hội cầu mưa hay còn gọi là lễ cầu an nhà nông được tổ chức vào đầu tháng Giêng theo lịch của người Chăm (tức tháng 5 âm lịch), cứ 5 năm mới được tổ chức một lần, là để tôn kính vị Thần này.
Vì cứ 5 năm mới được tổ chức một lần, nên cả làng Bình Minh ở xã Phan Hòa có sự chuẩn bị rất chu đáo. Việc đầu tiên là phải đi đến các vị thầy Cả, thầy Xế và thầy Cò Ke ở làng Chăm theo đạo Bàlamôn (thuộc xã Phan Hiệp ) để… xin ngày. Khi có ngày làm lễ rồi thì mới xúc tiến vệc chuẩn bị ở làng. Cả quy trình của lễ hội được tổ chức trong hai ngày và lại phải đích thân là các thầy Xế, thầy Cả và thầy Cò Ke hành lễ. Chiều hôm truớc, sân lễ của làng phải được chuẩn bị kỹ lưỡng, sạch sẽ với cờ phướn nghiêm trang để rước Ngài từ trong Đền về. Theo chân các vị Thầy Xế rước sắc phong từ trong đền Ngài ra là đội múa quạt duyên dáng nhất của làng đi hộ tống. Đúng 4 giờ chiều, sân lễ đông đủ từ các vị chức sắc tôn giáo đến trai thanh gái tú trong làng đều có mặt. Trước kiệu Ngài là những tinh tuý nhất từ các món ẩm thực nổi tiếng của người Chăm như bánh gừng, bánh tét, canh cà… Ông thầy cúng bày biện thành một mâm lễ dưới chân kiệu của Ngài. Phía sau các Thầy là hàng chục phụ nữ Chăm, với trang phục hành lễ truyền thống luôn chắp tay trên đầu cúi lạy khi thầy Xế đọc những câu thần chú. Một bài cúng có khi diễn ra đến hàng giờ đồng hồ mới chấm dứt. Đêm hôm ấy cả hai ông thầy Cả (tiếng Chăm gọi là Păk), ba ông thầy Cò Ke và hai ông thầy Xế hoạt động không biết mệt mỏi. Nhưng quan trọng nhất vẫn là thầy Cò Ke (phụ trách trống, kèn) vì hai ông này lo suốt đêm cho lễ dâng huơng theo phong tục. Đêm hôm đó, cả làng Bình Minh của xã Phan Hòa hầu như đều đến với Ngài bằng tấm lòng tôn kính linh thiêng nhất.
Sáng hôm sau, cả làng lại thức dậy sớm hơn mọi ngày. Nhưng sớm hơn cả vẫn là đội múa quạt với những cô gái xinh xắn nhất đứng xếp hàng đôi, chờ xuất phát đưa Ngài trở về Đền thiêng cách xa làng Bình Minh chừng 4 cây số về hướng mặt trời lặn. Tiếng trống Paranưng, tiếng kèn Sranai dặt dìu theo đoàn người đưa Ngài trở về lại ngôi đền. Đi trước là mười hai thanh niên trai tráng cầm cờ phướn xếp thành hai hàng. Theo sau là bốn người cầm ô đi bốn góc, che cho bốn thanh niên khiêng kiệu Ngài. Phía sau nữa là hai ông thầy Cò Ke dẫn theo cả một đội múa quạt bồng bềnh cùng đoàn người tiến về ngôi đền thiêng trong rừng. Cũng ngay tại thời điểm ấy đã có hàng trăm người trong làng tụ tập về ngôi đền từ trước để dựng lều trại che nắng cho suốt cả ngày lễ hội. Phía sau Đền có sẵn ba bốn con dê, hàng chục con gà được buộc sẵn sàng cho việc cúng tế. Các bà các chị múc nước lặt rau, xắt cây chuối chát và chụm lửa. Chỉ có các chức sắc mới được chuẩn bị các nghi lễ trong đền. Tất cả các hoạt động ấy đều do Sư cả Thánh đường Bình Minh Lâm Nam chỉ huy. Khi Ngài được đoàn người đưa đến gần trước đền, tất cả mọi người đứng xếp thành hai hàng dọc để đón. Đội múa quạt lại xếp thành hàng hai múa những điệu múa truyền thống của người Chăm theo nhịp điệu vang dồn của trống Paranưng và kèn Saranai. Mọi người chăm chú nhìn về đoàn người đang rước kiệu. Kiệu Ngài được dựng trước đền để cho một ông thầy Xế kiểm tra lại những vật cúng tế bên trong. Trong kiệu Ngài có một tô trứng lớn đựng 12 quả và 6 tô nhỏ, mỗi tô đựng từ 4 đến 5 quả và một bát nhang trầm khói nghi ngút. Phía trong cùng là một hộp vuông hình chữ nhật có bao giấy màu đỏ chứa đựng những lá sắc phong do Triều đình nhà Nguyễn ban cho là để ghi nhận công trạng to lớn của Ngài. Trước khi đưa Ngài vào Đền, tất cả các bà các chị phụ nữ đều quỳ lạy dưới chân Ngài như một lời cầu mong cho quốc thái dân an, mưa thuận gió hòa, đồng ruộng xanh tốt. Tôi quay sang hỏi Sư cả Lâm Nam là tại sao chỉ có phụ nữ quỳ lạy? Sư Cả Lâm Nam nói rằng : nam nữ gì đều lạy cả, nhưng các chị các bà được ưu tiên làm lễ trước! Đền thờ Ngài PôklongK’Sách được xây tại làng Binh Mỵ cũ từ năm 1971 theo tín ngưỡng chung của người Chăm chứ không riêng gì người Chăm Hồi giáo ở Phan Hòa. Phía trong Đền có một đôi Linga, linh vật linh thiêng nhất theo tục lệ của người Chăm. Ông Nguyễn Hữu Châu, một trí thức người Chăm ở Phan Hòa còn cho biết : Đền thờ Ngài PôklongK’Sách chỉ có ở ba nơi : Phan Rang (Ninh Thuận ), Phan Hoà (huyện Bắc Bình ,Bình Thuận) và thị trấn Ma Lâm (huyện Hàm Thuận Bắc, Bình Thuận). Tên đầy đủ của lễ hội này theo tiếng Chăm là “Păk Poh PôklongK’Sách”.
Sau buổi lễ, mọi người quây quần cùng khách bên chén rượu Ngài ban. Tất cả đều cầu chúc cho đầu năm mới an khang thịnh vượng, mưa thuận gió hoà, đồng ruộng tốt tươi. Có thể nói, lễ hội cầu mưa là một trong những lễ hội có giá trị lớn về mặt tinh thần trong tín ngưỡng tôn giáo của đồng bào Chăm cần được bảo tồn và phát huy.
(Theo Vietnamtourism/ Bình Thuận)
2.- Lễ cầu mưa của người Thái
(Lễ hội "Xến Xó Phốn" của người Thái vùng Tây Bắc Việt Nam)
Lễ hội cầu mưa (hay còn gọi là lễ hội Xến Xó Phốn) vùng Tây Bắc Việt Nam được ra đời và hình thành cùng kho tàng văn hóa phi vật thể của người Thái. Qua bao đời chắt lọc, gạn đục khơi trong để có được tinh hoa, những giá trị về phong tục tập quán, tín ngưỡng. Lễ hội cầu mưa ngày nay mang đủ bản sắc văn hóa của người Thái Tây Bắc.
Lễ hội gồm 2 phần lễ và hội, phần lễ để cúng thần linh cai quản mưa nắng không mang yếu tố dị đoan mà chỉ mượn yếu tố tâm linh để dạy bảo con người, phần hội tạo nên những tiếng cười thoải mái nhằm giáo dục nhân cách, phẩm hạnh để con người vươn tới cái đẹp, của đạo đức truyền thống mà người Thái đã có.
Người Thái ở vùng Tây Bắc quan niệm rằng thần linh cai quản mưa gió thương những đứa trẻ sinh ra không có cha để làm nhà cho nên đã không làm mưa khiến cho trời hạn hán, vì vậy trời không mưa là lỗi của những người phụ nữ chửa hoang. Vì vậy dân bản phải làm lễ cầu mưa, cúng lễ các vị chủ nước, chủ sông suối (thuồng luồng, tiếng Thái gọi là Tô Ngược) để mời các thần linh về nghe nguyện vọng của con người đồng thời trách phạt những người phụ nữ đó đã không biết giữ mình. Những lời cầu xin, trách móc được truyền tụng và đúc kết thành các bài cúng và các trò chơi trong lễ hội cầu mưa.
Người đóng vai trò chính trong lễ hội là “bà Mè mải”. Mở đầu lễ cầu mưa, đoàn người đi đến các nhà xin lễ vật.
-Đến nhà thứ nhất, mè mải nói :-
Ở nhà đấy bà thím ơi
Chúng tôi đến xin cơm đấy nhé
Rau chua xiểm cũng xin
Canh khoai nhạt cũng xin
- Chủ nhà thứ nhất trả lời :-
Ngày cúng chủ nước sông tôi có chút lễ bằng rau, bằng cỏ để cùng xin cầu mưa
Mè mải đáp lời :-
Cảm ơn chủ nhà nhé
Lời cảm ơn vừa dứt chủ nhà té nước gạo lên người hoặc dùng hạt bông tung vào đoàn người giả làm mưa.
Đoàn người luôn miệng hô to :-
Có mưa rào, mưa ra gạo ra lúa
Sau đó đoàn người tiếp tục đến nhà thứ 2, thứ 3… và lặp lại bài cúng trên. Đến khi đã có đủ lễ vật, đoàn người rước Tô Ngược đến địa điểm cúng lễ và bà mè mải bắt đầu cúng bài cúng cầu mưa với nội dung mời chủ nước chủ sông về ăn lễ vật và lắng nghe nguyện vọng của dân bản cầu xin trời làm mưa cho đến khi sấm sét nổi lên và trời mưa xuống thì chuyển sang phần hội.
Ở phần hội, cả bản làng cùng chơi ném còn, uống rượu cần và hát các bài hát về tình yêu đôi lứa…
Cùng với Lễ hội cầu an bản Mường, Lễ hội cầu mưa của người dân tộc Thái miền Tây Bắc là một sinh hoạt văn hoá tín ngưỡng rất quan trọng đối với cộng đồng người dân tộc ở nơi đây. Lễ hội thường được tổ chức vào đầu mùa mưa (khoảng cuối tháng 10, đầu tháng 11 âm lịch hàng năm (gần tết Nguyên Đán) được biểu hiện qua tiếng sấm, tức là lời phán quyết của vua trời, qua hình tượng thủy thần, thuồng luồng...Lễ hội có liên quan đến đời sống vật chất, tinh thần, tâm linh của cả bản mường, đến mùa màng, sức khỏe và sự làm ăn của cộng đồng năm ấy, nên được tổ chức rất trọng thể, vui vẻ, thu hút sự tham gia của đông đảo bà con dân tộc ở bản, Mường./.
*Theo :- Diễn đàn Sài Gòn > ĐẤT NƯỚC- VIỆT NAM - CON NGƯỜI > Văn hóa - Phong tục
*Nhược Thủy (st)
64.THẦN SÔNG BIỂN NÚI NON VÀ LÔI BỘ
PHONG BÁ
(Thần Gió).
山川河海及雷部諸神
風伯
風 伯 的 由 來 : 風 伯 , 就 是 風 神 , 亦 稱 風 師 、 飛 廉 、 箕 伯 等 等 。 中 國 古 代 的 風 神 崇 拜 起 源 較 早 。 《 周 禮 》 的 《 大 宗 伯 》 篇 稱 , 「 以 燎 祀 司 中 、 司 命 、 風 師 、 雨 師 」 。 鄭 玄 注 : 「 風 師 , 箕 也 」 , 意 思 是 「 月 離 於 箕 , 風 揚 沙 , 故 知 風 師 其 也 」 。 東 漢 蔡 邕 《 獨 斷 》 則 稱 , 「 風 伯 神 , 箕 星 也 。 其 象 在 天 , 能 興 風 」 。 箕 星 是 二 十 八 宿 中 東 方 七 宿 之 一 , 此 當 以 星 宿 為 風 神 。 另 外 , 楚 地 亦 有 稱 風 伯 為 飛 廉 的 。 屈 原 《 離 騷 》 有 句 稱 「 前 望 舒 使 先 驅 兮 , 後 飛 廉 使 奔 屬,吾令鳳凰飛騰兮 又夜,
飄風屯其相離兮 帥雲霓而來御」 。 晉 灼 注 飛 廉 曰 「 鹿 身 , 頭 如 雀 , 有 角 而 蛇 尾 豹 文 」 。 高 誘 注 蜚 廉 曰 「 獸 名 , 長 毛 有 翼 」 。 此 當 以 動 物 為 風 神 。 唐 宋 以 後 , 風 伯 曾 作 「 風 姨 」 、 「 封 姨 」 和 「 風 后 」 , 即 曾 作 女 神 。 但 以 箕 星 作 風 伯 之 說 , 一 直 佔 據 主 導 地 位 。
職 能 : 風 伯 之 職 , 就 是 「 掌 八 風 消 息 , 通 五 運 之 氣 候 」 。 風 是 氣 候 的 主 要 因 素 , 事 關 濟 時 育 物 。 《 風 俗 通 義 》 的 《 祀 典 》 稱 , 風 伯 「 鼓 之 以 雷 霆 , 潤 之 以 風 雨 , 養 成 萬 物 , 有 功 於 人 。 王 者 祀 以 報 功 也 」 。
奉 祀 : 對 風 伯 的 奉 祀 , 秦 漢 時 就 已 經 列 入 國 家 祀 典 。 《 唐 會 要 》 稱 , 奉 祀 風 伯 , 升 入 中 祀 , 並 且 要 「 諸 郡 各 置 一 壇 」 , 與 王 同 祀 。 道 教 宮 觀 中 也 有 設 殿 供 奉 風 伯 雨 師 、 雷 公 電 母 的 , 其 風 伯 塑 像 常 作 一 白 髮 老 人 , 左 手 持 輪 , 右 手 執 扇 , 作 扇 輪 子 狀 , 稱 風 伯 方 天 君 。 風 伯 神 誕 之 日 為 十 月 初 五 日 。 普 通 道 教 徒 在 其 生 存 和 職 業 同 「 風 」 有 密 切 關 係 者 才 單 獨 奉 祀 風 伯 , 一 般 道 教 徒 只 是 在 大 型 齋 醮 法 會 時 才 供 奉 風 伯 。
PHONG BÁ
(Thần Gió)
I.- XUẤT XỨ:-
Phong Bá là tên của Thần Gió, còn gọi là Phong Sư, Phi Liêm hay Cơ Bá .
*Việc sùng bái Thần Gió đã có từ rất sớm ở Trung Quốc cổ đại. Trong sách “Chu Lễ” thiên “Đại Tông Bá” có nói :- “Đốt lửa để cúng tế các Thần Tư Mệnh, Phong Sư, Vũ Sư”. Trịnh Huyền chú giải :-“ Phong Sư tức là sao Cơ” ý muốn nói “ khi mặt trăng lìa khỏi sao Cơ, thì gió thổi cát bay, đó là do Phong Sư làm vậy”.
*Thời Đông Hán, ông Sái Ung trong quyển “Độc Đoán” nói :- “Thần Phong Bá là sao Cơ. Hình tượng ở trên trời, có thể tạo ra gió”. Sao Cơ chính là chòm bảy sao ở phương Đông của Nhị Thập Bát Tú, người xưa đã dùng sao để tôn làm Thần. Ngoài ra, có nơi còn gọi Thần Gió là “Phi Liêm”. Như Khuất Nguyên trong tập thơ “Ly Tao” đã viết :-
“ Tiền Vọng Thư sử tiên khu hề, hậu Phi Liêm sử bôn chúc
Loan Hoàng vi dư tiên giới hề, Lôi Sư cáo dư dĩ vị cụ
Ngô linh Phượng Hoàng phi đằng hề, hựu kế chi dĩ nhật dạ
Phiêu Phong đồn kì tương li hề, suất vân nghê nhi lai ngự”
-Dịch nghĩa :-
“Phía trước thần Vọng Thư phải tiến trước hề, phía sau thần Phi Liêm phải chạy theo
Loan Hoàng mở lối đi đầu, thần sấm sét bảo ta thu xếp chưa xong
Ta khiến Chim Phượng bay lượn hề, bay ngoài suốt ngày đêm
Thần Phiêu Phong tụ họp những đám chia lìa, đốc suất mây và ráng lại đón”
-Dịch thơ :-
Chị Trăng phải nhanh chân tiến trước,
Dì Gió cho lần bước theo sau,
Chim loan mở lối đi đầu,
Nhưng thần sấm sét đốc hầu chưa xong!
Ta giục phượng ra công bay mãi,
Suốt ngày đêm dong ruổi cho mau!
Cơn dông bão táp theo hầu!
Cầu vồng mống cụt đem nhau đón chào!
*Đời Tấn chú giải Phi Liêm là “thân nai, đầu như chim sẻ, có sừng, đuôi rắn vằn beo”. Còn Cao Dụ thì chú Phi Liêm là “tên thú, lông dài có cánh”. Như vậy là họ lấy động vật để tôn làm thần.
*Đời Đường , Tống về sau, người ta thay thế Phong Bá bằng “Phong Di” (Dì Gió) hay “Phong Hậu” (Hoàng Hậu Gió). Như vậy Thần Gió trở thành Nữ Thần.
*Thế nhưng, cho đến nay, mọi người vẫn chọn thuyết nói Phong Bá là sao Cơ, đây là quan điểm chủ đạo nhất được chấp nhận.
II.- CHỨC NĂNG :-
Chức năng của Phong Bá là “cai quản tám gió, khai thông ngũ vận của khí hậu” . Gió là nhân tố quan trọng của khí hậu, giúp cho việc phát triển của muôn vật.
-Trong Từ Điển “Phong Tục Thông Nghĩa” nói :- “sấm sét thì thúc giục, gió mưa thì làm tươi mát, nuôi lớn vạn vật, có công lớn với người. Vua thờ cúng để đền công ơn vậy”
III.- VIỆC THỜ CÚNG :-
*Đối với việc thờ cúng Phong Bá, từ thời Tần Hán đã có ghi vào “Sách thờ cúng trong nước”.
-Sách “Đường Hội Yếu” nói , thờ phụng Phong Bá là đi vào trọng tâm của việc cúng tế, cho nên các nới phải lập Miếu Thờ , giống như thờ vua vậy.
*Trong các Cung Quán của Đạo Giáo, đều có xây Điện riêng để thờ Phong Bá và Vũ Sư. Tương thờ Phong Bá thường là tạo hình tượng một ông lão đầu tóc bạc phơ, tay trái cầm “bánh xe gió”, tay phải cầm “quạt gió”, hình dáng như đang quạt vậy, tôn xưng là “Phương Thiên Quân”.
-Ngày vía của Thần Phong Bá là ngày mùng năm tháng mười âm lịch.
*Những tín đồ phổ thông của Đạo Giáo mưu sinh bằng những nghề có liên quan đến “gió”, hợp nhau lại xây Miếu Thờ riêng Phong Bá”.
-Trong Đạo Giáo , thì chỉ những dịp đại lễ mới có nghi thức cúng tế Phong Bá.
*Nhược Thủy dịch
(từ http://www.taoism.org.hk)
65. THẦN SÔNG BIỂN NÚI NON VÀ LÔI BỘ
LONG VƯƠNG
(Rồng Làm Mưa)
山川河海及雷部諸神
龍王
龍 王 的 由 來 : 龍 是 中 國 古 代 神 話 的 四 靈 之 一 。 《 太 上 洞 淵 神 咒 經 》 中 有 「 龍 王 品 」 , 列 有 以 方 位 為 區 分 的 「 五 帝 龍 王 」 , 以 海 洋 為 區 分 的 「 四 海 龍 王 」 , 以 天 地 萬 物 為 區 分 的 5 4 名 龍 王 名 字 和 6 2 名 神 龍 王 名 字 。 唐 玄 宗 時 , 詔 祠 龍 池 , 設 壇 官 致 祭 , 以 祭 雨 師 之 儀 祭 龍 王 。 宋 太 祖 沿 用 唐 代 祭 五 龍 之 制 。 宋 徽 宗 大 觀 二 年 ( 1 1 0 8 年 ) 詔 天 下 五 龍 皆 封 王 爵 。 封 青 龍 神 為 廣 仁 王 , 赤 龍 神 為 嘉 澤 王 , 黃 龍 神 為 孚 應 王 , 白 龍 神 為 義 濟 王 , 黑 龍 神 為 靈 澤 王 。 清 同 治 二 年 ( 1 8 6 3 年 ) 又 封 運 河 龍 神 為 「 延 庥 顯 應 分 水 龍 王 之 神 」 , 令 河 道 總 督 以 時 致 祭 。
職 能 : 由 此 , 龍 王 之 職 就 是 興 雲 布 雨 , 為 人 消 滅 炎 熱 和 煩 惱 , 龍 王 治 水 成 了 民 間 普 遍 的 信 仰 。 道 教 《 太 上 洞 淵 神 咒 經 》 中 的 「 龍 王 品 」 就 稱 , 「 國 土 炎 旱 , 五 榖 不 收 , 三 三 兩 兩 莫 知 何 計 時 」 , 元 始 天 尊 乘 五 色 雲 來 臨 國 土 , 與 諸 天 龍 王 等 宣 揚 正 法 , 普 救 眾 生 , 大 雨 洪 流 , 應 時 甘 潤 。
奉 祀 : 龍 王 神 誕 之 日 , 各 種 文 獻 記 載 和 各 地 民 間 傳 說 均 有 差 異 。 舊 時 專 門 供 奉 龍 王 之 廟 宇 幾 乎 與 城 隍 、 土 地 之 廟 宇 同 樣 普 遍 。 每 逢 風 雨 失 調 , 久 旱 不 雨 , 或 久 雨 不 止 時 , 民 眾 都 要 到 龍 王 廟 燒 香 祈 願 , 以 求 龍 王 治 水 , 風 調 雨 順 。
LONG VƯƠNG
(Rồng Làm Mưa)
I.- XUẤT XỨ :-
*Trong truyện thần thoại cổ đại Trung Quốc, Rồng là một trong “Tứ Linh”.
Sách 《 Thái Thượng Động Uyên Thần Chú Kinh 》phẩm Long Vương có phân chia khu vực trách nhiệm của “Ngũ Đế Long Vương”, chia đại dương thành bốn biển, dưới quyền cai quản của “Tứ Hải Long Vương” (Đông, Tây, Nam, Bắc Hải). Sách nầy nói trong cõi trời đất và vạn vật có 54 “Cõi Rồng” và nêu tên của 62 Thần Long Vương.
*Đời Đường Huyền Tông, ban chiếu xây dựng Miếu Thờ Long Trì, lập đàn cho các quan đến cúng tế, trong nghi thức tế lễ Vũ Sư có nghi cúng Long Vương.
*Năm Đại Quán thứ hai đời Tống Huy Tông (năm 1108) ban chiếu phong tước “Vương” cho năm rồng trong thiên hạ. Sắc phong Thần Thanh Long làm Quảng Nhân Vương, Thần Xích Long làm Gia Trạch Vương, Thần Huỳnh Long làm Phù Ứng Vương, Thần Bạch Long làm Nghĩa Tế Vương, Thần Hắc Long làm Linh Trạch Vương.
*Năm Đồng Trị thứ hai đời Thanh (năm 1863) lại phong Vận Hà Long Thần (Long Thần của các con sông hay kênh đào) làm “Diên Hưu Hiển ứng Phân Thuỷ Long Vương Chi Thần”, lệnh cho Tổng Đốc Đường Sông hàng năm cúng tế.
II.- CHỨC NĂNG :-
Long Vương có chức năng gom mây làm mưa, làm mất đi sự nóng bức và khó chịu của con người. Tín ngưỡng phổ biến của dân gian là “Long Vương trị thủy” ( vua rồng cai quản về nước).
* Trong Đạo Giáo, theo sách 《 Thái Thượng Động Uyên Thần Chú Kinh 》phẩm Long Vương thì nói là “Trong nước bị khô hạn, ngũ cốc thất thu, vua quan dân chúng chưa biết tính kế nào, Nguyên Thủy Thiên Tôn cỡi mây năm sắc giáng lâm phàm trần, cùng với chư Thiên và Long Vương rộng nói chính pháp, phổ cứu chúng sanh, mưa lớn chan hòa, nơi nơi tươi mát”.
III.- VIỆC THỜ PHỤNG :-
-Ngày đản sanh của Long Vương thì theo các sách và truyền thuyết dân gian nêu lên quá nhiều , không quyết định được ngày nào chính xác và chưa có ngày thống nhất. Việc cúng tế thì theo tập quán từng nơi từng lúc mà tổ chức khác nhau.
-Ngày xưa, Miếu Thờ Long Vương cũng có nhiều như Miếu Thờ của Thành Hoàng, Thổ Địa vậy. Khi bị hạn hán lâu ngày, hoặc mưa dầm liên miên, dân chúng đều đến Miếu Thờ cúng tế cầu nguyện Long Vương phù hộ điều hòa lượng nước trở lại vừa phải, đúng theo thời tiết để dân chúng cày cấy thuận mùa .
*Nhược Thủy dịch
(từ http://www.taoism.org.hk)
*PHỤ LỤC 1 :-
Tứ hải Long vương
Tứ hải Long vương là các vị thần có dạng rồng cai quản bốn đại dương theo thần thoại Trung Quốc.
Hình tượng các long vương vốn có xuất xứ từ Phật giáo, là hiện thân của rắn thần naga được Trung Quốc du nhập và Hán hóa
Rồng
Rồng, chữ hán là Long, chữ Phạn là Nâga, là một loài sinh vật thuộc thế giới vô hình, và cũng là một loài trong Tứ Linh: Long, Lân, Qui, Phụng (Rồng, Lân, Rùa, Phượng)
Theo thần thoại, rồng có hình dạng rất lạ kỳ: đầu rồng giống như đầu đà, sừng giống như sừng nai, cổ giống như cổ rắn, bụng giống như bụng con giao, mắt giống mắt thỏ, tai giống tai bò, chân giống chân cọp, móng giống móng chim ưng, vảy rồng giống như vảy cá ly.
Rồng là vua của loài có vảy, có tài biến hóa, làm tối được, làm sáng được, làm lớn được, làm nhỏ được, nhằm tiết xuân phân thì lên trời, nhằm tiết thu phân thì xuống biển hay xuống đất. Kinh Phật nói: "Long thường tại định, vô hữu bất định thì." Nghĩa là: Rồng thường ở vào thiền định, không có lúc nào chẳng thiền định.
Có rất nhiều loại rồng, được phân ra tùy theo màu sắc, tùy theo hình dáng đầu rồng hoặc tùy theo phận sự của nó:
I. Phân loại theo màu sắc: Có 5 loại:
• Rồng trắng: Bạch long, toàn thân màu trắng
• Rồng vàng: Huỳnh long, toàn thân màu vàng,
• Rồng xanh: Thanh long, toàn thân màu xanh sậm,
• Rồng đỏ: Xích long, toàn thân màu đỏ,
• Rồng đen: Hắc long, toàn thân màu đen.
II. Phân chia theo hình dáng: 3 loại:
• Rồng trẻ, đầu không có sừng, gọi là Ly long.
• Rồng sống được 500 năm thì mọc sừng, gọi là Cù Long.
• Rồng sống được 1000 năm trở lên thì có sừng dài và mọc thêm cánh, gọi là Ứng long.
III. Phân chia theo nhiệm vụ: có 4 loại:
• Thủ Thiên cung long: Rồng ở cõi Trời, gìn giữ Thiên cung.
• Hành võ long: Rồng làm mưa (Hành là làm, võ hay vũ là mưa). Rồng nầy có hai hạng:
o Thiện long thì làm cho mưa thuận gió hòa.
o Ác long thì làm cho mưa to, gây lũ lụt,
• Địa long: Rồng ở dưới đất sâu, làm hầm khoét hang, làm thành sông, hồ, biển.
• Phục tạng long: Rồng giữ gìn kho tàng của vua Chuyển Luân Thánh vương và các nhà phước đức lớn.
■ Tương truyền, rồng ở đáy biển, có lầu đài cung điện, có tổ chức vua, quan, quân lính. Rồng làm vua gọi là Long vương, cung điện của Long vương là Long cung, các quan của vua rồng là loài cá lớn, quân lính là các loài cá nhỏ.
(Tam Thái Tử Ngao Bính)
Theo Truyện Phong Thần và Tây Du Ký, có Tứ Hải Long vương là 4 vị Long vương ở bốn biển:
• Đông Hải Long vương: ở biển Đông tên Ngao Quảng.
• Nam Hải Long vương: ở biển Nam tên Ngao Thuận.
• Tây Hải Long vương: ở biển Tây tên Ngao Khâm.
• Bắc Hải Long vương: ở biển Bắc tên Ngao Nhuận.
■ Cũng trong truyện Tây Du, con Bạch mã (ngựa trắng) mà Tam Tạng cỡi đi Tây phương thỉnh kinh là do một con tiểu long (rồng nhỏ) biến thành. Con tiểu long nầy vốn là Thái tử con của Bắc Hải Long vương Ngao Nhuận, phạm tội nặng, bị bắt treo lên chờ xử trảm. May nhờ Đức Quan Âm Bồ Tát đi ngang, tiểu long van xin cứu mạng. Đức Quan Âm Bồ Tát thương tình, tâu xin Thượng Đế tha chết cho tiểu long để sau nầy bắt tiểu long biến thành bạch mã, đỡ gót cho Tam Tạng thỉnh kinh. Nhờ công lao chuộc tội nầy, sau khi thỉnh kinh xong, bạch mã được biến trở lại thành rồng, trở về Long cung.
■ Long Nữ là con gái của Đệ tam Thái Tử của Nam Hải Long vương Ngao Thuận, ngày kia hóa thành con cá dạo chơi nơi mé biển, bị một ông chài bắt được, đem ra chợ bán. Đức Quan Âm Bồ Tát biết được, sai Thiện Tài đồng tử hóa ra một người thường, đi đến chợ mua con cá ấy, rồi đem xuống biển Nam thả xuống.
Nam Hải Long vương nhớ ơn Bồ Tát cứu tử cháu nội gái của mình, nên dạy Long Nữ đem cục ngọc Dạ Minh Châu đến dâng tặng Bồ Tát để Bồ Tát đọc sách ban đêm không cần đèn.
Long Nữ đến dâng ngọc xong, lòng hết sức cảm phục Bồ Tát nên xin qui y và được Bồ Tát thâu làm đệ tử .
Từ ấy, Thiện Tài đồng tử và Long Nữ luôn luôn theo bên cạnh để phụng sự Bồ Tát.
■ Trong lịch sử Việt Nam, lúc Lý Công Uẩn lên ngôi Hoàng đế, hiệu là Lý Thái Tổ, thấy đất Hoa Lư chật hẹp không phải là nơi đóng đô, muốn dời đến La Thành. Khi nhà vua đến La Thành xem xét, vua thấy một con rồng vàng xuất hiện, từ La Thành bay thẳng lên Trời. Lý Thái Tổ cho đó là điềm lành, nên chọn La Thành làm nơi đóng đô, đổi tên lại là Thăng Long (Rồng bay lên) để kỷ niệm ngày thấy rồng vàng bay lên trời. Nhà Lý đóng đô tại Thăng Long, truyền ngôi được 9 đời, kéo dài 215 năm.
*Nhược Thủy (st)
*PHỤ LỤC 2 :-
LONG VƯƠNG LÀM MƯA SAI GIỜ KHẮC BỊ CHÉM
(Trích truyện Tây Du Ký)
“………..Thiệt lời xưa nói không sai: Trên đường nói chuyện trong bụi có người. Nguyên có qủy Dạ Xoa ở tại Sông Kinh đi tuần dưới nước. Nghe ông chài nói rằng: Vãi trăm chài không sai một, thì lật đật về cung Thủy Tinh mà báo rằng: "Bệ Hạ ôi! Có họa, có họa!" Long vương sông Kinh liền hỏi: "Có họa gì?" Dạ Xoa nói: "Ngoài chợ Trường An có ông thầy bói hay lắm! Mỗi bữa ông chài đem cho thầy bói kia một con cá chài lớn, thì coi quẻ chỉ chỗ cho, vãi trăm chài không sai một. Nếu thường thường như vầy, thì hết binh tướng lấy ai mà giúp được vua?" Long Vương nghe nói giận lắm, rúy gươm vía ra đi, quyết đến Trường An đặng giết thầy bói giỏi. Có Rồng con, Rồng cháu, tướng Trạnh, quan Cua, quân Sư Cháy, thừa tướng Chài đồng hè ra tấu: "Xin chúa công bớt giận, lời huyển bỏ qua chớ khá nghe. Nếu chúa công đi xuống chợ, thì nổi giông tố mây mưa. Sợ dân ở Trường An khốn hại, có khi trời bắt tội chẳng không? Thà biến ra Tú Tài đến chợ Trường An coi thử. Quả như lời thời giết, bằng không thiệt thì thôi". Long Vương nhận lời bỏ gươm và chẳng làm mưa gió, lên bờ giả Tú Tài áo trắng đi xuống chợ Trường An, thấy thiên hạ đứng vậy mà coi quẻ. Tú Tài hỏi thăm rõ, thầy bói ấy là Viên Thủ Thành, chú ông là quan thiên văn Viên Thiên Cang, hình dung xinh tốt, thể thống oai nghi, Tú Tài quyết vào Viên Thủ Thành chào hỏi. Ðãi trà xong xả, mới hỏi thăm ông bói chuyện chi? Tú Tài nói: "Tôi bói bữa nào mưa?" Viên Thủ Thành gieo quẻ đoán rằng :-
"Mây che đỉnh núi, mù tỏa non Ðoài,
Hỏi thăm mưa rưới, chắc tại ngày mai."
Tú Tài hỏi: "Mai giờ nào, nước dâng lên mấy thước mấy tấc?" Viên Thủ Thành nói:" Giờ Thìn thì kéo mây, giờ Tỵ nổi sấm, giờ Ngọ mưa, cuối giờ Mùi tạnh. Nước dâng ba thước ba tấc, có lẽ ra bốn mươi tám giọt bốn phân bốn ly". Tú Tài cười rằng: "Lời này không phải nói chơi, ngày mai quả có mưa, giờ khắc và nước dâng y như lời đoán, thì ta thưởng bạc năm chục lượng chẳng sai. Nếu không mưa, hay là mưa mà không y lời đoán, ta nói thiệt cho thầy hay, phá nát cửa thầy, và xé tấm vải treo tức thì đuổi khỏi chợ Trường An, không cho ở đây gạt chúng nữa". Viên Thủ Thành mừng mà đáp rằng: "Tôi dám cuộc, tôi dám cuộc". Tú Tài liền kiếu ra về.
Các Thủy thần thấy Long Vương về đồng ra nghinh tiếp mà hỏi thăm rằng: "Chú công đi kiếm thầy bói đặng không?" Long Vương nói: "Có, có, thầy bói ấy khua mỏ kiếm tiền, ta hỏi thử chừng nào trời mưa và nước dâng lên mấy thước, nó nói giờ Thìn kéo mây, giờ Mùi tạnh, nước lên cao ba thước ba tấc có lẽ bốn phân tám ly, ta cuộc với nó rằng: "Hễ quả như lời, ta thưởng năm mươi lượng bạc, nếu sai một chút thì ta phá nhà, xé bảng đuổi ra khỏi chợ Trường An" Các tướng cười mà rằng: "Chúa công là vị thần coi tá cái sông mà hay việc mưa gió, nếu có mưa không mưa thì Chúa công biết trước, thầy bói biết sao mà đặng mà nói bướng kìa, mười phần nó phải thua hết cả mười". Nói cười chưa dứt tiếng thì nghe tiếng kêu: "Long Vương mau ra tiếp chiếu trời". Long Vương thất kinh lật đật ra tiếp chiếu, ngó lên mây thấy thần Lực Sĩ mặc áo vàng, tay cầm phong chiếu chỉ bay xuống cung Thủy tinh. Long Vương đặt bàn mà lạy mà lãnh chiếu. Lực Sĩ đi về lập tức, Long Vương mở chiếu chỉ ra xem, thấy trong chiếu chỉ dạy như vầy:
Rồng tám sông vâng lệnh, y theo giờ khắc ban,
Ngày mai không đặng trễ, mưa tại xứ Trường An
"Hẹn giờ Thìn kéo mây, giờ Tỵ nổi sấm, giờ Ngọ mưa,
cuối giờ Mùi tạnh, nước dâng ba thước, ba tấc, bốn phân, tám ly".
Long Vương thất kinh hồn vía, nói với các tướng rằng: "Trên đời có người linh quá, thông trời thấu đất, chắc mình phải chịu thua". Quân sư Cháy tâu rằng: "Xin chúa công đừng lo, muốn ăn nó cũng không khó, tôi dùng một kế thì nó cứng họng đi". Long Vương hỏi: "Quân sư có kế chi?" Quân sư Cháy tâu rằng: "Mưa sái giờ và bớt nước, thầy không y lời đoán, sao nó cũng phải thua". Long vương y kế.
Bữa sau kêu Thiên lôi, Thần gió,Bà chớp, Anh mây, đồng kéo tới Trường An. Truyền giờ Tỵ mới kéo mây, giờ Ngọ mới nổi sấm, giờ Mùi mưa, giờ Thân tạnh, nước có ba thước lẻ bốn phân, rồi truyền các thần về hết.
Long Vương hóa Tú Tài như trước, tới chỗ Viên Thủ Thành. Tú tài không hỏi gì hết, đập nghiêng quăng viết, xé tấm vải treo. Viên Thủ Thành ngồi trên ghế làm thinh, như không hay không biết. Tú Tài giận phá cửa lấy ván xốc lại giá mà mắng rằng: "Mày là đồ mị, nói gạt chúng mà ăn tiền, coi quẻ không linh, đặt điều nói bậy. đoán sái giờ, dư nước, còn ngồi làm tỉnh kìa. Ði mau mau kẻo ta đập chết". Viên Thủ Thành cười hả hả rằng: "Không sợ, không sợ, tôi không phạm tội chết, e cho ai chết kìa, ông gạt ai chớ ông gạt tôi sao được, ông không phải Tú Tài áo trắng, ông là Rồng Bạch sông Kinh, ông dám cải lệnh trời, tráo giờ bớt nước, phạm tội gần chết chém, lại còn mắng tôi sao?". Tú Tài nghe nói rởn tóc gáy, vỡ mật hết hồn, buông tấm ván cửa, xốc áo quỳ lạy mà nói rằng: "Xin thầy chớ trách, hồi nãy tôi giả ngộ nói chơi, tôi tưởng làm chơi, chẳng ngờ sanh thiệt. Tôi đã phạm luật, lạy thầy xin cứu mạng tôi. Viên Thủ Thành nói: "Tôi cứu ông sao đặng, nhưng chỉ chỗ cho ông cầu khẩn họa may". Tú Tài nói: "Xin thầy chỉ chỗ làm ơn". Viên Thủ Thành nói: "Giờ Ngọ mai ông sẽ bị Ngụy Trưng xử trảm, mà Ngụy Trưng làm Thừa tướng phò Hoàng Ðế bây giờ, ông cầu Hoàng Ðế nói giùm, có khi cũng được". Tú Tài lau nước mắt từ tạ ra đây, mặt nhựt đã chen, vầng trăng lố mọc, Long Vương không về phủ, ở lững đửng nửa lừng, đợi tới canh ba hiện vào cung cấm thấy vía vua Thái Tôn đi dạo, Long Vương hiện hình người ra trước mặt mà nói rằng: "Xin Bệ Hạ cứu tôi làm phước". Hồn Thái Tôn hỏi: "Ngươi là ai đó? Nói cho ta rõ đặng ta cứu cho". Long vương nói: "Bệ Hạ thiệt Rồng, còn tôi là rồng có tội. Trời sai Ngụy Trưng là tôi hiền của Bệ hạ, giờ Ngọ mai chém tôi. Hồn Thái Tôn nói: "Như về phần Ngụy Trưng chém ngươi, thời trẫm cứu được. Thôi ngươi yên dạ mà về" Long vương mừng rỡ quá chừng, lạy tạ mà đi về thẳng.
Vua Thái Tôn thức dậy, nhớ điềm chiêm bao ấy rõ ràng, đến sáng lâm triều, các quan chầu chực. Vua Thái Tôn xem rõ từ người, bên văn thì: Phòng Huyền Linh, Ðỗ Như Hối, Từ Mậu Công, Hứa Kỉnh Tông và Vương Khuê, còn bên võ thì: Mã Tam Bửu, Ðoàn Chí Hiền, Ân Khai Sơn, Trình Giảo Kim, Lưu Hồng Cơ, Uất Trì Cung, Tần Thúc Bảo. Ai nấy đủ mặt, mà thiếu Thừa tướng Ngụy Trưng! Vua Thái Tôn vời Từ Mậu Công lên điện mà phán rằng: "Trẫm nằm chiêm bao lạ lắm! Thấy một người đón trẫm mà lạy xưng rằng Long vương phạm tội thiên tào, trời sai Ngụy Trưng xử trảm, lạy xin trẫm cứu, trẫm hứa lở lời, bữa nay vì cớ nào Ngụy Trưng không đi chầu vậy?" Từ Mậu Công tâu rằng: "Bậ hạ đã hứa lỡ, thì phải đòi Ngụy Trưng vào chầu, đừng cho Ngụy Trưng đi đâu, mãn ngày nay thì cứu Long vương ắt được". Vua Thái Tôn mừng lắm, mới sai hoạn quan đi mời Ngụy Trưng.
Còn Ngụy Trưng đi coi thiên văn (coi sao) hồi hôm, xảy nghe tiếng hạc kêu, ngó thấy Sứ trời hiện xuống, truyền chiếu chỉ rằng: "Giờ Ngọ mai Ngụy thừa tướng phải thiếp mà chém Rồng Bạch tại sông Kinh". Ngụy Trưng lạy tạ ơn về dinh tắm gội. Lo mài gươm phép nên chẳng đi chầu, xảy thấy sứ vào mời, trong lòng lo sợ, không dám cãi lệnh phải sửa sang mão áo vào chầu, bước tới sân son, lạy vua mà chịu tội. Thái Tôn phán rằng: "Trẫm tha khanh khỏi tội". Một lát bãi chầu rồi, bá quan đều về hết, vua Thái Tôn cầm một mình Ngụy Trưng ở lại mà thôi, mời vào đền trong luận bàn việc nước, qua đầu giờ Ngọ, vua truyền mỹ nữ lấy cờ sắp trên bàn xong xã, Ngụy Trưng lạy tạ, rồi ngồi lại đánh cờ, dục dặc gần nửa giờ mà chưa thắng bại. Ngụy Trưng gục đầu trên bàn mà ngáy pho pho. Vua Thái Tôn không kêu, để cho Ngụy Trưng ngủ, chừng một lát Ngụy Trưng thức dậy, quì dưới đất lạy vua mà tâu rằng: "Tôi đáng tội thác, khi bần thần ngủ quên không biết có điều chi thất lễ. Xin Bệ Hạ tha tội cho tôi". Vua Thái Tôn cười rằng: "Khanh có tội chi mà ngại, thôi, dậy mà đánh cờ". Ngụy Trưng lạy tạ ơn rồi sắp cờ đánh nữa. Xảy nghe tiếng la lớn ngoài cửa đền, thấy Tần Thúc Bảo xách đầu rồng Bạch chảy máu ròng ròng, quì tại sân mà tâu rằng: "Muôn tâu Bệ hạ! Có thấy sông khô cùng biển cạn, việc nầy lạ lắm thiệt chưa từng. Vua Thái Tôn hỏi: "Vật đó ở đâu?" Tần Thúc Bảo tâu rằng: "Ðầu rồng trên trời rớt xuống tại ngã tư, nên tôi phải đem dâng cho Bệ hạ". Vua Thái Tôn thất sắc, phán hỏi Ngụy Trưng rằng: "Thừa tướng bàn chuyện ấy đặng không?" Ngụy Trưng quỳ lạy tâu rằng: "Tôi mới thiếp đi chém đó". Vua Thái Tôn thất kinh mới hỏi: "Khi khanh ngủ, tay không chuyển động, cũng không có gươm đao, vậy làm sao mà chém đặng rồng ấy?" Ngụy Trưng tâu rằng: "Tôi vâng chiếu Thượng Đế hồi hôm truyền giờ Ngọ này thiếp xuống chém rồng có tội. Bệ Hạ đòi tôi hầu cờ nên đi không đặng, túng phải thiếp xuống lấy gươm phép chém kịp giờ". Vua Thái Tôn nghe nói: "Nửa mừng nửa buồn, mừng là đặng tôi hiền có phép, buồn là vì lời hứa không xong, phải gượng gạo mà truyền cho Tần Thúc Bảo rằng: "Ðem đầu rồng treo tại chợ Trường An mà răn lê thứ". Lại ban thưởng Ngụy Trưng. Hai tướng tạ từ về hết.”
*Source:- Xem đầy đủ ở :- http://vietnameseface.com/novel/T/Tay-Du-Dien-Nghia
*Nhược Thủy (st).
Xin theo dõi tiếp BÀI 14. dienbatn giới thiệu.
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét