Trình tự vẽ phù, không được lẫn lộn .
1 - Chuẩn bị đầy đủ dụng cụ (nước, bút, mực, nghiên mực, giấy, hương, hương lơ, châu sa, kim ngân tiền giấy các vật cần thiết khác).
2 - Chọn thời điểm đẹp nhất (chọn thời điểm vào giờ Tý để vẽ phù là tốt nhất).
3 - Tâm bình thần định (tọa thiền dưỡng khí).
4 - Đốt hương thỉnh thần (niệm chú thỉnh thần).
THỈNH THẦN CHÚ:
Thừa sai thổ địa, cấp hốt thiên lí, thông thiên thấu địa, xuất u nhập minh, văn ngô quan triệu, bất đắc lưu đình, thượng thiên hạ địa, thập tạp tam đảo, phi phù tẩu triện, triệu thỉnh vô đình, tốc đáo đàn tiền, tiếp ngô phù lệnh, hữu công chi nhật, danh thư thượng thanh. Ngô phụng thái thượng đạo tổ sắc, thần binh hỏa cấp như luật lệnh.
5 - Quán tưởng thần phật giáng lâm.
6 - Niệm sắc thủy chú, sắc bút chú, sắc chỉ chú, sắc mặc chú, sắc nghiễn chú, thủ bút chú.
SẮC THỦY CHÚ: (chú nước)
Thử thủy phi phàm thủy, bắc phương nhâm quý thủy, nhất điểm tại nghiễn trung, vân vũ tu du chí, bệnh giả thôn chi, bách quỷ tiêu trừ, tà quỷ thôn chi như phấn tối. Cấp cấp như tam kì đế quân luật lệnh.
SẮC BÚT CHÚ: (chú bút)
Cư thu ngũ lôi thần tướng, điện chước quang hoa, nạp tắc nhất thân bảo mệnh. Thượng tắc phọc quỷ phục tà, nhất thiết tử hoạt diệt, thông ngã biểu sinh. Cấp cấp như luật lệnh.
SẮC CHỈ CHÚ: (chú giấy)
Bắc đế sắc ngô chỉ, họa phù đả tà quỷ, cảm hữu bất phục giả, áp nhập phong đô thành. Cấp cấp như luật lệnh.
SẮC MẶC CHÚ: (chú mực)
Ngọc đế hữu sắc, thần mặc chá chá, hình như vân vụ, thượng liệt cửu tinh, thần mặc kinh ma, phích lịch củ phân. Cấp cấp như luật lệnh.
SẮC NGHIỄN CHÚ: (chú nghiên mực)
Ngọc đế hữu sắc, thần nghiễn tứ phương, kim thủy mộc hỏa thổ, lôi hỏa vũ điện, thần nghiễn khinh ma, phích lịch điện quang mang. Cấp cấp như luật lệnh.
THỦ BÚT CHÚ
Hách hách Âm Dương, nhật xuất đông phương, Ngô sắc thư phù, phổ tảo bất tường, khẩu thổ Tam Muội chi hỏa, nhỡn phóng như Nhựt chi quang, Kim Cang giáng phục, tróc chư yêu quái hóa vi cát tường, tả thiên thiên lực sỉ, hửu vạn vạn tinh binh cấp cấp như luật lịnh.
7 - Hạ bút vẽ phù (trước khi hạ bút chú tam biến, hạ bút khi đầy đủ thần, tòan tâm tòan ý quán tưởng, vẽ xong trong một hơi thở).
8 – Chỉnh sửa phù, thu phù.
9 – Vẽ xong phù, đem tới lư hương đã đốt hương, trên lư hương quấn phù tròn thành 3 vòng.
10 - Đem tờ giấy vẽ phù tới vòng ở trên lư hương ba vòng.
11 - Niệm chú tống thần (dùng phối hợp chú đặc định).
TỐNG THẦN QUY VỊ CHÚ:
Thiên tồi tồi, địa tồi tồi, bản suất kị mã hồi đương quy, binh lai đàn tiền ngự liễu giáp, mã lai đàn tiền tá liễu an, tiên binh tống đáo, quy tiên đồng, địa binh phụng tống quy doanh trại, hữu cung quy cung, vơ cung quy miếu, phụng tống quy cửu châu. Phụng tống tiên thần chân linh chính thần quy kim thân, thần thối thần, nhân thối nhân, tống quy sinh đồng thập nhị điều nguyên thần quy bản thân cung, tổ sư tống tam hồn, bản sư tống thất phách, tiên nhân ngọc nữ tống quy, sinh đồng tam hồn thất hồn quy bản thân cung, thần binh hỏa cấp như luật lệnh.
Những trình tự ở trên tất nhiên phải rất cung kính, không được mảy may cẩu thả, cho đến lúc vẽ xong phù, khiến cho mỗi đạo phù đều có oai lực, yêu cầu sử dụng phù chính xác, hoặc dán hoặc đốt hoặc đeo không được nhầm lẫn, trong khoảng một ngày, có thể phát huy hiệu quả!
● Kị huý khi vẽ phù: cấm hút thuốc, uống rượu, cáu giận, tinh thần không tốt, thân thể không khoẻ, sau khi sinh hoạt... không thể vẽ phù. Tâm cần phải hòan tòan bình hòa, chú tâm vào việc vẽ phù.
● Vẽ phù rất cần tránh tiến hành vào ngày Hình Phá, nếu vẽ phù vào ngày đó thì biến thành chiêu hung tai, vào ngày 9 tháng 3, 2 tháng 6, 6 tháng 9, 2 tháng 12, đại kỵ đem cho người dùng phù.
Còn 1 điều tối ư quan trọng phải cấm kỵ khi họa Phù là : ngày Sát Sư của mỗi tháng và tháng Sát Sư của ngày đó , phạm những ngày này tổn phước Hành Giả , Phù phép không linh , và những ngày trong năm cấm kỵ phòng sự , nếu phạm thì không chứng quả Tiên , Thánh được v.v.....
Ngày sát Sư bốn mùa :
Xuân Giáp Dần – Hạ Đinh Tỵ .
Thu Tân Mùi – Đông Nhâm Tý .
Giáp Tý , Canh Ngọ Nhật đại hung .
Bính Tý Ất Mùi sát sự cung
Cảnh hữu Nhâm Tý giai bất lợi .
Vì nhân suy giả tế suy tâm .
" Những Điều Cần Lưu Ý Khi Tác Pháp .
Tất cả các phép thuộc Đạo Giáo đều có sự yêu cầu rất nghiêm ngặt về mặt nghi lễ cũng như phụ pháp, để làm 1 lá linh phù đòi hỏi rất nhiều những nghi thức phức tạp, nếu không thực hiện 1 cách đầy đủ nghiêm túc thì sẽ khó mà tận dụng được hết oai lực của Bùa chú và phép, bởi phép thuật bao la vạn tượng một loại phép một câu chú có thể tạo ra nhiều phép khác, thậm chí còn biến hóa khôn lường, yêu cầu cao nhất của phép thuật Đạo Giáo là phải nắm rõ về các Ấn Quyết, cách thư phù, cách chọn ngày, tính ngày, và đặc biệt quan trọng trong phép thuật Đạo Giáo là Đạp Cương Bộ Đẩu người làm phép phải nắm rõ về phép này, nếu không nắm rõ về Đạp Cương Bộ Đẩu thì coi như là đã mất đi 50% kĩ thuật luyện phép Đạo Giáo . Một điều quan trọng nữa về phép Đạo Giáo chính là phương thức lập đàn, ví dụ khi làm linh phù Lục Giáp phải lập đàn Lục Giáp, làm linh phù nào thuộc dạng pháp lực lớn đều phải lập đàn cầu thỉnh tiên thánh trợ giúp . Một điều quan trọng nữa chính là Ấn Sắc người luyện phép bắt buộc phải có ấn sắc, Ấn Sắc giống như 1 con dấu của công ty vậy, khi làm bùa phải có những Ấn sắc đóng vào thì mới có thể tạo ra được oai lực, tất nhiên nếu không có ấn hoặc làm những nghi lễ trên thì vẫn có chút linh diệu đối với những người đã tu hành về Phật giáo và Đạo Giáo, và những người có tâm tha thiết mong cầu, những Ấn Sắc bắt buộc phải có gồm Ấn Thái Thượng Lão Quân, Ấn Tiên Thiên Bát Quái, Ấn Bản Mệnh, Ấn Cấp Sắc của môn phái theo học, ngoài ra khi sử dụng các phép Cửu Thiên Huyền Nữ, Trương Thiên Sư, Mao Sơn, vv..... thì cần thêm các ấn đó. Tựu trung lại học phép thuật Đạo Giáo vô cùng phức tạp nhưng cũng rất thiên biến vạn hóa công năng rất mạnh. Cho nên người dịch sách khuyên nên tìm minh sư chỉ dạy nếu muốn học phép thuật Đạo Giáo, tuy nhiên nếu những người chưa có duyên tìm thầy mà có căn cơ tốt chịu khó nghiên cứu tu học, có tấm lòng mong cầu học đạo thì cũng có thể sớm ngộ ra được phép mà tu luyện, lúc đó có thể được các vị thần tiên yêu mến mà ủng hộ hoặc trợ giúp, những người đã tu trì về phật đạo cũng sẽ dễ dàng học phép và thi triển phép thuật linh diệu hơn là người không tu trì một chút gì.
Pháp Nam Tông thì không phức tạp như Bắc Tông Đạo Giáo bởi các phép này là các bí thuật dân gian và do các thầy tổ sáng tạo ra, những phép Nam Tông rất gần gũi với đời sống của con người miền Nam, các phép này có những phép kết hợp với cả Phật Giáo để luyện cho nên ai đã từng quy y Tam bảo đều có thể tu học và đọc các chú Pali Nam Tông được, nhưng tốt nhất nên tìm thầy để chỉ dạy, sách vở chỉ là sự ghi chép của các pháp sư ghi lại, khi họ ghi chép thường chỉ ghi những điều mà họ dễ quên hoặc cơ bản chứ không bao giờ ghi cặn kẽ những điều như họ đã làm, chúng ta ghi chép lại điều gì cũng vậy thôi, không thể nào ghi đầy đủ ra những thứ mà thuộc về kĩ năng của mình được, hoặc cũng không thể ghi những thứ rất đơn giản mà ta đã nắm rõ ví dụ như, khi đọc kinh, chú đọc như thế nào, tay dơ ra sao, chân bước ra sao, đây là điều kiên quyết phải biết đối với người học phép thuật, cho nên những điều này các bạn nghiên cứu phép nên hiểu rõ. Nhiều người nghĩ rằng có sách trong tay là có thể luyện được phép ngay thì xin thưa rằng đó là điều rất khó nếu không có sự nghiên cứu và học tập kĩ càng thì kể cả Nam Tông hay Bắc Tông đều rất khó luyện thành, người căn cơ cao thì đọc qua có thể hiểu ngay được ít nhiều kẻ căn cơ thấp thì cho dù có ghi chép đầy đủ ra vẫn cảm thấy là rất khó hiểu bởi vậy nên mới phải đợi 2 chữ Tùy Duyên." ( Tantric )
Vẽ được một lá Bùa cần phải trải qua các bước nghiêm cẩn đến như vậy , nếu người vẽ không khổ công rèn luyện , tu pháp chưa chắc đã linh nghiệm , huống chi gần đây có vị tự xưng này nọ , kia đem Bùa ra bờ sông Tô Lịch vẽ trên đất dơ bẩn , Đàn pháp bát nháo mà đòi phá Trấn của cao Vương . Nghe thật nực cười lắm thay .
Xin xem tiếp bài 3. dienbatn.
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét