Nhớ lại thời ấy, tin từ chiến trường gửi về vội vàng, tới tấp, công việc trọng yếu lại cần kíp, ngày đêm ăn nghỉ mất cả điều hòa, như điên cuồng, như mê loạn, đến nay nỗi kinh hoàng ấy còn chưa định tính, nên tật bệnh ngày một tăng, rồi chẳng may có một phen quá nặng đã chết đi sống lại, từ đó đầu choáng, mắt hoa, chân yếu, bụng ứ, những hư chứng thảy đều xuất hiện, nên việc tế tự không thể thân hành, việc triều chính không thể cần mẫn được. Vì vậy càng về sau ta càng bị chê bai phỉ báng. Thực lòng ta sợ một mai kia bỗng đuối sức mà không được như loài cáo thì quả là hổ thẹn, nên bèn sai quan thái sứ chuẩn bị xem đất, được chỗ đất rộng ở làng Dương Xuân thượng, đình thần sau khi xem xét lại cũng cho là xứng đáng. Bởi vì theo các nhà thuật sĩ mà làm thế, chứ với ta ta đâu quan tâm đến. Lại cho rằng năm ấy là năm Giáp Tý, tháng ấy là tháng Bính Tý đều thích hợp với việc thi công, ta đã suy nghĩ rồi làm theo. Rồi mỗi người một việc, ai lo việc nấy, cố gắng hết sức, chỗ đáng cao đắp cho cao, nơi đáng thấp đào cho thấp, mở mang đo đạc, chặt phá tảng đá lùm cây, rồi thành trì, cung điện, lầu gác, đình viện, nhà mát, hành lang, hồ đảo… dần dần hiện ra đúng vị trí và xứng hợp với nhau. Chính giữa là ngôi nhà vĩnh viễn của ta, xây theo hướng Tây Bắc – Đông Nam, không xây lăng đắp nấm, chỉ dành một đám đất bằng, làm tường thấp, ngày sau chắc bắt chước Bá Lăng (22) dùng ngói để lợp.
Những mạch núi chạy từ xa tới gần gọi là Dẫn khiêm, Lao khiêm, Đạo khiêm, Long khiêm, Cư khiêm, Lý khiêm. Gò bên phải có tường bao quanh, trổ một cái cửa có lầu gọi là Khiêm cung môn. Điện phía trường gọi là Hòa khiêm, là nơi thờ phụng hương khói về sau; điện phía sau gọi là Lương khiêm là nơi nghỉ ngơi vui chơi. Phía đông của điện ấy là Minh khiêm đường dùng làm nơi nghe tấu nhạc, phía tây là Ôn khiêm đường dùng làm nơi cất giữ đồ ngự phục. Trong và ngoài cửa cung dựng bốn ngôi nhà ngang gọi là Công khiêm, Cung khiêm, Lễ khiêm và Pháp khiêm, là chỗ dành cho các quan túc trực. Sau hai điện ấy, dựng bốn viện gọi là Tùng khiêm, Dung khiêm, Y khiêm và Trì khiêm, là nơi ở của các phi tần theo hầu. Tiếp phía sau điện có một cái gác nhỏ gọi là Ích khiêm, tuy thấp nhưng đủ để nhìn phong cảnh gần đó. Phía ngoài của cửa trước dựng một cái hành lang gọi là Chí khiêm, hẹp nhưng đủ để thờ cúng các hầu thiếp đã khuất. Chỗ nước ít gọi là ao Tiểu khiêm xây theo hình trăng non, thế hoành chinh cục (23), trước cạn khô, chỉ để chứa nước mưa theo phép ô thanh thuật (24). Chỗ nước lớn gọi là hồ Lưu khiêm quanh co uốn khúc từ phải sang trái sâu và trong, mùa hạ không cạn, mùa thu không tràn vì đây vốn là ruộng sâu mà đào nên, lại xây một cái cống thông ra ruộng bên ngoài để vừa giữ vừa tháo nước. Hồ khi mới làm được một nửa mà đàn cá chi chít không sao kể xiết, không đợi bắt bò vào nuôi bởi vì vị trí ấy rất tiện lợi để đàn cá từ ngoài vào. Phía đầu hồ, vèn bờ đá, có dòng nước từ dưới đất phun lên, xem ở bờ đá ấy không thấy có chỗ hở mà nước lạnh và trong róc rách cứ rót mãi vào hồ ngày đêm không dứt, thực do trời sinh, nghi có mạch nước ngầm nhưng khó thấy rõ được. Nhân vậy bèn dựng một ngôi nhà nửa trên khô nửa dưới nước ở đó, sườn tre lợp tranh đủ che mưa nắng làm chỗ đậu cho hai chiếc thuyền nhỏ cũng gọi là Thuận khiêm và Ôn khiêm. Vào những lúc trăng thanh gió mát, dong thuyền chơi trên mặt hồ, hái hoa quân tử, ca khúc ái liên (25), sảng khoái lâng lâng không còn thêm gì nữa, bởi vì đầy hồ chỉ trồng một thứ hoa ấy. Bên cạnh hồ dựng lên hai nhà mát, một cái hai tầng khá cao và thoáng gọi là Xung khiêm; một cái ba tầng, các tầng thấp và hẹp gọi là Du khiêm, những đêm tháng năm có gió có trăng cũng đủ thú buông câu. Giữa hồ, do tính toán để giảm bớt công việc nên giữ lại đất đá đắp thành một hòn đảo lớn, dựng trên ấy ba ngôi đình nhỏ lấy tên là Nhã khiêm, Tiêu khiêm và Lạc khiêm. Núi đá bao quanh, hoa cỏ râm mát, làm bậc đá, làm động, làm rừng, làm hang, nuôi đủ chim bay thú chạy, mọi vật đều thích nghi với chỗ ở của mình. Trên hồ bắc qua ba chiếc cầu gọi là Tuân khiêm, Tiễn khiêm và Do khiêm để tiện việc qua lại mà cũng để đất nước được nối liền với nhau. Dưới chân núi bên trái, ở đó là Thể khiêm đình, nơi dựng bia làm chỗ tập bắn. Ngang lưng núi là Khiêm trai có hành lang ăn thông với ngôi lầu trên đỉnh núi, ấy là Di khiêm lầu nằm chót vót, hơi cao và thoáng, có thể trông xa được. Chung quanh là la thành được xây chỗ cao chỗ thấp tùy theo hình thế của gò núi nhưng đó đều do tay người làm cả, nhưng chưa bằng nhìn dãy núi ôm quanh bốn mặt, chỗ như bức tường, chỗ như bình phong, không xiên không hở, đây mới là la thành của thiên nhiên vậy. Ngoài có ba cửa là Vu khiêm, Tư khiêm và Thương khiêm trong có sáu cửa là Tất khiêm. Nhu khiêm, Huy khiêm, Năng khiêm, Mục khiêm và Liêm khiêm. Lại tùy sở thích hợp từng nơi từng lại mà làm giàn đậu, luống hoa, hàng cây, luống rau, làm hang động cho nai, đào ao cho cá. Tuy đất núi có vẻ xấu nhưng gieo trồng cũng dễ tốt, chăn nuôi cũng dễ phát triển, cũng có thể do khí đất ở đây khiên ra thế chăng.
Tên chung của nơi ấy gọi là Khiêm cung, sau này ắt gọi là Khiêm lăng. Lại sai làm miếu thờ thần để thờ cúng và ban sắc gọi miếu là Khiêm sơn thần.
Phàm tên gắn liền với nghĩa, không phải chỉ cốt cái tên mà thôi. Tại sao lấy cái Khiêm của ta mà khiến cho núi kia, nước kia, nhà cửa kia đều phải khiêm theo? Chung có khiêm chăng. Vả lại chúng biết gì? Gom lại mà định tên cho như thế thực chúng có chịu chăng? Mà sao ta lại chôn lấy chữ khiêm? Và khiêm ấy quả thực lòng nhân nhượng chăng?
Ôi! Khiêm là kính là nhường, có chỗ mà không ở, uốn mình xuống ngang với một ai là mang chịu ô nhục và tội lỗi như thể còn gì mà không nhường, không uốn mình, lại năng công đức gì mà chẳng khiêm? Vả chăng ta vốn quen giản dị, địa vị tuy ở chốn nhà vàng mà lòng thường như người áo vải. Trừ những buổi thiết triều phải dùng y phục đẹp đẽ, ngoài ra không có gì là lộng lẫy, tức cũng có nghĩa là có địa vị mà chẳng ở. Thêm vào đó, từ ngày xây cát cung này có lần sét đánh điện Hòa khiêm, dân đấy loan làm mê hoặc lòng người, xâm phạm đến đế khuyết, trời trách người oán bỗng dưng xảy đến, lòng ta còn lẽ nào mà chẳng dám chẳng khiêm? Trước sau chỉ biết một điều là kinh sợ, hết lòng lo nghĩ may ra gìn giữ vãn hồi trong muôn một thì khiêm kia há dám chẳng thực lòng hay sao? Cho nên hết thảy đều lấy tên là Khiêm, ấy cũng là tùy theo cảm xúc, như là để tự cảnh tỉnh răn đe, tự chê trách vậy. Không phải như Ngu Khê (26), không ngu mà chịu tiếng là ngu thì hơi đâu mà hỏi nó có thuận với tên ấy không? Ta không dám mong thế nào là bớt là thêm, là hại là phúc để dùng hay để tránh cái chữ khiêm ấy.
Vả lại ta làm cung này vì nghĩ cứ theo lệ thường thì ta phải có miếu riêng, có lăng tẩm, nếu không chuẩn bị trước thì ngày sau tôi con cứ tuân theo phép cũ khó tránh khỏi việc chọn chỗ cách trở xa xôi, phiền hà mệt nhọc, nên thực tình cốt để tiết giảm và thuận lợi. Huống chi nơi này nguồn lại thấp, rất gần với các lăng đời trước, đất nước hiền lành, chẳng phải nơi núi cao cây tốt, rất dễ thi công. Điện vũ tuy nhiều nhưng đặc biệt chỉ có Hoa khiêm, Lương khiêm và Di khiêm là làm bằng gỗ mới, còn lại đều nhặt nhạnh từ những ngôi nhà cũ, đem chỗ nọ bỏ vào chỗ kia mà công việc cũng phải đến ba năm mới xong. Tất cả việc xây cất sửa sang chi dùng kể đến hàng vạn lao phí như thế ta biết làm sao được. Than ôi! Xem câu nói của Thành Tử Cao (27) mà then thay.
Lăng làm xong, ta thân rước mẹ ta đến thăm, bày đủ yến tiệc, múa hát, lại cho phép quan trong quan ngoài cùng thê thiếp đến dự lễ lạc thành. Đấy cũng là thể theo ý quần thần chứ ta đâu dám bày ra nhiều nghi lễ làm gì. Nhưng ta cũng sẽ bắt chước Tư Không Biểu Thanh (28) dùng đấy làm nơi uống rượu ngâm thơ, không chỉ để dùng làm nơi ăn ở hẩm hút mà thôi. Về sau nhân lễ Thanh minh theo xe lên cáo lăng, tiện đường dừng lại chọn hái lấy những món ngon vật lạ, thơm ngọt tươi béo dâng lên để mẹ ta được vui lòng. Hoặc lúc nóng nực, để trút bỏ nỗi ưu phiền ta cũng tạm đến đây thăm viếng, nhưng trong một năm vài ba bận chẳng còn rảnh thay. Hoặc đang lúc tế Nam giao mà chưa thể thân hành dự tế lễ được thì cũng đứng dậy mà lạy vọng đến, bắt chước chuyện cũ Trúc cung (29) mà tỏ bày chút lòng thành kính.
Lên cao mà nhìn bốn phía thì trước mặt là đàn Nam giao, sau lưng là chùa Linh Mụ đã đủ rõ chí hướng bình sinh của ta rồi. Lúc sống chưa thể bày tỏ hết lòng thành thì khi chết lại được mãi mãi chầu hầu. Bên phải gần Xương lăng (30), bên trái đối diện Văn Miếu đủ để an ủi niềm yêu mến ngưỡng mộ thành thực của ta, để ngày kia hồn phách ta có nơi nương tựa dài lâu thủy chung như nhất. Chung quanh bao nhiêu là mồ mả, cũ mới ngổn ngang, một nửa cố nhân đã mất, lại có những ngôi mộ mà chẳng biết là của bậc công thần danh tướng hay thường dân nằm la liệt như thế. Trèo lên Bắc nam mà trông Hao lý (31), gió hàng dương réo rắt bi thảm suốt đời không thôi, thế thì đời người hấp tấp lo toan để làm gì? Thì cần chi phải chỉ con đường Tân Phong (32) mà những ngậm ngùi!
Điều ta vẫn mãi bùi ngùi là việc học chưa thành, chỉ chưa thỏa, hư danh chẳng xứng với thực tội, thể chất lại yếu đuối không đủ sức đảm đương nhiều việc. Như nay, ngoài thì bờ cõi bị mất chưa giành lại được, trong thì giặc giã hoạn nạn chưa yên, việc nối dõi lại chậm chạp khó khăn, chưa tìm được người kế tục thì biết nương nhờ vào ai để trông coi công việc? Những may trời sinh tinh tốt, lương tri lương năng chưa phải tối tăm, tuy bệnh tật quá nhiều, phẫn uất quá lớn, không khỏi có lúc nóng nảy giận dữ nhưng tất nhiên đều có nguyên nhân cả; nhưng bất cứ việc gì ta cũng khoan hậu, không dám làm càn. Do đó, nắm quyền sinh sát lâu ngày nhưng chưa hề tự chuyên giết lấy một người khi án chưa rõ, cho đến việc vui buốn cũng không bao giờ để lộ ra mặt.
Từ trước đến nay có lẽ ta đau buồn nhất là vào một ngày mùa thu ta hầu bệnh hoàng khảo, bệnh nặng đến mấy lần bị hôn mê, tả hữu hầu hạ đều xa lánh, chỉ mình ta lên giường bệnh thân hành tự đổ thuốc, nước mắt giàn giụa, kêu gào như kẻ cuồng điên, cũng may mà khí dương dần dần hồi phục cho ta kịp hầu hỏi han được một đôi điều. Đến ngày ninh lăng, cầm đầu các hoàng thân đại thần đưa tử cung đến yên nghỉ ở huyền cung, ta gục đầu rất đỗi thương xót, bịn rịn một bên hầu như không còn biết đến thân mình nữa. Các đại thần mời ta ra, ta cũng chẳng biết, đông các đại học sĩ Võ Xuân Cẩn phải cầm tay dắt ta ra. Thực mà nói cả đời ta chưa bao giờ đau buồn như lần ấy. Mặt khác, hoặc nghe thấy chuyện của các trung thần hiếu tử thì ta bỗng buồn bã nghẹn ngào đến rơi nước mắt khiến đọc sách cũng không thành tiếng. Ngoài ra, cái mà người đời cho là buồn ta cũng chẳng buồn lắm, cái người đời cho là vui ta cũng chẳng vui lắm. Nay ta ưa đọc sách, khổ nỗi là không được rảnh rang, cho dù chưa thể hiểu rõ, chưa thể nhớ lâu ta cũng chẳng dám lấy lời của người làm lời của mình, không giả dối, không lục lọi đẽo gọt. Nhớ xưa cần chánh điện đại học sĩ Trương Đăng Quế thường nói: Hãy thuận theo số trời. Tuy lời nói chỉ mới hiểu được một nửa nhưng cũng đủ để gọi đó là người tri kỷ bậc nhất trong đời, lời nói của người bạn cũ dễ gì quên được!
Ta thường nói: trải qua các đời vua chẳng thiếu gì người hay kẻ dở, nhưng nếu lấy công danh mà nói thì Hán Văn chẳng bằng Đường Thái (33), nhưng lấy đức độ mà nói thì Đường Thái kém xa Hán Văn, đấy cũng là trời phú cho cả, bản thân ta không sao tự định lấy được. Ta không dám coi nhẹ Đường Thái nhưng ………… mong được như Hán Văn, cho nên việc gì cũng cốt điều thật, chăm chút nuôi răn, vun đắp gốc rễ, ấy là điều ta hằng tâm niệm. Ngày đêm phán quyết mọi việc, mắt đọc tay phê còn sức đâu để làm gì nữa, tuy chẳng tránh khỏi thú vui chơi thanh sắc, săn bắn, bài bạc nhưng chẳng qua cũng chỉ là những món tiêu khiển tầm thường chẳng kể làm gì, thực đâu dám làm sâu dân mọt nước, điều ta hằng mong vẫn chưa thực hiện được vì đức ta chưa đủ để cảm hóa thói tục, tài ta chưa đủ để giáo hóa con người. chí lớn mà hiểu biết ít ỏi, muốn nặng nhưng chỉ được nhẹ. Nhìn xem phong tục thế giới ngày nay như thế nào? Phong tục thế giới không chỉ ở các nước xa xôi chỉ lo giành giật công lợi một cách dối trá, mà đến cả công khanh sĩ thứ của các nước văn minh cũng lắm kẻ tham tàn gian dối, lâu ngày trở thành thói quen, phô bày công mỏng, che giấu tội dày, cam lòng vì lợi bỏ quên nguy lớn, nếu có người nào nước nào cho là lạ thì chúng đều bảo là ngu và dùng lời mỉa mai đáp lại. Thật còn hơn cả thời Xuân thu chiến quốc, dẫu Khổng Mạnh có sống lại cũng chưa chắc đã làm gì được! Ôi cứ xem nước Đại Thanh (34) mà cũng không thể giữ được mình còn nói gì đến các nước khác. Ta nay, trong thì không có niềm vui về đường nối dõi, ngoài thì nhiều việc chưa yên, một mình với biết bao lo âu tội lỗi xảy đến, người sức khỏe bình thường còn chưa kham nổi huống gì ta. Ta chỉ lấy một chữ THÀNH để chế ngự mọi xấu xa, ngoài ra ta còn biết tin vào đâu nữa, chỉ có trời mà thôi. Nhưng cái tin của ta chẳng phải tin vào vận số của trời mà chỉ riêng tin vào đạo lý của trời thì thực ta cũng đã hết lòng rồi vậy, mà khi đã hết lòng thì Khiêm có thể bảo vệ được thái bình. Cho nên ta chẳng dám chẳng khiêm để thực hiện trọn đạo làm người, có được thái hòa chính là do sự thể hiện của Khiêm vậy, ta đâu dám không gắng sức để có thái hòa, để đạo trời thêm sáng?
Thế mới biết Nhu thắng mà Cương cũng thắng mới cân bằng và tồn tại, nhún nhường và chịu nhún nhường, hai điều ấy có mối quan hệ với nhau, không những chúng không trái nhau mà còn thúc đẩy nhau để thành tựu.
Thế nên nói Đạo trời cứu giúp xuống kẻ dưới, người quân tử hãy giữ cho trọn đạo (35), do đó nếu không phải là người từng trải nhiều về sự lo âu đau đớn thì làm sao hiểu ta để cùng ta tâm sự và không cùng một cách nghĩ với ta thì sau này khi xem công việc của ta chớ nên bực dọc. Tâm trí đau khổ dằng dặc suốt cả sớm chiều, rồi bỗng dưng như cuồng loạn, nếu không có ân đức thánh nhân thì ai vực ta dậy, nên ta cứ chờ đợi mãi. Chỉ có trời và thánh nhân mới hoàn tất được chí của ta, ta chẳng dám vì không thể làm được mà không làm, không thể giáo hóa được mà không giáo hóa, một ngày cũng hết lòng vì trách nhiệm một ngày.
Nay chép vào đây đều là sự thực cả, chỉ có mình ta chứ nào ai thấu được, ngõ hầu thổ lộ phần nào cái chí của ta cùng thiên hạ. Còn như công việc của ta hay dở thế nào thì đã có ngọn bút của các nhà viết sử, đến như văn vẻ chữ nghĩa thế nào cũng chẳng cần bàn nữa. Ngày sau, may mà gặp người có thế gửi gắm được chí của ta thì ta ắt cho nối dõi, bằng không thì biết lấy ai kế tục, cũng nên lượng thứ cho lòng ta, đừng nên lấy bề ngoài làm trọng.
Nhân đây làm bài minh để tự răn. Minh rằng:
Trên làng Dương Xuân chừ, coi có ngôi nhà ta đấy,
Núi thấp đất hoang vu chừ, biểu lộ sự nhún nhường của ta để tự trách vậy.
Ai đồng lòng với ta để hoàn thành chí ta chừ, ôi mong mà chưa thấy.
Chỉ có trời chứng minh chừ, lòng ta đã có bia đá ấy.
Ngự chế vào tháng 6 niên hiệu Tự Đức thứ 24 (1871), ngự bút vào tháng 4 niên hiệu Tự Đức thứ 28 (1875).”
Phan Hứa Thụy dịch . Đăng lại từ trang của Hội nhà văn Việt Nam (hoinhavanvietnam.vn)
Chú thích:
(1) Nhan hồi tự Tử Uyên, còn gọi là Nhân Uyên, là một học trò xuất sắc của Khổng Tử, ông chết năm mới 31 tuổi.
(2) Bành Tổ là một nhân vật thời thượng cổ Trung Quốc, tương truyền ông sống trên 800 tuổi.
(3) Bá Di: con vua Cô Trúc, ông từng khuyên Võ Vương đừng đi đánh vua Trụ, Võ Vương không nghe, đánh thắng dựng nên nhà Chu, Bá Di cùng Thúc Tể giận bỏ lên núi Thú Dương rồi không về nữa.
(4) Đạo Chích: tên một kẻ trộm nổi tiếng đời vua Hoàng đế, ăn trộm rất tinh vi, nghe tiếng ai cũng sợ.(4b) Tiến sĩ cập đệ, tục gọi là trạng nguyên chúng tôi ngờ rằng chữ bị sai, xin cứ để theo bản dịch mong bạn đọc chỉ giáo
(5) Trạng nguyên: từ gọi người đứng đàu trong bực tam khôi theo chế độ thi cử thời phong kiến.
(6) Chỉ độ tuổi bắt đầu đi học, vì từ đó mới chừa tóc.
(7) Tiểu tử: tiếng tự vựng của Tự Đức đối với cha mẹ ông.
(8) Thái hậu: đây chỉ mẹ của Tự Đức, tức bà Từ Dũ.
(9) Hoàng khảo: chỉ ca của Tự Đức, tức vua Thiệu Trị.
(10) Án mùa thu: nguyên văn là thu thẩm. Thời nhà Nguyễn, án tử hình từ các tỉnh gửi về thì cứ đến mùa thu bộ Hình mới mang ra xét lại rồi trình lên vua. Do đó án mùa thu ở đây chỉ những án nặng.
(11) Chỉ việc bàn giao ấn ngọc (Ngọc tỉ) của vua Minh Mạng truyền lại.
(12) Tiềm để: Ngôi nhà dành cho Thái Tử ở trước khi lên làm vua.
(13) Lưu kinh: giữ kinh đô. Khi nhà vua đi xa thường cử một người thân tín ở lại kinh thay vua giải quyết mọi việc và giữ gìn kinh đô, đó là chức lưu kinh.
(14) Tử bửu: bốn thứ đồ dùng quý dành cho nhà vua: giấy, bút, mực, nghiên.
(15) Sư phó: từ gọi người dạy cho vua hoặc hoàng tử học.
(16) Khánh vân ca: tên một khúc ca mà quân thần dùng ca ngợi ân đức của vua Thuấn.
(17) Lúa Vải: do chữ đẩu tốc xích bố nghĩa là thúng lúa thước vải. Đây lấy ý từ một bài dân ca đại ý chê Hán Văn Đế và Hoài Nam Vương đều là con của Hán Cao Tổ, hai anh em vì quyền lợi nhỏ nhen mà hại nhau. Đây vua Tự Đức muốn nêu ý anh em bất hòa gây cảnh nồi da xáo thịt.
(18) Tức Chu Công Đản, chú của Thành Vương, Thành Vương lên ngôi nhưng tuổi nhỏ, Chu Công làm nhiếp chính, bọn hoàng thân như Quảng, Thái ghen tị vu cho Chu Công muốn tiếm vị, Chu Công nghe lấy làm sợ nên phải bỏ trốn. ThànhVuwowng biết chuyện cho triệu về, bọn Quản, Thái sợ nên xúi Võ Canh chống lại, Chu Công cầm quân đánh bại được chúng, vè sau Mạnh Tử đã hết lời ca tụng Chu Công trong tác phẩm của ông.
(19) Đây chỉ con của Hồng Bảo, người anh cả Tự Đức, vì không được truyền ngôi nên nổi lên chống lại, sau có thể phải xin đầu thú nhưng cũng bị hạ ngục rồi chết trong ngục, con cái ông phải bị đổi qua họ mẹ là họ Đinh.
(20) Chỉ Phan Thanh Giản.
(21) Chỉ Trương Đăng Quế.
(22) Bá lăng: tức lăng của Hán Văn đế ở huyện Trường An, tỉnh Thiểm Tây.
(23) Thuật ngữ của ngành địa lý phong thủy.
(24) Nt
(25) Ái liên: tên một khúc hát diễn tả việc hái hoa sen trên hồ Hoa quân tử đây là hoa sen.
(26) Ngu khê: tên một cái khe ở huyện Linh Lăng tỉnh Hô Nam Trung Quốc.
(27) Thành Tử Cao: một nhân vật thời Xuân Thu, người rất hiền, không bao giờ chặt cây giết vật khi cha mẹ mất ông khóc đến chảy máu mắt, suốt kỳ thọ tang ông sống rấ giản dị.
(28) Tư Không Biểu Thánh: Tư Không, tự Biểu Thánh, người đời Đường đỗ tiến sĩ vào niên hiệu Hàm Thông nhưng gặp thời loạn ông trốn lên núi Trung Điều, ở đây ông dựng ngôi đình lấy tên là Hưu Hưu để cùng bạn bè ngâm thơ uống rượu.
(29) Trúc cung: tên một cung điện bằng tre lá, nơi trai giới của vua đời Hán trong kỳ tế Giao. Tại đây vào ngày tế Giao, buổi sáng nhà vua hướng về phía Đông lạy mặt trời, buổi chiều hướng về phía Tây lạy mặt trăng.
(30) Xương lăng: lăng của vua Thiệu Trị.
(31) Bắc Man: tên núi, còn gọi là Bắc Sơn thuộc địa phận tỉnh Hà Nam, nơi chôn các vương hậu công khanh thời Đông Hán. Đây chỉ mộ vua. Hao Lý: địa danh ở về phía Nam núi Thái Sơn, tương truyền là nơi tụ họp hồn phách của người đã chết.
(32) Tân Phong: Hán Cao Tổ muốn dựng đô ở Trường An, thái thượng hoàng lại ưa về đất Phong, Hán Cao Tổ bèn cho xây dựng Trường An giống hệt như đất Phong và đặt tên là Tân Phong.
(33) Hán Văn Đế: con Hán Cao Tổ được Chu Bột dẹp loạn họ Lữ rồi lập lên ngôi. Hán Văn hiền từ cần kiệm. Đường Thái tức Đường Thái Tông, tên Lý Thế Dân, ông giỏi cả văn chương lẫn võ nghệ, có công đánh đông dẹp bắc mở mang bờ cõi khiến nhà Đường thêm mạnh.
(34) Đại Thanh: từ gọi nước Trung Quốc thời Mãn Thanh.
(35) Chữ lấy trong kinh dịch.
Xin theo dõi tiếp BÀI 11. dienbatn giới thiệu.
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét