LƯỢC KHẢO VỀ CÁC HỆ PHÁI HUYỀN MÔN NAM TÔNG. BÀI 6.

4/05/2014 |
LƯỢC KHẢO VỀ CÁC HỆ PHÁI HUYỀN MÔN NAM TÔNG. 
PHẦN 2.NHỮNG HỆ PHÁI CƠ BẢN CỦA HUYỀN MÔN NAM TÔNG.
CẢNH BÁO : Các tài liệu trong loạt bài này các bạn không nên tự luyện tập nếu không có chân sư hướng dẫn. dienbatn không chịu trách nhiệm về hành vi tự ý luyện tập của các bạn nếu có hậu quả đáng tiếc. dienbatn.

II / PHÁI THẤT SƠN THẦN QUYỀN.



Phái Thất sơn Thần quyền là một môn phái riêng, không hẳn là Trà Kha , nhưng tiếp thu rất nhiều những kỹ thuật căn bản và khẩu quyết của phái Trà Kha. Các thày ngày xưa đi học và nghiên cứu theo các hệ phái Nam tông thường kết hợp và vận dụng rất tài tình, sáng tạo các môn phái khác vào môn phái của mình. Chỉ riêng phái Thất sơn thần quyền cũng chia ra rất nhiều nhánh nhỏ với nhiều sáng tạo và kết quả là có nhiều chi nhánh khác nhau trong cùng một phái Thất sơn Thần quyền.
Theo tài liệu của một người bạn dienbatn là Nông Huyền Sơn - Báo ANTG Huyền thoại võ phái Thất Sơn Thần Quyền như sau : 
" Năm1859, Pháp chiếm Nam Kỳ lục tỉnh. Nhiều chí sĩ, nghĩa sĩ đã tụ quân kháng chiến cứu nước ở vùng Bảy Núi, tức Thất Sơn (nay thuộc tỉnh An Giang). Trước sức mạnh vũ khí hiện đại của quân Pháp, lực lượng nghĩa quân chỉ có binh khí thô sơ và lòng quả cảm. Những người chỉ huy phải sử dụng đến "vũ khí tâm linh" để tiếp thêm sức mạnh cho binh sĩ. Võ phái Thất Sơn Thần Quyền ra đời từ đó.

Dấu vết truyền thuyết



Hiện nay, truyền nhân duy nhất và cuối cùng của Thất Sơn Thần Quyền là võ sư Hoàng Bá, cư ngụ tại cầu Tầm Bót, TP Long Xuyên, tỉnh An Giang. Đã 75 tuổi, gần 20 năm nay, võ sư Hoàng Bá đóng cửa võ đường, không thu nhận đệ tử nữa. Ông cho biết, bản thân ông chỉ lĩnh hội được một số tuyệt kỹ thuộc về phần "dương công” chứ không nắm được nhiều những bí quyết "âm công".

Theo ông thì: "Thất Sơn Thần Quyền là một môn phái cận chiến thực dụng, chỉ hữu ích trong chiến đấu thuở gươm đao xưa. Người võ sinh có những phương pháp luyện tập dị biệt. Vì bài quyền không có lời thiệu nên bị tam sao thất bản. Ngoài quyền cước, võ sinh còn được trang bị thêm niềm tin huyền bí để tạo sự tự tin, bình tĩnh. Trong chiến đấu, sự tự tin, bình tĩnh chiếm 50% thắng lợi".

Thất Sơn Thần Quyền chính tông gồm 2 phần: Quyền và thuật. Quyền là phần "dương công" gồm những thế võ cận chiến tay không và giáp chiến binh khí. Thuật là phần "âm công" huyền bí, dùng năng lượng siêu nhiên trợ lực. Chỉ đệ tử duy nhất được chọn kế thừa chưởng môn mới được sư phụ truyền dạy phần "âm công".

Vào năm 1957, người dân sinh sống dưới chân núi Sam (Châu Đốc, An Giang) vẫn còn thấy một đạo sĩ gầy, râu tóc bạc phơ, tu luyện trong rừng sâu trên đỉnh núi. Không ai biết thân thế, tên tuổi thật của ông. Chỉ thỉnh thoảng gặp và thấy ông không bao giờ rời lưng ngựa. Ông trông rất ốm yếu nhưng lại cưỡi ngựa không yên cương. Dốc núi gập ghềnh đá, ông phải có sức mạnh phi thường mới có thể cưỡi ngựa lên đỉnh xuống vồ. Vì thế, người dân địa phương gọi đùa là ông Đạo Ngựa.

Một lần dong ngựa xuống núi đổi rau củ lấy gạo, bắt gặp một toán cướp dùng súng uy hiếp người dân, ông xuống ngựa can thiệp, bị toán cướp xông vào vây đánh. Chỉ bằng một ngón tay, ông đã khiến một tên cướp trợn dọc mắt, ngã lăn bất tỉnh. Tên cướp khác toan nổ súng. Ông rùng mình một cái “bay” đến cạnh tên cướp tước súng rồi vung chân múa tay đánh gục  hết những tên còn lại. Xong, ông ung dung lên ngựa trở về núi. Biết chuyện,  nhiều thanh niên thán phục,  rủ nhau lên núi tìm ông xin học võ. Không ai tìm được nơi trú ẩn của ông.

Tuy nhiên, có một người thanh niên quyết tâm tìm ông cho được. Người thanh niên này bò lên đỉnh núi Sam tìm nơi ngồi thiền lâm râm khấn: Khi nào gặp được sư phụ mới chịu xuống núi. Sau hai ngày chịu nắng mưa, đói khát giữa rừng sâu núi thẳm, người thanh niên ấy ngất xỉu. Khi tỉnh lại thì thấy mình nằm trong một hang động. Kể từ ngày đó, người thanh niên ấy trở thành đệ tử chân truyền của Đại sư Đạo Ngựa. Ngoài anh ra còn có một tiểu đồng tên Ba giúp ông Đạo Ngựa nhang khói.

Trong những ngày thọ đạo, người thanh niên ấy mới biết sư phụ mình là đệ tử kế thừa chưởng môn Thất Sơn Thần Quyền của Nam Cực Đường do Đại sư Bảy Do lập từ đầu thế kỷ XX, đào tạo nghĩa sĩ kháng Pháp. Năm 1917, quân Pháp bao vây bắt Đại sư Bảy Do đày ra Côn Đảo. Năm 1926, tại nhà lao Côn Đảo, Đại sư Bảy Do cắn lưỡi cho máu chảy đến chết.

Học được gần 1 năm, đã hết phần "dương công" chuẩn bị bước sang phần "âm công", người thanh niên ấy xin về nhà giỗ cha. Khi trở lại núi Sam, người thanh niên không tài nào tìm được hang động cũ. Nghĩ rằng, sư phụ muốn lẩn tránh mình, người thanh niên ấy đành lạy tạ hư không rồi xuống núi. Từ ngày đó cũng không ai còn thấy bóng dáng ông Đạo Ngựa  đâu nữa.

Người thanh niên ấy chính là lão võ sư Hoàng Sơn.
Năm 1960, trong một trận thi đấu tranh giải võ thuật khu vực Đông Nam Á, võ sĩ Hoàng Sơn đại diện đoàn Việt Nam đấu với võ sĩ Kh'mer tên Nosar. Vào hiệp 1, chỉ sau vài chiêu giao đãi, võ sĩ Sonar xin dừng trận đấu vì nhận ra đồng môn. Hóa ra, Nosar cũng là đệ tử của Thất Sơn Thần Quyền. Năm 1970, ông Nosar trở thành Phó chủ tịch Hội đồng Võ thuật Campuchia đã đào tạo ra những võ sĩ "thần quyền" nổi tiếng Campuchia như Nosar Long, Nosar Lieng.
Phát hiện võ sĩ Hoàng Sơn là truyền nhân của Thất Sơn Thần Quyền. Năm 1968, đại lão võ sư Đoàn Tâm Ảnh tìm đến tận nhà Hoàng Sơn đề nghị quy tựu những người hiểu biết về Thất Sơn Thần Quyền để sưu tầm một môn phái đã bế truyền. Do chỉ biết phần "dương công" tức phần "quyền" nên Hoàng Sơn chỉ dám trương cờ Thất Sơn Võ Đạo tại Long Xuyên. Lá cờ nền đỏ có thêu hình 7 ngọn núi màu đen. Đại lão võ sư Đoàn Tâm Ảnh đứng chân tại đó làm cố vấn cho Thất Sơn Võ Đạo.

Chỉ trong một thời gian ngắn, 10 võ sư từ các nơi nghe tin đã quy tụ về góp sức phục  hồi Thất Sơn Võ Đạo, gồm: Nguyễn Thành Diệp, Phùng Vũ Châu (Tư Tiếp), Nguyễn Giầu, Nguyễn Thọ, Nguyễn Thôi, Lê Đình Tây, Trần Văn Tủy, Lê Minh Nho, Sáu Rẩm, Hoàng Bá (trẻ tuổi nhất).




Trong số này, chỉ có đại lão võ sư Nguyễn Thành Diệp là người may mắn nắm giữ được nhiều bí quyết phần "âm công" nhất. Tiếc rằng, chưa kịp hệ thống lại ông đã qua đời năm 1970. Những bí ẩn của Thất Sơn Thần Quyền xem như chìm vĩnh viễn vào hư vô.

Tuy không còn lưu giữ được các bí thuật huyền diệu nhưng Thất Sơn Võ Đạo cũng đào tạo được rất nhiều võ sĩ nổi tiếng. Nhiều trận thư hùng khu vực giữa các võ đường danh tiếng Trung Quốc, Lào, Campuchia, Thái Lan, Malaysia, Indonesia, Philippines đều có mặt võ sĩ Thất Sơn Võ Đạo.

Trận giao đấu tốn nhiều giấy mực của các ký giả thể thao miền Nam lúc ấy là trận Hoàng Thọ, đệ tử của võ sư Hoàng Sơn (môn phái Thất Sơn Võ Đạo) đấu với võ sĩ Tinor (môn phái Trà Kha) vào năm 1973 trong Đại hội Võ thuật tại Sài Gòn. Tinor là võ sĩ Lào được báo chí đặt cho biệt danh "Cọp bay" bởi chiêu  song cước. Nhiều võ sĩ đã phải đo ván bởi cú đá bay nhanh như chớp và chính xác như công thức của võ sĩ này.

Trận trước, "Cọp bay" Tinor thi đấu với võ sĩ Dương Văn Me (sau này là võ sư Huỳnh Tiền). Khi mới vào kẻng, võ sĩ Dương Văn Me chưa kịp chuẩn bị, "Cọp bay" Tinor đã bay người tung cú đá từ phía sau. Dương Văn Me bị gãy xương sườn, trọng tài xử thua. Dưới khán đài, một cuộc ẩu đả xảy ra giữa hai phe cổ động viên. Bất phục, võ sĩ Hoàng Thọ nhảy lên võ đài thách đấu, các đại lão võ sư cả hai phía chấp nhận để vãn hồi trật tự dưới khán đài. Do đó là trận thách đấu nên được ban tổ chức thu xếp vào ngày cuối cùng và nằm ngoài giải đấu.


Khi võ sĩ Hoàng Thọ và "Cọp bay" Tinor thượng đài, ai cũng ái ngại cho Hoàng Thọ vì anh chỉ là một võ sĩ chưa tên tuổi lại thấp hơn "Cọp bay" Tinor một cái đầu. Vào hiệp 1, "cọp bay" Tinor xông lên áp đảo Hoàng Thọ vào góc đài. Chờ Hoàng Thọ lúng túng trong góc chết, "Cọp bay" Tinor tung một cú đá thốc từ dưới bụng lên. Hoàng Thọ dính đòn bật ngửa. Ai cũng tưởng Hoàng Thọ nằm vĩnh viễn trước cú đá bạt sơn của võ sĩ phái Trà Kha. Không ngờ Hoàng Thọ tung mình đứng lên, mặt đỏ au, mắt trợn ngược, tóc tai dựng đứng, tay chân vung đánh loạn xạ không theo một bài bản nào.

"Cọp bay" Tinor vừa chống đỡ vừa lùi ngược. Hoàng Thọ thét một tiếng rồi vung chân đá thẳng. Cú đá bay thẳng vào hàm Tinor. Tiếng xương hàm vỡ phát ra cùng lúc với tiếng kẻng kết thúc hiệp 1. Tinor đầu hàng, được đưa về võ quán ở Lào để điều trị rồi chết sau đó vài tháng. Hoàng Thọ trở nên nổi tiếng với bài "Thần quyền giáp chiến" của Thất Sơn Võ Đạo. Đó là 1 trong số 3 bài quyền còn nguyên vẹn phần quyền (võ) lẫn thuật (phép).

Theo hướng dẫn của võ sư Hoàng Bá, chúng tôi tìm đến Học Lãnh Sơn để gặp một đạo sĩ chỉ có cái tên duy nhất là ông Ba. Ông Ba cất một cái am u tịch giữa lưng chừng ngọn Học Lãnh Sơn để luyện đạo. Ông Ba đã 99 tuổi. Thuở thiếu niên, ông Ba làm tiểu đồng cho ông Đạo Ngựa để học đạo.

Ông Ba cho biết, ông không học võ thuật mà chỉ học đạo,   nhưng cũng được sư phụ kể cho nghe về xuất xứ môn võ này.

Do có xuất xứ từ vùng Bảy Núi linh thiêng nên người đời gọi là Thất Sơn Thần Quyền. Môn võ này có 4 phần luyện là tam đạo nhất thần: Tu tâm dưỡng tính gọi là tâm đạo, định thần dưỡng khí gọi là thể đạo, luyện thân tráng kiện gọi là quyền đạo. Phần luyện thứ tư gọi là luyện thần. Tổ sư của môn phái võ này chính là… Chàng Lía - Một thủ lĩnh nông dân ở Bình Định. Chàng Lía chỉ huấn luyện cho nghĩa binh phần tam đạo chứ chưa có phần nhất thần.

Khi phong trào kháng chiến của Chàng Lía bị triều đình đàn áp, giải tán, một đại đệ tử là Hải Đề Long dẫn một số đệ tử chạy trốn từ miền Trung vào Nam trú ở vùng núi Tô Châu lánh trần tu tịnh. Trong số đệ tử có một người tên Nguyễn Văn Đa rất giỏi. Thời Thiệu Trị, Nguyễn Văn Đa thi đậu võ cử nhân nên được gọi là Cử Đa.

Võ sư Nosar (Campuchia), nguyên Phó Chủ tịch Hội đồng Võ thuật Campuchia năm 1974, cũng là một đệ tử của Thất Sơn Thần Quyền.



Pháp chiếm lục tỉnh, triều đình nhu nhược trước quân Pháp, ông Cử Đa thất vọng từ quan về vùng Thất Sơn đứng dưới cờ kháng chiến của nghĩa quân Trần Văn Thành (quản cơ Trần Văn Thành) vào năm 1862, nghĩa quân Trần Văn Thành trú đóng dưới chân núi Liên Hoa Sơn (căn cứ Láng Linh, Bãi Thưa). 

Láng Linh - Bãi Thưa là hai cánh đồng rộng nằm liền kề, có nhiều đầm lầy, lau sậy và vô số cây thưa um tùm, tăm tối. Căn cứ chính của Trần Văn Thành có tên là Hưng Trung doanh, đặt tại trung tâm rừng Bãi Thưa (nay thuộc xã Đào Hữu Cảnh, huyện Châu Phú, An Giang). Ông Cử Đa trở thành người huấn luyện võ thuật cho quân kháng chiến. Thua kém về vũ khí, để trấn an tinh thần nghĩa quân, thủ lĩnh nghĩa quân Trần Văn Thành giao cho Ngô Lợi huấn luyện quân.

Trần Văn Thành sinh năm 1820 ở ấp Bình Phú, làng Bình Thạnh Đông, tổng An Lương, quận Châu Phú Hạ, tỉnh Châu Đốc (nay thuộc xã Phú Bình, huyện Phú Tân, tỉnh An Giang). Năm 1840, ông được cử làm suất đội trong chiến dịch giải giáp Nặc Ông Độn (em vua Cao Miên, khởi quân chống lại nước Nam). Năm 1845, ông được thăng làm Chánh quản cơ, coi 500 quân, đóng quân ở Châu Đốc để giữ gìn biên giới phía Tây Nam.
Vùng Thất Sơn, An Giang địa hình hiểm trở, có nhiều cọp beo, rắn rết cùng những loại cây ăn thịt (dân gian gọi là ngãi) khiến nhiều người bỏ mạng mất xác khi thâm nhập. Nghĩa sĩ kháng chiến tận dụng ưu thế bí hiểm của núi rừng thêu dệt nên những câu chuyện linh thiêng nhằm hạn chế sự đột nhập của mật thám Pháp.
Sau một thời gian dài chuẩn bị, năm 1872, Trần Văn Thành chính thức phất cờ chống Pháp, lấy hiệu là Binh Gia Nghị. Năm 1873, Tổng đốc Trần Bá Lộc dẫn quân Pháp đánh vào Bảy Thưa. Ông Trần Văn Thành tử trận. Cuộc khởi nghĩa thất bại. Quân Pháp tàn sát nghĩa quân. Ông Ngô Lợi thoát nạn, sau này quay trở về Láng Linh tiếp tục chiêu mộ nghĩa quân dưới danh nghĩa tôn giáo chờ thời cơ.
Riêng ông Cử Đa cải trang thành một vị sư lấy tên là Sư Bảy, giả điên khùng, lưu lạc nhiều nơi để tránh sự truy lùng của quân Pháp. Có lúc ông phải lánh sang Campot, Campongtrach, đến núi Tà Lơn tức Bokor (Campuchia). Đến năm 1896, ông Cử Đa mới trở về vùng núi Cấm lập am ẩn danh.
Khi nhập môn, võ sinh của Thất Sơn Thần Quyền học bài vỡ lòng là bài khấn tổ: “Nam mô tổ sư tam giáo đầu sư Dương Gia, Chàng Lía, cha Hồ, chúa Nhẫn, tổ sư Hải Đề Long núi Tô về cảm ứng nhậm lễ chứng miên cho đệ tử...". Sau đó, người võ sĩ được học những bài chú kêu gọi các đấng siêu nhiên nhập xác (như lên đồng) ứng chiến. Về quyền thế, Thất Sơn Thần Quyền có nhiều bài hay như: Linh miêu đoạt thạch, Tam sơn trấn ải, Mãnh hổ tọa sơn...
Ngày nay, Thất Sơn Thần Quyền chỉ còn là ký ức của những võ sư miệt đồng bằng sông Cửu Long. Dù không ai chứng minh được sự mầu nhiệm của môn phái này nhưng xuất xứ của Thất Sơn Thần Quyền gắn liền với một trang sử hào hùng, bất khuất của dân tộc Việt. Đó là điều cần ghi nhận "
Theo một tài liệu khác : " Một số Chưởng môn truyền nhân của các hệ phái đều nhắc đến ông tổ Cử Đa - Một nhà sư tay không đã hổ ở núi Thiên Cấm Sơn. Cũng có thể đó là ông tổ chung nhiều môn phái võ có xuất xứ ở vùng thất sơn. 

Tương truyền, ông Cử Đa là một trong số chỉ huy của Chưởng cơ Thành. Khi nghĩa quân bị thực dân Pháp đàn áp, các vị chỉ huy nghĩa quân phân tán lực lượngvao các cánh rừng già để bào toàn lực lượng và chờ đợi người liên lạc của Chưởng cơ Thành. Họ không ngờ rằng chủ soái đã bị giặc bắt và tử hình. Với quân số ít ỏi, Cử Đa không thể làm được gì ngoài việc chiêu mộ thêm nghĩa quân và ngày đêm luyện tập võ nghệ. Do ảnh hưởng tín ngưỡng và điều kiện rèn quân nên hệ phái tổ sư Cử Đa có võ pháp nghiêng về các thế tấn công quyền pháp và binh khí. Về võ đạo, hệ phái tôn vinh tinh thần dân tộc, chống ngoại xâm và tuyệt đối phục tùng mệnh lệnh sư phụ (chỉ huy) bằng lời thề độc khi nhập môn. Về võ thuyết, hệ phái này lấy niềm tin từ “cõi âm”, vì vậy, ngoài những bài tập rèn luyện về thể chất, võ sinh còn phải luyện bùa, phép, ngải, chú. Do sống trong vùng rừng thiên nước độc, không có giấy tờ ghi chép nên các võ sinh chỉ học bằng cách truyền khẩu. Sau này, các đệ tử (Nghĩa quân) của tổ sư Cử Đa tiếp tục đi khắp nơi chiêu mộ nghĩa quân, chiêu mộ đến đâu huấn luyện võ thuật đến đó. Vì lưu trữ kiến thức võ học bằng trí nhớ nên chuyện tam sao thất bồn là lẽ đương nhiên. Sau nhiều thế hệ nối tiếp, dần dà, Thất Sơn võ phái biến thành nhiều chi phái khác nhau. Có nhiều chi Thất Sơn nhưng hầu hết đều không nhận ra bài quyền nào của nhau. Thậm chí có chi phái hoàn toàn không luyện đòn thế mà chỉ chú tâm vào huyền thuật, gọi là chi phái “thần quyền”. Khoảng thập niên 70 của thế kỷ trước, nhiều người đã cố công sưu tầm, tập hợp các tinh hoa của tổ sư Cử Đa nhưng chưa thành công đã giài tán do chiến tranh. 
Ở Gò Công có hệ phái Lâm Sơn phát nguôn từ lực lượng kháng chiến của Trương Định. Sau nhiều thế hệ truyền nhân, hệ phái này cũng phân mảnh thành nhiều chi phái khác nhau. 
Theo các tài liệu lưu trữ của dienbatn như sau : Thần quyền, Thần quyền lục pháp, Thất sơn Thần quyền, Quyền Thế , Võ Bùa, Phật quyền .....chỉ khác nhau một chút về nội dung truyền dạy nhưng cơ bản là một môn phái võ thờ Phật , xuất hiện đầu tiên tại vùng Thất Sơn - Châu đốc ( Vùng 7 núi ) - An Giang. Thần quyền được xếp vào tục lệ cầu Thần nhập xác ( Tục Xiên lình cũng là một dạng này ). Về cơ bản , việc cầu Thần nhập xác thì Quốc gia nào cũng có, người xưa đã hiểu nó là một quá trình xuất hồn và cầu xin một vị thần nào đó nhập vào thân xác để làm một việc gì đó phi thường , khiến mọi người khâm phục và nể sợ. Vì vậy nó mang một tính chất huyền bí và tâm linh rất sâu sắc. 

ĐI TÌM NGUỒN GỐC PHÁI THẤT SƠN THẦN QUYỀN.

Lần theo một số tư liệu , dienbatn tìm được một số điều về huyền thoại Thất sơn Thần quyền như sau.

Điều chung nhất của việc nhập Thần vào thể xác , ta có thể thấy ở rất nhiều môn phái và thuật phái ở rất nhiều Quốc gia trên thế giới. Những điều đó biểu hiện ở khắp nơi như : Lễ hội Xiên lình được tổ chức  tại Phuket - Thái Lan, tục đánh Đồng thiếp và nhẩy đồng ở miền Bắc - Việt Nam, môn phái Vô vi trong các Đạo giáo ( Là môn Pháp mà Đạo tràng Diệu Pháp Liên Hoa vô vi đang luyện tập hiện nay )
1/  Ở Thái có lễ hội Xiên lình : " Lễ hội xiên lình lớn nhất thế giới .



Lễ hội thu hút rất đông người hành nghề xiếc điêu luyện bằng việc đâm những vật bằng sắt qua mặt, qua người mà không chảy máu.

Lễ hội được tổ chức  tại Phuket, tập trung những tín đồ đạo Phật và những người lập nên kỷ lục thế giới về môn xâu vật sắt vào người. Năm nay, lễ hội có sự tham gia của đội xiên lình Shrine of Jui Tui đến từ Trung Quốc. Họ trình diễn những màn đâm dao vào mặt, lấy cán ô đâm vào má, xâu khung xe đạp vào người...
Theo lời kể của các già làng ở Phuket (Thái Lan), lễ hội ăn chay này kéo dài 9 ngày và thường diễn ra vào cuối tháng 9 hoặc cuối tháng 10. Lễ hội này khởi nguồn mang tên Taoist Lent, lấy tên từ việc kiêng ăn thịt của người Trung Quốc.
Lần đầu tiên được tổ chức vào năm 1825, lễ hội đã thu hút được sự quan tâm của dân chúng ở thị trấn Ta Reua, quận Thalang và Get-Hoe, quận Kathu. Khi những người thợ mỏ Trung Quốc di cư tới vùng công nghiệp Kathu, lễ hội này mới bắt đầu khởi sắc.
Ngày 10/10 là ngày dân Phuket của Thái Lan khai mạc lễ ăn chay, một hoạt động được tổ chức thường niên trên quy mô lớn, có nguồn gốc từ thế kỷ XIX do dân nhập cư mang tới.
Bắt đầu từ thế kỷ 19, lễ hội là nơi những người tham gia chứng tỏ đức tin với thánh thần và sức mạnh mà thần thánh ban cho họ để chống lại bệnh tật cũng như xua đuổi tà ma trong cơ thế
Buổi sáng, đông đảo người dân tụ tập trên đường nhường không khí yên tĩnh cho tiếng pháo và trống của đoàn diễu hành, khói hương bao trùm không gian lễ hội.
Trong thời gian đó, Phật tử gốc Trung Quốc sẽ có một chế độ ăn chay nghiêm ngặt, mặc quần áo trắng và thực hiện hàng loạt những quy tắc được cho là thanh lọc thân tâm và tạo phước. Lễ hội ăn chay được xem như phương tịnh hóa thân tâm và tổ chức một cuộc diễu hành khổ hạnh.
Vào ngày thứ 6 của các lễ hội ăn chay, sau khi nhịn ăn trong vài ngày, các tín đồ được gọi là "người lính của Phật" thực hiện những hành vi tự hành xác và thử thánh những đau đớn đến kinh khiếp, bao gồm xuyên dao, xuyên kim vào thân thể và đi bộ trên than nóng.



Xung quanh Phuket, ngoài những lá cờ lớn được treo lên trong thời gian sự kiện diễn ra, 9 lồng đèn được thắp sáng và đặt trên đỉnh Ko Teng để tượng trưng cho sự hiện diện của các vị thần trong suốt lễ hội ăn chay Phuket. Vào ngày cuối cùng, lễ hội trừ tà cho tài sản “Hoi Kan” sẽ được tổ chức và cuối cùng là buổi lễ chia tay các vị thần vào ban đêm.

Người ta gọi đây là các mah song, thường là đàn ông. Các mah song này mang sứ mệnh đặc biệt thi hành quyền lực của thần linh đem lại may mắn cho cộng đồng. Họ dùng nhiều loại vật nhọn, lớn đâm xuyên qua má của mình. Bạn thấy cả máu chảy ra từ những chỗ bị đâm thủng chảy xuống thân họ, hòa cùng màu sắc sặc sỡ của những bộ trang phục truyền thống. Tuy nhiên, trông họ không có vẻ gì đau đớn khi diễu hành quanh Phuket.
Phụ nữ trong những bộ quần áo màu hồng truyền thống cũng tham gia vào trò “hành xác” này. Một vài mah song còn mạo hiểm trên lưỡi của họ trong khi những người khác mang cả xe nhựa ba bánh đồ chơi của trẻ nhỏ mà không ngại đâm thủng da của họ. Những thứ khác như kiếm, dao găm, chậu đất nung, mọi thứ đều có thể trở thành vật dụng cho những màn biểu diễn “người thật, việc thật”. Những người sùng đạo tin rằng càng chịu đựng được đau đớn trong sự kiện này, họ càng may mắn, thành công trong năm tới.
Suốt thời gian diễn ra lễ hội, những người sùng đạo phải tuân thủ nghiêm ngặt quy tắc kiêng ăn thịt, uống rượu và quan hệ tình dục. Người dân nơi dây tin rằng, 9 ngày diễn ra lễ hội sẽ có 9 vị thần hạ thế giúp cuộc sống yên ổn và mùa màng bội thu vào năm sau.
Khi “no mắt” với những cảnh rùng rợn và cảm giác bao tử “cồn cào”, du khách có thể đi dọc theo đường Ranong, nơi có rất nhiều hàng quán để thưởng thức đủ loại thức uống và đa dạng các món ăn chay..."

Xin theo dõi tiếp bài 7 - dienbatn.
Xem chi tiết…

LƯỢC KHẢO VỀ CÁC HỆ PHÁI HUYỀN MÔN NAM TÔNG. BÀI 5.

4/02/2014 |
LƯỢC KHẢO VỀ CÁC HỆ PHÁI HUYỀN MÔN NAM TÔNG. 
PHẦN 2.NHỮNG HỆ PHÁI CƠ BẢN CỦA HUYỀN MÔN NAM TÔNG.
CẢNH BÁO : Các tài liệu trong loạt bài này các bạn không nên tự luyện tập nếu không có chân sư hướng dẫn. dienbatn không chịu trách nhiệm về hành vi tự ý luyện tập của các bạn nếu có hậu quả đáng tiếc. dienbatn.
I/ PHÁI TRÀ KHA . ( Tiếp theo ).
Gồng Trà kha và các giai thoại .
Một số bài chú và bùa gồng sưu tầm. ( Tiếp theo).

CHÚ THỔI U SƯNG.
Nô mô bốt the vo sách thum ,o a ách ây, óc âu rứt rư rưt rư , e ai a ô , a ôm á ( 7 biến ).

Chú : Ngô phụng Thái Thượng lão quân , cấp cấp như lực lịnh lai giang hạ phò trì đệ tử toàn thân ( 7 biến ).
* BA ÔNG TỔ LỚN NHẤT.

Ề hế tế dá mặc mặc.

Ề hế thế dái mặc mặc.

Ề hế Bi li mặc mặc.

Ba câu này kêu cho thường xuyên,

*  KINH KÊU TỔ.
Nam mô tassa phagavato arahato sammasambut tasac.
Khi muốn làm việc gì lớn phải đọc bài kinh này.
*  KINH KÊU TỔ,
Nô phích chi quých – Nô phích duol chanh – Ni hai ni duol – Nắt phích bích tíc – Nắt lom mô quên – Bíc quên bel thắt quên – Dul chai nắt lom – Lon lại nắt săng ti mô – Sa rắt pút thắt ma ních muốt mô ( 3 biến ).
* CHÚ ĐỌC TRỪ CÁC VIỆC DỮ, BIẾN HUNG HÓA CÁT.
Nặt tắng xa tha ( 7 biến ).
* CHÚ ĐỌC ĐỂ KHÔNG AI NÓI XẤU MÌNH.
Nặt sa lịch mặt – Không hại mình.
Nặt sa lịch á – Người ta không nói xấu.
Nặt sa lịch ú – Người ta thương mình.
Mê cha chách tăng – Kêu người cũ trở lại.
* CHÚ ĐỌC CHO PHÉP CỦA MÌNH LINH NGHIỆM.
Ir ra quá buốt thô mí .
* CHÚ LÀM CHO NGƯỜI TA MUỐM TÌM NHÀ MÌNH TÌM KHÔNG ĐƯỢC.
Ắc săn quýt sô ắc.
*KINH TÔM PHÉP CHO PHÉP Ở LẠI.

Sết so xăng-  á rặc hăn á ( 3 biến ) .

Xo xo thia dạ - xo a ra hăng.

*KINH TÔM KHÔNG CHO AI PHÁ PHÉP MÌNH.
Pút tế - tút tế - tặc tế.
* CÀ THA MỘT MẮT HỘ MẠNG CHO ĐỆ TỬ.

Chú : Khật tân quýt tân – Khật rê a ra hăng.
Khi cần thiết đọc thêm chú này :
Chút tế mút tế,
* KINH THỈNH TỔ CHÚ KHĂN.
Nam mô bổn sư thích ca mâu ni Phật.Thỉnh Hồng mông sơ khởi vạn linh linh. Niệm đạt Huỳnh đình siêu vạn quả. Tâm niệm Huỳnh đình Thiên Địa động. Siêu phàm nhập Thánh thác trần ai. Vạn kiếp Thần Tiên quy căn bổn.Tiễn vong hậu quá thượng liên đài. Hạ thỉnh Thích lịch kim quang phóng Phật lực tà tâm thối vạn tán,
* CẨN THỈNH HỒNG MÔNG.
Hồng mông chư Phật hội đồng cảm ứng hạ không bảo triều tâm pháp . Tam tinh thủ chấp , đại phóng quang minh . Chư Phật hộ hình bồng lai thiết hội . Lục Đinh lục Giáp , tam thập lục thiên can ,thất thập nhị Địa sát, cấp Thiên Long bát bộ , cộng bát lão chơn Tiên , hội ngũ hành , tam Giáo. Thỉnh bắc phương chân võ Như lai , hộ trợ ngô thân , niệm Quan âm ứng hiện . Chiếu thất tinh vạn đẩu . Chư Phật đồng chứng giám. Ngọc Hoàng thâu sắc hạ , vạn Thánh chí lai lâm. Chư Phật đồng hội diện thỉnh pháp chân ngôn. Thần khâm , quỷ phục trai Đàn pháp hội . Chư Phật hộ hình sử ngã chân linh. Đằng vân giá vũ, biến tướng phóng hình , lực sĩ âm binh , đồng văn pháp ngã thông minh, Thiên Địa biến hóa vô cùng . Pháp bố tứ tung ngũ hoành tróc quái, quân thâu vạn kiếp hoán vũ hô phong . Nguyện hồi Thiên ý thiết la thiết võng . Thủ chấp thập phương chuyển thạch di sơn . Ma Vương thúc thủ , kim cang thâu tróc , đả diệt tà tinh . Ly mị tàng hình, tam tinh hội ngã. Phi phù niệm chú , biến hóa oai thần , thông tam giới . Hữu hô hữu ứng, hữu hình. Lực sĩ huỳnh côn tứ phương tốc khởi . Kim cang hòa thủ bá vạn Thần tiên , xử ngã diên niên , ẩn thân hộ ngã, chánh Đạo ta bà ha , cấp cấp như luật lệnh.
* CHÚ VÀ BÙA .
Án Thiên thâu Địa quyền ám . Á phong vũ ám . Á lôi điển thần , thích lịch thần thiết võng bố ngũ phương tứ tung ngũ hoành . Hộ Thiên Long bát bộ , tróc phược hỗn nhị khí âm dương – Cấp cấp như luật lệnh. Án oanh oanh tá ha .


* CHO BỆNH ĐIÊN UỐNG NÓ KHÔNG HÀNH HUNG NỮA.

Chú : Càn nam, khôn nữ tiền thế nhân dân phối ngẫu. Bá tế mỹ tàn, ngô phung Tam sơn cửu hầu cấp cấp như luật lệnh.




* BẤT TỈNH NHÂN SỰ CHO UỐNG.



* BÙA THỔI TRẬT TAY CHÂN.

* BÙA ĐÁNH TÉ.
Lấy ngón tay cái bên tay trái họa bùa đánh té người NAM đi đằng trước.


* Lấy ngón tay cái bên tay trái họa bùa đánh té người NỮ đi đằng trước.


* BÙA CỬU DĨ TRẤN TÂM.
Bùa nào cũng phải có chữ bùa này. Dùng hộ thân và hộ các chữ bùa.
CHÚ :
Tả phết chống Thiên Địa – Thâu nhật nguyệt tinh.
Phết thượng hoành phong – Nhất điểm quỷ thần kinh.
Đông trấn , tây trấn – Nam bắc trấn.
Đông tây nam bắc – Thiên địa nhân.
Thìa thí thìa thá – Thìa mí thìa má.
Thìa má thìa tú – Thìa thá.
Luyện bằng đèn bão gắn 8 cung bát quái xung quanh, cung của bản mệnh mình trước mặt. Luyện đến khi đèn bão chớp tắt 3 lần thì ra luyện ngoài mặt trời.Lời dặn : Khi luyện phải nói thầm , không nói ra tiếng sợ động Thiên địa. Nếu đọc ra tiếng tức là thỉnh họ về, khi họ về đến nơi không thấy có chuyện gì nguy nan họ sẽ giận mình.Phải học thật thuộc nhão không sơ suất. Khi có sự nguy nan, đọc và quán bùa thì họ về che chở cho mình.

* BÙA ĐEO HỘ THÂN ĐAO KIẾM KHÔNG PHẠM.



VÕ THUẬT MIỀN TÂY NAM BỘ XƯA
Từ thuở mở đất tiền về phương Nam, do chống chọi với thiên nhiên, thú dữ và cướp phỉ, người Việt nơi đây đã sáng lập nhiều môn phái võ mang tính chiến đấu cao như Tân Khánh Bà Trà, Gò Công, Thất Sơn võ đạo….
Do ảnh hưởng phong trào kháng Pháp, nhiều chí sỹ khóc hận nước mất nhà tan đã lánh vào rừng sâu núi thẳm rèn binh chờ cơ hội cứu nước nên khắp miền Nam thuở trước, vùng nào cũng có một hệ phái ra đời. Ở vùng Thất Sơn - Nơi chưởng cơ Trần Văn Thành tụ nghĩa kháng chiến đã có hàng chục hệ phái xuất hiện.
Một số Chưởng môn truyền nhân của các hệ phái đều nhắc đến ông tổ Cử Đa - Một nhà sư tay không đã hổ ở núi Thiên Cấm Sơn. Cũng có thể đó là ông tổ chung nhiều môn phái võ có xuất xứ ở vùng thất sơn.
Tương truyền, ông Cử Đa là một trong số chỉ huy của Chưởng cơ Thành. Khi nghĩa quân bị thực dân Pháp đàn áp, các vị chỉ huy nghĩa quân phân tán lực lượngvao các cánh rừng già để bào toàn lực lượng và chờ đợi người liên lạc của Chưởng cơ Thành. Họ không ngờ rằng chủ soái đã bị giặc bắt và tử hình. Với quân số ít ỏi, Cử Đa không thể làm được gì ngoài việc chiêu mộ thêm nghĩa quân và ngày đêm luyện tập võ nghệ. Do ảnh hưởng tín ngưỡng và điều kiện rèn quân nên hệ phái tổ sư Cử Đa có võ pháp nghiêng về các thế tấn công quyền pháp và binh khí. Về võ đạo, hệ phái tôn vinh tinh thần dân tộc, chống ngoại xâm và tuyệt đối phục tùng mệnh lệnh sư phụ (chỉ huy) bằng lời thề độc khi nhập môn. Về võ thuyết, hệ phái này lấy niềm tin từ “cõi âm”, vì vậy, ngoài những bài tập rèn luyện về thể chất, võ sinh còn phải luyện bùa, phép, ngải, chú. Do sống trong vùng rừng thiên nước độc, không có giấy tờ ghi chép nên các võ sinh chỉ học bằng cách truyền khẩu. Sau này, các đệ tử (Nghĩa quân) của tổ sư Cử Đa tiếp tục đi khắp nơi chiêu mộ nghĩa quân, chiêu mộ đến đâu huấn luyện võ thuật đến đó. Vì lưu trữ kiến thức võ học bằng trí nhớ nên chuyện tam sao thất bồn là lẽ đương nhiên. Sau nhiều thế hệ nối tiếp, dần dà, Thất Sơn võ phái biến thành nhiều chi phái khác nhau. Có nhiều chi Thất Sơn nhưng hầu hết đều không nhận ra bài quyền nào của nhau. Thậm chí có chi phái hoàn toàn không luyện đòn thế mà chỉ chú tâm vào huyền thuật, gọi là chi phái “thần quyền”. Khoảng thập niên 70 của thế kỷ trước, nhiều người đã cố công sưu tầm, tập hợp các tinh hoa của tổ sư Cử Đa nhưng chưa thành công đã giài tán do chiến tranh.
Ở Gò Công có hệ phái Lâm Sơn phát nguôn từ lực lượng kháng chiến của Trương Định. Sau nhiều thế hệ truyền nhân, hệ phái này cũng phân mảnh thành nhiều chi phái khác nhau.
KỲ TÍCH VÀ HUYỀN THOẠI
Một danh sư Thất Sơn võ đạo đã mai danh tại Long Xuyên, cho biết: “Ngày xưa (đầu thế kỷ 20) tỷ thí võ đài không như bây giờ. Do nhiều hệ phái, chi phái xuất sơn hoà nhập với cộng đồng, ai cũng muốn phái của mình là đệ nhất võ lâm nên các võ sư thường tổ chức tỷ thí võ đài để tranh ngôi cao thấp. Vì vậy, nhiều cuộc thư hùng tranh tài cao thấp đã diễn ra”.
Thông thường, các võ sỹ không bao giờ dám tỷ thí võ đài nếu không có sự đồng ý của sư phụ.
Tỷ thí võ đài ngày xưa khác xa với đấu võ đài ngày nay như một số người lầm tưởng.
Ngày xưa, những cuộc tỷ thí võ đài thường do sư phụ, huynh trưởng của môn phái này với môn phái kia hoặc chi phái này với chi phái kia “thách thức” nhau. Họ chọn một bãi đất trống giăng dây hoặc vẽ vòng trên mặt đất. Trước mỗi trận thư hùng, hai bên đều lập bàn thờ tổ tại đài võ, khấn vái. Sau đó, sư phu hoặc huynh trưởng mỗi bên lập bản giao kèo, quy ước. Bên cạnh là hai chiếc quan tài để sẵn.
Trận thư hùng giữa võ phái thần quyền Thất Sơn ở cù lao Ông Chưởng và võ phái Trà Kha ở Bạc Liêu được võ sư Ba ở Cao Lãnh, Đồng Tháp kể lại: “Lúc đó, tôi 15 tuổi vừa nhập môn bái sư võ phái Thất Sơn vài ngày. Sư phụ tôi là Bảy Hớn. Nghe mấy huynh trưởng kể lại, mấy ngày trước, khi mọi người đang luyện võ thì một người gốc Miên xuất hiện xin gặp sư phụ. Người này tên No Sa Dăm là môn đệ của võ sư No Sa gốc Nam Vang đang mở võ đường ở Bạc Liêu. Họ nghe danh Thất Sơn Thần quyền đã lâu, nay muốn thí võ đài để học hỏi. Sư phụ tôi nhận lời. Bữa tỷ thí võ đài, bà con nghe tin chèo xuồng kéo đến coi cả ngàn người. Theo giao kèo giữa hai sư phụ thì, mỗi bên chọn ra 5 võ sỹ đấu thành 5 cặp. Võ sỹ bên nào văng ra khỏi vòng vẽ, xem như thua. Võ sỹ bên nào đo ván, lưng chạm đất, xem như thua. Võ sỹ bên nào đưa một cánh tay lên trời xem như xin thua. Đấu không nghỉ giải lao, đến khi có người thắng kẻ thua mới kết thúc trận. Bên nào có người bị thương, bị chết tự lo liệu thuốc men, chôn cất, không bên nào được thưa kiện ra Chánh quyền thuộc Pháp. Nếu bị pháp luật truy cứu, bên này phải làm tờ bãi nại cho bên kia. Hai bên đấu với nhau chỉ vì sỹ diện môn phái chứ không mua bán, tranh chấp gì cả. Sư phụ tôi lựa 5 đệ tử giỏi nhất ra đấu. Kết quả, phía Thất Sơn 1 người bị gãy tay, 1 người bể be sườn. Phía Trà Kha 2 người gãy chân, 1 người bất tỉnh. Thất Sơn Thần quyền có chiêu phá mã, còn phía gồng Trà Kha thì có chiêu khóa tay vật. Xem như hai bên bất phân thắng bại hẹn sẽ có dịp tái đấu. Sau đó cánh mạng tháng 8 bùng nổ, hai bên không có dịp gặp lại nhau. Sau này nghe nói No Sa Dăm đào tạo được rất nhiều thế hệ võ sỹ giỏi. Học trò của No Sa Dăm đào tạo được những võ sỹ nỗi tiếng sau năm 1975 như No Sa Long, No Sa Liên…”. Năm 1973, võ sư Ba có dịp gặp lại võ sư No Sa tại Sài Gòn. Lúc bấy giờ No Sa là huyến luyện viên trưởng đoàn võ thuật Caqmpuchia dẫn đoàn võ sỹ Campuchia sang đấu võ đài do Tổng hội võ thuật Sài Gòn tổ chức.
Sau này, vào khoảng thập niên 60 thế kỷ 20, những cuộc tỷ thí chết chóc không được tổ chức nữa mà chỉ tổ chức đấu vọ đài theo luật thể thao. Luật thể thao quy định hai võ sỹ đấu với nhau phải cùng hạng cân, mỗi trận chỉ có 3 hiệp, mỗi hiệp 3 phút. Võ sỹ bên nào cũng có săn sóc viên y tế đi theo và cuộc đấu luôn có hội đồng trọng tài chấm điểm.
Thời điểm này, phong trào võ thuật vùng miền Nam bộ như có làn gió mới, nơi nào cũng có võ đường tên tuổi như cồn: Sa Đéc có lò võ Sáu Cường; Lý Suol ở Châu Đốc; Bảy Biển ở Kiên Giang; Ba Hoằng ở Long Xuyên; Tiểu La Thành ở Vĩnh Long. Nhiều võ sư tạo được tiếng vang nhờ đào tạo được những võ sỹ vô địch trong các trận đấu võ đài. Đến tận ngày nay, những võ sư ấy vẫn còn được nhiều người nhắc như: Hai Diệp, Lê Bình Tây, Mười Nho, Nguyễn Mách, Cao Lý Nhơn, Út Dài, Phạm Thành Long, Lý Huỳnh Yến, Lâm Văn Có, Thiên Đường, Đoàn Tâm Ảnh, Tần Hớn, Vương Văn Quảng, Lâm Hổ Hội, Lê Hông Chương, Mười Cùi, Từ Thiện, Hồ Tường, TRần Xil, Lê Đại Hoan, Minh Sang… rất nhiều.
Họ thường tổ chức thi đấu tại Chợ Lớn (quận 5) mang tính giao hữu với các quốc gia trong khu vực như Campuchia, Hồng Kong. Trong những cuộc đấu giao lưu ấy, nhiều võ sỹ Việt Nam đã tạo được sự thán phục của các võ sư, võ sỹ nước ngoài. Báo chí thể thao dạo ấy đã bình luận từng tuyệt chiêu của các võ sỹ. Võ sỹ Minh Sang (võ đường Minh Sang) nỗi tiếng gan lỳ và ngọn quyền vũ bão; Võ sỹ Minh Sơn (võ đường Denis Minh) có cú đấm như điện xẹt; Võ sỹ Xuân Quỳnh là “cây trụ đồng của võ đường Kim Kê”… Những trận thư hùng này đã khiến các đối thủ nước bạn nhớ những tên đòn thế: “Bàn sa cước” của võ sỹ Nguyễn bình; Cú húc chỏ “hồi mã thương” của Minh Sơn; “Liên tiền cước” của Trần Nho…
Các nữ võ sỹ Việt cũng tạo nên song gió như Hồ Ngọc Thọ (võ đường Từ Thiện) vô dịch hạng ruồi nhẹ; Lân Ngọc Vân (võ đường Lâm Sơn Hải) vô địch hạng ruồi; Võ sỹ Xuân Liễu (võ đường Biên Hòa) vô địch hạng ruồi.
Trong một trận thư hùng giữa võ sỹ Việt với các võ sỹ Hong Kong là môn đệ của Lý Tiểu Long Vịnh Xuân Quyền xảy ra năm 1973 khiến báo chí thể thao miền Nam lúc đó tốn khá nhiều công sức bình luận. Trong đợt thi đấu này võ sỹ Trần Mạnh Hiền Việt Nam đã thắng tuyệt đối bằng nốc ao võ sỹ Châu Đạt Vinh Hong Kong bằng một cú đá thần sầu ở hiệp ba khiến khán giả hâm mộ võ thuật sôi sục. Ngày nay, những võ sỹ thuở ấy đã trở thành đại võ sư.
Nhờ những trận đấu võ đài ấy, các võ đường Việt Nam nườm nượp môn sinh đến đăng ký học võ. Thời điểm đó, học phí mỗi tháng khoảng 700 đồng/học viên. Chỉ cần huấn luyện 100 võ sinh là sư phụ có thể yêm tâm về cơm áo gạo tiền để chuyên tâm nghiên cứu võ học. Thời điểm đó, chiếc xe Hon Da 67 còm măng chính hãng, giá khoảng 15.000 đồng/ chiếc.
Bỗng dưng thời hưng thịnh của võ học Việt xẹp lép. Nhiều võ sư chạy theo kế sinh nhai bỏ nghề. “Loạn võ sư” bắt đầu manh nha phát triễn. Nhiều môn phái không hiểu từ đâu xuất hiện như: Sát Tử Quyền, Bạch Long Sát Tử Quyền, Vô Biên Võ đạo, Nghịch Tất Tử Võ phái, Cao Đài quyền pháp. Thậm chí một cơ sở sản xuất thuốc sơn đông mãi võ cũng tự sáng tác ra môn phái “Y võ” rồi tự lu loa là võ Việt Nam cổ truyền…
Nhiều nước đã tôn vinh môn võ xuất sắc của họ như Indo có pencatxilat, Trung Hoa có Thiếu lâm, Thái Lan có Maya… Còn Việt Nam, môn phái nào là Việt Nam võ đạo cổ truyền chính hiệu? Điều đầu tiên, có lẽ nên cấm tiệt những kiểu tự sáng tác vài bài quyền múa rối rồi xưng danh Võ Cổ Truyền Việt Nam kẻo làm mất mặt những tổ sư Việt và hãy giữ lại những tinh hoa của võ học Việt có từ trăm năm trước.
( http://maxreading.com/sach-hay/tu-lieu-vo-thuat/vo-cong-viet-nam-31183.html ).
Xem video Thất sơn Thần quyền.
http://www.youtube.com/watch?v=0qZg0qXYybs&ft=li
Xin xem tiếp bài 6. dienbatn.
Xem chi tiết…

LƯỢC KHẢO VỀ CÁC HỆ PHÁI HUYỀN MÔN NAM TÔNG. BÀI 4.

4/01/2014 |
LƯỢC KHẢO VỀ CÁC HỆ PHÁI HUYỀN MÔN NAM TÔNG. BÀI 4
PHẦN 2.NHỮNG HỆ PHÁI CƠ BẢN CỦA HUYỀN MÔN NAM TÔNG.
CẢNH BÁO : Các tài liệu trong loạt bài này các bạn không nên tự luyện tập nếu không có chân sư hướng dẫn. dienbatn không chịu trách nhiệm về hành vi tự ý luyện tập của các bạn nếu có hậu quả đáng tiếc. dienbatn.

I / PHÁI TRÀ KHA . ( Tiếp theo ).
Gồng Trà kha và các giai thoại .
 Trong các môn phái bùa phép hầu như phái nào cũng có bùa gồng , như là, gồng Trà kha, Thất sơn thần quyền , bùa Miên , bùa Xiêm , bùa 5 ông , Phật huyền môn vạn thiên giới linh , Thần quyền lục pháp.
Môn phái Thất sơn Thần quyền tôn đức Quán thế âm Bồ tát là Tổ sư và có thêm 8 vị đại diện nữa thay mặt sư Tổ truyền dạy cho các môn đồ . Tám vị Thần đó là :
1, Hỏa Hỏa Chơn Chơn,
2/Bá Thiên Đạo trưởng.
3/ Thanh Trúc Đạo trưởng.
4/ Hoàng Thiên Đạo trưởng.
5/ Sa Thiên Đạo trưởng.
6/ Nga Mi lão Tổ.
7/Ngư Câu lão ông.
8/ Bá Hành ngũ độc.
Theo tài liệu của Thày Bửu Thiền thì Thần quyền lục pháp có 6 pháp , mỗi pháp có nhiều bài , mỗi bài mang giá trị linh ứng khác nhau . Tùy theo cấp học sinh mà vị sư phụ sẽ truyền dạy cho các môn sinh những bài học từ thấp đến cao . Đối với những người luyện võ Bùa hay Thần quyền , lời thề trước Tổ là điều rất linh thiêng cao quý bởi nếu môn sinh càng luôn giữ đúng lời thề thì công lực càng mạnh mẽ và ra đòn càng hiệu quả.Vào các thập niên 50-70 của thế kỷ 20 , Thất Sơn Thần quyền nở rộ từ miền Trung vào Nam. Đệ tử của phái này quy tụ nhiều nhất tại Sài Gòn trong một số võ đường. Sau năm 1975 , theo dòng thời gian biến chuyển , môn phái Thất sơn Thần quyền lặng lẽ theo chân các đệ tử ra đi nước ngoài rất nhiều. 
Theo thày Sương Mãn Thiên : "Phép gồng có 2 cách , gồng bùa và gồng thuốc . Gồng bùa là nhờ thần chú , chử bùa mình luyện nhiều ngày thỉnh mấy ông Tổ gồng , Thầy gồng về ứng độ cho mình , đao kiếm , giáo mác , roi cây đánh đâm , chém bửa cũng không đứt , lủng , đau . Lúc ấy da thịt người luyện gồng bùa không phải là sắt thép gì đâu , chỉ là có Thần nhập khiến cho nó có thể đàn hồi như cái vỏ xe hơi bơm cứng vậy , chém vào thì dội ra mà thôi !
Gồng thuốc thì khác , quả thực sự là mình đồng da sắt , không gì đả phá , phương hại được , trừ tầm dông vạt nhọn đâm hậu môn , kim đâm 2 tròng mắt , đủa tre đóng lỗ tai , lỗ mủi , chỉ có xuyên phá qua đường thất khiếu ấy mới hại được người luyện gồng thuốc , nhưng làm chuyện hại họ như vậy thiết tưởng không dể .
Muốn học gồng tước tiên là phải được 1 vị Pháp sư điểm đạo (vô phép trong người ), ra mắt Tổ Thầy , Pháp sư làm phép vô nước , vẻ bùa đốt vô nước đó cho tân đệ tử ấy uống , dùng nhang họa thổi trên đỉnh đầu , trán , tam tinh (ấn đường) , 2 lổ tai , trước ngực , sau lưng , rồi cho đệ tử mới đó lẩm nhẩm đọc 1 câu thần chú , sau đó vị thầy cầm cây dao sắt chuối thật to bén ngót dang tay chém thẳng vào ngực người đệ tử đó hết sức 3 dao liền không đứt , không rướm máu chỉ nổi dấu 3 lằn đỏ như ta dùng móng tay quẹt ngang vậy thôi ! như vậy coi như là Tổ đã chứng , người đệ tử làm phần kết cuộc là cầm 3 cây nhang đả đốt tuyên thệ trước bàn Tổ :
Không phản tổ phản thầy
Không tà dâm lấy vợ người 
Không cậy mạnh hiếp yếu
Không tham lam trộm cắp
Không dùng bùa phép thư ếm người ta vì tiền
Sau đó là người đệ tử đó coi như đả là con Thầy Tổ , đi bất cứ nơi nào cung có chư vị khuất mặt theo hộ độ , nhưng cần giử các điều cấm kỵ như : không, ăn chó , trâu , mèo , khỉ , rắn , rùa , lươn , ếch , vì ăn những thứ da trơn này thì phép gồng khi thăng khi giáng không được linh nghiệm như ý , ngoài ra cần phải siêng năng luyện tập , sáng sớm ra nhìn mặt trời luyện đọc thần chú tưởng chử bùa gồng đó trên mặt trời rồi hớp khí nuốt vô bụng , luyện chừng 15, 20 phút lúc mới , sau dần thì lâu hơn 40 phút 1 tiếng . Khi luyện xong đọc chú gồng thổi vô 1 chung dầu dừa rồi uống sẽ cầm phép không phai .
Người học gồng mà luyện tới thường là hiền lắm , hay nhịn nhục , không kiếm chuyện với ai bao giờ , không ra tay đánh người trước , chỉ miễn cưởng khi tự vệ thôi .
Song song với cách luyện bằng khí , điển nhập thân người học gồng có thể được hỗ trợ thêm bằng nhiều cách : vô kim , vô tượng Phật trong người khi có dao chém , hay cây , vật nặng đánh tới thì những vật đó tự động chạy đến đở , thường là được vô 2 kim hay 2 cốt phật nhỏ cở ngón tay út nằm ở vị trí 2 bên bắp tay gần dưới nách , khi cho những vật đả phù phép sẳn đó vô người , vị sư phụ mình không cần mổ xẻ gì tới thân thể mình đâu , chỉ cầm để ướm sát vào và đọc chú tự nhiên nó sẽ chạy vô trong người đột ngột mà mình không hay , có người còn vô cả mấy cây đinh 1 tấc 2 nữa đó . Ngoài ra còn phép gồng đấu võ đài bằng cách ngậm tượng Phật , đeo Cà tha như các võ sĩ kick boxing của thailand hay xài v.v....
Bùa , phép hay rất hay tuy nhiên cái gì cũng có điểm khắc kỵ của nó , ví dụ những người luyện , xài các loại phép trên , nhứt là kẻ vô kim khi mà lấy vợ phá gia cang người khác tự động 2 cây kim đó chúng sẽ trổ ra đui 2 mắt liền , còn người vô cốt phật làm bậy sẽ bị bể nát tượng phật đó mà tan trong cơ bắp , tỉnh mạch nghẹt máu mà chết ."
Một số bài chú và bùa gồng sưu tầm.
* CHÚ GỒNG .
Luyện ngó nhang hay mặt Trời hớp nuốt : 
Á mách Phật chiếu , anh ru hắc nưng hắc , xê hết xê mắc mô bồ tía ca quít ba tu tha qua ca mắc mắc . Nam mô Đức Phật , Đức Tổ , Đức Thầy , 136 vị Lục Tổ , Tây Phương Phật độ cho con : 
Súng bắn không trúng 
Đâm không lủng 
Chém không đứt 
Đánh không đau .

*Chú Gồng cứng như sắt : 
Ắ Rặc Hăng nắc 
Ắ Rặc Hăng mắc 
Ắ Rặc Hăng ắc 
Ắ Rặc Hăng ú 
Ắ Rặc Hăng ú 
Ắ Rặc Hăng ắc 
Ắ Rặc Hăng mắc 
Ắ Rặc Hăng nắc . 
Gồng này không kỵ đồ dơ , ô uế gì cả , chỉ cữ không ăn chó , trâu , lươn , ếch , khế . không bất hiếu cha mẹ , lấy vợ người khác . 
Võ Thần: ề hế mê bờ rây cô ma dăn mặc mặc, ề hế ắ tế dắ mắc mắc, ru hắc nưng hắc.



* Gồng tu pháp .

Chú : ề hế con dăn mờ rây mắc mắc .



*

*Chú Pali , sáng thức dậy và trước khi đi ngủ đọc 7 lần , làm tan kế của bất cứ kẻ nào mưu hại mình . 
Ế tế bế sô sam bô thi , 
Pút Thăn kôl năn 
Thơm Măn kôl năn 
Son khăn kôl năn 
Pút thé kôl năn 
Thơm mé kôl năn 
Son khé kôl năn . 
* Hội Phép : 
Ề hế ề hế ca tế sách tắc sắc hắc sa thơm mắc khanh thia , núc phia wên nắc a dăn , ề hế ề hế kia tha . (3 lần) 
(Câu này hội 84 ngàn phép Phật về .) 
* Phép hộ phía sau , không cho ai bất ngờ đâm , chém , đánh lén từ đằng sau : 
Kê bách sô lô nô tô ra la chá . 
*Cầm máu : đọc thổi vô tay vuốt : 
Ru mô Pút Thô ắ , ru mô Pút Thô ú , ắ thô ắ . 
*Bị địch nhân , kẻ thù bao vây , đọc câu dưới đây từ trong đi ra họ không thấy mình : 
Bre mê ơi ....nhum sôm rum si sa la sod' tâm tha dol tăn . 
*Đọc khóa chất nổ Mìn , lựu đạn . 
Quyết quăn sưng úng ắ . 
*Đọc khóa nòng súng bắn mình không nổ : 
Thia chuốt căn ẮC . 
Chú ẩn thân , hộ mạng , ra trận . 
Nam mô Tổ Sư , Lục Tổ ,Chúa Động , Sơn Thần , chư vị theo hộ mạng đệ tử đi đến nơi về đến chốn . Nam mô yết đế yết đế sơn lâm tá ha . ( 3 lần). 
Kêu Phép phản ngược lại các Thầy thư , ếm hay làm ác hại người , đọc 12 lần thổi vô nước cho người bịnh uống và đọc thổi vô chổ đau của người bịnh , binh tướng thần của ông Thầy đó sẻ về phá lại ổng . 
Ung Bút đà đá mô tăn gô , ma ta bi tu a , sá ri do anh , tơ cà sá dà ca . (12 lần) 
Câu dưới đây cùng công dụng như trên nhưng của Phái Chà (Châu Giang). 
Kôl u hy da in na ma hú sa na fa rum mi nal chinh , ni fa co la sa mén cuốt kôl ranh mal fa fa . (7 lần)
* Trị sưng trật 
mật chú: Ề Hí Mắc Mắc, Son Fa Ri Dol, Gô Chao Ly 
Dùng ấn kiết tường niệm chú khoán phù vào chỗ bị sưng trật. 
* Bùa Cầm máu:

Khoán vào chỗ máu đang chảy rất hiệu nghiệm.
* Phép hộ mạng và thâu mọi thứ có lợi về cho mình , trừ các thứ hung bạo của trần gian , đọc mỗi ngày 7 lần , hay nhiều hơn càng tốt (21 , 36 , 72 , 108 , 500 lần v.v.... tùy ý ). 
A LI BÓT SÁC 
CHẮC NÓT TÍC MÓT 
BA LÔ CA CHẾP 
GOA LA MI MÁC 
PHÓT SẮC TẮC NÓT 
U LA CHẮC MÓT 
GÔ NÁC TẠC MÓT 
GOA RAY MÁC BÓT 
TON MÁC SA RI 
SO NÍCH TA SÓT. 
Đọc nơi bàn thờ Phật hay Quán Âm cũng được. 
Ắc cờ răng săn măng măng măng 
Phê rít măng măng 
Phê rắc tắc tấp tắc tấp 
Cờ phăng phăng 
Phô phô mặc mặc 
* Bài chú xuất quyền của Vạn Thiên Giới Linh Thần Quyền : 
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT (12 lần) 
NAM MÔ BÁT VƯƠNG PHẬT (9 lần) 
NAM MÔ SƯ TỔ HỘI VẠN THIÊN GIỚI LINH (9 lần) 
NAM MÔ SƯ PHỤ HỘI VẠN PHÁP TÔN LINH (7 lần) 
NAM MÔ ĐẠI HÙNG LỰC CHÍ NGUYỆN ĐỘ TÂM LINH (3 lần ) 
Độ đệ tử....tên họ tuổi....Thần Quyền vô địch , thần cước vô song ,để đệ tử phò trì chánh Đạo. 
Sau đó đọc liên tục 2 chử : ẶC RIN.
*PHÉP HỘ THÂN
Phép hộ thân , gồng thì rất nhiều , nhưng chú Mẹ Sanh sau đây là nhạy và mạnh , diệu dụng dể xài hơn cả , mổi ngày cứ ngồi tịnh tọa 5 , 10 phút niệm 21 lần giờ nào cũng được .
Á MÁCH PHẬT CHIẾU ANH RU HẮC NƯNG HẮC , XÊ HẾT XÊ MẮC , MÔ BỒ TÍA CA QUÍT BA TU THA QUA CA MẮC MẮC .
NAM MÔ ĐỨC PHẬT , ĐỨC TỔ , ĐỨC THẦY , 136 VỊ LỤC TỔ , TÂY PHƯƠNG PHẬT ĐỘ CHO CON , SÚNG BẮN KHÔNG TRÚNG , ĐÂM KHÔNG LŨNG , CHÉM KHÔNG ĐỨT , ĐÁNH KHÔNG ĐAU . ( đụng chuyện khẩn cấp chỉ cần kêu á mách phật chiếu , á mách phật chiếu v.v.....liên tục ).
*BÙA CẦM MÁU :
Hít vô nín hơi dùng lưởi họa bóng chử Mã (trong cờ tướng -馬  ) nơi lòng bàn tay rồi đọc 12 con giáp 3 lần thổi vô vuốt sẽ cầm , hoặc đọc câu sau : ru mô pút thô á , ru mô pút thô ú , á thô á (3 lần)
* VUỐT SƯNG : thượng đài hay bị đánh sưng nhức đọc phép này thổi vào xẹp hết : bách tô nô răn căn á (3 lần)
*PHÉP GỒNG , TAY KHÔNG ĐỞ DAO , CÂY , GẬY , BÚA V.V...
bách bách sanh ca ru , mà da du si ho lai manh mách (phép này phải luyện mặt trời 100 ngày)
* CHÚ LÀM CHO NGƯỜI THÙ OÁN ĐẾN KIẾM MÌNH SỢ BỎ ĐI :(đọc liên tục )
ề hế nô mô pút thia dắ , nạ mạ á ú .
*PHÉP THỔI TRẶC TAY CHÂN : (nín hơi đọc thổi chà chổ đau ngược chiều kim đồng hồ)
tá ní bú tăn nứ mứ tứ ứ ắc . (3 hoặc 7 hoặc 9 lần )
* ĐUỔI NGƯỜI HÀNH HUNG , QUẬY PHÁ :(đọc thổi tam tinh họ nam 7 nử 9 lần bỏ đi liền)
ề hế ná xà xá xoa ế .
*KINH HỘI CẦU TỔ PHÁI THẤT SƠN THẦN QUYỀN :
Nam mô Tây phương Phật Tổ Thích ca như lai, Bồ đề Tổ sư , 36 vị Lục Tổ lục cụ, Chuẩn đề bồ tát, Quan âm , Già lam quan đế , 9 phương Trời 10 phương Phật , tả quan Châu hửu quan Bình , Đấu chiến thắng Phật , bạch hổ sơn động .
Nam mô Ngọc hoàng Thượng đế , chư vị Phật Tổ , Linh sơn Thánh mẩu , Cửu thiên huyền nử , Nguyên nhung chúa tướng ,Cửu vị tiên nuơng, 3 ông Quốc vương đại thần , vong hồn sư ông sống cứu thế trợ dân , vảng về chầu Phật Tổ cảm ứng chứng minh cho đệ tử ...(xưng tên họ tuổi mình ra) hội cầu tổ ........(chửa bịnh , xuất quyền, luyện phép v.v...đọc 3 lần như trên )
ề hế no thăn ngăn
xá xây cà ra mây chư vị nhập xác cho đệ tử (đọc liên tục)
Xin chư Phật thượng động (khi muốn dừng không nhập nữa
* BỊ BAO VÂY ĐỌC KẺ THÙ HỌ TAN HẾT KHÔNG ĐỤNG ĐƯỢC TỚI MÌNH :
mắc tắc mắc te nó nơ xá ra tha pút thô . ( 7 lần h 9 lần hít vô)
* CHÚ TRỪ CHƯ VỊ CỎI TRÊN XUỐNG THẾ LÀM BẬY VÀ QUỶ HÚT TINH NGƯỜI :
om fắc fắc xoá ha (6 lần)
sam si ca ma ha, sam si ca fắc ma ni băng đa, fắc ma ha ma ni băng đa , fắc rát sa rát sa , fắc ma ha rát sa rát sa, sắc sắc sắc sắc , va va va va , vé vé vé vé , hùm kha hùm kha hả cáp ve xoá ha (7 lần)
* Chú Nam Tông , quới nhơn giúp đỡ , đi bất cứ nơi nào sáng , chiều 2 thời đốt nhang ngoài bàn Thiên đọc 7 lần , luôn luôn được người trên , trước ủng hộ giúp đỡ : 
DÊ NĂN PỤT THE A 
DÊ NĂN THƠM ME A 
DÊ NĂNG SON KHE A 
CÁ BA DÍ NÔ 
TÚC CÁ QUẾT TÁ NE A 
DÊ NĂNG THƠM MÁ RỆT CHE A 
TÚC KHÁ QUẾT TÁ NE A 
DĂN DĂN THÁ QUÍ HÔL TỐ 
CHÂY DÔ MÔNG KÔL LẮ LẮ LẮ . 
(mỗi khi đốt nhang đọc 7 lần)
* Thổi vô vết thương cầm máu, nín thở niệm 3 câu sau, rồi thổi vô vết thương: 
-ề hế na má ba 
-ề hế na má ba 
-ề hế na má ba –tá. 
*Niệm khi đi qua chổ ô uế hay có tà khí, ngải nghệ để nó không xâm nhập và không theo mình về nhà: 
-nia ri thô cùn kia du sồthê tế bal, nhặn tuc khăn.(niệm liên tục) 
*Đi đường niệm kinh nầy, dọc đường ít bị trở ngại: 
-nứ mứ tứ ứ ă, ă ră hăn, ná má ă ú. 
Bị nóng lạnh,2 tay cầm ly nước sạch ra ngoài trời, tụng 30 lần kinh vô nước uống, mau thuyên giảm(cho mình hay người đều được) 
-nạ mạ ca đạt ,ca đạt nạ mạ. 
*Trị kinh phong giật,niệm kinh 9 lần vô rượu ,phun họ từ đầu tới chân,rồi thổi vô miệng họ, người bịnh có thể tự niệm vô rượu ,lấy rượu đó rửa mặt và vuốt từ đầu xuống chân, mổi ngày làm vậy có thể trị dứt cơn, không xảy ra: 
-ê xê, ê xê, mạ mạ,e sa thí so hăt,mạ mạ sa thí y mạ. 
* Mắt nhậm đau, niệm 7 lần thổi mắt, hay thổi vô nước sạch ,lấy nước đó rửa mắt, nên dụng lúc ban ngày , nhanh kết quả: 
-chăc khú cô rô, quí nia son tế, kê cô quí ông. 
* Đi đường xá, hay ở rừng núi, niệm kinh nầy để không trúng gió,bị máu xâm, có ai bị thì mình đọc 1 hơi rồi thổi họ mau tỉnh: 
-bặc căc ăc săc. 
* Đi bộ , trèo đèo lội suối,niệm kinh trong lúc đi cho tăng sức lực: 
-ní minh thú pặc, tặc quác tô mặc mặc. 
* Câu kinh hội nầy, lúc gấp rút, có thể dùng chửa bịnh hay cho các việc cần, mà công năng chỉ tạm thời,niêm liên tục 3,5,7,9 lần thổi vô nước uống hay chổ đau, tạm thời đối phó: 
-nặc mô buốt thia dá, ăc săc tặc,mê brặc ăc tăc,sô căc me săc mẹt mẹt. 
* Niệm kinh nầy 7 lần ,thổi chổ sưng trặc,mau phục hồi: 
-buôt thia chia nia tế, thom mia chia nia tế, son khia chia nia tế. 
* Ở chổ lạ, trước lúc ngủ niệm kinh nấy, người khuất mặt họ không phá mình: 
-ki ăc buôt ta tou giăc thăc ki ăc. 
* Buổi tối, đi chổ bụi rậm, niệm kinh nầy 3 lần ,rắn không cắn: 
-prẹt che tha, tí quít lít tế. 
* Ngủ chổ lạ, rừng núi,vv…niệm kinh thổi vô 4 nắm đất ,quăng ra 4 hướng, mình nghỉ ở giửa,tối không có thú vô hại mình được, mà có kẻ xấu thì sẻ tự giật mình dậy: 
-pát che tha buôt thăn qui tat phế,qui tát phết 
--pát che tha thom măn qui tat phế,qui tát phết 
--pát che tha son khănl qui tat phế,qui tát phết. 
* Có chuyện lộn xộn xảy ra quanh mình, đọc kinh nầy thì bình an, không ai đụng chạm kiếm chuyện: 
-pat che tha put put păn păn chăn chetl,pat che tha hăn hăn năn năn chetl. 
* Niệm chú nầy , dù đứng giửa ổ rắn độc, củng không con nào cắn mình, tuy nhiên chỉ để phòng thân , xin các bạn đừng thử, vì bắt rắn cần bình tỉnh cao độ và tập trung vào chú thuật: 
-crế mà thế,crế mà the,crăc măc thăc, crăc mà thăn. 
* Hay niệm câu Phật nầy ,có nhiều linh cảm dự đoán:- ă nut ta rô. 
* Nệm câu nầy , không ai kiếm chuyện hại mình:-bặc sê phế , bế sê păc. 
* Muốn xử dụng hiệu quả kinh chú gốc pali,mổi ngày ta nên trì niệm kinh ân đức phật 7, 21 ,49 hay 108 lấn, váo lúc sáng sớm hay chiều tối 
-ế tế bế sô ba gá qua, á rá hăn sam ma sam buôt đô,vic cha chá rá ná sám banh đô,sú gác tô,lô ca quí đu, ă nut ta rô, phú rí sá đam, má sa rá thi,sá tha đô qua ma nú sa năn, buôt đô,ba ga qua tê. 
Và niệm qui y tam bảo 3 lần:-na mô ta sa ba ga qua tô, ă ra hăt tô, sam ma sam buôt ta sá. 
rồi kinh chú bên trên nào mình muồn, nên chấp tay niệm cho nhiều, không kể số lần, cho nhập tâm là 1, hai là cho đều đặn mổi ngày thì rất tốt, không phân biệt nam nử chi, đả có nhiều vị nử rất giỏi dùng chú pali trị bịnh. 
đả trì kinh chú, ta nên giử điều phật dạy: 
-1)không sát sanh hại vật. 
-2)không nói dối lợi ta hại người 
-3)không lấy cắp, tước đoạt của người 
-4)không tà dâm,nói, làm, phá gia đạo mình và người. 
-5)không tham uống rượu say, mất tự chủ.





*Chú Niệm Hương (Nam Tông) 
Bud' thăn bô chăng 
Thơm măn bô chăng 
Son khăn bô chăn 
Ten năng bô chăng 
Sanh lăn bô chăn 
Kích năn ka rô mí . 
(Đốt 3 cây hương chấp trước trán tập trung niệm 3 lần trước khi công phu bên Pháp cũa Nam Tông ) 
Những chữ thường gặp trong trường phái này như : Bud' Thăn = Phật , Thơm Măn = Pháp , Son Khăn = Tăng . Ắ Rặc Hăn = A La Hán , Ề hế hoặc Ê hí = Sắc Lịnh . Mặc mặc = cấp cấp , Cà Ra Mây = tập hợp , Xắ Xây = chứng minh ...........
Thường bên Nam Tông các phái Xiêm , Lèo , Miên , Miến Điện v.v.... trước tiên muốn thĩnh mời , làm phép gì gì ..... đi chăng cũng phãi đọc câu tán thán đãnh lễ Như Lai sau đây : 
Nắc mô ta sắc , phắc cá wá to , á rá há to , sam ma sam Bud' ta sắc (3 lần , lạy 3 lạy) . 
Bùa Chú nên đọc theo các biến lẽ như : 1 , 3 , 5 , 7 , 9 lần là tiễu số . Các biến đại số là : 12 , 18 , 21 , 36 , 72 , 49 , 108 lần v.v.... thì sẽ linh nghiệm .

* Bài viết này cho những ai thích hành trì Thần Chú bên Nam Tông (Pali hay Bà Lây), đây là tập hợp lại những câu Chú ngắn từ dể dần lên khó , từ những sinh hoạt hằng ngày trong Tứ Oai Nghi (đi ,đứng ,nằm ,ngồi ) đến sau này có thể lập Đàn v.v..... Bất kỳ ai đã có Qui Y Tam Bảo , có thờ Đức Thích Ca là đều trì niệm tốt đẹp , linh ứng . 

Đầu tiên đốt 3 cây nhang chắp ngay trán tập trung niệm 

1)TỊNH PHÁP GIỚI CHÂN NGÔN : Om Ram Xóa Ha (7 lần) 

2)TỊNH TAM NGHIỆP CHƠN NGÔN : Om xoa pha va sud' đa sạt va đạt ma xoa pha va sud' đa hàm (3 lần) 

3) AN THIÊN ĐỊA CHƠN NGÔN : Na mắc sa măn tá búd đa năm , Om đu ru đu ru , đi ri đi ri pơ rít thi vi dê xoá ha . (7 lần) 
Sau 3 phần trên thì đọc câu chú Niệm Hương sau đây 3 lần rồi cắm nhang lên bàn thờ : 
Bud' thăng bô chăn 
Thơm măn bô chăn 
Son khăn bô chăn 
Ten năn bô chăn 
Xanh lăn bô chăn 
Kích năn ca rô mí 
( 3 lần cắm nhang lên ) 
Tiếp theo là đọc câu Tán Thán , Đảnh Lể Phật dưới đây 3 lần và lạy 3 lạy : 
Nắc mô ta sắc 
Phắc cá quá to 
Á rá há to 
Sam ma sam Bud' ta sắc 
(3 lần lạy 3 lạy) 
Sau đó đọc Thỉnh Tổ sau đây 3 lần : 
No Tho Ngăn , mách na măn , ís soi sô , Ề hế nắ mắ bà tá , ề hế nô mô bud' thia dắ , ề hế ắ sa ngăn ma mắ 
Tiếp theo đọc câu cúng Thầy dưới đây 3 lần : 
Úc ca sắc ết măn xà lăn á ký tha mí 
Tút tế dăn bế ế măn xà lăn á ký tha mí 
Tách tế dăn bế ế măn xà lăn á ký tha mí . 
Nguyện Trời Phật Thầy Tổ hộ độ v.v..... đọc 3 lần rồi lạy 3 lạy : 
Lệnh Ngọc Hoàng Thượng Đế , mẹ Tam Vị Thánh Tổ , Chư Vị 5 Ông . Phật Tổ Như Lai , Lưu Quan Trương Châu Bình , chư Tiên chư Phật chư Thánh chư Thần , Tam Thập Lục Tổ , Chư Vị Thần Bùa chứng kiến độ trì cho đệ tử tên họ tuổi v.v..... Học Pháp thành công đắc Đạo cứu nhân độ thế . 
Sau đó đọc Kinh 10 Danh Hiệu Phật dưới đây 7 lần: 
Ế tế bế so pha ca qua 
A ra hăng 
Sam ma sam bút thô 
Vi cha chá ra na săm pan nhô 
Su ga Tô 
Lô ca qui đu 
A nút ta rô 
Pu ri sá thăm ma sá rá thi 
Sát tha đê wa ma nút sa năn 
Bút thô 
Pha ga wa ti . 
(Trên đây là phần căn bản Nhựt tụng cầu an hay để tu luyện Pháp Thuật cũng bắt đầu căn bản như vậy trước )
* Sáng thức dậy còn trên giường đọc 3 lần nhắc nhở Phép mình nhạy bén hoài :
Hết đô bạch cho dô ế tế bế sô féc ca quia frẹc tố sắ bo-rờ mây dol tế , Ê hí sách thi mê chặc phặc . (3 lần)
*Tối khi lên giường trước khi ngủ cũng đọc 3 lần nhắc nhở như vậy :
Ắ rặc hăng bút thô , Nặc Mô Bút Thê Dắ . (3 lần)
* Sáng thức dậy và trước khi đi ngủ đều đọc 7 lần , làm tan kế mọi kẻ trù tính hãm hại mình :
Ế tế bế so sam bô thi
Bút Thăn kôl năn
Thơm Măn kôl năn
Son Khăn kôl năn
Bút thé kôl năn
Thơm mé kôl năn
Son khé kôl năn
(7 lần)
* Khi ăn đồ bị phạm như dấp cá , ngò om , khế . Chó , trầu , mèo , rắn , rùa v.v.... đọc câu này 7 lần vô nước uống giải . Nhớ đó là do vô tình bị trúng thôi , đừng cố ý ăn không hay :
Ề hế ắc ca ra kia tha dol tăn sol tăn quí tăn cắc rê ề hế mắc mắc . (7 lần)
* Đi ra khỏi nhà kêu Tổ theo hộ mạng , kêu 7 lần :
Ê hí mia rê so mia rê mắ mắ .
* Đi qua trạm ải kêu Chú này Hải Quan không xét bắt bớ được.
Vái : 36 vị Lục Cụ độ cho con .....tên họ tuổi ......qua trạm ải bình an
Ề hế nắp cập banh âm phù ra mắc mắc , mắc mắc ra phù âm banh cập nắp hế ề (7 lần hít hơi vô nuốt , đọc lập đi lập lại nhiều lần càng tốt . Nhớ đi tiểu ngồi)
Câu thứ 2 công dụng che thân qua trạm , ải :
Nô mô nô khai khai .
* PHÉP GỒNG :
1) Ế tế quí tế
 (hít sâu đọc liên tục nín hơi , câu này cũng dành để thử học trò mới nhập môn Thầy cho đọc Thầy cầm dao chém không đứt để thêm tin tưởng )
2)Ú ca sắ nắ mắ , nô mưng ắ .
* PHÉP CHẠY NHANH HƠN XE HƠI : Luyện 21 ngày , mổi ngày tàn 1 cây nhang , khi sử dụng đọc 7 lần thổi vô cọng cỏ ngậm vô miệng chạy .
Ú ắ khăn ú thô , phét két quí nia sanh tố .
* THẦN QUYỀN ĐẠO 5 ÔNG :
Nắc mắc pắc tắc mô la căn (3 lần)
Ô CA SA MA BÀ TẠ (đọc liên tục)
* TRƯỚC KHI ĂN CƠM ĐỌC :
Ề hế no túc , no phách , no băn , no răn chia tố sắ
* KHI VÔ NHÀ VỆ SINH HAY CHUI QUA SÀO QUẦN ÁO HOẶC TRƯỚC KHI GIAO HỢP ĐỌC THẦM , TẨY UẾ KHÔNG DƠ PHÉP MÌNH :
Bút thăn băn ca sa
Thơm măn băn ca sa
Son khăn băn ca sa
(3 lần)
* CÁC LOẠI CHÚ TRỊ BỊNH , THÔNG THƯỜNG ĐAU ĐÂU ĐỌC THỔI ĐÓ , THỔI VÔ TAY VUỐT XOA CHỔ ĐAU VÀ ĐỌC THỔI VÔ NƯỚC UỐNG LÀ HẾT :
* SƯNG QUAI BỊ :
Sắ bế sắ tế quí ré hôn tố (7 lần)
* SƯNG , NHỨC , ĐAU :
Thu ri âm pắc cam bơ lăng (21 lần)
* SƯNG :
Ô ma hom bru brơ anh sa đós ôi qui nét sol tế ắ se sa tô (7 lần)
* TRẶC :
Ô ma tho lós bru brơ anh sa đós ôi qui nét sol tế ắ se sa tô (7 lần)
* GÃY XƯƠNG :
Ô ma pắc cho ăn bru brơ anh sa đós ôi qui nét sol tế ắ xe sa tô (7 lần)
* TRỊ RẮN CẮN :
Nẹt mẹt bút thế dắ xoa sô cật (21 lần)
* TOM ÔNG PHẬT ĐEO TRỪ SÚNG ĐẠN :
Nặc phích phịch , phách xa ra , phạch phích phịch, phạch phạch phịch (21 or 108 lần)
*KÊU CHƯ THẦN :
Ề hế mê brây cô ma dăn mặc mặc
* KÊU CHƯ THÁNH :
Ề hế no ni quăn sắc nha thô
* KÊU TRẠNG :
Ề hế Bút Thô đùm a rây mặc mặc
* KÊU TÀ ĐÁ :
Ề hế Bút Thô rốp bờ xây mặc mặc
* KÊU CHƯ VỊ ÔNG TÀ :
Ề hế cà sa dắ mặc mặc , ề hế bề xê mặc mặc , Bút thô rép bòn Tà Mun , Tà Mi , Tà Bạch , Tà Sơn , Tà Sa , Tà sét , Tà Ắ Rặc , Tà Hồng xây xây lơn
do mo .
* KÊU LỤC :
Ề hế mắc mắc Lục ơi ..... chú kha bút thu bút thăn ề hế cà răng mặc mặc .

Xin theo dõi tiếp bài 5 - dienbatn .
Xem chi tiết…

THỐNG KÊ TRUY CẬP

LỊCH ÂM DƯƠNG

NHẮN TIN NHANH

Tên

Email *

Thông báo *