ĐA LA BỒ TÁT CHÂN NGÔN PHÁP.

8/06/2014 |
ĐA LA BỒ TÁT CHÂN NGÔN PHÁP 


Theo truyền thống Hoa Văn thì Đa La Bồ Tát có mật  hiệu là Bi Sinh (Kàrunïa Udbhave – Nghĩa là do tâm Đại Bi của Quán Thế Âm Bồ Tát mà sinh ra) hoặc có một mật hiệu là Hạnh Nguyện Kim Cương (Càrya Pranïidhàna Vajra). Tam Muội gia hình của Tôn này là “Hoa sen xanh hé nở” biểu thị cho nghĩa “Hóa độ chúng sinh vượt thoát mọi trần cấu ô nhiễm, thực chứng được bản tính trong sạch không dơ bẩn”. 
Chủng tử của Ngài là  ᚌ(TA) hay  ᚖ(Tamï) hoặc  㫫 (Tàmï) minh họa cho nghĩa “Như như bất khả đắc”. 
Ấn căn bản của Ngài là Thanh Liên Căn Bản Ấn – Đem 10 ngón tay cài chéo nhau trong lòng bàn tay rồi nắm lại thành Quyền (Nội phộc) dựng 02 ngón trỏ dính đầu ngón như cây kim, dựng thẳng 02 ngón cái dính vào 02 ngón trỏ – Đây cũng là Ấn căn bản của Thanh Cảnh Quán Thế Âm Bồ Tát.  
Tâm chú của Đa La Tôn được ghi nhận qua nhiều bản khác nhau: 
1.  Bản thường tụng của Tùy La Tăng ĐẠT MA MỘC XA là: 
Đá diệt tha: Án – Đa lị, đa lị – Đốt đa lị, đốt – Cấp bà ha. 
2.  Bản của Nam Thiên Trúc Tăng A ĐỊA QUẬT ĐA là: 
Đá diệt tha: Đa lợi, đa lợi, đốt đa lợi, đốt – Cấp bà ha. 
3.  Bản do các Đại Đức cổ xưa kết tập là: 
Đá diệt tha: Đa lợi, đa lợi, đốt đa lợi, đốt đa lợi, đốt đa lợi, sa bà ha. 
4.  Đa Lị tâm kinh do Sa Môn Thích Trí Thông dịch ghi là: 
Đá diệt tha: Án – Đa lị, đa lị , đô đa lị, đô đô đa lị, đốt lị, sa bà ha. 
*) TADYATHÀ: OM – TARE TARE  TUTARE TUTUTARE TURE – SVÀHÀ 
Ấn căn bản của câu Chú này lại là Ngoại Phộc Thanh Liên Hoa Căn Bản Ấn: Đem 10 ngón tay cài chéo nhau bên ngoài, bên phải đè bên trái, sao cho 10 đầu ngón tay bám vào lưng 02 bàn tay rồi nắm lại  thành Quyền  (Ngoại phộc) Dựng đứng 02 ngón trỏ sao cho đầu ngón dính nhau như hình cánh sen – Dựng thẳng 02 ngón cái dính vào 02 ngón trỏ. 
5.  Bản thường tụng của Diễm Tân Quốc Tăng ĐẠT MA THƯƠNG ĐÀ là: Án - Đá diệt tha: Đa lợi , đa lợi , đô đốt lợi, đốt lợi, đốt lợi, cấp bà ha. 
6.  Kim Cương Đỉnh Kinh Đa La Bồ Tát Niệm Tụng Pháp ghi: Đát nễ dã tha: Án – Đa lê, đốt đa lê , đốt lê – Tất phộc ha. 
7.  Thánh Cứu Độ Phật Mẫu 21 Lễ Tán Kinh ghi là: 
 
 Om  – Tare tutare ture – Svàhà. 
8.  Tây Khang Nặc Na Hồ Đồ Khắc Đồ truyền thụ Lục Độ Mẫu chú là: 
Án – Đạt liệt, đôi đạt liệt, đô liệt, toa hàm. 
*)1OOÊM – Dareh, Dudareh, Dùreh, Soêha. 
*) OM – TÀRE  TUTTÀRE  TURE – SVÀHÀ. 
9.  Đại Nhật Kinh, quyển 02, phẩm phổ thông chân ngôn tạng ghi là: 
   


Na ma Tam mãn da hột đà nẫm – Ca rô noa nạp bà phệ, đá lệ, đá lý nễ, 
sá ha. 
*) NAMAH SAMANTABUDDHÀNÀM – KÀRUNA UDBHAVE – TÀRE TÀRINI SVÀHÀ 
Sớ thứ 07 giải thích câu chú trên là: 
 Namah Samantabuddhànàmï nghĩa là Quy mệnh  khắp tất cả các Đấng giác ngộ. 
 Kàrunïa: là Bi Ỉ Udbhave: là Sinh 
Như thế Kàrunïa Udbhave nghĩa là  theo Bi mà Sinh, tức là trong Quán Tự Tại mà sinh ra. 
Tàre: là con mắt, cũng có nghĩa là Độ – Nay Chân Ngôn lấy chữ TA (ᚌ) làm thể – TA nghĩa là “pháp nghĩa Như” vì tất cả các Pháp vốn chẳng sinh ra nên Nhân của Pháp cũng chẳng thể đắc, bởi vậy cho nên biết “không có tướng khác”. Vì không có tướng khác nên Như cũng chẳng thể đắc, tức là nơi Như được thật tướng của các pháp. Bên cạnh nó có 01 nét Tam Muội nên thành TÀ (ᚍ) tức là Vạn Hạnh đều Như. 
RA (ᜐ) là nghĩa 06 Trần. Vì các pháp chẳng phải Như, chẳng phải Khác, nên 06 Trần đều như THẬT TƯỚNG, tức bản tính của nó không có trần cấu, gọi là “Con mắt không bụi thanh tĩnh, thấy biết như thật” – Lại nữa, 06 căn 06 trần gọi là biển sinh tử, tất cả chúng sinh đều chìm đắm trong đó chẳng được bờ mé nào. 
Nay thấy 06 Trần như thật tướng mà đến  bờ bên kia của Phật Nhãn nên gọi là “Được độ”. 
 Nói lập lại TÀRINI là cực độ, tự độ được rồi lại hay phổ độ chúng sinh, tự được Phổ Nhãn không bụi , lại cũng khiến cho tất cả chúng sinh được phổ nhãn không bụi – Theo như Đại Bản thì có đến 500 Đa La Tôn đều từ mắt của Quán Tự Tại mà sinh ra – Mật Ngữ Du Già lấy chư vị đó làm Tam Muội của A Di Đà. 
10.  Sớ thứ 10, phẩm Mật Ấn ghi câu Chú là: 
       

Na ma Tam mãn đa bột đà nẫm – Đá lệ, đá lý nễ, carô noa, ốt nạp bà phệ, 
sá ha. 
*) NAMAH SAMANTA BUDDHÀNÀM – TÀRA TÀRINI KARUNA 
UDBHAVE – SVÀHÀ. 
Rồi giải thích là: 
-  Tàre: là người (tự độ). 
-  Tàrinïi: là độ như đưa người qua sông lớn đặt ở bờ bên kia. 
-  Karunïa: là Bi. 
-  Udbhave: là Sinh. 
Do Bồ Tát này Từ Bi mà sinh, cũng độ chúng sinh đến chỗ Bi vậy. 
11.  Bất Không quyến sách Thần Biến kinh, quyển 19, phẩm 37 Đa La Bồ Tát Hộ Trì có ghi là: 
a)  Ma Ni Đại Tâm Đà La Ni chân ngôn: 
“Án – A mô già bát đầu nhĩ nễ, đã lệ – Sa phộc ha” 
OM_ AMOGHA-PADMINI  TÀRE_ SVÀHÀ 
b)  Ma Ni Tiểu Tâm Đà La Ni chân ngôn: 
“Án – Ma ni, đã lê, hàm” 
OM – MANI TÀRE – HÙM 
12.  Bạch Cứu Độ Phật Mẫu Tán ghi là: 
Án – Đáp liệp, đô đáp liệt, đô liệp ma ma, A du lị bổ nột diệp, ni nạp bổ chân, cô lỗ diệp, sa ha. 
OM – TÀRE TUTTÀRE TURE – MAMA ÀYUH PUNYE JNÕÀNA PUSTIM KURU – SVÀHÀ. 
13.  Bản phổ thông lưu truyền trong nhân gian Trung Hoa thì ghi là: 
Cúi lạy Viên Thông Chân Đại Sĩ 
Tuyên dương thần chú phá ngu môn. 
Nay con trì niệm một triệu biến 
Trí tuệ nguyện bằng Quán Tự Tại. 
“Úm – Tara, Tara, Tam Tara nhân tha rị – Hê, vĩ thuật rị đa, vĩ thuật đà gia.Úm – Tara, Tara, Thất rị duệ – Ta phạ ha”. 
OM (Nhiếp Triệu)  TÀRA (tự cứu độ)  TÀRA  (tha cứu độ)  SAMDHÀRA 
INDRI (giữ gìn năng sinh, liên kết với quyền năng tự nhiên). 
HE (Mừng thay) VI’SRITA (vang lại, dội lại, đáp ứng lại) VI’SUDDHÀYA (Khiến cho tất cả đều được   thanh tĩnh). 
OM (Nhiếp Triệu) TÀRA (Tự độ) TÀRA (tha độ)  ‘SRÌYE SVÀHÀ (quyết định thành tựu mọi sự tốt lành). 
 -  Truyền thống Ấn Độ thường lưu hành câu Chú kèm với nghĩa căn bản là: 
           

“OM – TÀRE  TUTTÀRE  TURE - SVÀHÀ” 
.) Om: Kính kễ 
.) Tàre: dũng mãnh mau chóng 
.) Tuttàre: trừ khử sự sợ hãi 
.) Ture: hay truyền các thắng nghĩa 
.) Svàhà: con tác kính lễ 
-  Truyền thống Tây Tạng thường lưu hành 02 câu chú chính của Lục Độ Mẫu và Bạch Độ Mẫu là: 
a.  Lục Độ Mẫu chú: 
OM – TÀRE  TUTTÀRE  TURE – SVÀHÀ. 
.) Om: Quy mệnh kính lễ mẹ Tàrà. 
.) Tàre: sự tự do thoát khỏi luân hồi 
.) Tuttàre: sự tự do thoát khỏi 08 nạn 
.) Ture: sự tự do thoát khỏi bệnh tật 
.) Svàhà: thành tựu tốt lành. 
b.  Bạch Độ Mẫu chú: 
OM – TÀRE TUTTÀRE TURE – MAMA ÀYUHÏ PUNÏYE JNÕÀNA PUSÏTÏIMÏ KURU – SVÀHÀ. 
.) Om – Tàre tuttàre ture 
.) Mama: Tôi 
.) Àyuh: thọ mệnh 
.) Punïye: công đức 
.) Jnõàna: trí tuệ 
.) Pusïtïimï Kuru: hãy làm cho tăng trưởng 
.) Svàhà: thành tựu tốt lành 
Ngoài ra, tùy theo từng Bộ tu tập, các vị Đạo sư Tây Tạng đã truyền dạy các câu 
chú khác nhau là: 
1.  Như Lai Bộ: Đa La Mẫu: 
NAMO RATNA TRAYÀYA. 
NAMAH ÀRYA JNÕÀNA – SÀGARÀYA VAIROCANA – VYÙHA – RÀJÀYA TATHÀGATÀYA ARHATE SAMYAK SAMBUDDHÀYA. NAMAH ÀRYA AVALOKITE ‘SVARÀYA BODHISATTVÀYA MAHÀ SATTVÀYA MAHÀ KÀRUNÏIKÀYA. 
TADYATHÀ: OM – TÀRE TUTTÀRE TURE – SVÀHÀ. 
 2.  Liên Hoa Bộ: Đa La Mẫu: 
NAMO RATNA TRAYÀYA. NAMAH ÀRYA JNÕÀNA–SÀGARÀYA–AMITÀBHA–DEVA–VYÙHA–RÀJÀYA TATHÀGATÀYA ARHATE SAMYAK SAMBUDDHÀYA. 
NAMAH ARYA AVALOKITE ‘SVARAYA BODHISATTVAYA MAHA SATTVAYA MAHA KARUNIKAYA.  
TADYATHA- OM – TUTTARE TURE – SVAHA. 

3.  Kim Cương Bộ: Đa La Mẫu: 
NAMO RATNA TRAYÀYA. 
NAMAHARYA JNÕÀNA – SÀGARÀYA AKSÏOBHYA – VYÙHA – 
RÀJÀYA TATHÀGATÀYA ARHATE SAMYAK SAMÏBUDDHÀYA. 
NAMAH ÀRYA AVALOKITE ‘SVARÀYA BODHISATTVÀYA MAHÀ 
SATTVÀYA MAHÀ KÀRUNÏIKÀYA.  
TADYATHÀ: OM – TÀRE TURE TUTTÀRE  – SVÀHÀ. 

4.  Bảo Bộ: Đa La Mẫu: 
NAMO RATNA TRAYÀYA. 
NAMAH ÀRYA JNÕÀNA – SÀGARÀYA RATNASAMBHAVA – VYÙHA – 
RÀJÀYA TATHÀGATÀYA ARHATE SAMYAK SAMÏBUDDHÀYA. 
NAMAH ÀRYA AVALOKITE ‘SVARÀYA BODHISATTVÀYA MAHÀ 
SATTVÀYA MAHÀ KÀRUNÏIKÀYA.  
TADYATHÀ: OM – TÀRE TÀRE - TUTTÀRE – TURE – SVÀHÀ. 

5.  Nghiệp Dụng Bộ: Đa La Mẫu: 
NAMO RATNA TRAYÀYA. 
NAMAH ÀRYA JNÕÀNA–SÀGARÀYA AMOGHASIDDHI–VYÙHA–
RÀJÀYA TATHÀGATÀYA ARHATE SAMYAK SAMÏBUDDHÀYA. 
NAMAH ÀRYA AVALOKITE‘SVARÀYA BODHISATTVÀYA MAHÀ 
SATTVÀYA MAHÀ KÀRUNÏIKÀYA.  
TADYATHÀ: OM – TURE TUTTÀRE  – SVÀHÀ. 
Để giúp cho đệ tử mau chóng diệt trừ mọi tội nghiệp ác đã gây ra, các bậc Đạo sư Mật Giáo Tây Tạng đã truyền dạy một trong ba bài chú sau: 
1.  OM-NAMAH ÀRYA AVALOKITE’SVARÀYA 
BODHISATTVÀYA – MAHÀ SATTVÀYA – MAHÀ KÀRUNÏIKÀYA.! 
TADYATHÀ: OM – TÀRE TUTTÀRE TURE – SARVA DUSÏTÏÀMÏ 
PARA DUSTÀMÏ MAMA KRÏTE – JAMBHAYA, STAMBHAYA, MOHAYA, 
BANDHAYA HÙM HÙM HÙM PHAT PHAT PHAT – SVÀHÀ. 
NAMAH ÀRYA AVALOKABHAYÀ NARÀ BODHISATTVÀ MAHÀ 
SATTVÀNI ADHISÏTÏHÀNA ‘SUDDHE VI’SUDDHE ‘SODHAYA 
VI’SODHAYA HÙM PHAT SVÀHÀ. 

2.  NAMO RATNA TRAYÀYA! 
NAMAH ÀRYA AVALOKITE ‘SVARÀYA BODHISATTVÀYA MAHÀ 
SATTVÀYA MAHÀ KÀRUNÏIKÀYA.! 
TADYATHÀ: OM TÀRE TUTTÀRE  TURE – SARVA DUSÏTÏÀMÏ 
PARADUSÏTÏÀMÏ MAMAKRÏTE – JAMBHAYA, STAMBHAYA, MOHAYA, 
BANDHAYA HÙM HÙM HÙM PHAT PHAT PHAT! SARVA DUSÏTÏA 
STAMBHANI – TÀRE SVÀHÀ. 
 3.  OM – TÀRANI – TÀRANI – MAHÀ TÀRANI – SVÀHÀ 
 Do tín ngưỡng Tàrà phát triển rất mạnh mẽ và sâu rộng trên đất nước Tây Tạng, nên các bậc Đại sư đã truyền dạy một số định thức về Thần chú để cho các Giáo đồ tiện dùng, Nay chúng tôi xin ghi lại phần định thức do Đức Dalai Lama thứ nhất truyền dạy và do Stephan Beyer biên soạn trong quyển “The cult of Tàrà” từ  trang 208 đến trang 210.  
 1.  Định thức thứ nhất: 
 Omï – Tàre Tuttàre Ture – Sarva …… ‘sàntïimï Kuru – Svàhà  
 -  Trừ Quỷ Thần: Omï – Tàre Tuttàre Ture – Sarva grahàn ‘sàntïimï Kuru - Svàhà . 
-  Trừ chứng nạn:  Omï – Tàre Tuttàre Ture – Sarva Vighnàn ‘sàntïimï Kuru – Svàhà. 
-  Trừ bệnh tật truyền nhiễm :  Omï – Tàre Tuttàre Ture – Sarva Vyàdhìn ‘sàntïimï Kuru – Svàhà. 
-  Trừ nhiệt bệnh: Omï – Tàre Tuttàre Ture – Sarva Jvaràn ‘sàntïimï Kuru – Svàhà. 
-  Trừ bệnh hoạn: Omï – Tàre Tuttàre Ture – Sarva Rogàn ‘sàntïimï Kuru – Svàhà. 
-  Trừ phiền não:  Omï – Tàre Tuttàre Ture – Sarva Upadravàn ‘sàntïimï Kuru – Svàhà. 
-  Trừ sự chết yểu phi thời: Omï– Tàre Tuttàre Ture – Sarva Akàla Mrïtyùn ‘sàntïimï Kuru – Svàhà. 
-  Trừ giấc mơ xấu: Omï – Tàre Tuttàre Ture – Sarva Duhïsvapnànï ‘sàntïimï Kuru – Svàhà. 
-  Trừ sự Bất Tường:  Omï – Tàre Tuttàre  Ture – Sarva Durni mittàni ‘sàntïimï Kuru – Svàhà. 
-  Trừ sự lầm lẫn: Omï – Tàre Tuttàre Ture – Sarva Città Kulàni ‘sàntïimï Kuru – Svàhà. 
 2.  Định thức thứ hai: 

 Omï – Tàre Tuttàre Ture – Sarva …… Raksïamï Kuru – Svàhà  
-  Trừ oan gia và kẻ thù:  Omï – Tàre Tuttàre Ture – Sarva’satrùbhyo Raksïamï Kuru – Svàhà. 
-  Trừ chất độc, các loại độc:  Omï – Tàre Tuttàre Ture – Sarva Visïebhyo Raksïamï Kuru – Svàhà. 
-  Trừ Chú Trớ Yểm Đảo: Omï – Tàre Tuttàre Ture – Sarva Krïtyà – Kàkhordebhyo Raksïamï Kuru – Svàhà. 
-  Trừ binh trận:  Omï – Tàre Tuttàre Ture – Sarva Yudhebhyo Raksïamï Kuru – Svàhà. 
-  Trừ sự phiền não tai nạn: Omï – Tàre Tuttàre Ture – Sarva Bhaya Upadravebhyo Raksïamï Kuru – Svàhà. 
-  Trừ hành động xấu ác:  Omï – Tàre Tuttàre Ture – Sarva Dusïkrïtebhyo Raksïamï Kuru – Svàhà. 
-   
3.  Định thức thứ ba: 
 Om – Tàre Tuttàre Ture  ……  Svàhà. 
 -  Om – Tàre Tuttàre Ture – Sarva bhaya vimocana – Ràja, caura, Agni, Visïa, Udaka bhayàni pra’samaya – Svàhà. 
(Om Tàre Tuttàre Ture – Vượt thoát mọi sự sợ hãi, chận đứng, tiêu diệt sự sợ hãi về: vua chúa, trộm cướp, lửa, thuốc độc, nước - Svàhà) 
-  Om – Tàre Tuttàre Ture – Sarva bandhana – Tadïana – Ràja, Taskara, Agni, Udaka, Visïa ‘sastràni parimocaka – Svàhà. 
(Om Tàre Tuttàre Ture – Vượt thoát mọi sự trói buộc, sự đánh đập, vua chúa, trộm cướp, lửa, nước, thuốc độc, dao gậy - Svàhà) 
-  Om – Tàre Tuttàre Ture – Sarva pàpamï Àvaranïa vi’suddhe – Svàhà. (Om Tàre Tuttàre Ture – Tinh lọc hoàn toàn mọi tội lỗi và chướng ngại – Svàhà )  
Om_ Tàre Tuttàre Ture_ mama dhana sarva cora bandha svàhà ( Omï_ Tàre Tuttàre  Ture_Cột trói tất cả giặc cướp của cải của tôi _ svàhà 
Om_ Tàre Tuttàre Ture_ Asmàn apakàra sarva cora bandha  svàhà ( Omï_ Tàre Tuttàre Ture _Cột trói tất cả trộm cướp, kẻ gây ra thiệt hại cho chúng tôi _ Svàhà ) 
-  Om – Tàre Tuttàre Ture Dhanamï me Dehi – Svàhà. (Omï Tàre Tuttàre Ture – Hãy ban cho tôi sự giàu có - Svàhà) 
 4.  Định thức thứ tư: 

 Om – Tàre Tuttàre Ture …… Pusïtïimï Kuru – Svàhà. 
-  Tăng trưởng Thọ Mệnh, Phước Đức, Trí Tuệ: Omï – Tàre Tuttàre Ture – Mama Àyuhï punïye jnõàna Pusïtïimï Kuru – Svàhà. 
-  Tăng trưởng năng  lực Công Đức:  Omï – Tàre Tuttàre Ture – punïya Pusïtïimï Kuru – Svàhà. 
-  Tăng trưởng Trí Tuệ: Omï – Tàre Tuttàre Ture – Prajnõa Pusïtïimï Kuru – Svàhà. 
Tóm lại: Tuy Thần chú căn bản của các Đa La Tôn có nhiều sự sai khác, nhưng đấy chỉ là pháp  lưu truyền của từng Giòng Phái mà  thôi – Thực tế muốn tu tập Chân Ngôn được hiệu nghiệm thì điều căn bản là phải biết  thành thật với chính mình và người khác – Ngoài ra còn phải giữ gìn kỹ lưỡng Tam quy, Ngũ giới, tám Biệt Giới Giải Thoát đồng thời cần phải tránh xa và diệt trừ cho được tâm ý tự ti mặc cảm và tự cao ngã mạn, phát huy tâm ý bình đẳng như thật – Có như thế Hành Giả mới dần dần thâm nhập vào Tâm Đại Bi của Bản Tôn và thành tựu được mọi lợi ích mà Kinh Điển ghi nhận là: “Nếu tu trì Chân Ngôn này thì hãy cắt đứt sinh tử luân hồi, tiêu trừ các ma chướng, nghiệp chướng, bệnh khổ,… và hay tiêu tai, tăng phước, sống lâu, rộng mở Trí Tuệ – phàm có sự mong cầu thì không có gì không thành tựu – Sau khi mệnh chung sẽ vãng sanh về Thế giới Cực Lạc.”                                                                                                
 12/01/2002 

Huyền Thanh 
dienbatn giới thiệu.

Xem chi tiết…

KINH LỄ TÁN 21 LOẠI THÁNH CỨU ĐỘ PHẬT MẪU

8/04/2014 |
KINH LỄ TÁN 21 LOẠI THÁNH CỨU ĐỘ PHẬT MẪU .

Hán dịch: Hàn Lâm Học Sĩ Thừa Chỉ Trung phụng Đại phu AN TẠNG phụng chiếu dịch 
Việt dịch: HUYỀN THANH 


-  ÁN (OM) Kính lễ, Đa Lị (Tàre) Tốc tật Dũng 
Đốt Đa Lị (Tuttàre)  trừ khử sợ hãi  
Đốt Lị (Ture) hay truyền các Thắng nghĩa 
Đủ chữ, Sa ha (Svàhà) con tán lễ. 

(1)  Kính lễ Cứu Độ Tốc Dũng Mẫu 
Mắt như ánh điện chiếu chớp nhoáng 
Tôn của ba cõi (Tam Thế Giới Tôn) mặt hoa sen. 
Trong hoa màu nhiệm, hiện đoan nghiêm. 

(2)  Kính lễ Bách Thu Lãng Nguyệt Mẫu 
Mặt vô cấu tròn đầy rộng khắp 
Như ngàn tinh tú đồng thời tụ 
Uy quang thù diệu vượt hơn hẳn 

(3)  Kính lễ Tử Ma Kim Sắc Mẫu 
Tay sen mầu nhiệm thật trang nghiêm. 
Thí (bố thí) tinh cần hạnh, nhu thiện tĩnh 
Nhẫn nhục, Thiền định tính, vô cảnh (không có cảnh) 

(4)  Kính lễ Như Lai Đỉnh Kế Mẫu. 
Tối thắng hay mãn vô biên hạnh 
Được đến bờ kia không dư sót 
Thắng thế phật tử rất kính yêu 

(5)  Kính lễ Đát La Hồng Tự Mẫu 
Tiếng chứa phương sở đầy Hư không 
Vận (xoay chuyển) chân che khắp bảy Thế Giới 
Thảy đều câu triệu, nhiếp không sót 

(6)  Kính lễ Thích Phạm Hỏa Thiên Mẫu 
Thần gió (Marud), chúng tự tại (vi′sê′svara)đều đến 
Bộ Đa(Bhùta) , Khởi Thi quỹ (vetàla) , Tầm Hương(gandharva)
 Các chúng Dược Xoa(Yaksa)  đều xưng tán 

(7)  Kính lễ Đặc La Đê phát Mẫu 
Nơi Gia Hạnh (Yantra – Linh phù) khác, cực tồi hoại. 
Duỗi trái co phải làm chân đạp 
Đỉnh kế rực rỡ rất sáng tỏ. 

(8)  Kính lễ Đô Lị Đại Khẫn Mẫu  
Dũng mãnh đập tan loài ma oán 
Trên mặt hoa sen, chau lông mày (nhíu 2 lông mày) 
Tồi hoại tất cả chúng oan gia. 

(9)  Kính lễ Tam Bảo Nghiêm Ấn Mẫu. 
Tay chỉ ngay tim, tướng uy nghiêm 
Tô điểm phương Luân (Dik-Cakra – chân trời, tầm kiến thức) không bỏ sót. 
Tự thân rực rỡ tụ ánh sáng. 

(10)   Kính lễ Uy Đức Hoan Duyệt Mẫu. 
Mão báu, chuổi ngọc tô điểm sáng 
Cười vui thỏa thích Đô đát lị (tuttàre) 
Trấn Thế Gian Ma, tác nhiếp phục. 

(11)   Kính lễ Thủ Hộ chúng Địa Mẫu 
Cũng hay câu Triệu các chúng Thần 
Cau mặt chau mày, tiếng chữ Hồng. 
Độ thoát tất cả mọi suy bại. 

(12)   Kính lễ Đỉnh Quan Nguyệt Tướng Mẫu 
Mão hiện hào quang thắng diệu nghiêm. 
A Di Đà Phật hiện trong tóc 
Thường tỏa ánh sáng báu mầu nhiệm 

(13)   Kính lễ Như Tận Kiếp Hỏa Mẫu 
An trú rực rỡ trong Đỉnh Kế 
Vui thích rộng khắp, ngồi Bán già 
Hay tồi diệt, phá luân oan ác. 

(14)   Kính lễ Thủ Án Đại Địa Mẫu 
Dùng chân đạp chéo làm trấn áp. 
 Hiện mặt cau mày, tác tiếng Hồng. 
Hay phá bảy Hiểm, trấn giáng phục. 

(15)   Kính lễ An Ẩn Nhu Thiện Mẫu 
Niết Bàn tịch diệt, cảnh cực vui. 
Sa Ha (Svàhà) mệnh chủng dùng tương ứng 
Khéo hay tiêu diệt họa lửa lớn 

(16)   Kính lễ Phổ Biến Cực Hỷ Mẫu 
Các chi thể oán, khiến thoát ly. 
Câu Chú mười chữ bày diệu nghiêm. 
Minh chú tiếng Hồng, thường soi sáng. 

(17)   Kính lễ Đô Lị Ba Đế Mẫu 
Thế chân bước nhẹ, chủng chữ Hồng. 
Di Lỗ (Meru – tên núi)  man đà (mandara – tên núi)  Kết lạt tát (kailàsa – tên núi)
 Ở ba nơi này hay dao động. 
(18)   Kính lễ Tát La Thiên Hải Mẫu 
Trong tay cầm giữ tượng Thần Thú 
Tụng hai Đát La (Tàra) tác tiếng phát (phatï) 
Hay diệt các độc không còn sót. 
(19)   Kính lễ Chư Thiên Tập Hội Mẫu 
Trời, Khẩn Đa La đều yêu kính. 
Uy đức hoan duyệt như (áo) giáp cứng 
Diệt trừ đấu tranh với mộng ác. 

(20)   Kính lễ Nhật Nguyệt Quảng Viên Mẫu 
Mắt nhìn giống Thắng Phổ Quang Chiếu. 
Tụng hai Hạt la (Hara) đốt đát lị (Tuttàre) 
Khéo trừ bệnh ác, dịch, độc, nóng. 

(21)   Kính lễ Cụ Tam Chân Phật Mẫu 
Uy lực Thiện Tĩnh đều đầy đủ 
Dược xoa(Yaksïa) , chấp mị (grahà) , vĩ đát lạt (vetàla)
 Đô Lị (Ture) Tối cực trừ viêm họa (họa nóng bức) 

Kính lễ Bậc Trí siêng tinh tiến 
Chí Tâm Tụng niệm (Tán này) hai mươi mốt (21) 
Thành Tín lễ nơi Cứu Độ Tôn. 
Cho nên tán thán chú căn bản. 

Mỗi sáng thức dậy, đầu đêm, lễ 
Ghi nhớ ban cho Thắng vô úy. 
Tất cả tội nghiệp tiêu trừ hết 
Đều hay vượt qua các nẻo ác. 

Đẳng này mau hay được Thông Tuệ 
Bảy câu đê Phật đã quán đỉnh 
Đời này giàu có, thọ diên an. 
Ngày sau hướng đến các Phật vị. 

Có lúc uống nhầm các vật độc  
Hoặc tự nhiên sinh, hoặc hòa hợp. 
Ghi nhớ lực chân Thật Thánh Tôn. 
Các thuốc độc ác, tiêu diệt hết. 
Hoặc thấy người khác bị Quỷ Mị  
Hoặc phát bệnh nóng chịu các khổ 
Nếu chuyển Tán này hai (2) ba (3) bảy (7) 
Các khổ não kia đều trừ hết 
Muốn xin nam nữ được nam nữ 
Cầu xin tài bảo được giàu có. 
Khéo hay viên mãn tùy ý nguyện 
Tất cả chướng ngại không thể lấn. 

 Căn bản Thập Tự Chơn Ngôn: 


 Theo ý người dịch thì bài chú trên phải ghi lại là: 
OM – TÀRE TUTTÀRE TURE –  SARVATHÀ YÀNA CANA – SARVA 
DUHÏKHA TÀRINÏI – SVÀHÀ. 
OM:  Quy kính Mẫu Tàrà 
Tàre:  Vượt thốt khỏi biển luân hồi 
Tuttàre:  Vượt thốt khỏi 8 nạn 
Ture:  Vượt thốt khỏi bệnh tật 
Sarvathà yàna cana:Làm hiển lộ con đường tất cả thềm bậc cao thượng 
Sarva duhïkha Tàrinïi Svàhà:Quyết định Thành Tựu Mẫu cứu độ tất cả khổ não. 
12/01/2001 
dienbatn giới thiệu.
Xem chi tiết…

TÔN TƯỢNG ĐA LA BỒ TÁT .

8/03/2014 |
TÔN TƯỢNG ĐA LA BỒ TÁT 


Đại Nhật Kinh, quyển 1,  phẩm Cụ Duyên ghi là:  “Hình tượng của Tôn này là trạng người nữ trung niên da màu xanh và màu trắng pha  tạp – hai tay chắp lại cầm hoa sen xanh, thân mặc áo trắng”   
Hiện Đồ Thai Tạng Giới Man Đà La thì vẽ hơi khác là:  “Toàn thân màu xanh trắng, mặc áo Yết Ma, đầu đội mão tức bên trên có vị hóa Phật – hai tay chắp lại không cầm hoa sen, ngồi Bán Già trên Tòa Sen, vị trí ở bên phải của Quán Tự Tại Bồ Tát, bên trái Ngài có một vị Sứ Giả”. 


Sớ thứ 5 giải thích ý nghĩa của Tôn Tượng trên là: “Đa La Bồ Tát là Tam Muội của Quán Tự Tại nên làm tượng người nữ. Đa La có nghĩa là con mắt. Hoa sen xanh có nghĩa là trong sạch không dơ bẩn. Dùng Phổ Nhãn như vậy nhiếp thụ quần sinh, đã chẳng trước cũng chẳng sau nên làm dạng người nữ trung niên chẳng quá già, chẳng quá trẻ. Màu xanh là màu giáng phục, màu trắng là màu Đại Bi do diệu (sự mầu nhiệm) ở trong hai dụng ấy nên tạo hai màu hòa hợp, vì nghĩa ấy nên chẳng xanh chẳng trắng. Tượng ấy chắp  tay, cầm hoa sen xanh trong lòng bàn tay, hướng tay và mặt về Đức Quán Âm như hình mỉm cười, toàn thân có hào quang tròn như màu vàng ròng thanh tịnh, mặc áo màu trắng, đầu có búi tóc như dạng tóc của Chư Thiên, đồng với mão tóc của Đại Nhật Như Lai”. 
Quỹ ghi là: “Liền quán hoa sen màu nhiệm (Diệu Liên) làm Bản Tôn, thân ấy có ánh sáng vàng lục tràn đầy thanh tịnh, với báu Diệu Ma Ni làm Trân Lạc, đầu đội mão tóc có Vô Lượng Thọ Phật, bên phải hiện  tướng Dữ Nguyện làm thù thắng, bên trái dùng tay cầm hoa sen xanh”. 
Biệt Tôn Tạp Ký ghi là: “Trên Đàn có chữ    ( HRÌHï) biến thành hoa sen báu. 




12 hóa thân Tàrà
 Trên hoa có chữ ᚖ(TAMï) biến thành hoa sen xanh rồi chuyển thành thân Đa La Bồ Tát có màu xanh trắng (hoặc màu thịt) mặc áo màu lam với mọi thứ trang nghiêm, trên mão có Đức Quán Tự Tại Vương Như Lai (Avalokite’svara Ràja Tathàgata), tay trái cầm hoa sen xanh để bên trái tim, tay phải kết Ấn Thíù Vô Úy (Abhayamïdàda Mudra) hoặc chấp hai tay lại cầm hoa sen xanh, ngồi trên hoa báu phóng ra ánh hào quang 
màu trắng, hay làm mãn các Nguyện”. 
Theo sự truyền thụ của Tây Khang Nặc Na Hô Đồ Pháp Đồ (Phật sống NẶC NA của Tây Tạng) thì Bản Tôn có thân màu xanh lục, dung mạo hiền từ, ngồi báu già trên hoa sen , có vành Nhật Nguyệt. Hoa sen đó có 08 cánh màu trắng hơi hồng, chân phải đạp xéo, chân trái co lại – Hai tay cầm một cành hoa Ô Ba Lạp (utpala – Hoa sen xanh da trời), đầu đội mão Ngũ Phật, thân trên khoác áo bay phất phới như lá phướng, thân dưới mặc quần trong dài, quần ngoài ngắn. Cổ đeo 03 chuỗi  châu: chuỗi thứ nhất dài đến ngực, chuỗi thứ hai đến trái tim, chuỗi thứ ba dài đến  rốn. Tai đeo vòng khoen, khuỷu tay đeo vòng xuyến, ống chân đeo vòng có chuông nhỏ với các vật trang sức dùng để trang nghiêm. 
Trên đây là Tôn tượng Lục Độ Mẫu, một trong 21 Độ Mẫu hóa thân của Quán Thế Âm Bồ Tát – Hình tượng của 20 Độ Mẫu còn lại đều có tư thế ngồi, mão, áo, vật trang sức giống nhau và chỉ khác nhau về nhan sắc (dung mạo và màu sắc) với vật cầm tay. 
Bách Khoa Tự Điển mở Wikipedia ghi là:” Thần Tàrà thực sự là một vị Thần trẻ đẹp, có khả năng thay đổi hình dạng đúng lúc đúng chỗ. Thần có thể hiện ra trong màu xanh, màu trắng, đỏ hay màu của vàng. Mỗi màu đều có ý nghĩa riêng của nó. Sắp đặt: Phía sau đầu của Thần Tàrà là ánh sáng của trăng tròn, là biểu tượng của ánh sáng soi sáng trái đất, cao hơn sự hỗn độn, ảo tưởng và đau khổ của vòng Luân Hồi nhưng lại không tách rời khỏi nó. Thần ngồi trên một tòa sen nở và một chiếc đĩa tròn. Vòng quanh Thần là một vòng lửa màu vàng. Mà lời Kinh cầu nguyện số 21 nói rằng Như lửa cháy ở cuối Thời Đại này. Hoa:Trên mỗi bàn tay,Thần Tàrà nhẹ nhàng cầm một cánh hoa dài màu xanh trắng, hoa Utpala, một loại hoa có mùi hương thơm ngọt giống như hoa Kèn hay hoa Sen, loại hoa mọc trên mùi mà chẳng hôi tanh mùi bùn. Hoa Utpala là sự trong sạch tự nhiên, mà theo Genlek Rinpoche nói Để có thể nghĩ mình là người trong sạch, hãy hành động một 
cách trong sạch. 
Ba ngón tay trái của Thần Tàrà chỉ lên trên để biểu hiện ba thứ quý giá , đó là Đức Phật , Phật Pháp và Giác Ngộ, và sự tự giải phóng tự tại. Tay phải duỗi ra , ngửa bàn tay về phía trước với một cử chỉ mời gọi.Genlek Rinpoche nói  Thần Tàrà nói với những người bị mất hy vọng và không có ai giúp đỡ rằng Hãy lại đây, Ta đang ở đây. 
Y Phục:Thần có những sợi thừng lụa mềm được trang điểm bằng những hạt châu báu, dái tai dài và thanh nhã biểu hiện rõ ràng Thần là một vị Bồ Tát, người đã có lời Thề ở lại trên trần gian vĩnh viễn để cứu  nhân độ thế. Trên thực tế , những Đức Phật truyền Giáo thì không đeo châu báu, tại sao họ lại đeo trên cõi Niết Bàn? Các Bồ Tát thường trì hoãn việc vào Cõi này vì những vị khác. Thần Tàrà mang châu báu là để thể hiện sự hoàn thiện của mình, những châu báu này lấp lánh như sự cảnh báo về những sự đau khổ trên trần thế, nơi mà Thần đang ra tay cứu chữa” .
Theo kinh nghiệm tu tập của Bhatta Charya thì “Trong ánh hào quang sáng chói lạ lùng hiện ra một vị Thánh Nữ màu lục biếc, đẹp tuyệt hảo trong mọi đường nét tay chân đến nỗi không thể dùng lời nói diễn tả được – Thánh Nữ ngồi theo thế Du Hý Tam Muội trên một hoa sen hai tầng, tay trái cầm vài cành lá, tay phải kết ấn Vô Úy với một viên ngọc sáng ngời”. 



Tàrà trắng
Riêng 21 Độ Mẫu thì Kinh Tạng Hoa Văn không ghi nhận bằng lời mà chỉ lưu truyền hình ảnh Tôn tượng trong kinh “Lễ tán 21 vị Cứu Độ Phật Mẫu”. 
1.  Cứu Độ Tốc Dũng Mẫu ( Tàre Ture vìre): có 08 tay, thân hình màu đỏ, ngồi kiết già trên tòa sen. 
2.  Bách Thu Lãng Nguyệt Mẫu ( ‘sata –‘sarac –candra): có 12 tay, thân hình màu trắng, đứng trên tòa sen. 
3.  Tử Ma Kim Sắc Mẫu ( Kanaka - Nìlâbja): có 10 tay, thân hình màu đỏ, ngồi kiết già trên tòa sen. 
4.  Như Lai Đỉnh Kế Mẫu (Tathàgatôsïnïìsïa): có 04  tay, thân hình màu vàng, ngồi kiết già trên tòa sen. 
5.  Đát La Hồng Tự Mẫu (Tuttàra – Hùmï - Kàra): có 02 tay, thân hình màu vàng ròng, ngồi kiết già trên tòa sen. 
6.  Phạn Thích Hỏa Thiên Mẫu (’Sakrânala - Brahma): có 04 tay, thân hình màu đỏ, ngồi kiết già trên tòa sen. 
7.  Đặc La Đê Phát Mẫu (Tradïiti phatï - Kàra): có 04 tay, thân hình màu xanh, đứng trên tòa sen. 
8.  Đô Lị Đại Khẩn Mẫu (Ture Mahà  - Ghore): thân hình màu hồng, ngồi theo thế Du Hý trên lưng rồng trên tòa sen. 
9.  Tam Bảo Nghiêm Ấn Mẫu (Tri – Ratna - Mudrânka): có 04 tay, thân hình màu hồng, ngồi kiết già trên tòa sen. 
10.  Uy Đức Hoan Duyệt Mẫu (Pramuditâtïopa): có 04 tay, thân hình màu hồng, đứng trên hoa sen. 
11.  Thủ Hộ Chúng Địa Mẫu (Samanta–bhù–pàla): có 02 tay, thân hình màu xanh, đứng trên tòa sen. 
12.  Đỉnh Quan Nguyệt Tướng Mẫu (‘Sikhanïdïa – khanïdïêndu): có 08 tay, thân hình màu vàng ròng, ngồi kiết già trên tòa sen. 
13.  Như Tận Kiếp Hỏa Mẫu (Kalpânta-hutabhug): có 04 tay, thân hình màu đỏ, đứng trên tòa sen. 
14.  Thủ Án Đại Địa Mẫu (Kara-Talâghàta): có 06 tay, thân hình màu xanh, đứng trên tòa sen. 
15.  An Ẩn Nhu Thiện Mẫu (‘Sive ‘subhe’sànte): có 06 tay, thân hình màu trắng, ngồi kiết già trên tòa sen. 
16.  Phổ Biến Cực Hỷ Mẫu (Pramuditàbandha): có 02 tay, thân hình màu trắng, ngồi kiết già trên tòa sen. 
17.  Đô Lị Ba Đế Mẫu (Ture padâghàta): có 02 tay, thân hình màu vàng, ngồi chéo chân trên tòa sen. 
18.  Tát La Thiên Hải Mẫu (Sura–sarâkàra): có 04 tay, thân hình màu vàng, ngồi kiết già trên tòa sen. 
19.  Chư Thiên Tập Hội Mẫu (Sura–ganïâdhyaksïa): có 02 tay, thân hình màu vàng ròng, ngồi kiết già trên tòa sen. 
20.  Nhật Nguyệt Quảng Viên Mẫu (Candrârkâ –  samïpùrnïa)có 02 tay, thân hình màu vàng, ngồi kiết già trên tòa sen. 
21.  Cụ Tam Chân Thật Mẫu (Tri–Tattva–vinyàsa): có 02 tay, thân hình màu xanh, ngồi trên lưng con trâu trên hoa sen. 
Tóm lại, hình tượng Đa La Tôn thường được sùng bái, thờ phượng, quán tưởng là nhân nữ màu xanh lục, tay trái cầm hoa sen xanh, tay phải kết Dữ Nguyện Ấn, ngồi theo hế Du Hý trên tòa sen. 
12/01/2002 

Huyền Thanh .
dienbatn giới thiệu.
Xem chi tiết…

TARA DẪN NHẬP.

8/02/2014 |
TARA DẪN NHẬP 

Vào khoảng 150 năm sau Tây Lịch, do duy trì ý tưởng Mẫu quyền nên tín ngưỡng về Nữ Thần Tính đã được du nhập vào giáo điển Phật Giáo Ấn Độ. Nhằm thỏa mãn cho ước vọng của con người. Trong giai đoạn này, một số  giáo đồ Phật Giáo Ấn Độ chuyên xưng tán thờ phụng Đấng Cứu Thế Mẫu (Tàràyati) là bà mẹ chuyên giúp đỡ cho con người vượt qua các ách nạn sợ hãi, chấp nhận mọi ước nguyện và dắt dìu từng người vượt qua bờ bên kia – Đồng thời xuất hiện các Kinh Bản rất được ca ngợi và sùng bái là: 
1.  Đa La Bồ Tát 108 Danh Tán (Àrya Tàrà-Bhatïtïàrikà-  Nàmâsïtïôttara’sataka – stotra). 
2.  Cứu độ Phật Mẫu 21 lễ tán (Bhagavaty – Àrya Tàrà – Devyà Namaskàrâika  – Vimï’sati sotramï gunïa – hita – sahitamï). 
3.  Thánh Đa La Trì Quan (Cái mão)  Tán (Àrya Tàra srag dharà – sotrra). 
4.  Thánh Đa La Cứu Độ Bát Nạn Kinh (Àrya – Tàrà Asïtïa – ghora Tàrànïi – Sùtra). 
Dân gian thường ví Ngài như chiếc thuyền cứu vớt người vượt biển lớn sinh tử đi đến bờ bên kia được tự tại nên xưng Tôn này là Đa La Nễ Vĩ (Tàrà – Devi – Đa La Thiên Nữ) và hay gọi tắt là Tàrà. 
Bách Khoa Toàn Thư mở Wikipedia ghi nhận là:” Thần Tàrà có nghĩa là Ngôi Sao, là ngôi sao Bắc Đẩu , là ánh sáng soi đường cho những người bị lạc đường, là hiện thân của năng lượng ánh sáng. Thần là người mẹ với giàu lòng yêu thương, người bảo vệ mạnh mẽ, kiên cường và nhanh nhẹn chinh phục những khó khăn. Ánh mắt của Thần sáng như ánh chớp, Thần giậm  chân là làm đất rung  chuyển đến tận Quỷ  Thần cũng phải biết, Thần có thể sửa chữa những sai lầm nghiêm trọng và Thần phát huy lời hứa của mình là mang sức mạnh siêu phàm của phụ nữ xuống trần gian.  
Tính chất cao quý của Thần là sự nhu mì hoặc hiền lành  của phụ nữ. Thần Tàrà cùng với những vị đi theo Thần   trừng phạt kẻ thù của Phật Giáo một cách rất khốc liệt, nhưng họ rất biết tận hưởng tình yêu với người yêu (đàn ông) hoặc chồng. Nói tóm lại, họ là những người cực kỳ giải  phóng, là những người bảo vệ có bộ óc  sáng suốt mà mỗi chúng ta đều thừa hưởng” 
Sau này, do sự nhân cách hóa Trí Tuệ siêu việt  nên Đa La Tôn được xem là nguyên lý Âm của Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát (Manõju’Srì Bodhisatva) và biểu tượng cho Thành Sở Tác Trí (Krïtyàmusïtïhàna Jnõàna – Trí Tuệ chuyển mọi hành động của thế gian thành trạng thái giải thoát) – Từ đây, Tôn này thường song hành với Bồ Tát Văn Thù trong mọi công tác hóa độ chúng sinh. 
Riêng nhân dân Ấn Độ hiện đại thì đồng hóa Đa La Tôn với Mẹ Vũ Trụ và sùng kính Ngài qua ảnh tượng Phật Mẫu ‘Sàkti. 
Theo truyền thống Hoa Văn thì Đa La Tôn được xưng là: Đa La Bồ Tát, Đa Lợi Bồ Tát, Đa Lệ Bồ Tát, Đa Lợi Tôn, Đạt Ma Đa La (Dharma Tàrà – Pháp Cứu Tôn), Thánh Đa La Bồ Tát (Àrya Tàrà Bodhisatva) và xưng là Thánh Cứu Độ Phật Mẫu (Àrya Tàrà Buddha Màtà). 
Hiện đồ Thai Tạng Giới Man Đà La (Garbha Dhàtu manïdïala) ghi nhận rằng: Đa La Tôn  có vị trí ở hàng thứ nhất, phương bên phải (phương Tây) của Quán Tự Tại trung Quán Âm viện – Do Tôn này chủ về 02 đức: Đại Bi (Mahà Kàrunïa) và Hàng Phục (Abhicàruka) nên được xem là Phật Mẫu (Buddha màtrï) của Liên Hoa Bộ và được tôn xưng là Đa La Phật Mẫu. Ngoài ra trong Quán Âm viện còn ghi nhận thêm 04 vị Đa La Bồ Tát tu trì thành tựu pháp Quán Âm là: 
1.  Thanh Cảnh Quán Âm (Nìlakanïthì) đại chú của tôn này được 
truyền tụng là Đại Bi Tâm Đà La Ni (Mahà Kàrunïika Citta Dhàranïì) 
2.  A Ma Tai Quán Âm (Avatai _Nguồn hạnh phúc) 
3.  Hương Vương Quán Âm (Gandha Ràja) 
4.  Thủy Nguyệt Quán Âm (Udaka Candra) 
Kinh Bất Không Quyến Sách (28) ghi là: Đa La Bồ Tát cũng gọi là Thấp Phế Đa (‘sveta) tức Bạch Thân Quán Thế Âm Bồ Tát và cũng gọi là Tỳ Câu Đê Quán Thế Âm Bồ Tát (Bhrïkutïi – Phẫn Nộ Mẫu ). 
Kinh Đại Phương Quảng Man Thù Thất Lợi, phẩm Quán Tự Tại Bồ Tát ghi là: 
“Quán Tự Tại Bồ Tát nhập vào Tam Muội Phổ Quang Minh Đa La, dùng sức Tam Muội nên từ con mắt phóng ra ánh sáng lớn và Đa La Bồ Tát liền nương theo ánh sáng đó mà sinh ra – Ánh hào quang của Đa La Bồ Tát chiếu soi tất cả chúng sinh giống như lòng thương sót của người mẹ hiền nhằm cứu độ chúng sinh xa lìa biển khổ sinh tử”. 
Do ý nghĩa này mà Tàrà được dịch là con mắt, con ngươi hay Mục Quang (Tàrà jvala) – Lại nữa, lúc chư Phật Bồ Tát mở mắt thì gọi là Mắt hoa sen xanh từ bi nên Tôn này được xem là thân sở biến của Hoa sen xanh (Nìlapadma) và có danh hiệu là Phật Thanh Liên Từ Bi Nhãn . Từ đó Tàrà còn được dịch là Diệu Mục (Con Mắt Màu Nhiệm). 
Kinh Bất Không Quyến Sách (Hạ) ghi là: “Đa La Thiên Nữ Mục Ngôn Đồng Tử” Kinh Tô Ma Hô (Hạ) cũng ghi là: “Đa La là Diệu Mục Tinh” Ngoài ra Mật Giáo còn xưng tán Đa La qua danh xưng Bạch Cứu Độ Phật Mẫu tức vị Phật Mẫu có thân màu trắng tinh chuyên cứu tế thế gian. 
Theo Thầy truyền thì dùng Đại Từ Bi của chư Phật Bồ Tát mà nhiếp Quán Âm, nên các bậc Đại Bi của Quan Âm đều là Đa La Bồ Tát như trong Đại Bản có ghi: “500 Đa La Tôn đều sinh ra từ mắt của Quán Âm nên là Tam Muội Tỷ Muội (Chị Em gái) của Đức Phật A Di Đà (Amitàbha Buddha)”. 
Theo nghĩa rộng thì TA (ᚌ) có nghĩa là Thể Như Như, vì bên cạnh có ký hiệu hiển thị cho chữ A (゚) mà thành TÀ (ᚍ) tức là Hạnh của Như Như. 
Chữ RA (ᜐ) có nghĩa là Trần  (bụi bặm) mà 6 Trần hiển thị cho biển lớn sinh tử tức là nơi mà hết thảy chúng sinh bị chìm đắm không  thấy bến bờ. Do bên cạnh có ký hiệu chữ A (゚: có nghĩa là xưa nay vốn chẳng sinh) nên RÀ (ᜑ) tức là Thật tướng của 06 Trần. 
Do đó, TÀRÀ là quán LÝ TÍNH của Như Như cho nên  tất cả các Trần đều được biết Như Thật  - Từ đấy vượt qua biển lớn sinh tử đi đến bờ giải thoát bên kia – chính vì thế mà TÀRÀ được dịch ý là Cứu Độ hay Cực Độ và mọi người thường xưng tán Ngài qua câu “Namo Àrya Tàrà Jvala Bodhisatvàya mahà satvàya” (Quy mệnh Thánh Mục Quang Bồ Tát Ma Ha Tát).  
Riêng Mật Giáo Nhật Bản với nhân gian Trung Hoa thường xưng tụng Đa La Tôn là một trong 33 vị Quán Âm và sùng bái rộng rãi. Theo truyền thống Tây Tạng, vào vô lượng kiếp trước có thế giới tên là Tụ Quang, 
khi ấy có Đức Phật ra đời hiệu là Cổ Âm Như Lai (Dunïdïbhi Svara Tathàgata) – Bấy giờ có cô công chúa tên là Bát Nhã Nguyệt (Prajnõà Candra) có tuệ căn, kính lễ Tam Bảo – sau một quá trình cúng dường các Đệ tử của Đức Phật với các bậc Thượng Tọa, nàng Bát Nhã Nguyệt phát thệ nguyện rằng: “Từ thế giới này cho đến khi thế giới tận, hư không giới tận – tôi dùng thân nữ để độ chúng sinh” – Sau khi phát nguyện xong, Bát Nhã Nguyệt liền ngồi quán 06 căn cho đến lúc được tâm khai, chứng nhập vô sinh pháp nhẫn thành Phật Mẫu độ tất cả Hữu Tình – Đây chính là tiền thân của Độ Mẫu Tàrà. 
Theo truyền thống khác, trong khi quán sát để cứu độ các chúng sinh đang trầm luân nơi 06 nẻo luân hồi, Đức Quán Thế Âm Bồ Tát chợt xúc động khóc thương cho chúng Hữu Tình nên giọt nước mắt rơi ra từ mắt phải biến thành Bạch Độ Mẫu (Sgrol – Ma dhar - Po) còn giọt nước mắt rơi ra từ mắt trái biến thành Lục Độ Mẫu (Sgrol – Ma Ljan - Khu) chuyên cứu khổ độ sinh cho chúng sinh – Do vậy, các vị đạo sư Mật Giáo Tây Tạng cho rằng Đa La Tôn là thân hóa hiện của Quán Thế Âm Bồ Tát nên xung là Đa La Tôn Quán Âm hay Đa La Quán Âm. Và lưu truyền pháp của 21 Độ Mẫu tượng trưng cho 21 hóa thân của Quán Thế Âm Bồ Tát, gồm có: 
1.  Lục Độ Mẫu. 
2.  Cứu Tai Nạn Độ Mẫu. 
3.  Cứu Thủy Tai Độ Mẫu. 
4.  Cứu Địa Tai Độ Mẫu. 
5.  Cứu Hỏa Tai Độ Mẫu. 
6.  Cứu Phong Tai Độ Mẫu. 
7.  Tăng Phước Tuệ Độ Mẫu. 
8.  Cứu Thiên Tai Độ Mẫu. 
9.  Cứu Binh Tai Độ Mẫu. 
10.  Cứu Ngục Nạn Độ Mẫu. 
11.  Cứu Đạo Nạn (Nạn Trộm Cướp) Độ Mẫu
12.  Tăng Uy Quyền Độ Mẫu. 
13.  Cứu Ma Nạn Độ Mẫu. 
14.  Cứu Súc Nạn Độ Mẫu. 
15.  Cứu Thú Nạn Độ Mẫu. 
16.  Cứu Độc Nạn Độ Mẫu. 
17.  Phục Ma Độ Mẫu. 
18.  Dược Vương Độ Mẫu. 
19.  Trường Thọ Độ Mẫu. 
20.  Bảo Nguyên Độ Mẫu. 
21.  Như Ý Độ Mẫu. 
Trong 21 Độ Mẫu (Sgrol – Ma) thì Đa La Tôn hiện tướng Thiếu nữ, toàn thân màu xanh lục nên được xưng là Lục Độ Mẫu. Ngoài ra, các vị Lạt Ma Tây Tạng còn truyền dạy cách tu 21 vị Cứu Độ Phật Mẫu của Ấn Độ là:  
1.  Cứu Độ Tốc Dũng Mẫu (Sgrol – Ma – Myurmadpahï – Mo, tên phạn là: Tàre Ture vìre). 
2.  Bách Thu Lãng Nguyệt Mẫu (Ston – Kahïi zlabakun – Tugsal – Brgya, tên phạn là: ‘sata –  ‘sarac – candra). 
3.  Tử Ma Kim Sắc Mẫu (Ser – Sdechu, tên phạn là: Kanaka - Nìlâbja). 
4.  Như Lai Đỉnh Kế Mẫu (De – bshin – g’segs – pahïi – gtsug – tor, tên phạn là: Tathàgatôsïnïìsïa). 
5.  Đát La Hồng Tự Mẫu (Tàrà Hùmï  yi – ge, tên phạn là: Tuttàra – Hùmï - Kàra). 
6.  Phạn Thích Hỏa Thiên Mẫu (Brgya – byin melha – Tshans – pa, tên phạn là:’sakrânala - Brahma). 
7.  Đặc La Đê Phát Mẫu (Trad – Cis _ Bya – Dan phatï, tên phạn là: Tradïiti phatï - Kàra). 
8.  Đô Lị Đại Khẩn Mẫu (Tures – hïjìgs – pachen – mo, tên phạn là: Ture Mahà - Ghore). 
9.  Tam Bảo Nghiêm Ấn Mẫu (Dkon – Mchog – Gsum mïtshon – phyag – rgya, tên phạn là: Tri – Ratna - Mudrânka). 
10.  Uy Đức Hoan Duyệt Mẫu (Rab –  tu – dgahï – babrdsid – ba, tên phạn là: pramuditâtïopa). 
11.  Thủ Hộ Chúng Địa Mẫu (Sa – Gahïi skyon – pa, tên phạn là: Samanta – bhù – pàla). 
12.  Đỉnh Quan Nguyệt Tướng Mẫu (Zla – bahïibum – bus – dpral – rgyah, tên phạn là:’sikhanïdïa – khanïdïêndu). 
13.  Như Tận Kiếp Hỏa Mẫu (Bskal – bahïi – thamahïi – me – ltar, tên phạn là: Kalpânta - hutabhug). 
14.  Thủ Án Đại Địa Mẫu (Sa – ba, tên phạn là: Kara - Talâghàta). 
15.  An Ẩn Nhu Thiện Mẫu (Bde – Ma dgl – Mashi – Ma, tên phạn là:’sive ‘subhe’sànte). 
16.  Phổ Biến Cực Hỷ Mẫu (Kun – nas – bskor –  rab – dgahï – ba, tên phạn là: pramuditàbandha). 
17.  Đô Lị Ba Đế Mẫu (Turi – Sha – pa, tên phạn là: Ture padâghàta). 
18.  Tát La Thiên Hải Mẫu (Lha – yi – mtsho, tên phạn là: Sura – sarâkàra). 
19.  Chư Thiên Tập Hội Mẫu (Lha – yi – tshogs – rnams – rgyas – ma, tên phạn là: Sura – ganïâdhyaksïa). 
20.  Nhật Nguyệt Quảng Viên Mẫu (Nima – zla – ba – rgyas – ma, tên phạn là: Candrârkâ – samïpùrnïa). 
21.  Cụ Tam Chân Thật Mẫu (De – nid gsum – Rnam bhod – pa, tên phạn là: Tri – Tattva – vinyàsa). 
Từ 21 vị Cứu Độ Phật Mẫu nói trên, các vị Lạt Ma Tây Tạng đã ghi nhận thành 21 hóa thân của Đa La Tôn là: 
1.  Pravìra – Tàrà (Thắng Dũng Đa La). 


2. Candra - Kanti - Tàrà ( Thu Nguyệt đà la ).

3. Kanaka - Varna - Tàrà ( Kim Sắc Đà La ).


4. Usnisa - Vijaya - Tà rà ( Tối Thắng Đỉnh Đà la ).

5. Hùm - Sarva - Nadini - Tàrà ( Hồng Nhất Thiết Âm Thanh Đà La ).


6. Trailokia - Vijaya - Tàrà -( Thắng Tam Đế Đà La ).

7. Vàdi -Pramardaka -  Tàrà -( Tồi Hoại Tranh Luận Đà La ).

8. Màra - Sudanà - Vasita - uttama - da - Tàrà ( Tội Hoại Ma Chướng Cập Thí Thắng Thượng Lực Đà La ).

9. Vadara - Tàrà ( Dữ Nguyện Đà la ).

10. Sôka - Vina - Udana - Tàrà ( Tận Diệt Phiền não Đà La ).

11. Jagad - Vá sivipan - Nibrabhana - Tàrà ( Câu Triệu Hữu Tình Diệt Tận Ác Vận Đà La ).

12 . Kalyàna - da - Tàrà ( Thí cát Kháng Đà la ).

13. Paripàcaka - Tàrà ( Thục Quả Đà La ).

14. Bhrkutì - Tàrà ( Phẫn Nộ Đà la ).


15. Mahà - Sànti - Tàrà ( Đại Tịch Tĩnh Đa la ).

16. Ràga - Nisùdana - Tàrà ( Tồi Phá Tham Ái Đa La ).


17. Sukha - Sàdhans -  Tàrà ( Hỷ lạc Thành Tựu Đa La ).


18. Vijaya -TàRà ( Tối Thắng Đa La ).


19 . Duhkha - Dahana - Tàrà ( Tiêu Tận Khổ Não Đa La ).


20. Siddhi - Sambhava - Tàrà ( Thành Tựu Sinh Đa La ).


21. Paripùrna - Tàrà ( Thắng Mãn Đa la ).


          Ngoài 21 Tôn này  , các vị Đạo Sư Tây Tạng còn ghi nhận thêm danh hiệu Khadira Vanïi Tàrà (Khadira Thọ Lâm Đa La tức vị Tàrà của rừng cây Khadira) là thân chính của Lục Đa La, Ngài có thể đổi màu và thay thế cho vai trò của Dữ Nguyện Đa La .


  
Riêng Giáo đồ Phật Giáo Tây Tạng đồng hóa Đa La Tôn với Nam Hải Phổ Đà Sơn Quán Tự Tại Bồ Tát nên xưng tán thờ phụng Ngài qua danh hiệu Đa La Quán Tự Tại Bồ Tát. 
Manïdïala Ngũ Trí Như Lai của Mật Giáo Tây Tạng ghi nhận rằng: Đa La Tôn chính là Cứu Độ Phật Mẫu hiển thị cho Thành Sở Tác Trí của Bất Không Thành Tựu Như Lai (Amogha Siddhi Tathàgata) – Trí này nhằm kiện toàn sứ mệnh của chư vị Bồ Tát là thực hiện sự chứng ngộ hoàn toàn, chuyển 05 thức thân thành phương tiện thiện xảo, chuyển nghiệp thành duyên, chuyển ý niệm tư tưởng thành sự sáng tác sống động, chuyển khổ hạnh thành quả giải thoát – Biểu tượng của Trí này là ánh hào quang màu xanh lục huyền bí được kết tinh qua màu xanh Pháp Tính vũ trụ với màu vàng Từ Bi bình đẳng nhằm nuôi dưỡng xác thân và làm lắng dịu tâm hồn cho mọi chúng sinh đang chìm trong biển khổ đau – Đây cũng chính là năng lực gia trì (Adhisïtïhana) của chư Phật Bồ Tát phù hộ cho những chúng sinh có niềm tin chân thật vượt thoát mọi tai nạn khổ đau. Do ý nghĩa này mà Tàrà được tôn xưng bằng danh hiệu Pháp Cứu Tôn (Dharma Tàrà). 
Mật Giáo Tây Tạng thường minh họa 5 vị Tàra biểu thị cho những phương tiện khác nhau tương ứng với 5 vị Thiền Phật ở 5 phương là: 
_ Bạch Đa La (Sìtatàrà) ở phương trung ương: biểu thị cho Trí Tuệ siêu việt, tinh thần vô nhiễm, phương tiện của giải thoát. 
_ Lam Đa La (Ekajata:Nhất Kế, hay Ugratàrà:Uy mãnh Đa La) ở phương Đông: biểu thị cho tinh thần sung mãn, tâm tỉnh thức 
_ Hòang Đa La (Bhrïkutïi :Tỳ Câu Chi) ở phương Nam: biểu thị cho tinh thần thuần khiết, giác ngộ tâm linh. 
_ Xích Đa La (Kurukulla) ở phương Tây: biểu thị cho sức mạnh tình yêu từ Tàrà nguyên thủy, tinh thần phấn chấn, đời sống khổ hạnh. 
_Thanh Đa La (Syamatàrà) ở phương Bắc là Tàrà nguyên thủy: biểu thị cho tính sẵn sàng cứu khổ phò nguy, chuyển 5 giác quan  thành phương tiện thiện xảo, chuyển khổ hạnh thành giải thoát. 
Trong 5 vị Tàrà này thì nhân dân Tây Tạng  thường phụng thờ 2 vị Bạch Tàrà và Thanh Tàrà  
Do tín ngưỡng Tàrà phát triển rất mạnh trên đất nước Tây Tạng nên nhân dân Tây Tạng đã xưng tán hai vị Thứ phi của Nhà vua Khí Tông Lộng Tán (Srong – Tsan - Gampo) là: Văn Thành công chúa (con vua Đường Thái Tôn) là Bạch Đa La Bồ Tát và công chúa Xứ Nê Pan (Nepal) Ba Li Khổ Cơ (Bhrïkutïi) là Lục Đa La Bồ Tát. 
Tại Việt Nam, tín ngưỡng Tàrà phát triển rất chậm, hầu hết Giáo đồ Phật Giáo Việt Nam chỉ mường tượng Tàrà dưới hình bóng Đức Quán Thế Âm qua câu chú: “Án – Đa Lị , Đa Lị, đốt đa lị, đốt đốt đa lị, đốt lị ta bà ha” được ghi nhận trong nghi thức tụng niệm kinh Diệu Pháp Liên Hoa, Phẩm Phổ Môn. 
Thời gian gần đây, Việt Nam mới  ghi nhận được pháp tu Tàrà qua Đa Rị Tâm Kinh do Sa Môn Trí Thông truyền thụ và Pháp “ Tu Trì Thánh Cứu Độ Phật Mẫu” do Kim Cương Thượng Sư Tây Khang NẶC NA Hô Đồ Khắc Đồ truyền thụ. 
Tại Âu Mỹ, tín ngưỡng Tàrà tuy mới phát triển nhưng lan tỏa rất nhanh, nhiều nhà nghiên cứu Âu Mỹ đã  tìm hiểu và ghi chép rất kỹ các kinh điển liên quan đến Tàrà. 
Trong đó, chúng tôi dùng một số tư liệu từ các quyển “In Praise Of Tara – Songs to the Saviouress” của Ông Martinwillson, “The cult of Tàrà – Magic and Ritual in Tibet” của Stephan Beyer, “Thiền định trên Tantras bậc thấp” của Dendun Drub để biên soạn thêm cho tập sách này. 
Tóm lại, hệ thống  tín ngưỡng Đa La Bồ Tát phát triển rất mạnh ở Ấn Độ, Tây Tạng, Mông Cổ, Trung Hoa, Nhật Bản… và mọi hệ thống Mật Giáo đều xem Đa La Tôn là biểu tượng về năng lực Đại Bi “Ban Vui, Cứu Khổ” của chư Phật Bồ Tát nên thường xưng tán Ngài qua bài kệ trong Kinh “Quán Tự Tại Bồ Tát Thụ Ký” là: 
Đấng Đại Bi Đa La 
Từ Bi của tất cả 
Trời, Người với Dạ Xoa 
Đều là con của Ngài 
Nên hiệu Thế Gian Mẫu 
Và cho xuất Thế Gian. 
Quán Âm, Đại Thế Chí 
Kim Cương với Thiện Tài 
Văn Thù, Tu Bồ Đề 
Từ Thị với Hương Tượng 
Nguyệt Quang, vô tận ý 
Vô cấu, Hư Không Tạng 
Diệu Nhãn với Đại Bi 
Duy Ma, Đẳng Bồ Tát 
Là con của Đa La 
Các Như Lai ba đời  
Tất cả Ma Ha Tát 
Không ai không là con. 
Đều xưng là MẸ TA 
Nuôi dưỡng các Hữu Tình 
Ôm nâng như Đại Địa 
 Do ý nguyện muốn góp chút ít công sức cho sự phát triển của Phật Giáo Việt Nam, anh em chúng tôi không ngại tài hèn sức kém đã cố gắng sưu tập các tài liệu Kinh bản có liên quan đến pháp tu Tàrà và cùng nhau soạn dịch thành tập ghi chép này. Điều không thể tránh khỏi là bản ghi chép này vẫn còn nhiều khiếm khuyết.Ngưỡng mong các bậc Cao Tăng, chư vị Đại Đức, Bậc Long Tượng của Mật Giáo hãy rũ lòng Từ Bi chỉ bảo và sữa chữa nhằm giúp cho bản ghi chép này được hoàn hảo hơn. 
Mọi Công Đức có được trong tập ghi chép này, chúng con xin kính dâng lên Hương Linh của Thân Phụ (Nguyễn Vũ Nhan) và Thân Mẫu  (Vũ Thị Ni)  là hai bậc ân nhân đầu tiên của chúng con. 
Chúng tôi xin chân thành cám ơn Thầy Pháp Quang đã và đang trợ giúp cho chúng tôi các phương tiện tìm hiểu Chính Pháp Giải Thoát của Đấng Phật Đà. 
Tôi xin cám ơn Sư Cô Như Hạnh , em Hậu ,  các con tôi đã không ngại khó nhọc đánh vi tính một số Kinh bản và sao chép các hình ảnh chèn vào tập ghi chép này. 
Tôi cũng xin cảm ơn người bạn đường Ngọc Hiếu (Vũ Thị Thanh Hà) đã cam chịu mọi khó khăn trong cuộc sống để hỗ trợ cho tôi vững bước trên con đường tìm hiểu Phật Pháp. 
Nguyện xin cho các bậc ân nhân của chúng tôi và toàn thể các Hữu Tình đều sớm được vượt qua mọi ách nạn khổ đau và đạt được hạnh phúc cao thượng trong Giáo Pháp Giải Thoát của Đấng Phật Đà. 

Mùa Đông năm Bính Tuất (2006) 
Huyền Thanh (Nguyễn Vũ Tài) kính ghi .
dienbatn giới thiệu.
Xem chi tiết…

THỐNG KÊ TRUY CẬP

LỊCH ÂM DƯƠNG

NHẮN TIN NHANH

Tên

Email *

Thông báo *