NGÔI MỘ TRẠNG TRÌNH NGUYỄN BỈNH KHIÊM . BÀI 1.

1/10/2017 |
NGÔI MỘ TRẠNG TRÌNH NGUYỄN BỈNH KHIÊM . BÀI 1.

( Tư liệu nghiên cứu )
Ngôi mộ Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm .
( Chép lại từ https://giaovn.blogspot.com để giữ làm tư liệu ).
Ngôi mộ Nguyễn Bỉnh Khiêm mới phát lộ (bài Nguyễn Đình Minh)
Câu chuyện mới ở Hải Phòng.
Đầu tiên là một bài chép nguyên về từ trang Nguyễn Đình Minh.
Tư liệu bổ sung (nếu có) sẽ dán vào phía dưới.
---
Tháng 1 năm 2017
Ngôi mộ Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm và tôn tộc nhà Mạc - Hé mở độ tin cậy từ những căn cứ khoa học
Bài đã in trên Báo “Kinh doanh & Pháp Luật” số ra ngày 30.11.2016
Sự kiện những ngôi mộ cổ phát lộ ở xã Cộng Hiền (Huyện Vĩnh Bảo TP. Hải Phòng và trong số ấy có 1 tấm quách viết nhiều chữ “Nho”, đặc biệt ở đầu quách có 3 chữ thì 2 chữ rất rõ là “Nguyễn Bình”… Đã dấy lên đồn đoán liệu đó có phải là phần mộ Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm? Phóng sự dưới đây, được viết về vấn đề này không dựa trên những vấn đề tâm linh mà căn cứ vào các chứng cứ khoa học, văn học, lịch sử và bằng phân tích logic.

 1.Tấm quách 1700 năm tuổi nói gì?

Ngày 7.4.2014, tại khu sân vườn cạnh bờ ao nhà cô Bùi Thị Hiền, nhân dân thôn Hạ Đồng xã Cộng Hiền (Huyện Vĩnh Bảo – Hải Phòng), đã khai quật nhiều ngôi mộ cổ. Điều đặc biệt là những ngôi mộ này có những đặc điểm lạ và chứa di vật bên trong bất bình thường.
Khởi động hành trình giải mã
Trong văn số 16 ngày 15.5.2014, của Viện Nghiên cứu và Ứng dụng tiềm năng con người (sau khảo sát thực tế), gửi UBND xã Cộng Hiền, viết: “Đây là những ngôi mộ cổ và những người nằm trong đó có thể là những bậc danh nhân”. Tiếp đó, ngày 15.10.2014, đoàn cán bộ của Viện khảo cổ, sau khi nghiên cứu các vật thu được bởi Viện Nghiên cứu và Ứng dụng tiềm năng con người, đã có cuộc làm việc trực tiếp tại khu vực khai quật. Tại đây, các nhà khoa học đã kiểm tra xem xét, hội thảo tại chỗ nhiều nội dung, nhưng tập trung vào các hiện vật khai quật được bao gồm: 2 tấm quách bằng gỗ, 1 tấm còn khá nguyên vẹn, 1 chiếc tiểu gốm có hoa văn lạ và 9 chiếc cúc vàng hình nụ chè.
Kích cỡ và lớp sơn của chiếc quách khi khai quật, theo những người có mặt trực tiếp là ông Phạm Văn Thường (Y sỹ Phòng khám đa khoa xã Cộng Hiền), ông Phạm Đình Lời (Bí thư chi bộ thôn Hạ Đồng), vợ chồng ông bà Trần Giòn (Ngay sát khu khai quật)…, đều khẳng định, khi mới đào lớp sơn đỏ au và mùi thơm thoảng bốc lên. Kích cỡ thiết kế  theo quy cách: 1,26 m x 0,30 m x 0,33 m. Các tấm thiên, địa và xung quanh được ghép mộng và chốt bởi những “thẻ” gỗ có đầu vót nhọn. Tiến sĩ khảo cổ học Lê Đình Phụng, khẳng định 3 vấn đề về tấm quách: chất liệu gỗ Ngọc Am, màu sơn vỏ quách và các quy cách thiết kế, đặc biệt kiểu mộng ghép… theo các chỉ số phong thủy phù hợp với văn hóa mai táng người thuộc tầng lớp quý tộc mất vào giai đoạn cuối thế kỷ 16 và thế kỷ 17.
Ngay sau đó, PGS.Tiến sỹ Nguyễn Lân Cường (Tổng thư ký Hội Khảo cổ Việt Nam) đã thực hiện tổ chức việc kiểm định niên đại tấm quách tại Phòng thí nghiệm Thủy văn đồng vị, thuộc Trung tâm  hạt nhân thành phố Hồ Chí Minh. Theo đó, mẫu gỗ lấy từ tấm quách (Mẫu gốc ký hiệu No.­1 NBK; Mẫu kiểm định số 02- KC/ 2014 ngày 10/7/2014) đã xác định niên đại gỗ 1700 năm, sai số 75 năm. Gỗ Ngọc am là loại gỗ quý hiếm (Ngọc am, nghĩa là ngọc ở dưới đất). Cây gỗ là cây Hoàng đàn, họ thông có thể sống nghìn năm tuổi, khu vực sinh trưởng là vùng núi tai mèo heo hút Hà Giang. Tuy nhiên chỉ khi nó được vùi lấp xuống đất từ vài trăm năm trở lên, khi toàn bộ dầu trong thân tụ vào lõi và tỏa mùi thơm thì mới được gọi là Ngọc am. Như vậy từ khi cây bị đốn hạ (chết) đến lúc “hóa” Ngọc Am, tuổi đời của gỗ đã cả nghìn năm (theo phương pháp phân tích niên đại C-14). Người ta chọn lõi gỗ này làm ván khi hung táng, hoặc làm quách sau khi cát táng, bởi chất dầu từ gỗ có thể giữ da thịt hoặc xương cốt bền vững do nó có 1 hợp chất thành phần chủ yếu là dầu thông làm vô trùng tuyệt đối. Tác giả Trần Lương trên Báo Công lý (số 18/2/2012), khi điều tra tại Hà Giang cho biết từ xưa ở đây có nghề khai thác gỗ Ngọc am bán cho các quý tộc ở Trung Quốc để làm quan tài chôn người chết. GS Đỗ Văn Ninh (Viện khảo cổ) cũng thừa nhận: người Trung Quốc gọi nó là san mộc (shamou). Gỗ quý này bền thơm và có tính sát khuẩn cao nên góp phần bảo quản thi hài. Còn tác giả Phạm Ngọc Dương trên VTC News buổi phát 7/9/2011 trong bài “Phát hiện bất ngờ: Hà Giang vẫn còn cây Ngọc am”, theo tác giả này tra cứu thì trong lịch sử, vua Tự Đức từng biếm chức viên quan Án sát tỉnh Quảng Bình là Nguyễn Khắc Nguyên vì vị này dám lén dùng tinh dầu ngọc am để ướp xác cho mẹ.
Ba điều chứng minh, một điều hé lộ
Những nội dung trên chứng minh 3 điều: thứ nhất tấm quách gỗ Ngọc am cực kỳ quý hiếm với niên đại 1700 năm là phù hợp với thời điểm khoảng 500 - 600 năm trở lại đây tương ứng thời kỳ nhà Mạc, vì niên đại được tính từ lúc cây được chặt khỏi gốc (hoặc chết) và vùi trong đất; trong khi trước đó, khu đất tại thôn Hạ Đồng hiện nay chỉ là vùng nước ngập đang bồi, ven sông hoang vắng có thể chọn làm địa điểm chôn dấu bí mật lý tưởng. Thứ 2, người được dùng nó làm quách mai táng không phải người thường dân, thậm chí không phải quan lại cỡ nhỏ. Nếu suy xét vị trí địa lý huyện Vĩnh Bảo trong điều kiện đường xá xa xôi, hiểm trở ở thời điểm đó, thì việc người thường dân lên Hà Giang khai thác gỗ này làm quách để dùng là điều không thể. Do đó gỗ phải được ban phát hoặc tặng cho những mệnh quan triều đình, mà người như vậy quê ở huyện Vĩnh Bảo có mặt trong Triều, thời điểm này không phải là nhiều. Thực tế, theo thống kê của Phòng Văn hóa Thông tin huyện Vĩnh Bảo, trong số 19 vị đỗ đại khoa thời khoa bảng phong kiến, thì có 15 vị đã xác định rõ tham gia các chức vụ trong triều đình các thời kỳ, sớm nhất là Hoàng Giáp Phạm Đức Khản (Hội Am- Cao Minh đỗ khoa thi Mậu Thìn 1448) giữ chức Tả Thị Lang và sau cùng là Tiến Sĩ Nguyễn Duy Tinh (Tạ Xá, Tứ Kỳ (cũ) Vĩnh Lại) đỗ khoa Ất Mùi 1535 giữ chức Thừa Chính Sứ. Các vị này đều  đã được các dòng họ hoặc nhân dân bản quán xác định phần mộ, duy nhất chỉ còn Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm là ngôi mộ của Người vẫn chỉ tồn tại trong truyền thuyết.
Điều đặc biệt, vào ngày 10.8.2016, khi trực tiếp khảo sát đo đạc tấm quách đang quàn tại 59 Tràng Thi Hà Nội, Kiến trúc sư Lê Kiên (cộng tác viên Viện TNCN) đã nhận thấy tấm địa được làm dày bất bình thường, khi xem xét kỹ, sau khi đất bùn khô bong ra xuất hiện 1 đường rãnh chạy vòng vòng quanh chu vi có độ sâu lấn vào gỗ chừng 2mm. Dấu hiệu này cho thấy nghi vấn là tấm địa được làm bởi 2 lớp gỗ; Và người thiết kế dường như cố ý để lộ cho hậu sinh lối tìm vào các bí mật bên trong. Khi phát biểu về điều này, TS Lê Đình Phụng cho hay: thường thì các bậc tôn quý cài các thẻ tre, thẻ bạc hoặc “Kim sách – thẻ vàng”, tức là những tấm thẻ ghi lại các dấu hiệu báo cho người khai quật biết về người nằm trong quách. Đây là trường hợp đặc biệt cần nghiên cứu mở đáy quách để phát hiện tiếp.

 2. Bí ẩn những dòng chữ Hán

Ngoài những chi tiết về cấu trúc, lớp sơn đặc biệt nói ở kỳ trước, còn có một chi tiết vô cùng quan trọng, đó là những chữ  Nho viết trên tấm quách. Những chữ còn đọc được hé mở thông tin về chủ nhân của nó.
Xác nhận của cụ Đồ Nho 91 tuổi

Ông Phạm Văn Thường (Y sĩ  Phòng khám đa khoa Cộng Hiền), người trực tiếp cọ rửa tấm quách kể: Tôi thấy toàn bộ tấm quách đều có chữ Nho viết trên nền đỏ thẫm có màu đen hơi ánh vàng, khi cọ rửa bị bong tróc một số chữ, nhưng rất tiếc không một ai biết đọc nên đành bỏ qua, tấm quách do  để khô nên chữ chuyển trắng mờ dần. Lời kể của Y sĩ  Phạm Văn Thường có tới trên 20 người sẵn sàng ký vào giấy làm chứng. Khoảng 15 ngày sau cụ Phạm văn Duyệt 91 tuổi (thôn Ngãi Am, xã Hòa Bình, huyện Vĩnh Bảo) được mời đọc tấm quách, xác định “Tôi thấy có rất nhiều chữ, ở phần đầu quách có 3 chữ to nhưng 1 chữ bị mờ nên chỉ đọc được 2 chữ “Nguyễn Bình”. Tấm quách tiếp tục bị phơi khô tới 32 ngày (Từ 8.4 đến 10.5 năm 2014), nên các chữ bị bay mất dần. Ở thời điểm này, anh Ngô Duy Hiển (Đại học Dân lập Hải Phòng) đã dùng iPad chụp lại, và chính anh đã “vẽ” lại các chữ theo hình thức mô phỏng các nét cấu tạo của từng chữ một để nhà thư pháp Lê Thiên Lý nghiên cứu. Theo hướng này, phần nhiều chữ Nho nhất trên mặt quách ghép được thành 1 bài thơ 20 chữ*.  Xác định những chữ trên quách chính là “tấm minh tinh” theo gợi ý của Tiến sỹ Lê Đình Phụng, chúng tôi đã  nhờ cụ Lương Bắc Tưởng (người Hoa) số nhà 689 lô 2, phường Đông Khê, đường Lê Hồng Phong 85 tuổi giỏi chữ Hán Nôm  đến xem trực tiếp. kết quả  đã nhìn rõ 2 chữ còn sót lại là 2 chữ “Kim lan” (bông lan vàng).
Như vậy, nếu coi như độ tin cậy của bài thơ mà anh Ngô Duy Hiển và nhà thư pháp Lê Thiên Lý góp sức nghiên cứu hợp thành là không cao; thì vẫn còn tồn tại 4 chữ do 2 cụ đồ nho khẳng định. Vấn đề là 4 chữ ấy có ý nghĩa gì, và chúng có quan hệ như thế nào với bài thơ 20 chữ ý nghĩa chỉ rõ Trạng Trình nguyễn Bỉnh Khiêm chính là chủ nhân của tấm quách?

 Bên trong hư ảo truyền thuyết chứa cốt lõi lịch sử

Truyền thuyết dân gian huyện Vĩnh Bảo từ xa xưa đã truyền khẩu câu đồng giao về nơi yên nghỉ của Trạng Trình “Ba Ra trông sang, Ba Đồng ngoảnh lại, táng tại Ao Dương”. Tuy truyền thuyết có yếu tố kỳ ảo, song xét theo nguyên lý khoa học, truyền thuyết bao giờ cũng bắt nguồn từ cốt lõi lịch sử. Theo đó cửa sông Ba Ra nằm chếch phía Đền Trạng Trình hiện tại khoảng hơn 1 Km, dòng sông này có luồng chảy về khu vực Thượng Đồng và Hạ Đồng thuộc xã An Hòa và Hạ Đồng  thuộc xã Cộng Hiền (Ba Đồng), tại đây có 1 lạch sông nhỏ dẫn vào 1 chiếc ao đáy phủ rêu xanh 4 mùa, chiếc ao đó của ông Trần Rường (nguyên Bí thư huyện ủy huyện Vĩnh Bảo, bố chồng cô Hiền đã nói ở trên). Chữ “Rường” là phát âm ngọng phụ âm “d” rất phổ biến của cư dân Vĩnh Bảo, như vậy Ao Dương, có phải là cách nói bí hiểm của Cụ Trạng Trình? Tất cả những địa danh này đều trên địa phận huyện Vĩnh Bảo. Vì vậy giả thuyết đưa ra là người ta đã cải táng phần mộ hung táng ở khu vực cửa Ba Ra, xuôi theo sông này và chôn mộ cát táng tại Ao Dương. Nếu xét riêng về khái niệm “Ao”, thì chi tiết này tăng tính hợp lý, bởi nếu táng ở đồng thì sẽ có khái niệm là “Đầm” ; Theo đó “Ao” là khái niệm nội tiếp trong/hoặc ven làng – khu quần cư của người dân. Tất nhiên có thể là “Hồ”, song theo Bách khoa toàn thư mở Wikipedia chú thích từ Brown, A.L (1987) thì ao là nơi mà ánh sáng có thể soi qua tầng nước xuống tận đáy và hồ là nơi mà ánh sáng không soi tới đáy được. Nói cách khác hồ có độ sâu cao hơn và điều này cho thấy chiếc Ao Dương nhỏ và nông tại khu vực khai quật là chiếc ao đích thực.
Mới đây, ngày 7.10.2016, Viện Nghiên cứu và ứng dụng tiềm năng con người, sau gần 2 năm nghiên cứu đã tiếp tục gửi công văn Số: 98/ VTNCN, gửi UBND thành phố Hải Phòng, trong đó có viết: “Từ tháng 4 năm 2014, sau khi gia đình bà Hiền và bà con trong xã tìm thấy trong sân gạch nhà bà Hiền một ngôi mộ có nhiều đặc điểm lạ, Viện Nghiên cứu và Ứng dụng tiềm năng con người đã tiến hành khảo sát, nghiên cứu. Viện đã mời các nhà Hán Nôm, khảo cố học tham gia nghiên cứu, phân tích niên đại quách gỗ, mời những người có khả năng đặc biệt khảo sát và cung cấp thông tin. Viện đã có công văn gửi uỷ ban Nhân dân xã Cộng Hiền đề nghị có biện pháp bảo vệ ngôi mộ cổ…” và đề nghị thành phố Hải Phòng vào cuộc. Nội dung công văn cho thấy sự quan tâm đặc biệt của các nhà khoa học về ngôi mộ cổ này.

 3. Mảnh vườn quần tụ hàng chục ngôi mộ cổ .

Trong quá trình khai quật, người dân đồng thời phát hiện cùng một lúc nhiều ngôi mộ, chúng tập trung dường như có ý thức từ trước vào một khu vực. Trong số 18 ngôi mộ thì có tới hàng chục ngôi mộ được Viện Nghiên cứu và Ứng dụng tiềm năng con người cho rằng đó là những ngôi mộ cổ.


Hoa văn thời Mạc và 9 chiếc cúc áo Vua?

 Trong tập hợp các ngôi mộ nói trên, đáng chú ý là ngay cạnh tấm quách vừa nói còn có 1 tấm quách khác tương tự và 01 chiếc tiểu gốm. Những người khai quật trong đó Bác sĩ Thường cho biết, khi lật các tấm thiên và phần nắp đậy chiếc tiểu gốm, họ có cảm giác như cả 2 đều phủ lớp gì đó óng ánh phủ lên”.  Sau khi làm thủ tục rửa xương ở tám quách gỗ thứ 2 này, người dân thu được 09 chiếc cúc màu vàng. Cúc được gia công hình nụ chè, rỗng nhẹ, bề mặt có nét kẻ hoa văn tinh xảo. Thạc sỹ Phan Đăng Thuận hiện công tác tại Viện Bảo tàng lịch sử, một thành viên của Mạc tộc Việt Nam, khi xem những chiếc cúc vàng hình nụ chè từ nhà thơ Nguyễn Thụy Kha (người giữ 1 chiếc) cho biết, chỉ có Vua là người duy nhất được mặc áo cúc vàng với số lượng 9 chiếc (Cửu đỉnh) biểu tượng của ngôi cao nhất. Số 9 được sùng bái, tôn thờ và gần như trở thành một triết thuyết cho các triều đại ở Trung Quốc và Việt Nam có lẽ là từ sự ảnh hưởng của Kinh dịch, dựa trên thuật luận số. Nó tượng trưng cho Trời, ngày sinh của Trời là ngày 9 tháng Giêng, hoàng đế lại là chân mệnh thiên tử, con trời nên số 9 được ghép cho ngôi vị của vua là vì thế. Tất cả các đồ dùng trong cung đình cùng dùng số 9 để đặt tên như cửu long bôi (9 cốc rồng), cửu đào hồ (ấm 9 quả đào), cửu long trụ (cột 9 rồng)…
..Hiện những chiếc cúc vẫn được lưu giữ, chỉ có 01 chiếc theo tâm linh, người dân đã bỏ lại trong cỗ tiểu mới và chôn cất cùng với phần xương.
Còn chiếc tiểu gốm, xung quanh có nhiều loại hoa văn, trong đó có hoa văn hình con nghê. Kiến trúc sư Lê Kiên khẳng định: tôi đã tra cứu những hoa văn trên chiếc tiểu gốm và so sánh nó với một số hình hoa văn khác trong các hình chụp hoa văn cổ và các hoa văn khác ở các công trình kiến trúc hiện còn tại Việt Nam thời kỳ cuối triều Mạc, thì thấy có sự tương đồng rõ nét. Mặt tiểu được đậy bởi 03 viên gạch có 3 màu khác nhau: xanh, đỏ, nâu ; trên mặt những viên gạch này có những chữ Nho. Tuy nhiên hiện nay chưa đọc được, vì lý do tâm linh người dân đem chôn lại và xây mộ ngay trên địa điểm khai quật.
Từ hiện vật này cho thấy rõ ràng không phải đây là những ngôi mộ thường dân. Nhiều khả năng là mộ vua Mạc hoặc bậc tôn quý triều Mạc. Nhưng tại sao những ngôi mộ này được táng giản đơn như vậy? Nó không bề thế như mộ các vua Triều Lê khi được khai quật gần đây?
Vì sao mộ Vua lại an táng tại đây?
Giải đáp diều này không phải là khó. Khi nghiên cứu lịch sử, chúng ta đều thống nhất hoàn cảnh Vương triều Mạc giai đoạn cuối vô cùng gian nan. Triều Mạc, theo quan niệm của các vương triều thời đó bị coi là Ngụy triều, nên giai đoạn lịch sử từ 1533-1677, chiến tranh Lê,Trịnh và Mạc nổ ra liên miên. Cuối những năm 60 của thế kỷ 16, nhà Mạc suy yếu và bị tấn công mọi phía; năm 1593 vua Mạc Mậu Hợp bị giết, Vương triều phải chạy lên Cao Bằng cát cứ. Mặt khác theo quan niệm duy tâm, để triệt hạ tuyệt đối dòng giống của một thế lực nào đó, người Việt có tục đào bới bùa yểm lăng mộ. Bên cạnh đó là truy tìm tận diệt dòng họ, điều này dễ kiểm nghiệm bằng vụ thảm án Trạng nguyên Trần Tất Văn (1428-1527), đỗ khoa Bính Tuất, thời Thống Nguyên năm thứ 5, năm 1526, đời Lê Cung Hoàng, bị thế lực Lê - Trịnh tru di tam tộc. Và sau này, chính Trạng Trình cũng phải cho con cháu đổi họ mai danh đi khắp nơi tránh hậu họa.  


Từ thực tế lịch sử đó có thể thấy, Trạng Trình bằng tài tiên tri của mình đã đoán định được việc này, với lòng trung quân, Cụ có thể di dời mộ của các bậc quân vương về đây trước khi Cụ tạ thế, và vị vua này phải ở ngôi trước Mạc Mậu Hợp. Đây chính là cách bảo lưu di hài bí mật để không bị khai quật. Trên thực tế, xem lại các sách và thư tịch cổ sau thời Mạc, không hề có sách nào viết về tình tiết các vua nhà Mạc bị đào bới lăng mộ. Cũng cần lưu ý thêm rằng, đất phát tích nhà Mạc là ở huyện Kiến Thụy và Kinh đô (Dương Kinh) gần gũi với Vĩnh Bảo, giao thông thủy bộ đều thuận tiện, xa Thăng Long; Nên khả năng tổ chức di dời mộ của các Vua về vùng đất này là hoàn toàn có căn cứ.
Chúng ta có thể lý giải thêm được việc mộ vua táng tại địa điểm này được ngoài nguyên nhân  đã nói trên, thì đây có thể là vùng đất đặc biệt (Một huyệt đất tâm linh, chúng tôi không đề cập ở đây). Nhưng theo Giáo sư Lê Chí Quế, chuyên gia đầu ngành về văn học dân gian chia sẻ thì hiện tượng mộ kết là do người chết được chôn trong vùng “đất dưỡng thi”, loại đất có những thành phần đặc biệt khiến các loại vi khuẩn, đều không sống nổi, gây “kết phát”. Đây là hiện tượng đã được người dân kể lại khi khai quật đã trình bày ở trên. Việc tìm ra những huyệt đất như vậy hoàn toàn không khó với một người được Chu Xán (Triều Thanh - TQ) bái phục ”An Nam lý học hữu Trình Tuyền”.
Bên trong các tấm quách gỗ và tiểu gốm vẫn còn xương, nhiều người cho rằng với gần nửa thiên niên kỷ mà xương vẫn còn là điều nghi vấn. Tuy vậy, điều nghi vấn này không khó lý giải. Trước hết như đã phân tích khu mộ táng nằm trong vùng đất “dưỡng thi”, nó được bảo quản bởi kỹ thuật bí truyền đi kèm và xương là vật thể khá bền vững về cấu trúc nên không dễ bị phân hủy. Trên thực tế, theo phóng sự “Đi tìm trang phục Việt” do Hãng phim Đài Truyền hình TP Hồ Chí Minh sản xuất 2009 và cuốn  “Trang phục triều Lê Trịnh” của Trịnh Quang Vũ, nhà nghiên cứu Văn hóa – Lịch Sử đã dẫn lời ông Phạm Trung Hiếu, GĐ Bảo tàng Hưng Yên cho biết khi khai quật Lăng Đại tư đồ Nguyễn Bá Khanh (triều Lê Trịnh) , mất từ cuối thế kỷ 17 nhưng, toàn bộ y phục của ông vẫn còn có thể mặc được, trong đó có nhiều bộ bằng chất liệu tơ tằm. Hoặc trường hợp xác Vua Lê Dụ Tông cũng vậy… đó là minh chứng so sánh cho trường hợp cụ thể các ngôi mộ ở đây.

4. Con đường chứng minh vẫn mở rộng .

Những hiện vật đã xuất hiện sau khai quật đã và đang được các nhà khoa học chứng minh tính văn hóa cần lưu giữ; nhưng việc khám phá chưa khép lại bởi rất nhiều cơ hội đang mở ra, đang đòi hỏi các cơ quan chức năng thành phố vào cuộc.
Khi thực tế tại khu vực mà người dân nơi đây bắt đầu quen gọi là “Ao Dương” này chúng ta thấy nhiều điều kỳ bí. Điển hình là các vong được bố trí  nhiệm vụ như một cơ cấu bộ máy quản lý: Cụ Đồ với vai trò tổng chỉ huy, Cụ Hoàng (Nhân vật nữ) vai trò quản lý hành chính; Cụ Tý (Nhân vật nữ), chuyên trách tìm mộ liệt sỹ, Cụ Nho đỏ, chuyên xác định những người có tâm có tài, Cụ vác đao chuyên trách nhiệm vụ an ninh, Liệt sỹ Cận, chuyên phụ trách chiếc xe ô tô đi tìm mộ liệt sỹ… và đương nhiên Cụ Trạng Trình, nhân vật trung tâm của khu vực này đang chờ đợi một chức năng lớn lao để gánh vác. Nếu chỉ thuần lòng tin vào tâm linh thì mọi việc khá giản đơn, thậm chí sáng rõ; tuy nhiên nhìn dưới góc độ khoa học thì còn rất nhiều điều phải chứng minh.


   Mặc dầu vậy, con đường chứng minh ở đây hoàn toàn không phải rơi vào ngõ cụt như hiện tượng ở một số địa điểm khác. Theo đó, hiện còn nhiều việc nhìn thấy có thể làm và việc đàu tiên là cần mở tiếp đáy tấm quách. Như đã phân tích trong phần 1 của phóng sự này, đấy tấm quách với kết cấu 2 lớp bất bình thường có thể cất dấu “Tấm minh tinh” thông tin về thân phận chủ nhân của nó. Đồng thời có thể dùng các kỹ thuật khảo cổ với công nghệ hiện đại cho các chữ Nho trên thành quách nổi lại  hoặc có thể đọc được. Hai việc này kết hợp với xác định chính xác niên đại của những chiếc cúc vàng hiện đang thu giữ, đối chứng với văn hóa y phục tôn thất của các triều đại, từ đây có thể tìm ra chủ nhân chiếc quách thứ 2. Cũng tương tự, khai quật tiếp chiếc tiểu gốm nghiên cứu hoa văn, xem xét cấu tạo 3 viên gạch có 3 màu và các chữ Nho (mà người khai quật đã nhìn thấy sau đó chôn lại ngay) ta có thể đọc được tên nhân vật thứ 3…
Khu vực Ao Dương không phải là khu vực quá rộng, căn cứ trên việc bố trí các ngôi mộ cổ cùng quần tụ, giúp chúng ta đặt ra câu hỏi: Vậy khu vực này còn tàng ẩn những gì? Để giải đáp nó có thể cần một bước làm mạnh dạn là khai quật toàn bộ khu vực. Đây có thể là việc làm khó vì liên quan đến đất thổ cư của một số hộ gia đình; Nhưng trong những ngày điều tra, khi chứng kiến cảnh ông Trần Giòn sẵn sàng hiến cả 1 gian nhà để mở  rộng thêm đường cho xe ô tô có thể vào khu vực này; Nhân dân thôn Hà Dương (quê vợ cả Cụ Trạng Trình), tự nguyện quyên góp và bán 14 mẫu ruộng gần khu vực Ao Dương để tích đất, sẵn sàng làm một khu nhà dưỡng lão cho các cụ cao tuổi tại Vĩnh Bảo theo “mơ ước của Cụ Trạng”… thì có thể thấy vướng mắc này không mấy khó khăn.
Thiếu tướng PGS.TS. Ngô Tiến Quý Viện trưởng Viện Nghiên cứu và Ứng dụng Tiềm năng con người trong công văn số 91- VTNCN, gửi UBND thành phố Hải Phòng ngày 07 tháng 10 năm 2016, đã nêu vấn đề tổ chức cho các nhà khoa học tiếp tục nghiên cứu sâu và mở rộng (Chiếc tiểu có hoa văn bằng gốm, quách gỗ và 9 chiếc cúc vàng) bởi đây là sự kiện mà Viện đánh giá là rất trọng đại.  Như vậy, những hiện vật khai quật tại Ao Dương rõ ràng đã trở thành vấn đề văn hóa. Để đi đến sáng rõ mọi vấn đề theo cách nhìn khoa học, căn cứ trên thực tế phát lộ tại đây, các nhà quản lý chính quyên và văn hóa, các nhà khoa học của các cơ quan chức năng, nên làm những cuộc khảo nghiệm mang tính quy mô, bởi Trạng Trình là một nhân vật văn hóa lớn tầm cỡ quốc gia, quốc tế. Hơn nữa, những thế kỷ qua và thời gian gần đây có khá nhiều những đồn đoán, thậm chí có những công trình được xây dựng và tự xác định là mộ phần của Cụ Trạng, rồi thời gian lại tự phủ nhận, gây hoang mang và đổ vỡ niềm mong đợi của người dân Hải Phòng và toàn quốc. Mặt khác có thể chính nơi này còn phát lộ những bí ẩn khác (ngoài Vương triều Mạc) liên quan đến những quá khứ không xa cực kỳ quan trọng mà trong khuôn khổ bài viết, chúng tôi chưa được được phép công bố.
  Phóng sự điều tra của Nguyễn Đình Minh.

BỔ SUNG
1. Tháng 9 năm 2016, cũng của Nguyễn Đình Minh .

Mộ Trạng Trình, những tình tiết mới phát lộ.
Ngày 7/4/2014 (8/3 năm Bính Tuất), người dân ở thôn Hạ Đồng xã Cộng Hiền (Vĩnh Bảo) theo chỉ dẫn của cô Bùi Thị Hiền đã đào được ở ngay chính trong vườn nhà cô nhiều ngôi mộ cổ. Trong số ấy có một ngôi đã được “Viện nghiên cứu và ứng dụng  tiềm năng con người” xác định “đây là những ngôi mộ cổ và  người nằm trong ngôi mộ cổ có thể là  bậc danh nhân”, nhưng rất tiếc 2 năm đã trôi qua mọi sự vẫn rơi vào im lặng?

Tấm quách nghìn năm tuổi.


Theo ông Trần Ròn, người ở sát ngôi mộ cổ kể lại:vào 13h ngày 7/4/2014( tức 8/3 năm Bính Tuất), đúng khitrời mưa to, sấm chớp, cô Hiền đã chỉ cho chúng tôi đào phần đất ngay cạnh bờ ao thuộc vườn nhà cô. Đây là vị trí mà năm 2006 chính cô Hiền đã bị sét đánh, nhưng may mắn đã qua khỏi.
Sau nhiều giờ đào bới, người dân đã bất ngờ tìm thấy một khu có rất nhiều mộ. Theo Ông Trần Bình nhớ lại: Lúc ấy chúng tôi đã nản lòng thì bất ngờ chạm vào tấm quách bằng gỗ sơn đỏ au. Khi đo thấy chiều dài là 1m26, chiêù rộng 33 cm  chiều cao là 30cm, bị sâp phần thân sau, tấm thiên bị nứt đôi, các tấm khác nguyên dạng. Phần xương  bên trong quách là chiếc đầu lâu vẫn còn nguyên vẹn, một chiếc xương đùi còn dài cùng nhiều xương đã vụn rữa.
Người dân đã chuyển phần xương trong quách sang chiếc tiểu mới chuyển sang táng tại nghĩa trang của thôn, còn Tấm quách được mang ra con sông ngay đó để rửa, họ bất ngờ thấy trên tấm quách có viết rất nhiều chữ Nho. Vợ ông Trần Ròn cho biết “lúc đầu bà nhìn thấy rất rõ nhiều chữ Nho ghi ở nhiều chỗ trên diện tích xung quanh tấm quách, nhưng vì không ai biết đọc, nên tấm quách được mang về dựng tại góc vườn.
Vào khoảng tháng 5/2014, kiến truc sư Lê Trung Kiên và Nhà thơ Nguyễn Thụy Kha (là người Vĩnh Bảo, đang công tác tại Hà Nội) nghe tin con cháu ở quê báo đã về xem. Anh Lê Trung Kiên đã dùng điện thoại chụp lại các mặt quách có chữ Nho, nét chữ không còn rõ nữa. Nhà thư pháp Hải Phòng, Lê Thiên Lý đọc được một số chữ nhưng không xác định chuẩn nội dung văn bản khắc trên đó. Sau nhiều công sức tra cứu, phân tích, dịch… cùng các nhà Hán Nôm, bản dịch đã được hoàn thành và có ý nghĩa rất sáng sủa, dễ hiểu.  Nhà văn Nguyễn Thụy Kha đã chuyển toàn bộ tấm quách về Hà Nội lưu giữ. Hiện nay, tấm quách đang quàn tại một căn phòng nhỏ tại 59 Trường Thi Hà Nội.
Từ đây, bằng các hoạt động tự nguyện, nhiều trí thức người Vĩnh Bảo đã vào cuộc. Họ đã mời các nhà khoa học tại “Viện nghiên cứu và ứng dụng tiềm năng con người” và nhiều nhà khoa học khác tới xem xét và nghiên cứu tấm quách. Tiến sỹ Nguyễn Lân Cường thực hiện việc gửi mẫu gỗ của tấm quách cho “Trung tâm hạt nhân TP HCM” phân tích niên đại C-14, theo phương pháp phóng xạ các bon theo “Mẫu số 02-kC 2014”. Kết quả cho biết tuổi thọ của gỗ pho tượng tính từ lúc trồng cây tới nay là 1700 năm ( sai số khoảng 75 năm).  Theo tiến sỹ khảo cổ học Lê Văn Phụng thì gỗ được xác định là gỗ ngọc am, một loại gỗ rất quý, chỉ có các bậc vương giả quyền quý mới được sử dụng. Còn về kích thước 1,26 m x 0,30 m x 0,33 m là quy cách làm quách thuộc về triều nhà Mạc. Viện nghiên cứu và ứng dụng  tiềm năng con người, sau kết quả giám định đã ra công văn gửi UBND xã Cộng Hiền trong đó đánh giá “đây là những ngôi mộ cổ và  người nằm trong ngôi mộ cổ có thể là  bậc danh nhân. Viện nghiên cứu và ứng dụng tiềm năng con người sẽ tiếp tục mời các nhà Hán nôm nghiên cứu các chữ viết trên mặt gỗ, nếu đúng đây là ngôi mộ của danh nhân thì đây là tài sản  vô giá của quốc gia và địa phương.”

Văn bản bí ẩn và 9 chiếc cúc vàng .


Trong quá trình khai quật, người dân còn tìm thấy nhiều ngôi mộ khác, đáng chú ý có 02 ngôi mộ dùng tiểu gốm rất lộng lẫy. Theo nhà khảo cổ Lê Văn Phụng thì hoa văn và hình  rồng thuộc thời nhà Mạc. Trong 1 chiếc tiểu tìm thấy 9 cái cúc áo bằng vàng thể hiện đây là vị vua chúa vì theo quy định thời Mạc chỉ có áo Vua mới được đính 9 cúc vàng. Hiện tại, 08 chiếc anh Lê Trung Kiên lưu giữ, 01 chiếc khi sang tiểu mới người dân tuân theo tâm linh đã để lại 1 chiếc vào trong tiểu.
Tuy nhiên vấn đề hiện nay mà dư luận quan tâm là bài thơ khắc trên tấm quách, nội dung của nó đã được dịch thuật, mặc dù ẩn dấu những thiên cơ huyền bí, nhưng bề nổi lại rất dễ nhận ra; Tổng số bài có 6 câu và 24 chữ, nhiều câu nói về Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Nhà giáo Hoàng Phan nêu quan điểm, để thuận cách tư duy hiện đại nên hiểu văn bản theo hàm ngôn của nó và ông giải thích nghĩa như sau:  Vốn trước vẫn gọi là Đạt (Nguyễn Bỉnh Khiêm có tênkhai sinhlàNguyễn VănĐạt)/ Đời sau vẫn truyền Trạng Trình/ Tâm như mặt trời giữa trưa /Tìm ra tên của vị vua sáng/ Hai tấm gỗ  (tấm thiên địa) chồng lên nhau có cất dấu tên vị chủ nhân tấm quách này/ sống trong nước Nam rộng lớn.
           Nếu gạt bỏ các yếu tổ mang tính truyền thuyết hoặc tâm linh thì những hiện vật thu lại được từ các ngôi mộ cổ ở Xã Cộng Hiền là có thật, nó đã được các trí thức và các nhà khoa học bước đầu khám phá có kết quả và đã có nhiều kết luận khoa học. Do đó, bản thân những hiện vật này đã là văn hóa cần được bảo tồn như vốn quý của thành phố nói chung và huyện Vĩnh Bảo nói riêng.
Thiết nghĩ, các cấp lãnh đạo huyện Vĩnh Bảo và thành phố Hải Phòng nên có các quyết định quản lý chỉ đạo các cơ quan văn hóa, an ninh đến địa điểm xảy ra sự kiện điều tra nghiên cứu tổng hợp tình hình. Đồng thời tiến hành biện pháp thu giữ các hiện vật (tấm quách, 9 chiếc cúc vàng) về lưu giữ tại địa phương; bởi đây là di vật văn hóa cổ chắc chắn đã được xác định bởi các phương pháp khoa học. Từ đây, tổ chức tiếp tục nghiên cứu  giải mã những giá trị mà di vật này mang lại./.
Nguyễn Đình Minh
Bài đã đăng trên nhiều tờ báo tại Hải Phòng và trung ương
Chú thích:
Bài thơ trên tấm quách đã được chép lại và dịch bằng văn bản in. (Trên đầu tấm quách ghi ba chữ NGUYỄN BÌNH KHIÊM - Chữ đệm là BÌNH chứ không phải BỈNH).
這  讀  必  達
Giá     độc       tất            đạt
狀  呈  叫  風
Trạng  trình    khiếu  phong
心  以  日  正
Tâm      dĩ      nhật      chính
尋  字  光  龍
Tầm       tự     quang    long
重  木  主  宗
Trùng    mộc    chủ       tông
中  生  南  巨
Trung   sinh    nam        cự 
(Lê Thiên Lý-nhà thư pháp Hải Phòng đọc và viết lại)


( Chép lại từ https://giaovn.blogspot.com để giữ làm tư liệu ). dienbatn.
Cùng một chủ đề : VỀ THĂM CỤ TRẠNG TRÌNH - NGUYỄN BỈNH KHIÊM . 
https://dienbatnblog.blogspot.com/2013/05/ve-tham-cu-trang-trinh-nguyen-binh.html.

Xem chi tiết…

SỚ KHẤN TẾT NĂM ĐINH DẬU - 2017.

1/06/2017 |
SỚ KHẤN TẾT NĂM ĐINH DẬU - 2017.
1.SỚ KHẤN ÔNG TÁO NGÀY 23 THÁNG CHẠP.
Nam mô A Di Đà Phật .
Tín chủ chúng con thành tâm kính mời :
Ngài Kim niên đương cai Thái tuế chí đức tôn Thần  : Tề Vương Hành khiển, Ngũ Miếu chi thần, Tống Tào phán quan .
Ngài Thái tuế chí đức tôn Thần năm mới Đinh Dậu :  Lỗ Vương Hành khiển, Ngũ Nhạc chi thần, Cựu Tào phán quan.
Ngài bản cảnh Thành Hoàng chư vị đại Vương .
Ngài bản xứ Thần linh Thổ địa .  Ngài định Phúc Táo quân  . Các ngài Địa Chúa Long mạch Tôn Thần và tất cả các Thần linh cai quản trong khu vực này 
Kính lạy ngài Đông trù tư mệnh Táo phủ Thần Quân .
Chúng con là :……………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………………………………………….....................................................................,Cùng tòan thể gia quyến .
 Hiện ngụ tại ……………………………………………………………….
Nhân ngày 23 tháng Chạp năm BÍNH THÂN, chúng con thành tâm sửa biện hương hoa , vật phẩm , xiêm , hài , áo , mũ , nghi lễ cúng trần , dâng lên trước Án , dâng hiến Tôn Thần , đốt nén Tâm hương , dốc lòng bái thỉnh .
Chúng con kính mời : Ngài Đông trù tư mệnh Táo phủ Thần Quân  giáng lâm trước Án , thụ hưởng lễ vật .
Phóng theo lệ cũ , 
Ngài là vị Chủ ,
Ngũ tự gia Thần , 
Soi xét lòng trần , 
Táo Quân chứng Giám .
Trong năm sai phạm , 
Các tội lỗi lầm , 
Cúi xin tôn Thần , 
Gia ân châm chước ,
Ban Lộc ban Phước ,
Phù hộ toàn gia ,
Gái trai , trẻ già .
An ninh khang thái .
Dãi tấm lòng thành ,
Cúi xin chứng giám .
Bái thỉnh cửu thiên đông trù , ti mệnh táo quân .
 Nhất gia chi chủ , ngũ tự chi thần . 
Từ hậu thiệt ư , bắc đẩu chi trung .
 Sát thiện ác ư , đông trù chi nội . 
Tứ phúc xá tội , di hung hóa cát .
 An trấn âm dương , bảo hữu gia đình . 
Họa tai tất diệt , hà phúc tất tăng . 
Hữu cầu tất ứng , vô cảm bất thông . 
Đại bi đại nguyện . Đại thánh đại từ . 
Cửu thiên đông trù . Ti mệnh lô vương . 
Nguyên hồng định quốc . Hộ trạch thiên tôn . 
Cấp cấp như luật lệnh .
Ngày 23  tháng  Chạp  năm BÍNH THÂN .


2.SỚ KHẤN TẤT NIÊN.
Nam mô A Di Đà Phật .
Kính lạy : Hoàng Thiên hậu Thổ chư vị tôn Thần .
Ngài Kim niên đương cai Thái tuế chí đức tôn Thần  : Tề Vương Hành khiển, Ngũ Miếu chi thần, Tống Tào phán quan .
Ngài Thái tuế chí đức tôn Thần năm mới Đinh Dậu :  Lỗ Vương Hành khiển, Ngũ Nhạc chi thần, Cựu Tào phán quan.
Ngài bản cảnh Thành Hoàng chư vị đại Vương .
Ngài bản xứ Thần linh Thổ địa .  Ngài định Phúc Táo quân  . Các ngài Địa Chúa Long mạch Tôn Thần và tất cả các Thần linh cai quản trong khu vực này 
Hôm nay là ngày 30  tháng  Chạp  năm BÍNH THÂN.
Chúng con là :……………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………………………………..............................................................,       Cùng tòan thể gia quyến .
Hiện ngụ tại ……………………………………………………………….
Trước Án tọa kính cẩn thưa trình : Đông tàn sắp hết , năm kiệt tháng cùng , xuân tiết gần kề , minh niên sắp tới . Nay là ngày 30 Tết  , chúng con cùng toàn thể Gia quyến sắm sanh phẩm vật hương hoa , cơm canh cụ soạn , sửa lễ Tất niên , dâng cúng Thiên Địa , Tôn Thần , phụng hiến Tổ tiên , truy niệm chư Linh . Theo như thường lệ Tuế trừ cáo tế , cúi xin chư vị Tôn Thần , Liệt vị Gia tiên , bản xứ tiền hậu Chủ hương linh , giáng lâm án tọa , phù thùy chứng giám , thụ hưởng lễ vật , phù hộ cho toàn Gia , lớn bé trẻ già , bình an thịnh vượng . Độ cho chúng con mọi duyên thuận lợi , công việc hanh thông . Người người được chữ bình an , tháng ngày được hưởng phần lợi lộc . Âm phù - Dương trợ , sở nguyện tòng tâm . Bốn mùa không hạn ách nào xâm , tám tiết có điềm lành tiếp ứng .
Dãi tấm lòng thành ,
Cúi xin chứng giám .
Cẩn cáo .
Ngày 30 tháng  Chạp  năm BÍNH THÂN.


3.SỚ KHẤN GIAO THỪA NGOÀI TRỜI .
Nam mô A Di Đà Phật  ( Ba lần ) .
Kính lạy :
Đức đương lai hạ sinh Di Lặc Tôn Phật .
Hoàng Thiên hậu Thổ chư vị tôn Thần .
Ngài Cựu niên Tống Vương Hành khiên, Tề Vương Hành khiển, Ngũ Miếu chi thần, Tống Tào phán quan .
Ngài đương niên Tề Vương Hành khiển, Lỗ Vương Hành khiển, Ngũ Nhạc chi thần, Cựu Tào phán quan.
Ngài bản cảnh Thành Hoàng chư vị đại Vương .
Ngài bản xứ Thần linh Thổ địa .  Ngài định Phúc Táo quân  . Các ngày Địa Chúa Long mạch Tôn Thần và tất cả các Thần linh cai quản trong khu vực này .
Nay là giờ phút Giao thừa năm ĐINH DẬU.
Chúng con là :……………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………………………………......................................................................,Cùng tòan thể gia quyến .
Hiện ngụ tại ……………………………………………………………….
Phút thiêng Giao thừa vừa tới , năm cũ qua đi , đón mừng năm mới , Tam Dương khai Thái , vạn tượng canh tân . Nay Ngài Thái tuế chí đức tôn Thần trên vâng lệnh Thượng Đế giám sát vạn dân , dưới bảo hộ sinh linh tảo trừ yêu nghiệt . Quan cũ về Triều để khuyết , lưu Phúc , lưu Ân . Quan mới xuống thay , thể đức hiếu sinh , ban Tài tiếp Lộc . Nhân buổi tân Xuân , chúng con thành tâm sửa biện hương hoa vật phẩm , nghi lễ cúng trần , dâng lên trước Án . Cúng dâng Phật Thánh , dâng hiến Tôn Thần , đốt nén Tâm hương dốc lòng bái thỉnh .
Chúng con kính mời : Ngài Cựu niên Tống Vương Hành khiên, Tề Vương Hành khiển, Ngũ Miếu chi thần, Tống Tào phán quan .Ngài đương niên Tề Vương Hành khiển, Lỗ Vương Hành khiển, Ngũ Nhạc chi thần, Cựu Tào phán quan. Ngài bản cảnh Thành Hoàng chư vị đại Vương . Ngài bản xứ Thần linh Thổ địa .  Ngài định Phúc Táo quân  . Ngài Phúc Đức chính Thần . Các Ngài Ngũ Phương , Ngũ Thổ , Long mạch tài Thần . Ngài Bản Gia Táo Quân . Các ngày Địa Chúa Long mạch Tôn Thần và tất cả các Thần linh cai quản trong khu vực này . Cúi xin giáng lâm trước Án , thụ hưởng lễ vật .
Xin chắp tay kính lễ khấu đầu vọng bái. Lòng con thành khẩn, dạ con thiết tha, kính dâng lễ vật, cúi xin, mong các ngài xót thương ủng hộ cho gia đình chúng con tiêu  trừ tai nạn, điều lành thường tới, điều dữ thường lánh xa , hết tai ương bệnh tật trong nhà , hưởng thịnh vượng, an lành, mãi mãi Tài như nước đến, Lộc tựa mây về . Nguyện cho chúng con : Minh niên khang thái , trú dạ cát tường . Độ cho chúng con mọi duyên thuận lợi , công việc hanh thông . Người người được chữ bình an , tháng ngày được hưởng phần lợi lộc . Âm phù - Dương trợ , sở nguyện tòng tâm . Bốn mùa không hạn ách nào xâm , tám tiết có điềm lành tiếp ứng .
Ngài Bồ tát độ chúng sinh tươi đẹp , mạnh khoẻ yên vui , hướng về đường thiện , rộng mở từ tâm , nhân tốt gieo mầm , điều hay học hỏi. Con xin nguyện cầu cuộc đời tăng hạnh phúc quang vinh , nếp sống mới Văn minh ngày mới . Bốn ơn đền đáp - Chín phẩm siêu sinh , nguyện cầu Tổ Quốc hoà bình , nhân dân no ấm , gia chủ mạnh khỏe vui vẻ , bình anh .
Dãi tấm lòng thành ,
Cúi xin chứng giám .
Cẩn cáo .
Ngày 30 tháng  Chạp  năm BÍNH THÂN .


4.SỚ KHẤN GIAO THỪA TRONG NHÀ .
Nam mô A Di Đà Phật  ( Ba lần ) .
Kính lạy : Đức đương lai hạ sinh Di Lặc Tôn Phật .
o Hoàng Thiên hậu Thổ chư vị tôn Thần .
o Ngài Cựu niên Tống Vương Hành khiên, Tề Vương Hành khiển, Ngũ Miếu chi thần, Tống Tào phán quan .
o Ngài đương niên Tề Vương Hành khiển, Lỗ Vương Hành khiển, Ngũ Nhạc chi thần, Cựu Tào phán quan.
o Ngài bản cảnh Thành Hoàng chư vị đại Vương .
o Ngài bản xứ Thần linh Thổ địa .  Ngài định Phúc Táo quân  . Các ngày Địa Chúa Long mạch Tôn Thần và tất cả các Thần linh cai quản trong khu vực này .
o Các Cụ Tổ tiên nội ngoại chư vị tiên Linh .
Nay là giờ phút Giao thừa năm ĐINH DẬU .
Chúng con là :……………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………………………………...........................................................................................,Cùng tòan thể gia quyến .
Hiện ngụ tại ……………………………………………………………….
Phút Giao thừa vừa tới , nay theo Vận luật , tống cựu nghinh tân , giờ Tý đầu Xuân , đón mừng Nguyên Đán . Chúng con thành tâm sửa biện hương hoa vật phẩm , nghi lễ cung trần , dâng lên trước Án , cúng dâng Phật Thánh ,  dâng hiến Tôn Thần , đốt nén Tâm hương dốc lòng bái thỉnh .
Chúng con kính mời : Ngài bản cảnh Thành Hoàng chư vị đại Vương . Ngài bản xứ Thần linh Thổ địa .  Ngài định Phúc Táo quân  . Ngài Phúc Đức chính Thần . Các Ngài Ngũ Phương , Ngũ Thổ , Long mạch tài Thần . Ngài Bản Gia Táo Quân . Các ngày Địa Chúa Long mạch Tôn Thần và tất cả các Thần linh cai quản trong khu vực này . Cúi xin giáng lâm trước Án , thụ hưởng lễ vật .
Chúng con lại  kính mời : các cụ Tiên Linh Cao Tằng Tổ Khảo , Cao Tằng Tổ Tỷ , Bá Thúc Huynh Đệ , cô di Tỷ , Muội , nội ngoại Tộc chư vị Hương Linh , cúi xin giáng về Linh Sàng hâm hưởng lễ vật .
Chúng con lại kính mời các vị Vong Linh tiền Chủ hậu Chủ , y thảo phụ mộc ở trong đất này , nhân tiết Giao thừa , giáng lâm trước Án , chiêm ngưỡng Tôn Thần  , thụ hưởng lễ vật .
Xin chắp tay kính lễ khấu đầu vọng bái. Lòng con thành khẩn, dạ con thiết tha, kính dâng lễ vật, cúi xin, mong các ngài xót thương ủng hộ cho gia đình chúng con tiêu  trừ tai nạn, điều lành thường tới, điều dữ thường lánh xa , hết tai ương bệnh tật trong nhà , hưởng thịnh vượng, an lành, mãi mãi Tài như nước đến, Lộc tựa mây về . Nguyện cho chúng con : Minh niên khang thái , trú dạ cát tường . Độ cho chúng con mọi duyên thuận lợi , công việc hanh thông . Người người được chữ bình an , tháng ngày được hưởng phần lợi lộc . Âm phù - Dương trợ , sở nguyện tòng tâm . Bốn mùa không hạn ách nào xâm , tám tiết có điềm lành tiếp ứng .
Ngài Bồ tát độ chúng sinh tươi đẹp , mạnh khoẻ yên vui , hướng về đường thiện , rộng mở từ tâm , nhân tốt gieo mầm , điều hay học hỏi. Con xin nguyện cầu cuộc đời tăng hạnh phúc quang vinh , nếp sống mới Văn minh ngày mới . Bốn ơn đền đáp - Chín phẩm siêu sinh , nguyện cầu Tổ Quốc hoà bình , nhân dân no ấm , gia chủ mạnh khỏe vui vẻ , bình anh .
Dãi tấm lòng thành ,
Cúi xin chứng giám .
Cẩn cáo .
Ngày 30 tháng  Chạp  năm BÍNH THÂN .


5.SỚ KHẤN THẦN LINH TRONG NHÀ TẾT NGUYÊN ĐÁN.
Nam mô A Di Đà Phật  ( Ba lần ) .
Kính lạy : Đức đương lai hạ sinh Di Lặc Tôn Phật .
Hoàng Thiên hậu Thổ chư vị tôn Thần .
Ngài Cựu niên Tống Vương Hành khiên, Tề Vương Hành khiển, Ngũ Miếu chi thần, Tống Tào phán quan .
Ngài đương niên Tề Vương Hành khiển, Lỗ Vương Hành khiển, Ngũ Nhạc chi thần, Cựu Tào phán quan.
Ngài bản cảnh Thành Hoàng chư vị đại Vương .
Ngài bản xứ Thần linh Thổ địa .  Ngài định Phúc Táo quân  . Các ngày Địa Chúa Long mạch Tôn Thần và tất cả các Thần linh cai quản trong khu vực này .
Hôm nay là ngày mùng 1 tháng Giêng , nhằm ngày Tết Nguyên Đán đầu Xuân , giải trừ gió Đông lạng lẽo , hung nghiệt tiêu tan , đón mừng Nguyên đán Xuân Thiên , mưa móc thấm nhuần , muôn vật tưng bừng đổi mới , nơi nơi lễ tiết , chốn chốn tường trình .
Chúng con là :……………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………………………………………….........................................................................................,Cùng tòan thể gia quyến .
Hiện ngụ tại ……………………………………………………………….
Nhân tiết minh niên , sắm sửa hương hoa , cơm canh lễ vật bày ra trước Án , dâng cúng Thiên Địa Tôn Thần . Thiết nghĩ Tôn Thần hào khí sáng lòa , ân đức rộng lớn . Ngôi cao vạn trượng uy nghi , vị chính mười Phương biến hiện . Lòng thành vừa khởi , Tôn đức cảm thông . Cúi xin giáng lâm trước Án , chứng giám lòng thành , thụ hưởng lễ vật . Nguyện cho con cháu mọi người hoan hỷ vinh xương , con cháu cát tường khang kiện . Mong ơn Đương Cảnh Thành Hoàng , đội đức Tôn Thần bản xứ . Hộ trì chúng con , gia Lộc gia Ân , xả quái trừ tai . Đầu năm chí giữa , nửa năm chí cuối , sự nghiệp hanh thông , sở cầu như ý , sở nguyện tòng tâm .
 Dãi tấm lòng thành ,
Cúi xin chứng giám .
Cẩn cáo .
Ngày 1 tháng  Giêng  năm ĐINH DẬU .


6.SỚ KHẤN TỔ TIÊN NGÀY MÙNG MỘT TẾT .
Nam mô A Di Đà Phật  ( Ba lần ) .
Kính lạy : Đức đương lai hạ sinh Di Lặc Tôn Phật .
Hoàng Thiên hậu Thổ chư vị tôn Thần .
Ngài Cựu niên Tống Vương Hành khiên, Tề Vương Hành khiển, Ngũ Miếu chi thần, Tống Tào phán quan .
Ngài đương niên Tề Vương Hành khiển, Lỗ Vương Hành khiển, Ngũ Nhạc chi thần, Cựu Tào phán quan.
Ngài bản cảnh Thành Hoàng chư vị đại Vương .
Ngài bản xứ Thần linh Thổ địa .  Ngài định Phúc Táo quân  . Các ngày Địa Chúa Long mạch Tôn Thần và tất cả các Thần linh cai quản trong khu vực này .
Các cụ Tiên Linh Cao Tằng Tổ Khảo , Cao Tằng Tổ Tỷ , Bá Thúc Huynh Đệ , cô di Tỷ , Muội , nội ngoại Tộc chư vị Hương Linh .
Chúng con là :……………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………………………………..........................................................................,Cùng tòan thể gia quyến .
Hiện ngụ tại ……………………………………………………………….
Nay theo Tuế luật , Âm Dương vận hành tới tuần Nguyên Đán . Mùng Một đầu Xuân , mưa móc thấm nhuần , đón mừng năm mới . Con cháu tưởng niệm ân đức của Tổ tiên như Trời cao Biển rộng , khôn đem tấc cỏ báo ba xuân . Do đó chúng con cùng toàn thể con cháu trong nhà sửa biện hương hoa vật phẩm , nghi lễ cung trần , dâng lên trước Án . Cúi xin giáng về Linh Sàng hâm hưởng lễ vật .
Kính mời Các cụ Tiên Linh Cao Tằng Tổ Khảo , Cao Tằng Tổ Tỷ , Bá Thúc Huynh Đệ , cô di Tỷ , Muội , nội ngoại Tộc chư vị Hương Linh . 
Nguyện cho chúng con : Minh niên khang thái , trú dạ cát tường . Độ cho chúng con mọi duyên thuận lợi , công việc hanh thông . Người người được chữ bình an , tháng ngày được hưởng phần lợi lộc . Âm phù - Dương trợ , sở nguyện tòng tâm . Bốn mùa không hạn ách nào xâm , tám tiết có điềm lành tiếp ứng .
Xin chắp tay kính lễ khấu đầu vọng bái. Lòng con thành khẩn, dạ con thiết tha, kính dâng lễ vật, cúi xin, mong các ngài xót thương ủng hộ cho gia đình chúng con tiêu  trừ tai nạn, điều lành thường tới, điều dữ thường lánh xa , hết tai ương bệnh tật trong nhà , hưởng thịnh vượng, an lành, mãi mãi Tài như nước đến, Lộc tựa mây về . Nguyện cho chúng con : Minh niên khang thái , trú dạ cát tường . Độ cho chúng con mọi duyên thuận lợi , công việc hanh thông . Người người được chữ bình an , tháng ngày được hưởng phần lợi lộc . Âm phù - Dương trợ , sở nguyện tòng tâm . Bốn mùa không hạn ách nào xâm , tám tiết có điềm lành tiếp ứng .
Ngài Bồ tát độ chúng sinh tươi đẹp , mạnh khoẻ yên vui , hướng về đường thiện , rộng mở từ tâm , nhân tốt gieo mầm , điều hay học hỏi. Con xin nguyện cầu cuộc đời tăng hạnh phúc quang vinh , nếp sống mới Văn minh ngày mới . Bốn ơn đền đáp - Chín phẩm siêu sinh , nguyện cầu Tổ Quốc hoà bình , nhân dân no ấm , gia chủ mạnh khỏe vui vẻ , bình anh .
Dãi tấm lòng thành ,
Cúi xin chứng giám .
Cẩn cáo .
Ngày 1 tháng  Giêng  năm ĐINH DẬU .

7.LỄ HÓA VÀNG NGÀY MÙNG 3 TẾT.
Địa Tạng Vương Bồ Tát
Nam mô A Di Đà Phật  ( Ba lần ) .
Kính lạy : Đức đương lai hạ sinh Di Lặc Tôn Phật .
Hoàng Thiên hậu Thổ chư vị tôn Thần .
Ngài bản cảnh Thành Hoàng chư vị đại Vương .
Ngài Cựu niên Tống Vương Hành khiên, Ngũ Đạo hành binh chi thần, Lâm Tào phán quan. 
Ngài đương niên Tề Vương Hành khiển, Ngũ Miếu hành binh chi thần, Tống Tào phán quan. 
Ngài bản xứ Thần linh Thổ địa .  Ngài định Phúc Táo quân  . Các ngài Địa Chúa Long mạch Tôn Thần và tất cả các Thần linh cai quản trong khu vực này 
Các Cụ Tổ tiên nội ngoại chư vị tiên Linh .
Hôm nay là ngày mùng 3 tháng Giêng năm ĐINH DẬU.
Chúng con là :……………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………………………………..............................................................................................,Cùng tòan thể gia quyến .
Hiện ngụ tại ……………………………………………………………….
Chúng con thành tâm sửa biện hương hoa vật phẩm , nghi lễ cung trần , dâng lên trước Án , cúng dâng Phật Thánh ,  dâng hiến Tôn Thần , đốt nén Tâm hương dốc lòng bái thỉnh . Kính cẩn tâu trình : Tiệc Xuân đã mãn , Nguyên Đán đã qua , nay xin thiêu hóa Kim ngân , lễ tạ Tôn Thần , rước tiễn tiên Linh trở về Âm giới . Kính xin : Lưu Phúc , lưu Ân , phù hộ độ trì , Dương cơ Âm Mộ , mọi chỗ tốt lành . Con cháu được chữ bình an , Gia đạo hưng long thịnh vượng . 
Xin chắp tay kính lễ khấu đầu vọng bái. Lòng con thành khẩn, dạ con thiết tha, kính dâng lễ vật, cúi xin, mong các ngài xót thương ủng hộ cho gia đình chúng con tiêu  trừ tai nạn, điều lành thường tới, điều dữ thường lánh xa , hết tai ương bệnh tật trong nhà , hưởng thịnh vượng, an lành, mãi mãi Tài như nước đến, Lộc tựa mây về . Nguyện cho chúng con : Minh niên khang thái , trú dạ cát tường . Độ cho chúng con mọi duyên thuận lợi , công việc hanh thông . Người người được chữ bình an , tháng ngày được hưởng phần lợi lộc . Âm phù - Dương trợ , sở nguyện tòng tâm . Bốn mùa không hạn ách nào xâm , tám tiết có điềm lành tiếp ứng .
Ngài Bồ tát độ chúng sinh tươi đẹp , mạnh khoẻ yên vui , hướng về đường thiện , rộng mở từ tâm , nhân tốt gieo mầm , điều hay học hỏi. Con xin nguyện cầu cuộc đời tăng hạnh phúc quang vinh , nếp sống mới Văn minh ngày mới . Bốn ơn đền đáp - Chín phẩm siêu sinh , nguyện cầu Tổ Quốc hoà bình , nhân dân no ấm , gia chủ mạnh khỏe vui vẻ , bình anh .
Lòng thành vừa cẩn , lễ bạc tiến dâng , lượng cả xét soi , cúi xin chứng giám . Cẩn cáo .
Ngày 3 tháng  Giêng  năm ĐINH DẬU .
Thân ái. dienbatn.

Xem chi tiết…

NĂM ĐINH DẬU 2017 NGUYÊN ĐÁN THẮP NHANG XUẤT HÀNH.

12/26/2016 |
NĂM ĐINH DẬU 2017 NGUYÊN ĐÁN THẮP NHANG XUẤT HÀNH.
NĂM ĐINH DẬU 2017 : Năm nay sao Chủ quản là sao Nhất Bạch - Thủy tinh (số 1) sẽ đóng ở trung cung, thời điểm bắt đầu sang năm mới vào lúc 23h49’  thứ 6 ngày 03/02/2017 dương lịch, nhằm ngày Tân Dậu 07/01/âm lịch của năm Đinh Dậu, đây là ngày Lập xuân, là ngày đầu năm mới của năm Đinh Dậu (Theo tiết khí). Ngày  Tân Dậu 07/01/âm lịch của năm Đinh Dậu : ĐINH DẬU - NHÂM DẦN - ĐINH DẬU . Trực Nguy - Sao Lâu .Người sinh năm Đinh Dậu có mạng Sơn Hạ Hỏa . Năm nay là năm nhuận có 2 tháng 6.Đông Chí vào ngày thứ 6 ngày 5/11/Đinh Dậu tức là ngày 22/12/2017, giờ Sửu.
Ngày này : Hỉ Thần tại tây nam, Quý Thần tại Đông bắc và Nam, tài Thần tại phương Đông . Ngũ Quỷ tại Tây Bắc ,Sinh môn tại Nam , Tử môn tại Bắc, Đại hàn 6 cục . Tam sát Dần - Mão - Thìn phía Đông . Ngày này kị tuổi Quý Mão, Kỷ mão, Ất Sửu, Ất Mùi . Theo Đổng công : Tân chẳng nên làm việc gì . Đinh dậu có phúc tinh , hợp an táng , cầu phúc , hoàn nguyện , xuất hành , khai trương , tham quan đều tốt lành. Chỉ không hợp cho khởi tạo , hôn nhân , giá thú . 
Năm Đinh Dậu ( Đinh - Nhâm hóa Mộc ) nên thuộc Mộc vận ứng với Phong Khí ( nên gọi là Phong Mộc ) . là Quyết Âm - Một Âm . Quyết Âm Khí hóa . Thiên can Đinh thuộc Mộc vận. Địa chi Dậu Khí hóa Táo Kim . Khí ( Kim ) khắc vận ( Mộc ) gọi là năm Thiên Hình . Sự biến hóa của thời tiết chủ yếu dựa vào Lục Khí .Năm Đinh Dậu (2017), theo câu quyết : Tỵ, Dậu, Sửu: Sát Đông. Có nghĩa là trong năm Dậu, nhà ta ở, hoặc công ty, văn phòng, cửa hàng, hướng Đông là phạm phải Tam sát.
Nếu gặp phải tam sát, người nhà mắc nhiều bệnh, gặp hạn xấu về thanh danh, tiền bạc và các mối quan hệ.
1. PHÂN TÍCH SAO CỦA 9 CUNG.
+PHƯƠNG  BẮC : Khảm - Lục Bạch (Kim) – cát tinh chủ sự thăng tiến về tài vận, quan lộc - Thất vận, bay đến là cát tinh tuy tiết khí nhưng còn dùng được,cuối thu sơ đông là kỳ sinh vượng, có đinh tài ra võ chức mưu sự tùy tâm, lên lương  chức, thất vận hình thê khắc tử, cô khổ bị tai ách .Lục Bạch (Kim) – cát tinh chủ sự thăng tiến về tài vận, quan lộc.Năm nay Lục Bạch Vũ Khúc bay vào phương Chánh Bắc, đây là một trong Tam Bạch Cát Tinh, nên phương Chánh Bắc năm nay dùng để vinh thăng, chiêu quý nhân, mưu tính tất thành.
Lục Bạch Kim Tinh cũng chủ về Dịch mã, chủ quản việc đi xa, phó nhậm, di chuyển, thậm chí là thuyên chuyển công việc.Phương vị này năm nay tuyệt đối không được bày các các đồ có màu đỏ, màu hồng, cũng không được bày các cây cảnh cỡ lớn, nếu không tất có tổn thương chân tay, phá tài cùng với phá hoại sự giúp đỡ của quý nhân, nói chung sẽ làm giảm đi sự may mắn của vận trình.
Năm nay Tinh Cung tương sinh (Kim-Thủy), chỉ cần sắp đặt thích đáng, tất được tiền tài, tài vận quan vận đều tốt, con cái hiếu thuận, mưu cầu đều thỏa ý.
Nếu bố cục sai, tất có tiểu nhân phá đám, mất quan mất nghế, đau đầu nát óc. Chủ nhà nhiều bệnh, lắm tai, chủ yếu là bệnh về đầu, thần kinh thất thường, trúng độc tự sát.
+PHƯƠNG ĐÔNG BẮC : Cấn - Tứ Lục (Mộc) – cát tinh chủ về học hành, trí thức, học vấn , bay đến cũng là khí suy tử, dễ bị ho  huyết phong xuyễn, hay hoang dâm phóng đãng mà bệnh tật,tửu sắc phá gia mà khổ dễ  bị bệnh tật nơi lưng, có thể bị thương vong  bất ngờ, vượng tại đông xuân .Năm nay Tứ Lục Văn Khúc Tinh bay đến phương Đông Bắc, sao này là chủ về Văn Xương học hành, khoa danh, phẩm vị hơn người, và cũng chiêu mời nhân duyên đào hoa vận. Nếu đem bàn học tập kê tại vị trí này thành tích học tập tất có sự tăng tiến.Nếu tại chỗ ở chỗ này làm việc xử lý giấy tờ, cũng có thể luôn giữ được đầu óc sáng suốt, phúc chí tâm linh, nên công việc thuận lợi.
Sao Văn Khúc này cũng chủ người tăng thêm nhân duyên, cho nên cần vận dụng để quảng kết nhân duyên, bài trừ tiểu nhân cũng mời gọi các nhân duyên mong muốn.
Năm nay Tinh Cung tương khắc (Mộc-Thổ), nếu bài bố thích đáng tất gia cảnh vui vẻ, con cái thuận hòa, dễ sinh quý tử, sự nghiệp, tài vận hanh thông.
Nếu bố trí không thích hợp, tất vợ chồng trái mắt, nhà có trộm cướp. Ra khỏi nhà là chẳng thấy bao giờ về, hay nhầm lẫn, trên người hay bị phong chứng, hoặc mẩn ngứa chân tay, hoặc có bệnh về gan mật.
+ PHƯƠNG ĐÔNGChấn - Bát Bạch (Thổ) – cát tinh chủ về sự thăng tiến về tài lộc, quan chức. Bát Bạch  đến và là phương gặp tam sát, tuế phá . Bát  Bạch bay đến là tài tinh vượng tại xuân , hạ thêm đinh phát tài, tạo thêm điền sản, tiếc thay gặp phải tam sát, và tuế phá, thế nên tiểu khẩu tổn thương, thị phi tật bệnh, tay chân co giựt,  nên trải thảm đỏ hóa giải .Bát Bạch Tinh đến phương chánh Đông, đây là một trong Tam Cát Tinh, là đương vượng tài tinh của vận 8, trừ chủ về tài vận ra còn có cát khánh, đạt sự nghiệp, mở nghiệp cùng hôn nhân giá thú…
Nếu cửa nhà hoặc cửa phòng ở vào vị trí này tất là gia trạch hưng vượng, tài vận hanh thông, có thể thêm đinh, những người đang yêu có thể thành hôn.
Nếu gia trạch tọa hướng đương vận cát lại thêm cát, hỷ sự trùng trùng. Nếu không phối hợp tất yếu cần chú ý da dẻ, hô hấp, ruột rà hoặc thần kinh tọa bị đau đớn, cũng có thể bị tổn thương chân tay.
Năm nay Cung Tinh tương khắc (Mộc-Thổ). Nếu phối hợp tốt, tất chủ văn chức võ quyền, liên tục thăng quan thần tài trợ giúp, tài lộc đều vượng, vợ chồng vui vẻ, con cái mạnh khỏe.
Nếu bố trí không thích đáng, dễ tổn tiền tài, miệng có dị tật, con trai con gái đều dễ sinh bệnh, vợ chồng sinh oán cừu.
Phương vị này năm nay phạm Tam sát, nên tuyệt đối tránh động thổ và tránh tu sửa ở khu vực Đông của nhà ở, văn phòng trong năm nay.
+ PHƯƠNG ĐÔNG NAM : Tốn - Cửu Tử (Hỏa) – cát tinh về chủ nhân duyên, tử tức đến - Cửu Tử bay đến là sao sinh khí kế tiếp , đại lợi trạch vận, hỉ khí lâm môn , lợi kết hôn , thêm đinh thăng chức , tạo thêm sản nghiệp , vượng tại xuân hạ , nên trồng cây xanh thảm đỏ để tăng thêm uy lực .Năm nay Cửu Tử bay vào phương Đông Nam, là vị trí Hỷ Khánh, chủ thêm đinh, tài hỷ, cát khánh, đào hoa, thăng chức…
Vị trí này thích hợp để mở cửa, đặt các thứ đồ động, kê giường, bàn làm việc… tất có cát khánh hỷ khí giáng lâm nhanh chóng, chủ có giàu có về nhà đất, thăng quan nhậm chức, khiến cho sự nghiệp cùng cá nhân phát triển mọi mặt, thành tích của bạn được công nhận và khen thưởng, phú kham địch quốc, đứng đầu chỗ làm, hỷ sự trùng phùng.
Vị trí này cũng là chỗ quản về vận thế tình cảm cá nhân, hôn nhân yêu đương cũng có tác dụng rõ ràng.
Năm nay Tinh cung tương sinh, nếu Cửu Tử là cửa ra vào hoặc cửa phòng, thì sự ứng nghiệm càng nhanh.
Song nếu bố trí không tốt, tất hỏa đàm thổ táo, phụ sinh ngũ tử, sinh bệnh mắt mũi, nóng bụng đi ra máu, dạ dày, đường ruột, huyết áp, lại có hỏa tai, song Cửu Tử hỏa tinh cũng chủ về các bệnh đờm ho, bệnh về mắt.
+ PHƯƠNG NAM : Ly - Ngũ Hoàng đến - Ngũ Hoàng Đại Sát (Thổ) – đại hung tinh , là sát tinh bay đến đâu họa đó, phương này  không nên động thổ tu tạo , phạm thì tai họa không thể lường được,nơi này không nên đặt hồ cá, phong thủy  luân, nên để yên lặng là tốt .Năm nay Ngũ Hoàng Đại Sát bay vào phương vị Nam, Ngũ Hoàng là Lưu Niên Quan Sát, phương này không nên hưng công động thổ, nếu không tất sẽ đem đến hung hiểm, chỉ bệnh tật huyết quang, tai họa, thất bại, phá tài, kiện tụng, thị phi.Ngoại ý các hung sự, phương này năm nay cũng không được bày bể cá, thảm đỏ, thậm chí bày cây cối chậu cảnh cũng là hung không cát.
Do đây là sao hung hãn nhất không nên gây động tại cung vị này, phải để tĩnh, vì động sẽ làm gia tăng tính hung của nó do đó sẽ không lường trước được hậu quả. Tốt nhất là không đặt tivi hay phòng sinh hoạt chung tại cung này trong năm nay.
Năm nay Cung Tinh tương sinh (Hỏa-Thổ), hung lại càng mạnh, nên Ngũ Hoàng Đại Sát lại càng thêm hung dữ. Nếu bố trí thích đáng, chỉ có văn tài thực vật, sự nghiệp thuận lợi. Nếu bố trí không phù hợp thì bệnh tật huyết quang, tai họa, thất bại, phá tài, kiện tụng, thị phi.
+ PHƯƠNG TÂY NAM : Khôn -Thất Xích (Kim) – hung tinh chủ về sự hao tán tài sản, công danh. Thất  Xích  bay đến là sao thị phi,cát hung vô thường, vượng tại hạ thu, vượng đinh tài thủ nghiệp phát gia, suy thì quan phi khẩu thiệt, đạo tặc ly hương, tật bệnh bất lợi nữ nhân,trải thảm xám để hóa giải .Năm nay Thất Xích Phá Quân Kim bay vào phương Tây Nam, đây là sao quản về Thiên Tài trong vận 8, là một sao chủ quản về tiền tài phi chính thức.
Sao này cũng chủ về nghệ thuật, đối với âm nhạc và các bộ môn giải trí đều có lợi.
Duy bởi Thất Xích Phá Quân là loại cát hung không định, nên sinh vượng không nên khắc, nếu như trong nhà bố cục không đúng hoặc vận dụng sai, tất sẽ có sự trở ngại công việc, vì bạn bè liên đới mà tổn tài phá thân, hoặc có nạn phải mổ sẻ, xướng dâm, giặc trộm, quan tư…
Năm nay Cung Tinh tương sinh (Thổ-Kim), nếu bố cục thích đáng, tất văn võ song toàn, quan lộc song thu, đại quyền vào tay, tài vận cũng tốt.
Nếu bố trí không đúng, tất giao kiếm động sát, gia đình không hòa, e có tổn thương dao kiếm, họa về xe ngựa. Với thân thể, có bệnh về miệng, đau đầu hoặc mưng mủ bầm dập, trong nhà có giặc cướp trộm đọa, hoặc bởi tranh cãi mà gặp quan phi.
+ PHƯƠNG TÂY : Đoài  Tam  Bích  đến là phương gặp  Thái Tuế . Tam Bích (Mộc) – hung tinh chủ về sự tranh chấp, thị phi, hao tốn. Tam  Bích bay đến là sao suy khí hung tinh, dễ bị quan phi tố tụng, thất thoát đạo tặc,sanh bệnh tàn tật, hình thê khắc tử, tai  ách đổ  máu chân có tật, vượng tại đông xuân . 
Năm nay Tam Bích Lộc Tồn hung tinh bay đến phương vị Tây, đây là một Hung Tinh lớn, chủ về tranh đấu thị phi cãi vã quan sự, tai nạn giao thông, cùng các bệnh về gan mật.
Năm nay Cung Tinh tương khắc (Kim-Mộc), nếu bố trí thỏa đáng, tất có thể được phát về tài sản ruộng đất, con cả phát đinh phát tài. Nếu bố trí sai lầm, nếu có thêm loan đầu ác xạ, gia đình ắt bất hòa, vợ chồng không vui vẻ, hay gặp tranh đấu trong công việc, cấp trên ghét bỏ, hoặc vì tổn thương tỳ vị bỏ ăn, hoặc vì tranh đấu mà què chân gãy tay.Tóm lại là một năm vất vả, bôn ba, tranh đấu, có nhiều ngáng trở, con cái ăn chơi bại gia, phụ nữ dễ bị bệnh, vợ chồng trái mắt, vợ nói chồng cãi, trong nhà chỉ thích ăn chơi phá tán, có thể bán cả đất cát nhà cửa, có thể xuất kẻ trộm cắp, cướp giật, con gái lớn thì hư hỏng.
Nếu bố trí sai lầm, tất dễ phạm loan đầu ác xạ, gia đình ắt bất hòa, vợ chồng không vui vẻ, hay gặp tranh đấu trong công việc, cấp trên ghét bỏ, hoặc vì tổn thương tỳ vị bỏ ăn, hoặc vì tranh đấu mà què chân gãy tay.
+ PHƯƠNG TÂY BẮC : Càn – Nhị  Hắc ( hung tinh chủ về bệnh tật, đau ốm) bay đến trợ sinh vượng được tiền được quyền, ,tạo được gia sản, vượng tài đinh, xuất võ chức, nhưng phụ nhân lãm quyền đa mưu khắc nghiệt, vượng tại tháng tứ quí, nên trải thảm xám để giải .Năm nay Nhị Hắc Bệnh Phù Tinh bay vào Tây Bắc phương, sao này chủ bệnh tật đau đớn, da thịt đau nhức xương cốt nhức mỏi, huyết quang, không nên coi thường. Chỗ Bệnh Phù Tinh đến ắt nên hạn chế động thổ, cũng không nên bày bể cá, chậu cảnh, cây cối và thảm đỏ, nếu không tất là khiến Bệnh Phù Tinh càng thêm hung hãn mà khiến thương vong hoặc quan tư.
Năm nay Tinh Cung tương sinh, Thổ (Nhị Hắc) sinh Kim (Tây Bắc) nhưng là sinh xuất, nên giảm một phần sự hung dữ của Nhị Hắc Bệnh Phù Tinh, nếu bố trí sai đi, dễ bị cảm nhiễm bệnh tật hoặc đột phát sức khỏe suy giảm, thậm chí có mổ xẻ, huyết quang, tài vận suy sụp, ác phụ khắc phu, trung nam mất sớm, quả phụ đương gia, nhiều bệnh về dạ dày tỳ vị, phu thê tình bạc, phụ tranh phu quyền, dễ bị bệnh dạ dày, không thể không phòng. Nếu bố trí thích đáng tất chủ văn chức, có giàu về địa sản, gia vượng đinh thịnh, con trai cả mạnh khỏe.
Năm 2017, sao Nhị Hắc nhập Tây Bắc phương, khu vực này không nên bài trí vật dụng mang hành Thổ hoặc Hỏa (vật liệu đá, gốm, sứ, nhựa, pha lê; màu vàng, nâu, đỏ, hồng… mà nên bài trí vật dụng, đặc biệt là các vật phẩm phong thủy mang hành Kim (kim loại, màu trắng), vì Thổ sẽ suy yếu do phải sinh cho Kim.
+ TRUNG CUNG : Nhất  Bạch  đến  - Nhất  Bạch vượng tinh bay đến chủ phát tài đinh văn võ đổ đạt , thứ nhân sinh lợi to vượng tại thu đông , hỷ khí đầy nhà, nên trải thảm màu lục , đặt tiền ngũ đế nơi dưới thảm để tăng thêm uy lực .Nhất Bạch Tham Lang Tinh bay vào trung cung phương (giữa nhà) thuộc Mậu-Kỷ, hành Thổ, Tham Lang là một trong ba sao cát tinh, chủ về Danh Lợi, Thăng Tiến, Văn Quý, Nhân Hòa, Tài Phú, Cảm Tinh cùng Đào Hoa. Năm nay là Cung Tinh tương khắc (Thổ-Thủy), nếu bố trí hợp lý thì trong nhà có nhiều việc vui vẻ, âm dương chính phối, phụ nữ thường sinh con trai, được cả phú quý, đại lợi tiền tài.Nếu bố cục không thích đáng, tất dễ phạm vào phong thấp tâm bệnh, vợ chồng trái mắt, huynh muội bất hòa, trung phòng bại lạc, mắt mờ tai điếc.
2. CẦU PHÚC.
Đinh Dậu Tháng giêng Kỳ phúc cát nhật.
Nguyên Đán mồng 1 Tết năm Đinh Dậu nhằm ngày Ất Mão nạp âm thủy sao Nữ trực Mãn, Quí Thần Tây Nam, Tài Thần Đông Nam, Hỷ thần Tây Bắc . Thắp nhang nên dùng giờ Tý Sửu Mão Thìn đại cát, xuất hành nên dùng giờ Tý Sửu, Mão Thìn , Đi hướng Tây Nam đón Quý thần Tây Bắc đón hỷ thần,
Đi hướng Đông Nam nghinh đón Tài thần đại cát, giờ Dần ,Tị, Mùi Dậu hung, giờ Ngọ mùi triệt lộ không vong bất nghi xuất hành, Ngạc thần tại Đông , Ngũ quỷ Đông Bắc, Tử môn chánh Bắc chớ hướng .
Mồng 4 Ngày Mậu Ngọ .Kị Tuổi -Nhâm Tý, Giáp Tý
Ngày 8 Nhâm Tuất. Kị Tuổi - Bính Thìn, GiápThìn
Ngày 10, Giáp Tý. Kị Tuổi -Mậu Ngọ, Canh Ngọ,
3. KHAI TRƯƠNG :
Đinh Dậu, Tháng giêng Khai thị cát nhật
Mồng 8 Ngày Nhâm Tuất . Kị Tuổi - Bính Thìn, GiápThìn
Ngày 12 Bính Dần . Kị Tuổi - Canh Thân, NhâmThân
Ngày 16 Canh Ngọ . Kị Tuổi - Giáp Tý, Bính Tý
Đinh Dậu Tháng giêng Xuất hành cát nhật
Mồng 4 Ngày Mậu Ngọ . Kị Tuổi - Nhâm Tý, Giáp Tý
Ngày 10 Giáp Tý. Kị Tuổi - Mậu Ngọ, Canh Ngọ,
Ngày 11 Ất Sữu . Kị Tuổi - Kỷ Mùi, Quý Mùi
Năm nay ngày mùng một Tết, ngày Ất Mão – Thuộc Thủy. Sao Nữ. Trực Mãn.
+ Hướng xuất hành:
– Hỷ thần: Tây Bắc.
– Tài thần: Đông Nam.
* Hướng Hỉ Thần : Hướng Tây Bắc. Tốt nhất nên xuất hành về hướng Tây Bắc: Đại cát lợi.
* Hướng Tài Thần: Hướng Đông Nam (Tùy chọn theo sở thích của mỗi người).
Giờ xuất hành: có 6 giờ Hoàng đạo như sau:
– Giờ Tý : Từ 23 đến 1 giờ. (Kỵ tuổi Ngọ. Hợp tuổi Thìn, Thân, Sửu).
– Giờ Dần: Từ 3 đến 5 giờ. (Kỵ tuổi Thân. Hợp tuổi Ngọ, Tuất, Hợi).
– Giờ Mão: Từ 5 đến 7 giờ. Nhưng giờ này lại trùng với giờ “Sát chủ” và “Thọ tử” (Đại hung)
– Giờ Ngọ: Từ 11 đến 13 giờ. Nhưng lại trùng với giờ “Triệt lộ Không vong”, đại kỵ xuất hành.
– Giờ Mùi: Từ 13 đến 15 giờ. Nhưng lại trùng với giờ “Triệt lộ Không vong”, đại kỵ xuất hành.
– Giờ Dậu: Từ 17 đến 19 giờ. (Kỵ tuổi Mão. Hợp tuổi Tỵ, Sửu, Thìn).
Đến giờ Hoàng đạo như trên, xuất hành về hướng Tây Bắc (Hỉ Thần: Đại cát lợi).
(Các tuổi không kỵ, không hợp với giờ xuất hành, vẫn xuất hành tốt, không nhất thiết phải đợi đến giờ hợp tuổi mới xuất hành).
4. THÁI TUẾ.
Trong phong thủy Phi Tinh, Thái  Tuế được coi là một trong ba ngôi sao có ảnh hưởng lớn nhất. Vì vậy, bạn cần biết vị trí của sao Thái  Tuế hằng năm để tránh đối đầu với sao này.
Nên nhớ, tuyệt đối không được “khuấy động” vị trí của sao Thái  Tuế. Tuy nhiên, nếu biết cách khai thác sự hỗ trợ của sao Thái  Tuế, tình trạng phong thủy trong nhà hoặc văn phòng của bạn sẽ được cải thiện.
Vị trí của sao Thái  Tuế theo từng năm và theo hướng nhà hoặc hướng văn phòng:
Năm Tý (2008 và 2020), sao Thái  Tuế ở hướng Bắc. Nếu nhà ở hoặc văn phòng hướng Bắc sẽ bị sao Thái  Tuế.
Năm Sửu (2009 và 2021), sao Thái  Tuế ở hướng Bắc, Đông Bắc. Nếu nhà ở hoặc văn phòng hướng Bắc, Đông Bắc sẽ bị sao Thái  Tuế.
Năm Dần (2010 và 2022), sao Thái  Tuế ở hướng Đông, Đông Bắc. Nếu nhà ở hoặc văn phòng hướng Đông, Đông Bắc sẽ bị sao Thái  Tuế.
Năm Mão (2011 và 2023), sao Thái  Tuế ở hướng Đông. Nếu nhà ở hoặc văn phòng hướng Đông sẽ bị sao Thái  Tuế.
Năm Thìn (2012 và 2024), sao Thái  Tuế ở hướng Đông, Đông Nam. Nếu nhà ở hoặc văn phòng hướng Đông, Đông Nam sẽ bị sao Thái  Tuế.
Năm Tỵ (2013 và 2025), sao Thái  Tuế ở hướng Nam, Đông Nam. Nếu nhà ở hoặc văn phòng hướng Nam, Đông Nam sẽ bị sao Thái  Tuế.
Năm Ngọ (2014 và 2026), sao Thái  Tuế ở hướng Nam. Nếu nhà ở hoặc văn phòng hướng Nam sẽ bị sao Thái  Tuế.
Năm Mùi (2015 và 2027), sao Thái  Tuế ở hướng Nam, Tây Nam. Nếu nhà ở hoặc văn phòng hướng Nam, Tây Nam sẽ bị sao Thái  Tuế.
Năm Thân (2016 và 2028), sao Thái  Tuế ở hướng Tây, Tây Nam. Nếu nhà ở hoặc văn phòng hướng Tây, Tây Nam sẽ bị sao Thái  Tuế.
Năm Dậu (2017 và 2029), sao Thái  Tuế ở hướng Tây. Nếu nhà ở hoặc văn phòng hướng Tây sẽ bị sao Thái  Tuế.
Năm Tuất (2018 và 2030), sao Thái  Tuế ở hướng Tây, Tây Bắc. Nếu nhà ở hoặc văn phòng hướng Tây Tây Bắc sẽ bị sao Thái  Tuế.
Năm Hợi (2019 và 2031), sao Thái  Tuế ở hướng Bắc, Tây Bắc. Nếu nhà ở hoặc văn phòng hướng Bắc, Tây Bắc sẽ bị sao Thái  Tuế.
Khi nhà ở hoặc văn phòng làm việc bị sao Thái  Tuế thì ứng vào các việc nhiều biến động, dễ bị ưu phiền, dễ có bệnh tật, nhiều ngáng trở, cẩn thận gặp tai nạn ngoài ý muốn, nhiều sóng gió, có nhiều áp lực, gặp nhiều chuyện gãy đổ không toại ý, trong công tác có nhiều áp lực, bị tiểu nhân ám hại, vận thế lên xuống vô chừng, bị quan phi, sức khỏe và tai ách.
Cách hóa giải: – Treo trên đầu cửa chính phía trước một kim bài “Bích  Thái  Tuế” là vật phẩm giúp hóa giải nhà bị Thái  Tuế sát chiếu.
5.CHỌN TUỔI XÔNG NHÀ.
* Chọn  người xông nhà theo tuổi :
Chủ nhà tuổi TÝ  nên chọn người tuổi Thân, Thìn, Sửu
Chủ nhà tuổi SỬU  nên chọn người tuổi Tỵ, Dậu, Tý
Chủ nhà tuổi DẦN  nên chọn người tuổi  Ngọ, Tuất, Hợi
Chủ nhà tuổi MÃO nên chọn người tuổi  Tuất, Hợi, Mùi
Chủ nhà tuổi THÌN nên chọn người tuổi  Dậu, Thân, Tý
Chủ nhà tuổi TỴ  nên chọn người tuổi Thân, Dậu, Sửu
Chủ nhà tuổi NGỌ  nên chọn người tuổi Mùi, Dần, Tuất
Chủ nhà tuổi MÙI  nên chọn người tuổi Ngọ, Hợi, Mão
Chủ nhà tuổẫoTHÂN  nên chọn người tuổi Tỵ, Tý,Thìn
Chủ nhà tuổi DẬU  nên chọn người tuổi Thìn, Tỵ, Sửu
Chủ nhà tuổi TUẤT  nên chọn người tuổi Mão, Dần, Ngọ
Chủ nhà tuổi HỢI  nên chọn người tuổi Dần, Mão, Mùi
* Chọn theo mệnh :
Chủ nhà mệnh Kim  nên chọn người mệnh Thổ, Thuỷ, Kim
Chủ nhà mệnh Mộc nên chọn người mệnh Thuỷ, Hoả, Mộc
Chủ nhà mệnh Thuỷ nên chọn người mệnh Kim, Mộc, Thuỷ
Chủ nhà mệnh Hoả nên chọn người mệnh Mộc, Thổ, Hoả
Chủ nhà mệnh Thổ nên chọn người mệnh Hoả, Kim, Thổ
* Chọn theo trạch lưu niên :
Năm nay người 19-28-37-46-55-64-73  được trạch Phúc, tốt
Năm nay người 20-29-38-47-56-65-74  được trạch Đức, tốt
Năm nay người 17-26-35-44-53-62-71  đượctrạch Bảo, tốt
Năm nay người 18-27-36-45-54-63-72  được trạch Phúc, tốt
 Những tuổi còn lại là trạch : Bại, Hư, Khốc, Quỷ, Tử đều xấu 
* Hợp can chi và tương sinh với gia chủ :
Xét theo khía cạnh âm dương ngũ hành, khi chọn người xông nhà cần tìm người hợp về can hoặc chi và tránh người khắc về can hoặc chi. Nếu được hợp cả can lẫn chi là tốt nhất.
Theo hệ can chi, ai sinh vào năm nào trong số 12 con giáp từ Tí (chuột) đến Hợi (lợn) và thuộc thiên can (từ Giáp đến Quý) đều được nạp âm, dương và Ngũ hành. Xét theo tính xung hợp của tuổi can chi gồm có:
1. Đồng khí (đồng cực) thì đẩy nhau, khác khí (khác cực) thì hút nhau, như hai cực của một thanh nam châm đó là tương tác "âm dương".
2. Tương tác "Ngũ hành" theo cơ thể "tương sinh" hay "tương khắc". Đồng hành thì tị hòa.
Theo hai nguyên lý trên, 10 thiên can và 12 địa chi mang tính xung hợp như sau:
Thiên can hợp:
Giáp (dương) hợp Kỷ (âm)
Ất (âm) hợp Canh (dương)
Bính (dương) hợp Tân (âm).
 Đinh (âm) hợp Nhâm (dương)
 Mậu (dương) hợp Quý (âm
Thiên can xung:
* Theo cơ chế đồng khí và ngũ hành tương khắc:
Giáp xung Mậu (cùng là Can dương) - Mộc khắc Thổ; Ất xung Kỷ (cùng là Can âm) - Mộc khắc Thổ; Bính xung Canh (cùng là Can dương) - Hỏa khắc Kim; Định xung Tân (cùng là Can âm) - Hỏa khắc Kim; Mậu xung Nhâm (cùng can Dương) - Thổ khắc Thủy; Kỷ xung Quý (cùng Can âm) - Thổ khắc Thủy; Canh xung Giáp (cùng Can dương) - Kim khắc Mộc; Tân xung Ất (cùng Can âm) - Kim khắc Mộc; Nhâm xung Bính (cùng Can dương) - Thủy khắc Hỏa; Quý xung Đinh (cùng Can âm) - Thủy khắc Hỏa.
* Địa chi hợp:
Lục hợp âm dương có 6 cặp địa chi hợp nhau theo cơ chế "1 âm + 1 dương", gọi là "lục hợp": Tý - Sửu hợp Thổ; Dần - Hợi hợp Hỏa; Mão - Tuất hợp Hỏa; Thìn - Dậu hợp Kim; Tỵ - Thân hợp Thủy; Ngọ - Mùi (Thái dương - Thái âm).
* Tam hợp cục:
 Trong 12 chi, cứ 3 chi phối hợp thành một hình "tam giác đều" đỉnh ở 4 hướng thuộc 4 hành, gọi là "Tam hợp".
Đó là: Thân, Tý, Thìn: Thủy cục; Hợi, Mão, Mùi: Mộc cục; Dần, Ngọ, Tuất: Hỏa cục; Tỵ, Dậu, Sửu: Kim cục. Còn Thổ vì ở Trung tâm nên không thành Cục.
Địa chi xung: Các Chi ở các hướng đối nhau và có các hành tương phản. Đó là: Tý - Ngọ tương xung (Bắc - Nam; Thủy - Hỏa); Mão - Dậu tương xung (Đông - Tây, Mộc - Kim); Tý - Ngọ tương xung (Hỏa - Thủy); Dần - Thân tương xung (Mộc - Kim).
Các chi đối hướng và đồng cực, tức đồng khí cũng xung nhau: Thìn - Tuất tương xung (đều là Dương - Thổ); Sửu - Mùi tương xung (đều âm Thổ).
* Địa chi tương hình 
(là cản trở lẫn nhau, không hòa hợp). Có 3 trường hợp: Tý Ngọ - Mão Dậu; Dần Thân- Tỵ Hợi; Sửu Mùi - Tuất Thìn. Có hai chi tự hình, đó là Thìn với Thìn, Ngọ với Ngọ.
*Địa chi tương hại .
(Tức là làm hại lẫn nhau), có sáu trường hợp: Tý - Mùi tương hại (Thủy - Thổ); Sửu - Ngọ tương hại (Thổ - Hỏa); Dần - Tỵ tương hại (Mộc Thổ); Thân - Hợi tương hại (Kim - Thủy); Dậu - Tuất tương hại (Kim - Thổ).
Ngoài cách chọn tuổi theo can chi, có thể chọn theo ngũ hành của mệnh và chọn người có mệnh tương sinh với mệnh của gia chủ, tránh người có mệnh khắc với mệnh gia chủ, nhưng tránh can hoặc chi khắc can, chi gia chủ.
Ví dụ: Gia chủ tuổi Quý Hợi (mệnh Thủy) nên chọn người mệnh Kim (Canh Tuất, Tân Hợi) xông nhà là tốt vì Kim sinh Thủy. Tránh người có mệnh Thổ (Bính Thìn, Bính Tuất) đến xông nhà vì Thổ khắc Thủy.
6. QUAN ĐƯƠNG NIÊN HÀNH KHIỂN.
Tục xưa tin rằng “Mỗi năm có một vị Hành Khiển coi việc nhân gian, hết năm thì vị thần này giao ban công việc cho vị thần kia, cho nên cúng tế để tiễn đưa thần cũ, đón rước thần mới”.
Thời điểm bàn giao công việc giữa hai vị Hành khiển cùng các Phán quan (giúp việc cho quan Hành khiển) diễn ra hết sức khẩn trương, hơn nữa các vị này là các vị thần cai quản không phải riêng cho một gia đình nào đó mà là mọi công việc dưới trần gian, nên việc làm lễ “Tống cựu nghênh tân” các vị Hành khiển và Phán quan giữa năm cũ và năm mới phải được tiến hành không phải ở trong nhà mà là ngoài trời (sân, cửa). Có 12 vị Hành khiển - hay còn gọi là các vị thần Thời gian. Mỗi vị làm một năm dưới dương gian và cứ sau 12 năm thì lại có sự luân phiên trở lại.
Năm Tý: Chu Vương Hành khiẻn, Thiên Ôn hành binh chi thần, Lý Tào phán quan.
Năm Sửu: Triệu Vương Hành khiển, Tam thập lục phương hành binh chi thần, Khúc Tào phán quan.
Năm Dần: Nguỵ Vương Hành khiển, Mộc Tinh chi thần, Tiêu Tào phán quan.
Năm Mão: Trịnh Vương Hành khiển, Thạch Tinh chi thần, Liễu Tào phán quan.
Năm Thìn: Sở Vương Hành khiển, Hoả Tinh chi thần, Biểu Tào phán quan
Năm Tỵ: Ngô Vương Hành khiển, Thiên Hải chi thần, Hứa Tào phán quan
Năm Ngọ: Tần Vương Hành khiển, Thiên Hải chi thần, Hứa Tào phán quan.
Năm Mùi: Tống Vương Hành khiển, Ngũ Đạo chi thần, Lâm Tào phán quan.
Năm Thân: Tề Vương Hành khiển, Ngũ Miếu chi thần, Tống Tào phán quan
Năm Dậu: Lỗ Vương Hành khiển, Ngũ Nhạc chi thần, Cựu Tào phán quan
Năm Tuất: Việt Vương Hành khiển, Thiên Bá chi thần, Thành Tào phán quan
Năm Hợi: Lưu Vương Hành khiển, Ngũ Ôn chi thần, Nguyễn Tào phán quan
Trong các bài văn khấn giao thừa khi dâng hương ngoài trời đều khấn danh vị của các vị quan Hành khiển cùng các vị Phán quan nói trên. Năm nào thì khấn danh vị của vị quan ấy.
7.THÁI TUẾ NĂM ĐINH DẬU.
*Theo phong tục truyền thông cổ đại của nhân gian tin rằng mỗi năm đều có một vị thần minh coi sóc về mọi sự việc của trần gian. Vị thần cai trị một năm đó gọi là Thái Tuế. Có tát cả là 60 vị Thái Tuế tương ứng với 60 năm của một “hoa giáp” (chu kỳ 60 năm của âm lịch).
Thần Thái Tuế đại đa số là võ tướng xuất thân, nên trong Đạo giáo thần tiên gọi tất cả là “Đại Tướng Quân”. Nhưng mỗi vị Thái Tuế có một phong cách khác nhau, nên việc chấp pháp cũng khác nhau. Từ đó nảy sinh vận trình của mỗi năm sẽ khác nhau.Ví dụ như, Thái Tuế cầm bút thì năm đó có những biến động về chính trị; nếu là Thái Tuế cầm kiếm thì năm đó có nhiều loạn lạc , diễn biến về vũ lực.
Thái Tuế là tên gọi của thần theo Đạo giáo thần tiên , tương truyền là những hung thần của thiên giới. Tín ngưỡng nầy có xuất xứ từ sự sùng bái các sao của người đời xưa. Năm âm lịch thành hình do sự phối hợp giữa 10 can và 12 chi, bắt đầu từ “Giáp Tí” đến cuối 60 năm là “Quý Hợi”(một chu kỳ). Như vậy sẽ có 60 vị Thái Tuế, còn gọi là “Lục thập nguyên thần” hay “Lục thập đại tướng quân”.
*Năm 1190 là năm Canh Tuất, bà Hoàng Thái Hậu Thụy Thánh , mẹ của Kim Chương Tông bị bệnh lâu ngày không khỏi, nên tổ chức “cầu đảo” trị bệnh cho mẹ. Vua cho xây dựng “Đinh Mão Thụy Thánh Điện” (bà mẹ tuổi Đinh Mão) ở Đạo quán . Mục đích là cúng bái vị Thái Tuế năm Đinh Mão gọi là “Lễ Thuận Tinh”, nên Hoàng Thái Hậu được lành bệnh. Vì thế, sau đó cúng bái luôn 60 vị Thái Tuế, cầu cho những năm kế tiếp cũng được tốt lành . Mỗi năm vào ngày mùng tám tháng giêng, đều có tổ chức “ Thuận Tinh Tiết ” (lễ Tết cúng sao). Từ đó, trong dân gian lưu hành rộng rãi việc “cúng sao” mỗi năm.
*Về sau , đời Vĩnh Lạc nhà Minh cho xây dựng Điện Thụy Thánh Bạch Vân Quán ở Đạo quán . Đến đầu đời Thanh, vị Đại Tôn Sư thứ bảy của phái Toàn Chân Long Môn cải danh hiệu lại là “Nguyên Thần Điện”.
*Thái Tuế còn gọi là Thái Tuế Tinh Quân. Về khoa thiên văn, sao Thái Tuế chính là Mộc Tinh trên bầu trời. Chu kỳ của sao Mộc quay quanh Mặt Trời là mười hai năm. Cho nên người xưa gọi sao Mộc là Tuế Tinh hay Thái Tuế, sau phát triển thành Thái Tuế Tinh Quân hay Tuế Quân. Như vậy, tín ngưỡng thờ phụng Thái Tuế có nguồn gốc liên hệ đến các sao trên bầu trời.
*Từ đời Tần, Hán , Thái Tuế được xem là một “hung thần” mà mọi người kính sợ. Có câu :- “Để Thái Tuế hung, phụ Thái Tuế diệc hung” (mạo phạm đến Thái thì bị điều hung, mà nương tựa vào Thái Tuế cũng không hay). Do đó, dân gian tin rằng phương hướng của Thái Tuế là hung phương, cho nên không hướng về phương Thái Tuế, chỉ có thể quay lưng lại là tốt. Không nên động thổ vào phương hướng Thái Tuế của năm đó, nếu phạm sẽ gặp rất nhiều điều không hay. Từ sau đời Nguyên, Minh thì Thái Tuế được cho ghi vào danh sách thờ cúng của triều đình và dân gian để mong cầu “nước yên dân ổn”.
*Câu nói phổ biến : “Thái Tuế đương đầu tọa, vô hỉ khủng hữu họa” (Gặp Thái Tuế chận đầu, nếu không có hỉ sự, tất phải gặp họa). Người mà vận niên phạm Thái Tuế, thì trăm việc không thuận, sự nghiệp bị khó khăn, thân thể đau ốm hoặc bị tai nạn. Muốn cho “tâm an thuận lý” thì người ta đến các Miếu Thờ Thái Tuế để cúng bái, mong nhờ phước lực của Ngài hóa giải điều xấu. Nếu thờ cúng Thái Tuế tại nhà, thì cầu mong được bình an thuận sự, công thương).
*Đến đời Sau , Lưu Tú khởi nghĩa thành công, phong cho các chiến tướng công thần làm “Nhị thập bát tú Thái Tuế”.
*Về sau, có ngài Lục Tục của Đạo Gia xưng tặng những người có đức độ là “Thái Tuế”, được cả thảy là 60 vị.
*Động tác “Bái Thái Tuế” (an vị Thái Tuế) Lục thập thái tuế quản nguyên thần con người dưới nhân gian.
Thái tuế hóa giải nạn kiếp hàng năm bảo hộ nguyên thần cho con người.
1/Người bị phạm Xung Thái Tuế :( tuổi xung với năm) Có tính đối kháng, tấn công , đánh nhau, còn gọi là “phản ngâm” (theo phong thủy).
Đặc điểm của nó là : - trắc trở khó khăn triền miên, bôn ba vất vả đối phó, làm việc gì cũng không thuận lợi. Gặp trường hợp nầy phải hết sức cẩn thận và hạn chế phạm vi hoạt động, đừng mở mang thêm cái mới.
2/- Người bị phạm Trị Thái Tuế :Phong thủy gọi là “phục ngâm”, sức phá hoại kém hơn trên một chút. Gọi là “Trị Thái Tuế” khi tuổi mình trùng với địa chi của năm đó.
Tính chất: - phiền não kéo dài, ít có thuận lợi suông sẻ. Họa phúc mỗi thứ phân nửa, lúc được lúc mất. Phải hết sức tỉnh táo, sáng suốt tìm cách vượt qua khó khăn mới được.
3/- Người bị phạm Hình Thái Tuế : - (tuổi nằm trong tứ xung) có ý nói về hình luật hoặc thương tật. Tuổi và năm rơi vào trường hợp “lục hình” với nhau (xem bảng lục hình).
Năm thái tuế: - thị phị khẩu thiệt, tai bay vạ gió, việc đến ngoài ý muốn. Kỵ việc bảo lãnh cho người, lưu ý các hợp đồng ký kết… dễ động đến cửa quan.
Thái Tuế thường cúng ở điện Đẩu Mẫu Nguyên Quân và sáu mươi nguyên thần. Cai quản bản mệnh sáu mươi năm của con người thì công đức, vô tại vô hạn hóa rủi thành may tài lộc hưng vượng.
Chọn ngày lành giờ tốt mà thờ lễ thái tuế nguyên thần:
Ngày 12 tháng giêng – La Thiên tuế .
Ngày 3 tháng 3 Ngô Thiên tuế .
Ngày 8 tháng 3 Triệu Thiên tuế .
Ngày 1 tháng 5 Phong Thiên tuế .
Ngày 5 tháng 5 Hầu Thiên tuế .
Ngày 6 tháng 5 Tiết Thiên tuế . 
Ngày 7 tháng 5 CảnhThiên tuế .
Ngày 12 tháng 5 Lư Thiên tuế .
Ngày 19 tháng 7 Trị niên Thiên tuế .
Ngày 3 tháng 8 Từ Thiên tuế .
Ngày 12 tháng 8 Hà Thiên tuế .
Ngày 9 tháng 9 Đẩu mẫu nguyên quân trị niên thái tuế
Ngày 1 tháng 12 Đàm Thiên tuế .
Ngoài việc “Bái Thái Tuế”, còn phải đeo một miếng cổ ngọc hoặc dán phù Thái Tuế để hóa giải xấu ác.
Thái Tuế ngoài việc thể hiện vận trình chung của lưu niên năm đó, còn ảnh hưởng đến mệnh vận của con người . Nếu sinh tiêu (tuổi) của người nào không hợp với lưu niên Thái Tuế, gọi là “phạm Thái Tuế”, thì vận trình năm của người đó không tốt, phải dùng phương pháp “Nhiếp Thái Tuế” để hóa giải.
*Trong nội điện của Điện Nguyên Thần ở Bạch Vân Quán Đạo quán , không những thờ 60 vị Thái Tuế mà còn thờ Đẩu Mẫu Nguyên Quân và Tả Phù , Hữu Bật. Căn cứ vào sách Đạo Tạng trong chương Nguyên Thần liệt kê 60 vị Thái Tuế, cùng với tả hữu tổng cộng thành một trăm tám mươi vị, do số 60 nhân 3 mà thành.
(1) Thái Tuế năm Giáp Tý là Kim Biện Tổ Sư (金辦祖師), 
(2) Thái Tuế năm Ất Sửu là Trần Tài Tổ Sư (陳材祖師), 
(3) Thái Tuế năm Bính Dần là Đam Chương Tổ Sư (耿章祖師), 
(4) Thái Tuế năm Đinh Mão là Trầm Hưng Tổ Sư (沉興祖師), 
(5) Thái Tuế năm Mậu Thìn là Triệu Đạt Tổ Sư (趙達祖師), 
(6) Thái Tuế năm kỷ tỵ là Quách Xán Tổ Sư (郭燦祖師), 
(7) Thái Tuế năm Canh Ngọ là Vương Thanh Tổ Sư (王清祖師), 
(8) Thái Tuế năm Tân Mùi là Lý Tố Tổ Sư (李素祖師), 
(9) Thái Tuế năm Nhâm Thân là Lưu Vượng Tổ Sư (劉旺祖師), 
(10) Thái Tuế năm Quý Dậu là Khang Chí Tổ Sư (康志祖師), 
(11) Thái Tuế năm Giáp Tuất là Thí Quảng Tổ Sư (施廣祖師), 
(12) Thái Tuế năm Ất Hợi là Nhiệm Bảo Tổ Sư (任保祖師), 
(13) Thái Tuế năm Bính Tý là Quách Gia Tổ Sư (郭嘉祖師), 
(14) Thái Tuế năm Đinh Sửu là Uông Văn Tổ Sư (汪文祖師), 
(15) Thái Tuế năm Mậu Dần là Tằng Quang Tổ Sư (曾光祖師), 
(16) Thái Tuế năm Kỷ Mão là Long Trọng Tổ Sư (龍仲祖師), 
(17) Thái Tuế năm Canh Thìn là Đổng Đức Tổ Sư (董德祖師), 
(18) Thái Tuế năm Tân Tỵ là Trịnh Đán Tổ Sư (鄭但祖師), 
(19) Thái Tuế năm Nhâm Ngọ là Lục Minh Tổ Sư (陸明祖師), 
(20) Thái Tuế năm Quý Mùi là Ngụy Nhân Tổ Sư (魏仁祖師), 
(21) Thái Tuế năm Giáp Thân là Phương Kiệt Tổ Sư (方杰祖師), 
(22) Thái Tuế năm Ất Dậu là Tương Sùng Tổ Sư (蔣崇祖師), 
(23) Thái Tuế năm Bính Tuất là Bạch Mẫn Tổ Sư (白敏祖師), 
(24) Thái Tuế năm Đinh Hợi là Phong Tề Tổ Sư (封齊祖師), 
(25) Thái Tuế năm Mậu Tý là Trịnh Thang Tổ Sư (鄭鏜祖師), 
(26) Thái Tuế năm Kỷ Sửu là Phan Tá Tổ Sư (潘佐祖師), 
(27) Thái Tuế năm canh dần là Ổ Hoàn Tổ Sư (鄔桓祖師), 
(28) Thái Tuế năm Tân Mão là Phạm Ninh Tổ Sư (范寧祖師), 
(29) Thái Tuế năm Nhâm Thìn là Bành Thái Tổ Sư (彭泰祖師), 
(30) Thái Tuế năm Quý Tỵ là Từ Hoa Tổ Sư (徐華祖師), 
(31) Thái Tuế năm Giáp Ngọ là Chương Từ Tổ Sư (章詞祖師), 
(32) Thái Tuế năm Ất Mùi là Dương Tiên Tổ Sư (楊仙祖師), 
(33) Thái Tuế năm Bính Thân là Quản Trọng Tổ Sư (管仲祖師), 
(34) Thái Tuế năm Đinh Dậu là Đường Kiệt Tổ Sư (唐傑祖師), 
(35) Thái Tuế năm Mậu Tuất là Khương Võ Tổ Sư (姜武祖師), 
(36) Thái Tuế năm Kỷ Hợi là Tạ Đảo Tổ Sư (謝燾祖師), 
(37) Thái Tuế năm Canh Tý là Ngu Khởi Tổ Sư (虞起祖師), 
(38) Thái Tuế năm Tân Sửu là Dương Tín Tổ Sư (楊信祖師), 
(39) Thái Tuế năm Nhâm Dần là Hiền Ngạc Tổ Sư (賢諤祖師), 
(40) Thái Tuế năm Quý Mão là Bì Thời Tổ Sư (皮時祖師), 
(41) Thái Tuế năm Giáp Thìn là Lý Thành Tổ Sư (李誠祖師), 
(42) Thái Tuế năm Ất Tỵ là Ngô Toại Tổ Sư (吳遂祖師), 
(43) Thái Tuế năm Bính Ngọ là Văn Triết Tổ Sư (文哲祖師), 
(44) Thái Tuế năm Đinh Mùi là Mậu Bính Tổ Sư (繆丙祖師), 
(45) Thái Tuế năm Mậu Thân là Từ Hạo Tổ Sư (徐浩祖師), 
(46) Thái Tuế năm Kỷ Dậu là Trình Bảo Tổ Sư (程寶祖師), 
(47) Thái Tuế năm Canh Tuất là Nghê Bí Tổ Sư (倪秘祖師), 
(48) Thái Tuế năm Tân Hợi là Diệp Kiên Tổ Sư (葉堅祖師), 
(49) Thái Tuế năm Nhâm Tý là Kheo Đức Tổ Sư (丘德祖師), 
(50) Thái Tuế năm Quý Sửu là Chu Đắc Tổ Sư (朱得祖師), 
(51) Thái Tuế năm Giáp Dần là Trương Triều Tổ Sư (張朝祖師), 
(52) Thái Tuế năm Ất Mão là Vạn Thanh Tổ Sư (萬清祖師), 
(53) Thái Tuế năm Bính Thìn là Tân Á Tổ Sư (辛亞祖師), 
(54) Thái Tuế năm Đinh Tỵ là Dương Ngạn Tổ Sư (楊彥祖師), 
(55) Thái Tuế năm Mậu Ngọ là Lê Khanh Tổ Sư (黎卿祖師), 
(56) Thái Tuế năm Kỷ Mùi là Phó Đảng Tổ Sư (傅黨祖師), 
(57) Thái Tuế năm Canh Thân là Mao Tử Tổ Sư (毛梓祖師), 
(58) Thái Tuế năm Tân Dậu là Thạch Chính Tổ Sư (石政祖師), 
(59) Thái Tuế năm Nhâm Tuất là Hồng Sung Tổ Sư (洪充祖師), và 
(60) Thái Tuế năm Quý Hợi là Ngu Trình Tổ Sư (虞程祖師).
Thái Tuế năm Bính Thân là Quản Trọng Tổ Sư (管仲祖師).
BÀI VỊ CÚNG THÁI TUẾ NĂM ĐINHN DẬU.
Đinh Dậu Niên Thái Tuế Khang Kiệt Tinh Quân, Trực Thái Tuế tuổi  Dậu Xung Tuế tuổi Mão, Hình Tuế tuổi Dậu, các tuổi nầy nên cúng đễ cát .

dienbatn tổng hợp từ các nguồn tư liệu. Thân ái. dienbatn.

Xem chi tiết…

THỐNG KÊ TRUY CẬP

LỊCH ÂM DƯƠNG

NHẮN TIN NHANH

Tên

Email *

Thông báo *