CUỘC CHIẾN GIỮA CÁC PHÁP SƯ VÀ HAI CÕI ÂM DƯƠNG. BÀI 30.

11/10/2017 |
CUỘC CHIẾN GIỮA CÁC PHÁP SƯ VÀ HAI CÕI ÂM DƯƠNG. BÀI 30.
NHỮNG NĂM THÁNG HỌC HUYỀN MÔN.
Từ phần này trở đi có tên gọi là NHỮNG NĂM THÁNG HỌC HUYỀN MÔN. Đó là những tháng ngày vô cùng vất vả, trải nghiêm đủ Hỉ- Nộ- Ái - Ố của dienbatn . Cũng đã qua từ lâu rồi , xin kể lại để các bạn cùng chiêm nghiệm . Thân ái. dienbatn. 
PHẦN 3 : NHỮNG CUỘC LỮ HÀNH.

Hai hôm sau , Thầy trò tôi đã có mặt tại Sài Gòn . Thày Chàm dẫn tôi đi thăm những người bạn già của Thày tại đây . Tại Sài Gòn có rất nhiều cao thủ Huyền môn đang sinh sống và tu luyện . Thông thường các Thày sau khi tu luyện trên núi , khi Hạ sơn thường chọn Sài Gòn làm nơi hành nghề và đón tiếp , giao lưu với các cao thủ của môn phái khác . Chúng tôi đến một quán Càfe tại Xóm Củi quận 4. Nơi đây là nơi tụ tập của các “ Linh Căn – Linh cẳng” của cả Sài Gòn và các tỉnh lân cận. Ông chủ quán cũng là người trong Huyền môn. Quán này chỉ có Càfe và mì chay nhưng ngày nào cũng có vài chục vị “ Linh Căn – Linh cẳng” ngồi đồng. Các vị “ Linh Căn – Linh cẳng” này rất lạ, thường thì ngồi im , ngó mông lung người qua người lại , hoặc trò chuyện những chuyện chẳng ăn nhập gì đến Huyền môn cả.  Tuy nhiên , những người trong Huyền môn sẽ biết rõ họ là ai ,có thể tìm ở đâu ? và họ có thể làm gì. Hai Thày trò chúng tôi chọn một bàn nơi góc khuất và kêu 2 cái Bạc sửu . Vừa ngồi xuống ghế , tôi bất chợt thấy Thày Chàm cười nhạt một tiếng và giơ ngón tay trỏ vẽ một vòng tròn trước mặt rồi thản nhiên bê ly Bạc sửu nhấp một hụm. Cũng gần như ngay lập tức , tôi thấy những làn sóng xung kích ào ạt tràn tới khiến như muốn ngộp thở.Nhớ lời Thày dạy, tôi cung tay lẩm bẩm câu Chú tấn công địch thủ có Bùa : “ Ý sơn nhơn ý thá má tế ma tha hét thét gần măng lầy căn hăng á “ . Hàng loạt tiếng cười ầm ĩ nổi lên khắp quán. Nhướng mắt nhìn xung quanh, tôi thấy một vị còn khá trẻ ngồi ngay cửa quán mắt trợn ngược , xùi bọt mép ra. Thày Chàm chạy lại vỗ lên đỉnh đầu anh ta mấy cái , lập tức anh ta tỉnh lại. Lúc này , mọi người mới xích ghế ngồi quanh bàn càfe chúng tôi ngồi , cười nói vui vẻ, hỏi chuyện Thày Chàm. Chuyện thường ngày ở Huyện. Tuy hình dong , bộ dạng và hành động của họ có vẻ cổ quái , nhưng khi tiếp xúc nói chuyện với họ , dienbatn thấy họ vô cùng dễ mến và đáng tin cậy.Trong số những người này , đa phần là những vị hành nghề , soi căn , coi bói , giải thư ếm , chữa bệnh bằng bùa phép , Thày Ngải , làm phong thủy nhà cửa , đất cát ….Trong buổi sáng hôm đó , Thày Chàm giới thiệu cho dienbatn làm quen và kết giao được với một số đồng Đạo mà về sau này , trên con đường Thiên lý của mình , dienbatn được họ trợ duyên hết sức hiệu quả . 
Chiều đó, chúng tôi đến thăm các vị tu tại ĐIỆN ĐÀI THÁI BẠCH . Đây là nơi thờ tự và tu luyện của các vị bên phái Thiên Khai Huỳnh Đạo của Đạo Cao Đài. Theo lời dạy của các vị tu tại đây thì Thiên Khai Huỳnh Đạo Theo chu kỳ của Tạo hóa, nay buổi tàn ngươn mạt pháp, Tam giáo thất chơn truyền, nhân tâm ly tán, Tam ngươn một thuở Thượng đế ban truyền Huỳnh Đạo để mở lại một cuộc tuần hoàn dài 12 vạn 9 ngàn 6 trăm năm.Thượng đế thương xót nhân loài trong cơn điên đảo vì văn minh vật chất và dục vọng đa đoan, nên Đức Thượng Đế ban truyền đây là thời kỳ Đại xá và độ tận chúng sanh (nghĩa là chọn lọc bậc hiền nhân đức độ, phân tà lọc chánh để phán xét Đại đồng ở ngày Long Hoa đại hội, đại xá nghĩa là tất cả tội lỗi xưa kia đều xóa bỏ, không phân biệt kẻ hiền, kẻ dữ, ai cũng có thể được nghe những chơn lý đạo đức hầu hướng về con đường thiện).
Đạo Cao Đài được Đức Ngọc hoàng Thượng Đế khai sáng từ năm Bính Dần (1926) với lời tiên tri 36 năm thành Đạo. Nhưng đến 36 năm (1962), vì cảnh khảo đảo của Ma Vương, Đạo Cao Đài chỉ thành về mặt vô vi với Huỳnh Đạo ra đời tiếp nối.
Vì kỷ nguyên Đạo Vàng đệ nhứt,
Nối Cao Đài lãnh vực phổ hoằng,
Tam kỳ chiếu diệu hạ tầng,
Thiên Khai Huỳnh Đạo chuẩn thằng Ngũ châu.
Sau đó do lời cầu xin của Đức Diêu Trì Kim Mẫu Vô Cực Đại Từ Tôn ban hồng ân cho “Tam niên đại xá”.
Vì thế tuy đã ban sơ từ Hội Thánh Cao Đài Nhị Giang 1959 rồi về Long Vân Đại Pháp Nam Thành Thánh Thất ( Đường Nguyễn Cư Trinh Quận 1 ) và Long Vân Đại Đàn cuối năm 1961 nhưng mới được Đức Thượng Đế chánh thức ban truyền bắt đầu từ năm Nhâm Dần (1962).
Do Thiên cơ biến chuyển, từ năm Nhâm Dần đến nay là 11 năm, Huỳnh Đạo gồm có nhiều giai đoạn như sau:
1/ Tam niên Đại xá:
Đó là bắt đầu năm 1962, Đức Diêu Trì Kim Mẫu khải tấu với Đức Thượng Đế xin “Tam niên ân thọ” để cho các nguyên căn linh vị trường chay, luyện pháp hầu trở về ngôi vị ngàn xưa khỏi sống lộn với thú cầm.
Lòng từ bi của Đức Mẹ đã thể hiện:
“Ba sáu năm khai tuồng Đại Đạo,
Để ngày nay hoài bão nhuyên nhân,
Hai phen nhập hóa thức thần,
Thiên Khai Huỳnh Đạo chuyển trần Tam Niên”
2/ Ngũ niên Chuyển xá:
Bắt đầu từ tháng 8 năm Giáp Thìn (1964). Vì chánh pháp chưa minh, Đức Thượng Đế và Đức Diêu Trì Kim Mẫu gia ân thêm “Ngũ niên chuyển xá” do sự cầu nguyện của chúng sanh và Thánh Thần Tiên Phật khải tấu. Và kể từ đó Đức Di Lặc được sắc chỉ lâm phàm tái tạo Thượng ngươn.
Những phần minh chứng điều này như sau:
“Từng cao vòi vọi lưới Trời,
Thầy minh còn rõ những lời Phật Tiên.
Ân từ Điệp sắc “Ngũ niên”
Là phần Di Lặc quản quyền mà thôi”
Như vậy, Ngũ niên chuyển xá là hồng ân đại xá và quản quyền của vị Đương lai Giáo chủ Long Hoa Hội Thượng là Di Lặc Phật Vương Thiên Tôn vậy.
3/ Tứ niên tuyển pháp:
Sau 5 năm ân xá là “Tứ niên tuyển pháp” mà Đức A Di Đà Phật đã hội chung Tam giáo cầu xin Thượng Đế gia giảm nhân loài để tuyển quy hàng Tam công hầu dự hội Long Hoa.
4/ Tứ niên hậu xá:
Lòng từ bi vô lượng, trước Tòa Tam giáo, kể từ năm Nhâm Tý (1972) Đức Hồng Quân Thượng Tổ ban ân cho “Tứ niên hậu xá” hầu kết thúc cơ Long Hoa diễn biến.
Thầy đã dạy rằng:
“Truyền Tam giáo ân hồng Nhâm Tý
Kể từ nay là kỷ nguyên hòa,
‘Tứ niên hậu xá’ Long Hoa
Của Thầy lập pháp gọi là cho chung”
1/ Căn bản:
Thiên Khai Huỳnh Đạo đặt trên căn bản “Nhân, Nghĩa, Thành, Tín”
a) Nhân: là tình thương, lòng từ ái không giới hạn trong không gian và thời gian.
- Đối nội: (với mình) tự mình phải rèn luyện một tinh thần đạo đức nghĩa là phải có lòng khoan hồng, bác ái, việc gì cũng thuận theo lẽphải.
- Đối ngoại: có lòng nhân đối với người nghĩa là cái gì mà bản thân mình mong muốn thì đem ra thi hành cùng với mọi người và không bao giờ bị tư ý ràng buộc.
b) Nghĩa: là định rõ các phận cho điều hòa để xử sự bất kỳ trong mọi trường hợp cho phải lẽ và hợp lý. Nghĩa với gia đình, nghĩa với xã hội nước non, thấy điều bất công mà ra tay tế độ là người thi nghĩa vậy.
c) Thành: là sự thành thật không sai ngoa, dốc lòng tin tưởng vào một việc gì. Có câu rằng: “Đạo gốc bởi lòng thành, tín hiệp” nghĩa là Đạo, cái bổn gốc của nó là do tâm thành khẩn và lòng tin tưởng mới có mà thôi.
d) Tín: là do sự tin tưởng mà người khác đặt vào mình. Tín là điều kiện thiết yếu để thắt chặt tình bằng hữu và có sự tin cậy lẫn nhau.
2/ Tôn chỉ: Trên mọi phương diện hành Đạo, Huỳnh Đạo đặt tôn chỉ là “Từ bi, Bác ái, Công bình”
- Từ bi: thấy sự khổ đem lòng nhân, lòng hiền mà thương xót.
- Bác ái: lòng thương vô cùng rộng lớn.
- Công bình: không vị nể, thiên lệch.
Phải thể hiện đức từ bi rồi đi lần đến bác ái, công bình, vì có từ bi rồi mới thương chung muôn loài vạn vật thực hiện đức bác ái, và từ đó mới rõ lẽ công bình.
3/ Mục đích:
a) Cứu thế lập đời: Trong thời mạt pháp, Huỳnh Đạo có sứ mạng độ dẫn nhân sanh hướng thiện hầu lập lại đời Thánh Đức thượng ngươn.
b) Thống Ngũ chi, Quy Tam giáo: Nghĩa là Huỳnh Đạo sẽ quy Ngũ chi và Tam giáo gom về một mối là Trung ương, vì Huỳnh Đạo chính là Vô vi Đại đạo dùng sắc Huỳnh nơi Trung ương Mồ Kỷ Thổ.
c) Đoạt cơ siêu thoát: Những Thiên phong Huỳnh Đạo sẽ dùng Tam Thiên Bí Pháp (nam) và Di Đà Mật Chỉ (nữ) rèn luyện thành Kim Thân Thánh Thể giải thoát trở về nguyên vị và ứng trợ cơ Long Hoa` “đại vận sát”.
Chơn truyền của Huỳnh Đạo là chơn truyền của Tam giáo, đầy đủ và trọn vẹn hơn gồm ba đặc điểm về Sự, Lý, Pháp.
a) Về Sự: Huỳnh Đạo hiểu theo lẽ cao nhiên chứ không tầm thường như thế nhân thường hiểu.
- Như về hiếu, không phải chỉ chăm nom phụng dưỡng mà phải trọn dạ thương yêu khi sanh tiền cũng như lúc quá vãng, nghĩa là cứu vớt linh hồn Cửu Huyền Thất Tổ bằng cách lập công bồi đức vẹn vẽ tu hành.
- Như tín, giữ chữ tín vì do lòng thương yêu sợ người khác đợi chờ, nghĩa là vì người chứ không vì bản ngã cá nhân.
b) Về Lý: Với lý siêu từa, Huỳnh Đạo quan niệm cái lý trường miên thoát tục chớ không ngắn ngủi trong vòng trăm tuổi. Quan niệm về thân tứ đại, không phải quá vì thân này mà cũng không ép mình khổ hạnh thân xác. Đó là lú siêu nhiên của Huỳnh Đạo: “chơn và giả phải đi đôi với nhau”.
c) Về Pháp: Huỳnh Đạo không chấp ở hữu hay vô mà cả hữu vô trọn vẹn, gồm Tiên Thiên và Hậu Thiên ứng hóa, không nhắm vào một sự ứng nghiệm, một huyền linh nhất thời nào về hữu hình hay vô hình mà Huỳnh Đạo chỉ nhắm vào cái lẽ miên trường, vĩnh cửu nơi cõi Thượng Thiên an nhàn tự toại.
Tóm lại, với tôn chỉ và mục đích rõ ràng, Huỳnh Đạo không những là cơ Đạo thuần túy dân tộc, lấy đức từ bi chan rãi cho tất cả nhân loài, dụng lòng vị tha và xả kỷ để độ khắp trần ai lánh mê giải khổ (tìm về con đường giải thoát siêu linh), mà Huỳnh Đạo còn là cơ duyên đại kiếp, là cơ sảy sàng tuyển trạch những nguyên căn linh vị. Ai hữu phước, hữu duyên nhứt lòng vì Thầy, vì Đạo thì sẽ được ân hồng trong kỳ ba mạt pháp, lãnh bí truyền do chính ơn trên truyền dạy để hiển đoạt thần thông hầu quy hồi cựu vị. Còn người vì chốn mê đồ, danh bả thì ngày phán xét cuối cùng sẽ tường minh phận số.
Thời kỳ này là thời mạt pháp, bao cảnh tang thương bao hồi ly tán, Đức Thượng Đế vì lòng hiếu sinh ban rãi cho nhân sanh mối Đạo Vàng thâm diệu, thì nhân sanh sau khi đã am tường thấu đáo những yếu lý cao siêu của Huỳnh Đạo hãy cố gắng hồi đầu hướng thiện học chữ tu hành, trước là tự cứu bản thân, sau là độ rỗi linh hồn Cửu Huyền Thất Tổ được siêu thăng tịnh độ.
Nam mô Huỳnh Đạo cứu đời,
Thuấn Nghiêu tái lập ơn Trời nhuận ban.
Trong Thiên Khai Huỳnh Đạo , khi đặt Pháp danh , đàn ông lấy chữ Thiên , Đàn bà lấy chữ Diệu làm tên đầu Pháp danh .
Tại đây  , dienbatn làm quen và rất mến với hai huynh Thiên Bảo và Thiên Nhiên Kỷ . Huynh Thiên Bảo trạc ngoài 70 tuổi , trông mình mai xương hạc , Phong Tiên Đạo cốt . Huynh Thiên Nhiên Kỷ khi viết bài trên Tuvilyso lấy bút hiệu DaoKy. Sự hiểu biết và kiến thức về Huyền môn , về các tông phái Đạo giáo của hai Huynh hết sức sâu rộng . dienbatn gặp được hai Huynh Thiên Bảo và Thiên Nhiên Kỷ thật vui và học thêm được rất nhiều kiến thức mà mình còn khiếm  khuyết.
Thày Chàm cũng dẫn tôi về thăm Tổ Đình Quốc Tổ Lạc Hồng tại Nguyễn Thái Sơn – Gò Vấp.
Tổ Đình Quốc Tổ Lạc Hồng tọa lạc tại số 94 đường Nguyễn Thái Sơn Quận Gò Vấp Thành Phố Hồ Chí Minh đã được xây dựng từ năm 1962 (lúc này tên đường là Phan Thanh Giản) là nơi để người Việt tưởng nhớ Tổ Tiên, nguồn cội.
Vào năm 1962, ông kiến trúc sư Võ Văn Tần đã hiến 600m2 đất tọa lạc trên gò mả đường Phan Thanh Giản (nay là đường Nguyễn Thái Sơn) cho ông Phan Công Khâm dùng để làm nơi thờ tự dưới danh nghĩa Hội Thánh Thiên Khai Huỳnh Đạo.
Đầu năm 1963, ông Phan Công Khâm, pháp danh Sơn Hồng Đăng (Pháp chủ Huỳnh Đạo lúc bấy giờ), cùng với ông Ngô Hoàng Dư (Chưởng giáo Huỳnh Đạo) đã qui tụ số đông bô lão trí thức yêu nước thành lập ngôi thờ tự dưới tên gọi Bửu Tòa Di Lạc. Thành phần ban phụng tự lúc này do ông Ngô Hoàng Dư làm trưởng ban cùng với một số tri thức cùng nhau cai quản ngôi thờ tự.
Ngôi Bửu tòa Di Lạc được hoàn thành vào năm 1964 thờ phật Di Lạc trên tầng gác, chánh điện thờ Vua Hùng Vương, bên trái chánh điện thờ Lạc Long Quân Phụ, còn bên phải thì thờ Hồng Bàng Tiên Mẫu. Vào mùng 10 tháng 3 âm lịch – ngày giổ tổ Hùng Vương và mùng 5 tháng 5 âm lịch – lễ Hồng Bàng Tiên Mẫu có đông đảo đồng bào qui tụ về lễ bái trang trọng. Ngoài những ngày lễ thì ngày rằm và mùng một hàng tháng cũng thường xuyên có khách thập phương về đây dâng hương.
Đến năm 1969, ông Ngô Hoàng Dư qui liễu. Ông Sơn Hồng Đăng và các bô lão vẫn tiếp tục thờ cúng, tu bổ ngôi Bửu Tòa.
Đến năm 1975, ông Sơn Hồng Đăng về sinh sống ở Cần Thơ và gửi cho ông Nguyễn Văn Bửu pháp danh Thiên Án làm trụ trì, trông coi hương hỏa. Đây là thời gian mà Thiên Khai Huỳnh Đạo hoạt động rất rầm rộ.
Đến năm 1993, ông Thiên Án qua đời, ông Sơn Hồng Đăng trở lại tiếp tục tiếp quản Bửu Tòa, giải tán Hội Thánh Thiên Khai Huỳnh Đạo, và dẹp bỏ những lễ nghi không phù hợp với việc thờ Quốc Tổ. Theo lời di huấn của các bậc tiền nhân gửi gắm, ông Sơn Hồng Đăng đã chính thức chuyển đổi ngôi Bửu Tòa Di Lạc thành Tổ Đình Quốc Tổ Lạc Hồng, hướng về nguồn cội, thờ phụng tổ tiên theo nguồn gốc lịch sử dân tộc. Thời gian này , việc thờ cúng Quốc Tổ Hùng Vương chưa được công nhận nên mọi hoạt động còn bị ngăn cản rất nhiều từ phía chính quyền.
Như vậy, qua bao thăng trầm đổi thay của thời cuộc, vào đầu thập niên cuối thế kỷ XX, Tổ Đình Quốc Tổ Lạc Hồng đã chính thức ra đời ở ngay trung tâm phía Nam của tổ quốc.
Từ ngã năm công viên Gia Định đi theo đường Nguyễn Thái Sơn không xa, một ngôi Tổ Đình trang nghiêm mang tên “Quốc Tổ Lạc Hồng”. Cửa chính đi vào là điện thờ Quốc Mẫu Âu Cơ, trên bệ cao tượng Mẹ Âu Cơ, được đúc bằng đồng từ những năm 70 của thế kỷ trước theo hình vẽ của họa sỹ Thụy Lam, dáng đứng thẳng, mắt nhìn về phương Nam. Tay phải, Mẹ cầm bó lúa, tay trái vuốt nhẹ đầu rồng, hai bên có cặp hạc đứng trên lưng rùa chầu Quốc Mẫu. Hai bên vách trước điện có đôi câu đối “Trông biển nhớ ơn Cha”, “Nhìn non thương nghĩa Mẹ” như nói hộ tấm lòng của hàng triệu đồng bào tri ân Quốc Mẫu.
Tầng gác phía trên điện Quốc Mẫu là nơi thờ Quốc Phụ Lạc Long Quân, sừng sững ngay chánh điện là pho tượng Cha Lạc khoát áo Long Mã Phù Đồ tay trái cầm khúc tre, tay phải cầm bụi lúa, ngồi xếp chân, cặp mắt to nhìn thẳng có thần sắc uy nghi mà ai mới nhìn lần đầu cũng khép mình tôn kính.
 Đi vào bên trong là Hùng Vương Bửu Điện thờ Quốc Tổ Hùng Vương. Pho tượng Vua Hùng, từ trước tới nay không thay đổi, uy nghi đứng trên quả địa cầu có năm rồng chầu. trên tay trái của Vua cầm kim ấn thể hiện vương quyền và trên tay phải cầm thánh chỉ như răn dạy cháu con noi theo di huấn.
Phía trước Vua Hùng là cặp hạc đứng trên lưng  rùa ngẩng cao đầu chầu Quốc Tổ, được đặt giữa chánh điện là phiên bản trống đồng ngọc lũ, một trong những quốc bảo của nhà nước Văn Lang, để khách viếng thăm chiêm ngưỡng.
Trong các bức tường phía ngoài cổng đi vào , treo các tranh đề thơ của nhiều ẩn sĩ viết tặng Tổ Đình.
Chối từ trung hiếu với Trời xanh.
Còn kiếp nào đâu để tựu thành.
Sự sống thời gian là hiện tượng.
Giác là vô diệt – Ngô vô sanh.
THRT.
THỜI GIAN CÓ TRƯỚC CÓ SAU.
GIÁC NGỘ KHÔNG SAU , KHÔNG TRƯỚC.
Có những niềm vui rất lạ thường,
Chìm trong ý niệm , niệm không vương.
Biến thành năng lực vô sanh , diệt.
Mở khiếu Đồ thơ , xóa ngục đường.
THRT.
Một dân tộc mất đi nền Văn minh mẹ đẻ thì sớm bị nô lệ, muộn sẽ đồng hóa tiêu vong.
Hãy nhớ tương lai nhiều biến đổi ,
Nhưng không đổi biến được hồn thiêng.
LẠC LONG QUÂN PHỤ -ÂU CƠ MẸ,
Chờ đợi vung tay Quốc lệnh truyền.
THRT.
Muốn thoát ra ngoài phải vào trong,
Chưa thành Tiên , Phật chớ quên lòng.
Hạt sen chẳng bám nơi bùn , bụi.
Thì đến muôn đời chẳng trổ bông.
Công Hầu Khanh Tướng thủa nào đây ?
Cùng một lần qua ở lối này.
Thế hệ đổi thay người cũ mới,
Mà mây còn trắng vẫn còn bay.
………………………………..
Có phải Hồn thiêng của núi sông,
Mất đi từ thủa mất cha ông ?
Nay ta dựng dậy Hồn sông núi,
Để trả Hồn thiêng lại núi sông.
THRT.
Một cuộc chia tay rất diệu huyền,
Của Cha và mẹ rất thiêng liêng.
Vì con trăm trứng thời gian biến,
Quên cả tư tình , hạnh phúc riêng.
………………………………….
Trải bao thế hệ vẫn oai cường,
Dựng nước Vua Hùng mở sử cương.
Hào kiệt , Anh thư thề nối nghiệp,
Từ trong bọc trứng nở yêu thương.
Vì Thày Chàm có việc phải về ngoài miền Trung nên dienbatn ở lại Thành phố Sài Gòn tranh thủ thăm hỏi và giao lưu với các Huynh đệ , tỉ muội ở đây .
Hai huynh Thiên Bảo và Thiên Nhiên Kỷ trong thời gian này giành rất nhiều thời gian và công sức , truyền đạt lại những hiểu biết về Thiên Khai Huỳnh Đạo cho dienbatn . Vào một ngày đẹp trời , tại Liên Hoa Cửu Cung Thủ Đức , hai huynh Thiên Bảo và Thiên Nhiên Kỷ làm lễ Quán đảnh và nhập môn phái Thiên Khai Huỳnh Đạo cho dienbatn. Từ nay trong Thiên Khai Huỳnh Đạo , dienbatn có Pháp danh là Thiên Hùng.
Cũng cần nói thêm một chút về Thiên Khai Huỳnh Đạo . Lịch sử của đạo Cao Đài gắn liền với sự phổ biến Cơ bút tại Việt Nam đầu thế kỷ XX. Có thể nói, Cơ bút là nền tảng căn bản cũng như mọi yếu tố liên quan đến quá trình hình thành và phát triển của tôn giáo Cao Đài từ quá khứ đến hiện tại, từ việc thu nhận tín đồ, phong chức sắc, ban hành luật đạo, các nghi thức cúng tế, phẩm phục, kinh điển, thậm chí đến các thiết kế cơ sở thờ tự cũng được thông qua bởi hình thức Cơ bút.
Hai hình thức Cơ bút ảnh hưởng đến sự ra đời của tôn giáo Cao Đài là thuật Xây (xoay) Bàn (la table tournante) theo thuyết Thông linh học (Spiritisme) của Allan Kardec đến từ Pháp, và Đại ngọc cơ (大玉機) xuất xứ từ Trung Quốc.
Thiên Khai Huỳnh Đạo là một nhánh của cao Đài  cũng sử dụng Cơ bút là chính . Nhánh này có nhiều đóng góp trong việc giải khai những Huyệt Đạo bị  Trấn Ếm trên toàn cõi Việt Nam .


Bát quái Thiên đồ trận tại Liên Hoa Cửu cung – Thủ Đức .
Từ ngày nhập môn theo phái Thiên Khai Huỳnh Đạo , dienbatn được các huynh Thiên Bảo và Thiên Nhiên Kỷ dẫn đi hành lễ nhiều nơi , nhưng chủ yếu tại Liên Hoa Cửu cung – Thủ Đức và tại ĐIỆN ĐÀI THÁI BẠCH Phú Nhuận . Biết rằng các Huynh Đệ, Tỷ Muội của phái Thiên Khai Huỳnh Đạo thường đi giải khai Huyệt Đạo bị  Trấn Ếm trên toàn cõi Việt Nam , một bữa , dienbatn hỏi Huynh Thiên Nhiên Kỷ : Anh có rành về thuật Phong thủy – Địa lý không ? Rất ngạc nhiên , Huynh Thiên Nhiên Kỷ hỏi lại : Thế đệ cũng biết về Phong thủy – Địa lý hay sao ? dienbatn liền kể về gia đình mình đã mấy đời làm Địa lý ở Hà Nội và đã được ông nội và cha dạy cho môn này từ hồi còn rất nhỏ . Tuy nhiên vì trình độ rất hạn hẹp nên còn vô số những yếu quyết được truyền dạy mà không hiểu được . Suy nghĩ một lúc Huynh Thiên Nhiên Kỷ nói : Để ngày mai Huynh sẽ dùng Cơ bút chép lại cho đệ một số kiến thức cơ bản về thuật Phong thủy – Địa lý nhé. 
Quả nhiên , chỉ 2 ngày sau , Huynh Thiên Nhiên Kỷ đưa cho dienbatn một sấp giấy dày ghi dày đặc chữ . Huynh nói : Đệ về xem và chịu khó suy nghĩ nhé.
Ngay đêm đó , dienbatn đọc ngấu nghiến những trang giấy mà Huynh Thiên Nhiên Kỷ đưa cho . Quả thật là một chân Trời mới rộng mở trước mặt . Nhân đây cũng xin chia sẻ với các bạn một chút hiểu biết về Phong thủy  - Địa Lý mà Huynh Thiên Nhiên Kỷ nhận Điển giao cho. Cũng xin đốt một nén Tâm hương tưởng nhớ về một người anh lớn đã đưa dienbatn những bước chân đầu tiên vào Thiên Khai Huỳnh Đạo .
Xin theo dõi tiếp bài 31. dienbatn.
Xem chi tiết…

CUỘC CHIẾN GIỮA CÁC PHÁP SƯ VÀ HAI CÕI ÂM DƯƠNG. BÀI 29.

11/03/2017 |
CUỘC CHIẾN GIỮA CÁC PHÁP SƯ VÀ HAI CÕI ÂM DƯƠNG. BÀI 29.
NHỮNG NĂM THÁNG HỌC HUYỀN MÔN.
Từ phần này trở đi có tên gọi là NHỮNG NĂM THÁNG HỌC HUYỀN MÔN. Đó là những tháng ngày vô cùng vất vả, trải nghiêm đủ Hỉ- Nộ- Ái - Ố của dienbatn . Cũng đã qua từ lâu rồi , xin kể lại để các bạn cùng chiêm nghiệm . Thân ái. dienbatn. Loạt bài này đã đăng trên báo giấy : Tuổi trẻ và Đời sống .
Giỗ Tổ phái TSTQ rằm tháng chạp Ất Mùi.
Tư liệu thứ 3.
Một huyền thoại về môn phái võ Thất Sơn Thần Quyền .
          Vào đầu những năm 80 của thế kỷ trước, làng võ Việt xôn xao bởi sự xuất hiện của một phái võ kỳ lạ, gọi là "võ bùa" hay "thần quyền". Người theo môn võ ấy không cần luyện tập quyền cước mà chỉ cần thổi hương, uống bùa, gọi thần chú là có sức mạnh muôn người khôn địch... Bởi cách thức có phần thần bí đó mà nhiều môn phái khác đã tìm các lò dạy võ bùa để tìm hiểu thực hư, phân tài cao thấp. Sự "truy sát" ấy, cùng nhiều lý do khác nữa nên chỉ ít thời gian sau, võ bùa phải lui vào ẩn dật.
Gần đây, trước sự nở rộ trở lại của phong trào học võ, lại có lời đồn võ bùa đang "tái xuất giang hồ". Chúng tôi đã đi tìm hiểu thực hư xung quanh môn võ này.
Cao nhân ẩn tích
Sau màn ra mắt vào những năm 80 của thế kỷ trước, võ bùa bỗng dưng mất hút một cách khó hiểu trên "chốn giang hồ". Không ai biết đệ tử của võ bùa ở đâu, hiện đang sống như thế nào, còn lao tâm khổ tứ tập luyện hay không?
Gần đây, một lần lang thang trên mạng, tôi tình cờ đọc được thông tin của một môn sinh "chánh phái" nói rằng, trước đây có hai cao thủ phái Thất Sơn đem võ bùa về dạy ở Hà Nội và chính họ là những sư phụ đầu tiên của môn phái ở đất Kinh kỳ. Thông tin trên mơ hồ, chỉ nói người thứ nhất tên Thành, làng võ vẫn gọi là Thành "vuông", người thứ hai tên là Chín, giang hồ gọi là Chín "cụt".
Liên hệ với một số cao thủ võ lâm ngoài Bắc thì được biết, Thành "vuông" tên đầy đủ là Nguyễn Văn Thành, từng sống ở khu vực Ô Chợ Dừa (Hà Nội), giờ đã qua Nga lập nghiệp. Người thứ hai là Chín "cụt", tên đầy đủ là Ngô Xuân Chín, là thương binh, hiện không biết phiêu dạt phương nào.
Thông tin trên làm tôi nhớ lại lần trò chuyện với võ sư Chu Há, Chủ nhiệm võ đường Hồng Gia. Võ sư Há cho biết, thuở trước Chín "cụt" có tham gia một số phong trào thể thao của người khuyết tật và ngay từ buổi đầu tiên ấy, Chín cùng đệ tử đã từng dùng võ bùa để giành huy chương vàng tại một hội khỏe năm 1986.
Nhờ manh mối này, tôi vội tìm đến ông Vũ Thế Phiệt, Tổng Thư ký Hiệp hội Thể thao người khuyết tật Việt Nam. Từ số điện thoại ông Phiệt cho, tôi đã tìm được "cao nhân" ẩn tích bấy lâu nay – ông Chín.
Phận duyên tiền định
Vợ chồng ông Xuân Chín hiện đang sống ở một khu đô thị yên ả trên đường Lạc Long Quân (Hà Nội). Trò chuyện, Xuân Chín bảo, Thất Sơn Thần Quyền với ông như có duyên trời định.
Thời trai trẻ, Chín là lính trinh sát đóng quân ở tỉnh biên giới Cao Bằng. Khi còn ở quê nhà, bởi hiếu động nên Chín từng theo đám trai làng lăn lộn học quyền cước của mấy võ sư vườn, cũng lận lưng dăm ba miếng phòng thân. Bởi thế, khi hay tin trong trung đoàn có một đồng đội thường diễu quyền, phóng cước sau khi xong xuôi việc nhà binh, Chín muốn tìm đến xem "mặt mũi" thế nào và nhân thể thử tài luôn để phân cao thấp.
Sau nhiều lần hò hẹn, "thằng cha" đó cũng nhận lời thách đấu. Thế nhưng sau 2 lần "tỉ thí", Chín đều thua không kịp vuốt mặt. Chín đấm, đá cật lực mà cứ như đánh vào bị bông, đối thủ chẳng hề đổi thay sắc mặt. Đánh nhiều đuối sức, chùn tay, nên đành phải xin thua.
Từ sau trận quyết đấu đó, hai người trở thành bạn. Lúc này Chín mới biết người kia theo học Thần Quyền của phái Thất Sơn, từ một sư phụ ở quê nhà, xã Văn Khúc, huyện Sông Thao, tỉnh Phú Thọ. Những câu chuyện mà người bạn kể về môn phái lạ lùng đã khiến Chín mê mệt. Anh ước ao có ngày được về quê bạn bái vị sư phụ ấy làm thầy.
Và rồi cái ngày anh mong mỏi ấy cũng đến. Được sự giới thiệu, ngay đêm hôm ấy, anh đã được diện kiến kỳ nhân. Người ấy là danh sư Nguyễn Văn Lộc, một nông dân chân chất, cũng chỉ hơn anh cỡ trên chục tuổi.
Thế nhưng hôm ấy, ý nguyện, mơ ước của anh đã không thành. Dù đã cố nài nỉ hết nước hết cái nhưng vị danh sư ấy vẫn không chịu thu nạp Chín làm đệ tử. Tuy mưu sự không thành nhưng anh vẫn không thôi hy vọng của mình.
Chừng tháng sau, anh lại tay nải từ Cao Bằng tìm về Phú Thọ. Lần này, thứ mà anh nhận được vẫn chỉ là những cái lắc đầu. Thế rồi, một lần (năm 1981), lúc đi làm nhiệm vụ, anh bị thương phải cắt bỏ hoàn toàn chân phải. Khi vết thương liền da, nhớ miền quê Văn Khúc và ông thầy võ... khó tính, anh lại lóc cóc tìm về.

Đi cùng anh lần này có cả Thành "vuông", một chàng trai Hà Nội, nghe tiếng vị sư phụ kỳ lạ mà háo hức muốn được tỏ tường. Gặp mặt, vị danh sư nói thẳng thừng: "Anh lành lặn tôi còn không nhận, huống chi nay đã là người tàn phế! Anh không học võ được đâu!". Câu nói đó đã làm ruột gan Chín quặn thắt. "Đau" hơn khi bạn đồng hành với anh, Thành "vuông", lại được sư phụ thu nạp.
Uất ức, trước khi ra về anh... thề: "Sư phụ nhận tôi thì 6 tháng tôi xuống một lần! Không nhận thì tháng nào tôi cũng xuống!". Tháng sau, một mình, anh xuống thật. Lần này, thấy anh lóc cóc chống nạng vượt quãng đường hơn 25 cây số từ ga Phú Thọ sang, vị danh sư đã động lòng trắc ẩn. Ông đã đồng ý truyền võ cho anh nhưng với điều kiện chờ ngày tốt, về Bắc Giang ông mới dạy.
Võ phái kỳ lạ.
"Ngày tốt" ấy là ngày 09/10/1984. Đã hẹn trước, anh Chín có mặt tại nhà một người quen của sư phụ ở làng Mỹ Độ, sát thị xã Bắc Giang. Đến được ít phút thì sư phụ anh cũng xuất hiện. Ngay chiều hôm ấy, anh đã thành người của phái Thất Sơn. Cũng ngay ngày hôm ấy, anh mới tường tận về môn phái của mình.
Theo lời thầy Lộc thì "thủ phủ" của Thất Sơn Thần Quyền nằm ở Huế, do tông sư Nguyễn Văn Cảo nắm quyền chưởng môn. Sáng tổ Nguyễn Văn Cảo học Thần Quyền từ một vị cao tăng người Ấn Độ. Cao tăng lưu lạc sang Việt Nam từ khi nào thì đến giờ vẫn không ai biết rõ. Tới Việt Nam, ông chọn vùng Bảy Núi (An Giang) làm chốn tu hành (có lẽ bởi bậc thánh nhân tu luyện nơi non thiêng này nên thầy Cảo đã đặt tên môn phái của mình là Thất Sơn).
Dựa trên những căn bản mà vị tu sĩ lạ lùng ấy truyền dạy, thầy Cảo đã truyền dạy thần quyền cho nhiều người khác. Thần quyền học nhanh, do vậy chỉ trong thời gian ngắn, ở Huế đã có rất nhiều người trở thành môn đồ của võ phái này.
Khi nhập môn, môn đồ của môn phái phải đứng trước ban thờ thề đủ 9 điều (càng học cao thì số lời thề càng tăng thêm và cao nhất là 16 điều). Sau đó, mỗi người sẽ được sư phụ mình phát cho hai lá bùa hộ thân, một vuông, một dài. Trên những lá bùa ấy có vẽ hình đạo sĩ ngồi thiền và những "thông số", "mật mã" riêng của môn phái.
Trước khi truyền thụ những câu thần chú, bí kíp võ công của môn phái thì hai lá bùa ấy được đem đốt, lấy tro hòa vào nước cho người mới nhập môn... uống cạn. Thần chú của môn phái thì có rất nhiều, gồm chú gồng, chú xin quyền, chú chữa thương... Đã được truyền thần chú thì môn sinh cứ tự mình gọi chú mà xin sức mạnh, mà tập quyền cước.
Tuy thế, trước khi tập, người luyện thần quyền phải được sư phụ mình khai thông tất cả các huyệt đạo trên cơ thể. Việc ấy, các sư phụ của Thất Sơn thường làm bằng cách dùng nắm nhang đang nghi ngút khói thổi vào huyệt đạo của đệ tử. Với môn sinh là nam giới thì dùng 7 nén nhang thổi 7 lần vào mỗi huyệt đạo. Môn sinh là nữ thì dùng 9 nén, thổi đúng 9 lần. 
Thần chú vào... võ công ra .
Anh Chín kể, hôm ấy, xong nghi thức nhập môn, sư phụ Lộc đã kéo anh ra sân và chỉ trong vòng 1 giờ đồng hồ, ông đã truyền thụ xong xuôi cho anh lời chú xin quyền.
Theo lời của sư phụ Lộc, lời chú ấy anh không được phép tiết lộ cho bất kỳ ai nếu chưa được phép của những người đứng đầu môn phái. Truyền chú xong, sư phụ anh bảo, cứ nhẩm theo câu chú ấy mà luyện. Chú "nhập" đến đâu thì công phu tự khắc... ra đến đó.
Thấy thầy dạy mình quá nhanh, anh hết sức ngạc nhiên. Cứ nghĩ, có lẽ bởi gượng ép khi thu nạp nên thầy Lộc mới dạy anh một cách sơ sài đến vậy. Sau này, khi trình độ bản thân được nâng cao, anh mới biết, với anh cuộc truyền thụ kỹ năng cơ bản của môn phái như vậy là quá lâu.
Thường thì khi truyền chú cho đệ tử khác, thầy Lộc chỉ làm trong thời gian vỏn vẹn 15 phút là xong. Anh cũng vậy, khi được phép dạy đệ tử, anh cũng chỉ mất ngần ấy thời gian là đã... hết bài. Còn học như thế nào, luyện như thế nào, trình độ đạt đến đâu là cơ duyên của mỗi người chứ thầy không chỉ bảo được.
Ngay chiều hôm ấy, thầy Lộc đã kéo anh ra khoảng sân rộng, bắt đầu luyện tập quyền pháp. Trước khi tập, thầy lấy nắm nhang nghi ngút khói thổi vào tất cả những huyệt đạo trên cơ thể anh. Làm xong, thầy bảo anh nhẩm đọc chú để... gọi võ về. Thật ngạc nhiên, khi vừa đọc chú xong, anh bỗng thấy mình lâng lâng như người say rượu. Lúc thì thấy tay mình nhẹ bẫng, lúc thì thấy nặng như đang khuân cả khối sắt trăm cân.
Chín kể, khi đã "nhập đồng", cứ thấy nhẹ bên tay nào là "chưởng" đánh ra tay ấy. Trạng thái không kiểm soát ấy đã khiến anh lúc thì lăn lộn trên đất, lúc thì nhảy tưng tưng trên không, lao đầu vào tường, vào bụi gai cũng không hề hay biết.
Tỉ thí tranh tài .
Hết nghỉ phép, Xuân Chín về nơi an dưỡng. Vì đang chờ chế độ nên anh có nhiều cơ hội để luyện tập môn võ mà mình vừa được học. Cứ đêm đến, anh lại một mình chống nạng lên quả đồi ở gần đó luyện tập. Sáu tháng sau, anh quay lại Văn Khúc để thầy Lộc kiểm tra "trình độ".
Sau bữa cơm chiều, thầy Lộc bảo ông sẽ không trực tiếp kiểm tra mà nhờ thầy "cao tay" hơn thẩm định. Vị ấy tên Cư, nhà ở gần bến phà Tình Cương, cách nhà thầy Lộc chừng 15 cây số. Thần Quyền ở Văn Khúc chính là do ông Cư mang từ trong Huế ra truyền dạy.
Tối hôm đó, hai thầy trò đã đèo nhau đến nhà ông Cư. Biết Chín muốn thử trình độ của mình, ông Cư đã gọi hai đệ tử to như hộ pháp đến. Trước khi đánh, ông Cư giới thiệu, hai đệ tử của ông được gọi là những “cây đấu” của Thất Sơn. Những ai muốn "khẳng định thương hiệu" của riêng mình thì đều phải đánh với hai "cây đấu" ấy.
Ngay phút khởi động, một “cây đấu” đã táng thẳng vào mặt Chín cú "thôi sơn" khiến anh nổ đom đóm mắt. Nhưng ngay sau cú đánh ấy, anh thấy mình tự dưng lùi ra, quay hẳn lưng vào đối thủ. Chẳng cần để mắt động tác khó hiểu của anh, người tấn công lại ngay lập tức lao vào. Thế nhưng, vừa vào gần đến nơi thì bỗng nhiên tay phải Chín vung ra một cú đòn cực mạnh. Một tiếng “bốp” chát chúa vang lên, “cây đấu” ấy bị đánh văng ra góc sân và nằm bất động.
Thấy đệ tử mình bị hạ nhanh một cách khó hiểu, ông Cư vội vàng chạy đến xem thực hư thế nào. Cậu học trò cưng nằm im, mồm miệng be bét máu. Phần thắng đã thuộc về Chín.
Sắp xếp công việc, ít lâu sau, anh Chín lại theo thầy Lộc vào Huế để nhờ tông sư môn phái kiểm tra trình độ thật sự của mình. Chưởng môn phái Nguyễn Văn Cảo (phường Phú Cát, Huế) đã đón hai thầy trò anh rất thân tình.
Hôm ấy, nhà thầy Cảo có một đệ tử học Thần Quyền được 10 năm, từ Quảng Bình vào thăm. Thầy Cảo bảo Chín đấu với người này. Kịch bản của trận đấu ở Phú Thọ đã được lặp lại. Vào trận, ngay màn dạo đầu, Chín dính đòn tới tấp. Thế nhưng, trong lúc nguy nan, tự nhiên anh thấy chân mình mềm oặt. Xoay lưng lại đối thủ, anh quỳ xuống như người bị trúng đòn chí mạng. Đối thủ thấy vậy thừa thắng lao lên...
Nhưng, như có phép tiên, dù chỉ còn mỗi chân trái mà anh vẫn bật vút lên, lộn trên không một vòng rồi tung cú "thiết cước" vào thẳng bụng đối thủ. Cú đá ấy đã làm vị kia văng ra, thầy Cảo ngay lập tức cho dừng trận đấu. Sau trận đấu đó, bởi quá khâm phục sự tiến bộ kỳ lạ của anh, thầy Cảo đã cân nhắc để anh được thăng đai vượt cấp.
Thế nhưng, điều đó chưa từng có tiền lệ trong môn phái nên thầy đành để anh ở đai đỏ xuất sư. Người đeo đai đó thì đã có thể làm thầy, truyền thụ võ công cho những môn sinh khác. Sáu tháng sau, vào lại Huế, lần này chưởng môn Nguyễn Văn Cảo đích thân ra chợ mua chỉ về se đai tím cho anh.
Dựng nghiệp bất thành .
Rời quân ngũ, anh Chín về quê sinh sống, thỉnh thoảng ra Hà Nội gặp gỡ bạn bè. Những năm ấy, phong trào chấn hưng võ thuật cổ truyền ở thủ đô đang ở cao trào, thấy Thất Sơn Thần Quyền của mình chưa có một tên tuổi trong làng võ Việt, anh và một số người bạn đã quyết tâm gây dựng môn phái.
Để khẳng định sức mạnh của Thần Quyền, Hội khỏe Phù Đổng năm 1986 được tổ chức ở Hà Nội, các bạn anh đã tiến cử anh tham gia. Chuẩn bị cho sự kiện này Chín đã lặn lội lên Cao Bằng, tìm cậu bé mà trước đây anh đã ngẫu hứng truyền thụ võ công, đưa về Hà Nội cùng mình biểu diễn. Cậu bé ấy tên Điệp, khi ấy vừa tròn 6 tuổi. 
Tại sân vận động Hàng Đẫy, với tiết mục Thần Quyền của mình, hai thầy trò một tàn phế, một tóc còn để chỏm đã dinh về hai tấm huy chương vàng trước sự trầm trồ, thán phục của mọi người.
Sau màn ra mắt, được sự "chỉ đường mách lối" của cố võ sư Đỗ Hóa, anh cùng các bạn đã tìm đến một chức sắc ở Hội Võ thuật cổ truyền Hà Nội nhằm đưa môn phái "phát dương quang đại". Thế nhưng, nhiều người cho rằng Thất Sơn Thần Quyền là tà thuật, mê tín dị đoan nên mong ước của anh đã không thể thành hiện thực.
Dựng phái không thành, anh em tan rã mỗi người một nơi, Xuân Chín đâm nản. Tuy thế, sau này, tham gia phong trào thể thao người khuyết tật, anh vẫn đem thần quyền đi biểu diễn ở khắp nơi.
Năm 2004, tại một cuộc liên hoan võ thuật tại Hàn Quốc, anh đã được ban tổ chức trao tặng huy chương vàng cho tiết mục Thần Quyền độc đáo của mình. Càng hạnh phúc hơn khi ngay sau đó, hình ảnh của anh, một người cụt chân đang thăng hoa cùng quyền thuật đã được ban tổ chức in lên lịch lưu niệm tặng các vận động viên tham gia.
Cũng từ dạo ấy, bởi cuộc mưu sinh anh đã xin thôi và không tham gia phong trào thể thao nữa. Thần quyền anh cũng ít tập hơn và cũng không truyền dạy bí kíp võ công này cho bất kỳ ai...
Lời thề của môn phái Thất Sơn Thần Quyền:
Một lòng hiếu thảo với cha mẹ; Không phản môn phái; Không phản thầy; Không phản bạn; Coi bạn như anh em ruột thịt; Không cưỡng bức kẻ yếu; Không làm điều gian ác; Không ham mê tửu sắc;Không nản chí khi luyện tập; Không thoái lui lúc nguy hiểm; Luôn bảo vệ kẻ yếu; Nhịn kẻ mất lòng ta; Thi hành nghiêm chỉnh những lời thầy dạy; Ôn hòa trong tình bạn; Không tự cao tự đắc; Cứu người trong lúc nguy nan...
Theo: www.nhantrachoc.net.vn.
Nguyễn Minh Huệ nói...
" Đầu những năm 80 của thế kỷ trước, Tình Cương là một trong những “cái nôi” của phong trào tập luyện võ thuật theo phái Thất Sơn Thần Quyền (dân gian gọi là “võ bùa”). “Vị tên Cư” trong bài viết này tên thật là Nguyễn Phong Cư, sinh năm 1950, nhà ở chỗ lưng chừng dốc Chủ Chè, làng Tình Cương, xã Tình Cương. Từ năm 1980 – 1985 cao thủ Nguyễn Phong Cư đã huấn luyện được một số “đệ tử”, trong đó có 12 “môn sinh” đã có đẳng cấp khá cao (7 người ở Cẩm Khê, 3 cán bộ công an, 1 bộ đội và 1 ở Hải Phòng). Theo những người rành về môn này cho biết: “Thầy Cư” theo học “Thầy Cảo” (Nguyễn Văn Cảo, ở Huế) từ năm 1976 khi ông còn là công nhân xây dựng cầu đường ở miền Trung. Sau khi “đắc đạo”, Nguyễn Phong Cư về quê Tình Cương sinh sống và góp phần truyền bá môn “võ bùa” này cho khá nhiều người.
Một vị cao thủ thứ 2 ở Tình Cương tên là Nguyễn Trần Cương, nhà ở xóm Chùa, làng Tình Cương, xã Tình Cương (kém ông Cư vài ba tuổi, nhà ở phía sau Tổ Đình Long Khánh hiện nay). Ông Cương khá kín tiếng và cũng đã chiêu nạp được một số “đệ tử” rồi huấn luyện “võ bùa”, ngồi thiền,… 
Những năm 1985 – 1986, có khá đông người từ khắp các nơi tụ tập về Tình Cương theo học môn Thất Sơn Thần Quyền do ông Cư và ông Cương hướng dẫn. Bên cạnh “cái được” của Thất Sơn Thần Quyền ở Tình Cương là xây dựng được phong trào tập luyện võ thuật nâng cao sức khỏe, tu thân tích đức,… thì cũng xuất hiện “cái chưa được” đó là “làm ảnh hưởng đến sản xuất và phong trào xây dựng nếp sống mới, gây mất trật tự an ninh ở địa phương”. Tháng 6 năm 1986, Công an huyện Cẩm Khê cho gọi 7 người có mặt ở các xã trong huyện đã vào “hội võ bùa” đến để giáo dục, kiểm điểm và cam kết từ bỏ. Phong trào tập luyện “võ bùa” từ đây không còn tấp nập như trước.
Ngày nay, thầy Nguyễn Văn Cảo cũng đã “ra đi cùng tiên tổ”, môn Thất Sơn Thần Quyền có còn hoạt động ở Tình Cương nữa hay không, có lẽ chỉ có ông Nguyễn Phong Cư và ông Nguyễn Trần Cương đều ở làng Tình Cương, xã Tình Cương mới chọn được câu trả lời chính xác.".
“ Phụng thỉnh năm non , bảy núi. Phụng thỉnh núi Sam, núi Sập, Núi Cấm , núi Két , núi Tô, núi Tổ . Phụng thỉnh Tà Lơn – Thất Sơn. Phụng thỉnh chư vị Phật Tổ. Phụng thỉnh Phật ông , Phật bà. Phụng thỉnh Phật Thầy , Phật cô. Phụng thỉnh bà Tổ , mẹ Tổ. Phụng thỉnh 5 ông Tổ . Phụng thỉnh Tam Giáo Đạo Sư . Phụng thỉnh tiền Tổ hậu Tổ . Phụng thỉnh thập nhị Tiên khai. Phụng thỉnh 12 vị Tổ. Phụng thỉnh Thiên binh , Thiên tướng . Phụng thỉnh thập nhị Sơn Thần. Phụng thỉnh 12 vị quan Tà á rặc. Phụng thỉnh Tà Muôn, Tà Bạch , Tà Gầm , Tà Hầm,  Tà Há , Tà Sấm , Tà Sét , Tà Két , Tà Rắn , Tà Hồng , Tà Sanh , Tà Sấm , Tà Sét , Tà Gầm , Lục Tặc Tà Hom , Tà Lơn ,Thất Sơn , Ông Lục Tà Rù , Ông Chúa lèo , Ông Tà Đỏ.Phụng thỉnh 12 đạo binh rừng, binh rú, binh mọi, binh rợ, tướng Lèo hồi cung thanh thỉnh. Hộ độ cho đệ tử tên … tuổi …được thành công đắc đạo.
Nam mô a di đà Phật.Hắc tô hắc nây – Ô ta thia ly âm.Cà thăn săn – rặc rặc ơ.Mơn mơn lừng lừng che.”
12 VỊ THẦN TÀ : 
Ông Tà có nguồn gốc từ kho tàng văn hóa của người Khmer. Đó là một vị thần mang tên Neak-ta, có quyền năng cai quản trong phạm vi phum sóc hoặc một khu vực rộng lớn hơn. Người Khmer cho rằng những thiên tai, bệnh tật đều do sự bất kính của con người đối với ông Tà. Mỗi lần đi ngang qua miễu ông Tà, họ đều giở nón, lột khăn và kính cẩn nghiêng mình.
Thần Neak-ta khi đi vào cách phát âm của người Việt đã được biến âm thành “Tà”, “ông Tà”. Té ra là vậy, khỏi phải suy nghĩ méo mó.
Theo khảo cứu của cụ Vương Hồng Sển, “Neak-ta có nhiều cấp bậc. Có những ông Tà được thờ nơi góc giường, chuyên lo chuyện trong nhà ngoài cửa. Có những ông lại lo việc cứu người bị rắn cắn. Lại có những Neak-ta có miếu thờ đàng hoàng ở các ngã ba, ngã tư đường hoặc đầu gành cuối bãi, trách nhiệm và địa vị cũng giống như thổ địa của người Việt”.
Trong quá trình cộng cư ở miền Tây Nam Bộ, người Việt, Khmer, Hoa đã có sự giao thoa văn hóa với nhau. Tục thờ ông địa và thần tài của người Việt xuất phát từ người Hoa, còn thờ ông Tà là của người Khmer.
Trong cuốn Nửa tháng trong miền Thất Sơn, tác giả Nguyễn Văn Hầu có đoạn ghi: “Ông Tà của người Miên cũng như ông thần của mình. Người ta tin rằng ông thần đã nhập vào viên đá mới xui khiến cho ai đó bắt gặp được mà đem về thờ. Bao giờ thần không muốn ở nữa thì bỏ mà đi và viên đá tự nhiên mất tích”. Tương truyền tại vùng biên giới Tây Nam, xưa kia có một cái miễu ông Tà rất linh, nhiều người thường mang tiền và lễ vật đến cúng, đặt trước các viên đá rồi bỏ về nhưng không ai dám trộm cắp vì sợ thần bẻ cổ.
Về lai lịch của ông Tà xưa nay có rất nhiều giai thoại thật huyền bí và hấp dẫn. Có người đồn rằng ông Tà được thờ trên bọng cây, nếu có ai đó bướng bỉnh, chơi cắc cớ đem ném xuống ruộng, nhất định vài hôm sau ổng sẽ trở về chỗ cũ.
Để có được một chỗ thờ trang nghiêm, bà con chọn một gò đất thật cao, xung quanh vắng vẻ để dọn nền cất miễu thờ ông Tà. Cạnh bên miễu thường trồng cây đa, cây xộp hoặc bụi tre để tạo bóng mát.
Với người Việt, bà con chấp nhận tục thờ ông Tà cũng giống như tục thờ thổ thần hoặc thần tài và ông địa, bởi vì ai cũng muốn trong nhà ngoài ngõ luôn có một vị thần trông coi việc gia cư, định đoạt phúc họa và mang lại an cư lạc nghiệp cho xóm làng. ( HOÀI VŨ ).
Thấm thoắt thời gian một tháng đã trôi qua trên đỉnh Cô Tô. Thày Chàm và các đồng Đạo đã làm lễ Hạ sơn cho tôi . Một chiếc bàn Tổ được bày ra trên sân tập, vài cái ghế cho các vị Sư phụ ngồi xung quanh, trầm hương, đèn nhang được đốt lên . Sau khi bày hương án, 4 vị chức sắc cao cấp nhất trong các vị Sư phụ làm chủ tế đồng loạt đốt hương khấn thỉnh rồi xin keo. Keo là 2 miếng gỗ hình móng ngựa tượng trưng cho lưỡng nghi âm dương. 4 vị Sư phụ ném keo xuống nền sân. Nếu cả 2 miếng keo cùng nằm sấp hoặc cùng nằm ngửa tức "Thần" chưa về. Nếu 1 miếng keo nằm sấp và 1 miếng nằm ngửa là "Thần đã về". Khi đã có tín hiệu báo Thần đã về , một vị Sư phụ vung dùi đánh 3 hồi trống "lệnh khai hội".
Tiếng trống "lệnh khai hội" vừa dứt, tôi đột nhiên rơi vào trạng thái vô thức nhập xác lên đồng. Ngay lập tức tôi như bay như lượn trên sân, phóng ra những đường quyền như vũ bão. Hết bay, nhẩy, đấm , đá liên tục , tôi tự nhiên phóng mình lên một cây mít nài cạnh đó và chỉ một cú vả, một đám to vỏ của cây mít Nài đã bị xé toạc ra, để lộ lõi gỗ trắng phếu. Trong đầu tôi tự nhiên những câu chú chạy qua chạy lại như điện xẹt : Xin na ca đi ;  Phúc di tô mi na da sử ; Nắc mô buốt thia dắc - Quýt tho gia ba phốp - Ca giá ba tích ming săn ăn ạ út…………..
Một loạt tiếng vỗ tay bất chợt nổi lên, tôi vội đọc Búp Tha để dừng quyền . Đứng trước bàn thờ Tổ , tôi nghiêm trang và dõng dạc đọc to lời thề của bản môn đã được học trước đó : 
16 ĐIỀU NGUYỆN TRỌN.
1/ Con nguyện hết lòng hiếu thảo với cha mẹ,
2/Con nguyện không phản lại môn phái Thất sơn Thần quyền.
3/Con nguyện không phản Đạo.
4/ Con nguyện không phản Thày.
5/ Con nguyện không ham mê tửu sắc.
6/Con nguyện không phản bạn , coi bạn như anh em ruột thịt.
7/ Con nguyện không ỷ mạnh hiếp yếu.
8/ Con nguyện hết lòng hiệp nghĩa .
9/ Con nguyện không cưỡng bách những người đã có chồng con.
10/ Con nguyện không làm điều gian ác.
11/ Con nguyện không tháo lui trước nguy hiểm , luôn bảo vệ kẻ yếu.
12/ Con nguyện không nản chí khi luyện tập học hành.
13/ Con nguyện nhịn kẻ mất lòng ta, ôn hòa trong tình bạn.
14/ Con nguyện không tự đắc , tự cao, tự đại.
15/ Con nguyện cứu người lúc lâm nguy.
16/ Con nguyện thi hành nghiêm chỉnh lời dạy của Thày.
Mười sáu lời thề trên con xin ghi khắc sâu vào trong lòng , chịu sự phanh thây , đui mù hai mắt nếu con không làm tròn . Con xin Thiên linh cái môn phái chứng cho.
Nam mô Quán thế âm Bồ tát ( 16x ).
Thề xong cầu các vị Thần về chứng giám :
+ Chơn Thần Thiên tự ( Chứng cho ).
+ Bắc sơn Đạo trưởng ( chứng giám ).
+ Chơn Thần Điện Bà - Thiên tự Đạo trưởng  ( chứng giám ).
+ Chơn Thần Lục hải Thiên tự  ( chứng giám ).
+ Chơn Thần Thất sơn - Đạo Thần Thiên tự  ( chứng giám ).
+ Chơn Thần 10 phương chư Phật  ( chứng giám ).
Nam mô Quán thế âm Bồ tát ( 16x ).
Cầu chứng cho con tên ....tuổi .....quê quán .....
Thày Chàm đưa cho tôi mấy lá Bùa để uống .
Luyện bùa xuất sư.
* Chế na nô thăn ngăn thăng măng a mọc măng. 
* Chế cà nô xa xa tế.
Đọc 3 thổi 1x 7 lần vào bùa cả 2 câu uống sống 30 ngày.
Sau đó một vị Sư phụ trong ban giám khảo quàng vào cho tôi một chiếc khăn đỏ xuất sư và ôm lấy tôi rất trìu mến. 
Ngày mai, hai Thày trò chúng tôi lại xuống núi trở về Tây Ninh . Mới có 1 tháng trên đỉnh Cô Tô này mà tôi có cảm giác vô cùng thân thương với từng gốc cây tảng đá . Tôi chợt lẩm nhẩm mấy câu thơ của Chế Lan Viên : 
“Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ
                     Nơi nào qua, lòng lại chẳng yêu thương?
Khi ta ở chỉ là nơi đất ở
         Khi ta đi, đất đã hóa tâm hồn!”
Theo chân những đoàn quân của các Chúa Nguyễn, những nhà truyền giáo, các Pháp sư, Phù thủy từ miền Bắc Việt Nam mang theo những bí thuật Huyền môn của mình kết hợp với Huyền môn bản địa mà tạo ra những trang sử huy hoàng của giới Huyền môn Việt Nam.
Như vậy ta thấy rằng , kể từ 1558, khi Chúa Nguyễn Hoàng bắt đầu Nam tiến , Phật pháp và Huyền môn Việt Nam đã vận động được một vòng tròn hoàn chỉnh . 
Do tiếp nhận những kiến thức của rất nhiều vùng địa lý, của nhiều dân tộc mà Huyền môn có nhiều chi phái khác nhau , mang nhiều tên gọi khác nhau. Tuy nhiên ta có thể thấy về Phật quyền và Thất sơn thần quyền có nguồn gốc xuất xứ khác nhau nhưng có những điểm chung về nguyên tắc cơ bản như sau :
1/ Tuy là một môn võ có những đòn thế siêu đẳng, nhưng Phật quyền và Thất sơn thần quyền các môn phái này chủ yếu là để tự vệ ,không được đánh người ,không được ngạo mạn ỷ lại hiếp đáp người cô thế .Luật của các phái cũng hết sức nghiêm minh ,ai vào thọ giáo phải đứng trước tổ thầy đọc các lời thề về giử gìn đạo đức và tôn kính Trời Phật Thánh Thần , rất nguy hiểm khi có đệ tử nào vi phạm thì khó tránh khỏi kiếp nạn do chính mình chọn ra. Ngoài ra còn phải kiêng cử trong ăn uống tuỳ theo môn phái bùa có quy định, như : Chó ,Trâu ,Mèo là phải kỵ tuyệt đối , còn nhiều thứ khác phải kiêng kỵ tuỳ theo môn phái của mình.
2/ Trước khi tập thì môn sinh đều phải cầu Thầy Tổ về trợ giúp. các Thày Tổ ở đây với mỗi một môn sinh là khác nhau, không ai giống ai cả. Theo hiểu biết của dienbatn thì những Thày Tổ này là những vị Thày Tổ từ nhiều căn kiếp trước đã từng dạy cho người đó, nay cầu về, các ngài tiếp tục dạy hay trực tiếp phát công , phát ra những thế đánh của bản môn Thầy Tổ đó .
3/ Trong Phật quyền và Thất sơn thần quyền : Quan trọng nhất vẫn không phải học quyền mà là .... học Đạo . Trong việc học Đạo, ngoài các Giáo lý nhà Phật ra, môn sinh đều có những bài tập về đọc chú ,  luyện khí, luyện gồng, luyện một số công năng đặc di khác .
4/ Theo các vị sư phụ của dienbatn truyền lại, Phật quyền và Thất sơn thần quyền ngày xưa có tới 7 nhánh : Tuy cùng là thờ các vị chư Phật, chư Bồ tát nhưng 7 nhánh này chia ra luyện chuyên sâu theo từng vị Phật mà chi nhánh đó nhận làm Tổ . Các nhánh đó lần lượt nhận các chư Phật sau làm Thầy Tổ :
* Đức Di Lặc Phật Vương, 
* Đức Tây phương cực lạc A Di Đà Phật.
* Đức Phật Quán thế âm Bồ tát.
* Đức Đại Phổ hiền Bồ tát.
* Đức Đại Thế chí Bồ tát.
* Đức Phật mẫu Chuẩn đề vương Bồ tát.
* Đức Bồ tát tôn giả Mục Kiền Liên.
Trải qua nhiều thăng trầm của thời gian, ngày nay ta chỉ còn thấy nhiều nhất là hai nhánh võ phái nhận Thày Tổ là : Đức Phật Quán thế âm Bồ tát  và Đức Phật mẫu Chuẩn đề vương Bồ tát. Riêng phái nhận  Đức Đại Thế chí Bồ tát chỉ còn tại một vài nơi hẻo lánh và có môn quy rất nghiêm ngặt hầu như những người lạ khó xâm nhập vào được.
5/ Cũng theo những gì dienbatn được truyền lại : Khi điểm Đạo cho học trò Phật quyền và Thất sơn thần quyền , các vị chân sư phải truyền dẫn nội công , khai mở 7 luân xa  :
1. Luân xa thứ Nhất: Muladhara chakra (sanskrit). Vị trí nằm giữa hậu môn và bộ phận sinh dục, tương đương với huyệt Hội Âm là hội hiệp các âm linh của châm cứu học. Nó được biểu hiện bằng một bông sen bốn cánh màu đỏ, chủng tự tiếng sanskrit của nó là LAM. Luồng hỏa hầu Kundalini nằm phục ở đây. khi thành tựu phép quán tưởng luân xa này, sẽ làm chủ được địa đại, tiêu trừ nghiệp quá khứ, biết được ba thời quá khứ, hiện tại, vị lai, thọ hưởng niềm hoan lạc tự nhiên.
Ở đây Ngài A Di Đà làm chưởng Quản tiếp dẫn những giác linh, chơn linh, hương linh, vong linh về cảnh giới của Ngài, ngài cho xuất gia.
2. Luân xa thứ Hai: Svadhisthana chakra. Vị trí nằm dưới rốn chừng bốn ngón tay, tương đương với huyệt Đan Điền , biểu hiện bằng bông sen sáu cánh màu cam, chủng tự là VAM. Thành tựu phép quán tưởng luân xa này sẽ làm chủ được thủy đại và các giác quan, biết được cảnh Trung giới (monde astral).
Chưởng quản ở đây là ngài Cam Lồ Vương Như Lai, khi chúng ta đến cảnh giới nầy thì chúng ta sẽ được học phép thắng tất cả: Tham ái, giận hờn, ngã mạn, ganh tỵ và các phiền não khác đều được tiêu trừ. Vượt thoát tử thầncủa các cõi. lúc nầy chúng ta chứng quả thượng thừa của tầng hai nầy lảnh sắc lệnh lên tầng thứ ba.
3. Luân xa thứ Ba: Manipura chakra. Vị trí ở giữa rốn tương đương với huyệt Thần khuyết. Biểu hiện bằng bông sen mười cánh màu vàng, chủng tự là RAM. Chưởng quản ở đây là Ngài Ly Bố Úy Như Lai, ở đây Chúng ta học phép thành tựu phép làm chủ hỏa đại, không còn sợ lửa thiêu đốt, hoàn toàn thoát khỏi ngũ hành kim mộc thủy hỏa thổ. lúc nầy chúng ta chứng quả thượng thừa của tầng ba nầy lảnh sắc lệnh lên tầng thứ tư.
4. Luân xa thứ Tư: Anahata chakra. Vị trí ở giữa ngực, tương đương với huyệt Ðản trung. Biểu hiện bằng bông sen mười hai cánh màu xanh lá cây, chủng tự là YAM. Chưởng quản ở đây là Ngài Quảng Bác Thân Như Lai, ở đây ngài dạy chúng ta học phép Thành tựu làm chủ phong đại, tùy ý bay lượn trong không gian hoặc chui nhập vào thân người khác, đầy đủ đức tính của chư thiên và tình thương vũ trụ. lúc nầy chúng ta chứng quả thượng thừa của tầng bốn nầy lảnh sắc lệnh lên tầng thứ năm
5. Luân xa thứ Năm: Visuddha chakra. Vị trí ở ngay dưới cổ, tương đương với huyệt Thiên đột. Biểu hiện bằng bông sen mười sáu cánh màu xanh da trời. Chủng tự là HAM. Chưởng quản ở đây là ngài Diệu Sắc Thân Như Lai, ở đây chúng ta được học phép Thành tựu làm chủ không đại, thân thể không bao giờ tàn hoại, ngay cả khi thế gian bị tiêu diệt, đạt được trí huệ thông suốt tất cả kinh điển vô tự và ba thời: quá khứ, hiện tại, vị lai. lúc nầy chúng ta chứng quả thượng thừa của tầng năm nầy lảnh sắc lệnh lên tầng thứ sáu
6. Luân xa thứ Sáu: Ajna chakra. Vị trí ở giữa hai chân mày nơi mà huyền môn thường gọi là con mắt thứ ba, tương đương với huyệt Ấn đường. Biểu hiện là bông sen hai cánh màu xanh nước biển, chủng tự là A. Chưởng quản ở đây là Ngài Bảo Thắng Như Lai ở đây chúng ta được học phép trở thành người hoàn toàn giải thoát liền đắc cái trí bửu pháp tánh bực vô thượng. lúc nầy chúng ta chứng quả thượng thừa của tầng sáu nầy lảnh sắc lệnh lên tầng thứ bảy
7. Luân xa thứ Bảy: Sahasrara chakra. Vị trí ngay trên đỉnh đầu, tương đương với huyệt Bách hội. Biểu hiện bằng bông sen ngàn cánh màu tím, trắng, vàng. Chủng tự là OM. Khi luồng hoả hầu Kundalini chạy lên tới đây, Chưởng quản ở đây là Ngài Đa Bảo Như Lai , ở đây chúng ta được học phép trở thành một bậc giác ngộ giải thoát hoàn toàn. Hòa đồng Vũ Trụ gọi là Đạo. lúc nầy chúng ta chứng quả thượng thừa của tầng bảy nầy lảnh sắc lệnh ra ngoại Càn Khôn Vũ Trụ.
" Có một cấp bậc điểm đạo tối cao siêu đẳng mà người môn đồ khi đã đạt tới trình độ đó không chỉ được tạm thời giải thoát khỏi thể xác vật chất để chứng minh sự tồn tại của linh hồn, mà còn được đưa lên những cảnh giới thanh cao nhất, hòa nhập hoàn toàn với đại thể của vũ trụ. Kinh nghiệm huyền diệu đó giúp phá vỡ sự cố chấp hữu hạn của con người và do đó mới có thể tiếp xúc với sự hiện hữu chân thật trường cửu của hết thảy mọi sinh thể. Trong một thời gian ngắn, người môn đồ được cảm thông trong im lặng và một cách thần diệu với thực thể của muôn loài; sự tiếp xúc tuy ngắn ngủi, nhưng giây phút cảm thông huyền diệu đó cũng đủ làm cho người ta thay đổi hoàn toàn quan điểm đối với cuộc đời. Người môn đồ ấy đã chia sẻ một phần cái ân huệ thiêng liêng nhất mà con người có thể nhận được. Người ấy xem như đã khám phá được cái ánh sáng huyền diệu thiêng liêng, là cái tinh hoa rốt ráo vi diệu của bản thể, mà so với nó thì thể xác vật chất này chỉ là giả tạm và vô nghĩa. Vì thế, người môn đồ sau khi được điểm đạo đã thật sự được hồi sinh trở lại, theo đúng ý nghĩa cao cả nhất của danh từ này. 
Như thế, cuộc điểm đạo là sự đạt tới một viễn cảnh mới của cuộc đời, cái viễn cảnh tâm linh mà nhân loại đã đánh mất trong thời dĩ vãng xa xăm, khi rơi từ “Thiên đàng” xuống cõi vật chất. Khoa huyền môn giúp ta thực hiện sự trở về nguồn cội ngay từ bên trong, và đưa ta đi tuần tự từ bước một đến sự giác ngộ hoàn toàn. Khoa huyền môn hé mở cho ta thấy trước hết là những cảnh giới tâm linh huyền bí vượt ngoài giới hạn nhận biết trong cõi vật chất của trần gian, và sau đó tiết lộ cho ta những điều huyền diệu rốt ráo và tính chất thiêng liêng của tâm thức con người. Khoa huyền môn giúp cho người môn đồ nhìn thấy được những cảnh giới dường như địa ngục âm ty để thử thách tâm trí và lòng kiên quyết, cũng như để người ấy được có dịp học hỏi và mở rộng tầm nhận thức. Kế đó, người môn đồ được nhìn thấy những cảnh giới Thiên đàng tốt đẹp để khuyến khích và ban ân huệ. Nếu khoa huyền môn vẫn phải dùng đến phương tiện đồng thiếp thì điều đó không có nghĩa là không còn phương pháp nào khác. Đó chỉ là một phương tiện được áp dụng, nhưng cảnh giới tâm linh có thể được đạt tới bằng nhiều phương cách khác nữa, và không cần phải áp dụng phương pháp xuất thần. 
Tuy nhiên, lịch sử của nhân loại luôn luôn theo định luật chu kỳ, những gì đã từng xảy ra, sẽ tái diễn trở lại. Một lần nữa, con người đã trải qua một thời kỳ hỗn loạn và hắc ám, trong khi đó lại cảm thấy một sự băn khoăn bất mãn do nhu cầu tự nhiên của bản tính con người là muốn lặp lại sự giao tiếp với cảnh giới tâm linh huyền diệu huy hoàng. Bởi vậy, tôi hy vọng rằng những điều kiện sẽ có thể được tạo nên, những hoàn cảnh thuận tiện sẽ đến và những nhân vật đủ thẩm quyền và khả năng sẽ xuất hiện, để nhờ đó mà một lần nữa trên địa cầu này sẽ được tái lập tổ chức huyền môn, dưới những hình thức hoàn toàn mới mẻ tân kỳ, để cho được phù hợp, thích ứng với thời đại tân tiến hoàn toàn khác hẳn với thời đại cổ xưa. "
" Những vị đạo đồ trong khoa huyền môn thời cổ phải long trọng tuyên thệ là không bao giờ tiết lộ những gì xảy ra bên trong thánh điện thâm nghiêm huyền bí. Ta nên nhớ rằng, dù sao thì lễ điểm đạo cũng chỉ được cử hành mỗi năm cho một số rất ít môn đồ. Sự hiểu biết giáo lý mật truyền không bao giờ được ban bố cho nhiều người cùng một lúc. Bởi lẽ đó mà không một nhà văn thời cổ nào đã đưa ra được một tường trình đầy đủ và mạch lạc về những gì được gọi là giáo lý huyền môn, vì các vị môn đồ luôn giữ đúng lời cam kết một cách chặt chẽ. 
Những chân lý được truyền dạy trong các đạo viện huyền môn là do sự tiết lộ mà các đấng thánh nhân dành cho nhân loại từ lúc phát sinh những nền văn minh cổ xưa nhất, và nay giáo lý huyền môn cần được giữ gìn nguyên vẹn để duy trì sự tinh khiết của nó. Như thế, người ta hiểu tại sao khoa huyền môn được ẩn giấu cẩn mật và giữ gìn chặt chẽ ngoài tầm tay của kẻ thế nhân phàm tục. 
Tại sao những vị đạo trưởng lại có một sự dè dặt vô cùng chặt chẽ như thế? Đó là vì những lý do mà chỉ có các ngài mới có thể biết được. Dù sao, các ngài hẳn là thấy cần phải loại những kẻ hoài nghi và bỡn cợt ra ngoài những kinh nghiệm thần bí dẫy đầy nguy hiểm cho tánh mạng của người thí sinh. Người ta không trao những viên ngọc quý cho kẻ tầm thường. 
Ngoài ra, rất có thể là có nhiều người, vì không đủ sự chuẩn bị sẵn sàng cho một kinh nghiệm như thế, sẽ trở nên điên cuồng hoặc thiệt mạng sau cuộc thử thách. Bởi đó, lễ điểm đạo luôn luôn chỉ là đặc ân dành cho một số ít người xứng đáng. Nhiều người đã gõ cửa cầu xin điều đó ở các đền huyền môn nhưng vô ích. Những người khác, bị đặt dưới hàng loạt những cuộc thử thách sơ đẳng mỗi lúc một khó khăn hơn, không có đủ sự gan góc cần thiết để tiến xa hơn nữa, hoặc cảm thấy lòng ước muốn điểm đạo nguội bớt dần. 
Về sau, sự sa đọa vật chất của con người đã làm cho các vị đạo trưởng chân chính của thời xưa dần dần biệt tích hoặc rút lui ra ngoài vòng thế tục, và thay chân các ngài là những kẻ phàm phu mê muội, làm hoen ố và hạ thấp khoa huyền môn cao cả. Những kẻ bất chính, có tham vọng đạt được những phép thần thông của bàng môn tả đạo, sau cùng đã chiếm ưu thế để giành quyền kiểm soát các đạo viện huyền môn ở Ai Cập và những nơi khác. 
Những gì từ lúc nguyên thủy vốn là thiêng liêng, chỉ dành cho những người chọn lọc nhằm mục đích duy trì ngọn lửa thiêng tinh khiết của sự sống tâm linh cho được trường cửu trong nhân loại, đã lọt vào tay những kẻ tà tâm, buôn thần bán thánh. Đó là những sự kiện lịch sử, làm cho cái kho tàng tâm linh quí báu của nhân loại thời cổ xưa đã trở nên suy tàn. " -( Theo Ai Cập huyền bí ).
Chính vì vậy ngày xưa Thầy Tổ có truyền lại :
" Một đêm nọ Thày tôi đã dặn:
Này Chân sư , Pháp sư con nghe ta dạy,
Ấn tướng và Pháp chú - Là bí mật hiển vi.
Của Phật , Hiền, Thánh chúng.
Có cảm thì có ứng,
Và không thể giải thông.
Cũng không thể tạo khuôn,
Đệ tử muốn gia trì,
Hoặc truyền Đạo đại chúng.
Nên nhớ là lúc tập và lúc niệm,
Năng tinh tấn chuyên cần.
Và hành nơi vắng lặng.
Không cho ngoại Đạo niệm.
Bởi ấy sinh lòng tà,
Khinh khi hoặc khích nhiễu.
Đây là một nghiêm luật.
Đệ tử chiếu phụng hành . " 
LỜI KẾT.
Bùa chú là khoa học của người xưa đã được loài người tin dùng và lưu truyền trong chốn nhân gian  tại các Quốc gia cho tới ngày hôm nay. " Cái gì tồn tại lâu dài , dai dẳng - Tự bản thân nó đã có lý " . 
Những kẻ ác tâm thì thường thích học Bùa ếm , còn những người thiện tâm hay cầu học Bùa giải. Hai mặt ÂM - DƯƠNG cùng tồn tại trong một thể thống nhất của Vũ trụ. " Nhất âm - Nhất Dương chi vi Đạo " ( Một Âm - Một Dương mới là Đạo ). Nếu biết dùng Bùa ếm để trấn ếm kẻ tà tâm , độc ác , bắt họ phải hồi tâm , phục thiện , làm  việc nhân đức thì cái ác đó không hẳn là ác. Đó là cái Đại Hùng, Đại Lực của những người thay Trời hành Đạo . Ngày nay những người không được chân truyền , lợi dụng danh nghĩa Bùa chú làm những điều sai trái đạo đức , khiến cho dân lành gặp nhiều khốn khó, dư luận lên án , xã hội chê cười . Chính vì vậy khi nghe tiếng Bùa chú người ta thường dị ứng với điều đó.
 Thất sơn Thần quyền nói chung và Thần quyền lục pháp nói riêng ít được phổ biến vì chưa tìm được những người có tâm linh đạo đức tốt để truyền dạy. Các Đấng chân Sư có lời than rằng : Những môn học về thần bí sau này , chỉ lưu lại rất ít trong sách vở hay được các học trò cất giữ trong lòng ...thật đáng tiếc và buồn thay cái vốn quý báu của ông cha dần dần bị mai một và quên lãng.
" Mọi người nên tìm hiểu đạo lý chân chánh của Bùa chú để kẻ tà tâm không còn cơ hội lừa bịp ".
Đó cũng chính là mục đích của dienbatn khi đăng tải loạt bài này. Xin chân thành cảm ơn các bạn đã theo dõi.
Loạt bài này còn khá nhiều phần nữa về các dòng phái Huyền môn Nam tông tại Việt Nam . Hẹn các bạn khi nào có dịp, dienbatn xin tiếp tục.
Thân ái . dienbatn.
PHẦN 3 : NHỮNG CUỘC LỮ HÀNH.
Xin theo dõi tiếp bài 30 sắp tới , dienbatn.
Xem chi tiết…

CUỘC CHIẾN GIỮA CÁC PHÁP SƯ VÀ HAI CÕI ÂM DƯƠNG. BÀI 28.

11/03/2017 |
CUỘC CHIẾN GIỮA CÁC PHÁP SƯ VÀ HAI CÕI ÂM DƯƠNG. BÀI 28.
NHỮNG NĂM THÁNG HỌC HUYỀN MÔN.
Từ phần này trở đi có tên gọi là NHỮNG NĂM THÁNG HỌC HUYỀN MÔN. Đó là những tháng ngày vô cùng vất vả, trải nghiêm đủ Hỉ- Nộ- Ái - Ố của dienbatn . Cũng đã qua từ lâu rồi , xin kể lại để các bạn cùng chiêm nghiệm . Thân ái. dienbatn. Loạt bài này đã đăng trên báo giấy : Tuổi trẻ và Đời sống .
Trên dải đất phương Nam , từ khi Chúa Nguyễn Hoàng nghe theo câu " Hoành Sơn nhất đái - Vạn Đại dung thân " của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, trải qua các triều của các Vua Nguyễn, người dân Nam mang trong mình dòng máu Lạc Hồng, mang theo hồn Thiêng của sông núi , mang theo những kiến thức Huyền môn của miền Bắc và Trung , đấu tranh liên lục mở mang bờ cõi . " Từ thủa mang gươm đi dựng nước - Ngàn năm thương nhớ đất Thăng Long " ( Huỳnh Văn Nghệ ). Đất Việt Nam địa linh , nhân kiệt mang hình chữ S tạo nên một bức địa đồ có hai mảng âm - dương kết hợp kỳ bí , là một Thánh địa Long tàng hổ phục. Nơi đây đã , đang và sẽ sinh ra biết bao nhiêu nhân tài , là điểm tập kết và hội tụ của rất nhiều hệ phái Huyền môn của nhân loại qua các dòng chảy của văn hóa, giao thương, truyền Đạo....
Huyền môn của Trung Hoa đã tập trung ở miền Bắc từ hàng ngàn năm trước . Các phái Huyền môn Trung Hoa như : Lỗ Ban, Mao Sơn , Chúc Do Khoa, Lỗ Ban Thái Thượng , Lỗ Ban sát Thần phù , Lỗ Ban 12 cửa, Lỗ Ban Cửu Khiếu, Lỗ Ban độc trùng ( Từ Vân Nam truyền vào ) , Lỗ Ban Cửu Thiên, Lỗ Ban Ngũ hành , Phù thủy....
Các dân tộc thiểu số miền núi phía bắc Việt Nam như Thái , HMông, Dao, Mường, Mán, Khơ Mú, Rục,  ....đều có những Thày Mo, Thày Tào nắm rất chắc các thuật Huyền môn như Nèm, Chài, Thư , Thuốc, Trù, Ếm ...
Các phái Huyền môn phát xuất từ phương Bắc và các dân tộc thiểu số miền bắc Việt Nam, ảnh hưởng của Phật giáo Đại thừa, của các câu chú Đà La ni bằng chữ Phạn hay Tây tạng, các hình ảnh Phật, các chủng tử...được các nhà Huyền môn chế tác kết hợp với Đạo giáo Trung hoa thành ra trong Huyền môn miền Bắc , thường sử dụng những câu chú là chữ Hán , kết hợp với tiếng địa phương của mình, các lá Bùa bao giờ cũng kèm theo các ký tự hán ngữ theo kiểu chữ Bùa.
Trong đoàn quân Nam tiến của Chúa Nguyễn Hoàng ngày xưa, không thiếu những vị Pháp sư, Phù thủy, Đông y , mang trong mình những thuật Huyền môn của miền Bắc, khi vào Nam đã tiếp thu những tinh hoa Huyền môn từ các dân tộc Chăm , Ba Na, Ê Đê,  Vân Kiều , Cờ Ho , Cơ Tu , Ra rai , KhMer  .... Khi vào tới Nam bộ , lại giao thoa với những phái Huyền môn của Phật giáo Nam tông ( Therevada ) . Những phái Huyền môn của Phật giáo Nam tông có thể du nhập vào Nam bộ qua vùng rừng núi giáp ranh với Việt Nam như Lào, Campuchia, có thể đi theo thương thuyền từ Thái Lan, In đô nê chia, Philipin, Singapo... Các nước theo Phật giáo Nam tông trong Huyền môn thường hay sử dụng chú ngữ PaLi và Bùa Điển ( Không có các Hán tự ). Ta có thể kể đến những môn phái của Huyền môn Nam tông như : Lục cà Tha, Lục Giây, Mẹ Sanh, Mẹ Lục, Mẹ Đất, Mẹ Sroc , Gồng Trà Kha, Năm Ông , Ngũ công Vương Phật, Mẹ Ngũ hành ,  Phật Đen, Tổ Tóc Đanh, Tổ Xì Bích , Tổ vắt Khăn .....
Lại có những môn phái tại vùng Châu Giang là người Chăm có chú thuật bằng kinh Cô Ran cổ , dùng luyện Ngải, luyện thư , ếm. Một số môn phái còn tiếp thu những bí thuật từ PhiLípPin , In đô nê chia thờ Mẹ Đất , Thần Rừng, Thần Núi hay thờ những vị nửa người , nửa thú , kết hợp cả động thực vật thành một sức mạnh kỳ bí như Ắp Pla kết là thuật kết hợp giữa tinh tre gai và Thần Đất , Bo gẹt là kết hợp giữa râu con cọp và măng rừng tạo nên những liều thuốc cực độc, Chiêm Niền là thuật kết hợp giữa gai cá Ngạnh và lá rừng. 
Ta hãy so sánh hai lá Bùa của nam Tông và Bắc tông sẽ thấy rất rõ nguồn gốc của chúng.

1/ BÙA BẮC TÔNG.
                       Bài Chú Chúc Quan Phù Sứ 
 Triệu Thỉnh Thượng Giới Thiên Tiên Trực Phù Sứ, Trung Giới Địa Tiên Trục Phù Sứ, Hạ Giới Ngoại Tiên Trực Phù Sứ, Kim Thời Phụng Sự Trực Phù Sứ, Thiên Lý Tầm Phù Danh Hương Thỉnh, Phi Vân Tẩu Vụ Ngoại Đàn Tiên, Đệ Tử Tâm Hương Thông Tam Giới, Thông Vấn Tam Giới Trực Phù Thần, Khoái Đổ Cửu Năng Tụ Thủ, Cá Cá Hàm Châu, Đồng Đầu  Thiết Cảnh, Bất Úy Cường Ngư,  Song  Thủ Mỹ Ngọc, Mãn  Phúc Văn  Chương,  Kinh  Thiên  Vĩ  Địa,  Tả  Hữu  Diện  Khổng,  Nhật  Nguyệt Tranh Quang, Tả Cước Kính Thiên, Phi Vân Tùy Chi Hữu Tước Kính Thiên Tẩu Lộ Tùy Chi, Thủ Chấp Khai Văn Kiêm Đồng  Phù  Sứ, Túc Vãng Tiên Cung, Cảm Thỉnh Thần Tiên, Phùng Thánh Túc Yêu, Ngộ Tà Tứ Sát, Cao Tại Thanh Thiên Chi Thượng, Thâm Nhiệm Tàng Hải Chi Trung, Cận Tại Kỉ Tịch Chi Tiên, Viên Tại Cửu Châu Chi Ngoại. 

2/ BÙA NAM TÔNG.
 BA ÔNG TỔ LỚN NHẤT.
• Ề hế tế dá mặc mặc.
• Ề hế thế dái mặc mặc.
• Ề hế Bi li mặc mặc.
Bùa và chú Nam tông thường đơn giản và hiệu quả hơn.
Tới đây chúng ta có thể kết luận rằng : Phái Thất sơn Thần quyền là một môn phái Võ - Đạo của Việt Nam , xuất phát từ miền Thất Sơn - An Giang , được các vị Thày của các tông phái Phật giáo miền Nam ( Bửu Sơn Kỳ hương, Tứ Ân hiếu nghĩa, Cao Đài, Hòa Hảo...) tiếp thu tinh hoa của nhân loại , kết hợp với các hệ phái Huyền môn Nam tông bắt nguồn từ các nước Thái Lan, Lào, Cam Pu Chia, Mã lai, Phi Lip Pin, In đô ne chia ....tạo thành một phái Võ - Đạo mang đậm bản sắc địa phương.  Phái Thất sơn Thần quyền là một môn phái Võ - Đạo của Việt Nam, hoàn toàn không phải là của Trung Quốc.
CÁC TRUYỀN THUYẾT VỀ NGUỒN GỐC CỦA THẤT SƠN THẦN QUYỀN.
Tư liệu 1 : 
" Đi tìm dấu vết võ học Thất Sơn: Thần quyền
Thất Sơn thần quyền là một trong những võ phái ra đời rất sớm ở vùng Thất Sơn (Bảy Núi, An Giang ). Ngoài quyền cước thông thường, người học võ còn luyện “thần quyền”. 
Võ sư sáng lập

Theo một vài ghi chép, Thất Sơn thần quyền (TSTQ) do võ sư Trần Ngọc Lộ, từng là Bí thư Đại Việt cách mạng quận bộ Phú Thứ (Huế), sáng lập nên. Tuy là người gốc Huế, nhưng Trần Ngọc Lộ là một trong “thập nhị hiền thủ” - đệ tử dưới trướng của Phật thầy Tây An Đoàn Minh Huyên. Vốn là người giỏi võ, lại đức độ, võ sư Trần Ngọc Lộ không thể lập giáo phái vì sợ mang tiếng phản thầy, phản giáo, nên ông lập võ đạo. Để ghi nhớ công ơn của thầy đã truyền dạy và khoảng thời gian ẩn cư tại vùng Bảy Núi, võ sư Trần Ngọc Lộ đã lấy tên TSTQ đặt cho võ phái của mình.
Di ảnh của võ sư Hoàng Bá - truyền nhân cuối cùng của Thất Sơn thần quyền ở An Giang - Ảnh do gia đình cung cấp
Đệ tử TSTQ nhập môn ngoài học quyền cước còn được học cả đạo. Võ là để rèn luyện thân thể, sức khỏe dẻo dai, bảo vệ chính nghĩa, giúp đỡ kẻ yếu. Còn đạo là đạo đức, đạo lý sống ở đời. Thêm vào đó, đệ tử TSTQ còn có thêm niềm tin rằng nếu ra sức luyện tập, đến một lúc nào đó có thể luyện thành “thần quyền”, có sức mạnh siêu phàm có thể “hô phong, hoán vũ”, có thể 1 đánh 10, thậm chí vài chục người. Chính đức tin này đã thu hút rất nhiều người tìm đến học TSTQ. Tuy nhiên, không phải đệ tử nào cũng được học “thần quyền”. Tương truyền, chỉ có người được chọn kế thừa Trưởng môn mới được chân truyền “thần quyền” để trấn môn.
Cho đến bây giờ, người dân vùng Bảy Núi vẫn còn truyền miệng câu chuyện về một đạo sĩ già có phàm danh “ông Đạo Ngựa”. Do hành tung ông rất bí ẩn nên không ai biết chính xác danh tính của ông, cũng không biết nơi ông sinh sống. Chỉ biết rằng mỗi tháng một lần, ông cưỡi ngựa xuống chân núi Sam (Châu Đốc) để đổi gạo. Một lần chứng kiến cảnh dân nghèo bị cướp, ông ra tay can thiệp. Nhìn thấy một ông lão gầy nhom, râu tóc bạc phơ, bọn cướp phá lên cười. Thế nhưng khi bọn chúng vung dao xông vào vây chém thì ông lão gầy guộc trở nên hết sức nhanh nhẹn. Vừa tránh những đường dao chí mạng, tay nắm dây cương ngựa, chân liên tục tung cước khiến cả bọn té sấp dưới đường. Bọn cướp tháo chạy, ông thoắt lên lưng ngựa, ngược dốc núi trở về và biến mất giữa rừng già. Về sau, người ta mới biết ông chính là một trong những đệ tử chân truyền của TSTQ đã mai danh ẩn tích, tu tại một hang động bí ẩn ở núi Sam. Nhưng cũng từ đó ông “Đạo Ngựa” không còn xuất hiện và không ai tìm được ông nữa.
Võ sư Phan Thanh Thuận, đệ tử cuối cùng của võ sư Hoàng Bá - Ảnh do nhân vật cung cấp
Truyền nhân cuối cùng .
Chúng tôi cất công lần theo dấu vết truyền thuyết trên khắp vùng Bảy Núi trong một thời gian dài, nhưng vẫn không gặp được truyền nhân nào của TSTQ. Trong khi lân la trò chuyện với các võ sư thuộc Trung tâm huấn luyện TDTT tỉnh An Giang, chúng tôi được biết có một vị võ sư già trước đây là đệ tử của phái Thất Sơn. Theo chỉ dẫn, chúng tôi tìm đến tận nhà thì tiếc là vị võ sư ấy đã qua đời ở tuổi 71 (năm 2010). Đó chính là võ sư Hoàng Bá (tên thật Trần Kim Truyền), nhà ở cầu Tầm Bót, P.Mỹ Phước, TP.Long Xuyên. Ông chính là đệ tử chân truyền cuối cùng của võ phái TSTQ ở An Giang.
Võ sư Hoàng Bá vốn rất nổi tiếng trong giới võ thuật miền Nam từ những năm trước 1975. Ông Bảy Sang (85 tuổi, chú ruột võ sư Hoàng Bá) cho biết dòng họ ông không có truyền thống võ đạo. “Thuở nhỏ, cha nó bắt phải đi học chữ, nhưng do mê võ nên thằng Truyền chỉ học chữ buổi sáng, đến buổi chiều nó lén đi học võ với các sư phụ Tư Ngộ, Hai Tỷ ở gần nhà. Năm 16, 17 tuổi, nó đã đi thi đấu võ đài”, ông Bảy Sang nói.
Mặc dù võ nghệ đã khá, chàng thanh niên Trần Kim Truyền vẫn lén gia đình tìm đến vùng Bảy Núi tầm sư học võ và trở thành đệ tử chân truyền chính tông cuối cùng của TSTQ. Tuy nhiên, thuở sinh tiền, võ sư Hoàng Bá cho biết ông chưa lĩnh hội được “thần quyền” thì sư phụ đã cho xuất sơn xuống núi. Biết “duyên phận” chỉ đến đó nên ông cũng không thể cưỡng cầu. Sau đó, ông về mở võ đường, thu nhận đệ tử tại Long Xuyên, lấy tên là Hoàng Bá. Những năm từ 1958 đến 1960, lò võ Hoàng Bá nhanh chóng nổi tiếng trong giới võ thuật miền Nam, cả nước và thậm chí khu vực Đông Nam Á qua các cuộc thượng đài. “Hồi đó lên võ đài là phải ký giấy sinh - tử, 2 cái hòm (quan tài) được để sẵn bên hông. Mặc dù người học võ không được phép đánh chết người, nhưng vì quyền cước không có mắt nên phải làm như vậy. Bởi vậy, cha thằng Truyền không đồng tình cho nó theo nghiệp võ”, ông Bảy Sang nhớ lại.
Năm 1960, trong một trận đấu tranh giải khu vực Đông Nam Á, võ sư Hoàng Bá bất ngờ đối mặt đồng môn là võ sĩ Nosar của Campuchia - một truyền nhân của TSTQ. Trận đấu sau đó đã được dừng lại vì trong 9 điều thệ của đệ tử TSTQ có cấm đồng môn tương sát. Cũng từ đó, đệ tử TSTQ khắp nơi tề tựu về Long Xuyên để chấn hưng lại môn phái. Trong số 10 võ sư gạo cội thì chỉ có 1 người được truyền thụ “thần quyền”, nhưng chưa kịp truyền dạy cho đệ tử nào thì ông này đã qua đời. Riêng võ sư Hoàng Bá sau đó lấy tên lò là Thất Sơn Võ Đạo, thu nhận rất nhiều đệ tử. Có một thời gian dài, võ sư Hoàng Bá còn làm huấn luyện viên môn võ cổ truyền cho các võ sĩ tại Trung tâm TDTT tỉnh An Giang đi thi đấu đạt nhiều thành tích cao. Đệ tử cuối cùng của võ sư Hoàng Bá là anh Phan Thanh Thuận, hiện cũng đang là huấn luyện viên võ cổ truyền tại trung tâm này. Anh Thuận theo học tại nhà võ sư Hoàng Bá từ năm 1991-1994. Lúc này, võ sư Hoàng Bá đã đóng cửa võ đường và Thuận là đệ tử cuối cùng. Anh Thuận cho biết, những thế võ anh theo học có rất nhiều bài quyền cận chiến hay như Mãnh hổ tọa sơn, Linh miêu đoạt thạch, Tam sơn trấn ải, Xí mứng, Phá xí mứng, Pha bốc bế... " - Mai Tuyết.
* Theo tài liệu của dienbatn về vấn đề này như sau : ( Đây chỉ là tài liệu chép lại - Không phải là quan điểm của dienbatn ).
Thất sơn Thần quyền có tại Việt nam từ cuối thế kỷ 19 , nhưng sự ra đời và phát triển bước đầu tại Huế . Người sáng lập và truyền bá các bí quyết của môn phái là Võ sư Ngọc Lộ - tự là Ngọc Sơn - Sinh tại làng Ngọc Anh - Phú Vang - Huế. Đầu năm 1958, vào 14/2 , võ sư Trần Ngọc Lộ được Thần linh tại miếu Ngọc Quối báo mộng : Con có thiện duyên được nhiều vị Thần hỗ trợ , phải đích thân tầm sư học Đạo ".
Tiếp đến ngày 15/4 cùng năm , vị Thần lại xuất hiện và báo mộng lần thứ 2. Sau lần này Ngọc Lộ tự phát nguyện ra đi tìm Sư phụ học Đạo.
 Sau ngiều ngày tìm tòi , ngày 20/5/1958. Trần Ngọc Lộ đã đến khu vực Thất Sơn - thuộc An Giang . Trước khi vào núi quy y thọ phái, Ngọc Lộ đã đứng tại khu vực Núi Cấm 3 ngày cầu Đạo và cuối cùng đã được một phật tử của Phật Thày Tây An tiếp nhận và đưa vào Núi Sam. Tại đây , Thày đã có thiện duyên gặp Phật , thày có kể lại những giấc mộng của mình và Phật Thày cũng đã biết trước được những gì Thày định kể. 
Trong thời gian thọ giáo tại Núi Sam, Ngọc Lộ đã quyết tâm , miệt mài tiếp thu những bùa phép huyền bí của bản môn do Phật Thày Tây An truyền thụ. Trong vòng 6 năm , Ngọc Lộ đã quán triệt được hầu hết chương trình học tập của Phật Thày chỉ dạy và Phật Thày đã quyết định cho Ngọc Lộ hạ sơn . Ngày 16 tháng Chạp năm Giáp Thìn ( 1964 ) , Phật Thày đã cho Ngọc Lộ hạ sơn và trở về quê quán.
Về đến quê, Ngọc Lộ vẫn âm thần luyện tập , tu luyện tại miếu cây Ngọc Quối làng Vĩ Dạ - Thành phố Huế. Chưa đầy một năm từ khi về quê, Ngọc Lộ nóng lòng muốn truyền thụ pháp thuật của bản môn nên đã thu nhận một số đệ tử . Rất nhiều chướng ngại đã đến với Ngọc Lộ và gia đình , nhưng thày vẫn chấp nhận hy sinh cuộc đời của mình , được cứu khổ cho con em , đồng bào mình, hy vọng những học trò của mình sẽ trở thành những người có đức độ , cứu khổ cho xã hội.
 Ngày rằm tháng 2 là một đêm tối trời, Ngọc Lộ cùng gia đình đã được chứng kiến cảnh một vầng hào quang sáng rực từ ngoài bay đến bàn thờ Phật . Đó chính là lúc Phật bà nhập nội, đúng như Phật Thày Tây An truyền dạy khi Ngọc Lộ hạ sơn. Ngọc Lộ phát nguyện lập bàn thờ Phật bà, bàn thờ Tổ , nguyện tịnh trai và đặt tên môn phái là THẤT SƠN THẦN QUYỀN. Từ ngày lập ban thờ và tịnh trai, mọi kiếp nạn của Ngọc Lộ đều qua hết. Chỉ trong vòng 10 tháng, số môn sinh ở Huế đã lên tới 600 người , chưa kể ở những nơi khác. Ban huấn luyện lúc đó bao gồm :
* Anh Việt là trưởng tràng , phụ trách huấn luyện lúc Thày đi vắng.
* Anh Thắng huấn luyện tập sự tại bàn thờ Tổ.
* Bác Chiên là huấn luyện viên tập sự kiêm thủ quỹ của môn phái.
* Chú Bích là thư ký và là tùy viên của Thày.
Ban huấn luyện tập trung phát triển tại bàn Tổ, còn những việc ở xa là do Thày và anh Việt phụ trách. Ngày giỗ Tổ đầu tiên được chọn là 3 ngày 14- 15-16 tháng 12 âm lịch năm  Kỷ Mùi ( 1967 ). Suốt 3 ngày đó , môn sinh đông đúc đã làm náo động thành phố Huế. Tiếp đó ngày 25 cúng Tổ xong, Thày và đệ tử vào Thuận An để thiết lập bàn thờ Tổ của chi nhánh thứ 2 cho các môn sinh miền duyên hải do anh Trọng đảm nhiệm.
Ngày 30/12 năm 1967, các đệ tử ở 4 phương đều đến Tết Thày và lần lượt trở về nhà.
Tuy nhiên từ ngày mùng 1 đến ngày mùng 7 tết Mậu Thân, thành phố Huế chìm trong máu lửa của cuộc tổng tấn công . Tới ngày mùng 8 Tết chiến sự mới tạm ngưng.
 Trong cuộc tổng tấn công và nổi dậy tại Huế này, võ sư Trần Ngọc Lộ , bác Đoàn Văn Thiên ( ở La Hỉ  - là một huấn luyện viên ), anh Trần Văn Việt là trưởng tràng, anh Đỗ Viết Thắng phụ trách bàn thờ Tổ đều ra đi trong kiếp nạn của mình, bỏ lại đằng sau một sự nghiệp vừa mới hình thành , một lớp đệ tử còn non nớt. Sau biến cố Mậu Thân 1968, võ sư Trần Ngọc Lộ chỉ còn để lại cho lớp đệ tử của mình một ban thờ Tổ để các môn đệ lễ Phật, lễ Tổ, một khuôn in Bùa thức ăn và 1 khuôn in khăn ấn tối thượng , toàn bộ sổ sách , binh thư ghi chép bí quyết thần bí của môn phái Thất Sơn Thần quyền. Tất cả những vật đó được con trai của Thày là Trần Ngọc Khoa ở thành phố Huế lưu giữ.
Tư liệu 2 .
Huyền thoại về Thất Sơn Thần Quyền .
Năm 1859, Pháp bắt đầu đánh chiếm Nam kỳ Lục tỉnh (Nam bộ). Một giai đoạn bi thảm bắt đầu trên vùng đất mới khẩn hoang chưa lâu lắm. Triều đình nhà Nguyễn bất lực trước sự xâm lăng ngang ngược của thực dân Pháp đã lên tục nhượng bộ cắt đất, bất lực ngồi nhìn súng đạn thực dân thôn tính miền Nam, sau đó thôn tính và đặt ách đô hộ lên toàn nước Việt. Nhiều bậc trung quân ái quốc tức giận kháng mệnh triều đình. Nhiều chí sỹ tựu quân kháng chiến cứu nước.
Vùng Bảy Núi, tức Thất Sơn (hiện nay thuộc tỉnh An Giang) trở thành căn cứ địa của các lực lượng nghĩa quân Nam Bộ. Thật ra, Thất Sơn có đến 10 ngọn núi nhưng thời vua Tự Đức chỉ đặt tên cho 7 ngọn tượng trưng cho 7 linh huyệt gồm: Anh Vũ Sơn (Núi Kéc), Thiên Cẩm Sơn (Núi Cấm), Ngũ Hồ Sơn (Núi Dài), Liên Hoa Sơn (Núi Tượng), Thủy Đài Sơn (Núi Nước), Ngoạ Long Sơn (Núi Dài Văn Liên), Phụng Hoàng Sơn (Núi Tô).
Do địa điểm hiểm trở, dãy nối dãy, ngọn liền ngọn, rừng rậm hoang vu nên vùng núi này có nhiều loại thực vật, động vật cực kỳ bí hiểm. Cọp beo, rắn rết cùng những loại cây ăn thịt (dân gian gọi là ngãi) đã khiến nhiều người bỏ mạng mất xác khi cố tình thâm nhập. Trước sức mạnh vũ khí hiện đại của quân Pháp, lực lượng nghĩa quân chỉ có binh khí thô sơ và lòng quả cảm. Những người chỉ huy phải sử dụng đến “vũ khí tâm linh”. Võ phái Thất Sơn thần quyền ra đời từ đó. Để giữ bí mật nơi trú ẩn, nghĩa sỹ kháng chiến đã lợi dụng sự kỳ bí của tự nhiên, lợi dụng địa thế hoang vu hiểm trở của rừng rậm, núi cao thêu dệt nên những câu chuyện linh thiêng nhằm để tiếp thêm sức mạnh cho binh sỹ và uy hiếp kẻ thù.
Hiện nay, truyền nhân duy nhất và cuối cùng của Thất Sơn Thần Quyền là võ sư Hoàng Bá, cư ngụ tại cầu Tầm Bót, TP. Long Xuyên, tỉnh An Giang. Đã hơn 75 tuổi, gần 20 năm nay, võ sư Hoàng Bá đóng cửa võ đường, không thu nhận đệ tử nữa. Điều đáng tiếc là võ Sư Hoàng Bá, tuy là truyền nhân nhưng không phải là chưởng môn nên không lĩnh hội được hết tuyệt chiêu của Thất Sơn Thần Quyền. Ông cho biết, người trưởng môn duy nhất và cuối cùng của võ phái, nắm giữ tất cả tuyệt chiêu là ông Đạo Ngựa tu luyện ở núi Sam, Châu Đốc.
Võ sư Hoàng Bá chỉ là truyền nhân của một bản sao Thất Sơn Thần Quyền. Vì vậy, ông chỉ lĩnh hội được một số tuyệt kỹ thuộc về phần “dương công” của Thất Sơn Thần Quyền, chứ không nắm không nhiều những bí quyết về phần “âm công”. Võ sư Hoàng Bá đánh giá: “Thất sơn thần quyền là một môn phái cận chiến thực dụng, chỉ hữu ích trong chiến đấu thuở gươm đao xưa. Người võ sinh có những phương pháp luyện tập dị biệt. Vì bài quyền không có lời thiệu nên bị tam sao thất bổn. Ngoài quyền cước, võ sinh còn được trang bị thêm niềm tin huyền bí để tạo sự tự tin, bình tĩnh. Trong chiến đấu, sự tự tin, bình tĩnh chiếm 50% thắng lợi”. Thất Sơn Thần Quyền chính tông là một phái võ đặc dị gồm 2 phần: Quyền và Thuật. Quyền là phần “dương công” gồm những thế võ cận chiến tay không và giáp chiến binh khí. Thuật là phần “âm công” huyền bí, dùng năng lượng siêu nhiên trợ lực. Vì môn qui, người đệ tử duy nhất được chọn kế thừa trưởng môn mới được sư phụ truyền dạy phần “âm công”. Tương truyền, võ sinh Thất Sơn Thần Quyền chính phái có tuyệt chiêu gọi hồn nhập xác. Khi giáp chiến võ sỹ chỉ sử dụng quyền thế trong dương công để tấn công đối phương. Nếu gặp đối thủ lợi hại, võ sỹ dùng huyền thuật gọi hồn một vị thần giỏi võ nhập xác vào võ sỹ trợ giúp.
Vào năm 1967, những người cao niên sinh sống dưới chân Núi Sam (Châu Đốc, An Giang) vẫn còn thấy một đạo sỹ gầy, râu tóc bạc phơ, tu luyện trong rừng sâu trên đỉnh núi. Hàng ngày, vị đạo sỹ này cưỡi ngựa xuống núi trao đổi lương thực với người dân quanh vùng.
Vị đạo sỹ này rất kiệm lời nên không ai biết thân thế, tên tuổi của ông. Ông không bao giờ rời lưng ngựa. Điều đáng quan tâm là, hình dáng ông trông rất ốm yếu, lại cưỡi ngựa không yên cương. Dốc núi gập ghềnh đá, ông phải có sức mạnh phi thường mới có thể cưỡi ngựa lên đỉnh xuống vồ. Vì thế, người dân địa phương gọi đùa là ông Đạo Ngựa.
Một lần dong ngựa xuống núi đổi rau củ lấy gạo, bắt gặp một toán cướp dùng súng uy hiếp người dân, ông xuống ngựa can thiệp. Đó là lần đầu tiên người ta thấy ông rời lưng ngựa. Toán cướp thấy ông ốm yếu xông vào toan đánh đập. Không ngờ chỉ bằng một ngón tay, ông đã khiến một tên cướp trợn dọc mắt, ngã lăn bất tỉnh. Tên cướp khác toan nổ súng. Ông rùng mình một cái rồi sau đó như điên loạn.

Ông bay vèo đến cạnh tên cướp tước súng rồi vung chân múa tay đánh gục hết những tên còn lại. Ông ung dung lên ngựa trở về núi. Một ông già ốm yếu đánh gục toán cướp khỏe mạnh lại có vũ khí trong tay khiến nhiều thanh niên thán phục. Họ rủ nhau lên núi tìm ông xin học võ. Không ai tìm được nơi trú ẩn của ông. Tuy nhiên, có một người thanh niên quyết tâm tìm ông cho được. Người thanh niên này bò lên đỉnh núi Sam tìm nơi ngồi thiền lâm râm khấn: khi nào gặp được sư phụ mới chịu xuống núi. Sau hai ngày chịu nắng mưa, đói khát giữa rừng sâu núi thẳm, người thanh niên ấy ngất xỉu. Khi tỉnh lại thì thấy mình nằm trong một hang động. Kể từ ngày đó, người thành niên ấy trở thành đệ tử chân truyền của Đại sư Đạo Ngựa. Ngoài Hoàng Sơn còn có một tiểu đồng tên Ba giúp ông Đạo Ngựa nhang khói. Trong những ngày thụ đạo, người thanh niên ấy mới biết sư phụ mình là đệ tử kế thừa trưởng môn Thất Sơn Thần Quyền của Nam Cực Đường. Nam Cực Đường của Đại sư Bảy Do lập năm từ đầu thế kỷ 20 đào tạo nghĩa sỹ kháng Pháp. Năm 1917, quân Pháp bao vây bắt Đại sư Bảy Do đày ra Côn Đảo. Năm 1926, tạo nhà lao Côn Đảo, Đại sư Bảy Do cắn lưỡi cho máu chảy đến chết. Học được gần 1 năm, đã hết phần “dương công” chuẩn bị bước sang phần “âm công”, người thanh niên ấy xin về nhà giỗ cha. Giỗ cha xong, khi trở lại núi Sam, người thanh niên không tài nào tìm được hang động cũ. Nghĩ rằng sư phụ muốn lẩn tránh mình, người thanh niên ấy đành lại tạ hư không rồi xuống núi. Từ ngày đó cũng không ai còn thấy bóng dáng ông Đạo Ngựa một lần. Ông mất hút giữa rừng núi thiêng. Người thanh niên ấy chính là lão võ sư Hoàng Sơn. Năm 1960, trong một trận thi đấu tranh giải võ thuật khu vực Đông Nam Á, võ sỹ Hoàng Sơn đại diện đoàn Việt Nam đấu với võ sỹ Kh’mer tên là Nosar. Vào hiệp một, chỉ sau vài chiêu giao đãi, võ sỹ Sonar xin dừng trận đấu vì nhận ra đồng môn. Hóa ra, Nosar cũng là đệ tử của Thất Sơn Thần Quyền. Năm 1970, ông Nosar trở thành Phó Chủ tịch Hội đồng võ thuật Campuchia đã đào tạo ra những võ sỹ “thần quyền” nổi tiếng Campuchia như Nosar Long, Nosar Lieng. Hóa ra Nosar là truyền nhân mấy đời của ông Cử Đa ở Tà Lơn.
Thời điểm đó, đại lão võ sư Đoàn Tâm Ảnh đang sưu tầm tuyệt kỹ công phu của các môn phái võ Việt Nam đã phát hiện võ sỹ Hoàng Sơn là truyền nhân của Thất Sơn Thần Quyền. Năm 1968, đại lão võ sư Đoàn Tâm Ảnh tìm đến tận nhà Hoàng Sơn đề nghị qui tựu những người hiểu biết về Thất Sơn Thần Quyền để sưu tầm một môn phái đã bế truyền.
Do chưa được truyền thụ phần “âm công” tức phần “thần” mà chỉ biết phần “dương công” tức phần “quyền” nên Hoàng Sơn chỉ dám trương cờ Thất Sơn Võ Đạo tại Long Xuyên. Lá cờ nên đó có thêu hình 7 ngọn núi màu đen. Đại lão võ sư Đoàn Tâm Ảnh đứng chân tạo đó làm cố vấn cho Thất Sơn Võ Đạo.
Mục đích của Thất Sơn Võ Đạo là quy tựu các đồ đệ đồng môn tứ tán khắp nơi về để thống nhất các chiêu thức, các bí thuật “âm công” và truyền dạy lại cho thế hệ sau. Chỉ trong một thời gian ngắn, 10 võ sư từ các nơi nghe tin đã quy tựu về góp sức, gồm: Nguyễn Thành Diệp, Phùng Vũ Châu (Tư Tiếp), Nguyễn Giầu, Nguyễn Thọ, Nguyễn Thôi, Lê Đình Tây, Trần Văn Tủy, Lê Minh Nho, Sáu Rẩm, Hoàng Bá (trẻ tuổi nhất).
Trong số 12 thành viên, Đại lão võ sư Đoàn Tâm Ảnh và đại lão võ sư Nguyễn Thành Diệp cao niên nhất. Đại lão võ sư Nguyễn Thành Diệp là người may mắn nắm giữ được nhiều bí quyết phần “âm công” nhất. Tiếc rằng, đại lão võ sư Nguyễn Thành Diệp chưa kịp hệ thống lại các bí quyết thì qua đời năm 1970. Những bí ẩn của Thất Sơn Thần Quyền xem như chìm vĩnh viễn vào hư vô.
Tuy không còn lưu giữ được các bí thuật huyền diệu nhưng kể từ ngày thành lập, Thất Sơn Võ Đạo cũng đào tạo được rất nhiều võ sỹ nỗi tiếng khắp Châu Á. Tất cả những trận thư hùng khu vực giữa các võ đường danh tiếng Trung Quốc, Lào, Campuchia, Thái Lan, Malaixia, Indo, Philipin đều có mặt võ sỹ Thất Sơn Võ Đạo.
Trận giao đấu tốn nhiều giấy mực của các ký giả thể thao miền Nam lúc ấy là trận Hoàng Thọ, đệ tử của võ sư Hoàng Sơn (môn phái Thất sơn Võ Đạo) đấu với võ sỹ Tinor (Môn phái Trà Kha) vào năm 1973 trong đại hội võ thuật tại Sài Gòn. Tinor là võ sỹ Lào được báo chí đặt cho biệt danh “Cọp bay” bởi chiêu song cước. Nhiều võ sỹ đã phải đo ván bởi cú đá bay nhanh như chớp và chính xác như công thức của võ sỹ này.
Trận trước, “Cọp bay” Tinor thi đấu với võ sỹ Dương Văn Me (sau này là võ sư Huỳnh Tiền). Khi mới vào kẻng, võ sỹ Dương Văn Me chưa kịp chuẩn bị, “Cọp bay” Tinor đã bay người tung cú đá từ phía sau. Dương Văn Me bị gãy xương sườn, trọng tài xử thua.
Dưới khán đài, một cuộc ẩu đả xảy ra giữa hai phe cổ động viên. Bất phục, võ sỹ Hoàng Thọ nhảy lên võ đài thách đấu với “Cọp bay” Tinor (lúc ấy luật thi đấu võ thuật cho phép thách đấu). Cuộc thách đấu được các đại lão võ sư cả hai phía chấp nhận thiết lập để vãn hồi trật tự dưới khán đài. Do đó là trận thách đấu nên được Ban Tổ chức thu xếp vào ngày cuối cùng và năm ngoài giải đấu.
Khi võ sỹ Hoàng Thọ và “Cọp bay” Tinor thượng đài, ai cũng ái ngại cho Hoàng Thọ. Lúc đó, Hoàng Thọ chỉ là một võ sỹ chưa tên tuổi lại thấp hơn “Cọp bay” Tinor một cái đầu.
Vào hiệp 1, “Cọp bay” Tinor xông lên áp đảo Hoàng Thọ vào góc đài. Chờ Hoàng Thọ lúng túng trong góc chết, “Cọp bay” Tinor tung một cú đá thốc từ dưới bụng lên. Hoàng Thọ dính đòn bật ngửa. Ai cũng tưởng Hoàng Thọ nằm vĩnh viễn trước cú đá bạt sơn của võ phái Trà Kha nỗi tiếng về chuyện mình đồng da sắt.
Không ngờ Hoàng Thọ tung mình đứng lên, mặt đỏ au, mắt trợn ngược, tóc tai dựng đứng, tay chân vung đánh loạn xạ không theo một bài bản nào. “Cọp bay” Tinor vừa chống đỡ vừa lùi ngược. Hoàng Thọ thét một tiếng rồi vung chân đá thẳng vào hàm Tinor. Tiếng xương hàm vỡ phát ra cùng lúc với tiếng kẻng kết thúc hiệp 1. Tinor đầu hàng.
Ngay trong ngày, Tinor được đưa về võ quán ở Lào để điều trị rồi chết sau đó vài tháng. Hoàng Thọ trở nên nổi tiếng với bài “Thần quyền giáp chiến” của Thất Sơn Võ Đạo. Đó là một trong số 3 bài quyền còn nguyên vẹn phần quyền (võ) lẫn thuật (phép).
Lần theo sử liệu .
Theo hướng dẫn của võ sư Hoàng Bá, chúng tôi tìm đến Học Lãnh Sơn để gặp một đạo sỹ chỉ có cái tên duy nhất là ông Ba. Ông Ba cất một cái am u tịch giữa lưng chừng ngọn Học Lãnh Sơn để luyện đạo. Ông Ba đã 99 tuổi. Thuở thiếu niên ông Ba làm tiểu đồng cho ông Đạo Ngựa để học đạo. Sau vài câu giao đãi, ông Ba trầm ngâm lần tràng hạt, suy tưởng về quá khứ.
Ông cho biết, ông không học võ thuật mà chỉ học đạo. Ông xác nhận vào thời gian theo ông Đạo Ngựa học đạo có một người tên Sơn được ông Đạo Ngựa truyền thụ “võ thần”. Tuy không học võ nhưng ông Ba được sư phụ kể cho nghe về xuất xứ môn võ này.
Ông Ba khẳng định, những tổ sư môn võ thần này không đặt tên gọi nhưng do có xuất xứ từ vùng 7 núi linh thiêng nên người đời gọi là Thất Sơn Thần Quyền. Môn võ này có 4 phần luyện là tam đạo nhất thần: Tu tâm dưỡng tính gọi là tâm đạo, định thần dưỡng khí gọi là thể đạo, luyện thân tráng kiện gọi là quyền đạo. Phần luyện thứ tư gọi là luyện thần.
Ông cho biết thêm, tổ sư của môn phái võ này chính là Chàng Lía, một lãnh tụ kháng chiến chống triều đình trước thời kháng Pháp. Chàng Lía chỉ huấn luyện cho nghĩa binh phần tam đạo chứ chưa có phần nhất thần.
Khi phong trào kháng chiến của Chàng Lía bị triều đình đàn áp, giải tán, một đại đệ tử là Hải Đề Long dẫn một số đệ tử chạy trốn từ phía Bắc vào Nam trú ở vùng núi Tô Châu lánh trần tu tịnh. Trong số đệ tử có một người tên Nguyễn Văn Đa rất giỏi.
Thời Thiệu Trị cuối cùng, Nguyễn Văn Đa thi đậu võ cử nên được gọi là Cử Đa.
Ngày 20 tháng 6 năm 1867, quân Pháp chiếm thành Vĩnh Long. Sau đó, tiến lên huy hiếp thành Châu Đốc, buộc Tổng đốc Phan Khắc Thận phải đầu hàng. Tỉnh An Giang mất vào tay Pháp vào ngày 22 tháng 6 năm 1867. Trần Văn Thành không hàng Pháp mà mang quân qua Rạch Giá, hỗ trợ kháng chiến quân của Nguyễn Trung Trực.
Trần Văn Thành sinh năm 1920 ở ấp Bình Phú, làng Bình Thạnh Đông, tổng An Lương, quận Châu Phú Hạ, tỉnh Châu Đốc (nay thuộc xã Phú Bình, huyện Phú Tân, tỉnh An Giang). Năm 1840, ông gia nhập quân đội nhà Nguyễn được cử làm suất đội trong chiến dịch giải giáp Nặc Ông Đôn (em vua Cao Miên, khởi quân chống lại Việt Nam). Năm 1845, ông được thăng làm Chánh quản cơ, coi 500 quân, đóng quân ở Châu Đốc để giữ gìn biên giới phía Tây Nam.
Tháng 6 năm 1968, Nguyễn Trung Trực đánh chiếm được đồn Kiên Giang mấy ngày, thì bị quân Pháp tổ chức phản công. Do địch được trang bị vũ khí vượt trội nên Nguyễn Trung Trực rút lui ra Hòn Chông, còn Trần Văn Thành thì dẫn lực lượng của mình vào Láng Linh – Bảy Thưa dựng trại, khai hoang, luyện quân và rèn đúc vũ khí chờ thời cơ. Đó là khoảng thời gian hình thành môn phái võ Thất Sơn Thần Quyền.
Khi triều đình nhu nhược trước quân Pháp, ông Cử Đa thất vọng từ quan về vùng Thất Sơn đứng dưới cờ kháng chiến của nghĩa quân Trần Văn Thành (quản cơ Trần Văn Thành) vào năm 1862. Lúc ấy nghĩa quân Trần Văn Thành trú đóng dưới chân núi Liên Hoa Sơn (căn cứ Láng Linh – Bãi Thưa) lập căn cứ kháng chiến lâu dài.
Láng Linh – Bãi Thưa là hai cánh đồng rộng nằm liền kề, có nhiều đầm lầy, lau sậy và vô số cây thưa um tùm tăm tối. Căn cứ chính của Trần Văn Thành có tên là Hưng Trung doanh, đặt tại trung tâm rừng Bãi Thưa (nay thuộc xã Đào Hữu Cảnh, huyện Châu Phú, An Giang).
Ông Cử Đa trở thành người huấn luyện võ thuật cho quân kháng chiến. Trong khi quân Pháp sử dụng vũ khí hiện đại, quân kháng chiến chỉ có các loại đao, thương và súng tự chế. Để trấn an tinh thần nghĩa quân, thủ lĩnh nghĩa quân Trần Văn Thành giao cho Ngô Lợi huấn luyện phép thuật.
Nhằm tạo niềm tin, thu hút nhiều quần chúng tham gia kháng chiến, Ngô Lợi đem nền tảng đạo Bửu Sơn Kỳ Hương lập một tôn giáo mới có tên gọi là Tứ Ân Hiếu Nghĩa. Những tín đồ được Ngô Lợi phát bùa đeo nhằm… chống đạn. Ông Ngô Lợi còn dùng sấm truyền để tín đồ tin rằng sắp đến ngày tận thế (đồng khởi), ma quỷ (quân Pháp) đã hiện ra đầy đường và núi Cấm sắp mở hội “Long Hoa”.
Chỉ trong một thời gian ngắn, người dân khắp đồng bằng bồng bế gia đình kéo về vùng kháng chiến Láng Linh nườm nượp. Ngô Lợi phải chia đất cho tín đồ cất nhà, lập làng và tổ chức khai hoang lập ruộng sản xuất lấy lương thực nuôi quân. Theo lệnh của Quản cơ Trần Văn Thành, ông Ngô Lợi còn bày cách cho tín đồ đóng ghe nhiều chèo phục vụ cho chiến đấu.
Sau một thời gian dài chuẩn bị, năm 1872, Trần Văn Thành chính thức phất cờ chống Pháp, lấy hiệu là Binh Gia Nghị. Nghe tin, Pháp cử chủ tỉnh người Việt tên Trần Bá Lộc đưa mật thám xâm nhập căn cứ.
Năm 1873, sau khi nắm rõ tình hình nghĩa quân, Trần Bá Lộc dẫn quân Pháp đánh vào Bảy Thưa. Ông Trần Văn Thành tử trận. Cuộc khởi nghĩa thất bại. Quân Pháp tàn sát, giết hại, đốt làng của tín đồ Tứ Ân Hiếu Nghĩa. Ông Ngô Lợi thoát nạn, sau này quay trở về Láng Linh tiếp tục chiêu mộ nghĩa quân dưới danh nghĩa tôn giáo chờ thời cơ. Khi quân Pháp càn quét vào vùng căn cứ, một trong những đệ tử của Bổn sư Ngô Lợi đã dùng một chiếc ghe nhiều mái chèo theo sông Cái ra biển đào thoát về tận vùng núi Long Sơn ở Bà Rịa lập nên đạo Ông Trần.
Riêng ông Cử Đa cải trang thành một vị sư lấy tên là Sư Bảy, giả điên khùng, lưu lạc nhiều nơi để tránh sự truy lùng của quân Pháp. Có lúc ông phái lánh sang Campot,Campongtrach, đến núi Tà Lơn tức Bokor (Campuchia).
Đến năm 1896, ông Cử Đa mới dám trở về vùng núi Cấm lập am ẩn danh. Năm 1896, khi rời Campuchia về nước, ông Cử Đa tìm gặp Đức Bổn sư Ngô Lợi để bàn chuyện tiếp tục đánh Pháp. Nhưng vị tu sỹ này từ chối do chưa đến thời cơ. Thất chí Cử Đa về vùng rừng Tri Tôn lập chùa Năm Căn qui ẩn.
Riêng làng An Định, nơi được xem là thủ phủ của đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa với ngôi chùa Tam Bửu và Phi Lai do chính Ngô Lợi tạo dựng, quân Pháp bố ráp xóa làng 5 lần nhưng không xóa được lực lượng nghĩa quân này.
Sau khi Ngô Lợi bị bệnh qua đời, những kháng chiến quân trong đội ngũ tín đồ vẫn tiếp tục rèn luyện võ nghệ chờ thời cơ đánh Pháp. Nhưng do không còn người lãnh đạo, lực lượng này mai một dần.
Một thời vang bóng
Khi nhập môn, võ sinh của Thất Sơn Thần Quyền học bài vỡ lòng là bài khấn tổ: Nam mô tổ sư tam giáo đầu sư Dương Gia, Chàng Lía, cha Hồ, chúa Nhẫn, tổ sư Hải Đề Long núi Tô về cảm ứng nhậm lễ chứng miên cho đệ tử…”.
Sau đó, người võ sỹ được học những bài chú kêu gọi các đấng siêu nhiên nhập xác (như lên đồng) ứng chiến gọi là chú “thỉnh tổ”: “Nam mô thập hương chư phật, chư vị đại thần đại thánh đại hải, chư vị bồ tát…thập bát la hán, bát quái tổ sư… Án Lỗ ban tiên sư phù, Lỗ Ban đại sát, dụng hưng yên bất dụng hương đăng hoa quả vật thực chơn hình trợ kỳ đệ tử thần tự…hội Tà Lơn Thất Sơn, 5 non, 7 núi, rừng rú, tổ lục, tổ lèo, tổ xiêm, tổ mọi, tổ chà đồng lai đáo hạ hộ giá quang minh, chấp kinh trì chú cứu thế trợ dân cấp cấp như luật lịnh sắc”.
Điều này cho thấy các nghĩa quân kháng chiến ngày xưa đã áp dụng bùa Lỗ Ban có xuất xứ từ Trung Quốc vào hệ thống “âm công” của Thất Sơn Thần Quyền.
Về quyền thế, Thất Sơn Thần Quyền có nhiều bài hay như: Linh miêu đoạt thạch, Tam sơn trấn ải, Mãnh hổ tọa sơn… Vào thập niên 1960, Thất Sơn Thần Quyền kể như không tồn tại nữa mà chuyển thể thành Thất Sơn Võ Đạo. Thất Sơn Võ Đạo là những quyền thế dương công của Thất Sơn Thần Quyền. Tuy không còn yếu tố huyền linh nữa nhưng Thất Sơn Võ Đạo cũng tạo được tiếng vang trong làng võ Nam Bộ thời ấy.
Thời điểm này, phong trào võ thuật vùng Nam Bộ rất sôi động, nơi nào cũng có võ đường Thần Quyền: Sa Đéc có lò võ Sáu Cường; Lý Suol ở Châu Đốc; Bảy Biển ở Kiên Giang; Ba Hoằng ở Long Xuyên. Nhiều võ sư tạo được tiếng vang nhờ đào tạo được những võ sỹ vô địch trong các trận đấu võ đài. Đến tận ngày nay, những võ sư ấy vẫn còn được nhiều người nhắc như: Hai Diệp, Mười Nho, Nguyễn Mách, Út Dài, Thiên Đường.
Họ thường tổ chức thi đấu tại Chợ Lớn (quận 5) mang tính giao hữu với các quốc gia trong khu vực như Campuchia, Hồng Kông. Trong những cuộc đấu giao lưu ấy, nhiều võ sỹ Việt Nam đã tạo được sự thán phục của các võ sư, võ sỹ nước ngoài.
Báo chí thể thao dạo ấy đã bình luận từng tuyệt chiêu của các võ sỹ Thần Quyền như: Võ sỹ Minh Sang có đường quyền vũ bão; Võ sỹ Minh Sơn có cú đấm nhanh như chớp và cú húc chỏ “hồi mã thương”, võ sỹ Chhit Sarim (người Campuchia theo học Thần Quyền).
Trong một trận thư hùng giữa võ sỹ Trần Mạnh Hiền Việt Nam đấu với võ sỹ Hồng Kông là Châu Đạt Vinh Hồng Kông, môn đệ của Vịnh Xuân Quyền xảy ra năm 1973 khiến báo chí thể thao miền Nam lúc đó tốn khá nhiều công sức bình luận. Trong đợt thi đấu này võ sỹ Trần Mạnh Hiền đã thắng tuyệt đối bằng một cú đá thần sầu ở hiệp ba khiến khán giả hâm mộ võ thuật sôi sục. Ngày nay, những võ sỹ thuở ấy đã trở thành đại võ sư.
Ngày nay, Thất Sơn Thần Quyền chỉ còn là ký ức của những võ sư miệt đồng bằng sông Cửu Long. Dù không ai chứng minh được sự mầu nhiệm của môn phái này nhưng xuất xứ của Thất Sơn Thần Quyền gắn liền với một trang sử hào hùng, bất khuất của dân tộc Việt. Đó là điều cần ghi nhận.( Nông Huyền Sơn ).
Một danh sư Thất Sơn võ đạo đã mai danh tại Long Xuyên, cho biết: “Ngày xưa (đầu thế kỷ 20) tỷ thí võ đài không như bây giờ. Do nhiều hệ phái, chi phái xuất sơn hoà nhập với cộng đồng, ai cũng muốn phái của mình là đệ nhất võ lâm nên các võ sư thường tổ chức tỷ thí võ đài để tranh ngôi cao thấp. Vì vậy, nhiều cuộc thư hùng tranh tài cao thấp đã diễn ra”.
Thông thường, các võ sỹ không bao giờ dám tỷ thí võ đài nếu không có sự đồng ý của sư phụ.
Tỷ thí võ đài ngày xưa khác xa với đấu võ đài ngày nay như một số người lầm tưởng.
Ngày xưa, những cuộc tỷ thí võ đài thường do sư phụ, huynh trưởng của môn phái này với môn phái kia hoặc chi phái này với chi phái kia “thách thức” nhau. Họ chọn một bãi đất trống giăng dây hoặc vẽ vòng trên mặt đất. Trước mỗi trận thư hùng, hai bên đều lập bàn thờ tổ tại đài võ, khấn vái. Sau đó, sư phu hoặc huynh trưởng mỗi bên lập bản giao kèo, quy ước. Bên cạnh là hai chiếc quan tài để sẵn.
Trận thư hùng giữa võ phái thần quyền Thất Sơn ở cù lao Ông Chưởng và võ phái Trà Kha ở Bạc Liêu được võ sư Ba ở Cao Lãnh, Đồng Tháp kể lại: “Lúc đó, tôi 15 tuổi vừa nhập môn bái sư võ phái Thất Sơn vài ngày. Sư phụ tôi là Bảy Hớn. Nghe mấy huynh trưởng kể lại, mấy ngày trước, khi mọi người đang luyện võ thì một người gốc Miên xuất hiện xin gặp sư phụ. Người này tên No Sa Dăm là môn đệ của võ sư No Sa gốc Nam Vang đang mở võ đường ở Bạc Liêu. Họ nghe danh Thất Sơn Thần quyền đã lâu, nay muốn thí võ đài để học hỏi. Sư phụ tôi nhận lời. Bữa tỷ thí võ đài, bà con nghe tin chèo xuồng kéo đến coi cả ngàn người. Theo giao kèo giữa hai sư phụ thì, mỗi bên chọn ra 5 võ sỹ đấu thành 5 cặp. Võ sỹ bên nào văng ra khỏi vòng vẽ, xem như thua. Võ sỹ bên nào đo ván, lưng chạm đất, xem như thua. Võ sỹ bên nào đưa một cánh tay lên trời xem như xin thua. Đấu không nghỉ giải lao, đến khi có người thắng kẻ thua mới kết thúc trận. Bên nào có người bị thương, bị chết tự lo liệu thuốc men, chôn cất, không bên nào được thưa kiện ra Chánh quyền thuộc Pháp. Nếu bị pháp luật truy cứu, bên này phải làm tờ bãi nại cho bên kia. Hai bên đấu với nhau chỉ vì sỹ diện môn phái chứ không mua bán, tranh chấp gì cả. Sư phụ tôi lựa 5 đệ tử giỏi nhất ra đấu. Kết quả, phía Thất Sơn 1 người bị gãy tay, 1 người bể be sườn. Phía Trà Kha 2 người gãy chân, 1 người bất tỉnh. Thất Sơn Thần quyền có chiêu phá mã, còn phía gồng Trà Kha thì có chiêu khóa tay vật. Xem như hai bên bất phân thắng bại hẹn sẽ có dịp tái đấu. Sau đó cánh mạng tháng 8 bùng nổ, hai bên không có dịp gặp lại nhau. Sau này nghe nói No Sa Dăm đào tạo được rất nhiều thế hệ võ sỹ giỏi. Học trò của No Sa Dăm đào tạo được những võ sỹ nỗi tiếng sau năm 1975 như No Sa Long, No Sa Liên…”. Năm 1973, võ sư Ba có dịp gặp lại võ sư No Sa tại Sài Gòn. Lúc bấy giờ No Sa là huyến luyện viên trưởng đoàn võ thuật Caqmpuchia dẫn đoàn võ sỹ Campuchia sang đấu võ đài do Tổng hội võ thuật Sài Gòn tổ chức.
Sau này, vào khoảng thập niên 60 thế kỷ 20, những cuộc tỷ thí chết chóc không được tổ chức nữa mà chỉ tổ chức đấu vọ đài theo luật thể thao. Luật thể thao quy định hai võ sỹ đấu với nhau phải cùng hạng cân, mỗi trận chỉ có 3 hiệp, mỗi hiệp 3 phút. Võ sỹ bên nào cũng có săn sóc viên y tế đi theo và cuộc đấu luôn có hội đồng trọng tài chấm điểm.
Thời điểm này, phong trào võ thuật vùng miền Nam bộ như có làn gió mới, nơi nào cũng có võ đường tên tuổi như cồn: Sa Đéc có lò võ Sáu Cường; Lý Suol ở Châu Đốc; Bảy Biển ở Kiên Giang; Ba Hoằng ở Long Xuyên; Tiểu La Thành ở Vĩnh Long. Nhiều võ sư tạo được tiếng vang nhờ đào tạo được những võ sỹ vô địch trong các trận đấu võ đài. Đến tận ngày nay, những võ sư ấy vẫn còn được nhiều người nhắc như: Hai Diệp, Lê Bình Tây, Mười Nho, Nguyễn Mách, Cao Lý Nhơn, Út Dài, Phạm Thành Long, Lý Huỳnh Yến, Lâm Văn Có, Thiên Đường, Đoàn Tâm Ảnh, Tần Hớn, Vương Văn Quảng, Lâm Hổ Hội, Lê Hông Chương, Mười Cùi, Từ Thiện, Hồ Tường, TRần Xil, Lê Đại Hoan, Minh Sang… rất nhiều.
Họ thường tổ chức thi đấu tại Chợ Lớn (quận 5) mang tính giao hữu với các quốc gia trong khu vực như Campuchia, Hồng Kong. Trong những cuộc đấu giao lưu ấy, nhiều võ sỹ Việt Nam đã tạo được sự thán phục của các võ sư, võ sỹ nước ngoài. Báo chí thể thao dạo ấy đã bình luận từng tuyệt chiêu của các võ sỹ. Võ sỹ Minh Sang (võ đường Minh Sang) nỗi tiếng gan lỳ và ngọn quyền vũ bão; Võ sỹ Minh Sơn (võ đường Denis Minh) có cú đấm như điện xẹt; Võ sỹ Xuân Quỳnh là “cây trụ đồng của võ đường Kim Kê”… Những trận thư hùng này đã khiến các đối thủ nước bạn nhớ những tên đòn thế: “Bàn sa cước” của võ sỹ Nguyễn bình; Cú húc chỏ “hồi mã thương” của Minh Sơn; “Liên tiền cước” của Trần Nho…
Các nữ võ sỹ Việt cũng tạo nên song gió như Hồ Ngọc Thọ (võ đường Từ Thiện) vô dịch hạng ruồi nhẹ; Lân Ngọc Vân (võ đường Lâm Sơn Hải) vô địch hạng ruồi; Võ sỹ Xuân Liễu (võ đường Biên Hòa) vô địch hạng ruồi.
Trong một trận thư hùng giữa võ sỹ Việt với các võ sỹ Hong Kong là môn đệ của Lý Tiểu Long Vịnh Xuân Quyền xảy ra năm 1973 khiến báo chí thể thao miền Nam lúc đó tốn khá nhiều công sức bình luận. Trong đợt thi đấu này võ sỹ Trần Mạnh Hiền Việt Nam đã thắng tuyệt đối bằng nốc ao võ sỹ Châu Đạt Vinh Hong Kong bằng một cú đá thần sầu ở hiệp ba khiến khán giả hâm mộ võ thuật sôi sục. Ngày nay, những võ sỹ thuở ấy đã trở thành đại võ sư.
Nhờ những trận đấu võ đài ấy, các võ đường Việt Nam nườm nượp môn sinh đến đăng ký học võ. Thời điểm đó, học phí mỗi tháng khoảng 700 đồng/học viên. Chỉ cần huấn luyện 100 võ sinh là sư phụ có thể yêm tâm về cơm áo gạo tiền để chuyên tâm nghiên cứu võ học. Thời điểm đó, chiếc xe Hon Da 67 còm măng chính hãng, giá khoảng 15.000 đồng/ chiếc.
Bỗng dưng thời hưng thịnh của võ học Việt xẹp lép. Nhiều võ sư chạy theo kế sinh nhai bỏ nghề. “Loạn võ sư” bắt đầu manh nha phát triễn. Nhiều môn phái không hiểu từ đâu xuất hiện như: Sát Tử Quyền, Bạch Long Sát Tử Quyền, Vô Biên Võ đạo, Nghịch Tất Tử Võ phái, Cao Đài quyền pháp. Thậm chí một cơ sở sản xuất thuốc sơn đông mãi võ cũng tự sáng tác ra môn phái “Y võ” rồi tự lu loa là võ Việt Nam cổ truyền…
Nhiều nước đã tôn vinh môn võ xuất sắc của họ như Indo có pencatxilat, Trung Hoa có Thiếu lâm, Thái Lan có Maya… Còn Việt Nam, môn phái nào là Việt Nam võ đạo cổ truyền chính hiệu? Điều đầu tiên, có lẽ nên cấm tiệt những kiểu tự sáng tác vài bài quyền múa rối rồi xưng danh Võ Cổ Truyền Việt Nam kẻo làm mất mặt những tổ sư Việt và hãy giữ lại những tinh hoa của võ học Việt có từ trăm năm trước.
Xin theo dõi tiếp bài 29. dienbatn.
Xem chi tiết…

THỐNG KÊ TRUY CẬP

LỊCH ÂM DƯƠNG

NHẮN TIN NHANH

Tên

Email *

Thông báo *