ỨNG DỤNG KỲ MÔN ĐỘN GIÁP TRONG VIỆC XÂY CẤT MỘ PHẦN. BÀI 3.

8/24/2014 |
ỨNG DỤNG KỲ MÔN ĐỘN GIÁP TRONG VIỆC XÂY CẤT MỘ PHẦN. BÀI 3.
PHẦN 2 .

MỘT CHÚT KIẾN THỨC VỀ KỲ MÔN ĐỘNG GIÁP.

( Trong phần này dienbatn sử dụng tư liệu trong cuốn Kim Hàm Ngọc Kính của Lưu Bá Ôn ,"透地奇门地理奥秘 -Thấu địa kì môn Địa lí áo bí . Hoàng Triêu Toàn . ( Trung hoa dân quốc thất thập ngũ niên tứ nguyệt tam nhật - Thai Loan dịch học quán quán chủ Hoàng hào phi long Triêu Toàn , trung chánh đại học giáo thụ hoàng giới lương đồng bổ thuật .)
Thấu Địa kỳ môn tác giả VinhL , và một số tài liệu của huyenkhonglyso.com ). 




"透地奇门地理奥秘 -Thấu địa kì môn Địa lí áo bí . Hoàng Triêu Toàn . ( Trung hoa dân quốc thất thập ngũ niên tứ nguyệt tam nhật - Thai Loan dịch học quán quán chủ Hoàng hào phi long Triêu Toàn , trung chánh đại học giáo thụ hoàng giới lương đồng bổ thuật .)

THẤU ĐỊA KỲ MÔN.

Môn "Thấu Địa Kỳ Môn" này kết hợp Kỳ Môn Độn Giáp, Lục Hào, 28 Tú Thất Ngươn Cầm Thất Chính vào 60 Long Thấu Địa để tìm các phương vị về Tử Phụ Tài Quan Huynh, Lộc Mã Quý Nhân, Tứ Kiết (Nhật Nguyệt Kim Thủy trong Thất Chánh), Tam Kỳ Bát Môn. Thật là một môn độc đáo.
Trong quyển "La Kinh Thấu Giải" có nói đến các phần này, nhưng thật sự mà nói, rất ít ai thấu triệt được, bỡi gì kiến thức cơ bản quan trọng để diễn bày các cục chính là Kỳ Môn. 

1. CAN CHI.

Trong Kỳ Môn 9 Thiên Tinh bày theo Can, và 8 Cửa bày theo Chi.
Cổ nhân gọi Kỳ Môn Độn Giáp bởi vì Can có 10 mà chỉ thấy có 9, 6 con Giáp đều ẩn tàng (độn) tại 6 con Nghi, cho nên gọi là Độn Giáp vậy.
10 thiên Can: Giáp Ất Bính Đinh Mậu Kỷ Canh Tân Nhâm Quý.
Ất Bính Đinh: gọi là Tam Kỳ
Mậu Kỷ Canh Tân Nhâm Quý: gọi là Lục Nghi
Giáp thì ẩn vào 6 nghi như sau:
Giáp Tý ẩn tại nghi (Can) Mậu
Giáp Tuất ẩn tại nghi Kỷ
Giáp Thân ẩn tại nghi Canh
Giáp Ngọ ẩn tại nghi Tân
Giáp Thìn ẩn tại nghi Nhâm
Giáp Dần ẩn tại nghi Quý
10 Can kết hợp với 12 Chi cho ta 60 Hoa Giáp:
Giáp Tý, Ất Sửu, Bính Dần, Đinh Mão, Mậu Thìn, Kỷ Tỵ, Canh Ngọ, Tân Mùi, Nhâm Thân, Quý Dậu
Giáp Tuất, Ất Hợi, Bính Tý, Đinh Sửu, Mậu Dần, Kỷ Mão, Canh Thìn, Tân Tỵ, Nhâm Ngọ, Quý Mùi
Giáp Thân, Ất Dậu, Bính Tuất, Đinh Hợi, Mậu Tý, Kỷ Sửu, Canh Dần, Tân Mão, Nhâm Thìn, Quý Tỵ
Giáp Ngọ, Ất Mùi, Bính Thân, Đinh Dậu, Mậu Tuất, Kỷ Hợi, Canh Tý, Tân Sửu, Nhâm Dần, Quý Mão
Giáp Thìn, Ất Tỵ, Bính Ngọ, Đinh Mùi, Mậu Thân, Kỷ Dậu, Canh Tuất, Tân Hợi, Nhâm Tý, Quý Sửu
Giáp Dần, Ất Mão, Bính Thìn, Đinh Tỵ, Mậu Ngọ, Kỷ Mùi, Canh Thân, Tân Dậu, Nhâm Tuất, Quý Hợi
60 Hoa Giáp Can Chi có 6 con Giáp đứng đầu. Mỗi Giáp có 10 Can Chi, nên gọi là 1 tuần (tuần Giáp), con Giáp đứng đầu gọi là Tuần Đầu.
Như Ất Hợi thì thuộc Giáp Tuất, cho nên Tuần Đầu của Ất Hợi là Giáp Tuất vậy.
Như Nhâm Tý thì thuộc Giáp Thìn, cho nên Tuần Đầu của Nhâm Tý là Giáp Thìn.

2. Cách tính Tuần Đầu của Can Chi.

Khi ta muốn tìm tuần đầu của một cập Can Chi nào đó, ta bắt đầu từ Can Chi đó đếm đến Can Quý, sau đó bỏ hai Chi, Chi tới chính là con Giáp Tuần Đầu.
Như tìm Tuần Đầu cho Mậu Thân, ta đếm Mậu Thân, Kỷ Dậu, Canh Tuất, Tân Hợi, Nhâm Tý, Quý Sửu, đây là Can Quý, Can chi tới là Giáp Dần, và Ất Mão bỏ, ta lấy chi Thìn tức là Giáp Thìn. Tuần đầu của Mậu Thân là Giáp Thìn.
Tìm Tuần đầu cho Ất Hợi, ta đếm Ất Hợi, Bính Tý, Đinh Sửu, Mậu Dần, Kỷ Mão, Canh Thìn, Tân Tỵ, Nhâm Ngọ, Quý Mùi, đây là Can Quý, bỏ hai can chi tới (Giáp Thân, Ất Dậu), sau đó là chi Tuất, vậy Giáp Tuất là tuần đầu của Ất Hợi.
Trong 10 Can, thì Can lẻ tức là Giáp Bính Mậu Canh Nhâm là dương, Can chẵn Ất Đinh Kỷ Tân Quý là âm.
Tương tự trong 12 Chi, thì Chi lẻ là Tý Dần Thìn Ngọ Thân Tuất là dương, chi chẵn là Sửu Mão Tỵ Mùi Dậu Hợi là âm.
Trong 60 Hoa Giáp, Can Chi kết hợp dương Can và dương Chi, âm Can và âm Chi, không có trường hợp âm dương lẫn lộn.

3. Phù Đầu.

Chúng ta đã biết qua Tuần Đầu , nay chúng ta nói đến Phù Đầu.
Theo thời gia Kỳ Môn, túc dùng Can Chi giờ để bày quẻ Kỳ Môn thì 60 giờ Can Chi là một nguyên.
Một ngày theo âm lịch thì có 12 giờ Can Chi, như vậy 5 ngày có tổng cộng 60 giờ .
Tam nguyên tức có 180 giờ, tức 15 ngày. 5 ngày còn gọi là một hầu.
Một năm có 24 tiết khí, theo âm lịch thì lấy 360 làm mốc (dĩ nhiên thiếu đi hơn 5 ngày nên có năm phải nhuận 1 tháng). 360 ngày chia 24 tiết khí, cho nên mỗi tiết khí có 15 ngày (dĩ nhiên cũng chỉ là mốc, vì thực tế tiết khí có khi đến sớm hoặc đến muộn nên Kỳ môn mới có phép siêu thần tiếp khí và phép nhuận).
180 giờ (Can Chi) chia làm Tam nguyên ( Thượng nguyên, Trung nguyên, và Hạ nguyên ),  mỗi nguyên 60 giờ (hoặc Can Chi).
Như vậy 5 ngày là một nguyên, nếu ta lấy mốc Giáp Tý khởi Thượng nguyên, thì sau 5 ngày (60 giờ), sẽ là Trung nguyên Kỷ Tỵ, lại sau 5 ngày (60 giờ) nửa là Hạ nguyên Giáp Tuất.
Nếu ta tuần tự đi hết 60 can chi, thì ta sẻ có bảng sau:

ThNguyên Giáp Tý, TrNguyên Kỷ Tỵ, HạNguyên Giáp Tuất
ThNguyên Kỷ Mão, TrNguyên Giáp Thân, HạNguyên Kỷ Sửu
ThNguyên Giáp Ngọ, TrNguyên Kỷ Hợi, HạNguyên Giáp Thìn
ThNguyên Kỷ Dậu, TrNguyên Giáp Dần, HạNguyên Kỷ Mùi
ThNguyên GiápTý, . . .

Sau đó sẽ lập lại y vậy. Từ sự liệt kê trên, ta thấy rằng:
Thượng nguyên thì Giáp Kỷ kết hợp với Tý, Ngọ, Mão, Dậu
Trung nguyên thì Giáp Kỷ kết hợp với Dần, Thân, Tỵ, Hợi
Hạ nguyên thì Giáp Kỷ kết hợp với Thìn, Tuất, Sửu, Mùi.
Tuần Đầu đều khởi Giáp (1 tuần 10 ngày, hay Can Chi, từ Giáp đến Quý)
Nhưng Phù Đầu là ám chỉ đến 5 ngày 60 giờ, để biết ngày đó thuộc Thượng Trung hay Hạ nguyên của tiết khí, vì một tiết khí có 15 ngày, tức 3 hầu, cũng là Thượng Trung Hạ nguyên 60x3 = 180 giờ Can Chi.
Thí dụ như Nhâm Tuất .
Theo phép tính nhẩm Tuần Đầu thì 
Nhâm Tuất, Quý Hợi, bỏ Giáp Tý, Ất Sửu, tới chi Dần, như vậy Nhâm Tuất có Tuần Đầu là Giáp Dần, vậy Phù Đầu là gì?
Từ Giáp Dần, ta đếm, Ất Mão, Bính Thìn, Đinh Tỵ, Mậu Ngọ, Kỷ Mùi, Canh Thân, Tân Dậu, Nhâm Tuất, ta thấy đếm qua can Kỷ, đây chính là Phù Đầu.
Ta thấu rằng Kỷ kết hợp với Thìn Tuất Sửu Mùi, tức ta biết Nhâm Tuất thuộc về Hạ Nguyên của tiết khí vậy.
Thí dụ Mậu Tý .
Theo phép tính nhẩm thì
Mậu Tý, Kỷ Sửu, Canh Dần, Tân Mão, Nhâm Thìn, Quý Tỵ, bỏ Giáp Ngọ, Ất Mùi, chi kế là Thân, vậy Mậu Tý thuộc tuần Giáp Thân (tức Tuần Đầu là Giáp Thân), vậy Phù Đầu là gì?
Ta lại khởi Giáp Thân, Ất Dậu, Bính Tuất, Đinh Hợi, Mậu Tý, ta thấy rằng không có can Kỷ nào tức Giáp Thân củng chính là Phù Đầu vậy. Tức là Giáp Thần vừa là Tuần Đầu, vừa là Phù Đầu.
Giáp Kỷ kết hợp với Tý Ngọ Mão Dậu thuộc về Thượng Nguyên, như vậy ta biết Mậu Tý nằm trong thượng nguyên của tiết khí.

 Phép tìm Phù Đầu.

Khởi từ Tuần Đầu đếm tới Can Chi, nếu qua Can Kỷ thì đây là Phù đầu, nếu không đi qua Kỷ thì Giáp cũng chính là Phù đầu.
Sau đó xem Giáp Kỷ kết hợp với Tý, Ngọ, Mão, Dậu là Thượng nguyên, nếu kết hợp với Dần, Thân, Tỵ, Hợi, thì là Trung nguyên, kết hợp với Thìn, Tuất, Sửu, Mùi thì là Hạ nguyên.

4/ Theo phép khởi Trường sinh:


 Dần Thân Tỵ Hợi đều là chở khởi Trường Sinh, nên còn được gọi là Tứ Sinh, 
Tý Ngọ Mão Dậu đều là nơi Đế Vượng nên còn được gọi là Tứ Vượng, Thìn Tuất Sửu Mùi đều là nơi Mộ nên còn được gọi là Tứ Mộ.
Theo 4 mùa, thì mỗi mùa có 3 tháng, tháng đầu của mùa thì gọi là Mạnh, giữa mùa thì gọi là Trọng, cuối mùa thì gọi là Quý. Mùa xuân bắt đầu tiết Lập Xuân tháng giêng Kiến Dần, qua Dần Mão Thìn 3 tháng thì tới mùa Hạ, tháng Tỵ Ngọ Mùi, lại tới mùa Thu tháng Thân Dậu Tuất, và mùa Đông tháng Hợi Tý Sửu.
Như vậy:
Xuân: Dần, Mão, Thìn
Hạ: Tỵ, Ngọ, Mùi
Thu: Thân, Dậu, Tuất
Đông: Hợi, Tý, Sửu
Vì vậy cho nên
Dần Thân Tỵ Hợi còn được gọi là Tứ Mạnh
Tý Ngọ Mão Dậu còn được gọi là Tứ Trọng
Thìn Tuất Sửu Mùi còn được gọi là Tứ Quý.

5. Tiết Khí .

Khi tính xem Can Chi ngày thuộc Thượng Trung Hạ Nguyên của Tiết Khí thì chỉ lấy Phù Đầu mà tính, không phải lấy Tuần Đầu. Dĩ nhiên có rất nhiều Tuần Đầu của Can Chi củng chính là Phù Đầu, trường hợp này chính là 5 ngày đầu của một tuần Giáp (tại chưa tới Kỷ, nên Tuần Đầu Giáp củng chính là Phù Đầu). 5 ngày sau của tuần Giáp thì có can Kỷ là Phù Đầu.
Ta biết trái đất xoay quanh mặt trời, 1 vòng 360 độ là 1 năm. Đem 360 / 24 = 15 độ.
Cho nên mỗi tiết khí là 15 kinh độ mặt trời (Sun Longitude)
Tiết khí căn cứ vào kinh độ của mặt trời cho nên các điểm móc này không thay đổi, tức là tiết Lập Xuân thì lúc nào củng là 315 kinh độ mặt trời. 
Tiết khí âm lịch bắt đầu từ tiết Đông Chí.
Dưới đây là bản liệt kê tiết khí, kinh độ mặt trời, và các ngày Dương Lịch mà tiết khí thường bắt đầu.
Đông Chí (Winter Solstice), 270 độ, 22 Tháng 12 DL
Tiểu Hàn, 285 độ, 6 Tháng 1 DL
Đại Hàn, 300 độ, 10 Tháng 1 DL
Lập Xuân, 315 độ, 4 Tháng 2 DL
Vũ Thũy, 330 độ, 19 Tháng 2 DL
Kinh Chập 345 độ, 6 Tháng 3 DL
Xuân Phân (Spring Equinox), 0 độ, 21 Tháng 3
Thanh Minh, 15 độ, 5 Tháng 4 DL
Cốc Vũ, 30 độ, 20 Tháng 4 DL
Lập Hạ, 45 độ, 6 Tháng 5 DL
Tiểu Mãn, 60 độ, 21 Tháng 5 DL
Mang Chủng, 75 độ, 6 Tháng 6 DL
Hạ Chí (Summer Solstice), 90 độ, 21 Tháng 6 DL
Tiểu Thử, 105 độ, 7 Tháng 7 DL
Đại Thử, 120 độ, 23 Tháng 7 DL
Lập Thu, 135 độ, 8 Tháng 8 DL
Xử Thử, 150 độ, 23 Tháng 8 DL
Bạch Lộ, 165 độ, 8 Tháng 9 DL
Thu Phân (Autum Equinox), 180 độ, 23 Tháng 9 DL
Hàn Lộ, 195 độ, 8 Tháng 10 DL
Sương Giáng, 210 độ, 24 Tháng 10 DL
Lập Đông, 225 độ, 8 Tháng 11 DL
Tiểu Tuyết, 240 độ, 22 Tháng 11 DL
Đại Tuyết, 255 độ, 7 Tháng 12 DL
Tại sao điểm Xuân Phân lại cho là 0 độ?
Điểm Xuân Phân chính là điểm giao nhau của vòng Hoàng Đạo và Xích Đạo.
Thật ra 24 Tiết Khí, bao gồm 12 Tiết và 12 Khí (còn gọi là Trung Khí, tức khí giữa hai tiết).
Lấy Lập Xuân là mốc của Tiết, ta thấy rằng các kinh độ mặt trời có đuôi 5 đều là Tiết và các kinh độ có đuôi 0 đều là Khí hay Trung Khí.
Vì vậy ta sẽ thấy các sách cổ liệt kê như sau:
Tháng 1 kiến Dần, tiết Lập Xuân, khí Vũ Thủy
Tháng 2 kiến Mão, tiết Kinh Chập, khí Xuân Phân
Tháng 3 kiến Thìn, tiết Thanh Minh, khí Cốc Vũ
Tháng 4 kiến Tỵ, tiết Lập Hạ, khí Tiểu Mãn
Tháng 5 kiến Ngọ, tiết Mang Chủng, khí Hạ Chí
Tháng 6 kiến Mùi, tiết Tiểu Thử, khí Đại Thử
Tháng 7 kiến Thân, tiết Lập Thu, khí Xử Thử
Tháng 8 kiến Dậu, tiết Bạch Lộ, khí Thu Phân
Tháng 9 kiến Tuất, tiết Hàn Lộ, khí Sương Giáng
Tháng 10 kiến Hợi, tiết Lập Đông, khí Tiểu Tuyết
Tháng 11 kiến Tý, tiết Đại Tuyết, khí Đông Chí
Tháng 12 kiến Sửu, tiết Tiểu Hàn, khí Đại Hàn.
Kiến còn gọi là Nguyệt Kiến, cổ nhân ngấm sao trên trời, chia bầu trời thành 12 thứ (Chi), thấy rằng đuôi sao bắc đẩu thất tinh tuần tự chỉ vào các chi, mỗi tháng một chi, khởi đầu tháng giêng chỉ vào cung Dần, và tuần tự qua 12 cung trong 12 tháng (dĩ nhiên cái Kiến này theo thời gian củng sẻ thay đổi ).

6. Nguyệt Tướng.

Nguyệt Tướng là nói đến sự vận hành của mặt trời tuần tự qua 12 cung.
Nguyệt Kiến thì di chuyển thuận qua 12 cung địa chi, nhưng mặt trời thì đi nghịch qua 12 cung như sau:
Khí Vũ Thủy đến khí Xuân Phân, Nguyệt Tướng tại Hợi
Khí Xuân Phân đến khí Cốc Vũ, Nguyệt Tướng tại Tuất
Khí Cốc Vũ đến khí Tiểu Mãn, Nguyệt Tướng tại Dậu
Khí Tiểu Mãn đến khí Hạ Chí, Nguyệt Tướng tại Thân
Khí Hạ Chí đến khí Đại Thử, Nguyệt Tướng tại Mùi
Khí Đại Thử đến khí Xử Thử, Nguyệt Tướng tại Ngọ
Khí Xử Thử đến khí Thu Phân, Nguyệt Tướng tại Tỵ
Khí Thu Phân đến khí Sương Giáng, Nguyệt Tướng tại Thìn
Khí Sương Giáng đến khí Tiểu Tuyết, Nguyệt Tướng tại Mão
Khí Tiểu Tuyết đến khí Đông Chí, Nguyệt Tướng tại Dần
Khí Đông Chí đến khí Đại Hàn, Nguyệt Tướng tại Sửu
Khí Đại Hàn đến khí Vũ Thủy, Nguyệt Tướng tại Tý.
Thuyết Nhị Hợp cũng chính là căn cứ vào Nguyệt Kiến và Nguyệt Tướng, tức khi Nguyệt Tướng tại Tý thì Nguyệt Kiến tại Sửu, cho nên ta có 6 cặp Nhị hợp như sau:
Tý - Sửu
Dần - Hợi
Mão - Tuất
Thìn - Dậu
Tỵ - Thân
Ngọ - Mùi.

7. Hậu Thiên Bát Quái phối 24 Tiết Khí.

24 / 8 = 3. Vì vậy mỗi quái Hậu Thiên quản 3 Tiết Khí, liệt kê như sau:
Dương Cục (Dương Độn)
Khảm 1
------------- Th, Tr, Hạ
Đông Chí: *** 1 - 7 – 4
Tiểu Hàn: *** 2 – 8 – 5
Đại Hàn: **** 3 – 9 – 6

Cấn 8
------------- Th, Tr, Hạ
Lập Xuân: *** 8 – 5 – 2
Vũ Thủy: **** 9 – 6 – 3
Kinh Chập: ** 1 – 7 – 4

Chấn 3
------------- Th, Tr, Hạ
Xuân Phân:*** 3 – 9 - 6
Thanh Minh:** 4 – 1 - 7
Cốc Vũ:****** 5 – 2 – 8

Tốn 2
------------- Th, Tr, Hạ
Lập Hạ:****** 4 – 1 - 7
Tiểu Mãn:**** 5 – 2 - 8
Mang Chủng:** 6 – 3 – 9

Âm Cục (Âm Độn)
Ly 9
------------- Th, Tr, Hạ
Hạ Chí:****** 9 – 3 – 6
Tiểu Thử:**** 8 – 2 – 5
Đại Thử: **** 7 – 1 – 4

Khôn 2
------------- Th, Tr, Hạ
Lập Thu:***** 2 – 5 – 8
Xử Thử:****** 1 – 4 - 7
Hàn Lộ:****** 9 – 3 - 6

Đoài 7
------------- Th, Tr, Hạ
Thu Phân:**** 7 – 1 - 4
Hàn Lộ:****** 6 – 9 - 3
Sương Giáng:* 5 – 8 – 2

Càn 6
------------- Th, Tr, Hạ
Lập Đông:**** 6 – 9 – 3
Tiểu Tuyết:** 5 – 8 – 2
Đại Tuyết:*** 4 – 7 – 1
Nếu ta quan sát các cục Thượng Trung Hạ, thì ta thấy Thượng Trung Hạ nguyên cách nhau 6 số, 6 số đây là 6 con Giáp. Dương độn thì đếm tới 6 số, âm độn thì đếm nghịch 6 số.
Như Thượng nguyên khởi 5 thì 5,6,7,8,9, 1, trung nguyên là 2, lại đếm 6 số 2,3,4,5,6,7, vậy hạ nguyên là 8.
Tức mỗi nguyên Thượng Trung Hạ cách nhau 6 con Giáp tức 60 Can Chi.
Mỗi quẻ là 3 tiết, cục khởi đầu của số Lạc của quẻ Hậu Thiên Bát Quái (tức Khãm 1, Cấn 8, Chấn 3, Tốn 4, Ly 9, Khôn 2, Đoài 7, Càn 6), hai tiết tới mỗi tiết tăng 1 nếu là dương độn, giãm 1 nếu là âm độn. Như vậy ta chỉ cần nhớ quẻ nào quản 3 tiết nào, và số Lạc của quẻ (Hậu Thiên) thì có thể tính ra tiết nào, thượng trung hạ nguyên thuộc độn mấy cục. 
Dương độn thì lúc nào cũng bắt đầu từ Đông Chí, âm độn thì bắt đầu từ tiết Hạ Chí.


Phía trên là 24 Tiết Khí phối quái của Kỳ Môn Độn Giáp.
Tinh gặp Giáp là Trực phù. 
Môn mà gặp Giáp là Trực Sử. 
Trực phù địa ở đâu thì Môn nơi ấy là Trực sử. 
Trực phù bay theo Can . 
Trực Sử, Dương độn bay xuôi, Âm độn bay ngược .

8. Thấu Địa Kỳ Môn :  
An bày 8 tiết chính, Lập Đông, Đông Chí, Lập Xuân, Xuân Phân, Lập Hạ, Hạ Chí, Lập Thu, Thu Phân vào giữa tám quẻ Hậu Thiên, cho nên 24 Tiết Khí trong Thấu Địa Kỳ Môn lùi lại 1 tiết,
liệt kê như sau:
Dương Cục (Dương Độn)
Khảm 1
------------- Th, Tr, Hạ
Đại Tuyết:*** 4 – 7 – 1
Đông Chí: *** 1 - 7 – 4
Tiểu Hàn: *** 2 – 8 – 5

Cấn 8
------------- Th, Tr, Hạ
Đại Hàn: **** 3 – 9 – 6
Lập Xuân: *** 8 – 5 – 2
Vũ Thủy: **** 9 – 6 – 3

Chấn 3
------------- Th, Tr, Hạ
Kinh Chập: ** 1 – 7 – 4
Xuân Phân:*** 3 – 9 - 6
Thanh Minh:** 4 – 1 - 7

Tốn 2
------------- Th, Tr, Hạ
Cốc Vũ:****** 5 – 2 – 8
Lập Hạ:****** 4 – 1 - 7
Tiểu Mãn:**** 5 – 2 - 8

Âm Cục (Âm Độn)

Ly 9
------------- Th, Tr, Hạ
Mang Chủng:** 6 – 3 – 9
Hạ Chí:****** 9 – 3 – 6
Tiểu Thử:**** 8 – 2 – 5

Khôn 2
------------- Th, Tr, Hạ
Đại Thử: **** 7 – 1 – 4
Lập Thu:***** 2 – 5 – 8
Xử Thử:****** 1 – 4 - 7

Đoài 7
------------- Th, Tr, Hạ
Hàn Lộ:****** 9 – 3 - 6
Thu Phân:**** 7 – 1 - 4
Hàn Lộ:****** 6 – 9 - 3

Càn 6
------------- Th, Tr, Hạ
Sương Giáng:* 5 – 8 – 2
Lập Đông:**** 6 – 9 – 3
Tiểu Tuyết:** 5 – 8 – 2

24 Tiết khí phối quái như trên củng được ứng dụng tron Thấu Địa Long lâm Liên Sơn Quái.
Thời tiết có khi đến sớm khi đến muộn, cho nên trong Kỳ Môn Độn Giáp có phép tính Siêu Thần Tiếp Khí, nhưng trong Thấu Địa Kỳ Môn thì không dùng, bỡi vì 60 long phối Tiết Khí là bất di bất dịch.


9 . 60 long được phối với 24 tiết như sau:

Khãm 1
----------------------------------------------- Th, Tr, Hạ
Giáp Tý, Bính Tý, Mậu Tý:******** Đại Tuyết:*** 4 – 7 – 1
Canh Tý, Nhâm Tý:**************** Đông Chí: *** 1 - 7 – 4 (Dương Độn)
Ất Sửu, Đinh Sửu, Kỷ Sửu:******** Tiểu Hàn: *** 2 – 8 – 5

Cấn 8
----------------------------------------------- Th, Tr, Hạ
Tân Sửu, Quý Sửu:**************** Đại Hàn:***** 3 – 9 – 6
Bính Dần, Mậu Dần, Canh Dần:***** Lập Xuân:**** 8 – 5 – 2
Nhâm Dần, Giáp Dần:************** Vũ Thủy: **** 9 – 6 – 3

Chấn 3
----------------------------------------------- Th, Tr, Hạ
Đinh Mão, Kỷ Mão, Tân Mão:******* Kinh Chập: ** 1 – 7 – 4
Quý Mão, Ất Mão:***************** Xuân Phân:*** 3 – 9 - 6
Mậu Thìn, Canh Thìn, Nhâm Thìn:** Thanh Minh:** 4 – 1 - 7

Tốn 2
----------------------------------------------- Th, Tr, Hạ
Giáp Thìn, Bính Thìn:************ Cốc Vũ:****** 5 – 2 – 8
Kỷ Tỵ, Tân Tỵ, Quý Tỵ:*********** Lập Hạ:****** 4 – 1 - 7
Ất Tỵ, Đinh Tỵ:****************** Tiểu Mãn:**** 5 – 2 - 8

Ly 9
----------------------------------------------- Th, Tr, Hạ
Canh Ngọ, Nhâm Ngọ, Giáp Ngọ:**** Mang Chủng:** 6 – 3 – 9
Bính Ngọ, Mậu Ngọ:*************** Hạ Chí:****** 9 – 3 – 6 (Âm Độn)
Tân Mùi, Quý Mùi, Ất Mùi:******** Tiểu Thử:**** 8 – 2 – 5

Khôn 2
----------------------------------------------- Th, Tr, Hạ
Đinh Mùi, Kỷ Mùi:**************** Đại Thử: **** 7 – 1 – 4
Nhâm Thân, Giáp Thân, Bính Thân:* Lập Thu:***** 2 – 5 – 8
Mậu Thân, Canh Thân:************* Xử Thử:****** 1 – 4 - 7

Đoài 7
----------------------------------------------- Th, Tr, Hạ
Quý Dậu, Ất Dậu, Đinh Dậu:******* Hàn Lộ:****** 9 – 3 - 6
Kỷ Dậu, Tân Dậu:***************** Thu Phân:**** 7 – 1 - 4
Giáp Tuất, Bính Tuất, Mậu Tuất:** Hàn Lộ:****** 6 – 9 - 3

Càn 6
----------------------------------------------- Th, Tr, Hạ
Canh Tuất, Nhâm Tuất:************ Sương Giáng:* 5 – 8 – 2
Ất Hợi, Đinh Hợi, Kỷ Hợi:******** Lập Đông:**** 6 – 9 – 3
Tân Hợi, Quý Hợi:**************** Tiểu Tuyết:** 5 – 8 – 2

10.  9 Thiên tinh và 8 Cửa của Kỳ Môn.


Kỳ môn có 9 thiên tinh phối với các cung Hậu Thiên như sau:
Khảm - Thiên Bồng, 
Khôn - Thiên Nhuế, 
Chấn - Thiên Xung, 
Tốn - Thiên Phụ, 
Trung - Thiên Cầm
Càn - Thiên Tâm
Đoài – Thiên Trụ
Cấn – Thiên Nhậm
Ly – Thiên Anh (Thiên Ương)

11.  Bát Môn phối với các cung như sau:

Khảm – Hưu
Khôn - Tử
Chấn – Thương
Tốn - Đổ
Trung – Vô Môn
Càn – Khai
Đoài – Kinh
Cấn – Sinh
Ly - Cảnh

Ca quyết dùng Bát môn:

Dục cầu tài lợi vãng Sinh phương ,
Táng liệp tu tri Tử lộ cường.
Chinh chiến , viễn hành Khai môn cát.
Hưu môn kiến quý Tối vi lương.
Kinh môn quan tụng thị phi đa.
Đỗ môn vô sự hảo đào tàng. 
Thương môn bác đấu năng tróc tặc, 
Cảnh môn ẩm tửu hảo tư lượng.

12. Địa bàn kỳ môn (bất di bất dịch) như sau:

[Tốn: Thiên Phụ, Đỗ------][Ly:Thiên Anh, Cảnh---][Khôn:Thiên Nhuế, Tử--]
[Chấn: Thiên Xung, Thương][Trung: Thiên Cầm-----][Đoài: Thiên Trụ, Kinh]
[Cấn: Thiên Nhậm, Sinh---][Khãm: Thiên Bồng, Hưu][Càn: Thiên Tâm, Khai-]

Mấy bài trước chúng ta đã biết Tuần Đầu của Can Chi (6 con Giáp).
Khi bài quẻ Kỳ Môn, thì Tuần Đầu tại cung nào thì sao (thiên tinh) của cung đó gọi là Trực Phù, và môn tại cung đó gọi là Trực Sử.


13. Bày một quẻ Kỳ Môn gồm các bước như sau:

1 – TìmTiết Khí 
Xem năm tháng ngày giờ thuộc thời tiết nào để tính cục. Phần này trong Thấu Địa Kỳ Môn thì chỉ cần xem bản 60 phối Tiết Khí.

2 – Tính Cục 
Tính Độn Cục căn cứ vào Tiết Khí và ngày Thượng Nguyên (Giáp Kỷ gia Tý Ngọ Mão Dậu). Có 4 trường hợp, Chính Thụ, Siêu Thần, Tiếp Khí, và Nhuận. Phần tính Siêu Thần Tiếp Khí này hơi rắc rối cho nên tốt nhất là mua một quyển lịch có liệt kê các Cục và Tiết khí.
May thay Thấu Địa Kỳ Môn không dụng Siêu Thần Tiết Khí bởi vì Can Chi 60 Long kết hợp với Tiết Khí và Cục là không thay đổi. Chúng ta chỉ cần dùng Phù Đầu để định Cục thuộc Thượng, Trung, hay Hạ nguyên của Tiết Khí.
3 – Bày Kỳ Nghi Địa Bàn 
4 – Định Trực Phù Trực Sử
5 – Lập Thiên Bàn Kỳ Nghi và Tinh (xoay chuyển cho Trực Phù gia Thời Can)
6 – Lập Thiên Bàn 8 Môn, (xoay chuyển cho Trực Sử gia Thời Chi).
7 – An Bát Thần (Trục Phù, Đằng Xà, Thái Âm, Lục Hợp, Câu Trận (Bạch Hổ), Chu Tước (Huyên Vũ), Cửu Địa, Cửu Thiên). Thấu Địa Kỳ Môn không dùng Bát Thần.
Dương Độn Âm Độn Cục
Các sách về Kỳ Môn đều nói rằng:
Dương Độn: Nghi đi thuận Kỳ đi nghịch
Âm Độn: Nghi đi nghịch Kỳ đi thuận
Hai câu này ý nó gì?
Nếu ta theo thứ tự cung từ 1 đến 9, bắt đầu bày Lục Nghi: Mậu, Kỷ Canh Tân Nhâm Quý theo thứ tự (Thuận) thì Tam Kỳ, Ât Bính Đinh đi nghịch, như sau:
1 Mậu
2 Kỷ
3 Canh
4 Tân
5 Nhâm
6 Quý
7 Đinh
8 Bính
9 Ất
Ta thấy Ất Bính Đinh là 9, 8, 7
Nếu Lục Nghi đi nghịch thì Tam Kỳ đi thuận như sau:
1 Mậu
9 Kỷ
8 Canh
7 Tân
6 Nhâm
5 Quý
4 Đinh
3 Bính 
2 Ất
Ta thấy thứ tự Mậu Kỷ Canh Tân Nhâm Quý là 9,8,7,6,5, và Tam Kỳ Ất Bính Đinh là 2, 3, 4
Thật ra các đơn giản hơn là không cần biết Thuận Nghi Nghịch Kỳ hay Nghịch Nghi Thuận Kỳ gì cả, ta chỉ đếm theo thứ tự sau:
Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quý, Đinh, Bính, Ất
Dương độn thì đi thuận (số tăng), Âm độn thì đi nghịch (số giảm).
Các bạn xem lại phía trên đều thấy cho dù Thuận Nghi Nghịch Kỳ, hay Nghịch Nghi Thuận Kỳ đều có thứ tự là Mậu Kỷ Canh Tân Nhâm Quý Đinh Bính Ất cả!!!

Xin theo dõi tiếp bài 4 - dienbatn .
Xem chi tiết…

ỨNG DỤNG KỲ MÔN ĐỘN GIÁP TRONG VIỆC XÂY CẤT MỘ PHẦN. BÀI 2.

8/24/2014 |
ỨNG DỤNG KỲ MÔN ĐỘN GIÁP TRONG VIỆC XÂY CẤT MỘ PHẦN. BÀI 2.
PHẦN 2 .

MỘT CHÚT KIẾN THỨC VỀ KỲ MÔN ĐỘNG GIÁP.

( Trong phần này dienbatn sử dụng tư liệu trong cuốn Kim Hàm Ngọc Kính của Lưu Bá Ôn ,"透地奇门地理奥秘 -Thấu địa kì môn Địa lí áo bí . Hoàng Triêu Toàn . ( Trung hoa dân quốc thất thập ngũ niên tứ nguyệt tam nhật - Thai Loan dịch học quán quán chủ Hoàng hào phi long Triêu Toàn , trung chánh đại học giáo thụ hoàng giới lương đồng bổ thuật .)
Thấu Địa kỳ môn tác giả VinhL , và một số tài liệu của huyenkhonglyso.com ). 



1/ KỲ MÔN.

Kỳ môn được hợp bởi Kỳ và Môn. 
Kỳ để chỉ Tam kỳ: Ất - Bính - Đinh. Trong đó theo quan niệm người xưa : Mặt trời sinh từ Ất . Mặt trăng sinh từ Bính . các tinh tú sinh ra từ Đinh . ( Ất - Bính - Đinh = Nhật - Nguyệt - Tinh ).
Trong Kỳ môn độn giáp , Tam kỳ được phân bố trên Thiên bàn và Địa bàn . Phương hướng gặp Tam kỳ là phương cát lợi . 
Ngoài Tam kỳ còn có Lục nghi : Mậu, Kỷ, Canh, Tân , Nhâm, Quý . Lục nghi này cũng được phân bố trên Thiên bàn và Địa bàn và chuyển vận phụ thuộc vào Thiên bàn và Địa bàn.
Môn : Chỉ Bát môn Hưu- Sinh - Thương - Đỗ - Cảnh - Tử - Kinh - Khai . Bát môn phụ thuộc vào thời gian mà chuyển vận.
Tam kỳ phối hợp với Bát môn gọi là Kỳ môn.

2/ ĐỘN GIÁP.
Độn có nghĩa là ẩn tàng , Giáp là Thiên can đầu tiên . Giáp Mộc sợ gặp phải Canh Kim nên phải ẩn đi để tránh bị khắc. Một cách lý giải khác là :  "Độn" trong tiếng Trung Quốc có nghĩa là ẩn đi, Giáp là mã đầu trong hệ thập can, một hệ mã long cốt mang tính cơ sở đo đếm thiên, địa, nhân.  Các học giả cho rằng Can giáp đứng đầu trong các Can nay ẩn nó thì thì " Cát". Được rút ra theo ý nghĩa của hào dụng cửu quẻ Càn " Quần long vô thủ cát" - Nghĩa là bày rồng không đầu cát. Tại sao lại như vậy, trong sách dịch nói rồng tượng trưng cho người có tài có đức, cùng hợp tác với nhau mà không có người đứng đầu. Phải chăng câu quân long vô thủ cát ứng với trường hợp 1 và dịch lý cho rằng cát. 
Học thuyết độn giáp được hình thành trên cơ sở của các mô hình : Tam tài ( Thiên địa nhân), Can chi, âm dương ngũ hành. Tiên thiên bát quái , hậu thiên bát quái, cửu cung phi tinh. Hiện nay có nhiều trường phái độn giáp được phát triển ở Trung Hoa lục địa và rực rỡ ở Đài Loan. Nhưng thông dụng nhất vẫn là Thời gia kỳ môn học, sau đó phải kể đến niên gia kỳ môn học, nguyệt gia kỳ môn học, nhật gia kỳ môn học. 



Trong 60 hoa Giáp ( Lục thập hoa Giáp ) có 6 Giáp được gọi là Thiên Ất quý nhân. Khi tiến hành độn Giáp thì : 
* Giáp Tý ẩn dưới 6 Mậu ( Mậu Tý - Mậu Dần - Mậu Thìn - Mậu Ngọ - Mậu Thân - Mậu Tuất ).
* Giáp Tuất ẩn dưới 6 Kỷ ( Kỷ Sửu - Kỷ Mão - Kỷ Tị - Kỷ Mùi - Kỷ Dậu - Kỷ Hợi ).
* Giáp Thân ẩn dưới 6 Canh ( Canh Tý - Canh Dần - Canh Thìn - Canh Ngọ - Canh Thân - Canh Tuất ).
* Giáp Ngọ ẩn dưới 6 Tân ( Tân Sửu - Tân Mão - Tân Tị - Tân Mùi - Tân Dậu - Tân Hợi ).
* Giáp Thìn ẩn dưới 6 Nhâm ( Nhâm Tý - Nhâm Dần - Nhâm Thìn - Nhâm Ngọ - Nhâm Thân - Nhâm Tuất ).
* Giáp Dần ẩn dưới 6 Quý ( Quý Sửu - Quý Mão - Quý Tị - Quý Mùi - Quý Dậu - Quý Hợi ).
Trong Kỳ môn , đem 6 Giáp phân bố vào Cửu cung thì cung đầu tiên là Giáp Tý , tiếp theo là các cung Giáp Tuất- Giáp Thân - Giáp Ngọ - Giáp Thìn và cuối cùng là Giáp Dần.



( Có tài liệu viết : Tam kỳ Ất Bính Đinh là 2, 3, 4
2+3+4 = 9 cửu cung
9x2 = 18 cục âm dương
2x3x4 = 24 tiết khí
Âm dương hai độn trãi bày 24 tiết khí
Lấy Giáp mà thống lảnh 6 nghi chính là theo 1-6 Hà đồ
Lấy 24 tiết bày 8 quái là 3x8 = chính là 3-8 Hà đồ.
Lục Nghi 5,6,7,8,9,10
5+6+7+8+9+10 = 45
45 x 8 = 360 đó là Lục nghi bày 8 tiết (tức 8 quái mỗi quái là một tiết gồm 3 tiết khí = 24 tiết khí) mà thành 1 Chu thiên vậy.)
Như vậy ta thấy rằng : 

KỲ MÔN ĐỘN GIÁP = TAM KỲ + BÁT MÔN + ĐỘN GIÁP.

 3/ THỨC BÀN KỲ MÔN ĐỘN GIÁP.

Thức bàn Kỳ môn độn giáp được hình thành từ 4 vòng tròn đồng tâm từ lớn đến nhỏ. Mỗi vòng tròn chia làm 8 phần bằng nhau , mỗi phần là 45 độ. Bàn trên cùng chia làm hai mặt âm - dương có thể thay đổi.Trong thức bàn Kỳ môn độn giáp từ trong ra ngoài lần lượt sẽ là : Thần bàn - Nhân bàn - Nhân bàn - Địa bàn. Căn cứ cấu tạo như vậy người ta có thể chế tạo thức bàn Kỳ môn độn giáp sử dụng khá thuận tiên.




1. ĐỊA BÀN :

Địa bàn dựa trên Hậu Thiên Bát quái : Phía Bắc là Khảm -, Đông Bắc là Cấn - 8 , Đông là Chấn - 3 , Đông Nam là Tốn - 4 , Nam là Ly - 7, Tây Nam là Khôn - 2, Tây là Đoài - 7 , Tây Bắc là Càn - 6. Trung cung - 5.
Trong Địa bàn , bắt đầu từ cung Khảm xếp theo thứ tự thuần chiều kim đồng hồ : KHẢM - CẤN - CHẤN - TỐN - LY - KHÔN - ĐOÀI - CÀN . Theo thứ tự đó bắt đầu từ cung Khảm xếp Cửu tinh : BỒNG - NHẬM - XUNG - PHỤ - ANH - NHUẾ- TRỤ - TÂM - CẦM . ( Riêng sao CẦM gửi vào trung cung . Nếu là Dương độn gửi vào cung KHÔN, nếu là Âm độn gửi vào cung CẤN ).
Ngoài ra cũng bắt đầu từ cung Khảm theo chiều kim đồng hồ lần lượt xếp BÁT MÔN : HƯU - SINH - THƯƠNG - ĐỖ - CẢNH - TỬ - KINH - KHAI .

2. THIÊN BÀN : 
Thiên bàn tương tự như Địa bàn . Cũng từ cung Khảm 1 , thuận theo chiều kim đồng hồ xếp CỬU TINH : BỒNG - NHÂM - XUNG - PHỤ - ANH - NHUẾ - TRỤ - TÂM - CẦM .
Phương pháp chuyển động Cửu tinh trên Thiên bàn là Trực Phù chuyển động theo CAN.

3. NHÂN BÀN.
Trên Nhân bàn cũng từ cung Khảm - 1 thuận theo chiều kim đồng hồ xếp BÁT MÔN : HƯU - SINH - THƯƠNG - ĐỖ - CẢNH - TỬ - KINH - KHAI .
Bát môn Nhân bàn là Trực Sử chuyển động theo CHI.

4/ THẦN BÀN :
Thần bàn còn gọi là Bát trá môn bàn theo 2 cục ÂM và DƯƠNG.
CỤC DƯƠNG : Bắt đầu từ TRỰC PHÙ theo chiều thuận kim đồng hồ xếp BÁT THẦN : 
TRỰC PHÙ - ĐẰNG XÀ - THÁI ÂM - LỤC HỢP - CÂU TRẦN - CHU TƯỚC - CỬU ĐỊA - CỬU THIÊN .
CỤC ÂM : Cũng bắt đầu từ TRỰC PHÙ theo chiều nghịch kim đồng hồ xếp BÁT THẦN : 
TRỰC PHÙ - ĐẰNG XÀ - THÁI ÂM - LỤC HỢP - BẠCH HỔ - HUYỀN VŨ - CỬU ĐỊA - CỬU THIÊN .
Phương pháp chuyển động Thần bàn theo phương vị Trực phù trên Thiên bàn.

 4/ CÁC THÔNG SỐ CƠ BẢN TRONG THỨC BÀN KỲ MÔN ĐỘN GIÁP.
1/ TUẦN ĐẦU VÀ PHÙ ĐẦU.

10 Can kết hợp với 12 Chi cho ta 60 Hoa Giáp:
Giáp Tý, Ất Sửu, Bính Dần, Đinh Mão, Mậu Thìn, Kỷ Tỵ, Canh Ngọ, Tân Mùi, Nhâm Thân, Quý Dậu
Giáp Tuất, Ất Hợi, Bính Tý, Đinh Sửu, Mậu Dần, Kỷ Mão, Canh Thìn, Tân Tỵ, Nhâm Ngọ, Quý Mùi
Giáp Thân, Ất Dậu, Bính Tuất, Đinh Hợi, Mậu Tý, Kỷ Sửu, Canh Dần, Tân Mão, Nhâm Thìn, Quý Tỵ
Giáp Ngọ, Ất Mùi, Bính Thân, Đinh Dậu, Mậu Tuất, Kỷ Hợi, Canh Tý, Tân Sửu, Nhâm Dần, Quý Mão
Giáp Thìn, Ất Tỵ, Bính Ngọ, Đinh Mùi, Mậu Thân, Kỷ Dậu, Canh Tuất, Tân Hợi, Nhâm Tý, Quý Sửu
Giáp Dần, Ất Mão, Bính Thìn, Đinh Tỵ, Mậu Ngọ, Kỷ Mùi, Canh Thân, Tân Dậu, Nhâm Tuất, Quý Hợi
60 Hoa Giáp Can Chi có 6 con Giáp đứng đầu. Mỗi Giáp có 10 Can Chi, nên gọi là 1 tuần (tuần Giáp), con Giáp đứng đầu gọi là Tuần Đầu.
Trong 10 Can, thì can lẻ tức là Giáp Bính Mậu Canh Nhâm là dương, can chẳn Ất Đinh Kỷ Tân Quý là âm.
Tương tự trong 12 chi, thì chi lẻ là Tý Dần Thìn Ngọ Thân Tuất là dương, chi chẳn là Sửu Mão Tỵ Mùi Dậu Hợi là âm.
Trong 60 Hoa Giáp, Can Chi kết hợp dương can và dương chi, âm can và âm chi, không có trường hợp âm dương lẫn lộn.



1.Nhìn trong bảng ngày cần tra là các ngày trong tuần - Tuần đầu là ngày chữ đỏ.
2. Phù đầu : Từ Tuần đầu đếm tới Long nhập thủ , nếu tới Can Kỷ thì chính là Phù đầu  Nếu đếm từ Tuần đầu tới Long nhập thủ chưa tới Kỷ, thì Tuần Đầu Giáp cũng chính là Phù đầu.

2/ BÁT MÔN.

1. Bát môn bao gồm: Hưu, thương, đỗ, cảnh, tử, kinh, khai, sinh. Trong đó phân ra tính cát hung mang tính tổng quátt như sau : 
Hưu, Khai, sinh: Cát môn 
Cảnh : trung tính, có trường phái cho rằng cảnh là Cát mộn 
Kinh, thương, tử : Môn hung. 

2. Bát Môn phối với các cung như sau:
Khảm – Hưu
Khôn - Tử
Chấn – Thương
Tốn - Đổ
Trung – Vô Môn
Càn – Khai
Đoài – Kinh
Cấn – Sinh
Ly - Cảnh

3. Ca quyết dùng Bát môn:
Dục cầu tài lợi vãng Sinh phương ,
Táng liệp tu tri Tử lộ cường.
Chinh chiến , viễn hành Khai môn cát.
Hưu môn kiến quý Tối vi lương.
Kinh môn quan tụng thị phi đa.
Đỗ môn vô sự hảo đào tàng. 
Thương môn bác đấu năng tróc tặc, 
Cảnh môn ẩm tửu hảo tư lượng.

4. ĐẶC TÍNH BÁT MÔN.
* Khai Môn : Tọa cung Càn - 6 - Tây Bắc - Ngũ hành thuộc Kim.
Khai môn tọa tại cung Càn là Phục ngâm , tọa tại cung Tốn là Phản ngâm , tọa tại cung Cấn là Nhập mộ , tọa tại cung Ly là bị chế phục, tọa tại cung Khôn là đại cát, tọa tại cung Đoài là Vượng tướng, tọa tại cung Khảm là cát lợi, tọa tại cung Chấn là bức bách.
* Hưu môn : Tọa tại cung Khảm - 1- Chính Bắc - Ngũ hành thuộc Thủy.
Hưu môn tọa tại cung Khảm là Phục ngâm , tọa tại cung Ly là Phản ngâm , tọa tại cung Tốn là Nhập mộ , tọa tại cung Khôn và Chấn là bị chế phục, tọa tại cung Càn và Đoài là đại cát, tọa tại cung Chấn là cát lợi . 
* Sinh môn : Tọa tại cung Cấn -8 - Đông Bắc - Ngũ hành THổ.
Sinh môn tọa tại cung Cấn là Phục ngâm , tọa tại cung Khôn là Phản ngâm , tọa tại cung Tốn là Nhập mộ , tọa tại cung Chấn là bị chế phục, tọa tại cung Ly là đại cát, tọa tại cung Càn, Đoài là thứ cát , tọa tại cung Khảm là bức bách.
* Thương môn : Tọa tại cung Chấn - 3 - Chính Đông - Ngũ hành thuộc Mộc.
Thượng môn : Tọa tại cung Chấn là Phục ngâm , tọa tại cung Đoài là Phản ngâm , tọa tại cung Khôn là nhập mộ , tọa tại cung Khảm là sinh vượng, tọa tại cung Càn bị khắc chế, tọa tại cung Cấn là bức bách , đại hung.
* Đỗ môn : Tọa tại cung Tốn - 4- Đông Nam - Ngũ hành thuộc Mộc.
Đỗ môn  : Tọa tại cung Tốn là Phục ngâm , tọa tại cung Càn là Phản ngâm , tọa tại cung Khôn là nhập mộ , tọa tại cung Khảm là sinh vượng, tọa cung Chấn hài hòa,  tọa tại cung Đoài  bị khắc chế, tọa cung Ly bị tiết khí , tọa tại cung Cấn là bức bách , đại hung.
* Cảnh môn ; Tọa tại cung Ly - 9 - Chính Nam - Ngũ hành thuộc Hỏa.
Cảnh môn tọa cung Ly là Phục ngâm , tọa tại cung Khảm là Phản ngâm , tọa cung Càn là Nhập mộ, tọa cung Đoài là bị bức bách, tọa tại cung Chấn và Tốn được sinh vượng , tọa tại cung Khôn và Cấn được sinh. 
* Tử môn : Tọa tại cung Khôn - 2 - Tây Nam - Ngũ hành thuộc Thổ.
Tử môn tọa tại cung Khôn là Phục ngâm, tọa tại cung Cấn là Phản ngâm , tọa tại cung Tốn là nhập mộ, tọa tại cung Chấn là bị khắc, tọa tại cung Ly là sinh vượng, tọa tại cung Khảm là bị bức bách, tọa tại cung Càn và Đoài bị tiết khí.
* Kinh môn : Tọa tại cung Đoài - 7 - Chính Tây - Ngũ hành thuộc Kim.
Kinh môn tọa tại cung Đoài là Phục ngâm , tọa tại cung Chấn là Phản ngâm , tọa tại cung Cấn là Nhập mộ, tọa tại cung Ly là bị khắc chế, tọa tại cung Tốn là bị bức bách, tọa tại cung Khảm là bị tiết khí, tọa tại cung Càn là hài hòa.
Trong Kỳ môn độn giáp, Bát môn chuyển động theo cửa đương trực , tức là chuyển động theo Trực Sử , sau đó căn cứ vào phương vị Bát môn tọa lạc, tương ứng với Cửu tinh, Tam Kỳ, Lục nghi , Cung vị để xác định cát hung.

3/ CỬU TINH .
Gồm :  Thiên Bồng,Thiên Nhậm, Thiên Xung, Thiên Phù, Thiên Anh,  Thiên Nhuế, , Thiên Cầm  , Thiên Trụ, Thiên Tâm . 
Hung tinh :Xung, Bồng , Nhuế, Trụ 
Cát tinh :Tâm, Nhậm, Cầm, Phụ. 
Anh thứ cát .
Thứ tự từ Khảm đi thuận theo chiều kim đồng hồ là Bồng - Nhậm - Xung - Phụ - Anh - Nhuế - Trụ - Tâm - Cầm. 
Theo Thấu Địa Kỳ Môn thì Dương Độn Thiên Cầm ký cung Khôn, Âm Độn ký cung Cấn.
* Thiên Bồng ứng với cung Khảm - Phương Bắc - Là sao dương - Ngũ hành thuộc Thủy.
* Thiên Nhậm ứng với cung Cấn - Đông Bắc - Là sao Âm - Ngũ hành thuộc Thổ.
Thiên Xung ứng với cung Chấn - Chính Đông - Là sao Dương - Ngũ hành thuộc Mộc.
Thiên Phù ứng với cung Tốn - Đông Nam - Là sao Âm - Ngũ hành thuộc Mộc.
Thiên Anh ứng với cung Ly - Chính Nam - Là sao Dương - Ngũ hành thuộc Hỏa.
*  Thiên Nhuế ứng với cung Khôn - Tây Nam - Là sao Âm - Ngũ hành thuộc Thổ.
Thiên Trụ  ứng với cung Đoài - Chính Tây - Là sao Dương - Ngũ hành thuộc Kim.
* Thiên Tâm ứng với cung Càn - Tây Bắc - là sao Âm - Ngũ hành thuộc Kim.
*  Thiên Cầm ứng với trung cung - Là sao Dương - Ngũ hành thuộc Thổ . 



4/ BÁT THẦN .

Bát Thần trong Kỳ Môn là Trực Phù, Đằng Xà, Thái Âm, Lục Hợp, Câu Trận (Bạch Hổ), Chu Tước (Huyền Vũ), Cửu Địa, Cửu Thiên.  ( Thực ra là Cửu Thần ).
Vòng Bát Thần này có hai cách an, một là theo Thiên Bàn, hai là theo Địa Bàn. Sách Hán văn thì có quyển an theo Địa bàn, có quyển an theo Thiên bàn. Còn các sách Việt thì đều an theo thiên bàn cả.Cho nên ta dùng cách Thiên bàn .Đa số thì dùng Thiên Bàn. Trong loạt bài này Bát Thần được xếp ở Thần bàn .



LUẬN BÁT THẦN.

1/ Trực Phù là đầu của các thần (chư thần chi nguyên thủ), là cổ cánh (linh tu) của sao. Vì thế mà gọi là Trực phù. Thể Thần thuộc Hỏa. Nơi nào thần đến thì trăm ác tiêu tan, mọi hung biến hết Là thần rất cát. Thái bạch kim tinh kỵ  vào Mộ. Gặp vậy ở nơi cát thì không cát, ở nơi hung càng hung. Trời khởi từ Giáp, Đất khởi từ Tí cho nên gọi là bậc Tôn của muôn nhóm . Giáp Tí là 6 giáp ở trong, cho nên gọi tên là Trực Phù.
2/ Cửu Thiên (Chín trời): là Kiền kim.Thể này thuộc kim. Kiền nạp Giáp Nhâm, tính cương mà ưa động. Chủ những việc gọi đúng lời xuôi (danh chính ngôn thuận), gặp đúng lệnh thì không gì trở ngại, là thần rất cát. Nếu được Cửa được Kỳ thì vạn phúc gom vào. Ví không được Kỳ thì cũng không hung. Sợ vào Mộ thì sức yếu đi. Trời bắt đầu từ Giáp, từ Giáp đến Nhâm (bản nguyên viết là Thìn), Số được 9 cho nên gọi là Cửu thiên.
3/ Cửu Địa (Chín đất): là thể Khôn. Thần này ưa tĩnh. Chủ các việc mềm dẻo, kính cẩn bề ngoài, lại nắm quyền sinh sát. Là thần nửa hung, nửa cát. Sợ khắc chế, kỵ vào Mộ. Xuân Hạ thì sinh. Thu Đông thì giết. Giữ quyền hành bà Hậu nội cung vua. Khôn nạp Ất và Quý. Từ Ất đến Quý được số 9 cho nên gọi tên là Cửu địa. Nói đến Ất sửu là có 6 Ất ở trong vậy.
4/Chu tước (Sẻ non): là thần Hỏa phương Nam, quản cỏ khắp đồng ruộng của vùng trời. Nắm giữ quyền văn minh, tấu đối, miệng lưỡi, giữ chức vụ văn thư. Được đất (đắc địa = ở nơi tốt không có trở ngại) thì có mừng về văn thư ấn tín. Không được thời thì tai tiếng cãi cọ, nhiễu loạn, cát hung như vậy. Ngôi ở Bính. Bính nạp Cấn thổ, vượng tướng ở Ly. Ở trời là Thần chim đỏ (Xích Điểu chi thần) thuộc Bính hỏa. Nói đến Bính Dần là có 6 Bính ở trong cho nên gọi là Chu tước.
5/ Đằng xà (rắn vọt): là khí Đinh Hỏa, mà thực ra thì thuộc âm Thổ. Đoài nạp ở Đinh Tị. Thần này tính mềm dẻo mà miệng độc. Chuyên giữ các việc sợ hãi, quái lạ, lửa yêu, cổ quái. Ngôi trấn phương Tốn. Còn tên là Ngọc Nữ. Độn can là thần 6 Đinh, 6 Giáp, tức là thần âm rất lệnh. Nói đến Đinh Mão là có sáu Đinh ở trong vậy. 
6/ Câu trận (móc câu): là Thổ dương ở trung ương. Thần này tính ngoan, ngạnh. Giữ các việc đất cát, kiện cáo. Từ Giáp đến Mậu số được 5. Từ Tí đến Thìn số cũng được 5. Cấn nạp Bính, Khảm nạp Mậu, phối ở Đông nam. Kinh nói: “ Biết ba, tránh năm” là khí hung ác giả dối (hung ngoan chi khí), không nên tới. Ngồi trấn ở Cấn, cho nên gọi tên là Câu trận. (Lánh 5 là 5 can phần Âm: Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quý và 5 cửa hung là Thương, Đỗ, Cảnh, Tử, Kinh).
7/ Lục hợp (Sáu hợp): là khí hóa của Giáp mộc, là Mộc âm ở phần Đông. Thần này tính hòa bình, chuyên giữ các việc về hôn nhân, giao dịch, manh mối, hòa hợp. Làm em gái của sáu Giáp, gả cho Canh kim là vợ. Có thai với Canh, rồi trở về nhà. Ngôi trấn phương Đông. Chấn nạp Canh. Từ Giáp đến Kỷ số được 6 cho nên gọi tên là Lục hợp.
8/ Bạch Hổ (hổ trắng): là Canh kim. Oai thống phương Tây. Thần này ưa giết, chuyên giữ các việc binh qua, sát phạt, tranh đấu, tật bệnh, chết chôn, đường xá. Kỷ nạp ở Canh Kim. Tốn là Phong (gió). Phong theo ngôi Hổ. Trấn ở phương Tây. Từ Giáp đến Canh số được 7 cho nên gọi là Bạch Hổ.
9 / Huyền Vũ (Rùa xám): là tinh của nước. Thống giữ khí phương Bắc. Thần này ưa âm mưu làm hại, chuyên giữ các việc trộm cắp, trốn chạy. Nước thì sắc đen, được đất vàng (hoàng thổ) ở trung ương mà thành cho nên gọi là Huyền Vũ.

5/ KỲ TỬ.
Ngoài 4 bàn : Thiên Bàn - Địa Bàn - Nhân Bàn - Thần Bàn ở phần trên, trong Kỳ môn độn giáp còn sử dụng 2 bộ Kỳ tử. Hai bộ đó chính là Tam Kỳ và Lục Nghi . Một bộ đặt trên Địa Bàn, một bộ đặt trên Thiên Bàn , mỗi bộ Kỳ tử tổng cộng có 9 hạt, 2 bộ tổng cộng có 16 hạt. 
Trong ứng dụng thực tế, Địa bàn đứng yên không chuyển động, Thiên bàn, Nhân bàn và Thần bàn chuyển động theo một quy luật sẽ nói ở phần sau . Như vậy tại thời điểm nhất định ( Khi dùng làm mộ phần ta thay thế thời điểm bằng 60 Long nhập thủ ), khi Thiên bàn, Nhân bàn và Thần bàn chuyển động , sẽ tạo ra một cục thế cụ thể . Thông qua việc phân tích các mối quan hệ : Âm - Dương - Ngũ hành, cách sắp xếp Cửu tinh, Bát môn, Bát Thần và Kỳ tử ta sẽ biết được cát hung của mộ phần và có hướng bổ trợ cho phần mộ đó .
Xin theo dõi tiếp bài 3 - dienbatn 
Xem chi tiết…

ỨNG DỤNG KỲ MÔN ĐỘN GIÁP TRONG VIỆC XÂY CẤT MỘ PHẦN. BÀI 1.

8/14/2014 |
ỨNG DỤNG KỲ MÔN ĐỘN GIÁP TRONG VIỆC XÂY CẤT MỘ PHẦN. BÀI 1.
奇門遁甲秘笈大佺.



LỜI NÓI ĐẦU :

 Độn Giáp là một trong ba môn học xếp vào tam thức (Thái Ất, Độn giáp, Lục nhâm đại độn). Có sách thêm hai chữ "Kỳ Môn" ở trước và có tên gọi là Kỳ Môn Độn giáp.
Độn Giáp là môn tính toán căn cứ vào sự tiêu trưởng của Âm Dương để đặt ra những nguyên tắc và định lý quyết đoán sự diễn tiến cát hung của sự vật.
Trong tam thức, nếu như Thái Ất thiên về Thiên, nó nghiên cứu sự chuyển động của các tinh tú ảnh hưởng đến Trái Đất thì Độn Giáp, lại thiên về Địa, nó nghiên cứu ảnh hưởng của địa lý, phong thủy đối với con người.
Độn Giáp là môn dự đoán, phát sinh từ Dịch học, ứng dụng dịch lý. Độn Giáp là hệ thức thời gian theo Can Chi tương ứng với các thuộc tính của Tiết khí, theo một chu kỳ tính theo năm (tháng) hoặc Nguyên, Hội, Vận v.v mà mỗi vị trí thời gian Can Chi phản ánh một quá trình phát sinh, phát triển và kết quả của sự vật, hiện tượng, con người. Nói đến Độn Giáp là nói đến Tiết khí được lượng hoá qua độ mạnh yếu của khí Âm Dương bằng hằng số của Dịch học gọi là Cục.
Trong mười Thiên can thì ba nhóm Thiên can Ất, Bính, Đinh được gọi là Tam Kỳ, sáu nhóm Thiên can Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quí được gọi là Lục Nghi. Can giáp được ẩn đi nên gọi là Độn Giáp. Tam kỳ tượng trưng cho mặt trời, mặt trăng và tinh tú.
Môn là Bát Môn, tức là tám cửa. Tám cửa gồm có Hưu Môn, Sinh Môn, Thương Môn, Đỗ Môn, Cảnh Môn, Tử Môn, Kinh Môn và Khai Môn. Tám cửa này là từ tám phương vị của Bát Quái mà ra. Trong quân sự còn có tên khác là Bát Trận Đồ. Tên các cửa trong Bát Trận Đồ là Thiên Môn, Địa Môn, Phong Môn, Vân Môn, Long Môn, Hổ Môn, Điểu Môn và Xà Môn. Bát Trận Đồ này xem thì rất đơn giản, dễ dàng nhưng kỳ thực thì thiên biến vạn hóa, cao siêu thần diệu. Bát Môn thực tế là tám loại cảm ứng điện từ của hệ Mặt Trời và Trái Đất đối với con người ta.
Kỳ Môn Độn Giáp nguyên gọi là Tam Nguyên Kỳ Môn Độn Giáp. Tam Nguyên tức là Thượng Nguyên, Trung Nguyên, Hạ Nguyên (có nơi còn gọi là Thiên Nguyên, Nhân Nguyên, Địa Nguyên dựa trên cơ sở Tam Tài là Thiên Nhân Địa rồi tìm ra Thiên Thời Địa Lợi Nhân Hòa).
Độn giáp được hình thành trên cơ sở của các thuyết: Tam tài (Thiên, địa, nhân), Can Chi, Âm Dương, ngũ hành, Tiên thiên bát quái, Hậu thiên bát quái, cửu cung phi tinh... Hiện nay có nhiều trường phái độn giáp được phát triển ở Trung Hoa lục địa và Đài Loan. Phổ biến nhất là thời gia kỳ môn học, sau đó là niên gia kỳ môn học, nguyệt gia kỳ môn học, nhật gia kỳ môn học...
Kỳ Môn Độn Giáp là môn khoa học cho ta biết được thời điểm nào, phương vị nào sẽ có lợi cho ta và phương vị nào sẽ bất lợi cho ta, rồi ta có thể dựa vào đó cải thiện vận mệnh của ta cho từng thời điểm.
Kỳ Môn Độn Giáp được ứng dụng trong việc lựa chọn thời gian, hướng bày binh, xuất quân, cầu tài, cầu danh, yết kiến quí nhân, xuất hành, khai trương, động thổ, xây cất, tìm người cưới gả …
Trước đây, Độn giáp ứng dụng vào quân sự là chủ yếu. Ngày nay độn giáp có thể ứng dụng trong các hoạt động mang tính cạnh tranh, thi đua, nhất là trong lĩnh vực kinh doanh. Ngoài ra độn giáp còn là công cụ quan trọng trong tính toán địa lý "tam hợp" điều này cũng nói lên sự liên quan mật thiết giữa độn giáp với yếu tố "Địa" trong hệ thống tam tài Thiên - Nhân - Địa. ( http://vi.wikipedia.org/ )
Trong Kỳ môn độn giáp còn có phần : Kỳ môn độn giáp Thần phù , tương truyền do đấng Cửu Thiên Huyền Nữ truyền cho Hoàng Đế khi đánh nhau với Si Vưu ở Trác Lộc. Lúc đó bản sách chỉ có bản Kim Hàm thường dùng trong việc binh thư. Đến đời Nghiêu - Thuấn khi sai Đại Vũ đi trị thủy , đấng Cửu Thiên Huyền Nữ truyền cho Hà Đồ và Lạc Thư trên lưng Rùa Thần . Từ đó phép Độn Giáp chính thức được lưu truyền.
 Sau này Hán Tử Phòng gom lại thành 13 cục . Gia Cát Lượng Võ hầu Khổng Minh cùng bố vợ là Hoàng Thừa Ngạn , vợ là Hoàng Nguyệt Anh ( tục gọi là Hoàng A Sửu ) đắc ngộ thần cơ tạo nên Bát Quái Trận đồ gồm có 8 cửa và 3 kỳ . 
Sau này được truyền ra ngoài và trong hầu hết các binh thư thời cổ đều sử dụng phép Kỳ môn độn giáp .
Tại Việt Nam , thời Trần có Đức Thánh Trần Hưng Đạo viết ra cuốn Binh Thư Yếu Lược là một cuốn sách bất hủ nay đã bị thất truyền.
Khi đắc ngộ được KỲ MÔN ĐỘN GIÁP , trên có thể phò Vua , báo Quốc , làm cho lê dân được yên ổn , dưới có thể phụng dưỡng cha mẹ, giữ gìn gia đình . 
 Ngày trước dienbatn có duyên được một ẩn sĩ chỉ dạy cho môn này một chút , đem áp dụng vào việc xây cất mộ phần trong mấy chục năm qua đều thấy rất hiệu quả. Xin cùng chia sẻ với các bạn.

PHẦN 1 : QUAN HỆ TAM TÀI.


Theo sử sách còn truyền lại,từ khi Phục Hy lập ra Bát quái định Thiên đồ,xa thì trông Thiên văn,đại Địa,gần thì trông ở người,vật,toàn đồ Vũ trụ quan bao gồm Thiên -Địa -Nhân.
THIÊN :Tinh ba là Nhật -Nguyệt -Tinh.
ĐỊA :Tinh ba là Thủy -Phong -Hỏa.
NHÂN :Tinh ba là Tinh -Khí -Thần.
Tất cả các thành phần trên gọi chung là Đại đạo,mỗi thành phần đều sống động.
THIÊN ĐẠO :Là sự vận hành các phần tử Thiên hà,Thiên hệ,Tinh tú châu lưu an toàn trong khoảng không theo một trật tự nhất định.
ĐỊA ĐẠO :Thủy -Hỏa-Phong châu lưu khắp nơi nhằm sinh hóa và nuôi dưỡng vạn vật.
NHÂN ĐẠO :Là cái đức lớn của Thiên -Địa,Tinh khí tươi nhuận thì Thần mới minh.
Vũ trụ toàn đồ luôn sống động,nếu ngưng ,nghỉ tức là hoại ,là diệt.
Một Cảnh giới hài hòa tạo được sự an lạc,hạnh phúc cho mọi người tức là cả ba thành phần phải tốt tương ứng thể hiện đủ đức tính của Đại đạo.Vì thế ,các bậc Tiền nhân luôn có ước muốn tạo cho mình và cộng đồng một Cảnh giới Chân -Thiện -Mỹ,họ chiêm nghiệm ,học hỏi từ Thiên nhiên địa vật,tạo nên nền tảng Kiến trúc .Nhân giới luôn hài hòa với Tam tài (Thiên văn,Địa thế,Nhân sinh ),nên gọi là thuật Phong thủy.Phong thủy cũng dựa vào trên nền tảng Quái đồ,Hà Lạc.
Tam thức (Thái Ất, Độn giáp, Lục nhâm đại độn) được sử dụng rất hiệu quả khi cải táng mộ phần.

1/ Lục Nhâm ( Nhân )
Lục nhâm đại độn là một trong ba môn học xếp vào tam thức (Thái Ất, Độn giáp, Lục nhâm đại độn). Lục nhâm là 6 chữ Nhâm trong lục thập hoa giáp gồm: Nhâm Dần, Nhâm Thìn, Nhâm Ngọ, Nhâm Thân, Nhâm Tuất và Nhâm Tý.Trong tam thức nếu như Thái Ất thiên về Thiên, Độn giáp thiên về Địa thì Lục nhâm chủ về Nhân và thường được sử dụng rộng rãi hơn trong cuộc sống.

2/ Thái Ất ( Thiên ) : 
Thái Ất thần kinh hay Thái Ất là một trong ba môn học xếp vào tam thức (Thái Ất, Độn giáp, Lục nhâm đại độn).
Thái Ất tức là Thái Nhất, tên gọi khác của Thần Bắc cực.
Trong tam thức, Thái Ất thiên về Thiên, nó nghiên cứu sự chuyển động của các tinh tú ảnh hưởng đến Trái Đất, đến con người.
Theo một số sách bói kinh điển, Thái Ất là tôn thần của thiên đế, ở trước sao Bắc thần, chủ sai khiến 16 thần. Sao Thái Ất chủ về dự đoán gió mưa, hạn hán lụt lội, chiến tranh đói rét bệnh tật, xem tình hình trong nước, sao Thái Ất chủ sự hưng vong, lịch số dài ngắn.

3/ Độn Giáp ( Địa ) :
 Độn Giáp là một trong ba môn học xếp vào tam thức (Thái Ất, Độn giáp, Lục nhâm đại độn). Có sách thêm hai chữ "Kỳ Môn" ở trước và có tên gọi là Kỳ Môn Độn giáp.
Độn Giáp là môn tính toán căn cứ vào sự tiêu trưởng của Âm Dương để đặt ra những nguyên tắc và định lý quyết đoán sự diễn tiến cát hung của sự vật.
Trong tam thức, nếu như Thái Ất thiên về Thiên, nó nghiên cứu sự chuyển động của các tinh tú ảnh hưởng đến Trái Đất thì Độn Giáp, lại thiên về Địa, nó nghiên cứu ảnh hưởng của địa lý, phong thủy đối với con người.
Như vậy ta thấy rằng, khi nghiên cứu và thực hành phong thủy, nhất là phần Âm trạch - Mồ mả , Phong thủy sư phải rành rẽ các nguyên tắc của thuật Địa lý và phải thành thạo các môn : Thái Ất ( Thiên )  -Độn Giáp ( Địa ) - Lục Nhâm ( Nhân ). Người xưa có câu : " Trên thông Thiên văn - Dưới tường Địa lý - Giữa thông muôn loài " là vậy.
Tại mộ phần có các loại Khí như sau :

Thiên khí từ trên các hành tinh Mặt trăng, mặt Trời và các vì tinh tú giáng xuống thâm nhập vào hài cốt , Địa khí từ Long mạch chuyển đến , bốc từ dưới lên hòa quyện cùng Thiên khí , kết hợp với Nhân khí từ xương cốt trong mộ phần tạo nên năng lượng để kết Huyệt. Huyệt kết là kết quả của sự tương đồng giữa THIÊN KHÍ - NHÂN KHÍ - ĐỊA KHÍ. Theo thuyết hiện tượng cộng hưởng Hacmonic của GS.TS Nguyễn Hoàng Phương trong bài viết Tích hợp đa văn hóa Đông - Tây cho một chiến lược giáo dục mai sau: Sẽ xẩy ra hiện tượng cộng hưởng mà tần số này bằng n lần tần số kia . Hiện tượng cộng hưởng đó gọi là hiện tượng cộng hưởng Hacmônic. Theo các cụ hay nói: Đó là hiện tượng Đồng thanh tương ứng - Đồng Khí tương cầu. Theo Giáo sư Nguyễn Hoàng Phương: Trước hết vì trong mối quan hệ này không có sự tiếp xúc xác thịt trực tiếp giữa hài cốt người chết và thân xác người còn sống, nên tất yếu phải có phần sóng vô hình của cả đôi bên tham gia vào. Đó có thể là một hiện tượng cộng hưởng sóng mang tính chất huyết thống, dòng họ. Do tần số đôi bên có thể khác nhau nhiều, nên trong lý thuyết về Nhạc, loại cộng hưởng này mang tên cộng hưởng Harmonic (Tần số này là bội số của Tần số kia). Đó là cơ chế cộng hưởng Harmonic hình thái huyết thống. 
 Khí Huyệt ( Đã bao gồm ; Thiên khí, Nhân Khí, Địa Khí ) sẽ cộng hưởng theo hình thái Huyết thống ( Cộng hưởng hacmonic ) tác  động tới từng cá nhân trong dòng họ người chết . Đó chính là nguyên lý hoạt động của Khí trong Huyệt mộ mà sau nhiều năm nghiên cứu, dienbatn đã ngộ ra.

 Khi đặt hài cốt vào Huyệt mộ - Ứng với thời điểm của Tiết khí, phương vị của mộ , Năng lượng của cuộc đất , Phúc phận của dòng họ và của người chết ....ta sẽ có một bảng Mã cốt đặc trưng cho ngôi mộ đó , giống như một tấm giấy khai sinh của Huyệt mộ hay như một lá Tử vi của riêng Huyệt mộ đó. Từ đó, thông qua các kiến thức về Tam thức, Địa lý..., chúng ta hoàn toàn có thể đọc được quá trình vận hành tốt hay xấu của Huyệt mộ . Chúng ta có thể biết được sự thịnh suy , thời điểm thịnh suy, phương hướng thịnh suy, nhánh nào thịnh suy...  của con cháu trong dòng họ đó .
Ứng dụng Kỳ môn Độn Giáp vào việc xây cất mộ phần là một trong hàng trăm ứng dụng của môn học Kỳ môn Độn Giáp . Độn Giáp là môn tính toán căn cứ vào sự tiêu trưởng của Âm Dương để đặt ra những nguyên tắc và định lý quyết đoán sự diễn tiến cát hung của sự vật. Độn Giáp thiên về Địa, nó nghiên cứu ảnh hưởng của địa lý, phong thủy đối với con người. Trong loạt bài này, dienbatn không đi sâu vào những kiến thức của Kỳ môn Độn Giáp mà đi thẳng vào việc ứng dụng Kỳ môn Độn Giáp trong việc xây cất mộ phần các dòng họ tại Việt Nam.

PHẦN 2 : TÀI LIỆU CÁC BẠN NÊN THAM KHẢO.

Độn giáp lược giải, Đỗ Quân
Hệ thức thời gian Độn giáp, Bùi Biên Hoà, NXB Văn Hoá dân tộc, 2002.
Kỳ Môn Độn Giáp, Nguyễn Mạnh Bảo, Sài Gòn, 1959
Giáo trình Độn Giáp, Vũ Xuân Quang
Phi bàn độn giáp yếu giải, Vũ Xuân Quang.
Kim Hàm Ngọc kinh - Lưu Bá Ôn - Bản dịch của Chu Tuyết Nhi.
Thấu Địa kỳ môn.
Sách về Độn giáp bằng tiếng Trung sau đây, một số người quan tâm nghiên cứu môn này sưu tầm được, ít có bán tại các hiệu sách ở Việt Nam.
Độn Giáp chỉ quy
Kim hàm Độn giáp bí kíp toàn thư
Kỳ môn Độn giáp pháp khiếu
Quỷ Cốc tử bí kíp
Độn Giáp học đại toàn
Kì môn bí quyết tổng phú . ( 奇門秘訣總賦 ) .
Kỳ môn chỉ quy [ chiêm pháp ] ( 奇門旨歸【占法】).
Kì môn độn giáp bí cấp đại toàn [ chiêm pháp ] ( 奇門遁甲秘笈大佺【占法】).
Kì môn độn giáp thống tông đại toàn . ( 奇門遁甲統宗大佺 ). 3 tập.
Kì môn độn giáp toàn thư .( 奇門遁甲佺書 ).
"透地奇门地理奥秘 -Thấu địa kì môn Địa lí áo bí . Hoàng Triêu Toàn . ( Trung hoa dân quốc thất thập ngũ niên tứ nguyệt tam nhật - Thai Loan dịch học quán quán chủ Hoàng hào phi long Triêu Toàn , trung chánh đại học giáo thụ hoàng giới lương đồng bổ thuật .)
............................
Xin theo dõi tiếp bài 2 - dienbatn .
Xem chi tiết…

Hóa Thân Bồ Tát Tara Của Bồ Tát Quán Thế Âm .

8/07/2014 |
Hóa Thân Bồ Tát Tara Của Bồ Tát Quán Thế Âm .

Những hoá thân của Quán Thế Âm Bồ Tát, nhưng xin góp ý vào để cho quý đọc hữu gần xa được biết thêm 2 hình dáng của Ngài bên Tây Tạng để sau này có ai đi chuà Tây Tạng nhìn hình để mà biết những hình ảnh của Mẹ Quán Âm.   Đa-la (Tārā) hay Đa-la Bồ Tát là tên dịch âm Hán-Việt từ tiếng Phạn Tārā, là tên của một vị nữ Bồ Tát thường gặp trong Phật giáo Tây Tạng. Tên này dịch ý là Độ Mẫu, Cứu Độ Mẫu, là "người mẹ cứu độ chúng sinh".
Lịch sử
Ngàn năm trước, trong rừng sâu ở Ấn Độ có những nữ tu, tu luyện theo phương pháp bí truyền. Họ được gọi là Yogini. Mạnh mẽ, độc lập và nghiêm khắc, những Yogini đã đạt được trạng thái tâm không mong cầu.
Người Tây Tạng gọi họ là những nữ thần Tara. Tara còn có nghĩa là “ngôi sao”, là ngôi Sao Bắc Đẩu, là ánh sáng soi đường cho những người bị lạc đường, là hiện thân của năng lượng ánh sáng. Thần Tara là người mẹ giàu lòng thương yêu và cũng là người bảo vệ mạnh mẽ, kiên cường, chinh phục những khó khăn. Ánh mắt của thần sáng như ánh chớp, thần giậm chân khiến đất phải rung chuyển, quỷ thần cũng phải kinh sợ.
Biểu tượng
Thần Tara thực sự là một vị thần trẻ đẹp, có khả năng hóa thân. Thần có thể hiện ra trong màu xanh, màu trắng, đỏ, hay màu của vàng. Mỗi màu đều có ý nghĩa riêng của nó.
Phía sau đầu của thần Tara là ánh sáng của trăng tròn, là biểu tượng của áng sáng soi sáng trái đất. Ánh sáng đem lại sự mát lành, xóa tan đau khổ của vòng luân hồi.
Thần ngồi trên một tòa sen nở và một chiếc đĩa tròn. Vòng quanh thần là một vòng lửa màu vàng, mà lời kinh cầu nguyện số 21 nói rằng: “như lửa cháy ở cuối thời đại này”.
Trên mỗi bàn tay, thần Tara nhẹ nhàng cầm một cành hoa dài màu xanh trắng, hoa Utpala, một loại hoa có mùi hương thơm ngọt giống như hoa sen, loại hoa mọc trên bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn. Hoa Utpala là sự trong sạch tự nhiên, mà theo Gehlek Rinpoche nói “để có thể là người trong sạch, hãy hành động một cách trong sạch”.
Ba ngón tay của tay trái thần Tara chỉ lên để biểu hiện ba thứ quí giá, đó là: Đức Phật, Phật Pháp và Giác Ngộ, hay sự tự giải phóng (tự tại). Tay phải duỗi ra, ngửa bàn tay về phía trước với một cử chỉ mời gọi. Genlek Rinpoche nói “Thần Tara nói với những người bị mất hi vọng và không có ai giúp đỡ, rằng: 'hãy lại đây, ta đang ở đây.”
Thần có những sợi lụa mềm được trang điểm bằng những hạt châu báu, dái tai dài và thanh nhã. Trên thực tế, các Đức Phật thì không đeo châu báu, nhưng nữ thần Tara lại mang châu báu. Những châu báu này sáng lấp lánh như sự cảnh báo về những đau khổ trên trần thế.
Bồ Tát Tara trong Mật Tông Tây Tạng
Trong suốt quá trình phát triển Mật Tông Tây-Tạng, những hình ảnh về Bồ Tát Tara đã được thờ phượng, phổ thông trong đại chúng vị Bồ Tát duy nhất trong hình ảnh nữ giới là:  Tara,Marici.
 Tính dân chủ, nhân bản trong đạo Phật đã hành thực và Phát triển cao độ, nói cho cùng, trong đạo Phật không có sự phân biệt sang hèn, nam hay nữ đều có khả năng giác ngộ như nhau, chúng sanh ai ai củng có khả năng giác ngộ, tất cả đều thể hiện trong tinh thần Lục Hòa "Giới hòa Ðồng Tu"
Bồ Tát Tara đã vì lòng Từ Bi mà hóa độ chúng sinh, đã ứng hiện qua nhiều danh xưng khác nhau, riêng ở Tây Tạng thời 21 Tara đã được nhiều người quán tưởng…
Tara có nghĩa làn "Cứu Ðộ", Bồ Tát thị hiện nhiều trong Mật Giáo Tây Tạng, cùng hiện thân của Chư vị Phât ở các cõi HIỆN TẠI,QÚA KHỨ,TƯƠNG LAI.Theo kinh điển Tara được hóa sinh từ giọt nước mắt của ngài Quán Thế Âm,những giọt lệ của xót thương trong biển khổ,Tara màu trắng an vị bên Trái,Tara màu xanh lá cây bên phía phải….
Theo truyền thuyết Phật giáo Tây Tạng, Đức đại từ đại bi Quán Thế Âm Bồ Tát vì xót thương chúng sanh đã rơi lệ. Giọt lệ của Người đã hóa thành 21 vị Độ Mẫu.
 Nguồn : Zing Blog

White Tara.


Tara Màu Trắng(Do-dkar), an vị trên đóa sen với tư thế thiền định,tay trái biểu dương bằng nhánh sen,tay phải với ấn Varada, Bồ Tát với 7 con mắt, ở giữa trán, hai lòng bàn tay, 2 lòng bàn chân, những con mắt này biểu hiện sự quán triệt,thấu thị cho mỗi tác động…
 Green Tara.

1/ Tara màu xanh lá cây (Dol-jang), đang ngồi với tư thế nghỉ ngơi (Latitasana) trên đóa sen,chân trái co lại,tay trái cầm một nhánh sen, tay phải với ấn Varada:Từ Bi Ðộ Lượng.



Green Tara là hình dáng ngồi an lạc, thiền định, và một chân thả xuống như là sẳn sàng bước đi để cứu độ khi Ngài nghe thấy ai kêu cứu là tượng trưng cho Du Uý Bồ Tát, Vô Úy Bồ Tát, hay Chúng Bảo Bồ Tát . Mọi sự việc cầu mong được giải thoát hay trong lúc nạn khổ, thì Ngài sẽ ứng hiện.  Nhất là trên đỉnh đầu của Ngài có hình Vô Lượng Thọ Phật.  Tara là những vị hóa thân của Đức Quan Thế Âm, gồm có 21 vị. Tara hầu như chỉ được đề cập tới trong Mật Tông mà thôi.     
Đức Quan Âm Lục độ mẫu (green Tara) , thân màu xanh như Hạt Mạt Bảo Thạch. Một đầu hai tay, tay phải kết ấn Thí Nguyện cầm Ưu Bát La Hoa, tay trái kết ấn Thí Vô Uý trước ngực cầm Ưu Bát La Hoa, cành hoa từ khuỷu tay vòng đến vai bên cạnh tai, hoa nở tràn đầy. Nửa phần tóc búi trên đỉnh, nửa phần còn lại phủ hai vai. Đầu đội mũ ngũ Phật quý giá. Tai, cổ, ngực, cánh tay, cổ tay, cổ chân đều có vòng hoa bảo xuyến trang sức các báu. Thân mặc thiên y, Hạ y màu sắc sặc sỡ. Chân phải đặt trên hoa sen, chân trái trong tư thế Bồ Tát ngồi an trụ trong ánh sáng. 
Thần chú cuả Ngài : OM TARA TUTAE TURE SWAHA 

2/ Đức Quan Âm Tara Hàng Tai Ương & Tăng Hòa Khí [The Tara Who Averts Disasters & Enhances Harmony]
Mantra: Om Banza Tare Sarva Biganen Shindham Kuru Soha.


 3/ Đức Quan Âm Tara Cứu Địa Tai  [ The Tara Who Averts Earth-Born Calamities ]

Mantra:  Om Tare Tuttare Ture Mama Sarva Lam Lam Bhaya Shindham Kuru Soha.



4 /Đức Quan Âm Tara Ban Thịnh Vượng & Cứu Nạn Đói  [ The Tara Who Bestows Prosperity & Protects against Famine,  "The Giver of Supreme Virtue" (So-Nam-Chog-Ter-Ma). "The Tara who Increases"]
Mantra:  Om Tare Tuttare Ture Dzambeh Moheh Dana Meti Shri Soha.


5 / Đức Quan Âm Tara Như Ý  [ The Tara The Wish-Fulfilling Tara ]
Mantra:  Om Tare Tuttare Ture Sarva Ata Siddhi Siddhi Kuru Soha



6/Đức Quan Âm Tara Trường Thọ & Cứu Thoát Cái Chết Không Đúng Thời
[ The Tara Who Bestows Longevity & Protects Against Untimely Death,  "The All Victorious" (Nam-Gyal-Ma), "Tara of The Life Force"]
Mantra:  Om Tare Tuttare Ture Braja Ayiu Shei Soha



7/ Đức Quan Âm Tara Cứu Nạn Nhiễm Độc 
[ The Tara Who Averts the Evil Effects of Poison,  "The Peahen" (Peacock) (Ma-Ja-Ma), "Tara Who Eliminates Poisons"]
Mantra:  Om Tare Tuttare Ture Sarva Diksha Dzala Yaha Raha Ra Peh Soha.


8/ Đức Quan Âm Tara Cứu Nạn Hỏa Tai
[ The Tara Who Averts Destruction Wrought by Fire ]
Mantra:  Om Tare Tuttare Ture Mama Sarva Ram Ram Dzala Bhaya Shindham Kuru Soha



9/Đức Quan Âm Tara Cứu Nạn Thủy Tai [The Tara Who Averts Destruction Wrought by Water]
Mantra:  Om Tare Tuttare Ture Mama Sarva Bham Bham Dzala Bhaya Shindham Kuru Soha



10/Đức Quan Âm Tara Cứu Nạn Thú Dữ [The Tara Who Averts Evil Caused by Wild Beasts]
Mantra:  Om Tare Tuttare Ture Sarva Heh Heh Dzaleh Dzaleh Benda Peh Soha


11/Đức Quan Âm Tara Cứu Nạn Voi Dữ & Cứu Nạn Cho Súc Vật [ The Tara Who Protects Against Wild Elephants & Averts Evil Affecting Cattle ]

Mantra:  Om Tare Tuttare Ture Mama Sarva Ham Ham Dushing Hana Hana Drasaya Peh Soha


12/ Đức Quan Âm Tara Cứu Nạn Quỉ Dữ Ăn Thịt
[ The Tara Who Averts Evil Caused by Demons & Protects Against Carnivores ]

Mantra:  Om Tare Tuttare Ture Sarva Dushing Bikanen Bham Peh Soha


13/Đức Quan Âm Tara Tăng Uy Lực [The Tara Who Increases Power "Kurukulla", Red Tara said to attract partners & help one influence others.]

Mantra:  Om Bema Tare Sendara Hri Sarva Loka Washum Kuru Soha



14/Đức Quan Âm Tara Tăng Trí Tuệ [The Tara Who Increases Wisdom
"The Giver of Intelligence" (Rig-Je-Ma), "Tara Resonating with HUM"]
Mantra:  Om Ratana Tare Sarva Loka Jana Piteya Dara Dara Diri Diri Sheng Sheng Dza Dzanjia Na Mu Sheng Kuru Soha


15/Đức Quan Âm Tara Cứu Tai Ương Địa Ngục & Hộ Trì Thoát Nạn Chánh Trị [ The Tara Who Averts Hell-born Calamities & Protects Against Politics,  "The Destroyer of Opposing Forces" (Da-Pung-Som-Ze-Ma), "Tara Blazing in Flames"]
Mantra:  Om Tare Tuttare Ture Mama Sarva Randza Dushen Droda Shindham Kuru Soha


16/Đức Quan Âm Tara Cứu Nạn Phong Tai  [The Tara Who Averts Destruction Caused by Wind
"The Tara Who Savior of The Scented Forest" (Jig-Ten-Sum-La-Gyal-Ma), "Tara Embodiment of The Three Jewels"]
Mantra:  Om Tare Tuttare Ture Mama Sarva Yam Yam Dzala Bhaya Shindham Kuru Soha




17/Đức Quan Âm Tara Cứu Nạn Trộm Cắp (Cứu Đạo Nạn) [The Tara Who Averts Evil Caused by Robbers]
Mantra:  Om Tare Tuttare Ture Mama Sarva Dzora Benda Benda Drktum Soha


18/Đức Quan Âm Tara Cứu Binh Nạn [The Tara Who Averts Destruction Caused by Armies
"The Invincible" (Shen-Gyi-Mi-Tub-Ma), "Tara Who Crushes the Forces of Others"]

Mantra:  Om Tare Tuttare Ture Mama Sarva Dik Dik Dikshena Raksha Raksha Kuru Soha.


19 /Đức Quan Âm Tara Cứu Thiên Tai & Tăng Sự Bất Hoại [The Tara Who Averts Heaven-born Calamities & Enhances Indestructibility]

Mantra:  Om Tare Tuttare Ture Mama Sarva Eh Eh Maha Hana Bhaya Shindham Kuru Soha.


20/ Đức Quan Âm Tara Phục Ma & Hộ Trì Thoát Nạn Chiến Tranh  [ The Tara Who Subdues Demons & Protects Against War,  "The Wrathful" (To-Nyer-Chen), "Tara of Wrathful Gaze"]

Mantra:  Om Garma Tare Sarwa Shatdrum Biganen Mara Sehna Ha Ha Heh Heh Ho Ho Hung Hung Binda Binda Peh


21/Đức Quan Âm Tara Cứu Tật Bệnh [The Tara Who Heals Sickness]
Mantra:  Om Tare Tuttare Ture Sarva Dzara Sarva Dhukka Brasha Manaya Peh Soha.


Thần chú ở dưới thì bất kỳ ai thành tâm đọc tụng hàng ngày sẽ vô cùng linh ứng với từng vị độ mẫu.
Để có tất cả tác dụng trên thì :
OM TARE TUTARE TURE SVAHA
Thần chú Tara xanh , tôn chính trong 21 tôn Tara 
Nguyện đem công đức này
Hướng về khắp tất cả
Đệ tử và chúng sanh
Đều trọn thành Phật Đạo...
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
dienbatn giới thiệu.
Xem chi tiết…

THỐNG KÊ TRUY CẬP

LỊCH ÂM DƯƠNG

NHẮN TIN NHANH

Tên

Email *

Thông báo *