ỨNG DỤNG KỲ MÔN ĐỘN GIÁP TRONG VIỆC XÂY CẤT MỘ PHẦN. BÀI 10.

9/07/2014 |
ỨNG DỤNG KỲ MÔN ĐỘN GIÁP TRONG VIỆC XÂY CẤT MỘ PHẦN. BÀI  10.

PHẦN 5. MỘT SỐ KIẾN THỨC CẦN CÓ SAU KHI ĐÃ LẬP ĐƯỢC BẢNG THẤU ĐỊA KỲ MÔN.

( Phần này dienbatn viết theo tư liệu từ cuốn : KỲ MÔN ĐỘN GIÁP BÍ KÍP TOÀN THƯ và cuốn KIM HÀM NGỌC KÍNH. )



4. TAM KỲ - LỤC NGHI.

TAM KỲ - LỤC NGHI
Giáp Tí: Mậu.                   Giáp Ngọ: Tân               Nhật kỳ: Ất
Giáp Tuất: Kỷ.                   Giáp Thìn: Nhâm           Nguyệt kỳ: Bính
Giáp Thân: Canh                 Giáp Dần: Quý               Tinh kỳ: Đinh
Giáp Kỷ năm nay tháng Bính Dần, Ất Canh năm ấy Mậu theo chân, Bính Tân mở  cửa Canh Dần ngự, ví hỏi Nhâm Đinh vẫn tháng Nhâm. Mậu Quý tháng giêng ai đó nhỉ ? Giáp Dần đầu tháng tính lần lần.

Bài ca kỳ môn ngày
Giáp Mậu, Nhâm Tý, khởi Khảm
Đinh, Tân, Ất Mão, Khôn hưu.
Canh, Giáp, Mậu Ngọ, Chấn cầu,
Quý Đinh, Tân Dậu, Tốn mau.
Canh, Bính Tý, nhìn Kiền phương,
Kỷ Quý Mão, chạy Đoài lâu.
Nhâm, Bính Ngọ, Cấn đầu núi,
Ất, Kỷ Dậu, Ly chín chầu.
Phép này mỗi quái quản ba ngày. Như 3 ngày Giáp Tý, Ất Sửu, Bính Dần từ cung Khảm khởi Hưu môn.
Đinh Mão, Mậu Thìn, Kỷ Tị, 3 ngày từ cung Khôn khởi Hưu môn. Y thứ tự 3 cung, 3 ngày một đổi cục.
Trung 5 không dung. Đợi Hưu môn định xong thì theo 8 quái mà định phương vị.

1/ ẤT KỲ. ( Nhật kỳ ).


Thần chú kỳ Ất

 " Thiên đế uy thần, Tru duyệt quỷ tặc, Lục ất tương phù. Thiêndddaoj tán đức. Ngô lệnh sở hành. Vô công bất khắc. Cấp cấp như Huyền nữ luật lệnh "
      ( Thần uy Thiên đế, giết sạch quỷ tặc,
Sáu ất cùng phù, Đạo trời giúp sức.
Lệnh ta phải theo. Không công chớ chống,
Cấp cấp như Huyền Nữ luật lệnh.)

2/ BÍNH KỲ ( Nguyệt kỳ ).


Thần chú kỳ Bính
" Ngô đức Thiên trợ - Tiền hậu giá la – Thanh long bạch hổ - Tả hữu khu ma. Chu tước tiền đạo – Sử ngô hội tha – Thiên uy trợ ngã – Lúc Bính trừ kha. Cấp  cấp như Huyền Nữ luật lệnh "
( Đức ta Trời trợ, trước sau đón xét,
Rồng xanh Hổ trắng, Tả Hữu đuổi ma.
Chu tước đi trước. Hội với người ta,
Uy trời trợ ta, Sáu Bính trừ bệnh
Cấp cấp như Huyền Nữ luật lệnh.)

3/ ĐINH KỲ ( Tinh kỳ ).


Thần chú Kỳ Đinh

Khi có việc ra đi, đem tên Ngọc Nữ bản tuần, như Tuần Giáp Tý, âm ở Đinh Mão, mà chú rằng:
            "Đinh Mão Ngọc Nữ, Hộ ngã hựu ngã, vô linh thương ngã, thị ngã giả cổ, thính ngã giả phản thụ kỳ ương "
( Đinh Mão ngọc Nữ, giúp ta, đỡ ta, đừng để làm thương ta. Nhìn ta thì mù, nghe lắng ta thì chịu tai ương ).
Chú xong, thì đi, đừng ngoảnh lại, Thần ấy theo đỡ, theo được phúc lớn.
Như trong Tuần Giáp Tuất thì hô Thần Đinh Sửu, chu như trên. Ngoài ra phỏng thế.

Chú ca Ba Kỳ Môn cát
Kinh nói: 
Ra cửa Sáu Ất, bước Vũ, ba chú rằng: "Bạch hổ ! Bạch hổ! Trừ đạo lộ. Dương tiến tôn lộ. Vật ngộ hữu đức chí sĩ, lai tương trợ. Xuất u nhập minh giao tương trợ. Cấp Cấp như Cửu thiên huyền nữ nguyên quân luật lệnh "
“Hổ trắng! Hổ trắng! lối ta đi, trước nên tôn trọng.
Chớ lầm nhận kẻ sĩ có đức, lại cùng trợ.
Ra mờ vào tối cùng giao trợ. Kíp Kíp như Cửu thiên huyền nữ nguyên quân luật lệnh”.
Ra cửa Sáu bính, Bước vũ, 3 chú rằng:
 "Tiên hữu Thiên cương dương uy võ. Dương tong Thanh long dữ bạch hổ hành. Tru Thiên tặc cập thiên ma. Cảm hữu bất tòng phục, thiên phú. Cấp cấp như Cửu Thiên huyền nữ Nguyên quân luật lệnh "
“Trước có Thiên cương dương oai võ,
Phải đi theo Thanh long và Bạch hổ.
Giết sạch giặc trời và ma trời,
Dám không phục tòng, búa trời bổ.
Kíp kíp như Cửu Thiên huyền nữ nguyên quân luật lệnh.
Ra cửa Sáu Bính, bước Vũ, 3 chú rằng:
 " Ngọc nữ ! ngọc nữ! danh thần mẫu hô nhi vân chi. Đạo ngộ sở thường tong đẩu thược, nhập đẩu lý. Thanh lánh chi uyên đa thần. Chiết thảo dĩ tự chướng, vật kinh ngộ. Cấp cấp như cửu thiên huyền nữ nguyên quân luật lệnh "
“Nàng Ngọc ! nàng ngọc!
Tên thần mẹ hô lên mà hỏi,
Đạo ta vẫn thường từ chuôi Đẩu vào bọng Đẩu.
Vực trong lạnh thẳm có nhiều thần.
Bế cỏ để tự che, chớ kinh ngộ.
Kíp kíp như Cửu thiên huyền nữ Nguyên quân luật lệnh.
Kinh nói:
Ra ba kỳ môn cát, hoặc có việc gấp không kịp chú, cũng có thể cứ đi, nhưng cần chí tâm tin theo tất nghiệm. Cần là chớ có ngoảnh lại.
Khi niệm chú, nên bước vũ, tay hữu vạch 4 dọc 5 ngang mà đọc:
 " Tứ tung ngũ hoành. Lục Giáp Lục Đinh. Huyền Vũ tải đạo. Suy vưu tị binh. Tả huyền nam đẩu. hữu bội thất tinh. Yêu ma duyệt tích. Quỷ tý tiềm hình. Can bất cảm phạm. Chi bất cảm xâm. Thái thượng hữu sắc. Ngô lệnh chỉ hành. Nhập thủy bất nịch. Nhập hỏa bất phân. Nghịch ngô giả tử. Thuận ngô giả sinh. Đương ngô giả quyệt. Thị ngô giả manh. Cấp cấp như Thái Thượng đạo tổ Thiết sư Thượng Đế luật lệnh "
“Bốn dọc năm ngang, Sáu Giáp Sáu Đinh,
Huyền vũ chở đạo. Suy vưu lánh binh.
Tả khoái Nam Đẩu, Hữu theo 7 tinh,
Tà ma mất tích, quỷ quái lặn hình.
Can không dám phạm. Chi chẳng dám xâm.
Thái thượng có sắc. Lệnh ta chỉ làm.
Vào nước không đắm, vào lửa không bùng,
Nghịch ta thì chết. Thuận ta thì sống.
Đương ta thì diệt. Ngó ta mắt mù.
Kíp kíp như Thái thượng đạo tổ Thiết sư thượng đế luật lệnh”
Niệm xong thì niệm các thần chú trước, hoặc Ất, Hoặc Bính, hoặc Đinh, Ba Kỳ, tùy niệm tùy hành, cẩn thận chớ có quay đầu lại.
Ngày đơn thì 5 ngang Đông tây. 4 dọc Nam Bắc.
Ngày kép thì 5 ngang Nam Bắc, 4 dọc Đông Tây.
Chú rằng:
 " Vũ vương giảm đạo. Ngô kim xuất hành. Tứ tung Ngũ hành. Suy Vưu bị binh. Chàng ngô giả tử. Tị ngô giả sinh. Ngô du thiên hạ, hoàn quy cố hương. Kinh thỉnh nam đẩu lục lang, bắc đẩu thất tinh. Ngô phụng Thái thượng lão quân. Cấp cấp chủ luật lệnh "
“Vua vũ rút đường. Ta nay ra đi,
Bốn dọc năm ngang. Suy vưu đủ binh.
Chạm ta thì tử. Lánh ta thì sinh,
Ta đi dưới Trời. Trở về cố hương.
Kinh mời Nam Đẩu sáu chàng, Bắc đẩu bảy tinh.
Ta vâng Thái thượng lão quân. Kíp kíp như luật lệnh”
Tay trái bấm chữ bản nhật (thần chi của ngày này), dở tay phải, vân ngón tay vạch ngang.
Hai chú trên, đại đồng tiểu dị, tùy ý mà dùng. 

4/ TÍNH CHẤT.

1/Tìm giờ can giờ Tý
Giáp Kỷ hôm nay giờ Giáp Tí
Ất Canh tìm Bính đầu giờ chỉ.
Bính Tân tầm Mậu Tí.
Đinh Nhâm Canh tý cư.
Mậu Quý khởi từ Nhâm
2/ Nạp Giáp, Mộ
- Kiền nạp Giáp, Nhâm. Khôn nạp Ất, Quý. Khảm nạp Mậu, Ly nạp Kỷ. Chấn nạp Canh, Tốn nạp Tân. Cấn nạp Bính, Đoài nạp Đinh.
- Giáp Thân mộ ở Kiền; Mậu mộ ở Khảm.
3/ Tuần không
Giáp Tý tuần này Tuất Hợi không. Gặp tuần Giáp Tuất Thân, Dậu thêm trông.
Giáp Thân: Ngọ, Mùi không hai chốn. Giáp Ngọ tìm không: Thìn Tỵ dòng.
Ví hỏi Giáp Thìn: Dần Mão trống. Giáp Dần: Tý, Sửu khoảng không mong.
4/ Phương Hỷ thần
Giáp Kỷ tìm Cấn; Ất Canh: Kiền. Bính Tân: Khôn hỏi hẳn bằng yên.
Đinh Nhâm Ly tiếng cười ha hả. Mậu Quý Khảm say sưa rượu tốn mèn.
5/ Lộc ngày
Giáp: Lộc ở Dần. Ất Lộc ở Mão. Bính Mậu Lộc ở Tỵ. Đinh Kỷ Lộc ở Ngọ
Canh: Lộc ở Thân. Tân Lộc ở Dậu. Nhâm Lộc ở Hợi. Quý Lộc ở Tý.
6/ Hợp hóa
Giáp -  Kỷ hóa Thổ; Ất - Canh hóa Kim; Bính - Tân hóa Thủy; Đinh - Nhâm hóa Mộc.
Mậu - Qu‎‎‎ý hóa Hỏa; Tý - Sửu hóa Thổ; Dần - Hợi hóa Mộc; Mão - Tuất hóa Kim;
Thìn - Dậu hóa Hỏa; Tỵ - Thân hóa Thủy; Ngọ - Mùi có hợp không hóa. 
7/ Phương Quý nhân
Ngày Mậu Canh : Sửu dương QUÝ Mùi âm QUÝ
- Ất :                   Thân       -          TÝ     -          
- Bính :                D ậu -                  Hợi    -
- Đinh :                Hợi -                   Dậu -
- Nhâm :              Mão -                 Tỵ      - 
- QUÝ:               Tỵ       -              Mão   -
- Tân :                 Dần -                   Ngọ -
- Giáp :              Mùi -                    Sửu -
8/Tam Kỳ đắc Sử : là Ất gặp Tuất Ngọ, Bính gặp Tý Thân, Đinh gặp Dần Thìn. 
Còn có:
Ngày Giáp Kỷ gặp Ất. Ngày Ất Canh gặp Đinh.
Ngày Bính Tân Gặp Bính. Ngày Đinh Nhâm gặp Ất.
Ngày Mậu Quý gặp Đinh.
9/ Tam Kỳ du Lục Nghi là cách Ngọc Nữ thủ môn ( Người Ngọc tựa cửa) và là:
Giáp Kỷ gặp Bính. Ất Canh gặp Tân.   Bính Tân gặp Ất
Đinh Nhâm gặp Kỷ. Mậu Quý gặp Nhâm
10/ Quyết 10 can khắc ứng.
1. Sáu Giáp với Sáu Mậu là một (Can giáp ẩn ở 6 mậu).
- Mậu thiên bàn trên Mậu địa bàn gọi là Phục ngâm. Mọi việc đều bế tắc. Giữ tĩnh thì cát.
- Mậu trên Ất gọi là Thanh Long hợp linh ( Rồng xanh hợp thiêng). Được Môn cát thì việc cát, Môn hung thì việc hung.
- Trên Bính gọi là Thanh Long Phản thủ (Rồng xanh ngoái cổ). Mọi việc làm đều rất lợi. Môn gặp Bách, Mộ, Kích, Hình: việc cát thành hung.
- Trên Đinh là Thanh Long diệu minh (Rồng xanh lóe sang, các việc vào cửa Quí, cầu danh đều cát lợi. Nếu gặp Mộ, Bách thì mang tiếng không hay (thị phi).
- Trên Kỷ là Quí nhân nhập ngục (người sang sa ngục) các việc công tư đều không lợi.
- Trên Canh là Trực Phù phi cung (Cung trực Phù bay thì việc cát không được cát, việc hung càng thêm hung.
- Trên Tân là Thanh Long triết túc (Rồng xanh gẫy cẳng). Được Môn cát thì còn có thể mưu làm. Nếu phải Môn hung thì chiêu tai họa, mất tiền tài, mắc tật ở chân.
- Trên Nhâm là Thanh Long nhập Thiên lao (Rồng xanh vào Lao Trời) phàm âm dương đều không cát lợi.
- Trên Quí là Thanh Long Hoa Cái cát cách (Cách cát Rồng xanh che lọng hoa). Được cách cát thì tốt, được phúc, gặp môn hung thì gặp nhiều sai suyễn.
2. Sáu Ất trên Sáu Mậu là lợi âm hại dương. Môn gặp hung bách thì cửa phá người thương. 
- Trên Ất là Nhật kỳ phục ngâm, không nên vào người quý, cầu danh, chỉ nên yên phận giữ thường.
- Trên Bính là Kỳ Nghi thuận toại, gặp cát tinh thì thăng quan tiến chức, gặp hung tinh thì vợ chồng ly biệt.
- Trên Đinh là Kỳ Nghi tương tả (giúp đỡ nhau), việc văn thư thì cát. Trăm việc đều làm được.
- Trên Kỷ là Nhật kỳ nhập vụ bị Thổ ám muội (Kỳ Nhật vào sương mù, bị đất làm tối tăm). Gặp Môn hung tất là hung. (được Môn 2 cát là Địa độn).
- Trên Canh là Nhật kỳ bị hình (Kỳ Nhật bị đâm), có kiện cáo nhau tài sản, vợ chồng ý riêng nghi.
- Trên Tân là Thanh Long đào tẩu (Rồng xanh trốn chạy), đầy tớ lừa chủ, sáu giống nuôi bị đau ốm. 
- Trên Nhâm là Nhật kỳ nhập địa ( Kỳ Nhật lặn đất), thứ bậc trái loạn, kiện cáo, việc qua, tai tiếng.
- Trên Quý là Hoa cái Bồng tinh cung ( Lọng hoa che cung sao Bồng), giấu tích, tu đạo, ẩn lánh, tàng hình, lánh tai, xa nạn thì tốt.
3. Sáu Bính trên Sáu Mậu gọi là Phi điểu điệt huyệt (chim bay về tổ, mưu làm mọi việc đều chu tất tốt lành.
- Trên Ất là Nhật Nguyệt tinh hành (Nhật Nguyệt sóng nhau đi) việc công việc tư đều cát.
- Trên Bính là Nguyệt kỳ bột soái ( Kỳ nguyệt xoè chổi) thì văn thư bức bách, phá hao, mất mát.
- Trên Đinh là tân Kỳ Chu tước (Kỳ tân sẻ son), người quý thì văn thư cát lợi, người thường thì bình tĩnh (được ba môn cát là Thiên độn…?).
- Trên Kỷ là Thái Bột nhập hình ( Sao chổi bị hình), tu thì bị hình trượng, văn thư không xuôi. Được Môn cát thì cát, Môn hung thì chuyển hung.
- Trên Canh là Huỳnh nhập Thái Bạch (Huỳnh hoặc vào Thái bạch), cửa nhà phá nát, trộm cắp hao tổn.
- Trên Tân là mưu sự tựu thành (cầu việc được thành, người bệnh không hung).
- Trên Nhâm là Hoả nhập Thiên La ( Lửa vào vó trời), là khách không lợi, tai tiếng cũng khá nhiều.
- Trên Quý là Hoa cái bột soái ( Lọng hoa xoè chổi), người âm thì hại, tai hoạ sinh dần.
4. Sáu Đinh trên Sáu Mậu là Thanh Long chuyển quang ( Rồng xanh chuyển sáng), người làm quan thì lên chức, người thường thì may mắn.
- Trên Ất là Nhân độn cách cát. Người quý thì lên quan thêm tước, người thường thì có mừng về hôn nhân, tiền tài.
- Trên Bính là Tinh tùy Nguyệt chuyển ( Sao theo trăng chuyển), người quý thì vượt cấp thăng cao, người thường thì trong vui sinh buồn.
- Trên Đinh là Kỳ nhập Thái Âm ( kỳ vào Thái Âm) thì có văn thư đến, việc mừng vừa lòng.
- Trên Kỷ là Hoả nhập Câu trận (Lửa vào móc câu) thì vì nữ nhân mà sinh gian tư thù oán.
- Trên Canh là cách Niên Nguyệt Nhật thời, thì văn thư trở cách, người đi xa tất về.
- Trên Tân là Chu Tước nhập ngục (Sẻ son vào tù) thì người tội được tha tù, người làm quan mất ngôi.
- Trên Nhâm là Ngũ thần hổ hợp (Năm thần hợp nhau) thì người quý được ơn trời, kiện tụng tù ngục được công bình.
- Trên Quý là Chu Tước đầu giang (Sẻ son lao sóng) thì văn thư khẩu thiệt đều tiêu, tin tức tắt ngủm.
5. Sáu Kỷ trên Sáu Mậu gọi là  Khuyển ngộ Thanh long (Chó gặp Rồng xanh) được Môn cát thì mưu vọng vừa lòng, người trên thấy thì vui mừng. Môn hung thì uổng tâm cơ khó nhọc.
- Trên Ất là Mộ thần bất minh. Địa hộ Bồng tinh (Thần mộ không minh, Ngõ đất sao Bồng) nên giấu tích ẩn hình thì lợi lắm.
- Trên Bính gọi là Hoả Bột địa hộ ( Lửa sao chổi soi Ngõ đất) người dương oán oán hại nhau, người âm dâm ô.
- Trên Đinh gọi là Chu tước nhập mộ (Sẻ son vào mộ) tờ văn tờ trạng, giấy tờ kiện cáo, trước cong queo sau thẳng.
- Trên Kỷ gọi là Địa hộ phùng quỷ (Ngõ đất gặp quỷ) xem bệnh chết, trăm sự đều không vừa ý.
- Trên Canh là cách Lợi cách phản danh (cách lợi lật lai danh), kiện cáo mà động trước thì không lợi, gặp sao âm thì có tính mưu hại.
- Trên Tân gọi là Du hồn nhập pháp (hồn chơi vào mộ), người lớn thì quỷ mị ám, người nhỏ thì hồn gia tiên quấy nhiễu.
- Trên Nhâm là Địa cương cao trương (Lưới đất trương cao) thì trẻ láu cá, gái dâm dật, người gái gian tình giết thương.
- Trên Quý là Địa hình Huyền vũ (Đất đầu Rùa xám) thì Nam Nữ tật bệnh sắp nguy, kiện cáo có tai họa tù ngục.
6. Sáu Canh trên Sáu Mậu gọi là Thái Bạch Thiên Ất Phục cung (Thái Bạch Thiên Ất nép trong cung) hung lắm, trăm sự đều không thể mưu làm.
- Trên Ất gọi là Thái bạch Bồng tinh (Thái bạch sao Bồng) lui thì cát, tiến thì hung.
- Trên Bính gọi là Thái bạch nhập huỳnh (Thái Bạch vào Huỳnh hoặc) xem giặc thì tất đến. Là khách thì có lợi, là chủ thì phá tiền tài. 
- Trên Đinh là cách Đình Đình (đứng sừng sững) vì quen thân mà sinh việc quan tư. Được Môn cát thì có cứu.
- Trên Kỷ gọi là cách hình (Đâm) việc quan bị trọng hình.
- Trên Canh gọi Thái Bạch đồng cung( Thái Bạch cùng cung) họa quan nha ngáng trở, anh em hầm hè nhau.
- Trên Tân gọi là Bạch Hổ can cách (cách can Bạch Hổ), đi xa thì xe gẫy, ngựa chết.
- Trên Nhâm là Viễn hành thất mê đạo lộ (đi xa mất đường mê muội), trai gái tin tức sai lạc.
- Trên Quý là cách Đại (Lớn), người đi xa về đến, việc quan tư chỉ, sinh sản mẹ con đều hung.
7. Sáu Tân trên Sáu Mậu gọi là Khôn long bị thương (Rồng khôn bị thương) mắc việc quan tư phá tán, cúi ngửa giữ phận, vọng động thì mắc tai họa.
- Trên Ất là Bạch Hổ xương cuồng (Hổ trắng gào rống), người chết, nhà bại, đi xa gặp tai nạn. Người tôn trưởng không ưa, xe thuyền đều thương.
- Trên Bính gọi Can hợp bột soái. Huỳnh hoặc xuất hiện (Can hợp sao chổi, sao huỳnh hoặc hiện mọc), xem mưa thì không mưa, xem tạnh thì nắng hạn, xem việc thì vì tiền tài mà kiện nhau.
- Trên Đinh gọi Ngục thân đắc kỳ (Thân ngục được lạ). Kinh thương thì được bội, người tù thì được tha.
- Trên Kỷ gọi Nhập ngục tự hình (vào tù tự đâm) đầy tớ bội chủ. Kiện tố không giải bày được.
- Trên Canh gọi bạch Hổ xuất lực (Hổ trắng ra sức), dao nhọn tiến nhau, chủ khách can hại nhau. Nhịn nhường lui gót thì còn có che cưỡng, tiến thì máu đào ướt áo.
- Trên Tân là Phục ngâm, tại sân trời, công thì bỏ, tư thì làm, kiện tụng tù ngục, tự chuốc thêm tội.
- Trên Nhâm gọi Hung xà nhập ngục (Rắn dữ vào tù), hai trai tranh một gái, kiện tụng không dứt, động trước thì mất lý.
- Trên Quý gọi Thiên Lao Hoa cái (Lao trời Long hoa), trời trăng mất sáng, lâm vào lưới, động chủ sai suyển.
8. Sáu Nhâm trên Sáu Mậu gọi là Tiểu xà hoá Long (Rắn nhỏ hoá Rồng), trai thì phát đạt, gái sinh con sáng.
- Trên Ất gọi là cách danh tiểu xà (đổi tên rắn nhỏ) gái thì hiền ngoan, trai thì than thở. Xem thai; sinh trai, ngưu lộc rực rỡ (Lộc mã quang hoa).
- Trên Bính gọi thuỷ xà nhập hoả (Rắn nước vào lửa), việc quan, tai nạn liên miên không dứt.
- Trên Đinh gọi Can hợp xà hình (Can hợp rắn đâm) văn thư dây dưa không dứt, người quý thì        . Nam tốt nữ xấu.
- Trên Kỷ gọi Hung xà nhập ngục (Rắn dữ vào tù) họa lớn đang đến, liệu chiều thì lành, kiện cáo đuối lý.
- Trên Canh gọi Thái Bạch cầm xà (Thái Bạch bắt rắn), hình ngục công bình, phanh phui tà chính.
- Trên Tân là Đằng xà tương chiến (Rắn bay quần nhau), ví được môn cát cũng không yên; nếu có mong muốn, bị người lừa dối.
- Trên Nhâm gọi xà nhập địa la (Rắn vào vó đất), người ngoài lôi cuốn, việc trong lẩn quẩn. Được Môn cát, sao cát thì đỡ sai suyễn.
- Trên Quý gọi là Ấu nữ gian dâm ( gái nhỏ dâm bậy), nhà có tiếng xấu. Môn cát sao hung (lật họa thành phúc).
9. Sáu Quý trên Sáu Mậu gọi là Thiên Ất hội hợp cát cách, có mừng về tiền của, hôn nhân tốt lành có người giúp đỡ thành hợp.Ví phải Môn hung, bách chế thì trái lại có họa, có quan phi.
- Trên Ất gọi là Hoa cái Bồng tinh (Lọng hoa sao Bồng), người quý ở ngôi Lộc, người thường thì bình yên.
- Trên Bính gọi là Hoa cái Bột soái (Lọng hoa xoè chổi), kẻ quý người tiện gặp nhau, người trên thấy thì mừng.
- Trên Đinh gọi Đằng xà yêu kiều (Rắn bay uốn éo) văn thư quan tư lửa đốt không lối chạy.
- Trên Kỷ gọi là Hoa cái Địa hộ (Lọng hoa ngõ đất), nam nữ mà xem tin tức đều trở ngại. Trốn tai lánh họa thì hay.
- Trên Canh gọi là Thái Bạch nhập võng (Thái Bạch vào lưới), lấy sức tranh kiện tụng hoà.
- Trên Tân gọi cương cái Thiên Lao (Lưới lọng Lao trời), xem kiện tội khôn tránh, xem bệnh chết.
- Trên Nhâm gọi Phục kiến Đằng xà (Lại thấy rắn bay) xem giá thú thì trùng hôn, gả chồng sau thì không con, không giữ được tuổi sống.
- Trên Quý gọi Thiên cương tứ trương (Vó trời bốn bức), người đi mất lối, bệnh kiện đều thương.

11/ Xuất hành, hô tên thần 10 can trong 12 giờ
Giáp là Thần Thiên Phúc - Vương Văn Khanh.
Ất là thần Thiên Đức - Long Văn Khanh.
Bính là thần Thiên Uy - Đỗ Đường Trọng Khanh.
Đinh là thần Thiên Ngọc - Nữ Lý Du Điền.
Mậu là thần Thiên Vũ - Tư Mã Dương.
Kỷ là thần Minh Đường – Kỷ Du Khanh.
Canh là thần Thiên Hình – Châu Du Dương, Quách Dương Chi.
Tân là thần Thiên Đình – Cao Tử Cường.
Nhâm là thần Thiên Lao – Vương Lộc Khanh.
Quý là thần Thiên Ngục – Viên Cường, Viên Tử Quang.

12/ ĐỘN.

Thiên độn
Kỳ Bính, cửa Sinh, dưới hợp sáu Đinh, không phạm Kỳ gặp Mộ Hình là được Tinh Nguyệt che trở, trong ứng vào Tâm, ngoài chủ vào Thân. Khí ấy thăng lên trên đẩu, chất ấy chú vào Tâm, tên gọi Nguyên châu. Có thể nghe mà làm việc. Lên trời, lúc có việc, gọi thần Ngọc nữ tên là Đinh Mão thì Thần Mão ấy phù hộ.
Chú rằng: “Hỡi thần Đinh Mão Ngọc nữ, giúp ta, đỡ ta, không để cho Quỷ thương ta. Ngó ta thì mù, ác với ta phải chịu tai ương”.
(Đinh Mão Ngọc nữ, hộ ngã hựu ngã, vô linh hữu quỷ thương ngã. Thị ngã giả cổ, ác ngã giả phản thụ kỳ ương).
Chú xong đi thẳng, chớ có ngoái cổ lại.
Phương này có thể sánh với quyền vị bậc vương hầu, lợi cho triều đình. Quân vương tạ trời. Lễ cầu phúc và lợi cho chính chiến, khiến địch tự phục. Dâng thư hiến kế sách, cầu quan, tiến chức. Tu thân, ẩn tích, phạt ác trừ hung. Mua bán xuất hành, trăm việc đều cát. Hôn nhân, đến ở, đi lại phương này đại cát.

Địa độn
Kỳ Ất, cửa Khai, dưới là sáu Kỷ, được tinh Nhật che chở. Khí ấy vàng. Trong ứng với Tỳ. Ngoài ứng vào hình. Gặp việc gọi lên ứng dụng. Còn tên là Hoàng bà Kim công. Có thể làm được là ở các tiên Nam cung. Khi có việc thì hô Ngọc nữ bản cục, y phép trên mà chú, liền được giúp đỡ. Ra nơi Tử đình, che Kỷ làm Địa hộ. Được tinh Nhật che. Phương ấy có thể giấu binh, nép tướng, đóng trại yên doanh. Dựng phủ làm lâm, đắp vây xây tường, yên mộ khai mỏ, tu tạo cầu tiên. Trốn lẩn, biệt kích, xuất trận công thành, toàn quân thắng lớn. Trăm việc đều cát.

Nhân độn
Kỳ Đinh hợp cửa Hưu, dưới là vị Thái âm, là được tinh sao che trở. Khí này xanh đen. Trong ứng với Thận, ngoài ứng với tai mắt, tên gọi Hoàn Dương Đan. Làm ra thì lưu đời dài năm. Có việc ra ngoài, hô thần Ngọc nữ của bản tuần, như phép trên mà chú.
Phương ấy có thể cầu người hiền, chọn tướng mãnh, thuyết địch, hòa cừu, ba năm đều cát. Lại nên mưu kết, hôn nhân thêm người, hòa hợp giao dịch, lợi chợ gấp mười. Nếu phục binh, hiến kế sách, dâng thư, đều đại cát.

Thần độn
Kỳ Bính, cửa Sinh, dưới là vị của Cửu thiên, là được thần linh che trở.
Phương ấy nên tế thần minh, dùng thuật thánh, vạch đất đặt trù, bước giẫm cương, tạo đàn tràng, chạm khắc quỷ thần, thu quỷ mỵ, tự có uy phục. Lại lợi công hư, giấu của, âm mưu, kế mật, rất là huyền diệu. Mở đường lấp sông, tu sửa thần tượng, bồi đắp nét thần để đợi thần ứng.

Quỷ độn
Kỳ Đinh, cửa Hưu, dưới là vị của Cửu địa, là được Quỷ thần che chở.
Phương ấy có thể thám thính cơ mưu, cướp doanh trại, đặt phục công hư, nhòm mật động tĩnh, trá ngụy văn thư, đẩy cô quả, để đợi quỷ ứng.

Phong độn
Kỳ Bính, cửa Khai, dưới là cung Tốn, không phạm Mộ Bách là được linh kỳ, thuận buồm xuôi gió tiện lợi.
Lại nghi Tâm hợp cửa Sinh, cửa Hưu, dưới là sáu Ất. Phương ấy có thể lặng lẽ hớp khí gió mây, phun lên cờ phướn nhiều lần hoặc gọi Thác dị độn, khiến quân sĩ lặng lẽ nghe âm.
Lại kỳ bính, cửa Khai, trên cung Khôn, nên cầu đảo Phong bá vũ sư, cùng với lũy dịch dụng cờ phướn, để đợi gió ứng.

Vân độn
Kỳ Ất, cửa Khai, ở trên cung Khôn, không phạm Mộ Bách, là được Mây che chở.
Lại Kỳ Ất, cửa Khai, dưới là sáu Tân. Phương ấy có thể lặng lẽ hớp gió mây phun lên giáp mạo, mây xanh nhiều lần, hoặc gọi tên Thác tạ điêu. Khiến quân sĩ ngửa mặt nhìn xem. Lại nên cầu mưa hòa để lợi việc cấy cầy. Dựng doanh trại, làm quân khí để đợi gió mây ứng.

Long độn
Kỳ Ất, cửa Hưu, dưới là sáu Quý, hoặc cung Khảm là được Rồng che chở.
Phương ấy có thể tế Long thần, cầu mưa thuận, thủy chiến, diễn kế địch. Lường mặt sông, giữ việc qua sông, đánh thủy chiến, mật vận cơ mưu, rời thuyền chuyển hướng, thả thuyền, khơi sông, đóng bồn nước, tà đảo quỷ thần, đắp đê, ngăn sông, làm cầu, đào giếng để đợi phong ứng.
Sách Vũ bị chí lại viết là: cửa Hưu với Kỳ Ất tới cung sáu Giáp ở cung Khảm là Long.

 Hổ độn
Kỳ Ất, cửa Sinh, trên sáu Tân là được thần Hổ che chở. Còn nói sáu Tân hợp cửa Sinh trên cung Cấn.
Phương này có thể chiêu an đảng nghịch, đặt phục, gọi chiêu, dò nơi yếu hại, tựa nơi hiểm ngăn giữ. Dựng sơn trại, đặt quan ải, phòng hiểm, làm, đào để đợi phong ứng.

13/ Ba kỳ đến cung đoán
- Sáu Ất đến Kiền gọi là Ngọc thỏ nhập Thiên môn (thỏ ngọc vào cửa trời), cát. Thiên Xung, thiên Phụ trên cung 6, vào ngày cuối hạ hay tháng Thu, hoặc ngày Canh Tân Thân Dậu, có khí mây trắng lại trợ thì Chủ thắng. Một tên gọi Ngọc thỏ nhập lâm (Thỏ ngọc vào rừng).
-Sáu Bính tới Kiền gọi là Thiên thành thiên quyền (tự nhiên thành quyền trời), hung. Có khí mây trắng từ Tây Bắc hoặc Chính Tây đến trợ, chủ thắng. Thiên Anh trên cung 6, vào tháng hạ, có khí mây sắc đỏ đến trợ thì khách thắng. Một tên là Quang minh bất toàn (sáng sửa không vẹn).
-Sáu Đinh tới Kiền, gọi là Hỏa đáo Thiên môn (lửa tới cửa trời), cát. Ngày Bính Đinh Tị Ngọ có khí mây đỏ từ chính Nam lại trợ thì khách thắng. Một tên là ngọc nữ du thiên môn (nàng ngọc chơi ở cửa trời). Còn tên là Hỏa chiếu Thiên môn (Lửa chiếu cửa trời).
-Sáu Ất tới Khảm gọi là Ngọc thỏ đầu tuyền (Thỏ ngọc xuống suối), cát. Thiên Anh trên cung 1vào tháng Thu Đông hoặc ngày Nhâm Quý Hợi Tý, có khí mây đen từ phương Bắc lại trợ thì chủ thắng. Một tên là Ngọc thỏ âm tuyền (ngọc thỏ uống suối).
-Sáu Bính trên Khảm gọi là Bính hỏa thiêu Nhâm (lửa bính đốt nhâm) cát. Thiên Nhậm, Thiên Cầm, Thiên nhuế trên cung 1, vào 4 tháng Quý hoặc ngày Thìn Tuất Sửu Mùi. Một tên là Hỏa đầu Thủy trì (lửa ném ao nước).
-Sáu Đinh trên Khảm gọi là Chu tước đầu giang (sẻ non lao sông), trung cát. Có khí mây sắc vàng từ Đông Bắc hoặc Tây Nam đến trợ thì khách thắng.
-Sáu Ất tới Cấn gọi là Ngọc thỏ bộ trách(Thỏ ngọc bước phải), cát. Thiên Bồng tới cung 8, vào 4 tháng Quý, hoặc ngày Mậu Kỷ Thìn Tuất Sửu Mùi có khí mây vàng đến trợ thì Chủ thắng.
-Sáu Bính tới Cấn gọi là Phượng nhập đan sơn (phượng vào núi son), cát. Có khí mây vàng từ Đông Bắc hoặc Tây Nam lại trợ, Chủ thắng. Thiên Xung Thiên Phụ tới cung 8, vào tháng Đông Xuân….
-Sáu Đinh tới Cấn gọi là Ngọc nữ thừa vân (nàng ngọc cưỡi mây), cát. Ngày Giáp Ất Dần Mão, có khí mây xanh từ chính Đông hoặc Đông Nam lại trợ thì Khách thắng. Một tên gọi là Ngọc nữ du Quỷ môn (nàng ngọc chơi cửa Quỷ).
-Sáu Ất tới Chấn gọi là Nhật xuất phù tang (nhật mọc trong đám cây thần), cát. Thiên Nhậm, Thiên Cầm, Thiên nhuế trên cung 3, vào tháng Đông Hạ hoặc ngày Giáp Ất Dần Mão có mây xanh lại trợ thì Chủ thắng. Tức Quý nhân thăng Ất Mão chính điện.
-Sáu Bính tới Chấn gọi là Nguyệt nhập lôi môn (Nguyệt vào cửa sấm), cát. Có khí mây xanh từ Chính Đông hay Đông nam lại trợ, chủ thắng. Thiên Phụ, Thiên Nhậm trên cung 3, vào tháng cuối thu, Thiên trụ dễ bị mê hoặc.
-Sáu Đinh tới Chấn gọi là Tối Minh (rất sáng), cát. Ngày Canh Tân Thân Dậu có khí mây trắng từ chính tây hoặc tây bắc lại trợ thì Khách thắng.
-Sáu Ất tới Tốn gọi là Ngọc thỏ thừa phong (Thỏ ngọc cưỡi gió), cát. Thiê Nhậm Thiên Cầm Thiên Nhuế trên cung 4, vào tháng Đông, Xuân hoặc ngày Giáp Ất Dần Mão, có khí mây sắc xanh lại trợ thì Chủ thắng.
-Sáu Bính tới Tốn gọi là Hỏa hành phong khởi (lửa cháy gió thổi), lại là Long thần trợ uy (Thần rồng trợ uy), cát. Thần phương Đông nam vượng thì Chủ thắng. Thiên Tâm Thiên Trụ trên cung 4, vào tháng cuối hạ, Thu….
-Sáu Đinh tới Tốn gọi là Mỹ nữ lưu thần (Người đẹp giữ thần), cát. Ngày Canh Tân Thân Dậu, có khí mây trắng từ chính Tây hoặc Tây bắc lại trợ, Khách thắng.
-Sáu Ất tới Ly gọi là Ngọc Thỏ Dương Dương, cát. Thiên Trụ Thiên Tâm trên cung 9, vào tháng Xuân Hạ hoặc ngày Bính Đinh Tị Ngọ có khí mây đỏ lại trợ, Chủ thắng.
-Sáu Bính tới Ly gọi là Nguyệt chiếu Đoan môn (Trăng soi cửa thành), cát. Có khí mây đỏ từ phương Nam lại trợ, Chủ thắng. Thiên Bồng trên cung 9 vào tháng Thu hoặc ngày Nhâm Quý là Quý nhân thăng Bính Ngọ chính điện.
-Sáu Đinh tới Ly gọi là thừa long vạn lý (cưỡi rồng muôn dặm). Ngày  Nhâm Quý Hợi Tý có mây đen từ chính Bắc lại trợ thì Khách thắng.
-Sáu Ất tới Khôn gọi là Ngọc thỏ nhập Khôn trung ( Thỏ ngọc vào giữa long đất), cát. Thiên Bồng đến cung 2, vào 4 tháng tứ Quý, hoặc ngày mậu Kỷ Thìn Tuất Sửu Mùi, có khí mây vàng từ phương Bắc lại trợ, Chủ thắng. Còn một tên gọi khác là Ngọc thỏ ám nhật (ngọ thỏ che mặt trời).
-Sáu Bính tới Khôn, gọi là Tử cư mẫu xá (con ở nhà mẹ), cát. Khí mây từ nam lại trợ thì Chủ thắng. Thiên phụ Thiên xung trên cung 2, vào tháng Đông, Xuân hoặc ngày Giáp thì cát.
-Sáu Đinh trên Khôn, gọi là Ngọc nữ du Địa hộ (nàng Ngọc chơi ở cửa đất), cát. Ngày Giáp Ất Dần Mão có khí mây xanh từ Chính Đông hay Đông Nam lại trợ, Khách thắng, đại cát.
-Sáu Ất tới Đoài, ngọc nữ thụ chế (nàng Ngọc chịu bó), bình bình. Thiên xung Thiên Phụ trên cung 7, vào tháng cuối Hạ, tháng Thu, hoặc ngày Canh Tân Thân Dậu, có khí mây trắng lại trợ thì Chủ thắng. Một tên gọi khác là Ngọc thỏ du quan (Thỏ trắng bơi quan), cát.
-Sáu Bính trên Đoài, gọi là phượng hoàng chiết xí (phượng hoàng gẫy cánh), hung. Có mây trắng từ chính Tây hoặc Tây Bắc lại trợ, Chủ thắng. Thiên Anh trên cung 7, vào tháng Xuân Hạ và ngày bính thì Khách thắng.
-Sáu Đinh tới Đoài, thì bình thường. Ngày Bính Đinh Tị Ngọ, có khí mây đỏ từ phương Nam lại trợ, Khách thắng. Còn nói Đinh thấy Đoài là Thiên ất Quý nhân, tức Quý thăng Đinh Dậu chính điện, đại cát.

14/Ba kỳ hội ba môn cát ứng nghiệm
Ất là Nhật kỳ:
Hội cửa Sinh, nên ra làm quan, nhậm chức, ứng cử, giá thú, đào đất, làm tờ khoán, chôn cất.
Thấy 2 chuột hoặc người con mặc hiếu, có trăm chim, gió mây mưa lâm thâm, xe ngựa lại làm ứng, thì chủ con cháu phú quý.
Hội Hưu môn, thấy Trâu ngựa, hoặc người chặt cây lại làm ứng.
Hội Khai môn, gặp người công chức ở vùng khác mặc áo đỏ đến.
-Bính là Nguyệt Kỳ:
Hội cửa Sinh, thấy người mắt có tật, hoặc việc tranh đấu làm ứng.
Hội cửa Hưu, nên ra làm quan, nhậm chức, ứng cử, giá thú, đào đất, làm tờ khoán, dựng cột, làm nhà. Trong ngoài 50  dặm, nghe tiếng nhạc tiếng trống, hoặc quân khí, nhạc khí, chim đén, hạc trắng đến ứng, chủ con cháu phú quý.
Hội cửa Khai, chủ thấy ông già chống gậy, hoặc nghe tiếng khóc làm ứng.
-Sinh là Tinh Kỳ:
Hội cửa Sinh, gặp người đi săn hoặc chim nhạn, con chó làm ứng.
Hội cửa Hưu, 20 dặm gặp Hổ trắng, người áo đen hoặc phụ nữ làm ứng.
Hội cửa Khai, nên ra làm quan, nhậm chức, giá thú, dựng cột, làm nhà, chuyển đồ. Thấy xe lớn xe nhỏ, mây trắng che phủ hoặc trẻ nhỏ, tay cầm roi, cầm gậy thì ứng con cháu sẽ phú quý.

15/Tam kỳ hợp cách đoán
Kỳ Ất gặp Thanh long phản thủ,
Kỳ Bính, mặt Đông Nam là Điệt huyệt,
Kỳ Đinh, Tây, ngưới quý đăng đàn,
Hổi thủ vui mừng, mọi trao đổi vừa ý,
Điệt huyệt biểu dương, việc thành tưu,
Long đào, thân gặp mọi hung,
Hổ cuồng, tài vật hư hao,
Yêu kiều: trộm cắp việc cửa công.

Loạt bài này dienbatn đang biên tập lại . dienbatn sẽ viết tiếp khi có dịp.
( Đang thực hiện - dienbatn )
Xem chi tiết…

ỨNG DỤNG KỲ MÔN ĐỘN GIÁP TRONG VIỆC XÂY CẤT MỘ PHẦN. BÀI 9.

9/06/2014 |
ỨNG DỤNG KỲ MÔN ĐỘN GIÁP TRONG VIỆC XÂY CẤT MỘ PHẦN. BÀI 9.

PHẦN 5. MỘT SỐ KIẾN THỨC CẦN CÓ SAU KHI ĐÃ LẬP ĐƯỢC BẢNG THẤU ĐỊA KỲ MÔN.

( Phần này dienbatn viết theo tư liệu từ cuốn : KỲ MÔN ĐỘN GIÁP BÍ KÍP TOÀN THƯ và cuốn KIM HÀM NGỌC KÍNH. )



2/ TRỰC PHÙ - TRỰC SỬ.

Luận Trực phù
Trực phù ngôi ấy Đại tướng quân,
Bản cung truyền cát lập công huân.
Ba cung kiểm điểm không hung ngại
Xông xáo Tây Đông chẳng ngại ngần.
Lại đem Niên Mệnh mà tham bác,
Không gặp Hình Xung, không họa xâm,
Thiên, Địa, Đằng, Âm, Chu, Cửu Lục,
Kẻ địch là ai, ai kẻ thân.
Cửu Địa Thiên hình phòng đến cướp,
Cửu Thiên hại cách chớ xua quân,
Trực phù chớ để ngày giờ hại,
Phương vị nên sinh Đại tướng quân (Tức Trực phù).


XEM CHÔN CẤT
Trực phù

Phù : mồ mả, long thần kết tụ, hình thế khởi phục hướng về.
: đường đi, gò đống, đôi ngạn dẫn mạch.
Âm  : huyệt thuận khởi gió, bên hữu cánh cung cong vào.
Hợp : hướng sa đường có cây cao, tả hữu có cánh cung.
Câu, bạch : thế trong có hộ sa củng đối, thế ngoài có hữu sa.
Chu, huyền : minh đường có nước từ xa đến, chủ sơn là lai long.
Địa : huyệt oa, có tĩnh rút xuống.
Thiên : hướng về phương có thế trướng che.

Luận trực phù
Trực phù xem mất, Hỏa thế hình,
Mộc Hỏa Kim Thổ Thủy loại tình.
Vượng Tướng Hưu Tù Cô Hư gặp,
Lấy cung mà xét định cho rành.
Thái âm huyệt tình, Cửu địa huyệt,
Minh đường ắt trước, Chu Xà trình.
Hướng che bình chướng, Cửu thiên hỏi,
Chủ Sơn sa tìm, Huyền Bạch thành.
Dụng thần không phạm Hình Cô khắc,
Được Hợp Sinh, chôn thế đại hanh

Luận Trực sử
Trực sử được thời dễ tiến lên,
Địa Môn mà cát chia chính biên,
Xét xem Chủ Phó Niên và Mệnh,
Môn cát thấy trong đắc thắng liền,
Ví gặp Cương La và phản phục,
Thái công ngầm trợ cũng vô duyên.

XEM CHÔN CẤT.

Trực sử
Hưu : Nhâm Tý Quý,       Hoàng tuyền tại Thìn,  kỵ ngày giờ Mậu Thìn
Sinh : Sửu Cấn Dần,              Hoàng tuyền tại Dần,  kỵ ngày giờ Bính Dần
Thương : Giáp mão Ất,      Hoàng tuyền tại Thân,.............................Canh Thân.
Đỗ : Thìn Tốn Tỵ,  ......................................Dậu.... ............................Tân Dậu.
Cảnh : Bính Ngọ Đinh....................................Hợi,  ............................Kỷ Hợi.
Tử : Mùi Khôn Thân...................................Mão................................Ất Mão.
Kinh : Canh Dậu Tân....................................Tỵ....................................Đinh Tỵ.
Khai : Tuất Kiền Hợi ....................................Ngọ.................................Bính Ngọ.

Luận trực sử
Trực sử chia xem Sơn với Hướng, 
Ở trong chuyển triết nhiều tình huống.
Hưu Tù, Phi Vượng cũng nên chôn,
Vượng bay Hưu Phế đúng động thương.
Lại đem Phi Phục xét xem tường,
Đây đó không thương, Sơn Hướng chuộng.
Đáng kỵ Nhật Thời, Sát diệu phùng,
Đoan đích bên trong có thứ trạng (trạng thái này).
Đừng để cho Sử gặp cung này,
Không gấp đổi rời, tai nạn vướng.

3/ CÁC CỬA ( BÁT MÔN ).
HƯU - SINH - THƯƠNG - ĐỖ - CẢNH - TỬ - KINH - KHAI sẽ di chuyển xoay vòng khác lúc ban đầu.

Xem mồ mả.
Đất mồ mả là nơi người chết ở, lành thì được phúc, hung thì có họa. Bởi vì linh hồn tổ tiên ở nơi Suối vàng mà yên thì con cháu hưng vượng, không yên thì con cháu bại vong.
Nếu chưa táng mà xem trước thì phép này chuyên trách cứ vào cửa Tử và sao ở 2 bàn Thiên Địa mà quyết.
Lấy Sao Địa bàn ở cung cửa Tử là người chết, Sao thiên bàn ở cung cửa Tử là  người sống. Cung cửa tử có ba kỳ cùng với sao Địa bàn sinh nhau, hòa nhau, không khắc chế nhau thì người chết yên. Sao Địa bàn sinh sao Thiên bàn, sao Thiên bàn được Ba kỳ thì người còn người mất đều yên lành, sau rồi hưng vượng.
Ví cung cửa Tử cùng với sao Địa bàn cung khắc nhau thì người sống, người chết đều không yên. Sao Địa bàn khắc sao Thiên bàn, không có Kỳ môn hộ trì thì người sống người chết đều hung, cửa Tử phản ngâm thì rời đi nơi khác sẽ cát. Cửa Tử gặp Không vong thì đất không có khí, sơ nhà báu người chết.
Lại lấy Can gì, thần gì, cách gì mà suy. Được sao cát, can cát, sinh vượng thì cát. Thần hung, cách hung, can khắc chế thì hung.(Đây là nói sao Thiên bàn. Đáng ngờ là  nói sao của 2 bàn trên dưới. Vậy nên đợi gặp bậc cao minh mà hỏi). 

1/ CỬA HƯU.
Cửa Hưu (Cửa lành) khắc ứng
Cửa Hưu rất thích tụ tiền nong,
Trâu ngựa heo dê tự đến đông, 
Dựng gả phương Nam nơi xứng ý. 
Thăng quan tiến chức ngự đài cung.
Lại thêm sản nghiệp người âm Vũ.
Yên ổn trong nhà tai họa không.
Hỏi rằng: Cửa Hưu thuộc Thuỷ, không vật gì không bị giết, nơi sương tuyết lạnh lẽo, chỉ toàn khí âm, là tinh của Huyền Vũ, ba sáng không chiếu tới, là cung quỷ tà náu hình, thì còn lấy gì làm cát?
Cù Tiên đáp rằng: Nước cửa Hưu là nơi âm cùng, thực tại là cung Bình Báu. Vạn vật lấy nước làm nước sinh sát để phát khí dương ra ngoài, lấy nước làm khí chết, để thu gom về gốc mà dấu tinh ở trong. Tý là nơi 1 dương vừa trở lại, cỏ cây gặp đó mà nẩy mầm, là cửa lật gốc về nguồn nên lấy đó làm cát.
Cửa Hưu hợp với Kỳ Đinh, dưới có Thái Âm là Nhân độn, được tinh hoa của sao che chở, trăm việc đều cát. Vượng ở cung chấn. Tướng ở cung Khảm, sinh ở Kiền Đoài đều cát cả. Ở cung Khôn, Cấn và giữa, bị Thổ khắc chế. Ở Tốn là vào Mộ, ở Ly là phản ngâm, đều không lợi. Nếu vào yết cửa quý, lấy hoà hợp thì trăm việc đều tốt. Ra đi 50 dặm gặp rắn chuột, vật đen trong nước làm ứng.

Cửa Hưu:
Cửa Hưu chín chín khí đầy nhà,
Con cháu giầu sang đất cát đa.
Tế lễ, kinh doanh, nhà đến ở,
Phó quan, rời đổi tốt đều hòa.
Đẻ lành, lánh kín, người hưng thịnh,
Bắc vượng ngày Đông, sáu một qua.
Nam Bắc hôn nhân, quen thuộc cả,
Lại qua sáu súc (giống nuôi), trật quan gia.

Cửa Hưu, Thần Thủy, Tham lang.
Công cán cầu mong có cửa Hưu
Cầu tài, xin yết quý nhân chiều
Muốn mau cần có sao theo cát,
Đã thấy Hưu môn, ăn uống có
Giá thú, ra vào, năm Phúc trao
Vào ra, rong ruổi, mạnh mau sao
Lợi lộc, may mừng, hả biết bao
Hưu môn cần được soi vào cửa

2/ CỬA SINH.

Cửa Sinh ( Cửa sống) khắc ứng
Cửa Sinh xem được tốt tươi lành.
Người của cùng tăng, mọi vật hanh.
Tý Sửu năm nay, ba bảy tháng (tháng 3, tháng 7)
Trâu, dê, lừa, ngựa chật môn đình.
Lúa, tằm, vải vóc, đều dư dật.
Áo tái, con trai, chốn đế kinh.
Thêm ruộng phương Nam Thương khách (người âm Thương) tiến.
Cháu con hưởng lộc vị công khanh.
Hỏi rằng:
Cửa Sinh ở Cấn Thổ là phương Thiếu Dương, lấy gì bảo cát?
Cù Tiên đáp rằng: Cấn là Dần vị. Trời mở ở Tý, Đất giải ở Sửu, người sinh ở Dần. Khi Trời đến đó, ba Dương đều đủ, mở Thai. Do đó mà vạn vật đều sinh. Dương hồi khí chuyển, tình trời đất muốn sinh, rộng đến muôn vật mà đạo nhân sinh ra vậy, vì thế mà là cửa rất cát.
Cửa Sinh với Kỳ Ất, dưới là cung Cửu Địa, là Địa độn, là tinh Nhật che chở, cát. Hợp với Kỳ Bính là tinh Nguyệt che chở và là Thiên độn. Hợp với Kỳ Đinh là được tinh Sao che chở và là Nhân độn, trăm việc đều cát.
Được cửa Sinh, nên thăng quan, xây dựng, giá thú, cầu tài, chăn nuôi đều rất cát. Đi ra ngoài, 60 dặm gặp quý nhân xe ngựa, rất cát. Đến 2 cung Kiền Đoài là vượng. Đến cung giữa là tướng. Đến Khảm là Bách. Đến Chấn bị Mộc khắc chế. Đến Tốn là vào Mộ, đều không lợi. Sinh ở cung Ly, cát.

Cửa Sinh:
Cửa Sinh tám tám, khí đây sao,
Hung sát đều hàng, Thổ đắp cao.
Đợi gái mang tiền, người gửi vật,
Từ nay phú quý, cháu con trào.
Ba năm, định có sinh con quý,
Đi lại ngoài châu, tiền của vào.
Giá thú, gieo mầm và dựng đổi,
Tiêu tai, phát phúc lạ lùng sao.

Cửa Sinh, Thần Thổ, Tả Phù
 (Cửa này, những việc tranh tài, vào  quan, giấy tờ, giá thú, lánh chạy, đi  20 dặm tất thấy chim bay lại đón thì  đại cát)
 Vào ra mà gặp được môn Sinh
 Sao cát lâm thêm vạn sự thành
 Ví có hung thần cùng cách vắng
 Cầu tài sẽ được xứng tâm tình
 Cửa Sinh đã thấy kinh doanh lợi.

3/ CỬA THƯƠNG.
Cửa Thương khắc ứng
Cửa Thương thôi khỏi nói, Trời chôn người chết uổng. Chồng vợ gặp tai ương. Năm ròng tháng bệnh vương. Nhọt sảy đi không được. Tin đợi chờ không có. Chân què gẫy máu loang. Ngoài ra xấu đủ đường.
Hỏi rằng: Cửa Thương thuộc Mộc, chính gặp thời Xuân Phân, mầm non chồi ra, nên nói là cát mà lại bảo là hung, xin nói lại cho rõ.
Cù Tiên đáp rằng: Mộc cửa Thương gặp đúng khí Xuân Phân, tinh dịch từ trong mà ra, phát dương ra ngoài, đến nỗi gốc rễ tiết ra quá nhiều. Đó gọi là ngoài Hoa, mà trong Hư, không thắng nổi khó khăn. Huống chi tháng 2, mầm non không đương nổi sương lạnh, do đó  mà gọi là Thương, mà là hung.
Cửa Thương được Kỳ thì chỉ có các việc đuổi bắt kẻ chạy trốn, trộm cắp, đi săn, đánh cá, đòi nợ, cờ bạc, vui đùa là cát. Nếu lên quan, ra đi, hôn nhân, buôn bán, xây dựng, chôn cất, đều không lợi. Rất hung.

Cửa Thương:
Cửa Thương khí đoản, số ba ba,
Dần Mão vượng phương, âm Dốc pha.
Săn lưới, đi chinh, đòi lấy nợ,
Còn hay cờ bạc đuổi người qua.
Quant ư, cãi cọ, tang chồng chất,
Sáu súc toi luôn, trộm cắp sà.
Chồng vợ choảng nhau, còn mắt bệnh,
Ba tuần đẻ nạn, họa đào pha.
Tuổi tên chết mất và phong chứng,
Hổ rắn thương người, ở khó qua.

Cửa Thương, Thần Mộc, Lộc Tồn
(Gặp cửa này, khi ra đi tất thấy Quái lạ kinh hoảng, đổ máu)
Xuất nhập, cầu tài, gặp cửa Thương
Đà thêm sao cát cũng nan đương
Trước thì bệnh tật cùng tai họa
Thân phải phòng lo có tật ương
Thương chiếu, luôn luôn tai tiếng mắc
Thì ra ngoài cửa họa tai vương
Chỉ duy vây bắt là vừa ý
Ngoại giả sơ lo khó thể lường
Trăm việc lưu thông, dạ hởi hanh
Sinh hiện, ra vào hoan hỷ có
Kinh doanh tốt nhất, khí mừng sinh.

4/ CỬA ĐỖ.
Cửa Đỗ nguyên là gỗ, động vào, họa tiếp liền. Tháng năm Hợi Mão Mùi, gặp phải, ngục tù kề bên. Sống chết tan rời đó. Giống nuôi chết dịch ôn. Sai xương, đòn vấy máu. Hại đếncả đàn con.
Hỏi rằng: Cửa Đỗ là tượng Mộc, đến Hạ Đông là thời phồn thịnh, vốn là khí vượng, lấy gì mà bảo là hung?
Cù tiên đáp rằng: Cửa Đỗ dương Mộc, gặp Hạ Đông phát sinh ra ngoài, tân dịch tiết đi, khí dương can cực, một âm đang đến. Tính Mộc đến đó thì sức chùn lại, muốn thu gom thì không đủ sức thu gom, muốn sinh vượng thì lực đã cạn, lại không tiết được sức để nuôi cháu con ( dĩ thực= kỳ tử tôn), mà phải nấp giấu con ở nơi rắn chắc (kiên mật chi xứ) sợ rằng con có thể bị thương, cho nên gọi là cửa Đỗ (cửa đóng). Có hung nhỏ.
Cửa Đỗ là phương tàng hình, chỉ nên là nơi lánh tai nạn, lấp huyệt, đuổi bắt là cát. Các việc khác đều không lợi.

Cửa Đỗ:
Đỗ môn bốn bốn, ấy sao hung,
Tính mộc, phương nghiêng Dần Mão đông.
Đóng, dắt, ngăn dòng, nhiều lấp liếm,
Đuổi tà, đinh trộm, móc câu tròng.
Đi vong, trốn khó, thôi mong muốn,
Ẩn nấp, che thân, kín đáo vùng.
Đuổi mạnh, đi xa, thì lẽ đúng,
Riêng tư có thể giữ lâu cùng.
Những khi động dụng phòng quân trộm,
Tài tán, quan tư, ôn dịch xông.
Sét đánh, rắn thương, người ghẻ lở,
Nhà siêu, kho cháy, lại người vong.

Cửa Đỗ, Thần Mộc, Văn Khúc
(Gặp cửa này, nên xuất hành, xin yết  Quý, cầu tài thì hay, nhưng gặp khắc  lánh thì không hay).
 Xét công cửa Đỗ mỗi khi dùng
 Mà thấy môn trung thần cát cùng
 Chè rượu tự nhiên lưu khách lại
 Hân hoan, trăm việc có vui mừng
 Đỗ môn từng thấy kinh doanh tốt
 Xuất nhập xưa nay chửa giải lòng
Ẩn giấu nơi đây nên phải biết
Không nhờ cây gỗ chẳng sao xong.

5/ CỬA CẢNH.
Cửa Cảnh (Cửa Lớn) Khắc ứng
Cửa Cảnh nơi vương máu. Họa sinh nhiều lắm lắm. Ngoài hung và chết ác. Sống ly cùng chết biệt. Vào quan bán ruộng vườn. Con cháu khó tai ương. Giống nuôi thấy chịu thương. Xem được phải phòng phương.
Hỏi rằng: Cửa Cảnh thuộc Hoả, phương Nam, lệnh mùa Hạ, gặp đúng vực Ly minh, lấy gì làm hung?
Cù Tiên đáp rằng: Cửa Cảnh ở khí lệnh mùa Hạ, muôn vật lớn khoẻ, là thời sắp trở về già, gần cửa cung Khôn rồi. Lại là số thịnh của Dương, khí Trời Đất đến đó sắp có tình giết chóc. Tuy là phương trên sáng dưới cang, cũng không cát cả được (diệc bất toàn cát). Duy có lợi về việc văn thư, nhân đó mà bảo là hơi cát (thứ cát).
Dùng cửa Cảnh chỉ nên dâng thơ, hiến kế sách, tâu đối, tuyển đưa tướng sĩ là cát. Ngoài ra thì không lợi.
Tới Khôn, Cấn, Trung thì cát. Cung 3, 4 thì lành. Cung 1 phản ngâm. Cung 6, 7 bị bách, đại hung. Nếu được 3 Kỳ, nên đặt mưu lừa, phá trận, công lửa, ra hiệu lệnh, phong công thưởng tước, các việc như thế thì cát.

Cửa Cảnh:
Cảnh môn bẩy bẩy tía hồng quân,
Tị Ngọ vượng Nam, kết Tuất Dần.
Sai sử, đưa thư, nguy giải ách,
Cầu mưu, tu tạo, yết cầu thân.
Cất chôn, dựng gả, lành trong việc,
Cấp thưởng dùng người như cánh chân.
Hiến kế, cầu danh, gần bệ ngọc,
Kén tài, khoa cử, nổi danh văn.

Cửa Cảnh, Thần Hỏa, Liêm Trinh  
(Cửa này ra đi, yết kiến Quý nhân.Cờ bạc, vui chơi, tranh đuổi, lưới bắt, đi xa 40 dặm tất thấy tiếng nhạc vui).
Đi xa, xuất nhập, Cảnh môn trung
Không khắc, không sinh nửa cát hung
Ví gặp sao Thần, Phương vị ác
Cố tâm, việc cũng chẳng sao thông
Ra vào cửa Cảnh nên lành tốt
Trong giỡn, thưởng đùa là nhất công
Lưới cá, đi săn đều được ít
Không mừng, không sợ thấy an lòng

6/ CỬA TỬ.
Cửa Tử ( Cửa chết khắc ứng)
Cửa tử nơi đây thật  rất hung
Mạng người gặp phải hoạ sau lưng
Xoàng ra phải mất tiền hao của
Còn phải phòng tang tóc chập chùng.
Hỏi rằng: Cửa Tử thuộc Thổ, lại là phương của phần đêm sao hắc, khí Thu Đông, trời Đất tàn sát nặng nề. Từ đó mà đi, cửa hung. Sao hung, nên bỏ đi không dùng. Chả biết cửa này có còn dùng được việc gì không?
Cù Tiên đáp rằng: Cái hung của Cửa Tử là lúc Trời Đất mặc lòng ra oai tàn sát, cỏ mất màu sắc, cây trút rụng lá, cho nên là tượng hung. Nếu được Kỳ đến trợ thì những việc như đánh tội chết, bắt bớ, săn  bắn cũng được tốt, đó là thuận theo lẽ trời là thế không bỏ được.

Cửa Tử:
Cửa Tử hai hai, tinh ngược ác,
Cấn Khôn Mậu Kỷ là phương được.
Lưới săn, giết chóc, phương này nên,
Tống táng, viếng tang thì cũng thích.
Xây dựng lo trên với kẻ bằng,
Tang trùng kẻ chết nhiều ngang ngược.
Cầu mong không lợi, chẳng nên cầu,
Động, thấy thua toi, quan mất chức.

Cửa Tử, Thần Thổ, Cự môn
 (Cửa này nên đi săn, vây bắt, sát sinh  ngàn chết, một sống. Đi 20 dặm bên  Đi yết, cầu mưu vào cửa Tử đường tất thấy người tử thương là ứng)
Đi yết, cầu mưu vào cửa Tử
Cát thần thưa thót, Khôn bàn đủ
Tự mình ví chẳng chịu làm ngang (tác hoành sự)
Thì tất rồi ra thương vết đó
Cửa Tử, Đông Tây chẳng dám đi
 Đọc tên đủ thấy không nên sự
Tử thương, ai oán được gì đâu
(Cửa này không nên ra cửa, lên quan,
 Bậc thành không truyền lời dối trá

7/ CỬA KINH.
Cửa Kinh khắc ứng
Cửa Kinh chủ tranh kiện. Người chết bệnh dịch ôn. Năm Thìn, tháng Hỏa tới, thân mình hoạ đến bên. Duy giấy tờ tranh kiện, bắt bớ, cờ bạc: nên. Ngoài ra thì hung cả. Gặp Kinh là phải kiêng.
Hỏi rằng: Cửa Kinh thuộc Kim, gặp tháng 8 lệnh Thu, muôn vật đều già, Trời Đất ra oai tàn sát muôn vật, cũng nên đó chăng?
Cù tiên đáp rằng: Cửa Kinh, khí tàn sát, vật loại già cỗi, vốn không khí sống cho nên hung. Nhưng mà trời đất còn long ưa sống (hiền sinh chi tâm), không muốn giết hết mầm tỏi, mầm lúa đông, cũng chẳng đã mà giết. Cửa này tuy hung, mà những việc như trình thơ, dâng kế lừa, bắt bớ, đặt nghi, phục binh đều cát, cũng chẳng nên bỏ. 

Cửa Kinh:
Cửa Kinh không hóa khí là ngược,
Vượng ở Canh Tân Thân Dậu cước.
Vó lưới chăng cao, tụng ngục chờ,
Cửa công, hình kích, đều theo bước.
Trốn đi, lừa bắt, đều có công,
Bán chợ, tu doanh, thua lỗ trước.
Kiện tụng, kinh hoàng, tật dịch hưng,
Bại tù, quân giặc, chó dê chết.

Cửa Kinh, Thần Kim, Phá Quân
 (Cửa này không nên ra cửa, lên quan,không cát, mọi việc đi 6-7 dặm tất thấy vật to lớn quái sợ là nghiệm)
Cầu tìm, chạy mất gặp Kinh môn
Người trốn, của tiền vẫn hãy còn
Lại được cát tinh không khắc chế
Thì người trốn lánh sợ bay hồn
Kinh môn nhất định là kinh sợ
Mọi việc ra vào tất phải sờn
Việc tốt thôi đi đứng nói đến
Ngồi nhà đừng động việc là hơn

8/ CỬA KHAI.
Cửa khai (cửa mở) khắc ứng
Cửa Khai muốn biết chiêm làm sao?
Đầy tớ, trâu, dê, trăm buổi vào.
Đất cát, hôn nhân,tài lợi lắm.
Cửa nhà rộng rãi, của đầy kho.
Có thêm sản nghiệp người thường tiến.
Tị-Dậu-Sửu năm thêm miệng chào:
Con cháu ơn vua nhiều tập ấm
Đai vàng áo tía gội ơn cao
Hỏi rằng: Cửa Khai thuộc Kim, là lúc khí trời khô héo,là thời muôn vật tận cùng lấy gì bảo là cát?
Cù tiên đáp rằng: Cửa Khai là kim, là lúc muôn vật héo hết. Sao không biết muôn vật héo hết mà có sống lại. Cửa Khai thuộc Kiền, trong Kiền có Hợi. Kiền nạp Giáp Nhâm (thu mầm ở Nhâm). Kim động thì thủy sinh, sinh mà sinh muôn vật, cho nên giúp sống cho muôn vật lúc mới đầu. Lại là Thiên Môn ( cửa Trời), cho nên cát. Nếu gặp được kỳ Ất (gọi là Thiên Độn =  ẩn Trời) là được tinh Nhật che chở. Hợp với kỳ Bính, là được tinh nguyệt che chở. Hợp với kỳ Đinh là được Thái Âm ( âm cả) che chở, mọi việc mưu đều nên, danh chính ngôn thuận. Dùng việc công 100 cái thì được 100 thái. Dùng việc tư tất bị người khác làm tiết lộ thì lại gặp hung cừu. Ưa tới Kiền Đoài là được khí tướng (khí khá). Vào cung Khảm thủy, Kiền thủy sinh nhau như mẹ ngoảnh lại con. Vậy nên là cát. Ra đi 4 dặm hoặc 40 dặm, thấy lợn chuột các loài ấy, 60 dặm gặp qu‎ý nhân đi xe ngựa, có rượu thịt. Vào cung cấn là vào Mộ. Vào cung Chấn là Bách (bức bách), lại là 4 khí. Vào cung Tốn là phản ngâm. Vào cung Ly thì Kim bị Hỏa khắc, không lợi.
Ra cửa Khai, 30 dặm, gặp quý nhân, cát. 40 dặm gặp lợn ngựa, có rượu thịt, cát.
Có kỳ Ất tới thì thấy Qu‎‎‎ý nhân mặc áo hồng.
Có kỳ Bính tới, thấy ông già chống gậy.
Có kỳ Đinh tới, thấy người mang vật bằng tre gỗ thì ứng cát.

Cửa Khai:
Cửa Khai sáu sáu khí đầy phè,
Yết kiến, cầu mưu, lợi lộc ghê.
Dựng cửa, xây nhà, quan chức tiến,
Ngoài về tiền lụa ngựa trâu dê.
Mật ong hầm chứa, hoạch phát tài,
Con cháu giàu sang, danh lợi đề.
Thân Dậu Canh Tân, Thu nguyệt vượng,
Bán buôn, sản xuất lợi Thu về.

Cửa Khai, Thần Kim, Vũ Khúc
 (Gặp cửa này, nên lên quan, gặp bậc Quý,ra vào, cầu tài, rút lui, 30 dặm thấy  đàn bà hoặc người mặc áo đẹp là ứng).
 Cửa Khai xuất nhập rất là hay
 Muôn việc hanh thông, tốt đẹp thay
 Xuất nhập, cầu tài, mừng rỡ thấy
 Tám phương cán sự mạnh nào tày
 Cầu tài, xuất nhập mà Khai thấy
 Tự có hân hoan, việc chẳng chầy
 Lại được cát tinh soi chiếu đến
 Gặp ngay rượu thịt, cười vui vầy.

QUAN HỆ .

1/Quyết đoán Tám môn
Muốn cầu giá chợ đến Sinh phương,
Vây bắt nên tìm Tử lộ cường.
Muốn hỏi đi xa, Khai mở đó,
Cửa Hưu lợi buổi yết quân vương.
Cửa Thương đòi nợ đều vừa ý,
Cửa Đỗ còn khi lợi án tàng.
Kiện tụng, bắt vây, Kinh sẵn đó,
Rượu chè hiến kế Cảnh chân hương.
Yết Quý cầu quan dùng cửa Khai
Cầu tài, kiếm lợi cửa Hưu lai.
Lánh nạn, cầu quan Sinh đến đó,
Cửa Thương đòi nợ được như lời.
Tìm người kiếm bạn nên dung Cảnh,
Săn bắn lưới chài Tử đó rồi.
Bắt giặc lùng gian, kinh dùng được,
Đỗ môn chạy mất khó mong hồi.

2/ Tổng ca 8  cửa (bát môn tổng ca)
Kỳ đến cửa Khai, lợi xuất hành,
Cửa Hưu, kiện cáo, tiến thư nhanh.
Cửa Sinh, nhập trạch và hôn thú,
Thương mà đòi nợ, có công lênh.
Đỗ nơi ẩn trốn và hang lấp,
Cửa Cảnh thịt xôi chè chén nhanh.
Cửa Tử đi săn và xuất trận,
Cửa Kinh, phục chúng, cầu mưu thành.

3/NÊN TRONG 8 MÔN.
Cửa Khai nên xuất, quý nhân lưu
Cửa Đỗ giấu thân được khỏi ưu
Cửa Cảnh cầu tài nhiều được lắm
Cửa thương đòi nợ được xong xuôi
Cửa Sinh giá thú, đi xa cát
Cửa Kinh gặp hỷ dù cũng khó trôi
Tử đuổi bắt người và lưới cá
Khai thì thuận lợi, chín châu ngôi.

4/ LỆ ĐOÁN 8 MÔN GẶP CHÍN SAO
Cửa Hưu, ví gặp được Thanh long                        Cửa Sinh: rất thích gặp Thanh long
Mọi việc mưu làm, hết thấy thông                        Yết quý, mưu làm, trăm việc thông
Tìm lợi cầu tài, hưng vạn bội                                Buôn bán kinh doanh muôn lợi bội
Ra quân, bày trận, tất thành công                        Vào ra không ngại, nở nhan dung
Cửa Hưu, Thái ất, việc trăm hung                          Cửa Sinh Thái ất, phúc thâm đa
Chiến đấu, tương tranh, binh vượng hùng                Xứng ý mong cầu, bủa lưới ra
Dựng trại, nhổ doanh, đều tất thắng                        Kiếm lợi cầu tài hay vạn bội
Lên quan, yết quý, bội vui mừng                             Hành quân, xuất nhập, vướng đều qua
Cửu Hưu, Thiên ất gặp nhau hung                          Cửa Sinh ví gặp Thiên ất tinh
Xuất nhập, cầu tài, đại cát trung                             Xuất nhập đều không gặp cạnh tranh
Người quý gặp luôn, nhiều mến chuộng                  Bố trận bài binh đều đắc thắng
Đón đưa rượu thịt, người trọng cùng                      Trăm công vừa ý, tâm xuống tình
Cửa Khai, ví lại có Thanh long                               Cửa Khai, Thiên ất hội nhau cùng
Kiến lợi trùng thu, được tục phong                          Xuất trận hành quân được thỏa lòng
Yết quý, lên quan, nhiều mến chuộng                     Cầu thánh, kinh doanh nhiều lợi lộc
Cầu mưu, xuất nhập, việc đều xong                       Thăng quan còn được của người sang
Cửa Khai, Thái ất hội cùng nhau                            Tám môn hung cát tùy sự làm
Cướp trại đoạt doanh như ý cầu                            Không những Khai Hưu Sinh Phá kham
Xuất chiến, hành binh, không chẳng thắng               Bầy đến 10 can, 10 tiết khí
Cửa Khai dùng đến chẳng lo âu                              Đem tâm tường cứu rõ ràng tham

5/ Phép Năm Giả
Cửa Cảnh, hợp Ba Kỳ: Ất, Bính, Đinh, dưới địa bàn là cung Cửu Thiên gọi là Thiên giả (Trời làm giả). Ất là Thiên Đức. Bính là Thiên Uy. Đinh là Thái Âm. Phàm gặp linh của Ba Kỳ, nên bầy tỏ công việc tiện lợi, tiến lên yết kiến cầu việc, đều rất cát.
Cửa Đỗ, hợp Đinh, Kỷ, Quý, dưới địa bàn là cung Cửu Địa, gọi là Địa giả (Đất giả), nên ẩn giấu, mai phục. Ba giờ này nên giấu tích, ẩn hình.
Cửa Thương hợp Đinh, Kỷ, Quý, dưới địa bàn là cung Thái Âm, cũng gọi là Địa Giả, nên sai người làm gián điệp, mưu thám việc tư.
Lại như là cung Lục Hợp, cũng gọi là Địa Giả, nên trốn chạy, tránh lánh nạn.
Cửa Kinh, hợp Đinh, Kỷ, Quý, dưới địa bàn là cung Cửu Địa, gọi là Thần Giả , lợi việc chôn cất, ẩn nấp người không biết được.
Cửa Kinh, hợp với Lục Hợp, còn nói hợp với Sáu Nhâm, dưới địa bàn là cung Cửu Thiên, gọi là Nhân Giả, lợi việc bắt bớ, chạy trốn. Nếu là cách Thái Bạch Nhập Huỳnh Hoặc thì dưới đó tất bắt được.
Cửa Tử, hợp Đinh, Kỷ, Quý, dưới địa bàn là cung Cửu Địa, gọi là Quỷ Giả, lợi việc vượt chết, tiến độ. Còn nói tới cung Ba ẩn vượt, tức ba cửa cát ở địa bàn.
Trên đây là 5 phép Giả, tuỳ nghi việc mà dùng.

6/ Phép Ba Trá
Phàm việc nên được ba cửa cát: Khai, Hưu, Sinh, tức không được Ba Kỳ: Ất, Bính, Đinh cũng cát, lại lấy thần âm tương trợ gọi là Ba Trá. Có địa bàn Cửu Địa, Thái Âm,Lục Hợp, ba thần trợ kỳ gọi là cửa Dương được trợ (dương môn đắc trợ), lại được cửa cát ở địa bàn tương trợ thì toàn cát.
Ví 3 cửa cát Khai, Sinh, Hưu hợp với Ba kỳ Ất, Bính, Đinh, không được Thái Âm, Cửu Địa, Lục Hợp ở địa bàn, gọi là có cửa không Dương, có Kỳ không Âm, mọi việc gặp thì cát 7/10.
Ba cửa Khai, Sinh, Hưu hợp với Ba Kỳ, dưới địa bàn là cung Thái Âm, lại được cửa cát, cửa cát này cần có sao cát tương trợ, gọi là Chân Trá (Dối đúng), lợi việc thi ân, ẩn trốn, tế, cầu đảo Tiên thì cát. 
Khai, Hưu, Sinh hợp Ba Kỳ, dưới địa bàn là cung Lục Hợp, lại được cửa cát tương trợ, gọi là Hưu Trá (Dối Lành), nên luyện thuốc, cầu đảo, tế thần, cầu giải tai nạn, đều rất cát.
Cửa Khai, Sinh, Hưu hợp với Ba Kỳ, dưới địa bàn là cung Cửu Địa, lại được cửa cát tương trợ, gọi là Trọng Trá (Dối nặng), nên thu hàng binh, thêm miệng ăn, nạp tài, tập tước (con cháu kế thừa tước của ông cha), bái thụ (lạy nhậm chức tước), thì đều cát.
Trên đây là cửa Trá, các việc như đi xa, buôn bán, hôn nhân, mọi việc đều rất cát.

7/ Phép 9 độn biến hoá.
1/ Ba cửa cát Khai, Hưu, Sinh, trên thiên bàn Kỳ Bính, dưới Địa bàn là Kỳ Đinh, đều gọi là Thiên Độn (Độn trời), được tinh Nguyệt che chở, hoặc dưới địa bàn là Cửu Địa, Thái Âm, cũng gọi là Thiên Độn, có thể giấu vết ẩn hình. Nếu lại có Thiên Đức, Nguyệt Đức, Thiên Xá, Nhật Lộc, Hỷ thần thì trăm việc đều cát. Có Chu Tước lợi việc văn thư, tâu đối. Có Đằng Xà thì chủ nghi hoặc. Có Thanh Long thì sinh tài hỷ. Ví có bạch Hổ, Huyền Vũ thì chủ tật bệnh, mất mát, việc nhỏ không được toàn cát. Nếu luyện tế Đinh Giáp, gọi gió, thay mưa (hô phong hoán vũ), các việc như thế mà dùng Thiên Độn thì có thể toàn cát.
2/ Ba cửa Khai, Sinh, Hưu hợp kỳ Ất, dưới địa bàn là Cửu Địa, Thái Âm, Lục Hợp cung, đều gọi là Địa Độn (Độn Đất), được tinh Nhật che chở, có thể đặt phục, mưu làm, trăm việc đều cát. Nếu có Chu tước, nên đặt giấy tờ, làm màu lúa. Có mừng về tiền. Nếu có Bạch Hổ Được khóa cát Địa độn, nên xây dựng, khởi công, chôn cất, giấu diếm, các việc như thế đều rất cát.
3/ Khai, Hưu, Sinh, hợp với Ba kỳ, dưới địa bàn là Lục Hợp, gọi là Nhân Độn (Độn Người), cửa Sinh với Ba kỳ tới cung Thái Âm, và cửa Sinh, Kỳ Ất tới cung Cửu Địa, cũng gọi là Nhân Độn. Có Lộc ngày, Hỷ Thần, và Quý Thần, thì chủ có mừng về tiền, các việc hòa hợp. Có Chu Tước chủ kiện cáo được lý. Có Đằng Xà chủ các việc mộng ác, quỷ mỵ. Có Bạch Hổ kỵ đi thuyền. Có Huyền Vũ chủ có trộm cắp. Nếu có sao Thiên trụ, Thiên Phụ thì chủ mưa. Thiên Xung chủ có sấm. Thiên Ương chủ có chớp. Xem tật bệnh thì chủ nguy cấp.
4/ Khai, Hưu, Sinh hợp Kỳ Ất, dưới địa bàn là Sáu Tân mà rơi vào cung Tốn gọi là Phong độn (Độn Gió). Có 2 sao Thiên Xung, Thiên Phụ thì phương ấy có thể tế phong, nhưng không lợi cho việc đi thuyền, tin tức đến. Hành binh thì lợi đánh Hỏa công, thắng lớn.
5/ Khai, Hưu, Sinh hợp Kỳ Ất, dưới là cung Sáu Tân gọi là Vân Độn (Độn mây); cửa Sinh hợp Thiên Nhuế, Nhậm, tới cung Khôn; Ba cửa cát hợp Sáu Tân, tới cung địa bàn, Sáu Ất; hoặc Thiên Nhuế hợp cửa Sinh, dưới địa bàn là Cửu Địa ở cung Khôn; cũng có thể gọi là Vân Độn. Tháng Đông nên cầu mây, tháng Hạ nên cầu mưa. Nếu có Bạch Hổ thì chủ có mưa đá, mưa băng. Nếu có Đằng Xà, Chu Tước chủ nắng hạn, câu cưỡng thì chiêu lấy tai hoạ. Hành binh nên đi cướp doanh, kẻ kia không biết trước được.
6/ Khai, Hưu, Sinh hợp sao Thiên Tâm, Giáp Nhâm, Lục Hợp ở cung Khảm là Long Độn (Độn Rồng); hoặc cửa Hưu, Kỳ Ất trên Khôn; hoặc cửa Khai Lục Mậu trên Cửu Địa ở địa bàn; với cửa Hưu, Kỳ Đinh, dưới địa bàn là Cửu Địa ở cung Khảm; đều gọi là Long Độn. Phương này cầu mưa tất ứng, đánh thuỷ tất thắng. Lại được các Thần Thanh Long, Huyền Vũ, Thần Hậu, thì chủ mưa dầm, phải phòng kẻ gian tế trộm cắp.
7/ Cửa Khai, Giáp Thân Canh, dưới địa bàn là cung Đoài, là Hổ Độn (Độn Hổ); hoặc cửa Hưu, Kỳ Ất, dưới địa bàn là Sáu Tân ở cung Cấn, cũng đều gọi là Hổ Độn. Phương ấy nên tế phong, trấn tà, đuổi quỷ, yên nhà, đều cát. Nên đi thuyền, chiêu an, đánh hiểm, siết sào huyệt, lợi khách. Nếu yên doanh, phục binh, không dám nhìn thẳng.
8/ Cửa Khai, hợp Kỳ Ất, hợp sao Thiên Tâm, hoặc sao Thiên Cầm, dưới địa bàn là Cửu Thiên ở cung Kiền, gọi là Thần Độn (Độn Thần); hoặc cửa Sinh, Kỳ Bính hợp hai sao Cầm, Tâm, dưới địa bàn là cung Cửu Thiên, cũng gọi là Thần Độn. Phương này nên khu thần, sai tướng, thi kế, thần tất trợ ngầm. Hành binh nên làm thần tướng đắp trong ba quân, thần tất lên. Lại nên tế lễ, thần tất về nương. Nếu có Bạch Hổ, Lôi Sát, Kiếp Sát thì chủ sét đánh thương.
9/ Cửa Hưu, Thiên Phụ, Sáu Tân, dưới địa bàn là Kỳ Đinh, ở cung Cấn, gọi là Quỷ Độn (Độn Quỷ); cửa Sinh, Thái Âm, dưới địa bàn là Kỳ Đinh; hoặc cửa Sinh, Cửu Địa, dưới địa bàn là Kỳ Đinh, cũng đều gọi là Quỷ độn, nên dò đường, xét xứ giặc, thực hành mưu gian, tung tin đồn, kẻ kia không xét nổi mà lòng quân đâm nghi hoặc. Trong nhà có quỷ, nên thư phù mà trấn thì cát. Các việc khác không lợi.

 Xin xem tiếp bài 10 . dienbatn.
Xem chi tiết…

THỐNG KÊ TRUY CẬP

LỊCH ÂM DƯƠNG

NHẮN TIN NHANH

Tên

Email *

Thông báo *