CHUYỆN HUYỀN BÍ KIM CỔ SƯU TẦM . BÀI 4.

11/08/2014 |
CHUYỆN HUYỀN BÍ KIM CỔ SƯU TẦM . BÀI 4.

QUỶ NHẬP TRÀNG.

Quỷ nhập tràng là một hình thức của xác chết biết đi, mượn xác người chết mà đội mồ sống lại. Hình như ở châu lục nào cũng có những loài tương tự như quỷ nhập tràng. Phương Tây có ma cà rồng, Ấn Độ có Vêtala, Trung Quốc có cương thi, thi biến… còn ở VN thì gọi là quỷ nhập tràng. 
Điểm đồng nhất với nhau về các loại trên là tìm đến những người vừa mới chết, mượn thể xác họ sống dậy để làm những việc mà bình thường khả năng nó không làm được (vì không có thân tứ đại). 
Thật sự là Thanh không có hiểu biết sâu về ma cà rồng của phương Tây, hy vọng có vị nào hiểu biết hơn sẽ trình bày đầy đủ và sâu sắc ở những bài nối tiếp. Xuất xứ của ma cà rồng phải chăng từ Rumani , gắn liền với tên tuổi của Bá tước Dracula- nhân vật có thực trong lịch sử quốc gia Rumani thời xưa, một nhân vật có thực mà sự độc ác vô song đã trở thành huyền thoại? Vùng đất của ma cà rồng mở rộng đến Bungari- xứ sở hoa hồng, Hung gary, Balan, Mônđavi… Tại sao những người chết lại có thể trở thành ma cà rồng? điều này vẫn đang chờ câu giải đáp của các vị nghiên cứu huyền thuật, ma quỷ phương Tây. Tuy nhiên, một điều không thể phủ nhận là linh khí đất đai ở những nơi đó tạo ra chủng loại này. Ở những nghĩa địa lâu năm trong các làng ven núi các vùng Rumani, Balan, người ta nghe có những tiếng động ở dưới đất. Khi mở những ngôi mộ ra, họ thấy những xác chết- cả đàn ông và đàn bà đều hãy còn tươi tắn như đang sống, máu hồng làm thắm những đôi môi của họ, phải chăng họ đã dùng máu để nuôi sống thể xác? Để có thể tự cứu vãn linh hồn và cuộc sống của mình, dân làng đã đóng cọc vào tim các xác chết, sau đó bỏ làng dọn đến cư ngụ ở những làng khác, vì những làng xung quanh cũng có nghĩa địa, nhưng tại sao không hề có hiện tượng này. Trong quyển tiểu thuyết “Dracula” của nhà văn Bram Stoker, ta thấy bá tước ma cà rồng Dracula khi đi sang đất nước khác đã cho chở theo những chiếc thùng chứa đấy đất ở lâu đài mà hắn ở. Phải chăng những thùng đất ấy là nguồn sống của chủng loại này? 
Những vùng giáp Vân Nam – Trung Quốc và Tây Bắc nước ta, có một số làng bản có người chết, họ không chôn xuống đất mà đục vách núi đặt quan tài vào hoặc đưa quan tài vào những động đá sâu thẳm trên dải Hòang Liên Sơn rộng lớn. Phải chăng những vị đạo sĩ, thầy mo ở đó đã nhận ra điều gì bất bình thường từ trong đất? 
Cách chống ma cà rồng thường là nước Thánh, các vật đã được làm phép Thánh, Thánh giá, tỏi… biện pháp trừ tận gốc ma cà rồng là đóng cọc vào tim, cắt đứt đầu, nhét tỏi vào miệng xác chết và cuối cùng là thiêu hủy ( mấy vụ này là do đọc sách với lại xem phim mà kể lại, không phải do kinh nghiệm thật). 
Vêtala ở Ấn Độ cũng là một loại quỷ nhập tràng. Ngày xưa, Ấn Độ có phong tục quấn vải vào xác chết, đem thây vào rừng, treo lên cành cây hoặc để dưới gốc cây cho đến khi rữa nát. Nơi để xác chết được gọi là Thi Lâm Một loài quỷ sống ở đó đã mượn những xác còn mới để sống dậy trở thành Vêtala, ăn thịt những xác thối xung quanh. Chuyện kể rằng, có một tay nhà buôn gần sạt nghiệp, được vị đạo sĩ huyền thuật tặng cho câu chú luyện Vêtala hy vọng đổi đời. Anh ta phải ra nghĩa địa, ngồi lên bụng xác chết mà trì tụng bảy đêm, cho đến khi nào xác chết cử động được và chịu hàng phục thì anh ta sẽ toại nguyện. Trì đến đêm thứ bảy, xác chết bổng mở mắt nói cười, anh nhà buôn hỏang hốt vọt mình bỏ chạy. Nhưng dù anh có đi đến đâu, con quỷ Vetala trong cái xác vẫn chạy theo tìm bén gót. Cho đến một ngày, anh quẫn trí nhảy lầu tự vẫn… (Tài liệu về loại quỷ này mình cũng không có, chỉ một ít cóp nhặt được từ trong sách vở dân gian của Ấn Độ trước đây mà thôi). 
Ở Trung Quốc, phép luyện cương thi đã có từ lâu, nhưng phổ biến nhất là vào giai đọan cuối TK XIX, đầu TKXX khi Trung Quốc chuyển dần từ thời phong kiến sang thời kì Trung Hoa Dân quốc. Mục đích luyện cương thi của các đạo sĩ ban đầu là chính đáng. Có những người đi làm ăn buôn bán, làm quan kinh lý xa nhà, bạo bệnh mà chết dọc đường. Nếu mang xác chết về đến quê nhà e rằng đã trở thành đống xương mục nát. Vả lại, đường xa, xác chết bốc mùi làm sao chịu thấu. Các thầy đạo sĩ đã dùng phép luyện cương thi, mở cõi trung giới trục thỉnh một số chủng loại nơi này nhập vào xác chết, giúp cho xác chết đông cứng, di chuyển được theo chuông ngủ cổ của thầy. Do cương thi sợ ánh sáng mặt trời nên các thầy chỉ di chuyển vào đêm, vừa tránh dương quang vừa dễ di chuyển mà không phiền phức. Khi đưa về đến quê nhà, thường thì đạo sĩ sẽ tẩn liệm đàng hòang rồi mới làm phép giải thi, đưa các chủng loại ấy trở về cõi trung giới. Việc giúp người chết hồi quy cố hương của các đạo sĩ tạo điều kiện cho các chủng loại trên tạo lập công đức ngõ hầu siêu sinh, tiến hóa. 
Tuy nhiên, càng về sau những đạo sĩ bất chính đã lợi dụng phép luyện cương thi để làm vật hại người, làm điều mờ ám như buôn bán thuốc phiện, chuyên chở thuốc súng… hàng được dấu trong mình cương thi, thậm chí họ còn giả cương thi để mang hàng. Mà mấy ai ngày xưa dám ngăn chặn đạo sĩ để khám xác chết bao giờ? Mãi về sau sự việc vỡ lỡ, nhà nước cấm đóan, phép luyện cương thi dần dần mai một…
Quỷ nhập tràng xuất hiện trong các câu chuyện dân gian, xuất hiện cả trong các tác phẩnm văn học lớn. Sách “Liêu trai chí dị” của Bồ Tùng linh có câu chuyện “Thi biến”. Câu chuyện như sau: 
“Huyện Tín Dương – Trung Quốc có một người làm nghề buôn bán hàng quán, cho khách trọ đêm, cách thành đô năm sáu dặm. Một hôm trời tối, có bốn người khách buôn gõ cửa xin trọ, nhưng quán của ông đã không còn phòng. Bốn người khách không biết đi đâu nên mới van xin. Sau một lúc cân nhắc, ông chủ quyết định để các vị khách của mình vào nghỉ ở phòng trong. Nơi quàng xác đứa con dâu mới chết. Lúc ấy, con trai ông đi mua quan tài chưa về. Trong nhà trong còn đủ giường chiếu, xác chết được phủ chăn giấy nằm ở phía sau tấm trướng. Mấy người khách buôn mệt mỏi đặt mình xuống là ngủ ngay, chỉ có một người còn mơ màng. Chợt anh ta nghe phía linh sàng có tiếng động, mở mắt ra nhìn, anh thấy xác người phụ nữ lật chăn bò dậy, bước xuống đất tiến về phía giường ngủ bốn người. Anh ta sợ quá kéo chăn trùm kín đầu, nín thở lắng nghe. Xác chết lần lượt đến thổi vào từng người, sau đó quay trở lại linh sàng. Người khách buôn vội lay các bạn dậy nhưng họ đã lạnh cứng. Hỏang hốt, anh bò dậy tháo chạy ra ngoài, thây ma đang nằm liền vùng dậy đuổi theo. Anh chạy đến đâu, xác chết đuổi theo đến đó, chạy đến một ngôi chùa, phía trước có một cây bạch dương to đầy một ôm tay. Anh lái buôn liền chạy vòng quanh cây với xác chết như chơi trò cút bắt. Đuổi nhau mãi như thế đến khi anh ta mệt nhoài đứng thở hồng hộc, chợt thây ma bổng nhảy xổ lên vươn hai tay chộp qua cây, khách kinh hãi ngã vật ra bất tỉnh. Trong chùa nghe tiếng la hét vội đốt đèn chạy ra, nhìn thấy người khách nằm cứng đờ vội đưa vào trong cứu chữa. Đến trời tờ mờ sáng, khách tỉnh dậy kể đầu đuôi sự việc, mọ người ra ngoài xem, quả nhiên thấy xác người đàn bà đang đứng ôm vòng thân cây. Hai tay quắp chặt vào cây như móc câu, ngập cả móng. Đến khi kéo ra được, thân cây lủng sâu như đục lỗ…” 
Ở Việt Nam, quỷ nhập tràng thường xuất hiện ở những vùng quê hẻo lánh, vùng đồi núi Trung du vắng vẻ bóng người. Trước đây, khi dân cư còn thưa thớt, thỉnh thỏang người ta vẫn kể cho nhau nghe những câu chuyện nửa hư nửa thực về loài quỷ này. 
Học giả Toan Ánh cũng có một câu chuyện thật về quỷ nhập tràng ở vùng quê miền Bắc…. 
Cách nay hơn bảy mươi năm, ở làng Dũng Quyết, huyện Quế Dương xứ Kinh Bắc có người đàn ông tên Tòng bị bệnh chết. Trong khi đang chờ khâm liệm, ông chợt sống lại, không nói không cười, thân thể cứng đơ, đôi mắt trừng trừng như mất hồn không hề nhắm. Từ khi ông sống lại, gà vịt trong nhà mất tích một cách khó hiểu, cho đến khi con cháu trong nhà phát hiện ông đang xé xác con chó để ăn sống bộ đồ lòng. Gia đình rước ông Tự Xung ở huyện Vô Giang về chữa trị, nhưng ngay cả Tự Xung cũng bị ông Tòng cắn đứt miếng thịt vai. Bùa phép không hiệu quả, ông Tòng cứ sống như một thây ma… Cho đến một ngày, sư bà trụ trì chùa Nguyệt Giáng xuất hiện. Bà không chữa trị, chỉ lấy Phật Ấn dán ở hai đầu chái nhà, trên nóc nhà, sau đó lặng lẽ tụng kinh trì chú. Sau ba ngày đêm trì tụng, thây ma ngã gục xuống, thối rữa nhanh chóng, lúc nhúc dòi bọ… 
Còn đây là câu chuyện do thầy Tư Nhang kể lại… 
Năm 1957, ở huyện Bù Đăng Bù Đốp- tỉnh Sông Bé có đứa bé gái con dân tộc thiểu số. Khi sinh ra nó không có xương sống, không đi được, không nói được,chỉ trườn bò mà thôi. Nuôi đến 3 tuổi thì nó chết. Người ta đem xác nó để ngài rừng 1 ngày thì nó sống lại, bò về nhà. Ở nhà thấy kì lạ lại tiếp tục nuôi nấng. Từ đó, mỗi tối khi mọi người ngủ, nó lại bò đi bắt gà và gia súc để ăn bộ đồ lòng. Về sau cả làng rình phát hiện đòi giết ,ông Cai Tổng vùng đó theo Tây học nên không đồng ý. Cả nhà liền đóng chiếc cũi lớn, bỏ nó vào khiêng sâu lên núi bỏ cho mất tích. Từ đó về sau làng không xảy ra chuyện gì lạ nữa. 
Quê của Thanh ở miền Tây, ở đó dân Cái Bè vẫn còn truyền miệng nhau câu chuyện về bà cụ trên 70 tuổi bệnh chết nửa ngày rồi sống lại. Bà cũng không nói năng gì, thấy ai ăn gì là chạy đến giật lấy bỏ vào miệng nhai ngấu nghiến. Có lúc bà ngồi tự gặm lấy tay mình đến tróc thịt bày gân xương ra trắng hếu, máu chảy ròng ròng mà bà ta còn tỏ vẻ ngon lành lắm. Cả nhà hoảng hốt băng bó cẩn thận, bà lại tiếp tục gặm đến tay kia. Đành phải trói bà lại vào thành giường và rước thầy pháp tới chữa. Rước đến cúng buổi sáng thì buổi tối trong nhà nghe tiếng khóc than rì rào không ai ngủ được. Quá sợ hãi, cả nhà bắt bà đem vào nhà thương điên, ba ngày sau bà chết… 
Đó là những câu chuyện truyền miệng trong dân gian, yếu tố thực hư chưa phân biệt rõ. Tuy nhiên, cái mà ta cần biết không chỉ là chuyện kể. Sâu xa hơn là sự nghiên cứu tìm tòi về chủng loại này. Theo sở học cá nhân Thanh, quỷ nhập tràng xuất hiện là do bởi những yếu tố sau: 
1/ Linh miêu nhảy qua xác chết: 


Đây là giả thiết nhiều người truyền tụng nhất. Nhưng linh miêu là có thiệt. Nó là con của một con mèo mun cái bị rắn hổ ngựa quấn lấy vào ngày tết Đoan NGọ trong năm. Đặc điểm của linh miêu khác hẳn với những con mèo khác. Nó mình dài, đuôi dài, mõm dài hơn bình thường so với những con mèo khác. Cách bắt chuột của linh miêu cũng không bình thường. Nó thường leo lên xà nhà cao đứng trên đó nhìn xuống bằng đôi mắt sáng quắc như quan sát, nhìn ngó sinh hoạt của mọi người trong nhà. Nó không bắt chuột mà chuột tự bò ra nạp mạng như bị thôi miên. Từ trân xà nhà cao, nó lao xuống vồ chuột nhanh như chớp. Trong người linh miêu có một thứ từ điển ma mị, khi nó nhảy qua xác chết, sức mạnh ma quái của nó vô hình chung phá mở cánh cửa trung giới , lôi kéo các chủng loại nào đó về nhập xác mà sống dậy. 
Những người Chăm gốc Chà ở quận 8, khi nhà có tang thường bắt hết chó mèo trong nhà trói gô lại hoặc nhốt chúng vào lồng thật kỹ lưỡng. 
2/ Do thầy bùa trục luyện : 
Ở vùng Trà Sư- Thất Sơn, có một số thầy tu luyện được pháp này. Không biết có giống với phép luyện cương thi bên Trung Quốc hay không nhưng hiện tượng thì không khác mấy. Nhửng chủng loại bên ngoài tá nhập vào thể xác đã chết rồi, làm việc theo sự sai luyện của thầy. Giống này, trong giới huyền thuật gọi là ĐUÔN. tại sao gọi là ĐUÔN? Giống như con đuôn ăn rỗng ruột đọt dừa , khi nhập vào xác chết, nó ăn lần trong ruột xác chết để kéo dài sự sống trên thế gian, ăn đến khi xác rỗng hoàn toàn thì người thầy tìm một xác mới để trục luyện chúng sang. Ph ép luyện này tàn độc, chỉ khi nào căm thù nhau lắm đến mức không đội trời chung,người thầy mới sử dụng. Buổi tối, thầy làm phép trục, ĐUÔN sẽ đến nhà kẻ thù của thầy để xé xác kẻ đó.Thanh có đọc được tài liệu trước 1975 về phép luyện này của một thầy phù thủy miền Bắc, muốn sai khiển được ĐUÔN, thầy phải giữ trái tim người chết thật kĩ, dùng trái tim ấy là vật sai khiến ĐUÔN. Chẳng may pháp đàn bị phá hủy, nạn nhân tiếp theo sẽ chính là người thầy tế  luyện. Làm phép này, người thầy đã bước một chân vào địa ngục rồi đó. 
Trong một lần về núi, được nghe một thầy Chà kể lại rằng: Có một người bệnh nặng sắp chết, bác sĩ chẩn đóan ung thư đến giai đọan cuối không còn sống được quá 24 giờ. Cả nhà cuống cuồng, kẻ thì lo rước thầy, người thì lo hậu sự. Có một ông thầy đến xem và khẳng định sẽ kéo dài sự sống cho bệnh nhân đến khi con cháu ở nước ngoài về đủ. Sau khi làm phép, thầy lấy một số tiền rồi biến mất. Quả thật đúng như lời thầy, người bệnh khỏe mạnh trở lại, đi đứng như thường khác hẳn những ngày trước chỉ nằm 1 chỗ. Điều đặc biệt nữa là không nói không cười, ăn uống mạnh bạo chẳng khác gì thanh niên, lại thích ăn tiết canh, thịt bò tái. Đến khi con cháu nước ngoài về đầy đủ, người nhà cũng chẳng thấy vẻ gì là bệnh họan. Trải qua gần 1 tháng, một hôm có vị sư tu theo hạnh khất sĩ tình cờ khất thực ngang nhà, ông đứng ngó vào nhà chăm chú, không chịu bỏ đi cho dù người nhà đã cúng dường. Chờ đến giờ cơm, sư tự nhiên vào nhà hướng về người bệnh chắp tay lần thầm chú nguyện. Bỗng người bệnh bật ngửa ra đất chết tươi. Trong chốc lát, cả nhà bịt mũi chạy làng vì thân thể người bệnh chợt trường phình lên thối rữa nhanh chóng. Vị sư khi không gánh chuyện thế gian, bị người nhà bắt lại toan giải lên công an vì tội “giết người”… 
Ông thầy muốn lấy le với gia đình, chắc chắn đã trục binh hoặc những vị bên trung giới vào giữ xác. Vô hình chung thể xác người bệnh biến thành quỷ nhập tràng. Nếu không có vị sư khất thực thì … không biết hậu quả sẽ ra sao. 
3/ Người chết có uất khí, khi chết lại nhằm ngày giờ linh: 


Trước khi chết, uất khí không tan, người chết không bao giờ chịu đi vào Âm Dương đạo. Thế nào cũng thành ma ở lại thế gian. Nếu chôn xác nhằm vào cuộc đất “có vấn đề” như đã trình bày ở trên, việc thành quỷ nhập tràng là điều không tránh khỏi. Tuy nhiên, loại này ở VN ít thấy ( hoặc có mà Thanh không biết). 
Người chết đi vào ngày giờ linh nếu không bị thần trùng thì cũng làm quỷ, một trong những loại ấy là quỷ nhập tràng. Sự thật, hồn người chết đã đi mất từ bao giờ. Nhưng thể xác còn ở lại thế gian cho linh giới chiếm giữ. Người nhà không biết, cứ tưởng hòan dương, lo cung phụng tẩm bổ, chữa trị tiếp tục cho đến khi chân tướng thật của quỷ hiện ra. 
Quỷ nhập tràng có những đặc điểm khá rõ. Sau đây là kinh nghiệm bản thân về chủng loại này: 
- Xương sống của người nhập tràng thường cứng, nên thường ngồi không nằm. Đêm thức trắng không ngủ, mắt không bao giờ thấy nhắm dù ngày hay đêm. 
- Người bị nhập, bước lên kẽm gai, miểng chai đâm thủng thịt vẫn không hề hay biết, cảm giác. 
- Ngồi nơi nào, thì sau khi rời đi, chỗ đó có nước vàng nhớt, hôi thối đọng vũng. 
- Lấy gương để trước mặt người bị nhập, thì nó quay đi không dám ngó vào gương. 
- Quỷ nhập tràng hay sợ tới gần bếp lửa đang cháy ( trong kinh nghiệm dân gian của Toan Ánh thì quỷ nhập tràng sợ nước), chúng ăn rất nhiều mà khi đi cầu vẫn còn nguyên tất cả vật thực. Có lẽ thể xác đã chết, các bộ phận không còn hoạt động nên không thển tiêu hóa được. 
- Nhà có người bị quỷ nhập tràng thì bao giờ cũng có cảm giác lạnh, thoang thỏang mùi hôi thối, cho dù ở nhà có lau dọn xông hương cỡ nào đi nữa. 
- Không giống các vị thần thường thích thể xác thanh tịnh, đồng nam đồng nữ, đối tượng nhập của quỷ nhập tràng thường là người lớn tuổi, có gia đình, thể xác bệnh họan uế trược. 
- Nhà nào có hiện tượng này thì giai đọan đó gia đình làm ăn suy sụp, đỗ vỡ. 
- Trong thời gian nhà có người bị, thức ăn rất mau thiu. Khi nấu nướng xong, khỏang 2 giờ sau là trở nên nhạt nhẽo, hư hoại, có mùi. 
- Lúc người bị nhập đã chết hẳn, thì đêm đó trong nhà nghe như là tiếng mèo đuổi chuột, tiếng bình bông bị vỡ hoặc chén bát để trong kệ cũng tự nhiên vỡ nứt. 
- Một điều quan trọng nhất là quỷ nhập tràng không sợ bùa chú, ngũ lôi hoặc binh gia. Chỉ có Mật chú của chư Phật hoặc có chư tăng đạo hạnh tụng kinh cầu nguyện nó mới xuất ra. Trước đây, Thanh và huynh đồng đạo Bửu Sơn đi chữa bệnh cho chị một đạo hữu. Đến nơi mới biết bà ta đã trở thành quỷ nhập tràng. Cứ kiếm xó tối mà ngồi, hai con mắt trong bóng tối sáng long lanh, không khí xung quanh hôi thối và lạnh lẽo…Hai đứa cứ làm phép trị tà nhưng chẳng thấy bà ta có động tĩnh gì. Thanh và huynh Bửu Sơn chuyển sang trì Đại Bi chú, công năng thấy rõ. Bà ta tỏ vẻ sợ hãi, bịt tai nép mình vào góc cầu thang… Một tuần lễ sau bà ta chết… 
Những câu chuyện trên đây có sưu tầm, có thực tế. Những điều trải nghiệm chưa hẳn là chính xác hòan tòan. Rất mong các vị cao nhân hiểu biết hơn bổ sung kiến thức ngõ hầu cho mọi người được học hỏi.
THANH PALI - Thegioibuangai.com.

Bổ sung:

Ở một dải đất Bảo Khánh huyện Thường Đức tỉnh Hồ Nam trước đây, tập tục tương truyền về một phép gọi là di chuyển xác chết. Những vị đạo sĩ ở đây có một thứ chú ngữ đặc biệt bí mật dùng để trục gọi linh giới nhập vào giữ xác. Muốn cho xác chết di chuyển, họ cắm một cây phướng dẫn hồn lên xác chết rồi hướng về thây ma niệm chú. Xác chết bỗng cử động được như cái máy và di chuyển theo đạo sĩ. 
Khi đến quán trọ, họ đem thây ma đặt ở ngoài phòng, đứng úp mặt vào tường. Khi cần qua sông, họ đem thây ma đặt ở cuối khoang thuyền hoặc ở đầu thuyền. Như thế có thể bình an về tới quê hương... Sau này họ di chuyển vào ban đêm và ngủ ở đền miếu bỏ hoang chẳng qua là sợ mọi người để ý hoặc sợ hãi đó thôi. Dù cuộc hành trình kéo dài cả tháng, dù trời nóng bức hay mưa dầm, xác chết cũng không biến đổi chút nào và cũng không phát ra mùi hôi thối. 
Nhưng có một điều cấm kị là không được để xác ngã vật ra đằng sau, vì khi đó xác sẽ bốc mùi, giòi bọ lúc nhúc, không sao dựng xác trở dậy được nữa. Về đến nhà, người thân đã chuẩn bị áo quan sẵn sàng, đạo sĩ lập tức chỉ huy mọi người đưa xác vào quan tài, đóng nắp lại ngay. Nếu không, chừng hai giờ sau, xác chết sẽ nát rữa, không sao gom lại được. 


Phép chuyển xác này đã có từ mấy ngàn năm, nhưng nhiều người không rõ nguyên nhân từ đâu. Có một truyền thuyết để lại trong giới luyện đan (tu tiên gia) cho rằng phép này truyền lại từ Lý Thiết Quài, vị tiên trưởng trong Bát Tiên. Ông đã truyền phép này cho Huyền Châu Tử nhằm dễ dàng đưa xác Đông Phương Sóc về Hải Ninh... câu chuyện thế này... 
Đời vua Hán Vũ Đế, Đông Phương Sóc làm quan trong triều nhưng bí mật tu tiên. Sau này thành tựu các pháp, thần thông quảng đại nên thường giở trò du hí. Hán Vũ Đế muốn cầu trường sinh nên bắt Đông Phương Sóc hái cho một trái đào. Lịnh vua khó cãi, vả lại muốn hóa độ nhà vua nên Đông Phương Sóc lẻn lên thượng giới ăn trộm đào tiên. Việc này phạm luật trời vì vậy ông bị số chém đầu. 
Lúc ấy, Hán Vũ Đế say mê một thuật sĩ khác là Lý Thiếu Quân, vốn là rùa quạ thành tinh vào triều mê hoặc nhà vua. Thiếu Quân đã từng quây màn trướng, hóa sương mù triệu hồn Lý Phi nương nương về cho Vũ Đế gặp mặt... nhưng đó lại là một câu chuyện khác. Được trọng dụng, Thiếu Quân tìm cách *** hại Đông Phương Sóc. Viện cớ ông này phạm tội khi quân, Lý Thiếu Quân mượn Thượng Phương bảo kiếm của vua chém đầu Đông Phương Sóc. Mỗi lần chém xong, đầu mới lại mọc lên... Cuối cùng Lý Thiếu Quân phải lấy ngọc tỉ của vua đóng vào vải vàng, đợi đầu Đông Phương Sóc vừa rụng là án ngay vào chỗ chém. Ngọc tỉ nhà vua đã làm cho phép thay đầu của Đông Phương Sóc vô dụng. Ông đành chịu chết. Sau, Huyền Châu Tử theo lời chỉ dẫn của Lý Thiết Quài, gắn đầu vào thân, giắt lá phù Cửu chuyển hòan hồn vào tóc, cắm lá phướng dẫn hồn vào người mà dẫn xác của Đông Phương Sóc về Hải Ninh để hòan tất duyên phần. Sau này, Huyền Châu Tử phạm luật trời, để dân bị ngập lụt chết nhiều nên bị hóa thành hạc trắng trong 500 năm lập một vạn công đức mà tu thành chánh quả. Tương truyền, phép dẫn thi chính là do Huyền Châu Tử truyền lại thế gian này... 
Bổ xung :
Nhân thấy huynh nói đến ”con linh miêu” nên xin mạn phép bàn góp đôi lời, may ra có thể giải tỏa được thắc mắc trong lòng HaiPhong chăng. 
Với khoa học thì linh miêu không thể nào có thật, vì loài có vú và loài bò sát cách nhau quá xa, không thể nào thụ tinh và lai giống được. Nhưng đối với giới huyền thuật thì sinh vật này có thật, và còn được dùng để luyện phép nữa. Hì hì, xin được miễn nói ra linh miêu dùng để luyện phép gì. Ở đây cao thủ huyền môn nhiều như lá mùa thu, chắc các cao thủ dư biết linh miêu được dùng để luyện phép gì rồi. Biết rồi cười mím mím thôi nhe. Huynh, đệ, tỉ, muội nào chưa biết, thì xin đừng hỏi, và cũng đừng nóng lòng muốn biết. Có duyên sẽ biết thôi. 
Huynh Thanh-Pali ơi, hồi đó, khi chưa nhập môn, HaiPhong vẫn thường theo chầu rìa thầy và các sư huynh sau này của HaiPhong, và được nghe các sư huynh kể về linh miêu giống như huynh kể vậy. Các sư huynh của HaiPhong có kể cho HaiPhong nghe thêm vài chi tiết như sau: 
Linh miêu thường hay sống và chết ở ngoài đồng, hay nơi mồ hoang, mã lạc. Linh miêu có linh tánh, có ai muốn bắt nó, nó liền biết và trốn ngay. Muốn dùng linh miêu luyện phép, tốt nhất là dùng linh miêu đã chết, phần vì khó mà tìm và bắt được linh miêu sống. Phần vì gặp được xác linh miêu chết, thì xem như mình có duyên luyện được phép vậy. 
HaiPhong đã trải qua một việc, khiến hai mươi mấy năm nay, mỗi khi nghe đến hai chữ ”linh miêu” là nhớ lại chuyện xưa, lòng vẫn còn thắc mắc. 
Chuyện như sau, hồi đó, sau khi nghe các sư huynh kể về linh miêu, nghe rồi để đó, như nghe một truyền thuyết, không mong gì gặp hay bắt được con vật có linh tánh này. Cho đến một ngày… 
Cuối xóm của HaiPhong có một nghĩa địa lớn, mồ mã được xây lộn xộn, không theo hàng lối. HaiPhong cùng những người bạn lối xóm, lớn, nhỏ thường ra nghĩa địa này chơi vào buổi trưa, hay chiều. Buổi tối chỉ dám ra, khi tụ họp được một nhóm đông người. 
Một buổi trưa mùa hè, nắng gắt, không biết mắc chứng gì, HaiPhong lang thang ra nghĩa địa một mình, đi từ ngôi mộ này sang ngôi mộ khác. Đến một ngôi mộ xây rất thấp, lưng mộ bằng phẳng, thì bắt gặp một đống da, lông bầy nhầy, vài cái xương sườn, xương chân và một cái sọ. Nhìn vào cái đống bầy nhầy này, HaiPhong biết ngay là phần còn xót lại của một con mèo chết. Lòng nhủ thầm ”không biết con mèo này chết hồi nào, mà rã trơ xương như thế này? Hay là có quạ, chó gì xơi xác con mèo này?” Vừa nghĩ đến đây, HaiPhong chợt nhớ đến lời các sư huynh kể về linh miêu. Nhìn cái xương sọ trắng hếu, sạch trơn HaiPhong định lượm, nhưng chợt nghĩ ”Hay là chạy về gọi mấy anh luyện bùa ra đây lấy sọ linh miêu về. Không chừng mấy ảnh phải làm phép trước khi lượm về luyện phép”. Nghĩ vậy, HaiPhong liền chạy ù vào xóm và gặp ngay hai anh đang ngồi tán dóc trước thềm nhà hàng xóm. HaiPhong nói ngay ”Hai anh theo em mau, có cái này hay lắm, đang ở ngoài chòm mã”. Hai anh chàng nhìn bộ dạng hớt hơ, hớt hải, vừa chạy vừa nói của HaiPhong, thì tin là có chuyện gì lạ đây, nên liền đứng dậy chạy theo. Vừa chạy vừa hỏi ”Chuyện gì vậy?” HaiPhong nói nhỏ ”Hình như có xương sọ của con linh miêu ngoài chòm mã”. Hai anh chàng tự dưng như phát cuồng lên, vừa chạy vừa la ”mau lên, mầy chạy chậm quá vậy”. 
Ra tới nơi, thì lạ chưa, da, lông, xương sườn, xương chân còn đó, nhưng cái xương xọ thì đã biến mất! Hai anh chàng dòm tới, dòm lui, rồi hỏi ”Đâu, xương sọ đâu?”. HaiPhong giơ tay ra chỉ và nói ”Hồi nãy nó nằm chần dần ở đây, bây giờ đâu mất tiêu rồi, sao chỉ còn lại da, lông, xương sườn, xương chân không vầy cà!” Nhìn đống da, xương, hai anh chàng tin là HaiPhong không nói dóc, nên vừa lục tìm dáo dác sang các mả bên cạnh, vừa nói ”Mầy nhớ kỹ coi, có phải chổ này không”. HaiPhong trả lời ngay ”Thì ở đây chớ đâu. Da, lông, xương còn rành rành đây mà!”. Lục tìm một lúc không được gì, một trong hai anh xà vào một bụi cây gần đó, bẽ một nhánh, đếm lá trên nhánh cây, miệng lẫm bẫm ”Chắc nó biến mất rồi, không tìm được đâu”, nhưng vẫn tiếp tục tìm. Lục tìm thêm một lúc nữa, hai anh chàng đành chịu thua, đi lững thửng vào xóm, mặt mày tiu ngĩu như vừa đánh mất vật gì quí giá lắm. HaiPhong lẽo đẽo theo sau. Một trong hai anh quay lại nói với HaiPhong ”Mầy ngu quá, gặp không chớp liền, chạy về kêu tụi tao làm gì, lại còn nói tên nó ra nữa, nó nghe được nên… biến mất rồi. Chuyện này không được nói với ai, nghe mậy!”. HaiPhong thấy quê quê, nên ậm ừ cho xong chuyện. 
Khoảng một tuần lễ sau, HaiPhong đi la cà trong xóm, thấy thầy trò các anh ngồi nói chuyện, liền xà vào nghe ké. Nói hết chuyện đời, qua chuyện đạo, sang đến phần nói về các linh vật luyện phép, thì một trong hai anh đi tìm sọ linh miêu với HaiPhong hôm trước, chính là anh đã căn dặn HaiPhong không được nói ra chuyện tìm sọ linh miêu, nhịn không được bèn kể với thầy ”Hôm trước, thằng Phong thấy… ở chòm mã… sương sọ… ra đến… mất tiêu!” Thầy nghe xong im lặng ra chiều suy nghĩ, nét mặt phản phất chút nuối tiếc, ngẫn ngơ. Bất chợt thầy cười khà khà, có lẽ thầy cười cái tánh khờ khờ, trẻ con của HaiPhong, rồi nói ”Các linh vật luyện phép, phải có duyên may mới gặp được, gặp rồi không lấy, để cho duyên may đi qua, làm sao tìm lại được!”. 
Hai mươi mấy năm qua, trong đầu HaiPhong luôn phân vân giữa hai giải đáp. 
Gải đáp thứ nhất là con linh miêu có thật. Và nó có tánh linh đến độ chết trơ xương, vẫn biết biến mất, không cho người ta lấy phần xương của nó luyện phép. 
Giải đáp thứ hai dễ tin và có vẽ khoa học hơn. Đó là sự biến mất của chiếc xương sọ chỉ là một sự trùng hợp. Trong lúc HaiPhong chạy vào xóm, rồi chạy trở ra, con chó nào đó đã thấy và tha cái sọ đi chỗ khác để xơi tái. Nếu quả thật cái sọ bị chó tha đi, thì con chó tinh quái nầy có biết chăng, việc nó chỉ tha chiếc sọ, bỏ lại xương sườn, xương chân, đã gieo một thắc trong lòng HaiPhong suốt hai mươi mấy năm qua? 
Huynh Thanh-Pali và các huynh, đệ, tỉ, muội, ơi, như vậy con linh miêu có thật không? Cái xương sọ HaiPhong gặp là xương sọ của linh miêu, hay chỉ là sương sọ của một con mèo bình thường?

Nguồn gốc ma cà rồng 
Báo Interfax của Nga cách đây không lâu đưa tin, một thanh niên ở tỉnh Kaliningrad dùng dao sát hại một cụ già, sau đó ngửa miệng hứng lấy dòng máu chảy ra từ vết thương. Đài BBC (Anh) trước đó cũng từng phản ánh sự việc tương tự: công dân Mathew Hardman 17 tuổi mưu sát người hàng xóm, hút máu hòng mong được... trường sinh. 
Báo chí các nước không ít lần được phen rùm beng bởi những câu chuyện rùng rợn như thế. Phải chăng, đó là bằng chứng sống về sự hiện diện có thật của ma cà rồng? 
“Chắc chắn là không” - Sergei Vasilyev, giáo sư Viện khoa học Y khoa khẳng đinh. “Số trường hợp cá biệt này đơn thuần là những kẻ điên loạn được gọi chung bằng cái tên “Quỷ Sa-tăng”. Họ hút máu người để phục vụ nghi thức tín ngưỡng nào đó. Họ cũng không thuộc lớp người bệnh hoạn mà dựa theo đó hình tượng ma cà rồng thời Trung cổ bắt đầu được dựng lên”. 
Theo truyền thuyết, ma cà rồng xuất hiện lần đầu tiên cách đây hàng nghìn năm có lẻ. Tư liệu của Tòa án dị giáo (do giáo hội Thiên chúa La Mã lập ra từ thế kỷ 15) còn ghi lại mô tả chi tiết về những sinh vật hút máu người: màn đêm buông xuống mới là lúc chúng rời hầm mộ đi tìm nạn nhân đang say ngủ, chúng sợ ánh sáng mặt trời, mắt trắng điên dại và răng nanh nhọn hoắt. 
Bác sĩ người Anh Lee Eallis là người đầu tiên nghiên cứu ma cà rồng dưới góc nhìn của khoa học. Ông đưa ra giả thuyết về mối liên hệ giữa “những sinh vật hút máu được quy chụp cái tên ma cà rồng” và bệnh porphyria - một triệu chứng rối loạn di truyền hiếm gặp, gây ra bởi sự xáo trộn trong quá trình biến dưỡng thực phẩm mang sắc tố đỏ tươi khi đưa vào cơ thể. 
Năm 1963, Eallis gửi lên Hội Y khoa Hoàng gia Anh công trình nghiên cứu “Porphyria và nguồn gốc Ma cà rồng”. Đáng tiếc, tác phẩm này nhanh chóng bị các thành viên trong Hội bỏ quên, mãi cho đến giữa những năm 1980 mới được giáo sư Wayne Tikkanen, một đồng nghiệp của Eallis, chú ý và khôi phục lại giá trị. 
Vậy, do đâu mà xuất hiện ma cà rồng? 
Các nhà khoa học khẳng định, nguyên nhân chính là căn bệnh porphyria - một loại bệnh gen di truyền làm ảnh hưởng đến các sắc tố dưới da. 
“Vào giai đoạn cuối, khuôn mặt bệnh nhân porphyria bị biến dạng một cách kỳ dị và hãi hùng, tới mức ngay cả chủ nhân của nó cũng không đủ can đảm soi gương. Nước da sạm lại, nướu răng bắt đầu tróc ra từng mảng khiến cho gốc chân răng càng chìa hẳn ra ngoài. Lợi chuyển sang màu đỏ quạch, ri rỉ máu máu, trông như thể hàm răng vừa cắm ngập vào... cổ ai. 
Thêm nữa, những người này cũng rất sợ tiếp xúc với ánh sáng, bởi sẽ làm da phồng rộp và nhiễm trùng. Do đó họ chỉ dám ra ngoài vào ban đêm. Rối loạn tâm lý phát sinh từ hoàn cảnh tù túng ức chế này”. Không ít bệnh nhân porphyria rơi vào trạng thái cuồng loạn đã nảy ra ý nghĩ điên rồ: tìm hơi máu để làm dịu cơn đau đớn. 
“Porphyria là căn bệnh bí hiểm nhất mọi thời đại” - giáo sư Vasilyev cho biết. Hiện nay các bác sĩ vẫn đang tiến hành tìm kiếm các phương thức điều trị bằng gen, kết hợp biện pháp trước mắt là truyền máu. Tuy nhiên việc truyền máu tỏ ra không hiệu quả khi bệnh bước vào giai đoạn cuối. Cũng may, số người mắc căn bệnh nguy hiểm này không nhiều, trên thế giới hiện mới chỉ ghi nhận được hơn 100 trường hợp. 
Người ta đồn đại rằng, Hennelora Kohl - phu nhân cựu thủ tướng Đức Helmut Kohl cũng là một bệnh nhân porphyria. Không diễn tả nổi sự đau đớn của bà mỗi lần da tiếp xúc ánh sáng mặt trời. Suốt một thời gian dài bà đã phải giấu mình trong phòng kín, trước khi tự sát tại nhà riêng ở thành phố Ludwigshafen vào ngày 
Hải Minh - Theo Pravda
THAM KHẢO THÊM.
TIỂU QUỶ NHĨ BẢO PHÁP.
  Mao Sơn Tiểu Quỷ Pháp 

 Pháp này thuộc 1 dạng Âm Hồn Nhĩ Báo Pháp có thể nói là Quỷ Thuật,  một  vài  Phương  Sĩ  lại  gọi  là Dưỡng  Tiểu Quỷ  Pháp,  ở  phía Nam Đại Thanh  ta  có  đất Ai Lao, Thái Quốc,  cũng  có  những  Pháp Dưỡng Tiểu Quỷ nhưng đó thuộc tà pháp, những kẻ luyện pháp này thường mang mục đích bất thiện, nuôi dưỡng tà tâm bởi vậy nên gọi pháp này là tà pháp âu cũng không  thái quá, pháp Âm Hồn Nhĩ Báo Pháp này  lấy mục đích sử dụng  Tiệm  linh***  để  giúp  đỡ  Thuật  Sĩ  dự  báo  những  việc  cát  hung, thông thường thuật sĩ tế luyện pháp này chỉ từ 7 đến 21 ngày ( tam tuần ) là đã có 1  sự cảm ứng  lớn, pháp này cũng  tương đồng với những pháp Nhĩ Báo của Cửu Thiên Huyền Nữ Chân Quân, tuy nhiên lại bất đồng về cách thức tế luyện. 
*** Người chết không siêu thoát gọi là Quỷ, Quỷ không về Địa Phủ mà lại lang thang trên Dương Trần, tục gọi Quỷ chết là Tiệm, đại loại là Linh Hồn bị tam hồn thất phách phân tán. 
 Tu  tiên  thuật này Thuật Sĩ phải  tìm  lấy  cho được  trẻ  con  chết  trước 12 tuổi ( 8 tuổi đến 9 tuổi cũng được ) chọn lấy tóc hoặc 1 cái đầu lâu, nếu không có đầu lâu thì chọn lấy cả 1 bàn tay ( nam trái nữ phải ) hoặc là bất cứ 1 bộ phận nào của cơ  thể, cần nhất  là phải  lấy cho kì được danh  tính của đứa trẻ, danh tính và 8 chữ ngày giờ sinh tháng đẻ của đứa trẻ thuật sĩ phải nắm rõ, nếu không nắm được 8 chữ này thời phải chọn 1 bộ hài cốt khác. 

 Pháp này buộc  thuật  sĩ phải đến chỗ chôn mộ phần của Quỷ để  thu hồi linh hồn, phần mộ đã cải  táng cũng được nhưng bắt buộc phải  lấy được đầu lâu hoặc tay của Quỷ, khi chọn mộ phải tìm chọn lấy mộ phần mà hài cốt được để  trong 1 cái Quan Tài, nếu phần mộ chôn sống không Quan Tài  thời không nên chọn, chú ý  tuyển chọn  lấy 1 hài nhi chết vì  tận  số hoặc  yểu mạng  không  dùng  những  loại  chết  vì  họa  hại  (  tai  nạn  )  loại vong này oán khí nặng, không  thể sử dụng, cần phải  tìm những vong có cái chết nhẹ nhàng hàng, thuật sĩ nên dùng nhãn thông để kiểm tra, phàm những kẻ chết vì họa hại, khi nhìn  thường có những hình  thù quỷ quái, gớm ghiếc, vong linh khóc mãi không dừng, những loại vong này thuật sĩ không nên dùng mà nên dùng chú, kinh, siêu vãng cho vong linh, nếu oán khí quá nặng thời có thể mời các chân nhân đến làm lễ siêu độ hoặc thuật sĩ  có  thể  tự  làm,  kẻ  chết  đói  khác  thì  niệm  thí  thực  chú, nếu  không  ăn được hoặc không nói được  thời niệm khai hầu chú,  làm  lễ xong mở mả dùng pháp vận chuyển tiễn vong linh về Địa Phủ. 
Vạn pháp bí tàng - Tantric.
Xem chi tiết…

CHUYỆN HUYỀN BÍ KIM CỔ SƯU TẦM . BÀI 3.

11/07/2014 |
CHUYỆN HUYỀN BÍ KIM CỔ SƯU TẦM . BÀI 3.

NHỮNG CHUYỆN MỒ MẢ ĐẤT CÁT.


1. ĐỘNG MỘ.
Phụ thân tôi thốt nhiên bị Thiên đầu thống ( đau nửa đầu đằng sau ) rất dữ dội. Thuốc ta, tầu, tây nhiều nhưng chẳng đỡ chút nào . Nhờ "Bói ra - Khoa thấy " , ông Thầy bảo phải xem lại ngôi mộ Tứ đại dòng họ ( tức phụ thân tôi gọi là ông nội ). Ngôi mộ này nằm ở Đống Hàng Đồng - HẢI DƯƠNG. 
Xưa kia, Đống Hàng Đồng chơ vơ , nhưng rồi cụ Chánh Sỹ ( có con trai lớn là anh Quế cùng học một lớp với tôi ) đến lập ấp gần đó , trồng tre làm hàng rào sát cạnh Đống ấy. Lúc bới đất lên , rễ tre đã phủ kín cả tiểu sành và chui vào qua khe nắp đậy . Chúng tôi phải dỡ hết xương ra , rửa lại bằng nước Ngũ vị hương sau đó mới chôn lại . Rồi còn phải khơi một rãnh thực sâu giữa bờ tre và Đống Hàng Đồng , thường thường phải lên chăm nom , chặt hết rễ tre không cho vượt qua ranh giới nữa mới được yên , phụ thân tôi mới khỏi đau đầu . 
Cùng một người ở làng Hàn chúng tôi , chừng 50 tuổi bị đau ngang ngực như có gì đè lên . Thày bói bảo rằng "Động mộ " ( mộ tức là mả tròn - Ta thường nói : Mồ tròn , Mả dài ). Và lạ quá, lúc bới hết đất lên , thì thấy cái nắp tiểu sành đã vỡ , những mảnh sành nằm nghiêng chọc xuống xương . Lau rửa xương cốt lại , thay tiểu khác , quả nhiên gia chủ hết đau.
2.HUNG TÁNG.
Và đây là một trường hợp hung táng ( tức là chưa hết cốt ). Ông Lý Cựu XYZ ở cạnh nhà tôi , trước cổng Nhà thương Hải Dương, cứ như bị dùi đâm vào đầu và các khớp xương . Lần này không phải Thày Pháp, cũng không phải   "Bói ra - Khoa thấy ", mà do Thày Địa lý ở Cổng Chông xem hộ . Thày ra mả, nhổ mấy cây cỏ về xem rễ , rồi đoán là " Mả động " . ( Xin nói thêm điều này : Người lớn kể rằng các Thày Địa lý thực tài giỏi , có thể xem rễ cỏ cây mọc trên mồ mả mà có thể biết được mồ mả đó có Kết hay không ? Nghe vậy xin thuật lại như vậy  ) .
Mở mả ra , nước đầy ăm ắp , phải lấy thau múc nước đổ vào rổ để lọc xương nhỏ . Nước cạn, thò tay xuống bới xương thì thấy nhung nhúc những cá Trê , và không rõ làm thế nào chúng chui được cả vào sọ , rồi không ra được , mà con nào con nấy đỏ như máu cả . Thực là ghê khiếp . Những cái túi bằng Đũi bọc hai bàn tay và hai bàn chân , cũng bị cá Trê chui vào nằm trong đó . Phải vét cho kỳ hết , lọc trên rổ , mới lấy được trọn vẹn cả bộ xương để " Cải táng ". Mả đó là mả bố Ông Lý Cựu XYZ . Sau khi đã " tắm rửa " sạch sẽ cho cụ cố bằng nước Ngũ vị hương và chôn trên  gò cao , ông Lý Cựu khỏi hẳn bệnh buốt óc và những đốt xương.
3. THẦN TRÙNG.
Anh Vệ Tạo ở làng tôi có bà mẹ chết chưa được bao lâu , thì anh bị đau nặng phải vào nằm ở Nhà thương Hải Dương . Một đêm đã khuya , thanh vắng tứ bề , anh vẫn thức mà nghe rõ ràng tiếng từ ngoài cửa phòng gọi vào : Tạo ! Tạo..
 Đúng tiếng mẹ anh rồi , sai sao được . Mẹ anh đâu còn sống mà gọi . Nhờ đã được các bậc già nua dặn kỹ từ trước là nếu đêm hôm khuya khoắt , có ai gọi , dù đích danh mình , cũng chớ mà có trả lời , kẻo ma nó bắt mất vía . ( Ở vùng Thương du , những người đi rừng cũng kiêng không gọi tên nhau , mà chỉ hú thôi để ma khỏi bắt mất vía ) . Tạo im lặng hoàn toàn để rồi mấy phút sau không thấy tiếng gọi nữa .
 Hôm sau, gia đình anh Tạo phải mời Thày Pháp về cúng trừ " Trùng " . Thày cho biết , nếu đêm qua Tạo lên tiếng thì " Trùng Thần nanh mỏ đỏ " đã thu vía anh để đem đi khảo đả cho đế khi Tạo chết , rồi nó lại đả vong mẫu anh phải đưa về bắt những người khác . Thầy Pháp chỉ cúng lễ , và Bùa phép trấn áp " Thần trùng " , một thời gian nào đó thôi , chứ không thể trừ diệt hẳn được nó . Gia đình anh Vệ Tạo còn phải đi thỉnh " Bùa ếm mả " nữa mới yên . 
Thày Pháp danh tiếng làm  " Bùa ếm mả " , trừ mọi loại Trùng : Trùng tang, Trùng Khô kháo , dữ tợn nhất là  Trùng Thần nanh mỏ đỏ : Hai con chim xanh , mỏ đỏ như lửa , cứ con bay lên , con bổ xuống trên mả người bị trùng . Và mỗi lần nó bổ xuống là  từ lòng mả lại có tiếng rú lên như người bị kìm kẹp, tra tấn . Quán tại làng Giông _ Huyện Thanh Hà , bên kia cầu Phú Lương tỉnh Hải Dương chừng vài chục cây số . Chính gia đình chúng tôi phải cầu cứu đến Thày một lần. Tất cả Bùa chú được nhồi vào một ống tre bịt kín, phía dưới đẽo nhọn như đầu cái đòn sóc . Lựa buổi sáng tinh sương , âm thầm đem Bùa đó ra đóng bên mả thực sâu , lấp đất cho kỹ .Theo lời các bậc già cả , thì Bùa đó có công năng phi thường , làm Linh hồn bị mù đặc , không còn biết lối nào mà dẫn Thần trùng về bắt con cháu nữa .
4.TRÙNG KHÔ KHÁO.
Đây là chuyện có thực mà chính tôi có mặt tại chỗ . Từ ngày bà ngoại vợ tôi mất đi , ngành Trưởng họ Lê bị lục đục, đau ốm liên miên , gia súc chết, làm ăn hết sức lủng củng , như thế đã hơn 3 năm . Nhờ  "Bói ra - Khoa thấy ", nên phải rước Thày Phù thủy về cúng lễ , trừ ta, giải hạn cho . Thày Pháp cho biết là mả bà ngoại vợ tôi bì " Trùng Khô kháo " , cần phải mở để yểm Bùa trừ trùng . Nhưng làm sao  thầy biết được mà dám quyết đoán như thế ? 
Quá giờ Tý một đêm thanh vắng và yên lặng hoàn toàn , chúng tôi mới ra mả . Trước khi Thày Pháp bắt tay vào công việc , mỗi người chúng tôi được ngậm một lá Bùa tết sẵn và đeo vào khuy áo trước ngực . Đâu đấy rồi Thày mới cho động thổ . Tay Thày luôn luôn bắt ấn, miệng niệm Thần chú . Lúc bắt đầu cậy nắp ván Thiên , Thày hét lên một tiếng thực to . Chúng tôi đều thấy rõ xác chết vẫn còn y nguyên như lúc mới nhập quan, chưa tiêu đi được chút nào, mà lạ lùng hơn là cũng không có mùi hôi thối . Thày Pháp đã ngậm sẵn một đạo Bùa ở miệng , cúi sát tận mặt xác chết , lấy dao cậy răng, nhả Bùa vào trong miệng xác khô , rồi yểm Linh phù trên xác và xung quanh . Một đạo Bùa được đặt từ ngực đến chân , sau đó mới đậy nắp và lấp đất . " Nhả hết Bùa ra, Trùng Khô kháo đã bị đánh bạt đi rồi , không còn phải sợ nữa " - Thầy Pháp bảo chúng tôi như vậy , rồi mọi người ra về . Từ sau đó ngành Trưởng họ lê lại làm ăn yên ổn như cũ .
5. MẢ KẾT.
Khu tích điền làng chúng tôi , hồi 1916 , được san bằng để xây dựng trường nam Tiểu học Pháp - Việt , cả cái nghĩa địa rộng có mấy nghìn ngôi mộ cũng được rời đi .
Người ta kể lại : Lúc hốt cốt , họ có gặp một ngôi mộ , mở nắp tiểu sành ra , thấy xương vẫn đầy ăm ắp , mà tơ hồng phủ kín đầy tiểu . Xương trong tiểu vẫn còn nguyên vẹn , không hư hao như là " được đất ".  Tơ hồng trên nắm xương nói trên , nhờ chỗ đất tốt mới có . Nó là thứ chỉ hồng từ trong xương mà sinh ra . Xương được tơ hồng phủ đầy là do mả tang đúng Long mạch . Mả như thế mà bị phá đi là tai họa đến ngay.
Đau khổ cho gia đình nào đó : Mả Kết mà bị phá như thế , con cháu , dòng họ nhà đó sẽ lụn bại không tránh được . 
Trên đây là mấy câu chuyện phiền phức mà nắm xương trong lòng đất gây nên cho dòng họ , con cháu cùng huyết thống, chứng minh thực tế rõ ràng sợi dây liên lạc vô hình thiêng liêng không thể cãi được giữa người sống và người chết .
Nếu tìm được đất tốt, được Linh huyệt thì còn gì quý bằng . Nhưng việc đó đâu phải dễ dàng , phải dày Âm đức lắm mới được những " Đại Huyệt " , chả thế mà Cổ Đức đã từng răn dạy " Tiên tích đức - Hậu tầm Long " .
Còn nếu cả cuộc đời chỉ làm việc thất âm đức , mà cố đấm ăn xôi , cũng học đòi tìm đất cho con cháu làm công hầu khanh tướng thì đâu có được . Không khéo lại gặp Thày gà mở huyệt chẳng ngắm, ngắm hang rắn , nó cắn cho lụn bại dòng giống ác đức hại nhân .
Lúc này đây , khoa Địa lý gần như thất truyền , dù Thánh sư Tả Ao tái sinh đi nữa , dám chắc cũng chẳng làm nên chuyện gì tốt như nghìn xưa . ....
TRỌNG MẠC ĐẶNG KIM THANH - Báo KHHB.

Xem chi tiết…

CHUYỆN HUYỀN BÍ KIM CỔ SƯU TẦM . BÀI 2

11/06/2014 |
CHUYỆN HUYỀN BÍ KIM CỔ SƯU TẦM.BÀI 2

DỊ THUẬT KÝ.


Mọi người đều nói rằng hiện giờ đã tới thời mạt pháp. Mà đã là mạt pháp thì trước tiên sẽ phải là tà ma ngoại đạo quấy nhiễu chúng sinh để cho các chính đạo tu sĩ có cơ hội trảm yêu trừ ma. Thấy mọi người trên diễn đàn ai cũng là nhân sĩ chính đạo hết nên mình xin nhận làm vai bàng môn tả đạo một phen.
Hiện trên diễn đàn các loại kỳ công tâm pháp, bùa chú ngải nghệ đều được giới thiệu hết rồi, nhưng các dị thuật thì lại ít thấy nên mình xin góp một phần nhỏ kiến thức mong rằng có thể mua vui một vài trống canh trước mặt các bậc cao nhưn.

Kỳ 1: Nguyệt Thần Hộ Bảo

“Nguyệt thần hộ bảo” là một dị thuật rất nổi tiếng ở Việt Nam đặc biệt là thời kỳ trong và sau giải phóng. Có thể nói ở Việt Nam lúc bấy giờ hầu như ai cũng nghe nói về tác dụng của dị thuật này mặc dù ngay cả tên của nó là gì có khi chẳng ai biết đến.
“Nguyệt thần hộ bảo” tên như ý nghĩa là dị thuật dùng để bảo vệ kho tàng, bảo khố, được các tu sĩ người Hoa áp dụng cho việc bảo vệ các kho báu của các gia tộc người Hoa định cư tại Việt Nam, vì nhiều lý do phải hồi hương gấp mà không kịp mang theo gia sản, nên đành chôn giấu và niêm phong kho báu, với mục đích ngày sau con cháu có cơ hội quay trở lại Việt Nam lấy lại gia sản của tổ tiên.
“Nguyệt thần hộ bảo” mục đích là Hộ bảo, và “người” hộ bảo được gọi là “Nguyệt thần”.
Để tạo ra Nguyệt thần, các tu sĩ người Hoa liền đi khắp nơi trên nước Việt chọn lấy các trinh nữ tuổi khoảng 12, 13 (Được gọi là “Nguyệt thước” - Mầm gạo Nguyệt) để chú thuật nuôi dưỡng cho đến khi “Nguyệt thước” thành thục thì mang tới kho tàng tiến hành hoàn tất pháp thuật.
“Nguyệt thước” tất nhiên không phải lựa chọn từ các trinh nữ một cách bừa bãi mà chọn theo Bát tự một cách quy luật. Tương truyền, trong các loại “Nguyệt thước” có hai loại linh nghiệm nhất, đồng thời hiệu quả cũng mạnh mẽ nhất:
1, Canh Kim Nguyệt Thước: Đây là những trinh nữ sinh vào giờ Kim, ngày Kim, tháng Kim, năm Kim, mệnh Kim ngũ cục. Đặc biệt nếu trên người có khí chất vương giả hoặc khí chất của gia đình võ tướng thì càng thêm hiệu quả.
Canh Kim Nguyệt Thước sau khi thành thục sẽ trở thành Canh Kim Nguyệt Thần (hay còn gọi là Canh Kim Sát) là một trong những Nguyệt thần thủ hộ có sát tính mạnh nhất, phù hợp với việc thủ hộ kho tàng của tầng lớp công hầu vương giả.
2, Huyền Âm Nguyệt Thước: Đây là những trinh nữ sinh vào giờ Âm, ngày Âm, tháng Âm, năm Âm, mệnh Thuỷ lục cục. Đặc biệt trên người có khí chất hạo thiên của gia tộc văn quan, hoặc khí chất đoan thục của gia đình hào môn gia giáo thì càng thêm hiệu quả.
Huyền Âm Nguyệt Thước sau khi thành thục sẽ trở thành Huyền Âm Nguyệt Thần (hay còn gọi là Huyền Âm Sát) là một trong những Nguyệt thần thủ hộ có Âm tính mạnh nhất thiện về che dấu, phù hợp với việc thủ hộ kho tàng của tầng lớp cổ gia, đại thương phú khả địch quốc.
Sau khi đã “Tuyển thước” thành công, thì chuyển sang “Dưỡng thước”.
Quá trình “Dưỡng thước” là việc các tu sĩ người Hoa dùng dược liệu nuôi dưỡng “Nguyệt thước”, dạy cho các “Nguyệt thước” một loại công pháp cơ bản “Nguyên thần hoá âm thuật” và bắt “Nguyệt thước” phải tu luyện đến đại thành trước năm 15 tuổi, đồng thời chú khắc lên cơ thể “Nguyệt thước” các loại phù trận tuỳ theo từng tu sĩ.
Những “Nguyệt thước” thành thục (tức là hoàn thành “Nguyên thần hoá âm thuật” trước năm 15 tuổi) sẽ được lựa chọn một lần cuối để chọn ra “Nguyệt thước” có khí chất tốt nhất, đồng thời được đưa đến kho tàng đúng vào năm 15 tuổi để chuyển thành “Nguyệt thần”
Kho tàng, vốn cũng được các thuật sĩ người Hoa lựa chọn trước tại những nơi có hoàn cảnh phong thuỷ đặc biệt và khó phát hiện.
Tại kho tàng, trước khi bắt đầu nghi thức chuyển hoá. “Nguyệt thước” (Giai đoạn hiện tại còn có thể gọi là “Nguyệt sát”) được tắm rửa sạch sẽ, chay tịnh một thời gian, đồng thời được cho ngậm một miếng sâm (hoặc phù chú) tuỳ môn phái, đảm bảo có thể duy trì sự sống của “Nguyệt sát” 100 ngày, và cũng chỉ duy nhất 100 ngày không hơn nửa khắc (Được gọi chung “Bách nhật lệnh”), và bị hàn kín miệng lại.
Lúc này “Nguyệt sát” sẽ được khống chế không thể di động, và được đặt vào trong trận pháp tương ứng với loại “Nguyệt thần” của bản thân. Sau đó thì trận pháp được khởi động bằng tính mạng và máu huyết của các hạ nhận đào động, vận chuyển báu vật mang vào trong động. Đồng thời cũng là một cách giữ bí mật vị trí của bảo tàng mà người Hoa hay dùng.
Trong bảo tàng lúc này các cơ quan ám khí, hoặc độc dược, chướng khí (tuỳ bảo tàng và thuật sĩ) cũng sẽ được khởi động (hoặc tự khởi động) vào khắc cuối cùng khi mà cửa bảo tàng (cửa động) được phong kín.
Cuối cùng, hậu duệ của các đại gia người Hoa trên sau này chỉ việc mang theo bản đồ, Lệnh phù phù hợp với pháp trận của bảo tàng, những kiến thức gia truyền liên quan đến việc phá giải cơ quan bẫy rập… trong động, đồng thời đợi đến đúng thời điểm “Nguyệt thần sát trận” mở ra trong tháng (Mỗi tháng, trận pháp trong bảo tàng sẽ mở ra khoảng hai, ba ngày - thường gọi là “Nguyệt thần sát trận”) thì tiến vào lấy bảo vật.

Nhàn đàm: Thực tế, việc lựa chọn “Nguyệt thước” dựa vào Bát tự, việc dùng phong thuỷ lựa chọn nơi chôn bảo tàng, và việc thiết kế cơ quan bẫy rập… không khó. Điểm mấu chốt của “Nguyệt thần hộ bảo” là Bí thuật “dưỡng thước”, công pháp “Nguyên thần hoá âm thuật”, “Nguyệt thần sát trận” và Bí thuật “Bách nhật lệnh”
Kỳ 2: Chiêu Tài Thánh Nữ

 “Chiêu tài thánh nữ” cũng là một dị thuật có công dụng khá nổi tiếng ở Việt Nam trong thời kỳ sau giải phóng, cuối thời kỳ bao cấp. Vì một vài lý do, nó chỉ được thực hiện một cách ngấm ngầm, do một số ít người có đủ khả năng về tiền bạc, quyền thế… có thể làm được mà không sợ bị tóm.
 Cũng giống như “Nguyệt thần hộ bảo”, ngay cả trong thời kỳ toàn thịnh nó cũng chỉ được biết đến với công dụng là chính mà danh tự thì hầu như rất ít người biết (trừ những đại gia đã từng thực thi dị thuật này). Và vì vậy, những câu truyện nói về nó càng lúc càng sai lệch đi rất nhiều. Một trong những dị bản sai lệch đó và được biết đến nhiều nhất là việc các đấng mày râu truyền tụng về việc ngủ với gái trinh thì việc làm ăn sẽ may mắn.
 Thực tế “Chiêu tài thánh nữ” có thể coi như là một danh hiệu dùng chung, bởi vì  mục đích của dị thuật này là giúp cho thân chủ có thể “Chiêu tài” và có rất nhiều môn phái, tu sĩ có được và có thể thực thi loại phép thuật này (Tất nhiên là hình thức thì đa dạng và hiệu quả thì cũng không đồng nhất).
 Ở đây, tôi nhấn mạnh chữ “Chiêu tài” là mong người đọc không phải nhầm lẫn giữa Chiêu tài và Cầu tài.
Cầu tài là bằng vào bí thuật tăng lên vận số để trong hồng trần mênh mang có thể có nhiều hơn cơ hội nắm được duyên tài lộc. (Hay ví dụ một cách đơn giản thì cầu tài giống như là tăng tỷ lệ đạt được giải độc đắc trong việc đánh sổ xố vậy).
Tuy nhiên, dù cầu tài thuật có cao minh đến cỡ nào đi nữa thì tối đa cũng chỉ khiến cho người được thi thuật có được 50-50 cơ hội nắm bắt được duyên tài lộc mà thôi (Đây là trường hợp lý tưởng nhất, thông thường thì ít hơn rất nhiều).
Hơn thế, thường thì bí thuật cầu tài thường để lại những hậu quả lớn cho thân chủ bởi vì vận số của con người nói thật cũng chẳng phải dễ dàng tăng lên như thế (dù chỉ là trong thời gian ngắn cố định hay cơ hội lý tưởng tối đa là 50-50).
Thuật “Chiêu tài” thì lại khác (hoặc có thể nói là một loại thuật Cầu tài cao cấp hơn), bởi vì thứ nhất kết quả “Hoạch tài” (Lấy được tài lộc) trực tiếp hơn rất nhiều, thứ hai phần “báo ứng” cũng đến chậm rãi hơn rất nhiều.
Như đã nói ngay từ đầu “Dị thuật ký” là chuyên nói về những dị thuật bàng môn tà đạo thế nên “Chiêu tài thánh nữ” cũng không nằm ngoại quy luật này. Vì sao phải nhắc nhở như vậy? Đó là bởi vì muốn người đọc có thể nhìn từ góc độ của tu sĩ tà phải (những người sẵn sàng dùng mọi loại thủ đoạn, phép thuật tổn thương người khác chỉ để lấy được lợi ích cho bản thân) để cùng suy xét về nguyên nhân có thuật chiêu tài này.
Ở trên đã nói, thuật Cầu tài kết quả luôn không rõ ràng mà quả báo thì lại gần trong gang tấc. Điều này khiến những tu sĩ tà phái (gọi tắt là tà tu) gặp khó khăn trong việc thuyết phục các thân chủ, vốn là các đại gia tinh minh trong chốn thương trường, chính trường quyết định thực hiện thuật cầu tài và tất nhiên sau đó sẽ đến việc trả thù lao cho mình (có thể là tiền bạc, có thể là dược liệu...).
“Con người muốn tăng lên vận số của mình một cách không theo tự nhiên thì phải trả một cái giá tương tự” đây là một quy luật mà chỉ cần là tu sĩ đạt đến một tầng thứ nhất định, hoặc những người thực sự có tri thức đều hiểu. Mà cái giá phải trả ở đây không phải là tiền bạc của cõi tục mà là tinh huyết và dương thọ (Hoặc vận số). Tuy nhiên, nếu các thân chủ, người mà sẽ nhờ các tu sĩ thực hiện thuật cầu tài thông thường hiểu rõ được điều này thì sẽ chẳng ai dám thực thi nó cả.
Vấn đề mấu chốt để đánh phá sự thất lợi trong việc “Cầu tài” này chính là phải có người hy sinh tinh lực, dương thọ, hay vận số để đổi lấy “Tài lộc”. Tất nhiên, kẻ phải chịu sự hy sinh này sẽ không phải là thân chủ hoặc tu sĩ. Vì thế Chiêu tài “Thánh nữ” mới được sinh ra.
Có rất nhiều dị bản của thuật “Chiêu tài thánh nữ” tuỳ theo từng môn phái và tu sĩ thực hiện mà bản thân tôi cũng chỉ tìm hiểu một phần nên không thể kể hết ra đây, mà chỉ xin miêu tả lại một thuật sử dụng song trọng liên hoàn trận được coi là hoàn mỹ nhất trong các loại thuật “Chiêu tài thánh nữ”, đồng thời xin giữ nguyên danh tự “Chiêu tài thánh nữ” cho thuật này bởi vì theo tôi nó cũng xứng đáng có được danh hiệu này nhất.
Để thực hiện “Chiêu tài thánh nữ” trước tiên cần phải có “Thánh nữ”
Không như “Nguyệt thần hộ bảo” việc lựa chọn “Thánh nữ” trong thuật này cũng dễ dàng hơn rất nhiều. Trọng yếu là phải đáp ứng được hai điều kiện. ”Thánh nữ” phải là các cô gái đồng trinh, tuổi từ 16-20t (hoặc từ 13-18t), đồng thời “Thánh nữ” phải có bát tự thuận hành với thân chủ. Ví dụ: Thân chủ sinh giờ Kim, ngày Mộc, tháng Thuỷ, năm Hoả thì “Thánh nữ” sẽ phải được chọn sinh vào giờ Thổ, ngày Thuỷ, tháng Kim, năm Mộc. (Đây là yếu tố Nhân)
Sau khi đã chọn được “Thánh nữ” phù hợp, các tà tu sẽ chọn một địa điểm có phong thuỷ thích hợp để tiến hành bố trí pháp đàn, trận pháp. (Đây là yếu tố Địa). Tại đây, tu sĩ người Hoa sẽ sử dụng 108 pháp khí đặc thù “Dẫn Hồn Linh” để bố trí một trận pháp song trọng bao gồm “Tam Tài Dưỡng Sinh Trận” kết hợp với “Thuần Âm Tế Thiên Trận”. Trận pháp song trọng này theo bản thảo cổ nhất mà tôi có trong tay được gọi là “Tế Nguyệt An Thiên Trận”.
Trước một vụ làm ăn lớn, các tà tu người Hoa sẽ chọn cho thân chủ một ngày, giờ tốt để tiến hành thi thuật (Yếu tố Thiên). Trước đó, “Thánh nữ” và thân chủ sẽ được cho ăn uống vui chơi, chay tịnh … để đạt được trạng thái thân thể no đủ và tinh thần bão mãn nhất (Nhân khí thịnh vượng nhất).
Đến đúng giờ các tà tu sẽ cho thân chủ cùng “Thánh nữ” hành phòng. Trong khi đó tu sĩ sẽ sử dụng ba yếu tố Thiên-Địa_Nhân làm “ngòi nổ” để khởi động trận Tam Tài. Sau đó lại dùng Tam Tài Trận thúc dục “Dẫn Hồn Linh” thông qua nguyên âm của thánh nữ bị tiết ra sau khi bị phá thân tiến hành thu một phần hồn phách của “Thánh nữ” đồng thời dùng phần hồn phách này và khí nguyên âm khởi động nốt “Tế thiên trận” để thực hiện một loại pháp thuật (Trong các bản thảo cổ tìm được hầu hết bị hư hại phần cuối nên không rõ được là pháp thuật gì. Trong bản thảo mới nhất mà tôi tìm được thì là điệp giai pháp thuật “Ngũ Quỷ Vận Tài”).
Theo những gì thu thập được thì sau khi thực hiện thuật này những vụ làm ăn thường vô cùng thuận lợi (kết quả hiện rõ) và đồng thời thân chủ cũng không có nhiều ảnh hưởng về sau. Có điều các “Thánh nữ” thì thường chết ngay sau đó (Không quá ba tháng sau khi bị thi thuật).
Nhàn đàm: Mặc dù thuật chiêu tài này thoạt nhìn thì chỉ có một người bị hại là Thánh nữ, và thân chủ có vẻ như không bị quả báo trong suốt cuộc đời của mình. Nhưng bản thân tôi vẫn tin rằng vận số con người tuyệt đối không dễ thay đổi như thế, báo ứng có thể không đến ngay trong đời này, nhưng đến các đời tiếp theo thì rất khó mà nói.
Tất nhiên, nếu ai cho rằng chỉ cần đời này không bị gì thì sau khi chết cũng đâu cần quan tâm hay đời con cháu có ra sao mình cũng không biết được thì tôi xin miễn bàn. Chỉ xin khuyên những ai có hy vọng nhờ vào dị thuật, pháp thuật… để thay đổi vận số của mình nên thận trọng, số mệnh tốt nhất phải được tạo thành từ chính sự lao động của đôi bàn tay mới là đáng quý.

Kỳ 3: Bạch Hổ Nguyên Âm
Đề tài có chút nhạy cảm, đề nghị các member dưới 18t suy nghĩ kỹ trước khi đọc tiếp. Mọi hậu quả dẫn đến do việc không ý thức được giới hạn lứa tuổi tôi sẽ không chịu trách nhiệm.
Mấy tháng trước có đọc một topic trong diễn đàn của một bạn trẻ than phiền về việc nghe tin đồn việc bạn gái của cậu ta, người có tình trạng chỗ kín không có lông mao, là một trong những tướng sát phu và nhờ mọi người giúp đỡ.
Lúc đó tui cũng bận nên chỉ lướt qua và để lại một vài lời khuyên giúp bạn trẻ tự tin hơn trong việc tình cảm của mình, đừng quá câu nệ vào những tin đồn thất thiệt mà có khi dẫn đến việc nhân duyên bị bỏ lỡ.
Theo góc độ khoa học mà nói, tình trạng nữ giới chỗ kín từ khi sinh ra cho tới lúc chết đi không có lông mao là một loại gen di truyền khá hiếm có, nhưng ngoài điều đó ra thì họ cũng chỉ bình thường như những người phụ nữ khác mà không có gì khác biệt cả.
Theo góc độ huyền thuật cũng vậy, dù rằng trong quan niệm cổ xưa đều gọi những người phụ nữ chỗ kín không có lông mao tự nhiên là Bạch Hổ và đều coi là có tướng sát chồng, nhưng thực tế những người thực sự hiểu biết huyền thuật đối với điều này đều sẽ chỉ cười nhạt mà thôi.
Bạch Hổ Nguyên Âm theo những tài liệu cổ xưa lưu lại đều cho rằng là một trong những “tài liệu” quý hiếm mà giới tu sĩ Trung Hoa cổ đại (nhất là hạ trung tầng) vô cùng coi trọng. Lý do tạm thời chưa nói, nhưng việc nó quý hiếm là không thể phủ nhận và đặt ra nghi vấn cho việc có phải bất cứ người phụ nữ nào có tình trạng kể trên cũng là Bạch Hổ hay không?!!
Không khó để trả lời nghi vấn này. Bởi vì cho dù việc người phụ nữ có tình trạng chỗ kín không có lông mao là rất hiếm, nhưng với tình thế của đất nước lấy đông dân mà nổi tiếng từ ngàn xưa như Trung Quốc, thì dẫu tỷ lệ xuất hiện là một trên một vạn đầu người, nó cũng không quá có thể coi là vấn đề. (Nói vui một chút, trong các phim cổ trang, dã sử lịch sử Trung Quốc đã công chiếu, ai cũng biết mỗi khi Trung Hoa cổ đại có chiến tranh thì lượng quân sĩ họ thường dùng đều được tính bằng đơn vị vạn. Quy mô trung bình thì 1, 2 vạn. Quy mô lớn thì vài chục vạn đến trăm vạn cũng bình thường. Mà cứ coi một bà mẹ cả đời chỉ ăn và đẻ ra được 10 đứa con, thì việc đẻ ra tầm trăm vạn quân cũng cần phải có tới mười vạn người phụ nữ. Như thế thì ít nhất một đời người cũng có thể xuất hiện 10 “Bạch Hổ” là ít).
Tuy nhiên, với lượng dân đông đảo như thế Bạch Hổ Nguyên Âm vẫn được coi là vô cùng, vô cùng hiếm. Điều đó cho thấy không phải bất cứ người phụ nữ nào có tình trạng tế nhị kể trên đều là Bạch Hổ cả. Vậy như thế nào mới có thể là Bạch Hổ Nguyên Âm? Và tại sao trong văn hóa Trung Hoa cổ lại cho rằng những người phụ nữ có tình trạng bề ngoài giống Bạch Hổ lại là tướng sát phu? Và tại sao nó lại được giới thuật sĩ coi trọng?
Xin thưa Bạch Hổ đúng là người phụ nữ có tình trạng tế nhị như đã nói từ đầu, nhưng những người phụ nữ đó phải là người sinh vào giờ âm, ngày âm, tháng âm, năm Nhâm Dần hoặc Giáp Dần thì mới tạm coi là chuẩn. Nếu muốn thực sự đúng phải là những người được sinh sống từ nhỏ tại nơi có điều kiện phong thủy dồi dào thuận lợi (nếu được cho ăn học lục nghệ đến một ngưỡng nhất định thì càng tốt vì như thế người càng có anh khí), với điều kiện Trung Quốc cổ đại thì đó thường là các tiểu thư khuê các con nhà quan lại quyền quý (Điều này cũng là một trong những yếu tố quan trong dẫn đến việc gây ra sai lệch trong tư duy của dân chúng Trung Hoa tạo thành cái gọi là “tướng sát phu”)
Theo Thái Thượng Đan Kinh, “người con gái” Bạch Hổ có âm nguyên khí dồi dào, tinh thuần gấp trăm lần phụ nữ thông thường, đồng thời âm nguyên khí có tính trung hòa lợi cho việc ôn dưỡng khí tức, bồi dưỡng sinh cơ, không bài xích bất cứ một loại công pháp nào cả. Đặc biệt Bạch Hổ Nguyên Âm (trinh tiết của Bạch Hổ) cực kỳ thích hợp cho việc đột phá đạo quan (hoặc có người gọi là huyền quan).
Ngoài ra, theo một số tài liệu khác còn miêu tả. “Bạch Hổ” trời sinh vũ mị, ngọc cốt băng cơ... thích hợp với các chủng mị công, âm công, tà công mang tính băng hàn, âm mộc, cổ thuật.
Nói chung chính vì âm nguyên khí của Bạch Hổ vô cùng thuận lợi cho việc tăng trưởng đạo hạnh cho tu sĩ bất kể tu sĩ đó tu luyện loại công pháp nào (Nói theo cách của Kim Dung thì là tăng trưởng công lực)... Đặc biệt Bạch Hổ Nguyên Âm lại càng trực tiếp có thể giúp tu sĩ vượt qua đạo quan, huyền quan (Up level) nên những người con gái Bạch Hổ thường được coi là lô đỉnh hay đạo lữ tốt nhất cho việc song tu.
Thái Thượng Đan Kinh cũng cho rằng Bạch Hổ Nguyên là một trong 16 dạng Nguyên Địa kỳ chân tốt nhất trong việc giúp người tu đạo bước một bước dài trên con đường thành tiên, trường sinh bất lão.
Quay trở lại với “nhân gian”, do âm nguyên khí của Bạch Hổ dồi dào và tinh thuần vượt trội, điều này mặc dù có lợi cho việc tu luyện của tu sĩ, nhưng đối với người phổ thông lại khá “khó gặm, khó tiêu”.
Nam nhân bình thường sau khi giao hợp với Bạch Hổ thường không chịu nổi âm nguyên khí của Bạch Hổ xâm nhập cơ thể (đặc biệt là các dạng công tử môn đăng hộ đối, nhưng thân thể yếu nhược) nên thường chết ngay trong đêm tân hôn. Người khỏe mạnh có thể tránh được điều này thì cũng bị âm nguyên khí ăn mòn dần cơ thể nên cũng thường chết sớm.
Điều này trong mắt cổ hủ, thiếu kiến thức của người cổ đại lập luận thành Bạch Hổ là tướng sát phu. Nhất là khi Bạch Hổ thường là tiểu thư con quan, nên nhà chồng thường cũng là thế gia, điều đó khiến cho sự nhận định này càng thêm tăng thêm trọng lượng trong tính “xác thực”. Và tất nhiên, người ta không nắm rõ thế nào là Bạch Hổ mà chỉ suy đoán nhờ “dấu hiệu đặc trưng” vô cùng dễ nhận biết của “Bạch Hổ” để suy xét “tướng sát phu” mà thôi.
Nhàn đàm: Chuyện tình cảm là vô cùng thiêng liêng, nếu các bạn trai trong diễn đàn có diễm phúc gặp phải bạn gái có tình trạng “Bạch Hổ” cũng đừng nên nhận định ngay là “tướng sát phu” mà thành ra lương duyên lỡ dở, để sau này hối tiếc.
Mà cho dù bạn gái thực sự là Bạch Hổ thì cũng có sao, bởi vì Bạch Hổ vốn dĩ là trời sinh vũ mị dù như thế có phải chết đi nữa ít nhất cũng có thể là Quỷ phong lưu. 
Nguồn : Nghinh Phong
thegioivohinh.com
Xem chi tiết…

CHUYỆN HUYỀN BÍ KIM CỔ SƯU TẦM.BÀI 1.

11/05/2014 |
CHUYỆN HUYỀN BÍ KIM CỔ SƯU TẦM . BÀI 1.
Các loại ma quỷ của Thái Lan .
Phi Am 
Loài ma thường ngồi trên ngực, ở phía gan của người bị ám, gây khó chịu.
Loài mà này tuy không dữ ác, nhưng vẫn thường thu hút nguyên khí con người.
Phi Chamop


Ma này vốn là người phụ nữ khi vào trong rừng bị ám chết.
Loài này vốn không làm hại con người.
Phi Hà --



Đây là vong linh của người phụ nữ chết trong khi sinh khó.
Chính vì chết trong đau đớn và mất mát nên loại ma này được coi là rất hung bạo.
Phi Krahang 


Ma này xuất hiện với hình dáng một người đàn ông với lông và đuôi như một con chim. Khuôn mặt như quái thú.
Nó ăn filth và glows vào ban đêm.(dịch không được)
Đây là loại vong linh khó chịu và đáng sợ.
Phi Krasi (Ma xó)


Krasi có màu của lửa, thân dài, có đuôi màu xanh. Loài ma này thường được các bà phù thủy (bà đồng) triệu tập theo bên người.
Ma krasi thích sống ở dưới những mô gò và thường không gây hại cho con người.
Đôi mắt của nó thường không chớp và không dám nhìn vào mắt người.
Trước khi phù thủy có luyện ma krasi chết, họ sẽ tìm một ai đó kế thừa để trao lại những con ma krasi này.
Phi Lok
Đây là một dạng địa linh. 
Nó sợ con người và ít khi làm hại đến ai nếu như không xâm phạm gì đến nó. Loài này thỉnh thoảng vẫn hiện lên cho con người bắt gặp.
Phi Prai --
Vong hồn của người phụ nữ đã chết trong khi sinh con. Đồng thời, cơ thể của cô ta được các thầy pháp luyện thành nơi trú ngụ cho một loại ma con gọi là Phi Tai Tong Klom.( một dạng Gumanthong)


Để luyện phép, thầy phù thủy phải đặt nến dưới cằm của xác chết, và từ tinh chất dầu chảy ra từ xác chết, ông thầy có thể dùng cho nhiều việc, một trong những việc ấy là quyến rũ phụ nữ.
Phi TAI Hà 


Vong hồn của người phụ nữ chết vì bệnh sốt rét.
Những con ma cũng sẽ lây lan bệnh này.Cho nên, ai bị loại ma này ám nhập sẽ mắc bệnh như sốt rét.
Phi Khamot 
Một vong linh thường xuất hiện dưới hình dạng của một đốm sáng màu đỏ. Ở Việt Nam ta thường gọi là ma trơi.
Phi Nẵng Tani 
Một loại vong linh sống nhờ vào sinh khí của cây, chủ yếu là vong linh nữ. Loại này thường đi theo và liếm bát của các sư sau khi thọ thực. Cho nên, sau khi thọ thực xong, các sư thường mang thức ăn thừa rải ra cho các loài khác dùng và rửa bát sạch sẽ để tránh loài ma này làm bất tịnh.
Phi Pa
Một loài ma rừng.
Thợ săn sau khi đi săn được thú, họ thường để lại một mảnh chân, môi, lưỡi hoặc mí mắt của một con vật bị giết để bày tỏ lòng kính trọng đối với các loại ma này.
Phi Phuang Khang 
Một loài vong linh trong hình dạng của một con khỉ đen. Loài này rất thích mút ngón cái của những người đang ngủ trong rừng.Người bị mút sẽ mất dần sinh khí mà đau ốm hoặc chết.
Người ta nói loài này cũng thường sống gần bãi biển để liếm muối.
Phi Ka 


Những linh hồn này thường ám nhập các phụ nữ. Khi rút hết sinh khí của người này, nó có thể chuyển sang người phụ nữ khác có cùng sở nghiệp, giống như một loại kí sinh trùng vậy.
Phi HAi --


Đây là loài ma đói, một loài vong linh chết một cái chết không tự nhiên như: chiến tranh, bạo lực, tai nạn, chết cháy... không ai cúng bái.
Loài ma này luôn tìm mọi cơ hội ám nhập con người để có thể thỏa mãn cơn đói và sự uất hận vì chết không yên.
Bình thường, chúng có thể gây ra nhiều tình huống để hại nạn nhân như: xô té sông, té vào xe tải...
Phi Pop --


Một loại vong linh rất dữ dằn và nguy hiểm thường hiện lên dưới hình dáng một người con gái đẹp. (Ở Việt Nam, vùng Tây Nguyên, người dân tộc gọi là ma lai rút ruột).


Chúng thường xuất hiện trong đêm, khi cái đầu rời khỏi thân thể bay đi kiếm ăn với đùm ruột lòng thòng. Do đó, hãy cẩn thận phụ nữ xinh đẹp.
Loại ma có lẽ là đáng sợ hơn bất kỳ loài khác ở Thái Lan.
PHI TAI TONG KLOM
Người Thái có niềm tin rằng một người mẹ với đứa bé chết trong bụng mẹ có thể trở thành một loài ma dữ dằn ghê gớm.


Thái người gọi đó là ma PHI TAI TONG KLOM.
Vì vậy, ở Thái Lan, bất kỳ ngươi phụ nữ mang thai nào chết sẽ không được hỏa táng ngay lập tức mà phải được các sư chú nguyện cẩn thận. Bởi họ tin rằng việc hỏa táng ngay sẽ làm cho vong linh của người chết không hài lòng và biến thành ma.
Gumanthong
Cách luyện Guman Thong trong thời cổ xưa mới thật là đáng sợ.


Các thầy đã phải đi đến nghĩa địa một mình trong đêm, đào những xác chết của bà mẹ có mang, cắt bụng của xác chết lấy đứa con ra. Sau đó vội vàng đến khu vực gần nhất lò thiêu gần nhât để nướng sấy đứa bé sao cho khô quắt lại.
Kế tiếp la quá trình luyện phép để vong linh đứa bé trở thành quỷ nhi


Vì vậy, chỉ có các-mạnh tâm trí người sở hữu những kiến thức ma thuật tiên tiến để chống lại ma quái có thể làm điều này.
NAM MAN PRAI
(Nam Man = dầu, Prai = nữ ma).


Các thầy bùa Thái muốn luyện dầu như nhu cầu để kích dục cho đối tượng, họ sẽ luyện phép này... Sử dụng các ngọn nến từ từ sưởi ấm dưới cằm của xác chết để lấy dầu từ xác chết chảy ra. Chất dầu này sẽ dùng để luyện dầu yêu.
Những niềm tin vào ma và tinh thần vẫn còn phổ biến rộng rãi trên toàn Thái Lan & Châu Á.
Ma Hồi giáo đã xuất hiện mà có thể được hướng giảm do hưng thịnh một miếng thịt heo (tốt hơn là một con lợn của người đứng đầu) lúc đó. 
Gumanthong- Cậu bé Vàng 
Bài viết này của TADN đăng trên blog. Tôi đã sao lại rồi bổ sung thêm một chút để anh chị em nghiên cứu.


(TADN)Kumanthông là tên gọi của người Thái dành cho quỷ nhi, một anh nhi được thầy gia công tế luyện. Tinh thần trong sáng của đứa bé hết hợp chú thuật và thần lực của các vị Tổ thông qua việc tế luyện công phu của pháp sư sẽ cho ra đời một tiểu quỷ có nhiều khả năng đặc biệt.


Kumanthông được sử dụng với nhiều mục đích khác nhau: Tăng ích (chiêu tài, câu khách, buôn may bán đắt), Kính ái ( tạo tình cảm ), Tức tai (bảo hộ thân chủ trong những trường hợp gặp nguy hiểm, mách bảo trước những chuyện nguy hiểm…), Hàng phục (phá phách đối thủ, gây bệnh…), Câu triệu (gọi người đi xa…). Tuỳ theo mục đích của thầy mà Kumanthông được luyện theo những cách khác nhau. Nhưng cách luyện cơ bản nhất vẫn là ra nghĩa địa tìm xác chết một người phụ nữ đang có mang vừa chết trong thời gian 21 ngày. Sau khi bày đồ lễ vật cúng, ông thầy xin người phụ nữ đứa con trong bụng rồi đào xác lên mổ bụng lấy đứa bé. Trong lúc làm phép tuyệt đối không có người thường ở gần, vì vong hồn người mẹ có thể phẫn uất mà vật chết những ai không có phép hộ thân.
Lấy được xác về, thầy phù thủy phải đem ngay đến một lò thiêu gần đó để thực hiện công đoạn thứ hai là sấy xác chết. 


Cũng có thể thiêu thành tro rồi lấy tro cốt ấy hòa với những chất liệu khác đổ khuôn ra những pho tượng nhỏ. Khi xác đứa bé đã khô hẳn lúc bấy giờ nó nhỏ gần bằng nắm tay. Ông thầy dùng vải quấn lại để lên bàn thờ mà luyện.


Lễ vật cúng cho quỷ nhi thường là sữa, nước ngọt, bánh kẹo
Nhiều ý kiến cho rằng Kumanthông là Thiên linh cái.Điều này không phải, bởi vì Thiên linh cái là một loại khác không liên quan.
Thông thường người ta dùng Kumanthông trong việc cầu tài bảo. Tượng cậu bé thường làm bằng vàng, bằng đồng, bằng đất nung. Nhưng tượng gốc là xác đứa bé, ông thầy không dại gì cho người ngoài thấy … 


Đa số thường phết vàng lên tượng thể hiện sự sùng bái và tăng thêm giá trị cho tượng. Do vậy, Kumanthông còn được gọi là cậu bé Vàng.
Hình tướng cậu bé Vàng được thể hiện ở nhiều dạng khác nhau. Có 5 dạng chủ yếu: Ngồi xếp bằng, quỳ, đứng, ngồi xổm, nằm. Đa số tượng được tạo ra đều có hình dáng đưa tay ngoắc.


Dù là quỷ, nhưng Kumanthông vẫn là trẻ con. Cho nên các vị này phá phách rất hồn nhiên, bất kể người đời có tin hay không tin, có sợ hay không sợ. Người nào được thầy cấp phép có liên quan đến Quỷ nhi đều được dặn dò kỹ những biện pháp xử lý trước những tình huống lạ xảy ra…


Còn đây là căn bản katha cho kumanthông:
Namao Tasa Pakawator Ahrahator Samma Samput Tasak. ( 3 lần)
So Sa Ah Nee , Sa So Nee
A Hit Kumanthong Pai Mah
Nee Ma Ma , Ma Ha La Pa Pa
Wan Doo Mae.(3 lần)
Tuỳ theo công năng sử dụng, tuổi tác của quỷ nhi lúc chết và mức độ sai khiến của thầy mà người ta có những cách cúng khác nhau. Tuy nhiên, trẻ con thích đòi ăn, ăn ít nhưng phải ăn nhiều lần và ăn thường xuyên. Nếu không nó sẽ phá không chịu nổi. Thông thường mỗi ngày cúng ít nhất hai lần. 
Theo : http://phayant.blogspot.com/
Xem chi tiết…

KHAI TRƯƠNG CHUYÊN MỤC :CHUYỆN HUYỀN BÍ KIM CỔ SƯU TẦM.

11/05/2014 |
KHAI TRƯƠNG CHUYÊN MỤC :CHUYỆN HUYỀN BÍ KIM CỔ SƯU TẦM.



Thân chào các bạn.
dienbatn xin khai trương chuyên mục  : CHUYỆN HUYỀN BÍ KIM CỔ SƯU TẦM.
Trong mục này, dienbatn sẽ đăng tải lại những câu chuyên cổ kim huyền bí mà dienbatn đã sưu tầm được từ trước đến nay. Những bài viết này có tác dụng như những tư liệu lịch sử của cha ông chúng ta trong những vấn đề của Huyền môn. Những tư liệu này trước hết là đọc để giải trí, sau nữa, ý tại ngôn ngoại, những người nghiên cứu Huyền môn sẽ tự mình chiêm nghiệm và rút ra cho mình những bài học hữu ích . Mặt khác, nếu có những bài có đề cập đến những kỹ thuật của Huyền môn, dienbatn khuyến cáo các bạn không nên tự ý luyện tập vì sẽ xảy ra những việc đáng tiếc. dienbatn không chịu trách nhiệm về những sự việc xấu xảy ra cho các bạn.
 Vì thời gian sưu tập rất lâu dài ( khoảng vài chục năm nên có những bài viết có dẫn nguồn, có những bài viết không có ghi nguồn dẫn. Mong rằng những tác giả có bài chưa ghi nguồn dẫn thông cảm và nếu được, xin gửi cho dienbatn nguồn của bài viết để dienbatn ghi vào. Xin trân trọng cảm ơn. Thân ái. dienbatn.
Xem chi tiết…

THỐNG KÊ TRUY CẬP

LỊCH ÂM DƯƠNG

NHẮN TIN NHANH

Tên

Email *

Thông báo *