CHUYỆN HUYỀN BÍ KIM CỔ SƯU TẦM . BÀI 8.

11/11/2014 |
CHUYỆN HUYỀN BÍ KIM CỔ SƯU TẦM . BÀI 8.

LỄ THƯỢNG LƯƠNG ( GÁC ĐÒN DÔNG ).
Từ khi bắt tay vào làm nhà đến khi ngôi nhà được hoàn tất, thưở xưa người Việt phải tiến hành nhiều nghi lễ.
1.- Lễ bình cơ (平基): Gia chủ đem lễ vật cúng trên miếng đất chọn làm nhà, dọn dẹp sạch sẻ khu đất đó. Rồi sau gia chủ mới đi mời thợ đến bàn việc làm nhà.
2.- Lễ  trúc cơ (築基) :- bắt đầu đắp nền nhà.
3.- Lễ phạt mộc (伐木) (lễ khởi công): Gia chủ làm hai mâm cỗ, một để cúng tổ tiên và thổ thần, một để cúng tổ sư thợ mộc. Cúng xong người thợ cả cầm rìu chặt ba nhát vào cây gỗ định làm cột cái để làm phép. Người thợ cả nhất thiết phải “lên rui mực” (định kích thước ngôi nhà vào một thanh tre gọi là rui mực, sào nhà hay thước tầm). Sau đó, nhóm thợ bắt đầu công việc cưa xẻ gỗ.
4.- Lễ định táng (tảng) (定磉)hay còn gọi là lễ in tảng: làm lễ để đổ nền nhà, định nơi đặt cục  táng (đá kê chân cột)
5.- Lễ tàng giá (藏架) :- còn gọi là sàn vài ( ráp thử các vài cột của căn nhà). Chỗ nào chưa tốt thì sửa chữa lại.
6.-Lễ  thượng lương (上梁) (gác đòn dông  hay lễ cất nóc ):- lễ này được coi là quan trọng nhất không thể bỏ qua. Chọn được ngày tốt, gia chủ nhờ một người nào đó trong thân tộc, vợ chồng song toàn, lắm con nhiều cháu làm ăn phát đạt để đưa cây đòn dông (vịn vào) cùng với số lượng mấy người phụ đỡ lên gian chính giữa. Trong khi làm lễ, cây đòn dông đó được buộc hai cành lá thiên tuế, một vài vuông vải đỏ hay lụa đại hồng có vẻ hình bát quái, quyển lịch Tàu hay sách chữ Nho.
7.- Lễ cái ốc (蓋屋) :- bắt đầu lợp nhà
8.- Lễ nhập trạch (入宅) (an thổ 安土) :- lễ này cúng báo để tổ tiên biết, nhà đã làm xong. Trong số lễ vật đó có gạo rang trộn với nước để rắc vào bốn góc nhà.
9.- Lễ động sàng (動床): cúng báo gia tiên để dọn về nhà mới và được kê gia cụ vào nhà.
10.- Lễ  tân gia (新家) (lễ  hoàn thành完城 hay còn gọi là lễ lạc thành落成, lễ cài sào):-  gia chủ làm lễ cúng gia tiên rồi gác thước tầm lên hai đầu cột cái của gian chính giữa.
Lễ này tổ chức ăn uống mời bà con họ hàng, khách khứa  xa  gần tới dự. Những người được mời thường đem tiền, câu đối, pháo đến chúc mừng gia chủ.
11.-Lễ  hoàn công (還工) (trả công thợ) :- lễ này do thợ tổ chức cúng Tổ Sư  Lỗ Ban ,để nhận tiền công.
12.-Lễ an cư (安居): làm lễ tạ tổ tiên, thổ thần để báo cho biết chủ nhân đã làm ăn yên ổn trong nhà mới.
(Nhược  Thủy-Theo Ngọc Hạp).
THAM KHẢO.

Trong dân gian ở miền nam lễ này còn được gọi là "Lễ thượng đòn dong" nghĩa là lễ đưa cây đòn dong lên. Đòn dong = đòn vong theo cách phát âm dân dã phía nam. Trước khi kiểu nhà gạch xây trở nên phổ biến thì kiểu nhà thông dụng là nhà gỗ. Dù bộ khung nhà là toàn bằng gỗ xẻ hay là trưng dụng bằng cây cau, cây tràm, cây tre tàu, cây tre tầm vông . . . thì kết cấu chung cũng gồm cột, xiên, kèo, đòn tay vv. Sơ lược về nhà một gian có khung gỗ xẻ : 
+ Cột: Chịu lực chính,dựng thẳng đứng trên viên tán bằng đá đẻo, bao gồm cột hàng nhất (cao nhất và còn được gọi là cột cái) cột hàng nhì và cột hàng ba (chống đỡ hiên nhà nên hàng hiên còn đươc gọi là hàng ba) 
+ Xiên: Kết nối các dãy cột, nằm ngang và xuyên qua các thân cột, bao gồm xiên giữa, xiên hông, xiên trước, xiên sau. 
+ Kèo: nằm xuôi nghiêng, gác trên đỉnh cột. Với một gian nhà rộng còn có thêm kèo dơi ở giữa, thiếu cây cột đỡ mà đặt lên đoạn cây chõng tựa lên cây xiên thôi. 
+ Đòn tay: nằm vắt ngang lên dãy kèo, thường có 9 đòn tay cho mỗi một bên mái nhà (chỉ đếm số đòn tay từ cột hàng nhì đến cột hàng nhất) 
Cây đòn vong chính là một cây đòn tay đặc biệt (nhưng không được tính vào số đòn tay) nằm trên cùng, cao nhất, chổ giao nhau của hai mái nhà trước và sau. Cây đòn vong được bào đẻo cho thân tròn hoặc bát giác, được "cưng" nhất và được xem là "mang linh hồn" của một căn nhà hồi xưa. Vì ngày trước, khi còn chưa dùng 'tole' kẽm thì mái nhà được lợp bằng ngói hoặc bằng lá dừa, lá cỏ tranh ... nên rất cần độ dốc nghiêng để nước mưa xuôi chảy, do đó nhà phải làm theo kiểu hai mái mà vẫn lộ rõ đỉnh nóc thật cao và căn nhà nào cũng có cây đòn vong ở cao tận cùng trên đỉnh. 

Toàn bộ khung nhà được tính tóan cẩn thận, được đo cắt đục đẻo bào gọt hoàn chỉnh từng chi tiết, được ráp thử riêng từng bộ với nhau trước khi dựng. Công đoạn chuẩn bị này là chiếm nhiều thời gian và công sức nhất cho bộ khung mà vẫn chưa làm gì "động thổ". Cách làm nhà gỗ của người xưa tuy còn là "dân quê thôn dã" so với xã hội công nghiệp ngày nay, nhưng nhờ kiến thức và kinh nghiệm tích lũy qua nhiều thế hệ nên xem ra lại rất khoa học và sáng tạo. Các thiết kế mộng, ngàm, con sẻ, con nêm . . . gíup cho việc lắp ráp mau chóng mà vẫn vững chải, khi cần chuyển chổ ở dời nhà đi thì tháo dỡ dễ dàng mà giữ được gần nguyên vẹn. Và điều quan trọng là làm được nhiều công đoạn ngay tại dưới mặt đất, hạn chế bớt việc thi công trên cao vừa khó khăn nguy hiểm lại mắc công leo lên leo xuống. 
Vào ngày lành tháng tốt dựng khung nhà thì có một lễ cúng để khấn vái ông bà, đất đai, nhà cửa trong đó có Lễ thựơng đòn vong vào đúng giờ đã được chọn trước. Lễ này do một người hội đủ phúc lộc thọ đứng ra cúng kiến và chỉ đạo, kết hợp với gia trưởng, tộc trưởng, thợ cả và người hợp tuổi để đưa cây đòn vong lên. Nếu bộ khung kịp lắp ráp, thường thì cũng mau vì đã chuẩn bị kỷ lưỡng, thì cây đòn vong được đặt vào đúng chổ của nó luôn. Nếu không kịp ráp bộ khung, vì chọn vào giờ quá sớm trong ngày hoặc vì bộ khung lớn và phức tạp hay chưa kịp hoàn tất khâu chuẩn bị, thì cây đòn vong vẫn được đưa lên ngay vị trí của nó sau này và đựơc giá đỡ tạm thời, tựơng trưng cho căn nhà sẽ đựơc cất lên sau. Lễ này làm nghiêm trang lắm. Và như Dienbatn đã nói, có một cuốn lịch Tàu được treo mãi mãi vào cây đòn vong, không ai đụng đến. 
Lẽ thông thường, gia chủ và thầy thợ làm nhà đều cầu mong may mắn cho căn nhà mới. Căn nhà ở nào đựơc bình an hạnh phúc và làm ăn khấm khá thì vị thợ cả được cho là "mát tay" và sẽ được đắt mối làm nhà. Trong quá trình làm nhà thì gia chủ rất mực săn sóc thầy thợ, hoàn chỉnh trả công xong còn chiêu đãi để tỏ lòng biết ơn. Tuy vậy, vẫn có đồn đãi cho rằng gia chủ nào đối đãi thầy thợ không hậu hỉ sẽ bị thợ cả biết thuật Lỗ Ban ếm cho gia đạo bất hoà, làm ăn thất bát, ngóc đầu không nổi. 
Nhân tiện nhắc đến Lỗ Ban nên có vài lời về cây thước Lỗ Ban luôn. Đến giờ lưu truyền vài chuẩn khác nhau về cây thước Lỗ Ban chẳng biết cái nào là đúng (cây thước của ông Bố NT từng dùng thì dài 40,5 cm). Người thợ mộc ngày trước theo cây thước Lỗ Ban này tìm "cung tốt" để tính toán và lên qui cách một số thông số trong căn nhà. Bởi vì thầy thợ ai ai cũng theo thước này nên hoá ra nhà cửa có một số qui cách rập khuôn giống nhau hoặc chỉ thay đổi xê xích chút ít nên cũng thuận tiện cho việc thiết kế và thi công. Và nhìn chung, nếu "chọn" theo các số đo thuộc cung tốt trên thước này thì nhà cửa, nội thất lại được phù hợp với đặc điểm sinh lý chung của cơ thể con người, chẳng hạn như chiều cao, khổ vai, tầm với tay, sải bước chân đi, khác biệt cao độ tương quan giữa ngồi xuống và đứng thẳng lên ... và cũng được thuận tiện trong ăn ở theo như tập quán sinh hoạt thuở trước. 
Ngày nay thịnh hành kiểu nhà bê tông đúc, nhà gạch xây một mái lợp 'tole' dốc thoai thoải, nên dù còn sử dụng cây đòn tay để lợp mái nhà nhưng không còn cây đòn vong, vẫn cúng kiến làm lễ khởi công động thổ đào móng nhưng không còn Lễ Thượng Lương và cũng hiếm thấy quyển lịch Tàu bụi bám nằm treo trên nóc nhà. 
(Của anh Hồng Đức bên Palawan ).
BÙA THƯỢNG LƯƠNG DO DIENBATN KHÔI PHỤC LẠI TỪ BÙA CỔ .





姜 太 公 在 此 百 無 禁 忌 
Đọc: Khương Thái Công tại thử bách vô cấm kị
Nghĩa: Khương Thái Công tại đây, tà ma đi hết.

ĐỒ LỄ THƯỢNG LƯƠNG : 
1/ Xôi - gà.
2/ một bộ Quan Thần linh ( mũ - áo - ủng - ngựa - 1000 vàng hoa ) tất cả màu vàng+ 200 cuốn Thọ sinh kinh – tiền mã.
3/ 01 đĩa ngũ quả ( 5 loại ).
4/ o1 bình hoa cúc hay hồng.
5/ 3 cốc trà - 3 cốc rượu - 3 cốc nước.
6/ 9 cây nến cốc màu đỏ.
7/ Trầu cau - rượu - thuốc lá.
8/ ít giấy tiền vàng bạc cúng vong.
9/ Gạo , muối.
10/ 01 tô cháo trắng.
11/ bỏng ngô, ngô , khoai luộc.
12/ 01 bó hương.
13/ Một bộ Tam sên : Thịt luộc – 01 trứng vịt luộc – một nhúm tôm nõn.
Khi dọn đến nhà mới cần mang trước : Bàn thờ - Gạo đầy thùng – Muối đầy hũ – Bật lửa mới vài cái.

THAM KHẢO THÊM.
Lệ tục và Văn khấn trong ĐỘNG THỔ, CẤT NÓC.
Việc chọn ngày tốt, tránh ngày xấu, cầu cúng từ lâu đã trở thành truyền thống văn hoá của các dân tộc Đông phương theo nguyên lý  “Thiên Nhân hợp nhất”. Thủa xưa có đến 85 việc cần xem ngày, làm Lễ chia thành 7 nhóm trong đó có các công việc liên quan tới tu sửa, làm mới các kiến trúc gồm 26 việc. Nay chỉ những sự kiện lớn của đời người mới tiến hành nghi thức đó.
Đối với người Việt, làm nhà là một trong ba việc lớn của đời người (lấy vợ, làm nhà, cha mẹ chết). Do đó từ xưa tới nay, người ta luôn cẩn trọng trong việc phạt mộc, đào móng, dựng nhà, cất nóc, vào nhà mới. Dân gian quan niệm nóc nhà (cây Thượng lương) rất quan trọng bởi không có nóc không thành nhà. Do đó khi làm nhà, người ta làm lễ cất nóc, chữ gọi là lễ Thượng lương. Ngày nay, nhà đổ mái bằng thì “cất nóc” là đổ mái tầng cao nhất.
Gần đây việc trùng tu, tân tạo đình, chùa, nhà thờ, đền, miếu theo dạng kiến trúc cổ nên “cất nóc” rất quan trọng.
1. Chuẩn bị:
1.1. Chọn ngày:
Đây là việc lớn nên cần đi xem ngày, chọn giờ. Yêu cầu chung nhất là ngày giờ đó phải: hợp với việc tạo tác, có nhiều Cát thần, hợp với bản mệnh của người chủ sự, đủ điều kiện về xây dựng, tổ chức. Thường chọn ngàứồc sao: Hoàng đạo, Sinh khí, Lộc mã, Giải thần. ...; tránh ngày xấu là ngày Hắc đạo, Sát chủ, Thổ cấm, Trùng tang, Hùng phục.....
1.2. Viết chữ, xin bùa:
1.2.1. Chữ viết trên Thượng lương thường là chỉ thời gian và phải nhờ người viết chữ đẹp. Chú ý rằng: chân chữ hướng ra cửa, từ ngoài nhìn vào phía tay phải là điểm bắt đầu, số chữ có chữ cuối đứng vào chữ “Sinh” (là 5, 9, 13, 17, 21, 25)Ví dụ: 
* Chữ đề trên cây nóc nhà làm năm 1925:
- Nguyên văn: 啟定十年歲乙丑四月二十一日良辰豎柱上樑大吉 (21 chữ).
- Phiên âm: Khải Định Thập niên tuế Ất Sửu Tứ nguyệt Nhị thập Nhất nhật lương thời, thụ trụ thượng lương đại cát
- Dịch nghĩa: Giờ lành ngày 21 tháng 4 năm Ất Sửu 1925, năm thứ Mười niên hiệu Khải Định dựng cây thượng lương đạt nhiều điềm may mắn.
* Chữ đề trên cây nóc khi trùng tu nhà năm 1931:
- Nguyên văn: 皇朝保大六年歲次辛未四月十九日辰牌重修豎柱上樑大吉 (25 chữ).
- Phiên âm: Hoàng triều Bảo Đại Lục niên tuế thứ Tân Mùi Tứ nguyệt Thập Cửu nhật thời bài, trùng tu - thụ trụ thượng lương đại cát
- Dịch nghĩa: Ngày 19 tháng 4 năm Tân Mùi 1931 năm thứ Sáu niên hiệu Hoàng triều Bảo Đại dựng cây thượng lương khi trùng tu, đạt nhiều điềm may mắn.
1.2.2. Còn câu đầu ở bên phải là vế có âm trắc ở cuối.
1.2.3. Một miếng vải đỏ có đề ngày tháng tiến hành Lễ và mấy chữ:  姜太公在此 (Khương Thái công tại thử, tức Ông Khương Thái công hiện ở đây), được treo vào Thượng lương hoặc thay miếng vải đỏ bằng lá bùa Bát quái, để trừ tà ma. 
1.3. Sắm đồ lễ:
Ngày xưa phải cúng tam sinh (3 con vật), ngày nay đơn giản hơn, nhưng cần phải có:
 - Một con gà; Một đĩa xôi hoặc bánh chưng.
- Một đĩa muối; Một bát gạo; Một bát nước.
- Nửa lít rượu trắng; Bao thuốc, lạng chè.
- Một bộ quần áo Quan Thần Linh, mũ, hia tất cả màu đỏ, kiếm trắng.
- Một đinh vàng hoa; Năm lễ vàng tiền.
- Năm cái oản đỏ; Năm lá trầu, năm quả cau.
- Năm quả tròn; Chín bông hoa hồng đỏ.
2. Nghi thức:
Chuẩn bị tốt hiện trường: don nơi đào móng, bắc đòn chính của nóc nhà lên đỉnh sườn nhà.
Đúng ngày giờ đã chọn, để Lễ vật ở một cái mâm nhỏ rồi đặt mâm lễ lên một cái bàn con (hay ghế cao) ở giữa khu đất sẽ được đào móng.
Gia chủ quần áo chỉnh tề, thắp đèn, rót rượu, đốt nhang vái bốn phương, tám hướng rồi quay vào mâm lễ mà khấn (nhiều người mời Thầy) cáo gia tiên. Lễ xong, trước đây có đốt pháo, ngày nay thường phụt pháo giấy. Tiếng pháo vừa biểu lộ sự vui sướng vừa để đuổi tà ma.
Khi hương gần tàn gia chủ hoá tiền vàng, rắc gạo, muối ra xung quanh rồi tự tay cuốc 7 nhát vào chỗ định đào móng (nếu cất nóc thì kéo nóc đặt vào vị trí). Ngay sau đó tốp thợ có thể tiến hành công việc[1].
Cũng trong dịp này, chủ nhà mời bà con họ hàng tới chung vui “thụ lộc” và mừng cho gia chủ.
Phảm vật cúng xong chia cho tốp thợ 1 nửa.
3. Văn khấn:
Nam Mô A Di Đà Phật! (3 lần)
Con kính lạy[2] Chín phương Trời, mười phương Chư Phật, Chư Phật mười phương.
Con kính lạy Hoàng thiên Hậu Thổ, Tiền chủ Hậu chủ chư vị Tôn thần.
Con kính lạy Đương niên Quý Tị niên Chí đức Tôn thần: Từ giả Đại  tướng Quân[3]; Ngài Đương niên chi Thần: Ngô Vương Hành khiển, Thiên Hải chi Thần, Hứa Tào Phán quan[4].
Con kính lạy các ngài Bản cảnh Thành hoàng chư vị Đại vương, ngài Bản xứ Thần linh Thổ địa, ngài Bản gia Táo quân: Đông trù Tư mệnh Táo phủ thần quân, Thổ địa Long mạch Tôn thần, Ngũ phương, Ngũ Thổ, Phúc đức Chính thần và Chư vị thần linh cai quản xứ này .
Hôm nay là ngày ngày Rằm tháng Tám năm Quý Tị, vào năm thứ 68 của nước CHXHCN Việt Nam, tức là vào thứ Năm, ngày 19 tháng 09 năm 2013.
Tín chủ con là: Lương Đức Thuộc
Ngụ tại: thôn An Phong, xã Phong Niên, huyện Bảo Thắng, tỉnh Lào Cai
Thành tâm sắm lễ, quả cau lá trầu, hương hoa trà quả, rượu thịt nước trong, thắp nén tâm hương, dâng lên trước án, có lời thưa rằng: tín chủ con khởi tạo (hoặc cất nóc, xây cổng, sửa chữa hay xây mới...) căn nhà ở thôn An Phong, xã Phong Niên, huyện Bảo Thắng, tỉnh Lào Cai để làm nơi cư ngụ cho gia đình con, con cháu.
Nay chọn được ngày lành tháng tốt, kính cáo chư vị linh thần, cúi mong soi xét và cho phép được động thổ (hoặc cất nóc, xây cổng, sửa chữa hay xây mới...).
Tín chủ con lòng thành lễ vật dâng lên trước án thành tâm kính mời:
Ngài Kim niên Đương cai Thái Tuế chí đức tôn thần.
Ngài Bản cảnh Thành hoàng Chư vị Đại Vương.
Ngài Bản xứ Thần Linh Thổ Địa.
Ngài Định phúc Táo quân, các ngài Địa chúa long mạch Tôn thần và tất cả các vị
Thần Linh cai quản ở trong khu vực này.
Cúi xin các ngài giáng lâm trước án, chứng giám lòng thành, thụ hưởng lễ vật, độ cho chúng con mọi duyên thuận lợi, công việc hanh thông, chủ thợ được bình an, ngày tháng hưởng phần lợi lạc, âm phù dương trợ, sở cầu như ý, sở nguyện tòng tâm.
Tín chủ lại xin phổ cáo với các vị Tiền chủ, Hậu chủ và các vị Hương linh khuất mặt lẩn khuất quanh đây, các linh hồn chiến sĩ trận vong vì nước, các oan hồn uổng tử không nơi nương tựa, xin cùng tới đây thụ hưởng lễ vật, độ cho tín chủ cũng như chủ thợ đôi bên, khiến cho an lạc, công việc chóng thành, muôn sự như ý, từ đây hoạn lộ hanh thông, Đông thành Tây tựu, trú sở cát tường.
Chúng con lễ bạc tâm thành, trước án kính lễ, cúi xin được phù hộ độ trì.
Nam Mô A Di Đà Phật! (3 lần)

Lương Đức Mến (soạn từ nhiều nguồn tham khảo, dùng trong gia tộc). 
[1] Nếu mượn tuổi làm nhà:
- Trước đó phải làm giấy tờ bán tượng trưng khu đất đó cho người mượn tuổi lấy 99.000 đồng có làm giấy tờ, chủ nhà giữ giấy này.
- Khi động thổ: người mượn tuổi thay gia chủ khấn vái và động thổ như trên. Lúc này gia chủ phải lánh khỏi nơi làm nhà xa từ 50m trở lên, sau khi hoàn tất việc động thổ xong mới trở về.
- Các kỳ đổ mái tầng 1, tầng 2… và tầng cuối cùng, người mượn tuổi vẫn tiếp tục dâng hương, khấn lễ, gia chủ vẫn phải lánh mặt lúc làm lễ.
- Khi nhập trạch: người mượn tuổi làm mọi thủ tục dâng hương, khấn thành lời bàn giao nhà cho gia chủ. Gia chủ làm giấy tờ mua lại nhà với giá 100.000 đồng và khấn cầu, lễ theo phần nhập trạch.
[2] Xem thêm ở đây: http://holuongduclaocai.blogspot.com/2013/08/chu-y-trong-phan-kinh-thinh-cua-van-khan.html
[3] Thay đổi từng năm trong Vòng luân phiên các Thái Tuế tinh quân trong Lục thập Hoa giáp, xem tại đây: http://holuongduclaocai.blogspot.com/2012/01/vong-thai-tue.html

[4] Tên quan Hành khiển, Thần và Phán quan (Lưu niên Hành khiển) thay đổi theo Thập nhị Địa Chi của năm, xem: http://holuongduclaocai.blogspot.com/2011/02/luu-nien-hanh-khien.html
Xem chi tiết…

CHUYỆN HUYỀN BÍ KIM CỔ SƯU TẦM . BÀI 7.

11/11/2014 |
CHUYỆN HUYỀN BÍ KIM CỔ SƯU TẦM . BÀI 7.
VUA QUANG TRUNG VÀ CHIẾC HOÀNG BÀO BÍ ẨN 
HỒ VĂN QUANG


Hơn hai thế kỷ qua, nhiều sử gia, nhiều học giả đã từng tốn nhiều công sức trong việc nghiên cứu của mình, nhằm tìm hiểu đâu chính là sự thật về lần vĩnh biệt của vị anh hùng dân tộc Nguyễn Huệ vua Quang Trung, vị Ðại Ðế đã làm rạng rỡ cho cơ đồ Việt Nam! Chuyện tức tưởi bước vào cõi vĩnh hằng không phải chỉ dành riêng với cá nhân ông ta mà còn là sự uất ức chung cho cả dân tộc Việt Nam ta. Do đó, vấn đề bàn cãi đâu là nguyên do chính đáng nhất của nó vẫn còn bao trùm bởi chiếc màn dày đặc của sự bí mật. Nếu ai đó đưa ra cân trả lời để kết luận "Nhà vua chết vì bệnh." thì chúng ta khỏi nói thêm nữa... Hiện tại, người viết bài này chỉ biết kiểm nghiệm lại những gì có trong tài liệu sưu tầm được, để gọi là phần nào đó, ghi góp thêm cho cách giải đáp "thắc mắc" thôi. Chuyện "Chiếc áo ấm" mà Càn Long (vua Thanh) cẩn tặng vua Quang Trung để mặc lúc ngự hàn, là một nghi vấn nằm trong những nghi vấn khác mang tính: "khó tin nhưng có thật", vì chỉ có nó mới có thể nói lên cả một kế hoạch lâu dài của các nhà "lý số" Tàu dưới triều Càn Long quyết hại chết vua ta, để trừ mọi hậu hoạn nơi bờ cõi phương Nam của họ.
Sách "Ngụy Tây Liệt Truyện" của bộ sử ký "Ðại Nam Chính Biên Liệt Truyện", quyển 30 trang 42, các sử quan triều Nguyễn ghi như sau: "...Một hôm về chiều, Quang Trung đang ngồi, bỗng xây xẩm tối tăm, thấy một ông già đầu bạc từ trên trời xuống, mặc áo trắng, cầm gậy sắt mắng rằng: Ông cha ngươi sống ở đất của Chúa, đời đời làm dân của Chúa, Ngươi sao dám phạm đến lăng tẩm? Rồi lấy gậy đánh vào trán, Quang Trung mê man ngã xuống, bất tỉnh nhân sự, lâu lắm. Lúc tỉnh dậy nhà vua đem việc ấy nói với quan trung thư Trần Văn Kỷ. Từ đó bịnh chuyển nặng mới triệu quan trấn thủ Nghệ An Trần Quang Diệu về bàn bạc để dời đô ra đó. Thương nghị chưa xong thì Thế Tổ ta đã lấy lại được Gia Ðịnh, chiếm Bình Thuận, Bình Khang, Diên Khánh, thanh thế chấn động. Quang Trung nghe được lo buồn, bịnh ngày càng kịch liệt..." Ðọc những trang sử này, chúng ta có thể hiểu được ý chính của các sử quan triều Nguyễn, họ muốn dựng lên một huyền thoại, nhằm thóa mạ vua Quang Trung. Dụng ý chính ở đây là để ghép tội, và chứng minh rằng vua Tây Sơn là người: Vô đạo và tàn bạo.
Tiếm đoạt thành Phú Xuân, xâm phạm lăng tẩm các Chúa Nguyễn nên bị tổ tiên các Chúa Nguyễn trừng phạt Vì đang bệnh mà vua Quang Trung còn phải lo lắng thêm việc con cháu Chúa Nguyễn phục thù, đang chiến thắng tại nhiều nơi, lấn chiếm dần các phần đất phía Nam... và lãnh thổ Tây Sơn ngày một thu hẹp lại. Do đó, nhất định bệnh tình nhà vua ngày một nặng thêm, và rồi nhất định phải chết. Dầu có nói gì chăng nữa, họ cũng không thể che giấu hành vi trả thù, một sự trả thù dã man, tàn bạo đối với một triều đại từng làm cho họ xích bích xang bang, sống trong tan tác, cơ hồ như bị hủy diệt luôn. Cho nên khi chiến thắng rồi, họ quên bẵng thời điểm lịch sử 1792 (năm vua Quang Trung mất), tình thế chiến trường đem ra so sánh, binh đội phe Nguyễn Ánh chỉ là một nhóm người nhỏ lẻ tẻ, ô hợp, chưa đủ khả năng chống chọi với đại binh Tây Sơn. Sách "Ðại Nam Thực Lục Chính Biên", là bộ sách sử tuy được cả triều Nguyễn ca tụng, nhưng phần "Ðệ Nhất Kỷ" cũng phải ghi: "Tháng 3 năm Nhâm Tý (1792) nhân khi gió Nồm thổi, Nguyễn vương sai tướng là Nguyễn Văn Trương cùng Nguyễn Văn Thành đem chiến thuyền từ cửa Cần Giờ ra đốt phá thủy trại Tây Sơn ở của Thị Nại (Quy Nhơn) rồi rút lui về. Khi lui về Nam, Nguyễn Ánh có ý định chiếm Phan Rang, Phan Rí... nhưng cuối cùng Nguyễn Ánh thấy chống không nổi, phải cho rút quân về lại Gia Ðịnh". Như vậy, giai đoạn từ mùa hè 1792 trở về trước, Nguyễn Ánh đã không thể có mặt trên đất miền Trung, mà phải lo cố thủ Gia Ðịnh, có nghĩa là triều đại Tây Sơn vẫn còn cai quản phần đất từ Gia Ðịnh trở ra Bắc và chính lúc bình yên trên phần đất cai quản của mình như thế này, vua Quang Trung bị bệnh, rồi sau đó băng hà. Không giống như nội dung đoạn sử trên mô tả: Về tính huyền thoại huyễn hoặc: bị ông tiên nào đó đánh cho một gậy để phải lâm bệnh  Về mặt thực tế cụ thể: như lo âu mất đất và bị thua trên chiến trường... Chính hai lý do này đã khiến vua Quang Trung buồn phiền, rồi bệnh nặng mà băng hà? Thực ra, từ năm 1787 trở đi, vua Quang Trung bận rộn rất nhiều về chuyện nội trị, phần khác cần đối phó loạn lạc tại Bắc Hà! Riêng phía Nam, cũng có chuyện cần cấp giải quyết, vì sự cai quản non kém của Ðông Ðịnh Vương Nguyễn Lữ, tạo điều kiện thuận lợi để Nguyễn Ánh chiếm lại Gia Ðịnh. Và cũng nhờ vào sự bận rộn này mà bắt đầu từ năm 1787 cho đến năm 1792, Nguyễn Ánh mới có cơ hội chiếm lại rồi củng cố thành Gia Ðịnh. Mãi tới tháng 5 năm 1790, Nguyễn Ánh cho Lê Văn Câu (có sách ghi là Lê Văn Quân, một đại công thần, có thứ bậc trên cả Võ Tánh, Nguyễn Văn Thành) đem quân ra đánh chiếm Bình Thuận. Chưa đầy một tháng sau đó, Tây Sơn phản công, quân lính Câu tan tác, phải cấp báo về Gia Ðịnh xin Nguyễn Ánh cho viện binh. Ánh không chấp thuận trong tình thế nguy cấp này, Nguyễn Văn Câu đành rút chạy về Phan Rí, quân binh Tây Sơn tiếp tục truy kích, Câu phải chạy thẳng về Gia Ðịnh...  Trước một bại tướng từng sống chết với mình, Nguyễn Ánh không những không tìm cách che chở, bảo bọc, mà còn tỏ ra không thương tiếc, nhất định nghị tội, bãi chức... Quá uất ức, Câu đành uống thuốc độc, kết liễu đời mình. Thương thay cho một vị đại tướng tìm lầm chúa thờ! Trở lại cái chết của vua Quang Trung, chúng ta không nhìn nội dung trên ở khía cạnh mạ lỵ cá nhân, mà trên sự kiện nguyên do cái chết. Từ đó chúng ta cũng có thể kết luận họ đã xác nhận vua Quang Trung chết vì bệnh. Ðọc sử Việt Nam, có rất nhiều cách giải thích khác về cái chết của vị anh hùng dân tộc của chúng ta, nhưng không mấy hấp dẫn. Do đó, người viết phải tìm thấy thêm trong "Ðại Thanh Thực Lục" và "Ðông Hoa Toàn Lục" (Sử Trung Quốc) ghi rằng:"Năm Càn Long thứ 58 (vào tháng 1 năm 1793), Quách Thế Huân khấu báo lên Càn Long là An Nam quốc vương Quang Trung đã chết vì bệnh".Càn Long, hơi giật mình rồi như đang suy nghiệm một điều gì có thể đúng với dự tính trước đó của ông ta... Phải chăng, vua Thanh đã biết trước được một chuyện gì chăng về cái phải xảy ra với vua Quang Trung? Theo hắn ta phải sớm hơn... (vì khoảng sáu tháng sau ngày vua Quang Trung băng hà, Càn Long mới biết tin). Tại Bắc kinh, trước lúc đó, Vũ Văn Dũng được tin mật, vị trưởng đoàn sứ thần này xỉu đi... Khi tỉnh lại, liền gấp rút từ tạ vua Thanh mà trở về Phú Xuân ngay. Chính sự đau đớn này, Vũ Văn Dũng đã làm bài thơ (Tập san sử địa số 9, Sai Gòn 1968, trang 154):
 "Bố y phấn tích ngũ niên phong 
Mai cổ thi vi tự bất đồng 
Thiên vị Ngô Hoàng tăng nhất kỷ 
Bất ư Ðường, Tống thuyết anh hùng".
 Tạm dịch: 
Năm năm dựng nghiệp tự thân nông 
Thời trước thời sau có mấy ông? 
Có thương, trời cho mươi năm nữa, 
Anh hùng Ðường, Tống khó so công!
Vua Quang Trung mất vào mùa Thu 1792, nửa năm sau Mãn Thanh mới biết, và cho người sang báo tang. Sự chậm trễ này không phải do Quách Thế Trung, mà chính do sự sắp đặt của hoàng triều Phú Xuân muốn làm vậy. Trong "Ðông Hoa Toàn Lục", quyển 117, trang 5s, đã ghi lại ý trách móc của Càn Long: "Quốc Vương Nguyễn Quang Bình đã mất ở Nghệ An vào tháng 9 năm ngoái. Vua Càn Long liền quở trách người đưa tin như thế là quá chậm, chắc bây giờ đã tống táng rồi". Sự việc rõ ràng bên trong có dụng ý riêng, vì không phải báo về cái chết của Nguyễn Quang Bình chậm, mà còn sai chỗ nữa (Phú Xuân chứ không phải Nghệ An). Mặt khác, Phú Xuân còn cho làm mộ giả của vua bên Hồ Tây để đón sứ thần Mãn Thanh sang phúng điếu. Sứ Thanh đến, muốn vào thăm Phú Xuân, triều thần Tây Sơn nhất định không cho, còn tìm mọi cách đánh lạc hướng như dẫn họ lên tận Sơn Tây, khi sứ Thanh phát hiện, triều thần Tây Sơn mới chịu dẫn họ trở lại, nhưng chỉ dừng ở Thăng Long mà thôi.  Những việc nhà Thanh làm rất mâu thuẫn và bí mật, nhất là việc đòi phải vào đến tận Phú Xuân xem xét... Năm 1789, chính Thành Lâm không chịu vào Phú Xuân để phong vương cho vua Quang Trung (lần đầu sau khi Phạm Công Trị đóng vua Quang Trung giả), mà chỉ tại Thăng Long, viện lý do không được trái lệ thường (Các triều đại trước mỗi khi Trung Hoa cho sứ sang nước ta làm lễ phong vương, đều thực hiện tại Thăng Long theo qui lệ của các vua Trung Hoa), nhưng lần này lại đòi vào tận Phú Xuân để điếu tang. Tại sao triều thần Tây Sơn không cho Thành lâm vào Phú Xuân? Cũng như vua Quang Trung luôn cho người giả mình để tiếp xúc với nhà Thanh? Tất cả mọi nghi vấn như thế này chỉ có vua Quang Trung và các cận thần của ông ta mới biết! Ngày nay, chúng ta sao có thể suy đoán rằng: triều thần Tây sơn sợ các thầy địa lý Tàu ếm bùa ếm ngãi nơi mộ vua Quang Trung!(?). Giai đoạn xã hội lúc đó, chuyện xảy ra như thế này không phải là không có. Triều thần Tây Sơn làm sao lường trước chuyện rửa nhục "thất trận Xuân Kỷ Dậu"? (Vào cuối năm 1788, Tôn Sĩ Nghị ngày nào cũng cấp báo tin thắng trận, vua Càn Long vô cùng mừng rỡ, tiệc mừng được liên tiếp tổ chức, ba quân luôn được cất nhắc thăng thưởng (tăng thêm một tháng lương cho đội quân viễn chinh dùng để ăn tết trên xứ Nam). Chính Càn Long đã chọn ngày mồng 5 Tết làm ngày "Hội mừng công, bình định đương An Nam", các Ðại thần, các Ðại học sĩ, các Văn nhân, quan chức phải tề tựu về kinh đô (Bắc Kinh) cùng nhau xướng họa, bình phẩm, gọi là chúc mừng thọ nhân buổi đầu năm lên vua. Thực ra, đây là việc mừng chiến thắng bình định phương Nam. Nhưng, ngày mồng 5 đã làm họ ê chề đau đớn, vì họ không có thắng lợi, mà ngược lại đã bị vua Quang Trung xóa sổ 29 vạn quân xâm lược tinh nhuệ ngay trên đất Thăng Long! Tàn quân Thanh khi chạy về lại nước mình, chỉ còn vỏn vẹn 5.500 người mà đa số đều bị sứt tay gãy gọng! Thật đột ngột, thật bất ngờ, và cũng thật đau đớn nữa... Trước tin này, Càn Long vẫn bình tĩnh, ra lệnh chiêu an Tôn Sĩ Nghị, ghép tội cho Lê Chiêu Thống... Sự thật thế nào cũng phải phơi bày, nên về sau, Càn Long biết được lỗi lầm do Tôn Sĩ Nghị gây nên, mới xuống chiếu nghiêm trị, bãi chức họ Tôn, cho Phúc Khang An thay thế làm lưỡng Quảng Tổng Ðốc, cầm giữ 50 vạn quân để bảo vệ biên giới tiếp giáp với An Nam. Trước tình hình như thế này, vua Quang Trung nhất định không thể khinh xuất, đã phải cùng triều thần nghị bàn quyết định dùng ngoại giao để giải quyết cuộc chiến đầy thầm lặng này.  Ðại Nam Chính Biên Liệt Truyện, quyển 30, trang 36s, ghi lại bức thư của Thang Hùng Nghiệp (quan đạo Tả Giang) viết cho vua Quang Trung như sau: "Lê Duy Kỳ đã trốn ra khỏi nước, thiên triều không ủng hộ cho y làm vua nước Nam nữa. Vậy trong khi chưa có người đến gõ cửa quan xin thụ phong, thì "Người" nên đến sớm để được đặc ân...". Cơ hội hòa hoãn với Thanh triều coi như đã nắm chắc trong tay, vua Quang Trung liền cho đòi Ngô Thời Nhiệm vào chầu, giao cho nhiệm vụ thảo thư trả lời vua Thanh. Cũng trong sách này, quyển 30, trang 136b, 37a, có viết lại lời Phúc An Khang nói về tình hình sau vụ Xuân Kỷ Dậu: "...đã chính thấy mắt Nghị trơ trọi một mình chạy về. Sau đó, tai hại được nghe thanh thế của vua Quang Trung nên trong bụng không khỏi rụt rè, lo sợ... bèn nói nhỏ với viên thuộc quan rằng: Nam - Bắc thôi việc binh đao đó là phúc của sinh dân, mà là điều may mắn cho quân ở ngoài bờ cõi. Ta nghe nói viên quan coi việc giấy tờ của nước Nam tên là Ngô Thì Nhậm, bao nhiêu thư từ, từ trước đến nay đều do tay y mà ra. Vậy ngươi nên viết thư trả lời, bảo y chuyên tâm chủ trương việc giảng hòa, gấp rút viết tờ biểu tạ tội đưa sang, ta sẽ ở trong giúp đỡ cho, việc ấy thế nào cũng xong..." Vua Quang Trung xuống chỉ bảo Hồ Hổ hầu làm chính sứ sang Trung Hoa, trực tiếp gặp Thang Hùng Nghiệp. Nội dung tờ biểu đã nói lên được tính nhún nhường, kèm theo sự giải thích rõ ràng lý do phế bỏ Lê Chiêu Thống. Riêng việc va chạm với binh đội thiên triều, thì đây chẳng qua là cách đối xử quá vụng về của Tôn Sĩ Nghị mà thôi. Trong đoạn chót, nội dung thư, tỏ ra cứng rắn, không chịu lép vế, có đoạn rất đanh thép, mỉa mai, hăm dọa (Sách vừa dẫn cùng trang): "...Tôn Sĩ Nghị lấy địa vị đại thần ở biên cương, lại vì tiền hay vì gái mà đem tờ biểu chương của thần xé ném xuống đất, làm nhục sứ giả, ý muốn động binh dấy quân, không biết việc đó quả do Ðại Hoàng Ðế sai khiến hay do Tôn Sĩ Nghị? Thử hỏi vì một người đàn bà sai khiến mong lập công ở biên cương mà cầu lợi lớn có đáng mặt quân tử không?..." Trong phần cuối thư Ngô Thời Nhiệm còn nhấn mạnh: "...nay đường đường là triều đình thiên tử, lại đi so hơn thua với một nước rợ nhỏ, ắt là muốn cùng khốn binh sĩ, lạm dụng vũ lực hầu sướng khoái cái lòng tham lam tàn bạo, thì chắc lòng dạ của Thánh Thượng cũng không nhẫn. Còn nếu như cứ chiến tranh kéo dài, tính thế đến nỗi nào thì thật không phải do thần muốn, mà thần cũng không dám nói trước rồi tình thế sẽ đi đến đâu..." Ðọc xong thơ, Thang Hùng Nghiệp run sợ, nhưng vẫn cố giữ thái độ thật ôn hòa, bình tĩnh nói với Hồ Hổ hầu rằng: "...nay không phải là lúc hai nước đánh nhau, sao lại hành sự toàn một giọng giận dữ? Nói như thế là để cần phong vương hay muốn gây rối can qua chăng?..." Ðối với chuyện này, Thang Hùng Nghiệp thật dở khóc dở cười, không biết phải làm thế nào, thủ tiêu ngay lá thơ thì không dám mà trình lên Càn Long thì lại càng không dám hơn. Sự việc mà đổ bể, Thang Hùng Nghiệp sẽ mất hết lòng tin của Càn Long đối với Y. Do vậy, từ đó về sau, mọi giao thiệp với Ðại Nam đều về một tay Phúc Khang An bưng bít lo liệu. Chuyện ngoai giao giữa hai nước kể từ đó mỗi ngày một mật thiết hơn. Tháng 11 năm 1789, khi đọc tờ biểu của Tôn Vĩnh Thanh, nói về kết quả công việc Thành Lâm sang Thăng Long phong vương cho Nguyễn Quang Bình, Càn Long chỉ thị ngay cho Tôn Vĩnh Thanh (Ðại Thanh Thực Lục, quyển 1342, trang 17a): "Trẫm xét Thành Lâm sang Thăng Long tuyên phong, tất chắc mục kích được quốc vương và phong thổ nước ấy, Trẫm muốn đích thân xét hỏi viên quan ấy sẽ được rõ ràng hơn là lời tâu của Tôn Vĩnh Thanh, phải cho ngay Thành Lâm tiến kinh, để Trẫm hỏi..." Sứ Thanh - Thành Lâm, trong chuyến sang nước Nam phong vương, vua Càn Long có gởi tặng vua Quang Trung một chiếc áo choàng màu, trên đó thêu 7 chữ: "Xa Tâm Chiết Trục Ða Ðiền Thử" Và kèm theo một bài thơ trong đó có câu: "Phát Dị Nam Bang Y Dữ Quan" (Mũ áo không khác gì người nước Nam). Lúc đó không ai có thể hiểu được nội dung "7 đại tự" thêu trong chiếc áo, mang ý gì... Năm 1792, sau khi vua Quang Trung băng hà, Càn Long lại làm thêm một bài thơ khác nhắc lại, ở câu thứ 7 với 7 chữ: "Thất Tự Bất Năng Bãi Ai Thuật" (ý nói: 7 chữ không dứt được niềm xót xa của Trẫm) Và câu:"Trung Thu Thượng Ức Y Quan Túc" (Trong mùa Thu trước Trẫm nhớ Quốc vương đã có áo mão đoan trang), và thêm câu: "Hoài Nghi Kham Tiếu Ðại Kim Nhân" (Hoài nghi và đáng cười việc triều trước bắt phải làm việc cống người vàng để thay thế). Cái ái ngại và lo lắng nhất khi vua Quang Trung còn tại vị, là Càn Long vẫn cứ đòi gặp cho bằng được con người bằng xương bằng thịt của Nguyễn Quang Bình? Chuyện bí mật vẫn chưa ai có thể khám phá ra vua Thanh có hàm ý gì trong "chiếc áo tặng"? Nội dung lời thơ? Tại sao "7 chữ" đó lại không nói hết được nỗi xót xa?... Tặng "chiếc áo" chắc có lý do "đặc biệt" bên trong, nên Càn Long mới nhắc đi nhắc lại mãi?... Phải chăng triều Minh đòi vua Lê Thái Tổ (Lê Lợi) cống "người vàng", thì triều Thanh đòi vua Quang Trung cống "người thật"? Vua Càn Long cho vẽ truyền thần Quang Trung (Phạm Công Trị 1790) có mưu mô gì? Có thể Càn Long đã biết người được vẽ hình không phải là Quang Trung thật? Ngược lại, Quang Trung giả xin một bức chân dung của Càn Long thì lại không được?... (bài biểu của sứ đoàn nước Nam nộp cho Phúc Khang An để trình lên Càn Long: "Nay hạ thần muốn xin một bức chân dung của Hoàng Ðế để mang về nước, kính cẩn cung phụng ở điện Kính Thiên"). Trên thực tế, Mãn Thanh, không hề đặt điều kiện tiền bạc cho sự bang giao giữa 2 nước. Không những bãi bỏ lệ cống người vàng mà còn chịu chi phí rộng rãi, nồng hậu mọi khoản tiếp đón cho cả đoàn sứ thần nước Nam cả chuyến đi lẫn chuyến về. Nhất định không thể sai lầm khi có nhận định rằng ở đằng sau bộ mặt dễ thương đầy vẻ hiếu hòa kia, sẽ có một âm mưu gì thật đáng sợ? Trả thù? Càn Long đang ráo riết thi hành một kế hoạch, và chưa có cơ hội bộc lộ ra bên ngoài?... Mùa Thu 1792, vua Quang Trung băng hà, triều thần Tây Sơn mới có thể khám phá ra được ý nghĩa của "7 đại tự" kim tuyến thêu trong "chiếc áo" tai ác kia!Theo cách chiết tự và diễn nghĩa từ 7 chữ "Xa Tâm Chiết Trục Ða Ðiền Thử" đã có ý nói rõ: Nguyễn Huệ chết vào năm Tý. Vì chữ "Xa" và chữ "Tâm" đem ghép lại là chữ "Huệ"; "Chiết Trục" là gẫy trục; "Thử" là chuột mà chuột là "Tý", hay năm Tý... Như thế, phải chăng từ năm 1790 trở về trước, Càn Long đã đoán được số mạng của vua Quang Trung sẽ mất vào năm Tý? Chúng ta có thể đưa ra hai cách suy nghĩ để lý giải lập luận này: 1).- Càn Long là một vị vua giỏi nhất, thông minh nhất của Thanh Triều, như thế về thuật số, bấm độn, tính quẻ, ông ta không thể không tinh thông. 2).- Chính Càn Long là người có âm mưu và dự mưu giết cá nhân vua Quang Trung từ lâu, và đã dùng thuật số ếm vào chiếc áo bào, hay gài độc vào 7 đại tự kim tuyến để vua Quang Trung khi mặc vào sẽ bị chất độc khuếch tán từ từ. Cho đến hôm nay, đối với việc ra đi của vua Quang Trung vẫn còn là chuyện bí mật, chưa một ai có thể giải đáp được những câu hỏi: "Tại sao nhà vua lại chết vào lúc tuổi đời đang sung mãn (đang đi vào độ tuổi 40), công danh, thắng lợi cứ dồn dập ập đến? Nhà vua đã chết vì bệnh? Hay chết vì bị đầu độc, bị ếm bùa ngãi của Càn Long? Và cũng có thể chết vì bức chân dung của Phạm Công Trị vẽ bằng một loại mực có pha hóa chất cực độc cộng thêm việc dùng bùa chú ếm vào chân dung đó? Hay chết vì những hoạt động tình báo của đối phương? (kẻ thù gài điệp viên vào cạnh bệ rồng? Cũng có thể là sự trả thù của con cháu nhà Lê? Của Nguyễn Ánh? Và cũng có thể là do đoàn sứ bộ của Thành Lâm (Thành Lâm là một người rất giỏi thuật số hồi ấy)? Sau cùng cũng có thể là sự ám hại từ phía Nguyễn Nhạc?..." Tất cả những câu hỏi trên đều phát xuất từ các giả thuyết của một vấn đề: "Cái chết của vua Quang Trung". Rốt cuộc, những nhà nghiên cứu chỉ có thể kết luận: "Ông ta chết vì bệnh"! Thật đơn giản, bị bệnh mà không chữa trị đúng cách, dĩ nhiên chỉ có chết! Không thể có một ai bài bác nổi lập luận này! Tình hình chính trị xã hội ở giai đoạn cuối thế kỷ 18 của nước ta thật quá nhiều biến động. Sự xôn xao không những xảy ra ngay trong cung đình mà ngay cả trong dân gian... Bởi vậy theo sau một vấn đề chính thường được gài thêm những chuyện phụ, nhằm tô vẽ cho sự phát triển giáo phái "Thần quyền" của những kẻ lãnh đạo phong kiến... Làm sao ngày nay chúng ta không thể không hoài nghi về các tài liệu để lại? Cũng cùng trong một thời gian lịch sử, lại mang nội dung trái ngược nhau? Chúng ta có thể tin tưởng ngày chết của một người phải đúng vào ngày giỗ hàng năm do con cháu dựng ra để tưởng niệm. Nhưng, cũng có thể vì một lý do an nguy nào đó, mà con cháu nhất định chọn ngày khác, trùng với ngày qui tiên của người trưởng tộc của họ? Ðây cũng là cách giải quyết mang tính tục lệ  của người Việt Nam chúng ta. Ngày vĩnh biệt của vua Quang Trung có thể rơi vào tình trạng này lắm...

Xem chi tiết…

CHUYỆN HUYỀN BÍ KIM CỔ SƯU TẦM . BÀI 6.

11/09/2014 |
CHUYỆN HUYỀN BÍ KIM CỔ SƯU TẦM . BÀI 6.
NGẬM NGẢI TÌM TRẦM.
Tác giả: Thanh Tịnh.


Hôm ấy chúng tôi vào phía rừng Kim Vân gần chân núi Trời để đo mấy khoảnh ruộng tranh mới vỡ. Ðường đi gồ ghề và hóc hiểm lắm đoạn phải lội qua suối nước lên quá lưng quần.
Chúng tôi đi một dây dài cho có vẻ nhiều và mạnh. Thật ra đường cũng hẹp, không thể đi hàng hai được. Ði trước là người mang hòm máy rồi đến người xách mấy mo cơm nắm và thức ăn. Tôi đi giữa, phía sau tôi là hai người cầm "ra lông" và "mia". Tôi chỉ cầm bản đồ để dò đường nên phải đưa mắt nhìn quanh mãi. Vào giữa trưa, chúng tôi đến đầu địa phận làng Thanh Mỹ. Trời về tiết hạ nhưng may cũng chưa nắng gắt. Có lẽ vì nhờ hơi đá bốc lên cao và khói sương ủ xuống nặng. Trời tuy nắng nhưng thời tiết có vẻ dễ chịu. Qua khỏi đồi thông, am Sơn Thần, trước mắt chúng tôi hòn núi Truồi dựng lên sừng sững, oai nghiêm như một vị linh thần. Sườn núi từ trên cao chạy xuống từng đường trắng, rồi tỏa rộng bốn bề trông như những ngọn thác lùa đá ùn thành đồi.
Chúng tôi đang loay hoay tìm chỗ ngồi ăn trưa thì may gặp một nền nhà cũ bỏ hoang khá bằng phẳng.
Chung quanh nền nhà có mấy thanh sắt dựng lên thật cao. Bên tay trái có mấy sợi dây thép dằng qua lại giữa hai cây sắt đã dỉ cùn đầu. Cây bìm bìm tha hồ thả dây leo và đang kết thành một hàng rào lá chạm lọng khá dày. Quái lạ, một hàng rào sắt bao quanh một nền nhà đất sét! Thật là một chuyện lạ ra ngoài tưởng tượng. Hay đây là bãi chiến trường xưa...?
Tôi đang phân vân muốn biết chuyện hàng rào sắt thì một bà lão thấy chúng tôi ngồi ăn, liền đến đứng xem. Và cũng nhờ bà ta, chúng tôi mới biết câu chuyện sau đây:
"Xóm Bình Lư hồi ấy có độ trên mười nóc nhà. Xóm ấy thuộc về làng Thanh Mỹ thượng. Họ chuyên nghề vào rừng đốn củi hay đi săn. Cách sinh kế của lớp người này rất đơn giản. Rừng núi đã chu cấp cho họ gần hết vật liệu họ cần dùng. Thiếu gạo đã có ruộng rừng, họ ra công cày cấy lấy. Ðồ ăn phần nhiều là thịt hươu nai ướp muối hay ép thật khô. Thỉnh thoảng họ mới xuống chợ bán củi để mua ít thức cần, phần nhiều là vải, muối hay diêm. Ðời họ ở xa cách thành thị, có tiền nhiều họ cũng không biết sắm thêm gì và không vượt ra khỏi cơm ngày hai bữa. Hy vọng của họ cạn và gần, và nhờ thế rất dễ được mãn nguyện
Trong xóm ấy có hai vợ chồng bác Diệm nhà nghèo nhưng ở với làng nước rất thảo. Bác gái là người làng Ngô Xá ở Quảng Trị. Lấy nhau sáu năm bác gái sinh được một trai và một gái. Thấy trong nhà nhiều miệng ăn, muốn cho vợ con được no ấm, bác trai liền nghĩ cách vào núi tìm trầm. Nhưng tìm trầm rất khó, không phải đôi ba ngày mà tìm ra được. Có khi phải đi đến hàng tuần hàng tháng. Rồi kết quả lắm lúc cũng chẳng ra gì. Ðó là chưa nói phải vào tận trong núi xanh và vượt qua nhiều cánh rừng nguy hiểm. Muốn tránh tai họa, người đi tìm trầm phải ngậm ngải. Theo lắm người kể chuyện, ngải là một thứ củ cây do người Mọi ở Trường Sơn luyện rất công phu. Họ hấp củ cây ngải trong lò mật ong một tháng, để giữa dòng suối chảy một trăm ngày. Ðoạn phải đặt trong tay đủ năm người chết, và đeo trước ngực năm bà già trong đời giữ vẹn tiết trinh. Vẫn chưa hết. Xong phải nhét vào trong cái giò heo để lừa cho hổ ăn. Nghĩa là nếu may thì ngải sẽ nằm trong bụng hổ. Ðoạn phải bẫy cho được con hổ ấy, rồi giết ngay và lấy ngải ra.
Ngải lúc ấy là một cái bùa thiêng có sức mạnh huyền bí. Ai ngậm nó mà đi vào rừng thì không ăn không uống cũng sống được. Và thú dữ dù đi sát bên cạnh cũng không thấy mình được. Nhưng hạn trong ba tháng mười ngày phải trở về nhà nhả ngải ra. Nếu không thì người ấy sẽ mọc lông, trổ vuốt, thêm nanh và hóa ra hổ thật.
Chuyện ngậm ngải tìm trầm, thổ dân ở các dải núi miền Trung cho là rất thường. Cái mỉm cười ngờ vực đối với câu chuyện họ nói về sức phi thường của ngải sẽ quyến được cái quắc mắt giận dỗi hay cái trề môi ngạo nghễ của họ ngay vì họ quá tin đến dám xem thường tất cả người nào không chịu tin như họ, nghĩa là không hiểu rõ sức uy hùng bí mật của rừng thẳm núi cao.
Bác Diệm trai vào rừng đã gần ba tháng nhưng vẫn chưa thấy ra. Bác gái ngày nào cũng nhìn vào núi Truồi để chờ tin tức. Có lẽ chỉ lần này bác trai mới vào rừng lâu nhất. Mấy lần trước bác chỉ đi trong một vài tháng là nhiều. Bác gái ngày đêm lo sợ nhưng cũng không biết làm sao được. Bác liền đi hỏi thăm mấy nhà hàng xóm. Có người an ủi lấy cớ bác Diệm rất thông minh, thế nào bác cũng nhớ về nhà đúng kỳ hạn. Lắm người bông đùa một cách quái ác, là nói bác đã vào tận Bình Ðịnh, Quy Nhơn, rồi lấy vợ bé trong ấy rồi. Bác Diệm gái vẫn trông mong chồng và đêm nào cũng ra phía sau nhà nhìn về phía dãy Trường Sơn bát ngát. Nhưng dải núi thì cao và hùng vĩ quá, không thể đem lại sự yên lành trong tâm hồn chất phác của cô gái quê được.
Ba tháng mười ngày đã qua từ lâu. Bác Diệm gái lại càng lo sợ hơn nữa. Ðêm nào bác cũng ra đứng giữa sân thẫn thờ nhìn về dãy núi, rồi đến đêm khuya bác với trở vào nhà ngồi khóc rấm rứt.
Ngày tháng cứ lặng lẽ trôi, rất nặng nề trong lòng người mong đợi. Rồi giữa một đêm trăng mờ cuối thu, Bác Diệm gái bỗng nghe tiếng rú xa xa, đứt quãng rồi kéo dài rất ảo não. Bác Diệm tung chiếu chạy ra sau nhà, tim đập mạnh và tay chân run lập cập.
Phía xa trên một đồi nhỏ, lọt trong rặng thông lơ thơ, một bóng người đang nhìn về xóm Bình Lư đã từ lâu im lìm trong đêm vắng. Tuy chưa nhận rõ là ai, linh tính đã báo cho bác biết đó là chồng bác, bác Diệm trai. Rồi không suy tính, bác đâm đầu chạy ra, lòng mừng khấp khởi. Nhưng mới chạy được một quãng ngắn, bác đã lạnh người đứng dừng lại. Một tiếng rú nghe lạnh và uất như một người câm cố thét lên để nói được tiếng của loài người.
Tuy sợ nhưng lòng bác Diệm gái thương chồng mạnh hơn. Bác gắng sức chạy đến chân đồi, cái bóng đen liền chờn vờn đi lại phía bác, hai tay thả lỏng, đầu gật gù lưng cúi lom khom. ánh trăng thu giây bụi vàng nhạt trên mớ tóc dài đen nháy của con người kỳ dị lại làm bác gái giật mình, muốn đứng lại ngay. Giữa lúc ấy bác nhận thấy một manh áo nâu đã rách tươm còn vướng trên cổ người ấy... Thôi rồi! Chồng bác đã gần hóa hổ, bác run sợ và bồi hồi... Nhưng bác cũng cố đứng nhìn và đợi. Cái bóng đen vừa tiến đến vừa rên hừ hừ, như bị ngạt trong cổ. Lúc thoáng thấy cặp mắt chồng đã tròn xoe và hoe sáng như lửa, cằm đã mọc râu dài và thưa, bác Diệm gái liền đi thụt lùi rất gấp. Nhưng bác vấp phải một cành cây nằm ngang ở phía sau. Bác thét lên một tiếng rồi ngã nhào, chết ngất.
Sáng hôm sau, lúc bừng mắt tỉnh dậy, bác Diệm gái thấy mình đang nằm trên giường nhà. Hỏi mấy người đến thăm, bác mới biết tiếng rú đêm qua, dân xóm đều nghe rõ ràng cả. Họ cũng lần ra phía đồi để xem thì gặp lúc bác nằm chết ngất trên cành cây khô. Mấy người khiêng bác về nhà. Còn những người bạo dạn thì lấy roi hèo đánh đuổi con người quái lạ kia đi. Nghe đến đấy bác Diệm gái mở lớn đôi mắt, băn khoăn hỏi:
- Dân xóm có đánh người ấy à?
Một ông lão đáp:
- Không, chỉ doạ thôi. Thật ra cũng không ai dám đến gần hắn.
Bác gái nói thầm như để một mình nghe:
- Chồng tôi đó!
Nói xong bác ứa nước mắt thở dài một cách ngao ngán.
Luôn mấy đêm sau, bác Diệm gái ra sau nhà đứng nhìn về phía mấy ngọn đồi nhưng tuyệt nhiên không thấy bóng chồng đâu nữa. Bác lại trở vào nhà âm thầm nằm đợi nghe tiếng rú.
Qua tháng sau, một buổi chiều, bác xuống chợ Truồi mua gạo thì bác trai mon men vào nhà. Bác đem theo một buồng chuối hoang và mấy trái cam dại. Hai đứa con mới nhận thấy bác đã khóc vang lên. Bác lo sợ cúi gầm đầu xuống và đưa cam chuối cho chúng ăn. Chúng thấy người ấy không làm gì hại và còn cho ăn tử tế thì ngồi yên lặng ngay.
Bác Diệm trai muốn vuốt ve con, nhưng tay bác sờ đến đâu, áo quần của hai đứa nhỏ rách toang đến đấy. Thì ra móng tay bác đã sắc và nhọn lắm rồi.
Thừa lúc đứa con trai quay mặt nhìn ra sân bác Diệm liền thè lưỡi liếm đầu nó. Bác muốn tỏ vẻ yêu mến con, lòng bác còn là lòng người, nhưng chao ôi, cử chỉ của bác đã nhuộm đầy vẻ thú. Lưỡi bác đã rám và sắc hơn dao rồi. Chỉ đưa đi đưa lại mấy cái, tóc đứa con đã rụng tua tủa. Hai đứa con sợ quá, liền bỏ chạy ra sân la lớn. Cũng ngay lúc ấy bác Diệm gái đi chợ về. Thấy chồng lông đầy người và mầu lông đã hơi vàng, hai tay trước thòng gần chấm đất và nanh trắng nhe ra ngoài môi, bác Diệm gái cũng hoảng hốt la tiếp.
Nghe tiếng ồn ào, dân quanh xóm liền chạy đến và đuổi con vật nửa người nửa thú chạy bán sống bán chết vào rừng. Muốn che chở người cô quả, dân xóm Bình Lư xuống xin mấy người làm đường xe lửa ở gần ga Truồi một chục thanh sắt và mấy sải dây thép về làm một cái hàng rào vây quanh nhà bác Diệm gái. Từ đó bác Diệm trai không dám bén chân về nhà nữa.
Nhưng qua mùa xuân sau, cũng một đêm trăng mờ như bảy tháng trước, bác Diệm gái lại nghe tiếng rú kinh hồn trên đồi thông vắng. Bác liền vội vã chạy ra sau nhà. Trong bầu ánh sáng nhạt, nhuộm sương khuya, bác Diệm thấy một bóng người - không, một con vật thì đúng hơn - chụm mạnh bốn chân xuống đất, ngẩng đầu lên cao, đang đăm đăm nhìn về phía bác. Thôi thế là hết! Chồng bác đã hoàn toàn hóa hổ... Bác ôm mặt khóc rất thê thảm. Con hổ cũng rú lên một hơi dài như để đáp lại tiếng lòng của vợ. Tiếng rú nghe lạnh và buồn.
Ðoạn con vật quay mình lẳng lặng đi vào phía núi Truồi, rồi biến dần trong ánh trăng xanh nhạt.

Dãy núi Truồi từ đó đã như một bức thành kiên cố chia đôi tình nhân loại với cảnh huyền bí của sơn lâm.

THAM KHẢO THÊM.

BÍ ẨN TRẦM HƯƠNG 
Bài 1 : VÀI DÒNG LỊCH SỬ.


(Ông Nguyễn Phúc Ưng Viên)
Trên thế giới, giá bán cao nhất 1 kg trầm hương có thể lên tới 160 triệu đồng, còn giá 1 kg kỳ nam thì lên đến mức hoang tưởng: 7 tỉ đồng. Sự kỳ dị đó của giá cả, cộng với sự thiếu trách nhiệm trong quản lý tài nguyên thiên nhiên đã khiến cho trầm hương vốn không bao giờ thiếu trên rừng núi chúng ta suốt hơn 4.000 năm qua, đã gần như bị tuyệt chủng chỉ trong vòng 35 năm.
 So với giá cả trên mây xanh thì những tri thức về trầm hương vẫn còn dưới mặt đất. Người ta biết quá ít về nó. Tri thức về trầm hương nghèo nàn đến mức sách vở chỉ trích qua trích lại 2 tài liệu, xưa nhất là của Lê Quý Đôn (Phủ biên tạp lục), gần nhất là của Đỗ Tất Lợi. Còn tài liệu khoa học trên thế giới thì chủ yếu nói về đặc tính của cây dó, liệt kê các hoạt chất và một số dược lý của trầm, chưa ai nói được cặn kẽ trầm được hình thành như thế nào, có những giá trị độc đáo gì mà giá của nó mắc đến như vậy.
“Trong đau thương dó biến thành trầm”, tôi từng đọc ở đâu đó câu thơ này, nó khiến ta suy tư về lẽ sinh tồn của đời người. Trầm đã hình thành đúng như thế. Khi nào thân cây dó bị một vết thương (do va đập, do bị côn trùng đục, bị bom đạn...), xung quanh vết thương đó lâu ngày biến thành trầm. Vì hiểu được “nguyên lý” này nên ngày nay người ta có thể làm trầm “nhân tạo”, tức là trồng cây dó rồi tạo ra vết thương, cấy hóa chất vào để gây tác động cho ra trầm. Đến nay, nhiều người đã trồng dó và đã lấy được trầm theo phương pháp trên, tuy trầm nhân tạo có mùi thơm của trầm nhưng giá trị như thế nào thì vẫn còn mù mờ.
Thực ra, tôi không quan tâm mấy đến trầm hương, ngoài sự liên tưởng về cái “đau thương” nói trên. Cho đến khi tôi gặp được một kỳ nhân dụng trầm tôi mới hiểu sự “đau thương” đó có quá nhiều bí ẩn.
Đó là ông Nguyễn Phúc Ưng Viên. Là cháu nội hoàng tử thứ 12 con vua Minh Mệnh, ông Ưng Viên gọi vua Minh Mệnh bằng ông cố. Theo “đế hệ thi” của vua Minh Mệnh thì hàng “Ưng” ngang với vua Hàm Nghi và là hàng ông nội của vua Bảo Đại. Hàng “Ưng” nay chỉ còn vỏn vẹn 3 vị: ông Ưng Linh hiện ở Đà Nẵng gần 90 tuổi, ông Ưng Ân ở Huế gần 80, ông Ưng Viên trẻ nhất, mới xấp xỉ 70. Giải thích về thứ bậc và tuổi tác của mình trong dòng họ, ông bảo: “Tôi thuộc dòng thứ”.
Ông Ưng Viên sống ở TP.HCM như một ẩn sĩ âm thầm chữa bệnh cứu người. Từng có thời gian tiếp cận khá sâu vào ngành y của người Mỹ, nhưng ông không theo nghề bác sĩ mà chuyên tâm ứng dụng thuốc nam - xin lưu ý là thuốc nam chứ không phải thuốc bắc. Cả nhà ông không bao giờ sử dụng thuốc tây, kể cả đối với những vật nuôi như con heo con gà. Ông bảo dân tộc Việt từ một nhóm nhỏ mấy ngàn người, đã dựa vào thiên nhiên mà sống, mà sinh sôi phát triển mà mở rộng bờ cõi, đến nay đã lên tới hơn 80 triệu người, dân tộc đó ắt phải biết cách phòng và chữa bệnh bằng chính những gì mình có. Thuốc tây mới du nhập vào khoảng 150 năm nay thôi. Thế giới có biết bao nhiêu là trận dịch chết người hàng loạt, còn trong suốt chiều dài lịch sử của mình, Việt Nam có một trận dịch nào khiến nhiều người chết không? Chết hàng loạt vì đói thì có, còn chết hàng loạt vì dịch thì không.

Cây trầm ở độ cao 1.500m trong dãy Yang Sin (Buôn Ma Thuột) trên 100 năm tuổi, mật độ nhiễm trầm 80% được ông Ưng Viên tạc thành tượng Phật. Tượng cao 2,82m, chu vi đế 3m - Ảnh: Ưng Viên
Ông cũng không coi trọng thuốc bắc bằng thuốc nam. Ông bảo từ ngàn năm trước người Việt hằng năm phải cống nạp các thầy thuốc giỏi cho Trung Quốc. “Dòng họ tôi, chỉ riêng thời nhà Đinh đã phải cống nạp đến 18 thầy thuốc giỏi sang Tàu”, ông nói.
La sơn phu tử Nguyễn Thiếp đã từng nhắc vua Quang Trung rằng nước Nam ta sẽ còn phụ thuộc vào Trung Quốc chừng nào vẫn còn phụ thuộc vào thuốc bắc.
Tổ chức Y tế thế giới ngày nay cũng khuyến nghị loài người nên áp dụng những thức ăn - dược liệu hữu ích của các dân tộc có lịch sử lâu đời để chăm sóc sức khỏe. Việc sử dụng tảo Spirulina từ châu Phi cho cả thế giới là một minh chứng.
Tôi phải giới thiệu sơ qua một chút “lý lịch” của ông Ưng Viên, không phải để nhấn mạnh cái gốc hoàng tộc của con người này,  mà vì nó liên quan đến tư cách “dụng trầm” và y thuật của ông. Mọi người đều biết, Lê Quý Đôn ở Đàng Ngoài, mà trầm thì xuất từ Trung Bộ, nên dù là một nhà bác học nhưng Lê Quý Đôn chỉ có thể khảo sát qua tư liệu cổ và hỏi thêm một số người khai thác trầm để viết sách, ông không thể có cơ hội trải nghiệm với trầm. Còn nhà Nguyễn, chính là gia tộc dụng trầm số 1, tính từ Nguyễn Hoàng (Chúa Tiên) trở đi.
Có những cuộc tương ngộ làm nên lịch sử. Riêng cuộc tương ngộ giữa Nguyễn Hoàng và Nguyễn Bỉnh Khiêm thì làm nên một cuộc xoay trời chuyển đất. Đọc sử sách ta chỉ biết đến lời khuyên nổi tiếng “Hoành Sơn nhất đái vạn đại dung thân” mà Nguyễn Bỉnh Khiêm nói với Nguyễn Hoàng, nghe lời khuyên đó mà họ Nguyễn được bảo toàn để cho Việt Nam có thêm một nửa giang sơn gấm vóc. Nhưng không lẽ Nguyễn Bỉnh Khiêm chỉ giúp cho Chúa Tiên một lời khuyên thôi sao? Sử sách không ghi thêm điều gì nữa. Sử sách cũng chỉ cho biết Nguyễn Bỉnh Khiêm là ông Trạng Trình tinh thông dịch số, là nhà nho yêu nước thương dân, là một ẩn sĩ “thu ăn măng trúc đông ăn giá”, là một nhà tiên tri. Chỉ là nhà tiên tri sao có thể khiến được cả ba nhà Mạc, Trịnh, Nguyễn đều đến xin tham vấn trong những thời điểm ngặt nghèo? Nhà tiên tri, dù nổi tiếng đến đâu cũng chỉ có thể thuyết phục được người thường, đâu có thể khiến nổi các bậc đế vương đem sự nghiệp tiền đồ của mình mà gửi gắm. Nguyễn Bỉnh Khiêm vẫn còn là sự bí ẩn của lịch sử.
Cho đến một buổi trưa ông Ưng Viên đãi tôi ăn món thịt dê do chính ông nấu. Tôi chưa bao giờ được ăn món thịt dê ngon như vậy. Nó ngon dĩ nhiên là do sự thiện nghệ của người nấu, nhưng nó còn ngon hơn vì câu chuyện được nghe. Ông Ưng Viên nói một trong những thứ mà Chúa Tiên mang vào Nam là những đàn dê, việc này do chính Nguyễn Bỉnh Khiêm đề nghị. Dê là con vật độc đáo, không những có giá trị y thực phục vụ sức khỏe cho dân chúng, mà còn rất tiện ích cho hậu cần quân sự. Dê dễ nuôi, có thể dẫn các đàn dê theo quân, khi có chiến sự chúng ở đâu nằm im ở đó không chạy nhặng xị như trâu bò gà vịt, lại dễ phân phối trong quân, một con dê có thể phục vụ gọn bữa ăn cho một “tiểu đội”. Cha ông của ông Ưng Viên dặn dò con cháu ngoài việc nhớ ơn và thờ phụng tổ tiên mình, còn phải nhớ ơn và thờ phụng Nguyễn Bỉnh Khiêm. Bởi Nguyễn Bỉnh Khiêm là người đề xuất với Chúa Nguyễn từ chiến lược chiến thuật, từ chuyện quân cơ, hậu cần cho đến những chuyện cụ thể liên quan đến bảo vệ sức khỏe cho quân dân như món ăn, bài thuốc để làm hành trang Nam tiến. Trong đó có chuyện “dụng trầm”.
Nhà Nguyễn để lại nhiều di sản, có thứ để lại cho lịch sử, có thứ chỉ để lại cho con cháu. Những ai nói công thức rượu Minh Mệnh đã bị thất truyền là nhầm to. Hoàng tử Vĩnh Giu con vua Thành Thái, thuộc  hàng cháu nội ông Ưng Viên, lúc khốn khó đã bỏ rượu cho các nhà hàng để sinh sống, đó là rượu Minh Mệnh chính hiệu. Ông Ưng Viên cho hay ông Vĩnh Giu có giữ bí quyết làm men nhưng không biết làm rượu, chính ông đã làm rượu giúp cho ông Vĩnh Giu. Rượu cung đình nhà Nguyễn có tới 175 dòng men, hơn 3.000 loại rượu. Ông Vĩnh Giu lưu giữ được 30% dòng men, ông Ưng Viên giữ được 70%. Chỉ riêng hai ông gộp lại cũng đã đủ 175 dòng, không có dòng men nào thất truyền cả, chỉ có điều là chúng không được truyền ra ngoài.
Còn việc dụng trầm thì kế thừa tri thức của tiền nhân do Nguyễn Bỉnh Khiêm truyền lại, nhà Nguyễn đã có gần 400 năm ứng dụng trầm hương trong y học và đời sống, kể cả phục vụ quốc phòng, rồi hoàn thiện pho y lý về trầm hương, đồng thời có chính sách hữu hiệu bảo vệ triệt để nguồn tài nguyên trân quý ấy. Ông Ưng Viên kế thừa đủ di sản dụng trầm của dòng họ, do ông nội ông truyền lại, những bí quyết đó cũng không truyền ra ngoài. 

Bài 2: " THIÊN THỌ ĐỊA CHI KHÍ..."
Hương trầm bao hàm đủ 5 vị ngọt mặn chua cay đắng, phát ra hơn 170 mùi thơm có thể phân biệt được. Dùng một dụng cụ xông hương, cho vào một loại trầm thông thường, trong 24 giờ sẽ có 8 đợt phát hương, mỗi đợt là một phức hợp mùi vị với mùi chủ đạo khác nhau…


Trầm hương sinh ra từ cây dó (cá biệt cây xương rồng cũng có thể cho ra trầm). Trong thiên nhiên có nhiều loài dó, nhưng theo ông Ưng Viên thì chỉ có cây dó bầu mới cho ra thứ trầm có thể chữa bệnh được.
Trên thế giới, trầm tập trung chủ yếu ở 6 nước: Việt Nam, Campuchia, Lào, Myanmar, Indonesia, Malaysia, trong đó trầm Việt Nam có dược lý tốt nhất, những nghiên cứu khoa học mới đây về trầm của các nhà khoa học Nhật Bản và Trung Quốc cũng xác nhận trầm Việt Nam có nhiều hoạt chất mà trầm các nơi khác không có.
Tại Việt Nam, trầm tốt nhất tập trung ở vùng Phú Yên, Đắk Lắk, Khánh Hòa, Ninh Thuận, đây chính là “quê hương” của trầm, loài người phát hiện ra trầm khởi thủy là từ vùng này. Trước đây, từ Việt Nam, trầm được dùng làm cống phẩm đưa sang Trung Quốc. Trong các cống phẩm, trầm hương là thứ quý nhất. Tất nhiên các thầy thuốc giỏi nhất được cống theo để “hướng dẫn cách sử dụng”. Và từ đây, trầm hương đã theo con đường tơ lụa sang Trung Cận Đông, Địa Trung Hải...
“Thọ thiên địa chi khí, tẩy vũ trụ chi trược, giáng khí trừ đàm, thiện trị phế phủ, chỉ tả bổ dương, thị là thế thượng trân chi giả...”, đó là đoạn tóm tắt y lý của trầm hương trích trong sách gia truyền của cung đình nhà Nguyễn mà ông Ưng Viên đọc cho tôi nghe, tạm dịch: “Tích tụ khí thiêng của trời đất, tẩy trừ mọi thứ ô uế trong không gian, có tác dụng giáng khí trừ đàm, chữa các bệnh thuộc phế phủ, chữa các bệnh về tiêu hóa, bài tiết, thận và tim mạch (chỉ tả bổ dương - nghĩa rộng), chính là thứ trân quý nhất”.
Trầm có thể được sử dụng trong cả ngàn bài thuốc khác nhau, nhưng trước hết hãy nói về “thọ thiên địa chi khí”.
Ai cũng biết không phải cây dó bầu nào cũng có thể sinh ra trầm. Trong rừng tự nhiên từ 1.000 đến 1.500 cây mới có một cây có trầm và từ 10.000 đến 20.000 cây có trầm mới có một cây có kỳ nam.
Khi cây dó bị một vết thương, vết thương đó phải đọng nước qua một mùa mưa, cây dó mới bắt đầu tiết ra chất nhựa xung quanh vết thương để tự vệ. Người ta thấy nhiều cây dó cho trầm chi chít những mắt trên thân cây, những mắt chi chít đó là vết tích do một loài côn trùng đục vào thân cây, dân gian gọi nó là con bọ xòe.
Khi chất nhựa dần dần trở nên đậm đặc, lúc ấy những con kiến sẽ bò vào ăn chất nhựa này. Đó là một loài kiến cao cẳng, màu vàng hoặc màu đen.
Chính những con kiến kia mang theo các phân tử trầm hương (một loài nấm) vào “cấy” trong lớp nhựa. Loài nấm này tương tác với các hoạt chất của lớp nhựa, dưới tác động của khí hậu bên ngoài và sự tương tác diễn ra trong một thời gian rất dài mới sinh ra trầm, tương tác càng lâu trầm càng có giá trị. Thông thường, cây dó phải có tuổi thọ hơn 50 năm mới có thể cho ra một thứ trầm có giá trị chữa bệnh.
Về giống “kiến cao cẳng” mang phân tử trầm vào cây dó, ông Ưng Viên lưu ý không phải kiến cao cẳng nào cũng làm được điều này. Phải theo dõi rất nhiều năm mới phát hiện ra, chúng không bao giờ làm tổ trên những cây trầm. Đây là giống kiến rất quý về dược liệu, trứng của nó rang lên có thể chữa được chứng méo miệng, cấm khẩu (liệt dây thần kinh số 7, số 21). Trứng của giống kiến này không thiếu trong kho tàng dược liệu của ông Ưng Viên.
Tôi hỏi xin ông một tấm hình về những con kiến đó, ông lắc đầu từ chối: “Tuyệt đối không nên đăng ảnh của nó lên trên báo, đăng lên là nó bị người ta tận diệt ngay. Người của tôi đi lấy trứng kiến, mỗi lần lấy không bao giờ quá 1/3 tổ trứng. Lấy tới 1/2 là nó tuyệt chủng rồi”. Ông Viên còn mô tả những đặc tính của loài kiến trên nhưng tôi không dám ghi ra đây vì cũng sợ chúng sẽ bị... tuyệt chủng.
Quá trình hình thành trầm hương theo một “cơ chế” tưởng chừng đơn giản như vậy nhưng thật ra là vô cùng kỳ bí. Cho nên người xưa nói “thọ thiên địa chi khí” là đúng nhất. Con người đã khẳng định hương trầm là “vua của các mùi hương”. Hàng ngàn năm nay trầm được xông trong các cung điện vua chúa, tại các lễ nghi thiêng liêng của các tôn giáo. Nó là “danh hương” trong các nghi lễ tôn giáo.
Trong thiên nhiên có rất nhiều thực vật có tinh dầu phát hương ra không gian, nhưng chỉ có trầm là thứ mà nguồn phát ra hương không bao giờ cạn, từ lúc trong rừng núi cho đến khi đem ra chế tác, lưu giữ. Người ta phát hiện các mảnh trầm nằm dưới đáy các giếng cổ Chămpa, qua hàng ngàn năm mà khi lấy lên hương thơm vẫn còn nguyên vẹn. Ngày nay trầm còn được dùng làm chất định hương cho mỹ phẩm, nước hoa Chanel No.5 và các thứ nước hoa nổi tiếng khác trên thế giới không thể không có trầm hương.
Hương trầm bao hàm đủ 5 vị ngọt mặn chua cay đắng, phát ra hơn 170 mùi thơm có thể phân biệt được (riêng kỳ nam có ít mùi hơn và không có vị ngọt). Dùng một dụng cụ xông hương, cho vào một loại trầm thông thường, trong 24 giờ sẽ có 8 đợt phát hương, mỗi đợt là một phức hợp mùi vị với mùi chủ đạo khác nhau, thay đổi theo thời gian, khi thì mùi hoa sen, khi thì mùi hoa hồng, khi thì vani, khi thì mùi gỗ thông, khi thì mùi xạ hương... Điều lạ lùng nữa là trong những thời điểm giống nhau mà tại địa điểm khác nhau mùi trầm hương cũng thay đổi.
Điều này khoa học chưa đủ khả năng giải thích. Một nhóm nhà khoa học Nhật Bản đã thử làm khảo cứu phân biệt hương thơm của một số sesquiterpen carboxylic acid trong tinh dầu trầm và nhận thấy có khi chỉ vì vị trí của một dấu nối đôi như hai chất selina-3,11 và selina-4,11 dienal mà mùi hương rất khác nhau, chất thứ nhất có mùi gỗ, mùi hoa hòa với mùi khói, chất kia phảng phất hương bạc hà.
Bốn chất đồng phân neopetasan, epineopetasan, dihydro karanon, ngoài vị trí các dấu nối đôi, còn khác nhau ở hướng các nhóm methyl cũng cho ra các mùi khác nhau (dẫn theo tiến sĩ Võ Quang Yến, Cây thuốc và vị thuốc Việt Nam, NXB Đà Nẵng 2008). Khoa học chỉ mới biết tới đó, còn vì sao lại có sự “biến tấu” như vậy thì khoa học đành chịu, ở đây vẫn là quá trình “thọ thiên địa chi khí”. (còn tiếp)
Trích dẫn
Ông Ưng Viên còn lưu ý: Trầm hương và kỳ nam là khác nhau, không phải kỳ là cái lõi của trầm. Một cây dó có trầm dù lâu năm đến bao nhiêu cũng không nhất thiết có kỳ nam, ngược lại một cây dó có kỳ nam không nhất thiết có trầm bên cạnh. Chúng được tương tác bởi hai loài nấm khác nhau. Kỳ nam hiếm hơn nên mắc tiền hơn, nó quá mắc tiền vì từ lâu nó được con người sở hữu như một “linh vật”, nhưng giá trị chữa bệnh và ứng dụng trong đời sống của kỳ nam thì không bằng trầm.

Bài 3: DỤNG TRẦM...

Trầm có tác dụng tuyệt hảo đối với sức khỏe con người, theo 3 con đường: xông, uống và ăn.
Trầm trong thiên nhiên có tác dụng khử độc không khí, trừ lam chướng, làm trong sạch môi trường sống. Người xưa biết rõ điều này nên mới tổng kết: “tẩy vũ trụ chi trược”.


Khử uế một cách triệt để
Tính chất “tẩy vũ trụ chi trược” có thể đem áp dụng để khử uế. “Khử uế một cách triệt để, ngoài trầm hương không thứ gì giải quyết được”, ông Ưng Viên khẳng định. Và tôi được biết một câu chuyện thú vị.
Vào năm 2008, một tàu của Mỹ chở thuê hải sản tải trọng 1 vạn tấn, khi cập cảng Nhà Bè (TP.HCM), cảng vụ phát hiện tàu bị ô nhiễm nặng (mùi hôi thối quá mức), nên không cho phép xuất cảng vì theo quy định quốc tế thì tàu phải được xử lý ô nhiễm mới được rời khỏi cảng. Kỹ thuật khử uế của người Mỹ trên tàu không giải quyết được. Cảng vụ phải mời các chuyên gia của một viện từ Hà Nội vào xử lý cũng không xong.
Người phụ trách công việc ở cảng có quen biết với ông Ưng Viên nên mời ông thử xử lý giúp. Ông Ưng Viên đồng ý, với một điều kiện: các thủy thủ phải uống một thứ rượu có pha… nguyên liệu xử lý tàu. Quá khiếp với điều kiện này, nhưng thấy người ở cảng “gương mẫu” uống trước, các thủy thủ cũng uống.
Chỉ sau 1 ngày 1 đêm, ông Ưng Viên đã giúp xử lý sạch con tàu bằng hai phương pháp: nửa phun, nửa xông. Các thủy thủ vô cùng kinh ngạc về kết quả trên đã gọi điện cám ơn ông rối rít và vui mừng cho biết sau khi uống thứ rượu đó sáng ngủ dậy trong người lại khỏe ra. Rượu đó chính là rượu pha trầm. Còn thứ nước phun xử lý tàu thì vẫn còn 60 lít họ xin được mang theo.
Kể lại câu chuyện này với tôi, ông cười nói: “Tôi cho họ mang về 60 lít nước đó, nhưng chắc chắn họ không thể phân tích được nó có những chất gì”. Phương pháp của ông là di sản gia truyền “Bí mật quân lương và khử uế tàu chiến” của cung đình nhà Nguyễn. Chất liệu căn bản của nó là trầm hương và trà.
Tác dụng tuyệt hảo đối với sức khỏe
Trầm có tác dụng tuyệt hảo đối với sức khỏe con người, theo 3 con đường: xông, uống và ăn.
Về y lý, hương trầm xông lên có tác dụng điều khí, rất tốt cho sức khỏe. “Xông hương trầm thường xuyên không bị máu đông ở động mạch, phổi không bị nghẽn, xoang không bị viêm, không u bướu, không liệt dương liệt âm lãnh cảm…”, ông Ưng Viên vừa nói vừa đưa tôi tới gần bình xông trầm đang ngát hương. Cái bình xông trầm này do ông cùng 2 kỹ sư người Nhật và Đài Loan nghiên cứu chế tạo, nguyên liệu được lấy bằng thứ cát đặc biệt tại Nha Trang ở độ sâu 20 mét. Bình xông trầm hiện nay trên thị trường có thứ của Nhật, có thứ của Hàn Quốc, có thứ của Trung Quốc, Đài Loan, xông bằng những cái bình ấy có thể giải phóng được 50% hương trầm, còn bình xông của ông có thể giải phóng được 95%.
Ông Ưng Viên tỏ ra bức xúc về vấn nạn sức khỏe do môi trường ô nhiễm hóa chất và thức ăn công nghiệp hiện nay khiến cho các bệnh về hô hấp và tiêu hóa gia tăng. Hai phương thang: Ôn tì bình vị (gồm trầm, xuyên bối mẫu, toàn quy, thăng ma, bạch truật…) và Kiện tì tiêu thực (gồm trầm, xuyên khung, bạch truật, toàn quy, liếu tiếu thảo…) có thể giải quyết triệt để các bệnh này, không tái phát.
Các thang “Thanh khí ôn phế”, “Điều huyết dưỡng khí”, “Nhứt dâm cửu dựng”, “Ôn dương cố thận”… như tên gọi của chúng, chữa những bệnh về đường hô hấp, khí huyết, bổ dương… đều dùng trầm làm vị chủ. Ông Viên không coi trọng những bài thuốc “tráng dương”. “Tráng dương” thì nhất thời. “Bổ dương”, “ôn dương” mới là sự bền vững, mà chuyện này thì không thứ gì qua nổi trầm.
Việc dụng trầm của ông Viên hình như đạt đến độ xuất thần nhập hóa. Như trên đã nói, trong những giờ khác nhau trầm tỏa ra các mùi hương khác nhau. Chỉ riêng việc lấy trầm từ cây trầm ra để chế biến cũng được thực hiện vào những thời khắc thích hợp, tùy theo khí hậu, loại bệnh và đặc tính của từng người bệnh. Ngay cả trong chuyện đơn giản hơn như ẩm thực, ông cũng áp dụng các nguyên tắc này.
Ông nói cũng là thứ rau húng trồng trong một vườn rau nhưng có khi ăn thấy ngon, có khi ăn không thấy ngon. Vì sao vậy? Vì rau ăn không ngon là do hái không đúng giờ. Rau húng phải hái vào lúc 5 - 6 giờ sáng hoặc 5 - 6 giờ chiều thì ăn mới ngon, vì những thời điểm đó rau tiết ra những chất tốt nhất, còn các giờ khác thì rau tiết ra một số chất xấu.
Sự trải nghiệm với trầm của ông Ưng Viên còn thể hiện ở lượng trầm mà ông đang có. Hơn 30 năm nay ông đã dùng hết tài sản và đi vay mượn để tích lũy cả một kho tàng: Hơn 60 tấn trầm và kỳ nam, gồm 36 cây trầm lớn, bình quân mỗi cây gần 2 tấn, mật độ ăn trầm từ 60-80%. Những cây trầm ông giữ đều được lấy theo đúng nguyên tắc: tất cả đều đã chết rũ trên rừng, vận chuyển về đều hợp pháp, có dấu búa kiểm lâm. Phần lớn những cây trầm ông đang có là độc nhất vô nhị, không còn tồn tại trong thiên nhiên.
Nhà ông ở TP.HCM có một xưởng chế tác trầm, có một “đội thợ trầm hoàng tộc” - là hậu nhân của các thợ trầm cung đình khi xưa giúp việc. Ông và những người thợ tạc những cây trầm thành các tác phẩm nghệ thuật để lưu giữ lại cho con cháu, ông chưa hề bán và sẽ không bán một kg trầm nào. Ông dùng lớp vỏ sát lõi có nhiễm tinh dầu trầm và kỳ nam để làm thuốc, đó là phần làm thuốc tốt nhất. Lớp ngoài nữa, nhiễm tinh dầu ít hơn, ông dùng làm nguyên liệu cho nồi xông chữa bệnh. Lớp ngoài cùng dùng làm hương.
Tôi nhiều lần được đến xem xưởng trầm của ông, nghe ông giới thiệu xuất xứ của từng cây trầm và đặc tính của từng loại trầm. Ở đây có đủ các loại trầm, các loại kỳ nam. Tôi hỏi ông, ông Lê Quý Đôn nói đốt trầm lên thì khói xoáy rồi sau mới tan, còn đốt kỳ nam thì khói lên thẳng và dài, nói như vậy có đúng không. Ông cười, bảo rằng nhà bác học Lê Quý Đôn rất giỏi nhưng ông ấy không có cơ hội tiếp cận đầy đủ với “hiện vật” nên vừa đúng vừa sai.
Khói vút lên thẳng như sợi dây là đúng, nhưng chỉ đúng với kỳ nam hương thôi, còn các loại kỳ nam khác thì khói vẫn xoáy. Ông vừa nói vừa chỉ vào một cái hốc của cây trầm cao to trong xưởng đã tạc thành tượng, ở đó lộ ra một cái lõi to và dài màu vàng sậm: “Kỳ nam hương là thứ này đây, chỗ này ít nhất cũng vài chục kg”. Kỳ nam hương giá rẻ hơn các loại kỳ nam khác, khoảng 2 - 3 tỉ đồng trên thị trường thế giới, nhưng có giá trị chữa bệnh tốt nhất trong các loại kỳ nam, tuy kém thua trầm.
Trích dẫn
Trầm kết hợp với thịt dê - ngọc dương, nghệ vàng, nghệ đen, măng tre (vắt lấy nước), nước gạo rang … ăn vào có thể làm sáng mắt, thính tai, trị chứng đau nhức. 
Trầm kết hợp với chè, có thể ngừa và trị được các “mắc mứu” ở phổi, đường hô hấp, tim mạch, tiêu hóa. 
Trầm làm rượu, uống vào sáng mắt, trị viêm họng, đau dạ dày, nghẽn động mạch tim, làm mạnh thần kinh cơ bắp. 
Trầm kết hợp với vảy cá rô đồng có thể trị triệt để các bệnh về tiêu hóa của trẻ nhỏ. 
Trầm kết hợp với vảy cá rô đồng cộng thêm với chè có thể chữa kiết lỵ, tiêu chảy, thương hàn. 
Trầm kết hợp với trúc nhự (dịch măng tre) có thể chữa chứng cành hông, làm tiêu hóa không bị xáo trộn. 
Trầm kết hợp với ma hoàng trị được các bệnh phụ khoa. 
Trầm dùng trong thang “Diệc nhan minh mục” (kết hợp với các thảo dược khác) làm cơ thể trẻ lại, mắt sáng ra. 

Bài 4: HÃY CỨU NHỮNG CÁNH RỪNG CÓ TRẦM

Hiện nay, dó bầu tự nhiên ở độ cao từ 1.000 mét trở xuống đã hoàn toàn bị hủy diệt. Khi đã khai thác hết trầm, người ta còn đốn sạch cả những cây dó chưa có trầm mang về nấu dầu xuất khẩu. Cứ băm ra 1 tấn cây dó mới nấu được 1 lít dầu trầm…

(Ông Ưng Viên giới thiệu một đoạn gỗ trầm )
Ông Ưng Viên có quan điểm y học khá độc đáo: trị bệnh là trị riêng cho từng người, không có thứ thuốc sản xuất hàng loạt nào có thể hoàn toàn chữa đúng bệnh. Cùng một thứ bệnh, nhưng ở người này có biểu hiện khác với người kia. Cùng một loại vi khuẩn, khi xâm nhập vào cơ thể người này sẽ cho triệu chứng khác với khi xâm nhập vào cơ thể người khác. Chẩn đúng bệnh và cho đúng thuốc, là quan điểm chữa bệnh nhất quán của ông.
Ông Ưng Viên kế thừa y lý chân truyền của dòng họ, ông cũng được tiếp thu những tài liệu y học cổ truyền Trung Hoa từ thời Hán - Đường. Các phương pháp “chân truyền” và những sách vở về Đông y đang được lưu hành nhiều khi rất khác nhau, thậm chí mâu thuẫn. Sở dĩ có tình trạng như vậy, là do tương truyền vào thời cuối nhà Thanh, khi phương Tây tấn công Tử cấm thành, triều đình sợ những tài liệu của tổ tông của họ bị “lọt vào tay địch” nên cất giấu đi, thay vào đó là những quyển sách được “viết ngược”, tức là y lý đã bị đặt lộn tùng phèo, giống như Hoàng Dung đã chép lộn ngược Cửu âm chân kinh giao cho Âu Dương Phong để ông này luyện mà tẩu hỏa nhập ma trong truyện của Kim Dung. Các danh y trong lịch sử thường được sư phụ trực tiếp truyền thụ, vì những bí quyết thực sự không bao giờ nằm trong các sách vở trôi nổi. Thầy phải chọn trò có tư chất, có tư cách để truyền bí quyết.
Trong các bài thuốc của ông bao giờ cũng có hai vị căn bản: trầm và… tre. Ông bảo cây tre có giá trị y học không kém gì trầm. “Không có bài thuốc nào tổ tiên tôi để lại mà không dính tới cây tre”, ông quả quyết.  Ngay cả tre ngâm bùn cũng có thể làm thuốc chữa được chứng hoại tử. Theo ông, trầm và tre là hai thứ bảo đảm nền tảng cho sức khỏe. Nguyên lý của tre: điều hòa khí mạch; nguyên lý của trầm: điều khí bình huyết.
Ông khuyên tôi nên viết nhiều về cây tre, còn đối với trầm thì viết in ít thôi, vì trong một thời gian dài báo chí quá đề cao sự mắc tiền của nó nên đã góp phần dẫn đến sự tuyệt chủng của trầm. Tôi hiểu sự bức xúc của ông.
Trích dẫn
Ông cho rằng, hiện nay các bệnh viện nhi mỗi ngày có rất đông bệnh nhân bị bệnh về khí phế quản và tiêu hóa, nếu phương thuốc giản đơn của dân tộc từ trầm được thẩm định để đưa vào chữa bệnh thì chi phí có thể giảm được đến hơn 90%. Ông chỉ cho tôi một cây trầm cao khoảng 2 mét, đường kính khoảng 20 cm dựng trong xưởng trầm nhà ông và nói: “Nếu mỗi ngày chữa cho 10 người bệnh thì phải 100 năm mới hết cây trầm này. Thực ra dùng trầm để chữa bệnh như dùng muối nêm vào canh, không tốn nhiều tiền mà hiệu quả. Vấn đề là xã hội phải thay đổi cách phòng và chữa bệnh, biết tận dụng các phương pháp hiệu quả mà cha ông ta đã trải nghiệm hàng ngàn năm nay”.
Nhưng dù dùng trầm “như muối nêm” thì cuối cùng nó vẫn hết nếu không có cách khai thác phù hợp. Cho nên vấn đề cấp bách nhất là phải nhanh chóng chặn đứng sự tàn phá để giữ và khôi phục những gì còn sót lại trên những cánh rừng có trầm.
Hiện nay, dó bầu tự nhiên ở độ cao từ 1.000 mét trở xuống đã hoàn toàn bị hủy diệt. Khi đã khai thác hết trầm, người ta còn đốn sạch cả những cây dó chưa có trầm mang về nấu dầu xuất khẩu. Cứ băm ra 1 tấn cây dó mới nấu được 1 lít dầu trầm, để bán lấy 15.000 - 20.000 USD một lít, người ta đã hủy diệt gần xong một nguồn tài nguyên quý giá của dân tộc. Trữ lượng dó bầu tự nhiên hiện còn không nhiều và chỉ có ở độ cao trên 1.000 mét. Tại độ cao đó cây dó mọc rất thưa, hiện tượng ăn trầm ít.
Theo ước tính của ông Viên, nếu như Nhà nước có biện pháp cứu những rừng có dó, lệnh cấm rừng được thực thi triệt để, 50 năm nữa thiên nhiên mới có thể tái tạo lại rừng có trữ lượng dó bằng khoảng 23 - 35% của thời kỳ trước năm 1975. Cùng với việc cấm rừng, phải cấm triệt để việc xuất khẩu trầm tự nhiên theo CITES (Quy ước thương mại quốc tế về những loài động vật và thực vật hoang dã lâm nguy).
Ngày xưa, mỗi năm chỉ duy nhất một lần, nhà Nguyễn chọn những người có hiểu biết, có tư cách để cho vào rừng khai thác trầm trong vòng 1 tháng, luật của triều đình chỉ cho phép lấy trầm tại những cây dó đã chết rũ, tuyệt đối cấm lấy trầm trên những cây còn sống. Điều đáng lưu ý là sau này khi người Pháp sang cai trị nước ta, quy định đó của nhà Nguyễn vẫn được áp dụng một cách nghiêm ngặt. Bởi vậy mà dù các rừng trầm hàng ngàn năm vẫn còn nguyên vẹn, nhưng người dân mỗi khi cần vẫn có trầm hương để dùng với giá không quá mắc.
Con người hiện tại là những kẻ kiêu ngạo với thiên nhiên, nên cái giá phải trả là rất đắt. Đã đến lúc chúng ta nên tỏ ra khiêm tốn. “Thiên nhiên sẽ tha thứ nếu con người biết phục thiện”, ông Ưng Viên nói.
Trích dẫn
Ông Ưng Viên lưu ý: Trên thị trường cả nước hiện lưu hành 4 loại trầm là trầm dó bầu, trầm dó dây, trầm niệt (còn gọi là trầm nghiệt), giả trầm hương. Trong 4 loại đó, chỉ có trầm dó bầu mới có giá trị trong chữa bệnh. Nhưng phân biệt giữa chúng là rất khó, phải có kiến thức mới biết được. Vì vậy, phải hết sức cảnh giác để tránh tiền mất tật mang.

Hoàng Hải Vân (THANHNIEN)

Xem chi tiết…

CHUYỆN HUYỀN BÍ KIM CỔ SƯU TẦM . BÀI 5.

11/09/2014 |
CHUYỆN HUYỀN BÍ KIM CỔ SƯU TẦM . BÀI 5.

Chuyện Địa Lý: Giai thọai về ngôi mộ nhà họ “Ngô Đình” tại huyện Lệ Thủy, tình Quảng Bình 
Tác giả: Tạp chí Khoa Học Huyền Bí số 1B(75) ngày 20 tháng 1-1975


Khỏang cuối thế kỷ 19 đời vua Tự Đức tại làng Đại Phong (tục danh Đợi), huyện Phong Lộc (sau đổi thành huyện Lệ Thủy), tỉnh Quảng Bình, có một nông dân đến ngụ cư trong làng,...vợ chết sớm, chỉ có một cậu con trai nhỏ độ 6 tuổi, hằng ngày làm mướn sinh sống. Ban hội tề ở đình làng này cắt cử ông đến phục dịch ở đình làng mỗi khi có hội họp hoặc tế lể.
Sau đó, trong một cơn bệnh nặng, ông qua đời, được ban hội tề làng cử 4 dân đinh đưa thi hài ống đến an táng lại “Bến Đẻ” một vùng rừng núi ngược dòng sông Kiến Giang cách làng Đại Phong độ 3 cây số ngàn.
Vì mới đến ngụ cư, không có địa vị trong làng, không thân thuộc, lại quá nghèo, nên công việc tổ chức mai táng cũng chỉ đơn sơ và vội vàng.
Ngôi mộ
Khi 4 dân đinh chèo thuyền đưa thi hài ông đến “Bến Đẻ” thì trời đã về chiều, mà nơi này có tiếng nhiều cọp, nên khi dân đinh đang khiêng thi hài ông từ bến đậu thuyền tiến vào núi, bỗng có nhiều tiếng cọp gầm gừ quanh vùng. Dân đinh sợ quá vội hạ xuống cùng nhau hối hả đào một huyệt cạnh đường mòn, nhưng đào chưa xong thì tiếng gầm thét của chúa sơn lâm càng rền vang đâu đó, 4 dân đinh khiếp đảm liền đặt thi hài ông xuống huyệt còn quá cạn rồi lấp đất qua loa, đọan vội vã cùng nhau co giò chạy về bến xuống thuyền chèo về nhà, định bụng sáng hôm sau sẽ trở lại sửa sang lại chu đáo hơn kẻo tội nghiệp người quá cố.
Qua hôm sau, số dân đinh này chèo thuyền trở lại, thì lạ thay, ngôi mộ chiều hôm trước mới lấp qua loa chưa thành nấm, nay đã hóa thành một gò đất tròn trịa do mối tạo lên lớn bằng một căn nhà. Các bậc lão thành trong làng và lân cận nghe tin, lũ lượt đến xem và đều cho là ngôi mộ thiên táng.
Nhưng rồi câu chuyện cũng theo thời gian đi và quên lãng, không ai lưu tâm bàn tán gì đến nữa. Mỗi lần ai đi ngang qua ngôi mộ này cũng không còn để ý đến một gò đất cây cỏ um tùm vì không người viếng thăm săn sóc từ năm này qua năm khác.
Cụ Ngô Đình Khả
Ông cụ qua đời, để lại cậu con trai côi cút mới lên 8, mặt mũi rất khôi ngô dĩnh ngộ, nên được vị cố đạo Thiên Chúa ở xứ đạo Mỹ Phước cạnh làng Đại Phong nhận đem về nuôi cho ăn học. Cậu bé đó là cụ Ngô Đình Khả sau này đó.
Sau này, cậu bé được cho ra Hà Nội học, thi đậu tốt nghiệp trường thông ngôn Đông Pháp, được bổ làm thông phán tại tòa Thống sứ Bắc Kỳ tại Hà Nội (trường này giống học viện hành chánh bây giờ).
Theo thông lệ xưa, hễ ai được nhà nước bảo hộ hay Nam triều bộ nhậm chức tước gì thì đều được nhà nước, thông tư về nguyên quán và ban hội tề làng phải tổ chức lên tỉnh rước sắc bằng về làng, nhằm làm tăng vinh dự cho người được bổ nhậm, thường gọi là “tư án quán”. Tại làng, người nào có phẩm hàm cao thì được làng cấp phần ruộng tốt giao cho thanh nhân canh tác.
Nhưng khi được nhà nước bảo hộ ở Hà Nội tư án quán, tòa công sứ và dinh tuần vũ tỉnh Quảng Bình báo cho làng Đại Phong lên tỉnh rước sắc bằng cụ Khả, thì ban hội tề làng này từ khước viện lý do làng Đại Phong không có ai tên là Ngô Đình Khả cả, bởi vì nếu nhận có, tất cụ Ngô Đình Khả sẽ là vị tiên chỉ của làng này, trong khi làng này chỉ có những quan nhỏ cửu, bát phẩm mà thôi.
Do sự khước từ trên, cu Ngô Đình Khả giận làng Đại Phong, sau đó cụ kết hôn với một thiếu nữ trâm anh ở làng Phú Cam gần kinh đô Huế và nhận làm công dân của làng này.
Sau này cụ Ngô Đình Khả chuyển cái ngạch Nam triều rồi lần lượt thăng tiến trên đường họan lộ, đến triều vua Thành Thái ngài thăng chức Thượng thơ bộ Học, Hiệp ta Đại học sĩ.
Dân làng Đại Phong lúc bấy giờ hối tiếc việc không thừa tiếp một công dân anh tài vẻ vang cho làng xóm, nên đã cùng nhau vào Huế xin tạ lỗi và thỉnh cầu được tiếp nhận cụ về làng, được cụ chấp thuận. từ đó, cụ là công dân làng Đại Phong. Cụ đã góp công xây dựng ngôi đình làng Đợi to lớn và ngôi nhà thờ nguy nga hiện nay vẫn còn.
Gái và trai
Cụ Ngô Đình Khả sinh được 2 gái và 6 trai: hai gái là bà cụ Cả Lễ và bà cụ Ấm, 6 trai là cụ nguyên tổng đốc tỉnh Quảng Nam Ngô Đình Khôi, Đức tổng Giám mục Ngô đình Thục, nguyên tổng thống đệ nhứt VNCH Ngô Đình Diệm, nguyên cố vấn Ngô Đình Nhu, nguyên đại sứ VNCH tại Anh quốc Ngô Đình Luyện và nguyên cố vấn cao nguyên trung nguyên Trung phần Ngô Đình Cẩn.
Năm 1936, cụ bà Ngô Đình Khả cùng các con gồm các ông Ngô Đình Khôi, Đức cha Ngô Đình Thục, Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu và Ngô Đình Cẩn (vắng mặt ông Ngô Đình Luyện có lẽ du học ngọai quốc) về làng Đại Phong thăm làng. Trước khi về làng, cụ bà và các con đến Bến Đẻ viếng mộ cọ cố Tam Đại Tổ.
Chạm long mạch
Năm 1938, ông Paul Ngọc, một nhà kinh doanh khai khẩn đất hoang nguyên quán Đồng Hới được phép khai khẩn đồn điền Ba Canh (tả ngạn sông Kiến Giang song song với vùng núi Bến Đẻ, Bến Trấm), ông này vô tình cho đào một con mương dẫn nước vào đồn điền để canh tác đã chạm phải long mạch của ngôi mộ thiên táng của nhà họ Ngô Đình kể trên và tai nạn đã đưa đến nho nhà họ Ngô là:
- Thượng thơ bộ Lại của triều đình Huế Ngô Đình Diệm bị hòang đế Bảo Đại cất chức thượng thơ thu hồi tất cả phẩm trật và huy chương vì đã chống đối lệnh hòang đế.
- Tổng đốc Quảng Nam Ngô Đình Khôi phải bị rắc rối một thời gian vì đã chống đối gây sự bất hòa với viên phó tòan quyền Đông Pháp Nouailletas.
Năm 1944, ông Paul Ngọc được chuyên viên canh nông Nhật bổn yểm trợ khuếch trương đào các con kinh dẩn thủy trong đồn điền Ba Canh của ông, vô tình đã chạm vào long mạch của ngôi mộ kể trên, nên lại một lần nữa gây đại nạn cho nhà họ Ngô là:
- Ông Ngô Đình Khôi và con trai đầu lòng là Ngô Đình Huân bị chính quyền VM bắt và thủ tiêu sau cuộc cách mạng mùa thu 1945.
- Ông Ngô Đình Diệm cũng bị chính quyền VM bắt giam nhưng đã trốn thóat bôn đào ra ngọai quốc.
Hàn lại long mạch
Nhưng nhờ thời gian Đồng minh đánh Nhật và VN chống Pháp, mọi công tác tại đồn điền này đều phải đình chỉ, các kinh đào dẫn thủy nhờ thời gian qua đã lấp lại hết. Long mạch đã được hàn gắn lại nên vận số nhà họ Ngô lại phục hưng bột phát hơn trước:
- Tháng 7-1954, ông Ngô Đình Diệm về nước chấp chánh rồi trở thành vị tổng thống sáng lập nền đệ nhất cộng hòa VN.
- Cùng lúc, bào đệ là ông Ngô Đình Nhu nắm giữ chức cố vấn nòng cốt của chế độ, ông Ngô Đình Luyện giữ chức đại sứ VNCH tại Anh Quốc, ông Ngô Đình Cẩn trở nên vị lãnh chúa của miền Trung. Còn Đức Cha Ngô Đình Thục lên chức Tổng Giám Mục và có thể sẽ là vị Hồng Y đầu tiên của Công Giáo tại VNCH.
Lại chạm Long Mạch
Nhưng vào khỏang năm 1960-1962, chế độ miền Bắc bắt đầu đặt nặng công cuộc yểm trợ tận lực cho Mặt trận Giải Phóng miền Nam được Trung Cộng viện trợ xây đắp xa lộ từ Bắc vào Đồng Hới qua Hậu Hùng, Mỹ Đức đến vùng đồn diền Ba Canh tiến sát vĩ tuyến 17 và vùng Ba Canh trở thành căn cứ sản xuất và bổ túc vủ khí để chuyển vào Nam. Họ đào những đường hầm sâu để đặt cơ xưởng dưới lòng đất hầu tránh oanh kích đã làm đứt hẳn long mạch của ngôi mộ thiên táng nhà họ Ngô tại Bến Đẻ. Sự kiện này đưa đến đại nạn cho tòan thể gia đình họ Ngô Đình vào mùa đông năm 1963 như chúng ta đã rõ.Âu cũng là do thiên định cho sự kết phát của ngôi mộ kể trên phải chịu trong giai đọan đại biến này thôi. Rồi nếu hồng phúc của nhà họ Ngô Đình trời còn dành cho phần trường cửu hơn, thì biết đâu sau này lại có những sự kiện đưa đến hàn gắn lại long mạch để lớp hậu duệ nhà họ Ngô Đình tái phục hưng vĩ đại hơn nữa.
Về phương diện phong thủy, phải chăng ngôi mộ kể trên đã chung tú bới non sông hùng vĩ của huyện Lệ Thủy từ phía Nam có 3 hòn núi An Mã dẫn về Bến Trấm, Bến Đẻ và phía Tây có núi Đầu Mâu chung khí về biển Hạc Hải ờ phía Đông Bắc trải long mạch dựa theo sông Kiến Giang ngược lên Tróc Vực quy tụ vào ngôi mộ này kết phát đến tột đỉnh, Đế, Bá, Công, Hầu chăng ?
Kẻ viết giai thọai này chỉ là kẻ hậu sinh, nhờ được sinh sống ở quê hương từ thuở thiếu thời, được các bậc tiền bối truyền thọai lại mà thôi. Nay xin viết lại để mong chư hải nội tiền bối nhất là liệt quý vị cao niên đồng hương hiện ờ Miền Nam phủ chính lại cho, hầu xây dựng đích thực một sử liệu không những chỉ ở lãnh vực địa lý mà cả cho danh nhân chí của Việt Nam nữa ./.
Tây Đô tháng 10-1973.
BỔ XUNG.
* "Thế đất “Đầu Mâu vi bút, Hạc-Hải vi nghiêng” ở làng Lệ-Thủy, tỉnh Quảng-Bình đã  xuất phát tổng thống Ngô-đình-Diệm, Võ-nguyên-Giáp và thiếu tướng Đỗ-Mậu. "


* (Lệ Thủy là một huyện thuộc tỉnh Quảng Bình, Việt Nam. Phía nam giáp huyện Vĩnh Linh (thuộc tỉnh Quảng Trị), phía bắc giáp huyện Quảng Ninh (Quảng Bình), phía tây giáp tỉnh Khammouan của Lào, phía đông giáp Biển Đông. Diện tích tự nhiên 142.052 ha, dân số năm 1998 là 140.804 người Đây là quê hương của Sùng Nham hầu Dương Văn An, Chiêu Vũ hầu Nguyễn Hữu Dật, Lễ Thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh, Kim tử Vinh Lộc Đại phu Đặng Đại Lược, Thạc Đức hầu Đặng Đại Độ, Sư bảo Nguyễn Đăng Tuân, Vũ Đăng Phương, Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Ngô Đình Diệm. Lệ Thủy nổi tiếng với sông Kiến Giang, khu nghỉ mát suối nước khoáng Bang, văn hóa đặc trưng Hò khoan Lệ Thủy, trong đó có điệu hò khoan chèo đò, hò giã gạo. Hằng năm, vào ngày 2 tháng 9, nơi đây diễn ra đua thuyền truyền thống. Trong Chiến tranh Việt Nam, nơi đây là chiến trường ác liệt với mật độ bom rải thảm của Không quân Mỹ với mật độ dày đặc.
Phía tây là dãy Trường Sơn, địa hình dốc theo hướng đông với vùng núi, đồi, có suối nước khoáng Bang với nguồn nước khoáng đang được khai thác làm nơi nghỉ dưỡng và làm nước uống đóng chai. Ở giữa là một dải đồng bằng hẹp hai bên bờsông Kiến Giang. Ven biển là một dải cồn cát trắng. Vùng biển của huyện Lệ Thủy là những bãi cát trắng, nước biển sạch. Hiện đã có bãi tắm tại Ngư Thủy được đưa vào khai thác.) - Theo vi.wikipedia.org/
* NHỮNG TRƯỜNG HỢP  MỘ TỐT:
 1. Phù địa: Là mạch đất  chỗ chôn mộ ngày càng nổi lên cao, do thủy tụ làm cho đất nở trương ra. ( Khác với phù sa là đất bồi do hiện tượng xâm thực của cuồng lưu.)
 2. Đất xốp: Nhẹ và mịn màng gần ao hồ, sông, bể. Huyệt đào lên thấy đất đỏ mịn như tròng đỏ hột gà.
 3. Mộ kết: Là một điểm trong long mạch có mật độ siêu vật chất cao nhất và động nhất; đồng thời có cảm trường siêu vật lý đi qua thường trực và cao diệu. Cảm trường siêu vật lý phân giải và làm tê liệt tà vật, tà khí, vi sinh vật hủ hóa, nên hài cốt không bị tiêu hủy và bề mặt sinh cơ còn tiếp tục sinh sản dưới một hình thức khác lạ của sinh vật hạ đẳng như là nấm mốc, mối đùn, thủy tụ.
 *Nấm mốc: Làm di hài còn nguyên vẹn và bên ngoài được bao bọc bởi một mạng tơ trắng hay xanh, vàng, do ngoại bì biến thái.
 *Kết mối: Là mối (termite) tập họp, tạo thành một lớp keo bảo vệ hài cốt kiên cố như xây xi mân. (Tin đồn rằng mộ ông nội của tổng thống Thiệu ở làng Tri-Thủy ở Phan-Rang kết mối).
 *Kết thủy: Hay thủy tụ là hài cốt được một lớp nước trong bảo vệ qua nhiều chục năm như một thứ nước ướp xác. Nếu bốc mộ thì nước sẽ nhanh chóng hóa đục và hài cốt tức khắc ngã nàu đen. ( Thầy địa lý cho rằng mộ ông nội của tiến sĩ Lê-qúi-Đôn ở huyện Duyên-Hà, tỉnh Thái-Bình, kết thủy ?)
* NHỮNG TRƯỜNG HỢP MỘ XẤU:
 1. Mộ chôn gần cây cổ thụ, để rễ cây đâm vào hài cốt thì con cháu bị mổ xẻ, bại liệt, đui mù, câm điếc, giảm thọ.
 2. Mộ chôn gần freeway, đường xe lửa, bến tàu, hay nhà máy kỹ nghệ nặng, làm nhiễu  động âm phần: Con cháu gian xảo, buôn gian bán lận, cờ bạc, hút xách.
 3. Mộ chôn chỗ quanh năm ngập nước phèn, hay sình lầy: Con cháu bị bịnh phì mập, phù thủng, đau thận, đau lưng, hư răng hay mục răng.
 4. Triệt địa là đào ao nuôi cá, khai mương nước, làm đường xe lửa, xây xa lộ trên đầu mộ: Long mạch bị cắt đứt! Chết bất đắc hay tuyệt tự, không con trai nối dõi.
 5. Mộ chôn ở diên địa (đất có pha quặng chì), bị phá khí thái cực, gây điên đảo âm dương, nên con cháu có người bất phân phái tính, bán nam, bán nữ. Đồng tính luyến ái.
 6. Quan quách mà đóng đinh sắt, thép hay chôn theo vàng bạc, châu báu: Con cháu điên khùng, ung thư.
 7. Quan tài bằng đá hay kim khí, thì con cháu ngỗ nghịch, dâm đãng, giang hồ, tâm thần loạn trí, phạm pháp.
 8. Mộ xây bằng bê tông cốt sắt mà bít kín mặt nấm, sẽ tạo ra áp lực của nước, của khí. Khi nhục thể bắt đầu thối rữa,  phát sinh ra nhiệt, khiến con cháu bị huyết áp cao, tiểu đường, hay cholesterol.
 9. Bia mộ để dưới chân: Con cháu ngu đần, vất vả cơ hàn. (Rất may, hầu hết các nghĩa địa ở Mỹ đều để bia trên đầu, như Rose Hill, Peek family,Westminster Memorial Park, Chúa Chiên Lành...)
 10. Dùng quế, trầm, tro, củi tẩm liệm: Con cháu bị bệnh  lở lói, phung cùi, xấu xí.
 11. Dùng lụa tơ tằm để tẩm liệm hài cốt. Bỏ nhiều giấy vàng bạc có  bột kim khí thì con cháu hay trở thành đồng cô cốt cậu, chồng con lận đận. Bỏ hột xoàn hay vàng vào miệng người chết để phạn hàm, thì đời sau tuyệt tự, không con trai nối dõi.
 12. Long hổ giao nhau. Núi đồi bên trái mộ và những gò đồi bên tay phải mộ, đụng vào nhau ở tiền án hay minh đường: Loạn luân, anh em dòng họ lấy nhau. (Như ngôi mộ nhà Trần kết phát 200 năm, nhưng gia tộc ruột thịt lấy nhau, vì sợ mất ngôí!)
 13. Mộ nghịch long, tức là đầu mộ để dưới thấp, chân hướng về tổ sơn trên cao: Con cháu loạn thần tặc tử, bất hiếu, bất trung.
 14. Mộ đang kết khí, kết thủy, kết mối mà bốc mộ dời đi: Con cháu suy sụp, chết bất đắc. (Nghĩa trang Mạc-đỉnh-Chi ở Sài-Gòn khi bị  giải tỏa, nhiều ngôi mộ nằm ở tầng trên mà lại kết thủy đầy nước trong veo, trong khi mộ ở tầng dưới không kết tốt, lại thấy khô ran.)
 15. Trùng táng hay trùng huyệt, tức là chôn nhằm chỗ mà trước đây đã có người chôn rồi; hoặc có xương thú như voi, trâu, bò: Con cháu bị bệnh nan y và chết trùng tang liên táng. Nghĩa là nhiều người chết liên tục trong vòng 3 năm. Nếu nút áo của người chết bằng xương thú hay kim khí, cũng phải cắt bỏ, chứ không để nguyên như vậy mà chôn theo người chết.
 16. Người Khmer thường xây mộ bằng đá ong, dùng tà thuật chôn theo người chết những tượng sa thạch, và an táng trên nọa địa hay thiết địa, (đất khô cứng vì có quặng kim khí) nên con cháu tàn ác dã man, chết vì  gươm đao, súng đạn, suýt bị diệt chủng. (“Cánh đồng chết” với những núi sọ người đã làm cả thế giới hãi hùng!).
 17. Người Do-Thái và người Nhật ngày xưa, có tập tục hỏa thiêu rồi giữ lại hài cốt mà không chịu chôn cất. Hậu qủa là thế hệ sau làm nạn nhân của lò thiêu Hitler và bom nguyên tử. Trong đại chiến thứ 2, Đức-quốc-Xã của Hitler muốn tiêu diệt người Do-Thái nên đã tập trung họ lại rồi lùa ï vào lò thiêu. Còn người Nhật ở Mã-Đảo và Trường-Kỳ bị thiêu hủy vì 2 trái bom nguyên tử.( Đây là một thứ nhân quả vật lý, khác với nhân qủa của nhà Phật. Ví dụ bà mẹ lận đận chồng con hai ba đời. Con gái sau đó cũng trắc trở hai ba đời chồng. Trong gia đình có người chết trôi, phải lo đoạn nghiệp , vì sợ về sau sẽ có người chết chìm nữa. Cha chết bất đắc,  con cũng chết thảm như gia đình Kennedy.) ( Quảng Đức )
Xem chi tiết…

THỐNG KÊ TRUY CẬP

LỊCH ÂM DƯƠNG

NHẮN TIN NHANH

Tên

Email *

Thông báo *