CHUYỆN HUYỀN BÍ KIM CỔ SƯU TẦM . BÀI 11.

11/15/2014 |
CHUYỆN HUYỀN BÍ KIM CỔ SƯU TẦM . BÀI 11.

MỘT SỐ TƯ LIỆU VỀ HOÀNG CAO KHẢI.
( Tiếp theo )
Hoàng Cao Khải - Phan Đình Phùng .
Nhắc đến Hoàng Cao Khải không thể không nói tới Phan Đình Phùng và ngược lại - hai con người cùng thời đại, cùng quê, có quan hệ họ hàng, nhưng đối lập nhau về lí tưởng. Một người vương giả hiển vinh, một người vì lí tưởng mà mồ mả tổ tiên bị quật lên, rồi sau này chính thân xác chính mình cũng bị thiêu thành tro, trộn với thuốc súng bắn xuống dòng sông La
 Trích từ Việt Nam Thư Quán....

Người hạ bút viết bức thư khuyên nhủ Phan ra hàng, chính là người đồng hương, đồng thời với cụ, lại có tình thông gia với nhau nữa: ông Hoàng Cao Khải.
Lúc này họ Hoàng đang làm Bắc kỳ Kinh lược sứ tôn nghiêm hiển hách; người Pháp gọi là "phó vương" (vice roi). Thiếu gì người làng Đông Thái muốn tránh hoạ phải chạy ra Bắc, núp dưới bóng che chở và đầu thân làm môn hạ của họ Hoàng, ngay đến người trong thân tộc cụ Phan cũng có. 
Xuất thân chỉ là một thầy cử nhân đậu trẻ, rồi ở nhà nhàn cư vô sự, cờ bạc chơi bời, đến đỗi bán hết gia viên điền sản, chỉ còn một nước tự tử đến nơi, họ Hoàng bỏ nhà đi ra Bắc hà, gặp được người tri kỷ, rồi cỡi voi đánh giặc, tuỳ thế lập công danh, thấm thoát không mấy năm mà làm tới kinh lược, phong tới Quận công, ai cũng phải chịu là người có tài lớn.  
Nếu cụ Phan là anh hùng muốn tạo lại thời thế mà tạo không được, thì họ Hoàng chính là anh hùng bởi thời thế tạo ra. 
Cùng thời, cùng làng, hai người đi khác hẳn con đường chí hướng, mà cùng đến chỗ cực đoan, cùng có tên tuổi lớn trong lịch sử. Đối với thời thế, mỗi ông là một đại biểu cho một trào lưu tư tưởng hành vi của Việt Nam: có họ Hoàng nên khí tiết họ Phan càng rõ rệt, có họ Phan nên sự nghiệp họ Hoàng càng vẻ vang, ấy là một chỗ sắp đặt của lịch sử éo le khôn khéo lắm vậy. 
Cuối tháng 10 năm Giáp Ngọ, Hoàng Cao Khải viết thư rồi sai chính người nội đệ (em vợ) mình vừa là ông anh con nhà bác của cụ Phan là Phan Văn Mân đêm lên núi Vụ Quang. Không ai khác hơn ông này mà dám lĩnh mệnh đi sứ, nhất là đi sứ chiêu hàng, vì nếu người khác chắc là nghĩa binh làm thịt. 
Mặc lòng là bà con thân quyến, Phan Văn Mân phải trải nhiều lớn gian nan nguy hiểm mới vô đến đại doanh. Mới thấy ông đường huynh thò mặt vô, cụ Phan cả cười và nói: 
- Anh đi làm thuyết khách cho Hoàng Cao Khải khó nhọc lắm hè! 
Vì cụ đã được tin báo trước cho biết. 
Cụ xem thư rồi thở dài:  
- Không dè người khuyên nhủ tôi ra hàng là cố nhân Hoàng Cao. Tôi thề quyết làm việc tôi làm đây tới cùng, dầu sấm sét búa rìu cũng không làm sao cho tôi thay lòng đổi chí được, anh về nói giùm cho Hoàng Cao biết như thế. Nếu tôi không làm xong được công việc vua uỷ thác, dân trông mong và không rửa hận cho khô cốt của tổ tiên ở dưới đất, thì chỉ có một cách là chết theo hoài bão tâm chí mình mà thôi. 
Rồi tức thời, cụ cầm bút viết thư trả lời, trao cho ông Phan Văn Mân đem về. Lúc anh em từ biệt, cụ ân cần dặn với: 
- Cũng may phước cho người đem thư chiêu hàng chính là anh, nếu là ai khác thì bộ hạ của tôi chắc làm tương mắm để gửi biếu Hoàng Cao nếm thử. Lần sau y có sai đi, anh đừng lãnh mệnh nữa nghe! 
Ta đọc cả hai bức thư dịch ra dưới đây, tức như hai bức tranh phóng đại tâm tích chí khí của hai ông cùng một làng với nhau, mà hai đàng xa cách nhau tuyệt mù không thế nào gặp nhau được là phải. 

Bức thư của Hoàng Cao Khải   
"Đồng ấp Phan Đình Nguyên đại nhân túc hạ.   
Tôi với ngài xa cách nhau, xuân thu đắp đổi trải đã mười bảy năm nay rồi. Dâu bể cuộc đời, bắc nam đường bụi, tuy là mỗi người đi một ngả khác nhau, nhưng mà trong giấc mộng hồn vẫn thường thấy nhau không phải xa xôi gì. Ngồi nghĩ lại ngày trước chúng ta còn ở chốn quê hương giao du với nhau, cái tình ấy đằm thắm biết là dường nào?  
Từ lúc ngài khởi nghĩa đến giờ, nghĩa khí trung can, đều rõ rệt ở tai mắt người ta. Tôi thường nghe các quý quan (là các quan Pháp) nói chuyện đến ngài, ông nào cũng phải thở than khen ngợi và tỏ ý kính trọng ngài lắm. Xem như thế thì tấm lòng huyết khí tôn nhân, tuy là người khác nước cũng chung một tâm tình ấy thôi, không phải là người cùng thanh khí với nhau mới có vậy. 
 Ngày kinh thành thất thủ, xe giá nhà vua bôn ba, mà ngài mạnh mẽ đứng ra ông nghĩa, kể sự thế lúc bấy giờ, ngài làm vậy là phải lắm, không ai không nói như thế. Song le, sự thế gần đây đã xoay đổi ra thế nào, thử hỏi việc đời có thể làm được nữa không, dầu kẻ ít học thức, kém trí khôn, cũng đều trả lời không được. Huống chi như ngài lại là bậc người tuấn kiệt, chẳng lẽ không nghĩ tới đó hay sao? Tôi trộm xét chủ ý của ngài, chắc cũng cho rằng: ta cứ làm theo việc phải ta biết, cứ đem hết tài năng ta có, một việc nên làm mà làm là ở nơi người, còn nên được hay không nên là ở nơi trời, ta chỉ biết đem thân này hứa cho nước, đến chết mới thôi. Bởi thế, cho nên ngài cứ việc làm tới cùng, không ai có thể làm biến đổi cái chí ấy đi được.   
Có điều tôi thấy tình trạng ở quê hương chúng ta gần đây, lấy làm đau lòng hết sức. Nhân đó, tôi thường muốn đem ý kiến hẹp hòi, để ngỏ cùng lượng cao minh soi xét; nhưng mấy lần mở giấy ra rồi, mài mực xong rồi, đã toan đặt bút xuống viết rồi lại gác bút thở dài, không sao viết được. Vì sao? Vì tôi liệu biết can tràng của ngài cứng như sắt đá, không thể lấy lời nói mà chuyển động nổi. Đã vậy, lại còn khác tình, khác cảnh, xa mặt xa lòng, vậy thì lời nói của tôi, chắc gì thấu tới được nơi ngài; mà dầu cho có thấu tới nơi ngài chăng nữa, đã chắc gì lọt vào tai ngày chịu nghe giùm cho, chẳng qua chỉ để cho cố nhân cười mình là thằng ngu thì có.  
Nay nhân quan Toàn quyền trở lại, đem việc ở tỉnh ta bàn bạc với tôi, có khuyên tôi sai người đến ngỏ ý cùng ngài biết rằng: ngài là bậc người hiểu biết nghĩa lớn, dầu không bận lòng tưởng nghĩ gì đến thân mình, nhà mình đi nữa, thì cũng nên tưởng nghĩ cứu vớt lấy dân ở trong một địa phương mới phải. Lời nói đó, quan Toàn quyền không nói với ai, mà nói với tôi, là vì cho rằng: tôi với ngài có cái tình xóm làng cố cựu với nhau, chắc hẳn tôi nói ngài nghe được, vậy có lẽ nào tôi làm thinh không nói?  
Ngay thử nghĩ xem: quan Toàn quyền là người khác nước, muôn dặm tới đây, mà còn có lòng băn khoăn lo nghĩ tới dân mình như vậy thay, huống chi chúng ta sinh đẻ lớn khôn ở đất này, là đất của cha mẹ tôn tộc ở đó, có là đâu mình làm lơ đành đoạn, thì trăm năm về sau, người ta sẽ bảo mình ra làm sao? Ôi! Làm người trên phải có lòng thương yêu dân làm cốt, chưa từng có ai không biết thương dân mà bảo là trung với vua bao giờ. Việc của ngài làm từ bấy lâu nay, bảo rằng trung thì thiệt là trung, song dân ta có tội gì mà vướng phải nông nỗi lầm than thế này, là lỗi tại ai? Nếu bảo là đã vì thiên hạ thì không thiết chi tới nhà nữa cũng phải, nhưng một nhà của mình đã vậy, chứ còn bao nhiêu nhà ở trong một vùng cũng bỏ đi cả, sao cho đang tâm, Tôi nghĩ nếu như ngài cứ không không làm tràn tới mãi, thì e rằng khắp cả sông Lam núi Hồng đều biến thành hồ cá hết thảy, chứ không phải chỉ riêng lo ngại cho cây cỏ một làng Đông Thái chúng ta mà thôi đâu. Đến nỗi để cho quê hương điêu đứng xiêu tàn, tưởng chắc bậc người quân nhân quân tử không lấy gì làm vui mà làm thì phải.  
Tôi suy nghĩ đắn đo mãi, vụt lấy làm mừng rỡ mà nói riêng với mình: Được rồi, lời nói đó tôi có thể đem ra nói cho ngài nghe lọt tai, để xin ngài chỉ bảo cho biết như vậy có phải hay không?   
Tuy nhiên, sự thế của ngài như cỡi trên lưng cọp đã lỡ rồi, bây giờ muốn bước xuống, nghĩ lại khó khăn biết bao!   
Nếu như tôi không có chỗ tự tin chắc chắn nơi mình, thì quyết không khi nào dám mở lời nói liều lĩnh để mang luỵ cho cố nhân về sau. Nhưng may là tôi với quan Toàn quyền, vốn có tình quen biết nhau lâu, lại với quan Khâm sứ ở Kinh, và quan Công sứ Nghệ Tĩnh, cùng tôi quen thân hiệp ý nhau lắm, cho nên trước kia Trần Phiên sứ (tên là Khánh Tiến, làm Tuần phủ, nên gọi là Phiên sứ) Phan Thị Lang, (tên là Huy Nhuận), cũng là chỗ thân trong tỉnh, trong làng hoặc bị tội nặng, hoặc bị xử đày rồi, thế mà tôi bảo toàn cho hai ông ấy đều được yên ổn vô sự. Lại như mới rồi, ông Phan Trọng Mưu ra thú, tôi dẫn đến yết kiến các đại hiến quý quan, thì các ngài cũng tiếp đãi trân trọng như đãi khách quý, và tức thời điện về tỉnh nhà, bắt trả lại mồ mả, và tha cả ba con về, như thế tỏ ra nhà nước Bảo hộ khoan dung biết chừng nào! Cứ xem vậy đủ biết lẽ ấy, lòng ấy, dầu là người nghìn dặm xa nhau, vẫn là giống nhau vậy.  
Bây giờ, nếu ngài không cho lời tôi nói là dông dài, thì xin ngài đừng ngần ngại một điều gì khác hết tôi không khi nào dám để cho cố nhân mang tiếng là người bất trí đâu.  
Hoàng Cao Khải 
đốn thư" 
Bức thư cụ Phan trả lời:  
"Hoàng quý đài các hạ,  
Gần đây, tôi vì việc quân, ở mãi trong chốn rừng rú, lại thêm lúc này tiết trời mùa đông, khí hậu rét quá, nông nỗi thiệt là buồn tênh. Chợt có người báo có thư của cố nhân gửi lại. Nghe tin ấy, không ngờ bao nhiêu nỗi buồn rầu lạnh lẽo, tan đi đâu mất cả. Tiếp thư liền mở ra đọc. Trong thư cố nhân chỉ bảo cho điều hoạ phước, bày tỏ hết chỗ lợi hại, đủ biết tấm lòng của cố nhân, chẳng những muốn mưu sự an toàn cho tôi thôi, chính là muốn mưu sự yên ổn cho toàn hạt ta nữa. Những lời nói gan ruột của cố nhân, tôi đã hiểu hết, cách nhau muôn dặm tuy xa, nhưng chẳng khác gì chúng ta được ngồi cùng nhà nói chuyện với nhau vậy.   
Song le tâm sự và cảnh ngộ của tôi có chỗ muôn vàn khó nói hết sức. Xem sự thế thiên hạ như thế kia, mà tài lực tôi như thế này, y như lời cổ nhân đã nói "thân con bọ ngựa là bao mà dám giơ cánh tay lên muốn cản trở cỗ xe" sao nổi không biết; việc tôi làm ngày nay, sánh lại còn quá hơn nữa, chẳng phải như chuyện con bọ ngựa đưa tay ra cản xe mà thôi.   
Nhưng tôi ngẫm nghĩ lại, nước mình mấy ngàn năm nay, chỉ lấy văn hiến truyền nối nhau hết đời này qua đời kia, đất nước chẳng rộng, quân lính chẳng mạnh, tiền của chẳng giàu, duy có chỗ ỷ thị dựa nương để dựng nước được, là nhờ có cái gốc vua tôi, cha con theo nghĩa vốn có chỗ đủ cho mình tự có thể trông cậy dựa nương lắm vậy. Đến nay người Pháp với mình, cách xa nhau không biết là mấy muôn dặm, họ vượt bể tới đây, đi tới đâu như là gió lướt tới đó, đến nỗi nhà vua phải chạy, cả nước lao xao, bỗng chốc non sông nước mình biến thành bờ cõi người ta, thế là trọn cả nước nhà, dân nhà, cùng bị đắm chìm hết thảy, có phải là riêng một châu nào hay một nhà ai phải chịu cảnh lầm than mà thôi đâu.  
Năm Ất Dậu, xe giá thiên tử ngự đến sơn phòng Hà Tĩnh, giữa lúc đó tôi đang còn tang bà mẹ, chỉ biết đóng cửa cư tang cho trọn đạo, trong lòng há dám mơ tưởng đến sự gì khác hơn. Song, vì mình là con nhà thế thần, cho nên đôi ba lần đức Hoàng thượng giáng chiếu vời ra; không lẽ nào có thể từ chối, thành ra tôi phải gắng gổ đứng ra vâng chiếu, không sao dừng được. Gần đây, Hoàng thượng lại đoái tưởng lựa chọn tôi mà giao phó việc lớn, uỷ thác cho quyền to; Ấy, mệnh vua uỷ thác như thế đó, nếu cố nhân đặt mình vào trong cảnh như tôi, liệu chừng cố nhân có đành chối từ trốn tránh đi được hay không?   
Từ lúc tôi khởi nghĩa đến nay, đã trải mười năm trời, những người đem thân theo việc nghĩa, hoặc đã bị trách phạt, hoặc đã bị chém giết, vậy mà lòng người trước sau chẳng hề lấy thế làm chán nản ngã lòng bao giờ; trái lại, họ vẫn ra tài, ra sức giúp đỡ tôi, và lại số người mạnh bạo ra theo tôi càng ngày càng nhiều thêm mãi. Nào có phải người ta lấy điều ta vạ hiểm nguy làm cho sự sung sướng thèm thuồng mà bỏ nhà dấn thân ra theo tôi như vậy đâu. Chỉ vì họ tin cậy lòng tôi, lượng xét chí tôi, cho nên hâm hở vậy đó thôi. Ấy, lòng người như thế đó, nếu như cố nhân đặt mình vào cảnh của tôi liệu chừng cố nhân có nỡ lòng nào bỏ mà đi cho đành hay không?  
Thưa cố nhân, chỉ vì nhân tâm đối với tôi như thế, cho nên cảnh nhà tôi đến nỗi hương khói vắng tanh, bà con xiêu dạt, tôi cũng chẳng dám đoái hoài. Nghĩ xem, kẻ thân với mình mà mình còn không đoái hoài, huống chi là kẻ sơ: người gần với mình mà mình còn không bao bọc nổi, huống chi người xa. Vả chăng hạt ta đến đỗi điêu đứng lầm than quá, không phải riêng vì tai hoạ binh đao làm nên nông nổi thế đâu. Phải biết quan Pháp đi tới đâu, có lũ tiểu nhân mình túa ra bày kế lập công, thù vơ oán chạ; những người không có tội gì chúng cũng đâm thọc buộc ràng cho người ta là có tội, rồi thì bữa nay trách thế nọ, ngày mai phạt thế kia; phàm có cách gì đục khoét được của cải của dân, chúng nó cũng dùng tới nơi hết thảy. Bởi đó mà thói hư mối tệ tuôn ra cả trăm cả ngàn, quan Pháp làm sao biết thấu cho cùng những tật khổ của dân trong chốn làng xóm quê mùa, như thế thì bảo dân không phải tan lìa trôi giạt đi sao được?
Cố nhân với tôi, đều là người sinh đẻ tại châu Hoan, mà ở cách xa ngoài muôn ngàn dặm, cố nhân còn có lòng đoái tưởng quê hương thay, huống chi là tôi đây đã từng lấy thân chịu đựng và lấy mắt trông thấy thì sao? Khốn nỗi cảnh ngộ bó buộc, vả lại sức mình chẳng làm được theo lòng mình muốn, thành ra phải đành, chứ không biết làm sao cho được. Cố nhân đã biết đoái hoài thương xót dân này, thì cố nhân nên lấy tâm sự tôi và cảnh ngộ tôi thử đặt mình vào mà suy nghĩ xem, tự nhiên thấy rõ ràng, có cần gì đến tôi phải nói dông dài nữa ư?  
Phan Đình Phùng
phúc thư"

Bức thư cụ Phan trả lời, viết thật nhẹ nhàng mà đau đớn, tử tế mà cương quyết, tỏ ra mình chết thì thôi, không chịu bãi binh quy hàng. Cụ lại khéo đem quân mạng và dân tâm ra làm nòng cốt để hỏi cố nhân họ Hoàng nếu gặp cảnh ngộ ấy thì làm thế nào? Hình như cụ Phan có ý chận đường rào ngõ không để họ Hoàng viết cho mình tới bức thư thứ hai nữa. 
Thiệt, lúc ông Phan Văn Mân đem bức thư phúc đáp ra Hà Nội, họ Hoàng xem rồi biến sắc, nếu lúc ấy có bệnh nhức đầu chống mặt gì, tất cũng tiêu tan như hồi Tào Mạnh Đức đọc bài hịch của Trần Lâm vậy. 
Họ Hoàng sai dịch bức thư ra chữ Pháp, đưa trình Toàn quyền De Lanessan, luôn với tờ báo cáo của mình, trong đó có câu đại ý: “Bản chức đã lấy hết sự thế lợi hại để tỏ bày khuyên nhủ Phan Đình Phùng ra hàng, nhưng y vẫn tỏ ý hôn mê bất ngội (mê mẩn tối tăm không tỉnh), giờ xin Chính phủ Bảo hộ vì dân mà dùng binh lực tiễu trừ cho hết văn thân loạn phỉ...” 
Ấy là lẽ cố nhiên. Đào mả không núng; khuyên hàng không nghe; văn chương không cảm; thôi thì chỉ còn võ lực. Giờ, quan văn trở vô buồng để cho tướng võ lại ra sân khấu.

 ẤP THÁI HÀ.
Trên rất nhiều bức bưu ảnh thời Pháp bắt gặp dòng chú thích Village du Kinh Luoc. Bạn biết gì về vị quan đầu triều thời Nguyễn và khu thái ấp của ông ta? 




Công trình trong hai bức bưu ảnh trên giống nhau đến mức người ta dễ kết luận chúng là một nếu không để ý đến những dòng chú thích "La pagode de Vua Le" và "Monument funéraire du Kinh Luoc".



Kiến trúc nhà bia và trụ đá đặt tượng vua Lê bên hồ Hoàn Kiếm được sao chép và đưa vào một công trình được xây dựng để suy tôn chính mình của một nhân vật đã đi vào lịch sử với tội danh hợp tác đắc lực với thực dân Pháp trong việc đàn áp các phong trào khởi nghĩa - Kinh lược sứ Bắc Kì  Hoàng Cao Khải (vice roi - phó vương - theo cách gọi của người Pháp.  

Ấp Thái Hà 
Theo TS Bùi Xuân Đính trên trang Đông Tác ấp Thái Hà là phần thưởng của thực dân Pháp dành cho Hoàng Cao Khải. Dù đã có dinh thự trong thành phố (entry trước), vị phó vương muốn lập một khu thái ấp để nghỉ già. Ấp được xây dựng năm 1893, gồm rất nhiều công trình kiến trúc dinh thự, lăng mộ, đình chùa...nằm rải rác trên một không gian rất rộng phía bên trái gò Đống Đa, kéo dài từ phố Đặng Tiến Đông ngày nay tới tận Trường cán bộ Công Đoàn Hà Nội.



 Vì khu ấp nằm trên thế trũng, chủ nhân cho đào mương máng ngang dọc, xung quanh để tiêu nước, đất đào lên để tôn nền, rồi chia thành vài chục lô vuông vắn. 






Khu dinh cơ của Hoàng Cao Khải chiếm một phần tư ấp, ở góc Đông Nam đường cái gồm tư dinh nằm sâu trong cổng chính, cổng phụ, cầu bắc qua hào, tường bao. Phần đất ngoài tư dinh được chia thành lô bán cho các quan lại cao cấp người Việt xây nhà cửa để biến thành một khu quý tộc.


Dân chúng được khuyến khích làm nhà ở xung quanh chùa Đồng Quang, dọc hai bên đường cái, tạo nên một đoạn đường phố tấp nập. Đường tầu điện chạy ngang khu thái ấp dẫn vào tận Ngã Tư Sở. Từ đầu thập kỷ 10 của thế kỷ XX, nhiều cơ quan thuê nhà trong ấp để đặt trụ sở, như Viện Đại lý Pháp, Sở Địa chính Bắc Kỳ, Phòng Thí nghiệm vi trùng học. Năm 1927, người Pháp cho lập một trại thu nhận trẻ lang thang tại đây. 

 Nhiều công trình trong ấp hiện diện trên các bức bưu ảnh chụp từ cuối thế kỉ XIX đến những năm 30 thế kỉ XX giúp ta hình dung về sự huy hoàng của nó


Sau CMT8, khu thái ấp về tay chính quyền nhân dân, dù được xếp hạng là di tích lịch sử cấp quốc gia, nhưng trên thực tế nó đã không được bảo quản, nhiều công trình kiến trúc có giá trị nghệ thuật đã bị phá, những chiếc cổng, bờ tường cao không cản được làn sóng người "nhảy dù" vào đây sinh sống . Cùng với thời gian, quần thể kiến trúc "Village du Kinh Luoc" gần như đã biến mất hoàn toàn giữa một biển dân cư phường Trung Liệt. 


Lối vào khu lăng mộ Hoàng Cao Khải, đối diện với trường Đại học thuỷ lợi, giờ là con hẻm ngoắt nghéo, bị ép chặt bởi những ngôi nhà dị dạng. Khi được hỏi, những sinh viên chờ xe bus không hề biết cách chỗ mình đứng không xa có một khu lăng mộ được các nhà sử học Việt Nam gọi là thành nhà Hồ thứ hai, còn người Pháp đánh giá là một trong những đỉnh cao của kiến trúc đá phương Đông.

Lăng Hoàng Cao Khải 
 Tuy không sánh được với lăng tẩm các vị vua triều Nguyễn ở Huế về quy mô, nhưng lăng Hoàng Cao Khải được đánh giá là công trình kiến trúc đá đặc sắc. Vì những giá trị của quần thể di tích kiến trúc này, ngày 25-11-1945, trong Sắc lệnh bảo vệ di tích cổ vật, Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương giữ nguyên hiện trạng khu ấp. Bộ Văn hóa Thông tin cũng đánh giá: Đây là chứng tích duy nhất của nước ta về một quần thể các công trình lăng tẩm, dinh thự của một phó vương...Nhưng trên thực tế sự lẫn lộn trong việc đánh giá một nhân vật trong quá khứ với giá trị văn hoá lịch sử của một công trình kiến trúc là nguyên nhân làm cho khu di tích này mất tích.
 Những đoạn tả khu lăng mộ Hoàng Cao Khải của những thế hệ người khác nhau từng sống tại nơi này.
 "Bước qua cổng ấp, thẳng trước mặt chúng tôi và ở tít tận đằng xa là Dinh cụ Quận - Trong "Ăn Tết bên ngoại" Văn Ngọc kể về những kỉ niệm thời thơ ấu trước CMT8 - Nhưng trước khi tới đó, chúng tôi còn phải đi qua một chỗ có cái đài bằng đá hoa cương nhẵn bóng, màu thẫm, bệ hình tròn, cao độ 60cm, đường kính độ dăm thước, có bậc để đi lên, ở giữa đài là một cây cột trụ đúc bằng gang, có đường chỉ trang trí như một thức cột. Bao giờ chúng tôi cũng dừng lại để trèo lên đây đùa nghịch một lúc, bắt mẹ chúng tôi phải chờ đợi. Nhưng đi mấy bước nữa, đến gần dinh cụ Quận, thì chúng tôi chẳng còn dám ho hoe, nghịch ngợm nữa. Không hiểu sao, cái không khí lạnh lẽo toát ra từ nơi này luôn luôn làm cho chúng tôi hãi sợ, có lẽ vì hình ảnh cái chiêng và cái trống nằm ở hai đầu hiên vắng ngắt, và đã phủ một lớp bụi thời gian, khiến cho chúng tôi không khỏi liên tưởng đến những vụ xử trảm rùng rợn đã từng xảy ra ở nơi này thời cụ Quận còn sống. Người dân ở đây đồn rằng, đêm đêm vẫn nghe thấy tiếng chiêng rất bi ai từ trong dinh ngân ra!"




Cây cột Văn Ngọc nhắc đến hiện diện trên rất nhiều bức bưu ảnh thời ấy, chủ nhân thái ấp có ý gì khi sao chép và dựng trong khu lăng mộ của mình một bản sao trụ đá đặt tượng vua Lê , nhưng trái với mong muốn, cây cột đã không tồn tại với thời gian, không rõ công trình này bị phá bỏ khi nào vì không thấy bóng dáng nó trong đoạn hồi kí của một người Hà nội tả khu lăng thập kỉ 60. 
"Đối diện với cổng trường đại học Thuỷ Lợi ngày nay là cổng chính vào lăng Hoàng Cao Khải. Phía ngoài đường cái (đường Nguyễn Trãi ngày nay) là một bức tường rào phía trước lăng, cao đến hơn 4 mét, dài cả trăm mét, ở chính giữa là cổng vào lăng làm bằng sắt rất lớn với những hoa văn đúc bằng gang, hai cánh mở ra hai bên rộng đến mức ô tô tải vào được. Qua cổng là một con đường lát gạch đinh rộng khoảng 4 mét dẫn vào bên trong, hai bên là vườn nhãn và thảm cỏ xanh tốt quanh năm. Ngay lối vào lăng ở phía bên trái là mộ của con gái út Hoàng Cao Khải, cạnh mộ có hai cây roi to, quả rất ngon. Quá một chút là mộ con gái thứ của ông ta xây bằng gạch và xi măng. 
Con đường dẫn vào thẳng đến một cái hồ bán nguyệt tuyệt đẹp ở trung tâm của lăng, vòng cung hướng ra ngoài, có bờ gạch xây cao lên cách mặt đất 40 cm rất sạch sẽ, bờ bao quanh hồ xây gạch đinh xuống đến tận đáy, trên thành hồ có những hốc thoát nước hình vuông cách đều nhau khoảng 30 mét để thoát nước ra ngoài khi hồ quá đầy vì một lý do nào đấy. Dưới hồ trồng sen, nước trong hồ trong suốt và rất sâu. Chỉ có một lối xuống hồ duy nhất là ở chính giữa bờ thẳng phía bên trong nơi người dân ở quanh vùng đến gánh nước về ăn, không ai được phép rửa ráy hay tắm giặt ở đây. Người ta có thả cá chép trong hồ, không phải để ăn mà là để kiểm tra chất lượng nước. 
Đối diện với lối lên xuống hồ là lăng chính của vợ chồng Hoàng Cao Khải hoàn toàn bằng đá cẩm thạch trắng, rất lớn và hoành tráng, trần cách sàn hơn 4 mét, ở giữa có một cái bàn đá màu trắng rộng và rất mát, trẻ con leo lên đó ngồi dăm bảy đứa thoải mái. Mộ của Hoàng Cao Khải ở bên trái, của vợ ông ta ở bên phải, đều bằng đá cẩm thạch trắng cực đẹp, chạm trổ tinh vi, có khắc những dòng chữ Hán sắc xảo. 
Phía trước mộ là hai hàng lính đá mỗi bên 4 người bồng gươm, cao gần bằng người thật, đầu đội mũ nhỏ có tua đứng gác." 






Để ý các bức ảnh trên sẽ thấy ban đầu mộ (hoặc mộ chờ) của vợ chồng Hoàng Cao Khảo để lộ thiên trên một nền đá có tường bao, bờ tam cấp dẫn lên được trang trí bằng hai khối đá tạc hoa văn cách điệu hình rồng, về sau một toà lăng được dựng bên trên, toà lăng này còn tồn tại tới ngày nay.
 Tiếp tục lời kể: "Phía sau mộ là một quả đồi khá cao, trên đỉnh đồi dựng một nhà tam quan để hóng mát. Từ trên đồi có thể nhìn thấy toàn cảnh một vùng rất rộng. Có một bậc thang xây bằng gạch đinh màu đỏ rộng đến 8 mét từ chân đồi thẳng lên đến tận nhà tam quan trên đỉnh đồi, tổng cộng có 108 bậc. Có một dạo người ta lấy nơi đây làm nhà mẫu giáo. Ngày hai buổi sáng, chiều các bé cùng phụ huynh phải leo bậc thang mệt đứt hơi, sau vì bất tiện mới bỏ. Bên phải mộ Hoàng Cao Khải là mộ Hoàng Trọng Phu, con trai trưởng của Hoàng Cao Khải xây bằng đá xanh, đẹp và uy nghi không kém."


Bài từ Nhans Blog 
( Xem tiếp phần còn lại. dienbatn. )
Xem chi tiết…

CHUYỆN HUYỀN BÍ KIM CỔ SƯU TẦM . BÀI 10.

11/15/2014 |
CHUYỆN HUYỀN BÍ KIM CỔ SƯU TẦM . BÀI 10.

MỘT SỐ TƯ LIỆU VỀ HOÀNG CAO KHẢI.


Hoàng Cao Khải (chữ Hán: 黃高啟; 1850–1933), là nhà văn, nhà sử học và là đại thần thân Pháp dưới triều vua Thành Thái trong lịch sử Việt Nam.
Nguyên danh của ông là Hoàng Văn Khải, tự Đông Minh, hiệu Thái Xuyên, quê ở làng Đông Thái (nay thuộc xã Tùng Ảnh), huyện La Sơn (nay là huyện Đức Thọ), tỉnh Hà Tĩnh. Đỗ cử nhân ân khoa 1868 (cùng khóa thi với anh ông Phan Đình Phùng tên là Phan Đình Thuật, Phan Đình Phùng năm 1876 mới đậu ở Trường Thi, Nghệ An) năm Tự Đức thứ 21 (1868), cùng được bổ làm huấn đạo huyện Thọ Xương, sau làm giáo thụ ở phủ Hoài Đức (Hà Tây). Trước khi Pháp chiếm Bắc Kỳ, ông lần lượt giữ các chức vụ Tri huyện Thọ Xương rồi thăng quyền Án sát Lạng Sơn, quyền Tuần phủ Hưng Yên.
Năm 1884, Pháp chiếm Bắc Kỳ, trong khi các phòng trào chống Pháp nổi dậy thì ông lại hợp tác với Pháp để đàn áp các phong trào nghĩa quân chống Pháp. Tháng 1 năm 1887, quyền Tuần phủ Hưng Yên, Hoàng Cao Khải được vua Đồng Khánh cho thực thụ Tuần phủ, gia hàm Thự lý Tổng đốc, nhưng vẫn lãnh Tuần phủ kiêm Tiễu phủ sứ ba tỉnh Hải Dương, Bắc Ninh, Hưng Yên, đặc biệt tham gia đàn áp khốc liệt cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy.
Năm 1888, ông được thăng làm Tổng đốc Hải Dương, rồi làm Khâm sai Kinh lược Bắc Kỳ, tước Duyên Mậu quận công (1890), đây là biệt lệ vì quan lại triều Nguyễn chỉ được phong quận công khi đã mất, ban cho thực ấp Thái Hà. Năm 1894, theo lệnh của toàn quyền De Lanessan, ông viết thư dụ hàng Phan Đình Phùng, nhưng bị cự tuyệt.
Năm 1897, Nha Kinh lược Bắc Kỳ bị bãi bỏ, Hoàng Cao Khải được điều về Huế lãnh chức Thượng thư Bộ Binh và làm phụ chính đại thần cho vua Thành Thái, hàm Thái tử Thái phó, Văn minh điện Đại học sĩ. Như vậy, Hoàng Cao Khải là viên Kinh lược sứ Bắc Kỳ cuối cùng của triều Nguyễn.
Năm 1904 khi tỉnh Cầu Đơ được đổi tên là Hà đông, ông làm Tổng đốc tỉnh Hà Đông, giúp Thống sứ Bắc Kỳ soạn Nghị định về tổ chức bộ máy quản lý cấp xã ở Bắc Kỳ. Về sau con trai ông là Hoàng Trọng Phu kế nhiệm ông làm Tổng đốc Hà đông đến năm 1937.
Ông về hưu tại Ấp Thái Hà, huyện Hoàn Long, tỉnh Hà đông nay thuộc phường Trung Liệt, quận Đống Đa, Thành phố Hà Nội và mất tại đây.
Ngày 6 tháng 5 năm 1922, Hội Thanh niên Việt Nam (Foyers de la Jeunesse Annamite) được thành lập, Hoàng Cao Khải cùng Thống sứ Bắc Kỳ Monguillot làm đồng Chủ tịch Hội, Chánh mật thám Pháp Marty làm Chủ tịch danh dự.
Hoàng Cao Khải sáng tác cả bằng chữ Hán lẫn chữ Nôm trên nhiều lĩnh vực. Về lịch sử nổi bật có Việt sử yếu, Việt Nam nhân thần giám, Việt sử kinh bằng chữ Hán, sau được chính ông diễn nôm; Nam sử diễn âm bằng chữ Nôm. Các sáng tác của Hoàng Cao Khải thường lấy đề tài lịch sử như: Tây nam đắc bằng (Đi về hướng tây nam gặp được bạn) kể việc Gia Long gặp Bá Đa Lộc nhờ cầu viện nước Pháp, Trung hiếu thần tiên nói về Hưng Đạo Vương và thời Trần, các truyện lịch sử mang tính giáo dục luân lý phong kiến như Gương sử Nam, Làm con phải hiếu, Đàn bà Việt Nam...

Đánh giá của người đương thời .
Hầu hết các sĩ phu đương thời đều coi khinh Hoàng Cao Khải dù Hoàng có tài văn học. Thái độ đó bắt nguồn từ tác phong kẻ sĩ Nho học, vốn bất hợp tác với người Pháp. Hoàng thì ngược lại, cộng tác rất đắc lực với người Pháp. Các con là Hoàng Mạnh Trí, Hoàng Trọng Phu đều làm tổng đốc, Hoàng Gia Mô làm Tri huyện, phục vụ cho người Pháp.
Sĩ phu Hưng Yên có đôi câu đối, chửi khéo Hoàng Cao Khải:
"Ông ra Bắc là may, chức Kinh lược, tước Quận Công, bốn bể không nhà mà nhất nhỉ".
"Ông về Tây cũng tiếc, trong triều đình, ngoài chính phủ một lòng với nước có hai đâu?"
"Bốn bể không nhà" là ý nói mất gốc; "ông về Tây cũng tiếc": chính nghĩa nói là đi về cõi Tây Trúc, Tây Thiên, âu cũng thiệt thòi nhưng thực ra là nói người Tây tiếc vì mất đi tay sai đắc lực. Còn như "một lòng với nước có hai đâu" chính là một mình ông trung với nước, không có người thứ hai nhưng thực là mỉa có hai nước (nước Nam, nước Tây), ông trung với nước nào ? (Dẫn theo Vũ Ngọc Khánh, "Người có vấn đề trong sử nước ta", NXB Văn hóa - Thông tin, 2008)

Đánh giá lại Hoàng Cao Khải.
Giáo sư sử học Chương Thâu (trích bài giới thiệu in kèm Việt sử yếu):

"Thực tế thì ta thấy, so với nhiều quan lại khác đương thời, Hoàng Cao Khải dù bị quy là tay sai đắc lực cỡ chóp bu của thực dân, nhưng người ta chỉ nghi ngờ ông, chứ ông không bị bất bình, không bị vạch tội ác... Còn như nhà chí sĩ yêu nước Phan Châu Trinh khi sống ở Pháp (1920) được tin cựu Toàn quyền A.Sarraut qua thăm Đông Dương, cụ Phan đã viết thư riêng báo cho "Tân ấp tướng công Hoàng Đại nhân" (lúc này đã về hưu sống ở ấp Thái Hà), trong thư có những đoạn biểu thị tình cảm đối với Hoàng Cao Khải như sau: "Năm 1910, khi Trinh ở Nam Kỳ từng được ngài Tham biện tỉnh Mỹ Tho đem cho xem cuốn Việt sử kính (tức cuốn Gương sử Nam) của ngài soạn. Đọc xong dấy lên nhiều điều cảm xúc. Tuy việc lập ý dùng từ gãy gọn nhẹ nhàng, không thể khiến cho người tuổi trẻ tân tiến hoan nghênh hết được, nhưng trong đó với sự nhìn nay nhớ xưa, xét việc đã qua biết điều sắp tới về tiền đồ thành bại mất còn của Tổ quốc của chúng ta, một lời ca thán ba lần thở dài, trước sự chỉ dẫn ra con đường mê lộ của người nước ta, chưa từng không lưu ý đến nhiều lần vậy. Qua đó, Trinh biết là Tướng công tuy cấp lưu dũng thoái (chảy gấp lui mau), vui thú điền viên, mắt thờ ơ nhưng lòng nóng hổi chưa từng có một ngày quên Tổ quốc."

Ấp Hoàng Cao Khải
Ấp Hoàng Cao Khải (còn gọi Ấp Thái Hà hay Lăng Hoàng Cao Khải) là một quần thể các công trình kiến trúc lăng tẩm, dinh thự, được xây dựng bởi Tổng đốc Hoàng Cao Khải dưới triều vua Thành Thái, để an dưỡng lúc về hưu cũng như làm lăng mộ cho gia đình ông.
Lăng Hoàng Cao Khải là công trình kiến trúc bằng đá lớn thứ hai ở Việt Nam (sau thành nhà Hồ), lớn thứ nhất ở Hà Nội và đã được xếp hạng di tích quốc gia từ năm 1962.
Ấp Thái Hà gắn với tên tuổi của chủ nhân là Hoàng Cao Khải, một đại thần dưới triều vua Thành Thái.
Hoàng Cao Khải là người có nhiều ý tưởng canh tân đời sống thôn quê. Tháng 11/1893, những ý tưởng ấy được thể hiện trong việc biến một vùng đất trũng ở phía Tây Nam Hà Nội thành một ấp mang tên Thái Hà (là sự kết hợp địa danh quê hương Đông Thái, Hà Tĩnh, và Hà Nội) tạo ra một mô hình quy hoạch khá mới mẻ tại vùng giáp ranh đô thị.
Chính tại đây, ông đã xây một sinh từ với một quần thể kiến trúc khá độc đáo gồm lăng tẩm và dinh thự.
Khu ấp Hoàng Cao Khải được xây dựng vào năm 1893, gồm 14 công trình kiến trúc lăng mộ, đình chùa... Ở quần thể kiến trúc lăng Hoàng Cao Khải, có thể dễ dàng nhận ra bản sắc kiến trúc triều Nguyễn cuối thế kỷ XIX, thể hiện qua các họa tiết trang trí (lá thông, lá sen), hai hàng lính chầu, đôi rồng đá trên bậc tam cấp với dáng vẻ dữ tợn. Công trình kiến trúc này được đánh giá đạt đến trình độ kỹ thuật cao tay trong nghệ thuật điêu khắc đá của người Việt.
Quần thể ấp bao gồm

Lăng Hoàng Cao Khải
Công trình quan trọng nhất của quần thể là lăng Hoàng Cao Khải, nằm đối diện với lối lên xuống hồ Tẩm Nguyệt, vốn là lăng chính của vợ chồng Hoàng Cao Khải. Toàn bộ lăng được xây theo kiểu chữ Đinh, làm hoàn toàn bằng đá cẩm thạch trắng, rất lớn và hoành tráng. Lăng dài 8m, cao 6m, ở giữa có một cái bàn đá màu trắng rộng .
Đá xây dựng được chở về từ phủ Quốc Oai (Hà Tây). Chế tác đá là các hiệp thợ nổi tiếng quanh vùng núi An Hoạch (huyện Đông Sơn, Thanh Hóa). Các cột, trụ, xà, bảy, cửa võng, diềm, tường, nền đều bằng đá và được chạm trổ trau chuốt.
Mộ của Hoàng Cao Khải ở bên trái, của vợ ông ở bên phải, đều bằng đá cẩm thạch trắng cực đẹp, chạm trổ tinh vi, có khắc những dòng chữ Hán sắc xảo. Phía trước mộ là hai hàng lính chầu bằng đá mỗi bên 4 người bồng gươm, cao gần bằng người thật, tầm 1,3m, đầu đội mũ nhỏ có tua đứng gác.
Khu lăng mộ này bây giờ đã bị biến thành trụ sở tuần tra cụm dân cư số 9 của công an phường Trung Liệt. Phía trước lăng, hai hàng lính chầu hiện chỉ còn lại 3 bức tượng và cả 3 đều mất phần chân do bị tôn nền xi măng trùm lên.

Lăng Hoàng Trọng Phu
Phía bên phải, cách lăng mộ Hoàng Cao Khải mấy chục mét là khu lăng mộ Hoàng Trọng Phu, con trai trưởng của Hoàng Cao Khải, từng giữ chức Tổng đốc tỉnh Hà đông, Võ hiển điện Đại học sĩ, hàm Thái tử Thiếu bảo. Đây cũng là một công trình kiến trúc bằng đá lớn, được xây bằng đá xanh, đẹp và uy nghi không kém.
Lăng Hoàng Trọng Phu cùng với lăng Hoàng Cao Khải đều được xây theo một phong cách nghệ thuật thống nhất, với các cột, trụ, xà, bảy, tường, nền đều bằng đá và được chạm trổ các họa tiết tinh xảo.
Từ năm 1972 đến nay, công trình này đã bị ba hộ dân chiếm dụng. Khu lăng còn một đôi rồng đá khá nguyên vẹn ở nơi trước kia vốn là cửa lăng. Ngày nay cửa đã bị bít lại và khu vực này biến thành nơi để xe và chậu cảnh.

Đồi Nghinh Phong
Phía sau lăng Hoàng Cao Khải có đồi Nghinh Phong (Đón Gió) cao 10m. Trên đỉnh đồi trước kia có Nghinh Phong Quán, một nơi để nghỉ ngơi và ngoạn cảnh. Từ chân đồi lên Nghinh Phong Quán có một lối đi gồm 133 bậc thang .
Ngày nay trên đồi có dăm bảy nhà dân ở, được cơi nới xây dựng rất lộn xộn. Người dân xung quanh thường gọi là nhà trên đồi hay nhà trên gò.
Hồ Tẩm Nguyệt
Đối diện với lăng Hoàng Cao Khải là hồ Tẩm Nguyệt(Dầm Trăng) và những dòng mương uốn lượn. Hồ có hình bán nguyệt rộng vài trăm m2 nên người dân cũng quen gọi là hồ Bán Nguyệt.
Hiện nay, nước hồ đang bị ô nhiễm nghiêm trọng và khu vực xung quanh hồ đã trở thành nơi họp chợ của người dân.
Quyết định xếp hạng di tích ngày 28/4/1962 của Bộ VH-TT đã đánh giá:
"Đây là chứng tích duy nhất của nước ta về một quần thể các công trình lăng tẩm, dinh thự của một phó vương"
Tuy là một di tích có tính đặc thù cao về kiến trúc và được xếp hạng quốc gia từ rất sớm, nhưng hiện nay quần thể di tích này nhận được rất ít sự quan tâm của các cơ quan văn hóa và người dân khu lăng nên đã gần như trở thành một phế tích.

PHẢI CHĂNG CAO BÁ QUÁT LÀ CHA ĐẺ CỦA PHÓ VƯƠNG BẮC KỲ HOÀNG CAO KHẢI?
  THÁI DOÃN HIỂU

Thân sinh của Cao Bá Quát là ông đồ Cao Hữu Chiếu - một danh nho tuy không đỗ đạt gì. Ông hướng con cái vào đường khoa cử với rất nhiều kỳ vọng. Đời Chu có 8 kẻ sĩ : Bá Đạt - Bá Quát, Trọng Đột - Trọng Hốt; Thúc Dạ  - Thúc Hạ, Quý Tuỳ - Quý Đa. Tám  hiền sĩ đời Chu này đều là bốn cặp sinh đôi. Ông chọn hai tên trong tám kẻ sĩ đời Chu đặt tên cho hai đứa con sinh đôi của mình: Cao Bá Đạt, Cao Bá Quát là muốn cho hai con sẽ trở thành những bậc hiền tài giúp nước. Cao Bá Quát đặt tên tự cho mình là Chu thần (quan nhà Chu) cũng ngụ ý đó.
Về nhân vật kiệt xuất này trong bộ Giai thoại Kẻ sĩ việt Nam, NXB Văn hoá Dân tộc, Hà Nội 1997, tôi (TDH) đã viết “Cao Bá Quát (1808-1855) là nhà thơ lớn của dân tộc. Anh hùng thời nhà Nguyễn. Tự Chu Thần, hiệu Cúc Đường và Mẫn Hiên. Quê làng Phú Thị, Gia Lâm, xứ Kinh Bắc (nay thuộc Hà Nội). Xuất thân trong một gia đình nhà nho nghèo, thanh liêm. Họ Cao là một  cự tộc ở làng Phú Thị, nhiều đời khoa bảng.  Anh ruột là Cao Bá Đạt đỗ cử nhân, làm tri huyện Nông Cống, một huyện giàu nhất tỉnh Thanh Hóa. Cao Bá Quát là chú ruột Cao Bá Nhạ, tác giả Trần tình khúc.
Thuở nhỏ, Cao Bá Quát nổi tiêng thần đồng. Năm 1831 (Minh Mệnh thứ 12), ông đỗ á nguyên kỳ thi hương ở Thăng Long, nhưng về sau bộ duyệt lại đánh xuống cuối bảng. Những năm về sau (1832-1835) hai phen ông vào Huế thi hội đều bị đánh hỏng vì lời văn phóng đạt, “ngông” không chịu khuôn phép song tiếng tăm đã lẫy lừng. Từ đó, Cao thường ngao du đó đây, lấy văn chương phúng thích chính trị làm lẽ sống ở đời. Năm Thiệu Trị thứ nhất (1841), theo lời đề cử của quan đầu tỉnh Bắc Ninh, ông được cử vào kinh sung chức hành tẩu bộ lễ. Cao có chân trong Mặc vân Thi xã nổi tiếng của Tùng Thiên công Miên Thẩm và Tuy Lý công Miên Trinh. Đây là thời kỳ Cao Bá Quát và Phương Đình Nguyễn Văn Siêu được nổi danh “Thần Siêu, Thánh Quát”.
Năm 1841, nhân một khoa thi hương – ân khoa của Thiệu Trị, Cao được cử làm sơ khảo kỳ thi Thừa Thiên. Vì mến tài một số sĩ tử, ông lấy muội đèn chữa quyển của thí sinh phạm húy. Việc bại lộ, Cao bị tra tấn, suýt bị tội chết, sau phải đi làm lao dịch theo một đoàn thuyền của hoàng gia đi mua hàng xa xỉ ở Indônêxia. Từ nước ngoài trở về, Cao bị thải về Hà Nội, sống nhờ vợ bên hồ Trúc Bạch. Năm 1847, ông được triệu vào kinh, đến năm Tự Đức thứ ba 1850, ông ra làm giáo thụ ở phủ Quốc Oai (Sơn Tây), gần như bị đuổi khéo về Bắc.
Năm 1853, Cao Bá Quát lấy cớ mẹ già, thôi chức giáo thụ và năm sau 1854 làm quân sư cho Lê Duy Cự dấy nghĩa ở Mỹ Lương (Mỹ Đức, Hoà Bình) chống lại triều đình nhà Nguyễn. Bọn phong kiến gọi là giặc Châu Chấu. Khởi nghĩa thất bại, Cao hy sinh ngay trong trong trận đánh cuối cùng ở huyện Yên Sơn. Tự Đức đã tru di ba họ nhà ông 1855 (1).
Cao Bá Quát sáng tác nhiều, cả Hán lẫn Nôm : Tài tử đa cùng phú, Cao Bá Quát thi tập, Cúc Đường thi thảo, Cao Chu Thần di cảo, Mẫn Hiên thi tập (4 tập). Tất cả có trên 1.000 bài.
Thơ Cao Bá Quát nổi tiếng hay, tài năng thi hào được người đương thời và  đời sau xem như thần thánh che mờ cả thời Tiền Hán và Thịnh Đường. Đức độ của người được muôn đời kính trọng, xót thương.
Thương ai bảy nổi ba chìm
tấm lòng phản kháng vẫn còn sáng soi.
                                                 (Sóng Hồng)”
*
Trên con đường viễn du Phú Thị - kinh đô Huế, Cao Bá Quát thường ghé thăm anh trai Cao Bá Đạt làm tri huyện Nông Cống. Tại huyện đường của ông anh có một viên thư lại là Hoàng Văn Đồng. Ông này có một người vợ tuyệt thế giai nhân, giỏi thi phú. Người đẹp Mỹ Lệ thường xướng họa rất tâm đắc với Bá Quát. Một số bài thơ viết về phong cảnh Thanh Hóa như Vịnh Thanh Hoá Miêu Tử sơn (Vinh núi Con Mèo ở Thanh Hoá), Vọng phu thạch (Hòn Vọng Phu Thanh Hóa)…còn lại trong di cảo của Cao là ra đời trong hoàn cảnh đặc biệt này. Ở đây, đã nẩy nở một thiên tình sử giữa danh sĩ với giai nhân. Mối tình của họ kéo dài 5 năm từ 1848-1853, để lại biết bao huyền thoại. Áng thơ tình diễm tuyệt dưới đây là của nàng Mỹ Lệ gửi người tình Chu Thần Cao Báo Quát:

THẤT THẬP DẠ THỪA NGUYỆT,TẨU BÚT KÝ HỮU NHÂN          
Thiên cao chúng tinh hy
Minh nguyêt tĩnh như thủy
Tứ tức hậu trùng minh
Sắt sắt kim phong khỉ (khởi)
Đường thượng hữu giai nhân
Ỷ lan sầu bất ngữ
Khởi thị dạ hà kỳ
Bộ bộ hành phục chỉ
Bất ưu trường dạ hàn
Đãn tích nguyệt tương mỹ
Thiếp niên thị bát thời
Doanh doanh chính tương tị (tự)
Trưởng đại ái dư nghiên
Thượng tưởng dung nhan mỹ
Noa y hiệt kỳ quang
Bất nhẫn nhàn phao trí
Tài tác hợp hoan thư
Ký tử tâm trung sị (sự)
Dịch nghĩa: 

ĐÊM MƯỜI BẢY DƯỚI ÁNH TRĂNG VIẾT CHẠY BÚT GỬI BẠN
Trời cao, sao lác đác
Trăng sáng trong như nước
Lạnh lùng tiếng sâu mùa kêu
Sàn sạt gió vàng nổi dậy.
Trên nhà có một người đẹp
Ngồi tựa lan can buồn không nói
Bỗng đứng dậy xem đêm đã khuya chưa
Bước một bước lại dừng một bước
Không lo đêm dài lạnh
Chỉ sợ đêm sắp tàn
[Nghĩ lại} khi thiếp tuổi đôi tám
Cũng đầy đặn như trăng
Lớn lên vẫn yêu cái đẹp xưa
Những tưởng giữ mãi được như thế
Kéo áo bọc lấy ánh trăng
Không nỡ dễ dàng bỏ phí
Xén ra thành bức thư hợp hoan
Gửi cho chàng những điều tâm sự.
Dịch thơ:
Trời cao sao lác đác,
Trăng sáng trong như nước,
Sâu mùa kêu tỉ tê,
Gió thu thổi hiu hắt.
Có người đẹp trên lầu,
Tựa lưng buồn nín bặt.
Dậy xem canh mấy rồi,
Dạo quanh lại dừng bước.
Chẳng lo đêm dài lạnh,
Chỉ tiếc trăng hầu khuất.
Thiếp thuở đôi tám xưa,
Vẻ so trăng chẳng khác,
Lớn lên tưởng vẫn còn,
Sắc đắm người như trước.
Túm áo bọc ánh trăng,
Chẳng nỡ hoài bỏ dứt
Xén làm bức thư tình,
Gửi bạn lời tâm phúc!
                 KHƯƠNG HỮU DỤNG
Tình cảm quá đẹp giữa hai người qua bài thơ  đã thật nặng gánh trần duyên. Năm 1850, điều mà Cao Bá Quát mãi mãi không thể ngờ tới là đôi tài tử  có với nhau cậu con trai Hoàng Văn Khải – theo khai sinh họ bố chính thống hiện thời. Sau này, khi cả hai ông bố đẻ và bố nuôi không còn trên thế gian nữa, bà mẹ mới gọi  con trai 18 tuổi lại, tiết lộ bí mật này trước khi cậu đậu cử nhân ân khoa 1868 dưới triều Tự Đức - cùng khoa với Phan Đình Phùng. Cậu Khải rất đỗi kinh ngạc, đành chấp nhận sự thật kinh hoàng, không ngờ mình là một giọt máu của bậc kỳ tài nổi loạn, xin đổi khai sinh lấy chữ Cao ghép vào giữa thành HOÀNG CAO KHẢI !
Hoàng Cao Khải  mới đỗ cử nhân, bổ làm huấn đạo, rồi tri huyện Thọ Xuân (Thanh Hóa). Tuy quan tước ở hàng tam phẩm nhưng theo năng lực vẫn được Nguyễn Hữu Độ dẫn dắt, tiến cử phong lên làm Tổng đốc Lạng Sơn, tổng đốc Hải Dương, tổng đốc Bắc Ninh...  Với thành tích đánh dẹp phong trào Cần vương ở Bắc bộ, và giải giáp cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy, Hoàng Cao Khải  đã được Triều đình nhà Nguyễn tấn phong đến chức Khâm sai Kinh lược sứ Bắc Kỳ (người Pháp gọi là Phó vương - vice), quyền uy nghiêng ngửa thiên hạ. Cuối đời, ông được triệu về Kinh giữ chức Thượng thư bộ Binh. Nhìn chung, Hoàng Cao Khải là nhân vật lịch sử công ít tội nhiều.

(1) Nhưng theo dã sử thì lại khác. Cao không chết mà sống ẩn vào dân gian một thời gian dài. Nhà văn Xuân Cang bảo tôi: “Cao Bá Quát tuổi con rồng, mà lại là rồng đất trốn trong hang thì có trời bắt được”. Điều Xuân Cang nói ứng với lệnh truy nã Cao Bá Quát của triều đình nhà Nguyễn vẫn có hiệu lực vào năm 1858 và mãi về sau.

Có thật Hoàng Cao Khải là con rơi của Cao Bá Quát?
Đọc bài viết của nhà nghiên cứu văn học Thái Doãn Hiểu với nhan đề "Phải chăng Chu Thần Cao Bá Quát là cha đẻ phó vương Bắc Kỳ Hoàng Cao Khải?" được đăng trên trang mạng trannhuong.com, tôi thật sự ngỡ ngàng...
Ngỡ ngàng và cả có thêm phần… vui sướng nữa. Là bởi vì một lẽ đơn giản, rằng một thiên tài trác việt như Chu Thần họ Cao, bị nhà Nguyễn tru di tam tộc, vẫn may mắn còn sót lại giọt máu trên đời là ông Hoàng Cao Khải, Phó vương Bắc Kỳ triều Nguyễn, rất có tài, mà tội ác với dân cũng không phải là ít, nhất là với nghĩa quân của cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy! Tuy nhiên, những kiến giải của nhà nghiên cứu Thái Doãn Hiểu vẫn còn làm tôi chưa tin. Chưa tin, bởi lý do chủ yếu sau đây:
1. Khi làm cuốn "Thi hào Cao Bá Quát, tinh tuyển và bình giải" (Giai phẩm với lời bình tập 4), tôi có dịp tìm hiểu kỹ hơn về thơ Cao Chu Thần, từ đó, lần tìm theo dấu chân Cao mà suy đoán ra một số địa chỉ trong thơ Cao, hiểu thêm về cuộc đời chìm nổi của Cao, dẫu chưa phải là tất cả. Nhà nghiên cứu Thái Doãn Hiểu bảo rằng từ năm 1848 đến năm 1853, Cao qua lại chỗ ông anh là Cao Bá Nhạ làm tri huyện Nông Cống Thanh Hóa, rồi có mối tình trên kia với vợ ông Hoàng Văn Đồng, sinh ra Hoàng Cao Khải. Tôi ngờ rằng không có căn cứ xác thực. Tôi biết các quan nhà Nguyễn, khi đã nhận lệnh vua đi làm việc gì đó, ngay cả khi đi nhậm chức mới, đều phải tức tốc lên đường, đến nơi phải đúng ngày giờ quy định, ai liều lĩnh du di là mất mạng như chơi, tâm trạng đâu mà "sướng" với chả "họa"? Quan dù to đến chức thượng thư, nhưng hễ có tội là cách luôn, hoặc bị giết. Làm đến thượng thư, đại tướng quân, như các ông Nguyễn Công Trứ, Lê Đại Cang…cũng bị cách xuống làm lính khiêng võng, thậm chí tù mọt gông, ai dám liều? Thế nên câu chuyện ông Thái Doãn Hiểu kể trên, với Cao Bá Quát, rất khó có thể xảy ra. Nguyễn Công Trứ khi làm quan Dinh điền sứ ở Thái Bình, Ninh Bình, có điều kiện vật chất đầy đủ, sức khỏe sung mãn, lại có quyền lực, ăn chơi là chuyện dễ hiểu. Nhưng với Cao Bá Quát, hãy đọc thơ của Cao, thấy ông chỉ ốm yếu quanh năm, lao tâm khổ tứ về chuyện tù đày, mất tự do, rồi chuyện gia đình, con chết, đói khát khổ cực vô cùng, làm gì có thì giờ để yêu đương lăng nhăng đâu? Ngay cả khi làm quan ở Huế, lương không đủ uống rượu, ông cũng phải mang chiếc áo đi cầm cố mới có tiền mua rượu, sung sướng cái nỗi gì? Đọc thơ Cao, chỉ thấy ông sướng họa với ông trưởng phái đoàn đi Hạ Châu, khi lênh đênh trên biển, với ông Đông tác tuần phủ và một số bạn bè ở Huế, ở Hà Nội (khi bị đuổi về quê)…chứ chả thấy ông có bài nào sướng họa với bà vợ ông Hoàng Văn Đồng ở Thanh Hóa cả!
2. Trong tình cảm riêng tư, đọc thơ Cao, chỉ thấy ông thương nhớ quê hương và đặc biệt là người vợ tần tảo suốt đời hy sinh vì chồng con, khi ở trong tù, cũng như khi phải đi đày, cả khi đi "lập công chuộc tội" ở nước ngoài…chứ không hề thấy trong thơ ông một mối tình nào khác. Bài thơ "Thập nhất dạ thừa nguyệt, tẩu bút ký hữu nhân" (Đêm mười bảy dưới ánh trăng, phóng bút gửi bạn) là di cảo của Cao Bá Quát, là thơ Cao Bá Quát, khi ông viết ở Huế. Nó nằm trong hệ thống một số bài thơ Cao gửi bạn bè, trong đó có cả ông Tùng Thiện Vương khi ông ấy tặng quà cho Cao lúc Cao ốm nặng. Rất nhiều bài thơ Cao đều "phóng bút" như thế, chứ không chỉ một bài. Sao lại có thể là thơ của vợ ông Hoàng Văn Đồng nào đó, tình nhân của Cao? Chúng tôi đã phân tích kỹ bài này trong cuốn sách viết về Cao nói trên. Vì hoàn cảnh khó ngặt lúc bấy giờ, nên trong thơ Cao thấy ông dùng rất nhiều hình tượng ẩn dụ. Người đẹp trong thơ ở đây, chính là Cao đấy! Khuất Nguyên bên Tàu xưa cũng thế. Với Cao là cả một hệ ý thức thẩm mĩ trong thơ, chứ không phải là ai khác, không phải là cái gì khác. Nhà nghiên cứu Thái Doãn Hiểu liệu có nhầm chăng?
Hà Nội, 13/4/2013
  Vũ Bình Lục

Thư trả lời của Cụ Đốc Tít đối với Tổng đốc Hải an - Hoàng Cao Khải
NGUYỄN QUANG TUYẾN (ST giới  thiệu))
Bức thư 1 ( trích bài dịch từ chữ hán nôm dịch ra chữ quốc ngữ )
Hải- An Tổng đốc Hoàng Cao Khải
Kính gửi: Quan đề đốc Hải Dương – Quảng Yên Mạc Tướng quân soi xét.
Tôi thiết nghĩ việc của Ngài làm tuy là rất chính nghĩa, nhưng chưa đúng với thời cơ. Ngày xưa ông Mạnh Tử nói dẫu có trí tuệ, nhưng kém thế thời thì không thành, dẫu có tư chất thông minh nhưng lỗi thời thì cũng hỏng, vả chăng kẻ tuấn kiệt phải theo thời, người thông đạt phải biết mệnh.
Nay Tiên đế đã ký hòa ước với chính phủ Pháp bảo hộ rồi, triều đình cũng đã lập nên Vua mới, trong nam, ngoài bắc, trên trời dưới biển đều là vương thổ, vương thần cả.
Ngài phụng mạng Vua Hàm Nghi để cứu vãn thời thế, đó là một việc làm lấp biển, vá trời, chí khí thì to, nhưng thành công được cũng là hiếm có. Vả chăng Vua Hàm Nghi cũng đã bị triều đình bãi bỏ, coi như là phế đế. Nhân dân chỉ biết theo mệnh của triều đình, yên ổn làm ăn, không muốn gây việc binh đao nữa. Vậy thì Ngài tuy hết lòng kêu gọi cũng như vịt nghe sấm, nước đổ lá khoai thôi, ai là người hưởng ứng chứ. Chi bằng Ngài lựa theo thời thế, cùng chúng tôi hợp tác, để trị quốc, an dân, đã không trái với lệnh triều đình, mà lại biết lựa theo thời thế, việc làm chỉ bằng một nửa, mà công lại gấp đôi. Vả chăng người Pháp vốn trọng người có tài năng, có nghĩa khí, lại được chúng tôi tiến cử lên, tất nhiên ngài sẽ được trọng dụng lắm, ý Ngài thế nào ? xin cho tôi được biết.
          Kính chúc Ngài mạnh khỏe và rất mong Ngài là bạn đồng liêu với chúng tôi.
Kính thư :
Hoàng Cao Khải

Thư  2: Thư trả lời của Cụ Đốc Tít
  Khởi nghĩa cần vương lĩnh Hải – An Đề đốc Mạc Đăng Tiết ( tên tự của cụ Đốc tít ) 
Kính trả lời quan Tổng đốc họ Hoàng tỉnh Hải Dương – Quảng An các hạ.
Tiết tôi được thư của Ngài cho biết: Phàm là làm việc gì cũng phải dựa theo thời thế và vận mệnh. Đó là ý nghĩ của Ngài, ý nghĩ đó giống như 2 câu thơ của ông Đặng Tất
“Đồ Điếu gặp thời nên nhẹ bước.
          Anh hùng lỡ vận cũng khoanh tay”
Tuy ông Đặng Tất không thành công, nhưng ông cũng dám chống quân Minh đến kỳ cùng, được lưu danh sử sách. Còn ông thì sao? so với ông Đặng Tất thì thế nào? sẽ chờ dư luận và thời gian trả lời. Tôi không cần phải tranh luận nữa. Duy có một điều là ý nghĩ của tôi khác với ý nghĩ của Ngài. Tôi cho rằng đã là anh hùng thì thời thế nào cũng tạo được, đã là tuấn kiệt thì vận mệnh nào cũng làm nên. Ngài bảo công việc của tôi là công việc lấp biển, vá trời thì thành công là hiếm có. Vâng chim sẻ con chuyền từ cành này sang cành nọ, lại dám cười con chim đại bàng hễ cất cánh bay là bay từ trời bắc xuống biển nam, hai tư tưởng đó có khác xa nhau thực. Vả chăng Ngài cũng theo học chữ thánh hiền, theo con đường khoa cử, như Khổng Tử nói: “ Sát thanh thành nhân ”. Mạnh Tử nói: “ Xả sinh thủ nghĩa “ chắc ngài cũng chưa quên, hay Ngài cũng cho những câu nói ấy là hoang đường. Còn tôi thì cho dù phải hy sinh đến tính mệnh, nhưng làm thế nào mà xây nên nhân, nên nghĩa thì tôi cũng làm. Trong lịch sử Đại việt đã 3 lần chiến thắng quân Nguyên, mười năm bình định quân Minh, hay đánh Tống, đuổi Thanh, tôi chỉ biết một lòng phò Vua giúp nước, nguyện hy sinh vì quê hương đất nước, nguyện noi gương các vị tiên liệt, tiền bối đó.
Vả chăng Vua Hàm Nghi tuy đã xuất bôn, đó là một việc xử biến, phải tòng quyền, ra đi để lại về, lui để mà tiến, tôi rất khâm phục lắm thay. Vì tôi cũng không phải là phường giá để treo áo, túi để đựng cơm, mà phải khom lưng qùy gối, để cầu lấy ấm no. Muốn có ấm no thì phải tự mình làm lấy mà ăn.  Tôi tặng Ngài vần thơ:
Nên tôi tay kiếm tay cờ
Thẳng lưng mà bước, ngẩng đầu trượng phu
Còn non, còn nước, còn dài
Còn người chí khí, còn người đồng tâm ”.
Nếu ngài cho ý nghĩ của tôi là phải lẽ, thì ngài sẽ là người đồng tâm, đồng chí với tôi và chúng ta sẽ cùng nhau gặp gỡ chung một tuyến đường.
Kính chúc Ngài khang cường, cũng mong ngài cho biết ý kiến.
Kính thư:
Mạc Đăng Tiết

 Với chí khí khảng khái, phẩm chất anh hùng bất khuất, thà hy sinh của cụ Đốc Tít để chiến đấu vì nước, vì dân. Vì vậy mà Hoàng Cao Khải không thể dụ dỗ được, nên đã nghĩ ra nhiều mưu gian quỷ kế để phá hủy đốt cháy làng xóm, nhà thờ, đình chùa, lăng mộ, tàn sát hàng nghìn bà con, dòng họ Nguyễn gốc Mạc quê tôi và những vùng phụ cận, cùng những người đi theo nghĩa quân, hoặc giúp đỡ cho nghĩa quân chống Pháp.
Sau đây là bức thư thứ 3: 

Tối hậu thư của Hoàng Cao Khải
Kính trả lời dưới ngọn cờ quan Đề đốc họ Mạc.
Nhận được thư ông trả lời, biết ông là người anh hùng, khảng khái, có chí khí, trước sau như một. Nhưng tôi thiết nghĩ ông có thể bảo vệ được toàn quân, nhưng ông không thể bảo vệ được toàn dân? Người trượng phu đã làm việc gì cần cân nhắc về mọi mặt. Về phần tôi chưa thắng được lúc này. Nhưng tôi sẽ dùng cường quyền, bạo lực, trước mắt có thể thi hành một cách mà ông không thể chống đối lại được. Đó là tôi lấy danh nghĩa quan Tổng đốc của địa phương này, sức cho 72 xã, huyện Hiệp Sơn, phủ Kinh Môn, mỗi xã chọn 30 thanh  niên cường tráng đem đủ mai, cuốc, thuổng, dao, gươm đao, giáo mác tới làng Lưu Thượng của ông, cùng với quân đội trang bị khí giới vây chặt, phát quang cả làng, bắt hết họ hàng và những người thân thích nhà ông, nếu ai chống đối thì bắn chết tại chỗ. Còn cửa nhà dân cư thì đốt hết, phá hết cây cối tre, cau thì đào tận gốc, trốc tận rễ, san phẳng thổ cư thành bình điền. Kế hoạch này tuy là tàn bạo, nhưng tôi thì làm bất cứ việc gì để thắng được đối phương thì tôi phải làm, không thể nào khác được. Nếu ông cho lời nói của tôi là phải thì ông mau suy nghĩ hồi tỉnh, ý ông thế nào cho tôi được biết ngay. Tôi sẽ đón tiếp ông ở địa điểm rất long trọng.
Kính thư:
           Hoàng Cao Khải       

 Do cuộc chiến đấu không cân sức, địch cắt đường tiếp tế lương thực và vũ khí đạn, thuốc cứu chữa thương bệnh binh, và đầu độc nguồn nước. Đồng thời địch còn dùng thủ đoạn vô cùng thâm độc hèn hạ đốt phá san phẳng làng mạc, tàn sát con cháu dòng tộc họ Nguyễn gốc Mạc và bà con quanh vùng. Vì vậy cùng với bối cảnh chung của cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy đã thất bại. ( Nhưng đây là một thành tích của tay sai Tổng đốc Hoàng Cao Khải để dâng lên quan thầy Pháp ).

THAM KHẢO THÊM:Đốc Tít
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Đốc Tít, tức Nguyễn Xuân Tiết (1853 - 1916) là một chỉ huy của khởi nghĩa Bãi Sậy do Nguyễn Thiện Thuật lãnh đạo, nguyên gốc họ Mạc, sinh trưởng tại làng yên Lưu Thượng, phủ Kinh Môn, Hải Dương. Tên Tít là do người Pháp phát âm sai từ chữ Tiết mà ra.
Trong phong trào chống Pháp ở Bắc Kỳ, ông được phong Đề đốc Hải Dương dưới sự chỉ huy của Tán Thuật, lập căn cứ kháng Pháp ở vùng đất giữa sông Kinh Thầy và sông Đá Bạc trên đất của 4 huyện Kinh Môn, Đông Triều, Yên Hưng và Thuỷ Nguyên của 3 tỉnh Hải Dương, Quảng Ninh, Hải Phòng.
Cuối năm 1885, quân Pháp do 2 sĩ quan Falcon và Faure chỉ huy đã giao chiến với quân của Đốc Tít, sau đó lại tiếp tục đánh nhau với ông ở Trại Sơn. Năm 1888, quân Pháp tiếp tục tấn công Trại Sơn, 600 quân của Đốc Tít phải rút lui sau 12 ngày cầm cự.
Tháng 7 năm 1889, Khâm sai Hoàng Cao Khải, Tổng đốc Hải Dương phối hợp cùng quân Pháp bao vây Đốc Tít ở căn cứ Trại Sơn, thế cùng lực kiệt, ngày 12 tháng 8 năm 1889. Đốc Tít cùng với toàn quân ra hàng quân Pháp. Rút kinh nghiệm Đội Văn trá hàng lúc trước nên người Pháp cho đày ông đi Algeri và ông qua đời tại đây ngày 21 tháng 12 năm 1916 thọ 63 tuổi.
Hoàng Cao Khải
Kinh lược sứ Bắc Kỳ, Hoàng Cao Khải.
Hoàng Cao Khải (chữ Hán: 黃高啟; 1850–1933), là nhà văn, nhà sử học và là đại thần thân Pháp dưới triều vua Thành Thái trong lịch sử Việt Nam
Nguyên danh của ông là Hoàng Văn Khải, tự Đông Minh, hiệu Thái Xuyên, quê ở làng Đông Thái (nay thuộc xã Tùng Ảnh), huyện La Sơn (nay là huyện Đức Thọ), tỉnh Hà Tĩnh. Đỗ cử nhân ân khoa 1968 (cùng khóa thi với anh ông Phan Đình Phùng tên là Phan Đình Thuật, Phan Đình Phùng năm 1876 mới đậu ở Trường Thi, Nghệ An) năm Tự Đức thứ 21 (1868), cùng được bổ làm huấn đạo huyện Thọ Xương, sau làm giáo thụ ở phủ Hoài Đức (Hà Tây). Trước khi Pháp chiếm Bắc Kỳ, ông lần lượt giữ các chức vụ Tri huyện Thọ Xương rồi thăng quyền Án sát Lạng Sơn, quyền Tuần phủ Hưng Yên.
Năm 1884, Pháp chiếm Bắc Kỳ, trong khi các phòng trào chống Pháp nổi dậy thì ông lại hợp tác với Pháp để đàn áp các phong trào nghĩa quân chống Pháp. Tháng 1 năm 1887, quyền Tuần phủ Hưng Yên, Hoàng Cao Khải được vua Đồng Khánh cho thực thụ Tuần phủ, gia hàm Thự lý Tổng đốc, nhưng vẫn lãnh Tuần phủ kiêm Tiễu phủ sứ ba tỉnh Hải Dương, Bắc Ninh, Hưng Yên, đặc biệt tham gia đàn áp cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy.
Năm 1888, ông được thăng làm Tổng đốc Hải Dương, rồi làm Khâm sai Kinh lược Bắc Kỳ, tước Duyên Mậu quận công (1890), đây là biệt lệ vì quan lại triều Nguyễn chỉ được phong quận công khi đã mất. Năm 1894, theo lệnh của toàn quyền De Lanessan, ông viết thư dụ hàng Phan Đình Phùng, nhưng bị cự tuyệt.
Năm 1897, Nha Kinh lược Bắc Kỳ bị bãi bỏ, Hoàng Cao Khải được điều về Huế lãnh chức thượng thư Bộ Binh và làm phụ chính đại thần cho vua Thành Thái, Thái tử Thái phó, Văn minh điện Đại học sĩ. Như vậy, Hoàng Cao Khải là viên Kinh lược sứ Bắc Kỳ cuối cùng của triều Nguyễn.
Sau đó, ông làm Tổng đốc tỉnh Hà Đông, giúp Thống sứ Bắc Kỳ soạn Nghị định về tổ chức bộ máy quản lý cấp xã ở Bắc Kỳ.
Ngày 6 tháng 5 năm 1922, Hội Thanh niên Việt Nam (Foyers de la Jeunesse Annamite) được thành lập, Hoàng Cao Khải cùng Thống sứ Bắc Kỳ Monguillot làm đồng Chủ tịch Hội, chánh mật thám Pháp Marty làm Chủ tịch danh dự.
Ông về hưu tại ấp Thái Hà, Hà Nội. Mộ của Hoàng Cao Khải nằm ở khu vực ấp Thái Hà cũ, nay thuộc phường Trung Liệt, quận Đống Đa, Hà Nội. Di tích này ít được chăm sóc, đến nay khá là hoang phế. Khu ấp có tính đặc thù cao về kiến trúc, được xây dựng năm 1893.
Lăng Hoàng Cao Khải (giờ là trụ sở tổ tuần tra phường!)

Nằm rải rác ở khu vực phía Tây gò Đống Đa, gồm nhiều công trình kiến trúc tinh xảo được đánh giá là đạt đến trình độ kỹ thuật cao tay trong nghệ thuật điêu khắc đá của người Việt.
( Còn phần tiếp theo - dienbatn )

Xem chi tiết…

CHUYỆN HUYỀN BÍ KIM CỔ SƯU TẦM . BÀI 9.

11/14/2014 |
CHUYỆN HUYỀN BÍ KIM CỔ SƯU TẦM . BÀI 9.

BA MIỀN QUÊ CỦA CÁC NHÂN TÀI ĐẤT VIỆT.


Xin bắt đầu từ tỉnh Hà Đông với trung tâm là huyện Thanh Trì ( Về mặt Phong thuỷ). Hà đông là tỉnh ở bắc bộ do Pháp lập ra năm 1888. Tỉnh lị ở làng Cầu Đơ, nên tỉnh lúc này gọi là tỉnh cầu Cầu Đơ, năm 1904 mới đổi tên là tỉnh Hà Đông. Vị trí của tỉnh Hà Đông nằm ở phía tây sông Nhị Hà ( đáng lẽ ra, theo lý do đó, tỉnh này phải gọi là Hà Tây mới đúng, nhưng có lẽ những người đặt tên tỉnh lấy lý do là tỉnh này là đất văn vật như đất Hà Đông bên Trung Quốc). Tỉnh Hà Đông gồm một thị xã, tỉnh lị ở trên dòng sông Nhuệ và chín huyện : Chương Mỹ, Đan Phượng, Từ Liêm, Hoài Đức( nay là Mỹ Đức), Phú Xuyên , Thanh Trì, Thường Tín, Ứng Hoà, sau năm 1963 hợp nhất với tỉnh Sơn Tây thành tỉnh Hà Tây, tỉnh lị vẫn ở Hà Đông . Năm 1977, bị cắt các huyện Hoài Đức, Đan Phượng, Thạch Thất, Phúc Thọ ,Ba Vì và một phần huyện Chương Mỹ Về Hà Nội, sau lại trở về tỉnh Hà Tây. Tỉnh Hà Đông hồi pháp thuộc có nhiều nghề thủ công phát đạt, quê hương của rất nhiều các nhân vật nổi tiếng xưa nay :
Chu Văn An,Hoàng Tăng Bí,Bùi Huy Bích, Bùi Bị, Lương Văn Can, Đặng trần Côn, Nguyễn quí Cảnh, Lê ngô cát, Nguyễn Công Cơ,Dương bá Cung , Ngô Đình Chất, Phạm Giao, Ngô Thời Du, Nguyễn Danh Dự, Lê Đại, Từ Đạm, Nguyễn Như Đỗ, Nguyễn Quí Đức, Đỗ Thế Gia ,Vũ Phạm Hàm , Nguyễn Thượng Hiền, Nguyễn Trọng Hợp, Đặng Huấn,Nguyễn kiều, Nguyễn Bá Kỳ, Nguyễn Phi Khanh, Dương Khuê, Dương Lâm, Ngô sĩ Liên, Nguyễn hữu liêu , Đặng Đình Long, Đoàn Trần Nghiệp, Ngô Thời Nhậm, Nhàn Khanh, Đào Quang Nhiêu, Lý Ông Trọng, Phan Lê Phiên, Lý Trần Quán, Lương Ngọc Quyến, Nguyễn Quyện, Phạm Quỳnh, Hà Tống Quyền, Nguyễn Siêu, Ngô Thời Sĩ, Lý tử tấn , Phan Phù Tiên, Phạm Tu, Đặc Đình Tướng, Nguyễn Công Thái , Trình Thanh, Tô Hiến Thành, Nguyễn hải thần , Nguyễn Danh Thế, Nguyễn Thuyến, Nguyễn viết Thứ, Đặng Trần Thường, Bùi Xương Trạch ,Nguyễn Trãi, Vũ Công Trấn, Nguyễn quốc Trinh, Nguyễn Thời Trung, Nguyễn Trực, Lưu nguyên Ân,Bùi bỉnh Uyên, Bùi Vịnh... Hiện nay còn có rất nhiều các nhân vật đang tại chức mà người viết không muốn nêu tên tại đây.
Nói về huyện Thanh Trì : huyện thuộc phủ Thường Tín, Tỉnh Hà Nội (1831) sau thuộc Hà Đông (1888) nay nhập vào Hà Nội. Trước là châu Thượng Phúc về đời Lý sau là huyện Long Đàm. Đời Lê vì kị huý tên vua Lê Thế Tông đổi là huyện Thanh Trì. Huyện bắc giáp quận Hai bà Trưng và huyện Từ Liêm. Đông giáp sông Hồng ngăn cách với huyện Gia Lâm và văn Giang. Nam giáp Thường Tín. Tây giáp Hoài Đức. Huyện có nhiều đầm tự nhiên : Linh Đường, Thánh Liệt(đầm Sét), Vạn Xuân, đầm Mực...Từ thời Lê về trước có 60 người thi đỗ đại khoa. Đình ngoài Thanh Liệt thờ Phạm Tu, đình trong thờ Chu Văn An, đình Đông Phù Và Việt Yên thờ sứ quân Nguyễn Siêu, đình Tả Thanh Oai thờ Lê Đại Hành, đình Quí Đô thờ Tô Hiến Thành, đình Triều Khúc thờ Phùng Hưng. Quê của Lê Đình Diên, Bùi Huy Bích, Chu văn An , Bạch Thái Bưởi, Đặng Trần Côn, Đồ Lệnh danh, Phạm Quỳnh, Phạm Dao, Nguyễn Phương Đỉnh, Nguyễn Như Đổ, Nguyễn trọng Hợp, Nguyễn Hải Thần, Trần Hoà, Lê Bá ly, Nguyễn Nghi, Hoàng thị Ngọc san, Lê San, Nguyễn Văn Siêu, Nguyễn Công Thái, Nguyễn Công Thể, Đỗ Lệnh thiên lưu Tiệp, Bùi xương Trạch, Nguyễn Quốc Trinh, Bùi Trụ, Nguyễn Đình trụ,Phạm Tu, Nguyễn Huy Túc, Lưu nguyên Uân, Cung Đình Vận, Nguyễn Viêm, Viễn Chiếu Thiền Sư, Đàm xuân Vực ... đất này thực chất đã sinh ra Vua...
Tại sao miền quê này có nhiều nhân tài đến vậy? xin thưa đó là phong thuỷ hợp cách.
Trước khi tiến hành phân tích về phong thuỷ chúng ta sẽ tiếp tục du ngoạn tới vùng đất thứ hai đó là Bắc Ninh với trung tâm là huyện Đông Ngàn.
Bắc Ninh tỉnh ở phía đông bắc thành Hà Nội, đời Lê là trấn Kinh Bắc, năm Minh Mạng thứ ba (1822) đổi là trấn Bắc Ninh, năm 1831 đổi là tỉnh Bắc Ninh. Năm 1895, Pháp chia tỉnh Bắc Ninh thành hai tỉnh Bắc Ninh và Lục Nam (sau năm 1963 đổi là tỉnh Bức Giang), sau hợp nhất thành tỉnh Hà Bắc nay lại tách ra như cũ. Tỉnh Bắc Ninh hồi Minh Mạng gồm phủ từ sơn (huyện Đông Ngàn do phủ kiêm lý), huyện Tiên Du, huyện Võ Giàng, Quế Dương, Yên Phong, phủ Thuận An, sau đổi là Thuận Thành ( gồm huyện Gia Lâm , Văn Giang, Gia Bình, Lạng Tài), Phủ Thiên Phúc, Phủ Lạng Giang. Tỉnh bắc Ninh phía tây có sông Hồng ngăn cách với Hà Nội, khoảng giữa có sông Cầu chảy đến Phả Lại, thì gặp sông Đuống với sông Thương. Vùng Lạng Giang thì núi non hiểm trở, còn vùng Bắc Ninh thì ruộng đồng bằng phẳng , xanh tốt, thỉnh thoảng có những đồi núi thấp có tên tuổi gắn với lịch sử như : núi Sóc Sơn, núi Tiên Du, núi Vũ Ninh, núi Thiên thai. Bắc Ninh có tiếng là đất văn vật nhất của cả nước, có Lê văn Thịnh đỗ trạng nguyên đầu tiên về đời Lý, Nguyễn Quan Quang trạng nguyên đầu tiên về đời Trần, số trạng nguyên và tiến sĩ nhiều nhất so với các tỉnh khác, là quê hương của : Hoàng Hoa thám, Đốc Quế, Đốc Sung, Đốc Mỹ, Lãnh Điềm, Hai Tước, Đốc Tác, Quản Kỳ, Đội Văn, Lãnh Giới, Lãnh Giám , Lãnh Thiết, Cai Bình, Cai Biên, Đề hoàng, Đề Năm , Đề Kiều, Nguyễn Án, Trần danh Án, Nguyễn Quang Bật, Nguyễn Nhân Bị, Nguyễn Cao, Nguyễn Đăng Cảo, Phạm Huy Cơ, Nguyễn Văn Cừ, Đào Cử, Nguyễn tự Cường, Đặng Công Chất, Trần Quang Châu, Phó Đức chính, Lê duy Đản, Nguyễn Cư Đạo, Nguyễn Tư Giản, Trương hát, Trương Tống, Đặng thị Huệ, Đàm Thuận Huy, Sư Huyền Quang, Phạm Khiêm Ích, Nguyễn Thị Kim, Nguyễn Bá Kỳ, Hoàng Sĩ Khải, Trần Danh Lâm, Đoàn văn Lễ, Ngô Luân, Lê tuấn Mậu, Cao bá Nhạ, Lê Quýnh, Nguyễn Quyền, Hoàng Công Phu, Nguyễn quan Quang, Cao Bá Quát, Nguyễn Đăng Sở, Nguyễn Mậu Tài, Dương Trọng Tế, Ngô Thầm, Nguyễn Miễn Thiệu, Nguyễn Thiên Tích, Nguyễn Thủ Tiệp, Hứa tam Tĩnh, Ngô sách Tuấn, Nguyễn Thiên Túng, Nguyễn nghiên Tư, Nguyễn Gia Thiều, Ngô miễn Thiệu, Nguyễn Nhân Thiếp, Lê văn Thịnh, Nguyễn Thực, Phạm Văn Tráng, Lý Công Uẩn, Sư Vạn Hạnh …
Đông Ngàn huyện thuộc Phủ Từ Sơn, trấn Kinh Bắc về đời Lê, có 13 tổng, địa thế rộng, trước là châu Cổ Lãm, Lê Đại Hành đổi là châu Cổ Pháp, nhà Lý đổi là phủ Thiên Đức, tên Đông Ngàn xuất hiện từ thời Trần, đời Minh là huyện Đông Ngàn phủ Bắc Giang, Lê Thánh Tông đổi thành phủ Từ Sơn… Đây là huyện có truyền thống văn hoá lâu đời ( 130 người đỗ đại khoa đến hết triều Lê và 174 người hết triều Nguyễn). Quê hương của rất nhiều nhân sĩ như Nguyễn Án, Nguyễn Tự Cường, Đặng công Chất, Nguyễn Chính, Nguyễn Tư Giản, Quách Giai, Nguyễn Công Hãng, Nguyễn Đình Huấn, Nguyễn văn Huy, Trần Lâu, Nguyễn Hữu Nghiêm, Nguyễn Giáo Phương, Nguyễn Quan Quang, Phạm Thái, Nguyễn Giản Thanh, Ngô miễn Thiệu, Nguyễn Thực, Ngô Thế Tri, Ngô Gia Tự, Lý Công Uẩn, Vạn thế Thiền Sư…đây cũng là đất phát chín đời vua lý đặt dấu ấn cho thời kỳ hưng vượng của đất Việt
Miền quê thứ ba xin đề cập ở đây chính là tỉnh Hải Dương mà trung tâm là huyện Thanh Lâm phủ Nam Sách.
Hải Dương là tỉnh ở bắc bộ, xưa giáp sông Hồng , ở về phía đông của kinh thành, nên còn gọi là tỉnh Đông. Về đời Lê là một trong tứ nội Trấn (Sơn Tây,Sơn Nam, Kinh Bắc,Hải Dương). Năm 1466 gọi là thừa tuyên Nam Sách, năm 1469 đổi là thừa tuyên Hải Dương, Vua tương Dực đổi là trấn Hải Dương. Đời Mạc trích các phủ Thuận An thuộc Trấn Kinh Bắc, Phủ Khoái Châu, Tân Hưng, Kiến Xương, Thái Bình thuộc trấn Sơn Nam cho thuộc về trấn Hải Dương vì là quê hương của nhà Mạc. Sau nhà Lê xoá bỏ những việc làm của nhà Mạc, trấn Hải Dương trở về địa giới cũ. Năm 1831 đặt là tỉnh Hải Dương gồm phủ Thượng Hồng sau đổi là Phủ Bình Giang, phủ Hạ Hồng sau đổi là phủ Ninh Giang, Phủ Nam Sách ( huyện Thanh Lâm do phủ kiên lí), phủ Kinh Môn. Năm 1968 sát nhập tỉnh Hải Dương và Hưng Yên thành tỉnh Hải Hưng, nay lại tách ra như cũ. Tỉnh Hải Dương, trừ huyện Đông Triều có dẫy Yên Tử cao từ 837m đến 1068m và huyện Chí Linh có núi Phả lại, núi Côn Sơn không cao mấy còn ra toàn đồng bằng được tưới tiêu bằng các sông Thái Bình chảy qua giữa tỉnh và các chi lưu Sông Kinh Thầy, Sông Kinh Môn, Sông Luộc làm biên giới với tỉnh Thái Bình. Tỉnh Hải Dương là tỉnh giầu có về sản xuất lương thực và nghề thủ công, lại là tỉnh văn vật có nhiều người thi đỗ đại khoa về đời Lê và dời Nguyễn. Quê hương của nhiều nhânvật lịch sử : Phạm Ban, Lại kim Bảng, Nguyễn thái Bạt, Mạc Thị Bưởi, Vũ Cán, Nguyễn Hữu Cầu, Lý Tử Cán, Nguyễn Cừ, Trần Quốc Trân, Mạc Đĩnh Chi, Trần Khắc Chung, Lê thiếu Đĩnh, Khúc Thừa Dụ, Nguyễn Thị Duệ, Mạc Đăng Dung, Trần Khánh Dư, Nguyễn Dữ, Trần Nguyên Đán, Vũ Phương Đề, Vũ Duy Đoán, Phạm Đồn, Phạm tiến Đức, Đoàn Nhữ Hải, Đinh nhã Hành, Phạm Hạp, Ngô Hoán, Phạm Đình Hổ, Lương Nhữ Hộc, Nguyễn Huân, Lê Huân, Phạm chí Hương ,Vũ Hữu, Trần Thời Kiến, Yết Kiêu, Bùi Bá Kỳ, Trần Quốc lặc, Phạm Cự Lượng, Nguyễn mại, Phạm Tông Mại, Phạm sư Mệnh, Vù Văn Mật, Lê Nại, Đinh Tích Nhưỡng, Nguyễn Thế Nghĩa, Vũ Trác Oánh, Pháp Loa, Trần Phong, Đinh Văn Phục, Đỗ Quang, Phạm quỳnh, Võ quỳnh, Đinh văn Tả, Nguyễn Quý Tân, Vũ Huy Tấn, Mạc Hiển Tích, Đốc Tít, Nhữ Đình Toản, Vũ Như Tô, Lê cảnh Tuân, Tuệ Tĩnh, Nguyễn Tiển, Thái Thuận, Trần Đình Thám, Đinh văn Thảm, Phạm Quý Thích, Đoàn Thượng, Phạm Đình Trạc, Phạm Đình Trọng, Pham Công Trứ, Vũ văn Uyên... Đất này cũng đã phát bá nghiệp cho nhà Mạc, hiện nay có rất nhiều các nhân vật chủ chốt đang tại chức cũng sinh ra tại đây.
Nam Sách tên phủ lộ về đời Trần , đời Lê và đời Nguyễn, gồm các huyện Thanh lâm, Chí Linh, Thanh Hà. Phủ Nam sách có sông bao quanh ( sông Lục Nam, Lục Đầu, Thái Bình, Kinh Thầy). Phủ nổi tiếng về văn học. Từ đời Lê về trước, có 165 người đỗ đại khoa, nhiều nhất các phủ trong toàn quốc, riêng huyện Thanh Lâm có 93 người là huyện đỗ đật cao nhì nước sau huyện Đông Ngàn 130 người.
Trên đây là ba miền quê, xin các bạn phân tích vì chúng có những đặc điểm phong thuỷ rất đặc trưng không vùng nào giống vùng nào . Từ xưa đến nay các phong thuỷ sư thực thụ đều phải bắt đầu từ đại cục - nhìn đại cục mà đoán định sự suy thịnh của một nước trong quá khứ cũng như hiện tại và tương lai, nó gắn liền với sự hưng vong của đại đô, tiếp đó mới xét tới trung cục để định rõ sự thịnh vượng hay suy tàn của đại quận, châu phủ - biết mà dùng vào việc bổ trợ nguyên khí cho đế đô, cuối cùng mới xét đến tiểu cục – nhìn nó mà thấu hiểu vận mệnh của làng xóm, gia tộc và cá nhân con người, nói thì tác bạch như vậy nhưng luận thì chúng là một thực thể thống nhất. Cũng chính vì lý do như vậy mà khi luận long kết huyệt ta phải phân ra "tam tụ". "Đại tụ" là nơi có thể làm đại đô của một nước. "Trung tụ thích hợp cho đại quận châu phủ là các thành phố vệ tinh tiếp sức cho đại đô. "Tiểu tụ" dĩ nhiên là cho tạo làng đặt xóm hay dương cơ và âm phần.


Nhìn tổng thể hình sông thế núi của Đất Việt Ngàn Năm cả đồng bằng sông Hồng là đại cục mà nguyên khí đại tụ tại Thăng Long xứng đáng là đại đô nhiều đời ( tuy vậy cần có nhiều cải tạo mới phát huy hết sức mạnh vốn có của nó), vận mệnh của quốc gia phần nhiều được quyết định bởi phong thuỷ của đại cục này. Xét tới ba tỉnh Hà Đông, Bắc Ninh và Hải Dương là trung cục mà nguyên khí "trung tụ" tại ba huyện Thanh trì, Đông ngàn và Thanh Lâm, ba nơi này tạo thành thế chân vạc tiền, tả, hữu hỗ trợ nguyên khí cho Thăng Long (Tất nhiên còn nhiều trung cục khác hỗ trợ). Để thấy được sự độc đáo của mỗi vùng chúng ta sẽ lần lượt tiến hành phân tích hình sông thế núi của ba khu vực này :
Tỉnh Hà Đông với trung tâm là huyện Thanh Trì toạ lạc trên một miền đất đồng bằng lưng dựa núi mặt hướng thuỷ là nơi long đình khí chỉ của một một long mạch tới từ Trung Quốc. Long mạch - Chi trung kết cán- cỡ trung bình chạy theo hướng tây bắc đông nam ( kẹp bởi hai đại giang là Đà giang và Mã Giang) bắt nguồn từ sơn nguyên Tây Tạng chạy qua Vân Nam Trung Quốc hướng về phía nam qua Lào vào Việt Nam tại tỉnh Điện Biên, Lai châu với các dãy núi cao trên 2000m . Khi tiến vào Việt Nam long bắt đầu thoát xác từ già hoá trẻ- dấu hiệu của sinh khí tăng dần, đến khu vực hồ Hoà Bình Trung cán long này thúc yết rồi phân ra làm ba nhánh
Tả chi tạo thành tay long quay ngược lên phía bắc đi theo Đà giang tạo thành dãy Ba vì hùng vĩ với ba ngọn núi là núi Ông, núi Bà (1120m) và núi Chẹ ( Tản Viên 1287m), ngọn giữa Tản Viên có hình thắt cổ bồng, trên toả ra như cái tán ( long mạch đại quí cách).
Hữu chi tạo thành tay hổ tiếp tục di chuyển về phía đông nam rồi tách ra làm 3 chi nhỏ phân cách bởi hai con sông là sông Bồi và sông Bưởi. Chi ngoài cùng còn rất hùng hậu đột khởi nên dãy núi Phu Nha Phong cao 1587 m kẹp bởi hai con sông là sông Mã và sông Bưởi. Chi giữa long đi trường viễn tạo thành dày Tam Điệp chạy ra sát biển, kẹp bởi hai con song Bưởi và Bồi. Chi trong cùng chạy về khu vực chùa Hương nổi tiếng và kết thúc tai nơi giao hội của hai con song Bồi và Đáy.
Trung chi huyền vũ khí mạch trung tụ chạy về phía đông bắc "băng hồng" qua song đáy thoát hết sát khí hướng về Thăng Long Hà Nội và kết thúc tại huỵên Thanh Trì. Tại nơi kết thúc này hàng loạt các gò đống đột khởi như một hệ thống mà phía trước là một loạt các đầm nước tự nhiên trong và sâu nổi tiếng ( Phía giáp Thanh Trì với sông Hồng là rốn nước của thành phố) tạo thành một trong năm các thức kết huỵêt gọi là "Cứ thuỷ cục". Tới đây chắc các bạn đã rõ vì sao nơi này chiếm tới 70% nhân tài của một vùng rộng lớn rồi.
Tỉnh Bắc Ninh tương tự như tỉnh lị Hà Đông toạ lạc trên một miền đất đồng bằng bằng phẳng có triều cao từ 20 đến 50 m so với mặt nước biển , lưng dựa núi mặt nhìn núi xa xa về phía đông là Lục Đầu giang ( cách cục đặc biệt). Tỉnh là nơi kết thúc của một long mạch đại cán phát nguyên từ Tây Tạng rẽ nhánh về phía đông ( Tay long của đại cục Thăng Long) đi qua Trung Quốc, một chi long của đại cán long này rẽ nhánh xuống phía nam tạo thành cánh cung Ngân Sơn cao trên 1800 m chạy xuống miền bắc của nước Việt qua Cao Bằng, Bắc Cạn chi long này trẻ hoá. Trên đường đi của cánh cung Ngân Sơn một chi long nhỏ tiếp tục tách ra chạy theo hướng tây nam tạo ra núi Phia Booc cao 1578 m đi qua Tuyên Quang ( kẹp giữa hai song Thao và Cầu) chuyển hướng đông nam đột khởi lên dãy Tam Đảo có 3 đỉnh nhô lên liền nhau gần Thác Bạc, như ba hòn đảo : Phù Nghĩa, Thạch Bàn và Thiên Thị cao tương ứng 1250m, 1420m, 1591m . Dãy Tam Đảo tiếp tục di chuyển theo hướng đông nam khởi núi Sóc Sơn trung tụ tai huyện Đông Ngàn, dư khí còn tiếp tục di chuyển đột khởi một loạt các dãy núi chay theo hướng bắc nam là Tiên Du, Vũ Ninh và Thiên Thai ngăn lấp lấy minh đường trước mặt. Thế của long gia thì thật là kém xa so với Hà Đông tuy vậy nó lại quí ở chỗ có nhiều các chi long khác chầu về như cánh cung Sông Gâm, cánh cung Bắc Sơn, dẫy Cai Kinh, dẫy Mẫu Sơn và cánh cung Đông Triều, nên cuối cùng thì sinh khí chầu tụ xem ra lại nhỉnh hơn so với thế đất của tỉnh Hà Đông.

Xét riêng huyện Đông Ngàn là một vùng đồng bằng phì nhiêu lưng dựa vào dãy Tam Đảo có hình "thương khố", phía trước hướng về Lục Đầu giang lại bị ngăn lấp bởi ba dãy núi Tiên Sơn, Vũ Ninh và Thiên Thai chính là đại quí cách kết huyệt mà không cần có nước trong phong thuỷ gọi là "Can pha cục". Người viết xin trích một đoạn trong sách cổ " Phía trước địa huỵêt không có thuỷ lưu, không tìm thấy thuỷ, núi non hai bên tiền, tả, hữu chắn ngang ngăn lấp minh đường là đại quí địa nếu hành long có hình thương khố". Đến đây thì chắc ai cũng hiểu tại sao Đông Ngàn lại là huyện có nhiều người đõ đạt cao đến như vậy, thêm nữa vì hành long có hình "thương khố' nên đây cũng là huyện giầu nhất miền bắc nếu không muốn nói là cả nước có nhiều nhân vật sinh ra tại đây có tài sản lên tới hàng ngàn tỷ đồng Việt Nam. Người viết đã có dịp ghé thăm Đền Đô thời tám vị vua nhà Lý ( vua thứ chín được thờ tại nơi khác) được nghe câu truyện dòng họ Lý được ngôi đất cửu long tranh châu ( một cụ già còn thuật lại xưa kia khi cụ còn bé khi trời mua to quả là có nhiều dòng nước chầu về một khu đất) mà phát ra chín đời vua Lý lưu danh sử sách , ngẫm thì cũng không sai vì trung cục đại quí cách còn thiếu thuỷ của tiểu cục quí cách nữa thôi là đủ cho đế nghiệp.
Tỉnh Hải Dương toạ lạc trên vùng đất trung tâm đồng bằng bắc bộ xung quanh được bao bọc bởi các con sông chính : S. Thái Bình, Kinh Thầy ở phía đông, S. Lục Nam, Đuống ở phía bắc, S. Hồng ở phía tây và S. Luộc ở phía đông, ngoài ra trong địa phận tỉnh còn có các sông như : S. Rang, S. Kinh Môn, S. Sặt, S. Hương, S. Đá Vách, S. Cẩm Giàng, S. Cửa An, S. Tứ Kỳ, S. Mía… chảy qua mà sông nào cũng uốn lượn hữu tình. Tỉnh có hai trung tụ là Nam Sách và Bình Giang ( sẽ đề cập sau) cách thức kết của hai trung tụ này đều lấy thuỷ là trọng
Xét về sơn, địa mạch của Hải Dương là sự chầu tụ và giao thoa của của 4 địa mạch lớn từ phía tây bắc, bắc, đông và đông bắc đổ dồn về phía Lục Đầu Giang
Xét về thuỷ, Lục Đầu Giang là cách cục thuỷ vô cùng đặc biệt mang lại vượng khí lớn cho cả vùng đất. Ta sẽ đi sâu một chút để phân tích đặc điểm này qua quái tượng
1. Lục đầu mang tượng âm vì lục tượng quái là âm, tụ tại miền bắc là nơi âm sinh đến cực điểm kết hợp với Cửu Long Giang ( Cửu Vĩ Long Giang) mang tượng dương vì cửu là dương, tản ra ở miền nam nơi dương sinh đến cực điểm tạo thành thế cửu lục xung hoà âm dương hợp khắc của nước Việt ( tượng này nói lên rất nhiều điều …)
2. Âm lục, dương cửu, đầu dương , đuôi âm nên thấy rõ nguyên lý của vũ trụ trong âm có dương , trong dương có âm.
3. Lục Đầu Giang nếu nhìn qua thì thực chất chỉ có 4 dòng thuỷ lai chầu về là : S. Cầu, S. Thương, S. Lục Nam và S. Đuống ( S. Thiên Đức) còn hai sông là S. Thái Bình và S. Kinh Thầy là hai dòng thuỷ khứ. Như vậy sao gọi là Lục Đầu được ? Tuy vậy trong lịch sử có hai lần triều cường qua cửa Thái Bình và Bạch Đằng làm đổi dòng của hai con sông này tạo ra những cuộn xoáy lớn tại Lục Đầu ( do 6 dòng nước đổ về) Lục Đầu trở về đúng nghĩa của nó là địa tượng sau đó xuất hiện nhân tài xuất chúng là hai vị anh hùng dân tộc gắn liền với hệ thống này là Ngô Quyền và Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn
Huyện Nam Sách là trung tụ thứ nhất của Hải Dương được bao bọc bởi hai con sông Thái Bình và Kinh Thầy, đây là cách thức kết mà phong thuỷ gọi là hoành thuỷ cục ( thuỷ thành uốn lượn bao bọc). Phần lớn vượng khí của Lục Đầu dồn tụ về khu vược này tạo ra hàng nghìn gò đống lớn nhỏ đột khởi như một hệ thống mà Thanh Lâm là trung tâm, điều này giải thích tại sao huyện Nam Sách thị trấn Thanh Lâm từ xưa đến nay nhân tài sinh ra mãi không hết.


Nguồn ThieuLam (vuiveclub.net)


Xem chi tiết…

THỐNG KÊ TRUY CẬP

LỊCH ÂM DƯƠNG

NHẮN TIN NHANH

Tên

Email *

Thông báo *