MỘT SỐ KINH NGHIỆM KHI CẢI TÁNG MỘ PHẦN CỦA DIENBATN. BÀI 3.

12/29/2014 |
MỘT SỐ KINH NGHIỆM KHI CẢI TÁNG MỘ PHẦN CỦA DIENBATN.

8/ MỘT VÀI ĐIỀU VỀ HÌNH DẠNG MỘ CẢI TÁNG.


Mộ sau khi cải táng có nhiều kiểu , nhưng nhìn chung cha ông chúng ta có câu truyền lại rằng " : Chết mộ dài - Cải táng một tròn " ( Tức là khi hung táng thì đắp mộ dài theo thân - Khi Cải táng thì đắp mộ hình tròn ) . Nghiên cứu kỹ lưỡng vấn đề này và soi rọi bằng những kiến thức Địa lý mà cha ông chúng ta truyền lại , dienbatn thấy cha ông chúng ta thật là chí lý. 
Một số dạng mộ không dùng Bát Quái.





Sau khi cải táng, người ta tùy theo điều kiện kinh tế gia đình mà thực hiện phần mộ phía trên . Từ Bắc vào Nam nước ta , có nhiều kiểu mộ : Hình chư nhật, hình tròn, hình trứng ngỗng , hình mai rùa, hình lá sen, hình gáy ngựa ( cổ ngựa ) - Còn gọi là Mã Lạp , Mộ nấp liếp, mộ Trúc cách, Long đình ( giống như một chiếc kiệu ) - Thường dùng cho các bậc quyền quý, Lăng, Tẩm ( thường dùng cho những bậc Đế Vương ).
Theo Huyền Không phi tinh : Thông thường, nếu đặt mộ dài hình chữ nhật, thì nếu huyệt mộ có được vận cũng chỉ được nhiều nhất là hai vận liền nhau ( 40 năm ) mà thôi. Thường hai vận tốt liền nhau là Đáo Sơn Đáo hướng và Toàn cục hợp Thập. Sang đến vận thứ 3 thì hướng mộ này thường gặp phải Thượng Sơn - Hạ Thủy làm cho mất người, mất của.
Tam-Nguyên Cửu Vận là chu kỳ 180 năm chia làm 3 Nguyên và 9 Vận. Ba Nguyên là Thượng, Trung và Hạ-Nguyên mà mổi Nguyên có 60 năm. Mổi vận là 20 năm. 
Theo GS TS Nguyễn Tiến Đích ." "Khí gồm có Âm khí và Dương khí, Sinh khí và Tà khí. Đó là hai mặt đối lập cùng tồn tại khách quan của Khí. Ta không nhìn thấy Khí âm hay Khí dương, không nhìn thấy Sinh khí hay Tà khí, nhưng cảm nhận được nó. Vào một nhà mà thấy nóng quá thì đó là nhiều Dương khí quá, hoặc thấy khó thở thì có nghĩa là nhiều Tà khí quá. Con người ta cần một môi trường sống cân bằng Âm Dương khí, nhiều Sinh khí ít Tà khí.
   Quan sát một ngôi mộ như ở Hình 2 ta thấy, khi một dòng Khí tác động vào nấm mồ, nó lập tức được phân ra: Tà khí (TK) nặng trọc lao xuống dưới (trực vô tình), còn Sinh khí (SK) thanh nhẹ thì lượn theo dường cong hình khối của nấm mồ để thẩm thấu xưống dưới mộ (khúc hữu tình). Như vậy ngôi mộ này luôn được Sinh khí nuôi, lại cân bằng Âm Dương khí, dưới mộ luôn được mát, làm cho hài cốt tươi lâu.
   Ngược lại, ở ngôi mộ Hình 3 ta thấy: ngôi mộ này được xây tường xung quanh và lát kín trên mặt đã làm cho Sinh khí không thẩm thấu được xuống mộ được, mà bay đi mất. Thành ra ngôi mộ này luôn bị mất Sinh khí, lại bị nắng mặt trời nung nóng xung quanh làm cho Dương khí luôn quá lớn, mất cả cân bằng Âm Dương khí. Ngôi mộ này chắc chắn hài cốt sẽ mau hoai. Từ đây cho thấy rằng nấm mồ có cỏ xanh phía trên là rất cần thiết. Đó là phương tiện để nhận Sinh khí và thải bớt Tà khí và để cân bằng Âm Dương khí. Như vậỵ trên mộ cần phải có cỏ xanh là một tiên quyết !



 Quan sát hình 4 ta thấy: Khi một dòng Khí tác động vào thành mộ tròn thì phần Tà khí (TK) sẽ tách ra lao xuống dưới. Còn Sinh khí (SK) thì vừa chạy viền quanh đường cong thành mộ, vừa đổ vào mặt trên của mộ để thẩm thấu vào mộ theo mọi hướng. Như vậy mộ tròn có ưu điểm là nhận được nhiều Sinh khí hơn là mộ xây hình chữ nhật.
 Quan sát một ngôi mộ xây hình chữ nhật như hình 5 ta thấy: Ngôi mộ này không có đường Sinh khí bao quanh như ở mộ xây tròn vì mặt tường là mặt phẳng. Mặt khác, bức tường cao để đặt bia đã làm thoát mất Sinh khí SK2, không rơi xuống mặt mộ, mà vượt qua mộ đi mất. Mộ này chỉ có thể thường xuyên nhận Sinh khí SK1 từ 3 hướng mà thôi.
Như vậy, mộ có thể xây hình tròn hay hình chữ nhật đều được, nhưng xây tròn thì vẫn hơn. Có một nguyên tắc cần nhớ là trên mộ phải có cỏ xanh. Đó là cửa giao lưu thông thoáng Âm Dương giúp cho mộ luôn nhận được Sinh khí và cân bằng Âm Dương khí.

   Ở một vài tỉnh miền Trung nước ta, nhân dân xây mộ không làm tường cao gắn bia, mà đặt bia ngay trên thành mộ (Hình 6). Ưu điểm của những mộ này là không cản đường Sinh khí vào mộ. Mộ có thể nhận Sinh khí từ mọi phía. Mộ này vừa đơn giản, đủ lịch sự, lại vừa phù hợp với quy luật vận hành Khí của vũ trụ. Ở những mộ này bia được gắn trên thành mộ theo nguyên tắc: người đứng lễ phía chân người chết phải nhìn thấy bia. Nghĩa là: nếu gắn trên thành mộ thì bia gắn ở phía chân người chết (ngoài thành mộ). Còn gắn trên cao thì gắn phía đầu người chết (trong thành mộ). "



Qua phần phân tích về đường khi vào mộ như trên , ta thấy rằng hình dáng mộ hình tròn và trên mặt bằng phẳng là hình dáng không cản đường Sinh khí vào mộ. Mộ có thể nhận Sinh khí từ mọi phía. Mộ này vừa đơn giản, đủ lịch sự, lại vừa phù hợp với quy luật vận hành Khí của vũ trụ. 
Qua quá trình học tập và thực hành việc đặt mộ trong những năm qua , kết hợp với những gì Ân Sư đã chỉ dạy, dienbatn kết hợp giữa mẫu mộ hình tròn và trận đồ Bát quái thành một loại mộ phần có hình dạng Bát Quái rất đắc dụng và thành công.
SƠ LƯỢC VỀ TRẬN ĐỒ BÁT QUÁI .
Trong các cuộc chiến tranh ngày xưa , người ta rất chú trọng đến việc lập trận . Kể từ những cuộc chiến của thời Tam quốc với những cách Trận đồ Bát quái của Khổng minh Gia cát lượng đến những trận đồ của phương Tây như trong trận OATECLO của NAPOLEON . Như vậy , việc thực hiện Trận pháp là hoàn toàn có thật và đã đạt được những hiệu quả rất cao . Trận pháp là một môn nghiên cứu đỉnh cao của nghệ thuật quân sự hàng ngàn năm nay . Tại Việt nam chúng ta cũng có cuốn sách : Vạn Kiếp tông bí truyền thư của Trần Hưng Đạo về nghệ thuật quân sự, có lẽ chủ yếu là bày binh bố trận, nhưng đến nay đã bị thất lạc. Ông sưu tập binh pháp các nhà, làm thành bát quái cửu cung đồ, và đặt tên tác phẩm như vậy. Người ta chỉ còn biết được một ít nội dung tác phẩm này, qua lời đề tựa của Nhân Huệ Vương Trần Khánh Dư vẫn còn lưu giữ được.
Trong lời tựa của Trần Khánh Dư : " Người giỏi cầm quân thì không cần bày trận, người giỏi bày trận thì không cần phải đánh, người giỏi đánh thì không thua, người khéo thua thì không chết.
Ngày xưa, Cao Dao làm sĩ sư mà không ai dám trái mệnh, đến Vũ Vương, Thành Vương nhà Chu làm tướng cho Văn Vương, Vũ Vương, ngầm lo sửa đức, để lật đổ nhà Thương mà dấy nên vương nghiệp, thế là người giỏi cầm quân thì không cần phải bày trận vậy. Vua Thuấn múa mộc và múa lông trĩ mà họ Hữu Miêu đến chầu, Tôn Vũ nước Ngô đem người đẹp trong cung thử tập trận mà phía tây phá nước Sở mạnh, phía bắc uy hiếp nước Tấn, nước Tần, nổi tiếng chư hầu, thế là người khéo bày trận không cần phải đánh vậy. Đến Mã Ngập (Sách Tấn thư chép là Mã Long) nước Tấn theo bát trận đồ, đánh vận động hàng ngàn dặm, phá được Thụ Cơ Năng để thu phục Lương Châu. Thế gọi là người đánh giỏi không bao giờ thua vậy.
Cho nên trận nghĩa là "trần", là bày ra, là khéo léo. Ngày xưa, Hoàng Đế lập phép tỉnh điền để đặt binh chế. Gia Cát xếp đá sông làm bát trận đồ, Vệ Công sửa lại làm thành Lục hoa trận. Hoàn Ôn lập ra Xà thế trận có vẽ các thế trận hay, trình bày thứ tự, rõ ràng, trở thành khuôn phép. Nhưng người đương thời ít ai hiểu được, thấy muôn đầu ngàn mối, cho là rối rắm, chưa từng biến đổi. Như Lý Thuyên có soạn những điều suy diễn của mình (sách Thái bạch âm kinh nói về binh pháp), những người đời sau cũng không hiểu ý nghĩa. Cho nên Quốc công ta mới hiệu đính, biên tập đồ pháp của các nhà, soạn thành một sách, tuy ghi cả những việc nhỏ nhặt, nhưng người dùng thì nên bỏ bớt chỗ rườm rà, tóm lược lấy chất thực.
Sách gồm đủ ngũ hành tương ứng, cửu cung suy nhau, phối hợp cương nhu, tuần hoàn chẵn lẻ. Không lẫn lộn âm với dương, thần với sát, phương với lợi, sao lành, hung thần, ác tướng, tam cát, ngũ hung, đều rất rõ ràng, ngang với Tam Đại, trăm đánh trăm thắng. Cho nên, đương thời có thể phía bắc trấn ngự Hung Nô (ám chỉ nhà Nguyên), phía nam uy hiếp Lâm Ấp (Chiêm Thành). " 
Trích từ Đại Việt sử ký toàn thư:
" Sau này, con cháu và bồi thần của ta, ai học được bí thuật này phải sáng suốt mà thi hành, bày xếp thế trận; không được ngu dốt mà trao chữ truyền lời. Nếu không thế thì mình chịu tai ương mà vạ lây đến con cháu. Thế gọi là tiết lộ thiên cơ đó. "
Trong cổ thi của Trung quốc có bài BÁT TRẬN ĐỒ của ĐỖ PHỦ ca ngợi Khổng minh như sau : 
Bát trận đồ
Công cái tam phân quốc
Danh thành Bát trận đồ
Giang lưu thạch bất chuyển
Di hận thất thôn Ngô
Dịch Nghĩa:
Công lớn trùm khắp, nước chia làm ba
Nổi danh trận đồ Bát quái
Nước sông cứ chảy đá không lay chuyển
Để lại hận đă thất kế thôn tính Ngô
Dịch Thơ:
Bát Trận Đồ
Vơ công trùm lợp thời Tam Quốc
Danh tiếng làm nên Bát trận đồ
Đá vẫn nằm trơ dòng nước chảy
Hận còn để măi lỡ thôn Ngô
Bản dịch của Trần Trọng San
Tam phân quốc công cao tột bực
Bát trận đồ danh nức muôn đời
Nước trôi đá vẫn không dời
Ngậm ngùi nỗi chẳng nghe lời đánh Ngô
Bản dịch của Trần Trọng Kim
Chú thích:
-Bát trận đồ: do Khổng Minh thời Tam quốc dựng thành, ở huyện Phụng Tiết, tỉnh Tứ Xuyên. Tướng Ngô là Lục Tốn bị quân Thục vây hăm tại đây, nhưng nhờ được nhạc phụ của Khổng Minh là Hoàng Thừa Nghiện chỉ đường nên ra thoát được
-Tam phân quốc: Khổng Minh chưa ra khỏi nhà đă biết thiên hạ thế chia làm ba, Thục Ngô Ngụy
-Thôn Ngô: Lưu Bị đánh Đông Ngô để trả thù cho Quan Vân Trường, bị thua to về tay Lục Tốn. 
Các sách cổ của Trung quốc cũng có rất nhiều tác phẩm viết về cách lập trận như các cuốn : DƯƠNG ĐẨU NGU CƠ , THỦY KINH CHÚ , VŨ LƯỢC CHÍ , QUA KÍP ĐÀN BINH ...
Trong các loại hình thế trận , người ta nghiên cứu phát minh ra nhiều loại trận đồ với nhiều mục đích khác nhau : BÁT QUÁI TRẬN ĐỒ , VIÊN TRẬN ĐỒ , PHƯƠNG TRẬN ĐỒ , TRỰC TRẬN ĐỒ , KHÚC TRẬN ĐỒ , NHUỆ TRẬN ĐỒ TRƯỜNG XÀ TRẬN ĐỒ .....
SỬ DỤNG TẬN ĐỒ BÁT QUÁI VÀO TRẤN YỂM VÀ ĐẶT MỘ PHẦN .
Người ta có thể dùng TRẬN ĐỒ BÁT QUÁI vào việc TRẤN YỂM một khu đất hay địa huyệt nào đó với hai mục đích ngược nhau : Làm cho khu vực đó tốt lên hay là triệt phá Long mạch của vùng đất hay Địa Huyệt đó . Đó là hai chiều tương sinh và tương khắc của Ngũ hành - Âm , Dương .
Việc xây dựng một TRẬN ĐỒ BÁT QUÁI vì mục đích gì đi chăng nữa , người Chủ trận phải hiểu tường tận cách bố trí Trận pháp . Ngoài việc xác định rõ vị trí của Huyệt kết ở đâu , hướng của Long Nhập thủ như thế nào trong 72 Long Thấu Địa , Thiên Môn - Địa hộ ở đâu , Tính chất Âm - Dương ,Ngũ hành của Khí Huyệt như thế nào , người bố trí Trận đồ phải rất giỏi về Ngũ Tử Khí Long ( Phận biệt các loại Khí Hỏa Khanh , Không hư , Bảo Châu ) , phải thành thạo các thuật Toán an Ngũ Thân , Lộc , Mã , Quý , Tứ cát , Tam Kỳ , Bát Môn , an các Thiên Can , Địa Chi lên Bát Quái Đồ Hỗn Thiên . Những thuật này liên quan mật thiết đến Thuật tính Thái Ất , Độn Giáp .
Đã có nhiều lần người viết đề cập đến Trận đồ Bát quái này. Tên đầy đủ là BÁT QUÁI THIÊN ĐỒ TRẬN. Tục truyền rằng trận đồ này do hậu duệ của Khổng Minh Gia Cát Lượng lưu truyền lại từ xưa qua bao thăng trầm của dòng họ. Trận pháp này chỉ truyền lại cho đời sau, mỗi đời một người nắm giữ. Sau này vì một lý do nào đó lọt ra đến ngoài, nhưng số người nắm giữ được bí mật này cũng rất ít. Sư phụ của người viết là một trong số những người được truyền lại và tiếp tục truyền lại cho người viết trận đồ Bát quái này. Vì không được phép phổ biến nên người viết chỉ có thể nói sơ qua một chút để các bạn hình dung. Đây là một trận pháp áp dụng theo Bát môn có các cửa : Hưu - Sinh - Thương - Đỗ - Cảnh - Tử - Kinh - Khai. Trận đồ này áp dụng theo thuật số của Hà đồ - Lạc thư với hai vòng quay thuận - nghịch theo Thời gian. Trận đồ này bao gồm tổng hợp những thủ thuật dùng trong Phong thủy, Dịch lý, Thái ất.... với rất nhiều loại Linh phù, Chú của Tiên gia...Thường khi thực hiện, Pháp sư dùng 9 hũ bằng gốm, đặt theo 9 phương vị của Trời đất. Trong 9 hũ đó chứa đựng 5 thứ kim loại : Vàng - Bạc - Đồng - Chì - Sắt và rất nhiều loại Linh phù Trấn trạch ( Âm hoặc Dương trạch ). Trận đồ này chỉ được phép thực hiện trong một số ngày nhất định mà thôi. Người ta có thể dùng đèn cầy , nhang , đá hay bản thân người để thực hiện Trận đồ này tùy theo mục đích công việc. Công dụng của Trận đồ này qua hàng ngàn năm đã chứng tỏ uy lực mạnh mẽ của nó : Dùng trấn Âm , Dương trạch ( kể cả Chùa chiền, nhà cửa, Kinh thành, hoá giải được những Trấn yểm...). Người viết chưa đủ Năng lượng để thực hiện những Trận đồ với quy mô lớn, nhưng có dùng để Trấn trạch và hoá giải những cuộc đất xấu, những ngôi mộ bị Trùng tang liên táng hoặc phát sinh những việc xấu sau khi tang... đều thấy hiệu quả rõ rệt. Trận đồ Bát môn này quay đủ 360 độ theo thời gian theo hai vòng thuận nghịch nên có thể hóa giải được Cửu tinh của Huyền không .
Trong ứng dụng vào việc đặt mộ phần khi cải táng, dienbatn sử dụng vòng tương sinh và dùng các loại đá quý sắp đặt theo Bát trận để thu khí về Huyệt mộ. 






Vòng dưới ngoài là Tiên Thiên Bát Quái, vòng trên trong là Hậu Thiên Bát Quái Văn Vương, lấy số 1 của Tiên Thiên và Hậu Thiên làm mốc, Tiên Thiên đi nghịch mà Hậu Thiên đi thuận. Trận có 8 Trận, Thiên trận quẻ Càn, Địa trận quẻ Khôn, Long trận quẻ Chấn, Phong trận quẻ Tốn, Vân trận quẻ Khảm, Điểu trận quẻ Ly, Xà trận quẻ Cấn, Hổ trận quẻ Đoài. Mồi cung tùy theo 9 tinh (Bồng Nhậm Xung Phụ Anh Nhuế Trụ Tâm) gia lâm mà bày trận.
Cửa có 8 cửa, Hưu Sinh Thương Đổ Cảnh Tử Kinh Khai. Môn theo 9 tinh gia thời 1 đóng 1 mởi. Tinh gia thời can dương thì mở, thời can âm thì đóng. Đóng thì không phá trận được.
Thần có 8 Thần, Trực Phù, Đằng Xà, Thái Âm, Lục Hợp, Câu Trần, Chu Tước, Cửu Địa, Cửu Thiên, phân bố theo Chi của Tuần Giáp mà có Bát Thần Lâm Môn trấn giữ 8 cửa.
Tướng có 12 Thiên Tướng Thần Hậu, Đại Cát, Công Tào, Thái Xung, Thiên Cương, Thái Ất, Thắng Quang, Tiểu Cát Truyền Tòng, Hà Khôi, và Đăng Minh, phân bố theo Nguyệt Tướng, 4 tướng cư tứ chính, 4 tướng cư tứ duy, 4 tướng giữ 4 góc trung cung. Tại phần trung cung , có Chủ trận bày theo Ngũ hành - Âm dương và xoay chủ trận theo 360 độ , như vậy , trận pháp này sẽ xoay theo độ số của Trời - Đất , biến ảo khôn lường . Chủ trận giống như kim chỉ Nam của Địa bàn và là cái bất biến theo từng cung độ . Dĩ bất biến - Ứng vạn biến chính là đây .
Trong trường hợp áp dụng Tận đồ Bát Quái vào hình dáng mộ phần, Chủ trận chính là phần xương cốt của người được cải táng sẽ là một hướng tốt bất biến với thời gian và các thành phần khác của mộ đều di chuyển xoay theo từng cung độ của Trời - Đất. Việc này sẽ phá vỡ quy luật biến thiên theo Cửu tinh của thời gian. Về lý thuyết, Trận đồ này thoát ra khỏi sự vận động của Cửu tinh và luôn giữ được hướng Cát Khí vĩnh viễn. Trận đồ này chỉ dừng lại khi năng lượng xoay chuyển Trận đồ cạn kiệt. Chính vì vậy mà dienbatn phải dùng quả cầu đá quý làm nơi tích trữ năng lượng, dùng khối Thạch Anh tím để làm Antena thu Khí , kết hợp với 5 vòng đá Ngũ sắc bằng Trạch anh, Casidon , Mã Não ...xếp theo chiều tương sinh làm vòng rung động để thu khí. Vòng đá Ngũ sắc sẽ được tính toán riêng biệt cho từng Huyệt mộ, hoàn toàn không phải là cố định.
Những quả cầu được khắc chủng tử của Phật và một số Linh phù sau đó trì chú vào dùng để dự trữ năng lượng cho Huyệt mộ giống như một cái Ắc quy xe hơi.






5 vòng đá Ngũ sắc bằng Trạch anh, Casidon , Mã Não ...xếp theo chiều tương sinh làm vòng rung động để thu khí. Vòng đá Ngũ sắc sẽ được tính toán riêng biệt cho từng Huyệt mộ, hoàn toàn không phải là cố định.






Một số ngôi mộ, dienbatn cho ẩn dấu ký hiệu 8 cửa và thực hiện dùng các chủng tử của Phật bên ngoài để che đi hình thế của Trận Đồ.




Xin theo dõi tiếp BÀI 4. dienbatn.
Xem chi tiết…

KHAI TRƯƠNG XUẤT HÀNH VÀ CÁC HUNG KỊ NĂM ẤT MÙI 2015.

12/27/2014 |
KHAI TRƯƠNG XUẤT HÀNH VÀ CÁC HUNG KỊ NĂM ẤT MÙI 2015.

Năm Ất Mùi  - Mạng : Sa Trung Kim – Năm Ất thuộc Thiên Can Âm . Lập Xuân vào lúc 10 giờ 58 phút  ngày 16/12 năm Giáp Ngọ ( tức ngày 4/2/2015 ). Đông Chí vào lúc 11 giờ 48 phút ngày 12/11 năm Ất Mùi ( tức ngày 22/12/2015 ). (Những người sinh trước Lập xuân thuộc tuổi Giáp Ngọ,sau Lập xuân là tuổi Ất Mùi). Năm Ất Mùi xung các tuổi và năm tháng ngày giờ : Ất Mùi, Ất Sửu, Tân Mùi, Tân Sửu.


1.PHI TINH NĂM ẤT MÙI 2015 NHƯ SAU.
Xét trên phi tinh đồ ta thấy :
+Phương  BẮC : Bản cung Khảm  nơi sao Bát Bạch đang đương vận nên vượng khí . Bát bạch tài tinh năm nay đến phương Bắc chủ về vượng Tài, vương Đinh , lợi cho hôn nhân , hỉ sự đầy nhà , công danh, sự nghiệp phát triển , mọi việc đều tốt đẹp.
+ Phương ĐÔNG BẮC : Sao Lục Bạch – Sát Khí chiếm đóng : Lục Bạch chiếm tại bản cung Cấn, là sao quyền quý nhưng đã thất vận lại gặp Tuế Phá nên dễ bị tiểu nhân hay chuyện trai gái mà bị hại , ra đường đề phòng xe cộ , tài vận , sự nghiệp bất lợi.
+ Phương ĐÔNG : Sao Nhất Bạch – Sinh Khí chiếm đóng. Khí của sao này rất tốt lại được bản cung Chấn – Mộc tỷ hòa nên vượng đinh, vượng tài, phát triển thuận lợi. Phương này sẽ có nhiều nhân tài xuất hiện bởi Nhất Bạch còn gọi là Văn Xương tinh chủ về thông minh học thức, văn tài nổi danh lỗi lạc.
+ Phương ĐÔNG NAM : Nhị Hắc bệnh phù đến cung Tốn Đông Nam , chủ tật ách , vì bạn mà liên lụy phá tài , bị quan tụng vô cớ , tiểu nhân hại lén , ra ngoài cần đề phòng tai nạn xe cộ.
+ Phương NAM : Sao Thất Xích là sao Thoái Khí toạ lạc tại bản cung Ly . Bản cung Ly – Hỏa khắc chế sao Thất Xích – Kim nên cũng trừ bớt sự hung dữ của sao Thất Xích . Thất Xích đã thất vận , phương Nam hội nhiều cát tinh nên được xem là phương có cát hung lẫn lộn , đề phòng tiểu nhân hại lén.
+ Phương TÂY NAM : Cửu Tử Hoả Tinh là sao vượng khí chiếm đóng, vì khí của sao này hưng vượng nên phương Tây Nam phát triển và đạt được nhiều thành tựu. Sao  Cửu tử hoả sinh bản cung Khôn – Thổ nên như Rồng thêm chân , như hổ thêm cánh. Phương Tây Nam là cung cát khánh đại lợi , có nhiều hỉ khí, tăng tài, thêm đinh , thăng quan , tiến chức, tậu sản nghiệp , văn chương hiển đạt , mọi việc như  ý. Năm nay Thái Tuế và Cửu Tử ở cùng một cung , nhưng vẫn có thể động thổ tốt vì có sao Cửu tử là vượng khí trấn tại cung này.
+ Phương TÂY : Ngũ Hoàng chiếm đóng, Ngũ Hoàng là Đại Sát tinh đi đến đâu chủ tai hoạ đến đó nên phương này chủ bệnh tật tai hoạ. Năm nay Tam sát cũng nằm ở cung phía Tây này nên khí vận đã xấu càng thêm xấu. Các nơi có Tam-sát đều kỵ động làm tăng năng lực sát. Vì vậy mà cấm động thổ, tu sửa... nhất là khi Tam-sát ở cung Tọa vì khi đó khí mạnh của hướng xung chiếu thẳng làm phạm xung sát nên tai họa đến liền.
Không nên động thổ, xây cất dễ xảy ra việc bất ngờ như bệnh tật, quan tụng, thị phi , gia đạo bất an , ra ngoài cần đề phòng tai nạn xe cộ.
+ Phương TÂY BẮC  : Sao Tứ Lục – Mộc  chiếm đóng tại bản cung Càn – Kim . Tứ Lục thất vận , lại bị Càn Kim khắc nên khí sát rất nặng là một hung khí. Dễ bị tiểu nhân hay chuyện trai gái mà bị hại , ra đường đề phòng xe cộ
+ TRUNG CUNG : Sao Tam Bích chiếm đóng là sao Tử Khí. Khí xấu Tam Bích đại hung chủ thiên tai, cướp bóc, Tam Bích Mộc khắc trung cung Thổ nên dễ bị miệng tiếng thị phi vô cớ , ách giữa đàng mang quàng vào cổ, việc của người khác chớ xen vào sẽ bị tù tội, bệnh tật , trộm cắp , hao tài, gia đạo không yên.

2.TAM SÁT.
Tam sát là 3 sao có sát khí là Tuế-sát, Kiếp-sát và Tai-sát. Tam-sát có 3 loại là Niên Tam-sát, Nguyệt Tam-sát và Nhật Tam-sát hay nói cách khác là Tam-sát của năm, tháng và ngày.
Tam-sát là sát ở các cung sau đây:
1. Năm Thân, Tý, Thìn (hay tháng 7, 11, 3 ta) sát ở 3 phương Tỵ, Ngọ và Mùi tức phương Nam.
2. Năm Dần, Ngọ, Tuất (hay tháng 1, 5, 9 ta) sát ở 3 phương Hợi, Tý, Sửu tức phương Bắc.
3. Năm Tỵ, Dậu, Sửu (hay tháng 4, 8, 12 ta) sát ở 3 phương Dần, Mão, Thìn tức phương Ðông.
4. Năm Hợi, Mão, Mùi (hay thánh 10, 2, 6 ta) sát ở 3 phương Thân, Dậu, Tuất tức phương Tây.
Năm Ất Mùi Tam sát nằm ở phương Tây.
Các nơi có Tam-sát đều kỵ động làm tăng năng lực sát. Vì vậy mà cấm động thổ, tu sửa… nhất là khi Tam-sát ở cung Tọa vì khi đó khí mạnh của hướng xung chiếu thẳng làm phạm xung sát nên tai họa đến liền.

3. NGUYÊN  ĐÁN  NĂM  ẤT  MÙI  THẮP NHANG XUẤT  HÀNH.
Nguyên  Đán mồng  1 Tết năm  Ất  Mùi  nhằm ngày  Bính  Dần sao  Giác  trực Kiến, Quí Thần Tài Thần tại hướng  Chánh  Tây, Thắp nhang  nên dùng giờ  Tý  phúc tinh quý nhân,thiên quan quý nhân thượng cát, giờ Dần Mão Tý, cũng hợp cát, xuất hành nên dùng giờ Tý  Dần Mão Ngọ Đi hướng chánh tây nghinh đón  Quý thần Tài thần đại cát, giờ sữu tuế phá, giờ thân  nhật phá, Thìn Tị  2 giờ triệt lộ không vong  bất nghi xuất hành, Ngạc thần tại chánh Nam , Ngũ quỷ tử môn Tây Nam chớ hướng .

4. NGÀY TỐT NĂM ẤT MÙI KHAI TRƯƠNG MỞ TIỆM.
Ngày 6 tết : Tân Mùi (Hoàng đạo): Mùi Thổ sinh Tân Kim- tốt. Có sao Nhân chuyên là sao tốt, giải được sao xấu. Có thể động thổ, khai trương, giao dịch, giao tài vật, xuất hành, giá thú, tang tế. Người tuổi Tân Mùi, Ất, Sửu, Tý, Tuất, Mùi

5. NGÀY TỐT NĂM ẤT MÙI THÁNG GIÊNG XUẤT HÀNH .
(Hướng xuất hành là hướng tính từ Tâm nhà chiếu đến nơi định đến, không phải hướng từ cổng nhà đi ra). Nếu không được hướng thì rẽ vào đền hoặc chùa cho được hướng, rồi đi tiếp đến nơi định đến).
Năm Ất Mùi 2015 hành Kim. Ta chọn hướng có Kim vượng để xuất hành.
Hướng tốt xuất hành đầu năm 2015: Hướng Bắc, Tây Bắc và Đông Nam. Những hướng xuất hành này áp dụng cho mọi người không kể tuổi nào.
Mồng  2  Ngày  Đinh Mão (Kị Tuổi : Tân Dậu, Quý Dậu ).
Mồng  9  Ngày  Giáp Tuất ( Kị Tuổi :          Mậu Thìn,Canh Thìn ).
Ngày  11  Bính Tý ( Kị Tuổi :  Canh Ngọ, Mậu Ngọ )

6. NGÀY TỐT NĂM ẤT MÙI THÁNG GIÊNG  CẦU PHÚC.             
Mồng  2  Ngày  Đinh Mão ( Kị Tuổi  : Tân Dậu, Quý Dậu).
Ngày  11  Bính Tý          (Kị Tuổi :Canh Ngọ, Mậu Ngọ ).
Ngày  15  Canh Thìn (Kị Tuổi : Giáp Tuất , Mậu Tuất).

7. CHỌN NGƯỜI XÔNG NHÀ.
Ta có thể chọn tuổi người xông nhà theo tuổi chủ nhà và năm Ất Mùi 2015 như sau:


Thí dụ tra Bảng:
 Chủ nhà tuổi Nhâm Tý: Theo Bảng trên, tra cột Can Nhâm và Chi Tý, thì cần tránh những người có tuổi Bính, Mậu, Kỷ,  Ngọ, Sửu, Mùi, Thìn, Tý, Tuất, Nhâm Tý còn lại ai đến xông nhà cũng được.
  
8. BÀI VỊ CÚNG THÁI TUẾ NĂM ẤT MÙI.
Ất  Mùi   Niên Thái Tuế  Dương  HiềnTinh Quân, Trực Thái Tuế tuổi  Mùi Xung Tuế tuổi Sữu, Hình Tuế tuổi Tuất.


9.TÍNH CHẤT NHỮNG NGÀY TẾT.
-        Nguyên  Đán mồng  1 Tết năm  Ất  Mùi  nhằm ngày  Bính  Dần sao  Giác  trực Kiến, Quí Thần Tài Thần tại hướng  Chánh  Tây, Thắp nhang  nên dùng giờ  Tý  phúc tinh quý nhân,thiên quan quý nhân thượng cát, giờ Dần Mão Tý, cũng hợp cát, xuất hành nên dùng giờ Tý  Dần Mão Ngọ Đi hướng chánh tây nghinh đón  Quý thần Tài thần đại cát, giờ sữu tuế phá, giờ thân  nhật phá, Thìn Tị  2 giờ triệt lộ không vong  bất nghi xuất hành, Ngạc thần tại chánh Nam , Ngũ quỷ tử môn Tây Nam chớ hướng .
-        Ngày 2 tết : Đinh Mão: Mão Mộc sinh Đinh Hỏa- tốt. Có sao Sát cống là sao tốt, giải được sao xấu. Kỵ động thổ, nhập trạch, khai trương. Nên lễ đền chùa, thăm người thân, trồng cây.
-       Ngày 3 tết : Mậu Thìn (Hoàng đạo): Thổ Can Chi đồng hành- tốt. Có sao Trực tinh là sao tốt, giải được sao xấu. Kỵ động thổ, giá thú, an táng. Có thể khai trương (người tuổi Mậu Thìn, Nhâm, Tuất, Mão, Mùi, Thìn tránh), đi lễ cầu tài lộc, thăm người thân, hoá vàng, trồng cây.
-      Ngày 4 tết: Kỷ Tị (Hoàng đạo): Tị Hỏa sinh Thổ Kỷ- tốt. Ngày sát chủ, xấu, không làm việc lớn. Chỉ đi lễ, thăm người thân, trồng cây.
-      Ngày 5 tết:  Canh Ngọ: Ngọ Hoả khắc Canh Kim- xấu. Kỵ động thổ, xuất hành. Có thể đi lễ cầu tài lộc, thăm người thân, trồng cây.
-       Ngày 6 tết: Tân Mùi (Hoàng đạo): Mùi Thổ sinh Tân Kim- tốt. Có sao Nhân chuyên là sao tốt, giải được sao xấu. Có thể động thổ, khai trương, giao dịch, giao tài vật, xuất hành, giá thú, tang tế. Người tuổi Tân Mùi, Ất, Sửu, Tý, Tuất, Mùi không dùng ngày này.
-      Ngày 7 tết: Nhâm Thân: Thân Kim sinh Nhâm Thủy-  tốt. Có sao Giải thần giải được các sao xấu, lại có nhiều sao tốt. Tốt cho động thổ, xuất hành, giá thú, khai trương, giao dịch, cầu tài lộc, an táng. Người tuổi Nhâm Thân, Bính, Dần, Hợi, Mùi, Thân không dùng ngày này.
-      Ngày 8 tết: Quý Dậu: Dậu Kim sinh Quý Thủy- tốt. Ngày này có nhiều sao tốt. Có thể động thổ, xuất hành, khai trương, nhập trạch, giao dịch, giao tài vật , giá thú. Kỵ an táng. Người tuổi Quý Dậu, Đinh, Mão, Tuất, Thìn, Dậu không dùng ngày này.
-     Ngày 9 tết: Giáp Tuất (Hoàng đạo): Giáp Mộc khắc Tuất Thổ- xấu. Ngày Thụ tử, xấu, không làm việc lớn. Chỉ đi lễ, thăm người thân, trồng cây.
-       Ngày 10 tết: Ất Hợi: Hợi Thuỷ sinh Ất Mộc- tốt. Ngày có nhiều sao tốt. Có thể xuất hành, giá thú, khai trương, giao dịch, cầu tài lộc (Người tuổi Ất Hợi, Kỷ, Tị, Hợi, Thân, Tuất tránh). Kỵ xây dựng, an táng. 
Chú thích: Khi chọn ngày tốt nêu trên cần đảm bảo Can Chi ngày đó không xung sát với tuổi người chủ sự và không trùng cả Can Chi năm tuổi của chủ sự. Thí dụ người tuổi Nhâm Thân thì không chọn ngày Nhâm Thân để khai trương cửa hàng đầu năm.                 dienbatn sưu tầm và biên soạn.
Xem chi tiết…

MỘT SỐ KINH NGHIỆM KHI CẢI TÁNG MỘ PHẦN CỦA DIENBATN. BÀI 2.

12/24/2014 |
MỘT SỐ KINH NGHIỆM KHI CẢI TÁNG MỘ PHẦN CỦA DIENBATN.


6/ NHỮNG VẤN ĐỀ CẦN LƯU Ý TRƯỚC KHI CẢI TÁNG MỘ PHẦN.
- Vấn đề đoàn kết trong dòng họ :
Khi cải táng một ngôi mộ, nhất là những ngôi mộ Tổ và dòng họ có nhiều chi, nhánh, vấn đề đoàn kết trong các thành viên vô cùng quan trọng. Người ta có câu :" Ma chê - Cưới trách ". Trong dòng họ có nhiều nhánh, nhiều chi, việc bàn ra, tán vào là tất yếu, song trong họ phải có người đứng đầu ( thường là trưởng dòng họ ) phải có khả năng đoàn kết và thống nhất được tất cả những tâm nguyện của mọi người. Việc này vô cùng khó khăn , bởi những người đang làm ăn xuôi chèo, mát mái thì không muốn động vào mộ phần sợ "động mộ ", còn những gia đình đang gặp khó khăn , bất trắc trong cuộc sống lại muốn tu tạo lại mộ cho cuộc sống êm đẹp hơn. Mong muốn của cả 2 phái đều có lý đúng của nó, nhưng nhiều trường hợp bắt buộc phải di dời thì sự đoàn kết, nhất trí trong dòng họ, bản thân nó đã là sự tích phúc rồi. Việc quy tập mộ của các đời trước về nghĩa trang dòng họ , thoạt đầu ta tưởng không có gì khó khăn , khi mà chúng ta đã xây dựng được nghĩa trang hoàn chỉnh theo đúng phong thủy. Tuy nhiên lúc này mới chính là lúc mà chữ Phúc phận của dòng họ biểu hiện ra mạnh nhất. Người lĩnh xướng và chủ trì việc lập nghĩa trang phải là người có uy tín trong dòng họ mới có thể thuyết phục và tập trung sức lực, tiền bạc để thực hiện việc này. Trong rất nhiều trường hợp, vì sự thiển cận của một số thành viên trong dòng họ, sợ rằng các chi khác " ăn hết lộc " của chi nhà mình nên đưa đến những trường hợp dở khóc, dở cười.  
Trong quá trình làm mộ ở khắp nơi, dienbatn đã gặp phải những trường hợp dở khóc, dở cười của các thành viên trong một dòng họ. Thôi thì mỗi người một ý, cãi nhau như mổ bò, thậm chí các nhánh trong dòng họ còn đòi " chia xương " để mỗi nhánh chôn riêng ở khu vực của mình. Thật là kinh khủng. Nhìn mọi người cãi nhau , ở dưới âm phần, chắc các cụ không khỏi phải đau lòng, xót xa. Có dòng họ vì có nhiều chi, mộ phần đời trước có những biểu hiện xấu, thất vận.... có chi làm ăn được, có chi làm ăn sa sút, bệnh tật triền miên. Có chi về nhân đinh toàn là nữ nhân. Lúc này, nếu động đến việc mồ mả thì chi làm ăn sút kém muốn tu bổ hoặc di dời mộ phần, còn chi đang làm ăn tốt thì tâm lý là không muốn động chạm đến mộ phần vì sợ ảnh hưởng. Chỉ đến khi mọi việc trở nên xấu đều thì mới cuống quýt tu sử mộ phần, lúc này mọi sự đã muộn.
 Thật ra mọi người đều không nhớ một điều rằng : " Tiên tích Phúc - Hậu tầm Long ", nhà không có phúc thì kể cả đến cụ Tả Ao hay Cao Biền, Lưu Bá Ôn có sống dậy cũng đành chịu chết , không thể giúp gì được. 
Khi táng di hài Tổ tiên,chắc người ta phải chọn Địa huyệt thật tốt mà an táng , song song với việc trên , người tại tiền phải nỗ lực tu dưỡng thân , tâm cầu lấy gốc rễ của Đạo. Nếu chỉ chú trọng quan sát hình thể Địa Huyệt,sẽ cho kết quả trái ngược, làm tổn hại đến con cháu đời sau.
Nếu như có Nhân,tất phải có Quả;nhưng Nhân -Quả thiện ác tùy vào Tâm khi chiêu lấy họa phúc.
Một việc rất quan trọng là phải cân được phúc đức của dòng họ người cải táng. Phúc phận của dòng họ đó như thế nào phải đặt vào khu Địa Huyệt có năng lượng tương đồng mới có kết quả.Không phải cứ thấy con Long to mà ham đặt huyệt mộ dòng họ vào đó, bởi nhiều khi không hợp hoặc không tụ đủ Phúc mà lợi bất cập hại. Không vì khu đất kết Huyệt quá to , quá mạnh, quá nhiều đời mà đặt vào khi phúc phận của dòng họ chưa đủ. Việc đó giống như ta đặt cái quạt máy sử dụng điện 110v vào mạch điện 220v, lúc đó cái quạt sẽ bị cháy rụi. Thông thường những gia đình bình thường về phúc phận chỉ cần một con giun cũng đủ cho một cuộc sống bình an, ổn định, đâu có cần tới những con Long, những Huyệt kết đắc địa.Những Huyệt lớn chỉ sử dụng cho những vị , những dòng họ đã đủ phước báu do Thiên định mà thôi.
Những việc Tầm Long Địa Huyệt còn phải hội thêm phần cảm ứng tức là Thiên Đạo (Đạo Trời ) ; sự ứng nghiệm của việc hành thiện lập âm chất,tạo nhân quả tốt.Tục ngữ có câu :"Âm địa tốt không bằng Tâm địa tốt ".Do vậy,tìm kiếm chọn lọc được Địa mạch Huyệt vị,Phong Thủy Sư và mọi thành viên trong dòng họ phải tích đức hành thiện làm căn bản.Nếu kẻ nào có phẩm chất cao thượng,thì ắt Thiên cơ sẽ ứng,Địa cơ theo đó mà tăng thêm sự tốt lành cho con cháu đời sau hưởng Phúc.Bởi Tâm địa thiện lương thì tương ứng với Địa mạch cát lợi ,vận Trời ứng cho,chứ chẳng phải chủ quan tâm về hình thức mà quên đi nội dung,cứ tưởng rằng tầm được Long huyệt rồi,con cháu đời sau sẽ được hưởng Phúc,cái gốc chúng ta chẳng lo mà lại đi lo cái ngọn,rõ là ta chẳng biết gì cả.Nếu như các Phong Thủy Sư họ tài giỏi như thế thì ắt họ phải giành những huyệt Đế vương,Công Hầu,Khanh tướng cho con cháu họ,chứ dại gì mà họ chỉ cho ai ?
- Với những Phong thủy sư hay thày Địa lý
Vũ trụ là mênh mông, vô tận, hiểu biết của Phong thủy sư hay thày Địa lý cần mẫn suốt cuộc đời, đến 70- 80 tuổi rồi so với thực tế vẫn chỉ là thô lậu. Tam tài THIÊN - ĐỊA - NHÂN vận hành theo quy luật vận hành của Vũ trụ, kiến thức tích lũy suốt cả cuộc đời chỉ là một hạt cát trên sa mạc. Do vậy ngày xưa thường có câu " Phúc chủ - May Thày " - Trong nghề Địa lý Âm trạch, không một thày nào dám vỗ ngực , xưng tên là biết được mọi chuyện . Nhà Chủ có Phúc thì Thày được ăm may theo Phúc của gia chủ mà thôi. Thày thuốc khi mổ, lỡ tay dao thì chỉ có thể hại tính mạng của một người. Thày Địa lý phân Kim - Điểm Huyệt sai một ly sẽ hại cả dòng họ của người ta. Các cụ có câu " Nhất nhật vi Sư - Tam niên khất thực " là như vậy. Làm Thày một ngày không có Tâm Đức, không có hiểu biết, không cần cù , chăm chỉ , không cẩn thận thì con cháu và cả dòng họ nhà Thày sẽ có 3 năm phải đi ăn mày để trả giá cho những sai lầm của mình. Các vị phải luôn tâm niệm rằng : Mình chỉ là sợi dây dẫn, là cây cầu nối giữa Phúc phận của dòng họ người ta với ánh Quang của các chư Phật, Tiên , Thánh, Thần. Việc thành hay bại chủ yếu là do Phúc phận của người ta, các vị chỉ là người thực hiện theo ý chỉ của Đấng tối cao. Khi xong công việc, các vị lại nguyên hình trở lại là sợi dây dẫn điện, nếu không cần cù , chăm chỉ tu tập, không giữ ghìn Tâm, Đức thì sợi dây dẫn đó mau ghỉ sét lắm đó. Lúc đó chỉ còn mỗi tác dụng là bán ve chai, đồng nát mà thôi.
Trước khi Tầm Long,trích Huyệt thì Phong thủy sư phải học hỏi để hiểu biết nhân thân là một TIỂU VŨ TRỤ.Trong thân thể con người có 365 đại huyệt và gần 1.000 huyệt nhỏ khác,cũng có Khí,có Thủy,có Hỏa,kinh lạc như Đại Vũ trụ bên ngoài.Phải biết kết nối các mạch cùng vận hành thuận hòa trong bản thể,tức là phần tu luyện Pháp Đạo,Đạo Thuật để đạt được đức Nhân.Có Đức Nhân rồi mới tìm hiểu biết về Đại Vũ trụ,tầm Long,tróc mạch những nơi "Tàng Phong tụ Thủy ",là những nơi có Huyền lực của Thiên Địa làm ảnh hưởng thăng hoa vật chất và nhân thể.
Điểm Huyệt trên Nhân thì ảnh hưởng đến tính mạng,còn điểm Huyệt trên đất,nước,âm,dương trạch thì ảnh hưởng đến dòng tộc ,con cháu nhiều đời.Do vậy,các Phong thủy sư phải rèn luyện Đạo thuật,nhằm khai mở Tâm năng,khiếu Cảm xạ,Thấu thị là chính yếu,còn tri thức kinh nghiệm của các bậc Tiền nhân là căn bản cho sự nhận định và luận chứng Huyệt mạch Phong thủy mà thôi,chứ việc Tầm Long ,trích Huyệt rất phức tạp và đa dạng. Tâm năng của con người gần như bất tận nếu biết rèn luyện,khai thác đúng mức những khả năng để khám phá Đại Vũ trụ. 
7/ CHUẨN BỊ NHỮNG GÌ CHO NGÀY CẢI TÁNG ?
Trước tiên, tùy theo hoàn cảnh kinh tế của từng gia đình mà chúng ta chọn Tiểu và Quách bằng nhiều vật liệu khác nhau như sành, sứ , xi măng, gỗ...Các vật liệu rẻ tiền như xi măng, sành , sứ theo thời giá hiện nay chỉ khoảng trên dưới 2 triệu đồng một bộ Tiểu và Quách . Với những bộ Quách bằng gỗ Ngọc Am và Vàng tâm cùng với Tiểu bằng sành đặt tại Bát Tràng như hình bên dưới có giá hàng trăm triệu đồng. Việc tiếp theo nữa là chuẩn bị thật nhiều nước Vang (  Còn gọi là nước ngũ vị hương - Đừng nhầm với gói ngũ vị hương để nấu Ca ri - Gói Vang có bán sẵn ở tiệm thuốc Bắc ).Thông thường sau khi chọn được ngày bốc mộ , người Thày cũng cần phải xem giờ bốc mộ cho thân chủ . Tùy theo giờ tốt mà bốc , nhưng tất cả cùng phải chung một điều là bốc mộ phải làm vào ban đêm . Việc này nhằm tránh cho xương cốt gặp ánh sáng sẽ bị đen đi . Khi bốc mộ , người ta thường đào trước phần lớp đất ở phía trên trước , sau đó đúng giờ tốt mới bắt đầu mở tấm ván Thiên lên ( Tấm ván Thiên là tấm ván trên nóc quan tài ) . 
Trước khi tiến hành bốc mộ , người nhà phải có làm một cái lễ tại Gia tiên để trình báo Tổ tiên . Tại nơi bốc hài cốt ngoài nghĩa trang cũng phải có một cái lễ trình Quan Thần Linh sở tại . Thông thường là một bộ đồ Quan Thần Linh ( Áo , mũ , ủng ) , ngựa và 1000 vàng hoa màu đỏ , giấy tiền vàng bạc , trầu cau , rượu , thuốc , đèn nến , gạo muối . Nhiều nhà còn cúng thên Tam sên ( trứng vịt luộc + Thịt lơn luộc và một nhúm tôm khô bóc vỏ ) , xôi , gà trống luộc nguyên con ....
Vật dụng cần thiết cho quá trình bốc mộ là một cái tiểu sành , một cái quách đặt làm sẵn , một miếng vải đỏ ( tốt nhất là mua thêm một tấm " Mền Quang Minh " ( có bán tại khu vực chùa Quán Sứ giá khoảng 80.000 đ ) , một vài tấm ni lông , giấy trang kim , một tấm bạt và chiếc bàn thấp để Thày làm lễ , vài chai rượu nặng và vài chục lít nước Vang. Một vài cái xô , chậu nhựa để rửa xương . Người ta cũng chặt sẵn một vài đoạn thân cây chuối dùng để cắm nhang. 

Phần lớn việc bốc mộ diễn ra vào lúc nửa đêm, tuy nhiên tốp thợ thường phải thức trọn đêm cùng gia chủ làm công việc chuẩn bị như cúng bái và chuyển hài cốt sang mộ mới. Trung bình để bốc xong một ngôi mộ, mỗi tốp thợ phải làm việc quần quật suốt hơn một tiếng đồng hồ. Trước khi đào, họ phải xác định vị trí huyệt thật chính xác, nhiều ngôi mộ do chôn thời gian lâu, quá trình tu sửa bị sai lệch vị trí so với ban đầu, nếu không biết cách sẽ phải đào rất vất vả, có khi đào nhầm sang mộ bên cạnh. Công việc bốc mộ thường là do những người chuyên môn bốc mộ đảm nhiệm . Khi ván Thiên được cậy ra , người ta phải đổ vài chai rượu có nồng độ cao vào quan tài để tảy rửa âm Khí , cũng nhiều nơi người ta dùng một cây chổi to làm bằng lá hương nhu đốt cháy và khua xung quanh quan tài để trừ Âm Khí . Sau đó mới tiến hành lấy cốt . Nhiều khi gặp trường hợp hài cốt chưa phân hủy hết , người ta phải dùng  dao dóc những mảnh thịt còn lại và đem rửa bằng nước vang . Sau khi nhặt hết cốt , rửa sạch , người ta trải tấm ni lông hay giấy trang kim ở dưới , tấm vải đỏ ở trên và lần lượt xếp xương theo thứ tự của người . Riêng cái sọ phải dùng trà hoặc vải kê để cho mặt hướng lên trên . Bên cạnh cáo sọ người ta xếp một ít giấy tiền mã xanh , là thứ tiền dùng cho người chết đi đường . Những người bốc mộ có kinh nghiệm , người đó phải biết cài 2 ống xương chân theo chiều dọc tiểu thật chắc chắn rồi mới tới 2 ống xương tay, xương sường phải xếp thành vòng cung .  Mọi thứ xương phải kiểm tra cho đủ , không được phép thiếu .Có một cách mà dân gian thường sử dụng để kiểm tra đó là: sau khi “đãi cốt” xong, người ta thường cắm một bó hương to giữa lòng đáy huyệt, nếu làn khói quyện lại, bay thẳng lên có nghĩa đã hết cốt, nếu làn khói tỏa xuống, lởn vởn trong lòng huyệt có nghĩa là xương cốt của người chết chưa hết, cần phải kiểm tra lại.Sau khi hoàn tất , người ta phủ tấm " Mền Quang Minh " lên trên và đóng nắp tiểu lại . Từ khi đóng nắp tiểu lại thì không được mở nắp ra nữa vì sợ ánh sáng lọt vào. Cũng cần nhớ là trong suốt quá trình chuyển tiểu tới nơi mới , cần cử một người ngồi cạnh tiểu rắc như thoi và lá tiền vàng mã để dẫn đường cho Vong biết đường mà đi về nơi mới. 
* Quách bằng vàng tâm và Ngọc Am có giá khoảng gần 100 triệu.




Quách Vàng tâm có sơn mài giá khoảng vài chục triệu.




Bộ Tiểu và Quách gốm Bát Tràng có giá khoảng 5 triệu một bộ.





Tiểu và quách bằng sành có giá khoảng 3 triệu một bộ.


Phủ " mền Quang Minh " lên Tiểu.


Xếp xương vào Tiểu.




Xin theo dõi tiếp BÀI 3 - dienbatn.
Xem chi tiết…

MỘT SỐ KINH NGHIỆM KHI CẢI TÁNG MỘ PHẦN CỦA DIENBATN. BÀI 1.

12/22/2014 |
MỘT SỐ KINH NGHIỆM KHI CẢI TÁNG MỘ PHẦN CỦA DIENBATN.


Hôm nay là ngày 22/12/2014 tức là ngày 1/11 năm Giáp Ngọ - Hành Hỏa - Trực Bình - Là ngày Đông Chí. Ngày Đông Chí hôm nay bắt đầu từ lúc 07 giờ 50 ( Ngày Đinh Mão - Tháng Bính Tý - Năm Giáp Ngọ ). Ngày Đông Chí là ngày có đêm dài nhất trong một năm và là ngày có ngày ngắn nhất trong một năm. Ngày Đông Chí là ngày khí nhất Dương sinh ra, là ngày khí Âm cực đại và bắt đầu có khí Dương sinh ra. Ngày này thường sinh ra gió Đông Nam thổi và chính vì vậy, ngày xưa Khổng Minh lợi dùng sự hiểu biết này để đốt chiến thuyền của Tào Tháo trong trận Xích Bích .Trái lại  , ngày Hạ Chí là ngày có ngày dài nhất trong năm, đêm ngắn nhất trong năm, là ngày khí Dương cực đại và khí Nhất Âm sinh ra. Trục Hạ Chí - Đông Chí cũng là trục để tính Âm độn hay Dương độn trong Kỳ Môn Độn giáp chính là vì lý do đó. 
Ngày hôm nay cũng chính là ngày kết thúc việc cải táng mộ phần. Bởi khi Dương khí sinh ra, sẽ ảnh hưởng đến xương cốt khi cải táng. 


Theo tài liệu của Huyền Trí bổ xung về ngày Đông Chí như sau : " Chúng ta lại nói về 1 vị đạo tổ.
Trước giờ, cứ nghĩ rằng đạo Phù Thuỷ thì theo tổ Thái Thượng, thậm chí người ta còn cho rằng các pháp sư theo đạo Phù Thuỷ thì theo Đạo Giáo.
Tam Thanh, gồm có 3 vị: Nguyên Thuỷ, Thái Thượng và Linh Bảo.
Đức Thái Thượng, là giáo chủ Đạo Giáo, có 72 đạo bùa, ngài là chuyên việc Luyện đan, tham thuyền.
Đức Linh Bảo, là giáo chủ Triệt Giáo, ngài chuyên việc tu tiên, tiếp độ cho cả muông thú, cây cỏ nếu có nhu cầu tu tiên. Xét ra, thì việc tu này giống như phong trào không có chọn lọc, ngược lại thì lại có nhiều vị thần là linh vật ra đời từ đây.
Đức Nguyên Thuỷ, là giáo chủ Xiển giáo, Ngài chuyên về bùa chú, lại định ngôi cho Ngọc Hoàng Kim quyết. Theo đạo của ngài thì độ cho người có căn duyên tu hành để thành địa tiên. Các sách vở từ thời Lê cho đến thời Nguyễn đều nhắc đến Xiển giáo, thời nay thì không ai biết Xiển giáo là đạo gì ở đâu do ai làm tổ. Vía ngài là ngày Đông Chí tức là ngày hôm nay. Các môn đồ đạo Phù Thuỷ ngày hôm nay, thường tổ chức lễ bái, tán tụng công đức, thụ nạp môn sinh, cấp đại biểu (áo lễ chùng), ban ấn pháp, chứng phẩm hàm, giáng tội, thưởng công. Các phép cúng đều dung vũ bộ (điệu múa cúng đi theo chòm sao) rất phức tạp."
Trải qua một thời gian khá dài  thực hiện việc cải táng, dienbatn xin chia sẻ với các bạn một số kinh nghiệm khi cải táng mộ phần như sau :

1/ THỜI GIAN CẢI TÁNG HÀNG NĂM.
Thông thường việc cải táng bắt đầu từ Trung Thu và kết thúc vào ngày Đông Chí hàng năm. Thời kỳ này khí Âm càng ngày càng mạnh và mạnh nhất chính là ngày Đông Chí - theo luật cùng tắc biến : Khi khí Âm cực đại thì khí Dương bắt đầu được sinh ra. Đây chính là thời gian tốt nhất để cho việc cải táng mộ phần. Năm nay Giáp Ngọ là năm có nhuận 2 tháng 9. Ta cũng cần nhớ rằng : 
Năm nhuận là năm:
Theo dương lịch, chứa một ngày dôi ra.
Theo âm-dương lịch, chứa tháng thứ 13.
Để đảm bảo đồng bộ việc lặp lại của năm trên lịch với năm thiên văn hay năm thời tiết.
Trong trường hợp dương lịch thì các mùa và các sự kiện thiên văn không lặp lại chính xác sau một số nguyên các ngày, vì thế năm dương lịch cứ sau một khoảng thời gian nhất định phải thêm vào một ngày để đảm bảo việc chỉnh lại các sai số do làm tròn năm.
Trong trường hợp âm dương lịch như lịch Trung Quốc thì do một chu kỳ quay của Mặt Trăng quanh Trái Đất là khoảng 29,53 ngày nên một năm âm lịch chỉ có khoảng 354 ngày (làm tròn). Do vậy, cứ sau một vài năm âm lịch thì người ta phải bổ sung một tháng (tháng nhuận) để đảm bảo năm âm lịch tương đối phù hợp với chu kỳ của thời tiết, là yếu tố phụ thuộc vào chu kỳ quay của Trái Đất xung quanh Mặt Trời.
Khái niệm năm nhuận không nên nhầm lẫn với các giây nhuận (dùng để đảm bảo cho thời gian của đồng hồ đồng bộ với ngày).
Âm lịch tính theo mặt trăng. Mỗi tháng theo quỹ đạo và hoạt động của mặt trăng có trung bình là 29,5 ngày. Vì vậy, một năm âm lịch chỉ có 354 ngày, bị ngắn hơn 11 ngày so với năm dương lịch. Và do đó, cứ 3 năm, năm âm lịch lại ít hơn 33 ngày, tức là khoảng 1 tháng so với dương lịch. Để âm lịch vừa đại điện được tuần trăng, vừa không sai lệch nhiều với thời tiết bốn mùa nên cứ 3 năm âm lịch người ta phải cho thêm một tháng nhuận (gấp đôi tháng đó) để năm âm lịch và dương lịch không sai nhau nhiều.
Nhưng với việc tính như trên, năm âm lịch vẫn chậm hơn so với dương lịch. Do đó, các nhà làm lịch lại phải nghĩ ra cách cứ 19 năm sẽ lại có một lần cách 2 năm thêm một tháng nhuận. Cụ thể, trong suốt 19 năm dương lịch sẽ có 228 tháng dương lịch nhưng chỉ có 235 tháng âm lịch. Do đó, thừa 7 tháng so với năm dương lịch, người ta gọi đó là 7 tháng nhuận.
Người ta sẽ tính, cứ tới mỗi chu kỳ 19 năm, thì bảy tháng nhuận đó sẽ được thêm vào các năm theo quy ước chung đó là năm thứ 3, 6, 9 hoặc 8, 11, 14, 17, 19.
Với năm âm lịch, muốn tính năm nhuận lấy năm dương lịch tương ứng với năm âm lịch đó, chia cho 19, nếu số dư là một trong các số sau: 0, 3, 6, 9 hoặc 11, 14, 17 thì năm âm lịch đó có tháng nhuận.
Theo đó, năm 2014 chia cho 19 được chẵn 106 nên năm này là năm nhuận âm lịch vào tháng Chín. "
Như vậy chúng ta thấy rằng, tháng nhuận tức là thời gian không theo kịp Tiết Khí nên người ta phải thêm vào cho phù hợp với Tiết Khí. Tháng nhuận là tháng mà Khí không thuần, chính vì vậy trong việc cải táng mộ phần người ta thường không thực hiện trong tháng này. Năm nay nhuận tháng 9, tức là có hai tháng 9 âm, người ta không cải táng, khai trương, cưới hỏi hay làm các việc trọng đại khác vì Khí của tháng không thuần.
Do vậy, năm Giáp Ngọ 2014, việc cải táng chỉ thực hiện vào tháng 8 và trọn vẹn tháng 10 âm lịch mà thôi.

2/ KINH NGHIỆM XÁC ĐỊNH MỘ KẾT .


Việc đầu tiên trước khi chúng ta muốn cải táng hoặc quy tập mộ là phải xem mộ đó như thế nào ? đã đủ thời gian cải táng chưa ?Mộ đó có kết hay phạm trùng không ?Mộ kết là mộ đã thụ được Linh Khí của Long mạch, tụ khí lại trong mộ và làm cho con cháu trong dòng họ đó làm ăn thuận lợi,gia đình , dòng họ thuận hòa và mạnh khoẻ. 
Mộ kết là mộ khi đặt vào vùng có trường khí tốt , đã quán Khí ( tức là thu nhận được năng lượng của Địa Huyệt ) . Gia đình có mộ Kết thường là đang làm ăn phát đạt , con cháu học hành , công tác đều tốt . Bản chất của việc kết mộ , hiện chưa có một tài liệu nào nói cho rõ ràng cả , song trong quá trình đi khảo sát hàng trăm ngôi mộ , dienbatn có nhận xét như sau : Thường là do phúc phận của dòng họ tới ngày thịnh phát , nên có thể do chủ định ( Nhờ thày Địa lý đặt mộ ) , hoặc do vô tình ( thường là trường hợp Thiên táng rất bất ngờ ) đặt được vào trúng Long Huyệt ( Hay còn gọi là vùng có năng lượng tập trung ) . Đừng cứ tưởng là chỉ có những Long mạch khổng lồ kết Huyệt mới có mộ kết . Bản thân dienbatn đã chứng kiến nhiều trường hợp chỉ có một con Long nhỏ cũng đủ để kết mộ và gia đình của họ làm ăn rất phát đạt .
Việc phân biệt mộ thường ( có thể bốc hay di dời ) với những ngôi mộ Kết ( Tuyệt đối không được di dời ) , thực ra cũng cần phải hết sức cẩn trọng . Theo nhận xét của dienbatn , thứ nhất là : những ngôi mộ Kết , thường thì đất ngày càng nở ra , làm cho ngôi mộ cứ to dần , nhiều khi to như một cái gò . Mặt khác , cây cối trên và xung quanh ngôi mộ thường là rất xanh tốt ( Đây là biểu hiện của vùng đất có Sinh Khí ) . Thứ hai có thể nhìn nhận một cách trực quan một ngôi mộ Kết là : những viên gạch , nhất là gạch men hay đá ốp vào mộ thường sáng bóng như có chùi dầu . Thông thường , các ngôi mộ , ít chăm sóc lau chùi thường xuyên thường có bám một lớp bụi ( dày hay mỏng do nhà chủ có thường xuyên chăm sóc hay không ) , nhưng tại những ngôi mộ Kết , ta thấy những viên đá hay gạch ốp vào luôn như vừa được chùi rửa sạch sẽ , sáng bóng .Một cách khác nữa là khi ngồi bên một cái mộ Kết , ta cảm thấy như có một luồng hơi ấm áp , tràn đầy Sinh lực thấm vào người , làm cho ta cảm thấy cực kỳ thoải mái , dễ chịu .
Để có thể xác định được mộ có Kết hay không , ngoài những nhận xét về tình trạng bên ngoài như trên , ta còn cần phải nhờ các thày Địa lý có kinh nghiệm hoặc nhờ các nhà Ngoại Cảm xem xét giúp .
Có nhiều cách để kiểm tra mộ kết như bằng các phương pháp Cảm xạ, ngoại cảm, cảm nhận trường Khí...Có thể quan sát bằng mắt thường sẽ thấy ngôi mộ đó càng ngày càng nở ra do được tích tụ Linh khí của Long mạch, giống như những cái gò thường nổi lên do hiện tượng dư khí của Long mạch trên cánh đồng. Trên các ngôi mộ kết thường cỏ mọc rất nhanh và xanh tốt. Tại Hà Tĩnh, có ngôi mộ kết khi người nhà đi thăm mộ, khi về vứt bỏ những đoạn thân của bó hoa cúc ra ven mộ, vài ngày sau những đoạn thân đó đã mọc ra những cây cúc hết sức tươi tốt. Người xưa cũng dùng phương pháp này để xác định Huyệt kết. họ cắm những cành cây khô vào những cuộc đất nghi có mộ kết, nếu những cành khô đó nẩy mầm xanh tốt thì gần như chắc chằn nơi đó có Huyệt kết. Một quan sát khác nữa là nhìn những viên đá , bia mộ tại Huyệt, nếu mộ kết tức là làm cho những viên đá, bia mộ đó bóng loáng lên như được lau chùi bằng dầu bóng.Khi gặp trường hợp Mộ kết, tốt nhất là để nguyên không được dịch chuyển vì sẽ gây ra vô vàn rắc rối trong cuộc sống của dòng họ. Nếu bắt buộc phải di dời vì lý do nào đó phải có những phương thức của Huyền môn và Phong thủy rất phức tạp mới có thể di dời.Khi mộ kết, thông thường kết từ chân lên tới đầu, cũng có vài ngôi mộ do kết cấu của Long mạch và của mộ sẽ kết theo chiều ngược lại. Có các dạng kết như kết mạng nhện, kết tơ hồng, kết băng, kết chu sa...Có các màu từ xám đến trắng, hồng, đỏ như chu sa là loại mạnh nhất. 


3/ KINH NGHIỆM XÁC ĐỊNH MỘ PHẠM TRÙNG.
Một loại khác người ta thường hay nhầm với mộ kết là mộ bị phạm trùng.Có nhiều loại trùng nhưng biểu hiện rõ nhất tại mộ là xác chôn qua nhiều năm không tan. Có những khu vực có hàng loạt mộ chôn tới hàng chục năm xác cũng còn gần như nguyên vẹn. dienbatn đã thấy nhiều lần cảnh người nhà họ phải cầm dao róc lấy xương cốt, hình ảnh thật rùng rợn. Nguyên nhân của việc phạm trùng thường có mấy nguyên nhân như sau :
* Do khu vực đất chôn bị yếm Khí .
* Do người chết trước khi mất bị bệnh, nhất là bệnh ung thư phải dùng hóa trị hay xạ trị, hay dùng quá nhiều thuốc kháng sinh làm cho thân xác khó tiêu hủy.
* Do khi liệm, người ta cho người mất mặc quá nhiều quần áo, nhất là loại quần áo bằng nilon làm cho quá trình phân hủy khó xảy ra.
* Một trường hợp khác làm cho thi thể khó phân hủy là quan tài làm bằng gỗ cây Thị. Không rõ nguyên do nhưng qua quá trình cải táng mộ phần, dienbatn thấy rằng, những quan tài làm bằng gỗ cây Thị thì các thi thể hầu như còn nguyên vẹn sau hàng chục năm.
Khi cải táng gặp phải trường hợp xác không tiêu hủy dù đã chôn hàng chục năm, người ta thường xử lý theo một số cách như sau :
- Mở hé nắp ván Thiên ( là tấm ván trên cùng của quan tài ) , dùng kéo cắt dọc quần áo người mất cho hở thân thể ra rồi đổ rượu mạnh hay nước cháo loãng vào , sau đó đậy nắp lại , lấp đất như cũ và để sang năm mới tiếp tục cải táng.
- Có thể dùng nước muối đặc đun nóng đổ vào quan tài từ lúc phạt nấm và hé mở ván Thiên ( thường vào buổi chiều tối ngày hôm trước ). Để từ chập tối đến khoảng gần sáng tiếp tục cải táng , thi thể sẽ bị phân hủy hết. Theo một số vị bốc mộ chuyên nghiệp, có thể dùng nước điếu ( Điếu hút thuộc Lào ) đổ xuống quan tài cũng làm cho thi thể mau phân rã. 
- Người ta có thể dùng bột cây Ngải Hổ rắc xuống và đọc chú , chỉ vài tiếng sau xác sẽ phân hủy hết.
- Nếu người tu Mật Tông gặp trường hợp này hãy đọc chú Uế Tích Kim Cang có tác dụng phân hủy xác rất nhanh.
- Trong trường hợp thi thể không tan của người bị gù hay sau khi chôn thi thể bị co lại giống như người gù , để thi thể dãn ra, người ta đổ khoảng 20 lít rượu mạnh vào quan tài.
- Trường hợp thi thể không tan sau quá nhiều năm , cách xử lý tốt nhất là cho lại vào áo quan mới và đưa đi hỏa táng ở Đài hóa thân Hoàn Vũ. Làm cách này vừa sạch sẽ vừa nhanh chóng và đảm bảo .

4/ KINH NGHIÊM DÂN GIAN CỦA NHỮNG NGƯỜI CHUYÊN BỐC CỐT ĐỂ PHÁT HIỆN THÂN XÁC ĐÃ SẠCH HAY CHỨA ?
Qua quá trình tiếp xúc với rất nhiều toán chuyên bốc cốt khi cải táng, dienbatn được truyền lại một số kinh nghiệm để có thể xác định được một ngôi mộ chuẩn bị cải táng đã sạch xương như thế nào ?
Theo lời một số vị có thâm niên bốc hài cốt ở nhiều nơi , người ta có thể biết được hài cốt dưới mộ đã " sạch " chưa bằng một số kinh nghiệm như sau :
- Theo quan sát loại cỏ mọc ở trên mộ.
- Quan sát theo các loại sinh vật làm tổ trên mộ như các loại tổ kiến, tổ rắn, tổ chuột...
- Cảm nhận nhiệt độ của đất khi phạt nấm...
- Riêng dienbatn sử dụng phương pháp Cảm xạ , qua thời gian khá dài , chưa bị sai lầm lần nào.

5/ XÁC ĐỊNH ĐỘ SÂU CỦA HUYỆT MỘ MỚI KHI CẢI TÁNG.
PHÂN KIM ĐIỂM HƯỚNG - TÍNH TOÁN ĐỘ SÂU VÀ THỜI GIAN ĐẶT MỘ.
Khi tính toán thiết kế -  Cần phải  tính toán phong thủy những yếu tố sau :
* Hướng của Thiên môn ( Đường nước đến ) - Địa hộ ( Đường nước chảy đi ) - Lấy Huyệt mộ làm chuẩn .
 * Quan sát tổng quát về Long - Huyệt - Sa - Thủy của cuộc đất .
*  Xác định chính xác khu vực kết huyệt là nới tận cùng của lai Long, nơi Sinh khí hội tụ , nơi mà Âm - Dương giao hòa, Khí mạch tụ lại kết thành Huyệt.
* Xác định được chính xác kiểu Huyệt : a/ Thạch Huyệt : Là Huyệt mộ ở trong đá, chọn chỗ đá mềm và ấm, dễ đào khoét hoặc chỗ đá có màu tím hay trắng thì được coi là cát Huyệt. nếu đất đá cứng, khô, lạnh lẽo thì là hung Huyệt. Thạch Huyệt mềm, khoét sâu 20-30 cm ( nhiều nhất là 40 cm ), sau đó để tiểu vào và lấy đất liền thổ ( đất tốt, sạch ) lấp lại, cuối cùng là đắp thành nấm. Nếu khoét sâu quá là bị thoát khí.
 b/ Thổ Huyệt : Là Huyệt mộ trong đất, chọn chỗ đất có chất mịn, hạt nhỏ, chắc chắn ( Nếu quá ẩm , thấp tơi tả là hung ). Hoặc chọn chỗ đất có mầu hồng, màu vàng, có ánh kim là tốt. Lưu ý là Huyệt phải đào sâu đến mạch Khí mới tốt.Thổ Huyệt có 3 loại đất :  Phù Thổ, Thực Thổ, Huyệt Thổ .  



* Phù Thổ là lớp đất mặt trên cùng của Huyệt mộ.
* Thực Thổ là phần đất ở sau lớp Phù Thổ ta hay gọi là đất liền thổ.
* Huyệt Thổ là lớp đất dưới lớp Thực Thổ . Đây chính là vùng đất tích tụ Sinh Khí của Long mạch, quý báu như ngọc trong đá. Khi đào Huyệt nhất thiết phải đào đến lớp Huyệt Thổ . Tuy nhiên tuyệt đối không được đào xuyên qua lớp đất Huyệt Thổ, vì Huyệt Thổ tàng trữ Sinh khí, nếu chưa đào đến lớp đất này thì chưa lấy được Khí mạch rót vào Huyệt, còn nếu đào xuyên qua sẽ làm tổn thương Long mạch, thậm chí cắt đứt Long mạch . Trường hợp đào xuyên qua Thổ Huyệt không còn là táng nữa mà chính là hiện tượng trấn yểm, cắt đứt Long mạch . Do vậy khi lấy chiều sâu của Huyệt phải hết sức thận trọng , đòi hỏi phải có sự tinh thông về Thổ Huyệt. Để phân biệt được Thổ Huyệt phải căn cứ vào loại Long mạch, màu sắc cũng như đường vân của thớ đất. Đường vân của Thổ Huyệt thường có nhiều dạng như hình Thái cực, như vân của vỏ ốc, hoặc như lỗ vuông của đồng tiền cổ hoặc có những sợi ánh vàng , đỏ xen nhau thì chính là Huyệt Thổ. Khi đào đến Huyệt Thổ hoặc nghi ngờ đó là Huyệt Thổ ta phải bốc một ít đất và dùng tay vê thử , nếu đất thành viên tròn thì đó chính là chân Thổ, có thể cho đào sâu xuống nữa. Lưu ý cố gắng đào với diện tích hết sức nhỏ, chỉ vừa đủ đặt quách và tiểu là tốt nhất - Đào lớn quá sẽ gây đứt Long mạch. Nếu đào tới độ sâu mà không thể vê đất thành viên được tức là lúc đó phần đất Huyệt Thổ đã hết . Như vậy chúng ta thấy rằng, khi táng , quách phải nằm trọn trong lớp đất Huyệt thổ và lỗ đào không quá lớn để không làm tổn thương Long mạch. 
Do vậy , người ta không có công thức chung cho độ sâu của Huyệt mộ, chỉ có thể ngồi tại chỗ và quan sát các tầng đất để có thể đặt quách và tiểu nằm lọt vào trong lớp đất Huyệt Thổ. 
Thông thường làm mộ đúng trong thời gian từ Trung Thu đến ngày Đông Chí thì lớp đất Huyệt Thổ chỉ còn sâm sấp một lớp nước mỏng ( Trừ trường hợp riêng biệt như dienbatn gặp vừa rồi, do người ta tát cả một cái hồ lớn và xả nước ra khu vực mộ ).

6/ MỘT LƯU Ý QUAN TRỌNG.
- Khi xây dựng Huyệt mộ, người ta chỉ xây ở xung quanh bằng gạch chỉ và phần dưới cùng, đất phải để nguyên đất Huyệt Thổ, không được trát vữa hay đổ bê tông vào lòng Huyệt. Làm như vậy sẽ ngăn cản Địa Khí không nhập vào Huyệt mộ được. Dưới đáy Huyệt, người ta phải đánh độ dốc khoảng 3 độ từ Đầu tới Chân ( Đầu cao hơn chân ).
- Khi gặp trường hợp đất đào Huyệt mộ chẳng may gặp phải đất là Huyệt hung táng đã cải đi rồi, tốt nhất là tránh ra chỗ khác. Trường hợp bất khả kháng , người ta phải đào hết đất cũ đi đến phần đất liền thổ và đắt Quách và tiểu chìm hẳn vào lớp đất liền thổ đó. Sau khi lấp Huyệt , người ta phải dùng đất sạch ( tốt nhất là đất phù sa sông ) để lấp. Kinh nghiệm của dienbatn là trong quá trình lấp đất vào Huyệt mộ, lớp đầu tiên người ta dùng cát để cố định Quách không cho dịch chuyển sau khi đã Phân Kim - Điểm hướng. Lấp khoảng 1/3 chiều cao của Quách người ta mới cho đất mịn xuống tiếp cho đến khi ngang mặt trên của Quách. Tiếp sau đó mới cho đất cục lớn và lấp dần tới cách mặt đất khoảng 40 cm. Lúc này , phải cho một lớp cát có chiều dày khoảng 10 - 15 cm phủ lên trên. Mục đích của lớp cát này là để chống mối không cho ăn vào Quách. Khi những con mối đào hang tới lớp cát sẽ bị cát sụt xuống làm sập lỗ đào , khiến con mối đó bị giữ lại và chết trong lớp cát đó. Lưu ý là sau khi hạ quách xuống, phải cho tấm bia cũ ở mả hung táng xuống phía chân Quách. Sau đây là một số hình ảnh quá trình hạ mộ và thu Khí về Huyệt mộ do dienbatn thực hiện.



Đặt quả Cầu Thu Khí vào tâm của Huyệt mộ.


Phủ tiểu nằm trong Quách bằng tấm " mền Quang Minh "


Nếu Quách quá nặng, có thể đưa Quách xuống trước để phân Kim - Điểm Hướng , sau đó mới cho tiểu vào.

Tấm bia cũ để phía chân Quách.



Lưu ý : Trên tiểu và Quách người ta thường làm những hoa văn phía đầu và chân khác nhau . Phía đầu có chữ Phúc hình tròn, phía chân chữ Phúc hình vuông. Dân gian thường nói " Đầu tròn - Đít vuông " cho dể nhớ. Cần lưu ý điều này khi đặt tiểu vào trong Quách và khi đặt Quách xuống Huyệt mộ. Riêng trường hợp ngày xưa tiểu thường không có nắp mà đậy bằng những viên gạch có bản rông, ta quan sát thông thường phần đầu có 2 lớp gạch và phần chân chỉ có 1 lớp gạch.


Phân Kim - Điểm Hướng.


Lấp tầng cát chống mối.


Thực hiện " Dẫn Long và Thu Khí "



Sau đó người ta mới thực hiện dải tiền Âm và tiền Dương xuống mộ. Một vài nới người ta dải 5 loại đậu ( năm mầu và những đồng xu cổ xuống mộ.



Lấp mộ cho bằng mặt đất.

Mở Trận Đồ.



Sau cùng là xây mộ hay đặt mộ đá lên trên.





Cuối cùng là đổ đất phù sa vào trong lòng mộ và trồng hoa mười giờ lên trên.



( Còn tiếp )

Xin theo dõi tiếp BÀI 2 - dienbatn.
Xem chi tiết…

THỐNG KÊ TRUY CẬP

LỊCH ÂM DƯƠNG

NHẮN TIN NHANH

Tên

Email *

Thông báo *