THẦN THÁNH TRUNG HOA .NHƯỢC THỦY DỊCH . BÀI 10.

4/06/2015 |
THẦN THÁNH TRUNG HOA
Bản dịch của Nhược Thủy - dienbatn giới thiệu.

LỜI NÓI ĐẦU : Đây là bản dịch rất công phu của Nhược Thủy trong trang Hoangthantai . Nay không còn thấy trang này hoạt động nữa. dienbatn chép lại vào đây để làm tư liệu . Mong bác Nhược Thủy cảm thông.
 THẦN THÁNH TRUNG HOA TẬP  I
Lời giới thiệu:- Nhận thấy từ trước đến nay, người Việt Nam chúng ta theo phong tục tập quán của người Trung Hoa, nên đã tin tưởng và thờ phụng rất nhiều vị Thánh, Thần giống như người Trung Hoa. Tài liệu giải thích về các Ngài thì quá ít và không có cơ sở khảo cứu , chỉ theo truyền khẩu nhiều hơn. Nay tôi xin cố gắng dịch những tài liệu nầy từ một Website có uy  tín và khảo cứu cẩn thận, xin kính tặng tất cả huynh đệ trong 4R-HTT. Nếu có chỗ nào sai sót, xin quí cao nhân hoan hỉ chỉ bảo cho (kèm theo nguyên tác  để quí vị dễ đối chiếu).
Xin thành thật cảm ơn quí huynh đệ.
Nhược Thủy
( Mùa Hạ năm Mậu Tí-2008).
Phần bổ sung cho bài “Huyền Thiên Thượng Đế”
48.HÒA  HỢP    NHỊ  TIÊN .

和合二仙
  寒拾亭.豐幹橋,從隋塔下方經過七佛塔進國清寺,必經一亭一橋。亭名“寒拾亭”,橋名“豐幹橋”。這是為紀念唐代國清寺內寒山、拾得和豐幹三位高僧而命名的。
  寒拾亭,飛簷翹角,石砌門窗,亭名取自寒山、拾得兩人名字。亭的前後有“五峰勝境”和“萬松深處”的匾額。
  寒山和拾得,在我國民間稱“和合二仙”,是相親相愛、情深義重的象徵。
  相傳唐代時,隱居在天臺寒岩的詩人寒山(也稱寒山子),一天離寒岩到國清寺,半路上聽到有嬰兒的啼哭聲,聞聲尋去,只見路旁草叢中遺棄著一個嬰兒。寒山將他抱在懷中。說來也怪,這個嬰兒見風就長,一條嶺還沒有走完,嬰兒已長成了小孩。寒山問他為何被棄路旁,小孩說等候詩仙。問他的名字,他說沒有名字。寒山因其拾自路旁,就給他取名為“拾得”。以後,這條小嶺也叫做“拾得嶺”。
寒山和拾得來到國清寺,只見古刹莊嚴,香客如雲,一派鼎盛興旺之象,就捨不得離去,要求方丈讓他們留在寺裏燒火做飯。
  寒山與拾得在寺中形影不離,情同手足。一年,有位越州汪氏,由女兒芙蓉陪同來寺進香。不料汪氏在寺中一病不起,臨終前叫芙蓉請來寒山、拾得兩人,汪氏說:“眼看病已難愈,我把芙蓉託付兩位,望你們今後以手足相待,最好能與他們中的一個結為夫妻……”
  從此以後,兩人待芙蓉更是情同手足,拾得與芙蓉年齡相仿,後業漸生愛慕之情,而有的人見寒山年長無妻,卻希望寒山與芙蓉結成夫妻。
  一天清早,寒山砍柴回來,見芙蓉的房裏點著燈,感到有些奇怪,走近窗邊一聽,原來芙蓉在傷心地哭,拾得正在旁勸說。寒山正準備進去問個究竟,只聽得拾得對芙蓉說:“芙蓉,不要哭了,我們暗暗相好,寒山並不知道,他如果知道了,一定會成全我們的。我和你雖然不能結為夫妻,但你永遠是我的好妹妹。”
  寒山一聽,才知拾得與芙蓉早已相愛,當即打定主意,離寺遠走,以成全他們兩人。寒山走出小院一想,自己不明不白的離去,一定要把拾得、芙蓉急壞,又轉身回到院裏,拿起一塊石頭,在牆上畫了一個光頭和尚,旁邊留了一首五言詩:“相喚采芙蓉,可憐清江裏。……此時居舟楫,浩蕩情無已。”寫完後,寒山就悄悄地出走了。
  拾得、芙蓉不見寒山回來,好生奇怪,後來看見牆上的詩和畫,才知道他出家做和尚去了。拾得說:“我一定要把他找回來,哪怕找到天涯海角,如果找到了,我與他一起出家,如果找不到,我也不回來了。”芙蓉聽罷,知道寒山拾得的真情厚義,只好哭著與拾得分別。
  拾得為了尋找寒山,不管山高路遠,找了很多地方還是不見蹤跡。一天他找到蘇州城,一打聽,聽說城外楓橋的一座寺院新來了一個和尚,相貌與寒山相象,他立即快步前往。走進楓橋,拾得想,我不能空手去見寒山,就在荷塘裏摘了一朵又紅又大的荷花,捧在手裏走進寺院。
  寒山聽說拾得千里迢迢而來,想必腹中饑餓,急忙從房中捧出一隻盛著素餅的竹編食盒。二人相見,寒山送盒,拾得獻荷。從此傳為佳話,後人把捧荷的拾得稱為“和”(諧音),把捧盒的寒山稱為“合”,兩人合稱為“和合二仙”。
  蘇州楓橋這座寺廟也因寒山居住而出了名,以後改稱“寒山寺”。直到現在,寒山寺裏還塑著和合二仙相親相愛的塑像。
  過寒拾亭不遠,就是豐幹橋,橋下清流潺潺,橋頭有石獅守護,顯得古樸莊嚴。為什麼要取名豐幹橋呢?這裏也有原故。
  豐幹出身唐代官家,父親做過尚書,他雖是官宦子弟,卻出家做了和尚,經過披頭散髮,穿著破爛衣衫,在國清寺裏當舂火僧,與寒山、拾得相親,後人稱他們三人為“三賢”。

其時,有個叫閭丘的貪官,對上吹牛拍馬,對下心狠手毒。他患了一種惡疾,渾身作痛,到處求醫都沒有醫好。這一年,他出任赤城郡(今台州)刺史,上任途中遇見豐幹,豐幹用一碗水消除他的病痛,閭丘又驚又喜,知道豐幹不是一般的和尚,趕忙相問:“本官前去上任,未知仕途如何?”豐幹說:“此去赤城,你定要拜謁文殊、普賢兩位仙人。”閭丘又問:“不知文殊、普賢住在何處?是何模樣?”豐幹說:“在天臺山國清寺,只怕你到了那裏見之不識,識之不得……”說罷就揚長而去。
  閭丘到赤城後,即去國清寺,在橋上碰見寺僧道翹,便問:“請問文殊、普賢兩位仙人可在寺中?”道翹不解其意,回答說:“寺裏並無仙人。”閭丘又講了兩個人的容貌,道翹想了一想說:“噢!你要找這兩個人嗎?正在伙房裏燒火。”
  閭丘趕到伙房,只見有兩人在灶下談笑,相貌與豐幹說的一模一樣,便恭恭敬敬地拱手道:“兩位可是文殊、普賢仙人?”寒山、拾得聽了哈哈大笑,連聲說:“豐幹饒舌,豐幹饒舌,我等貪賤,非神非仙,與官人無緣,請出,請出。”說罷,兩人拍著雙手,不別而去。閭丘被弄得目瞪口呆,霎時間身上的病痛又發作起來。這就是流傳在這裏的豐幹戲閭丘的故事。
HOÀ  HỢP    NHỊ   TIÊN
(Đình Hàn Thập –Cầu Phong Can)
1/- Đình HÀN  THẬP  :- 
Trên đường từ bảy cái tháp Phật đi vào chùa Quốc Thanh, phải đi ngang qua một cái đình, một chiếc cầu . Đình có tên là “Đình Hàn Thập” và cầu có tên là “Cầu Phong Can”. Đây là những vật kỷ niệm lấy tên ba vị cao tăng  ở chùa Quốc Thanh đời  Đường.
Đình Hàn Thập rất cao lớn uy nghi, bậc thềm  và cửa bằng đá . Ngôi đình nầy lấy tên của hai vị Hàn Sơn và Thập Đắc ghép lại thành Hàn Thập. Trước cửa đình có treo hai tấm bảng lớn đề “Ngũ Phong Thắng Cảnh” (cảnh đẹp của năm non)  và “Vạn Tùng Thâm Xứ” (xứ sâu muôn cây tùng).

Hàn Sơn và Thập Đắc được nhân dân Trung Quốc xưng là “Hòa Hợp Nhị Tiên”, để ca tụng và biểu trưng  sự tương thân tương ái, tình sâu nghĩa nặng của hai người.

*Tương truyền vào thời nhà Đường, có một thi nhân ẩn cư trên núi Thiên Đài Hàn Nham tên là Hàn Sơn (xưng là Hàn Sơn Tử). Một hôm rời núi Hàn đến chùa Quốc Thanh, trên đường đi, chợt nghe tiếng khóc của đứa trẻ trên một ngọn đồi nhỏ. Lần theo hướng phát ra tiếng khóc, phát hiện trong đám cỏ rậm  có một trẻ sơ sinh bị bỏ rơi. Hàn Sơn bèn nhặt lên, ôm vào trong lòng. Nhưng thật quái lạ làm sao, có trận gió lạ thổi qua, đứa bé vụt thay hình đổi dạng, lớn lên một cách nhanh nhẹn dị thường, thành một đứa trẻ mười tuổi. Hàn Sơn vô cùng kinh ngạc, nhưng chẳng tỏ ra chút sợ hãi. Hàn Sơn hỏi nó là ai mà bị bỏ rơi ở đây, nó đáp là “Hầu Thi Tiên” (vị tiên làm thơ hay).Hỏi đứa bé tên gì. Nó đáp là không có tên. Nhân vì ông ta “nhặt được” nó ở bên đường nên đặt tên cho nó là Thập Đắc (nhặt được, tức như Bé Lượm). Sau nầy, dân gian gọi ngọn đồi ấy là đồi Thập Đắc. 
*Hàn Sơn và Thập Đắc đi đến Chùa Quốc Thanh, thấy đó là một ngôi chùa cổ, khách hành hương rất đông, thật là một nơi hưng thịnh. Hai người từ bỏ ý định quay về, liền vào xin với Phương Trượng cho ở lại , để phụ công việc bếp núc cơm nước đãi khách đến viếng chùa.
*Hai người Hàn Sơn và Thập Đắc sống tại chùa rất là tâm đắc, không khi nào lìa nhau, coi nhau hơn người ruột thịt, trải qua thời gian gần mười năm.
*Một năm nọ, có người đàn bà ở Việt Châu là Uông Thị, cùng  với đứa con gái tên Phù Dung , mười sáu tuổi , đến viếng chùa Quốc Thanh để dâng hương. Chẳng may, Uông Thị tự nhiên khởi bạo bệnh, thuốc thang không hết. Bà biết mình không thể sống được, bảo Phù Dung gọi Hàn Sơn và Thập Đắc đến trăn trối :-“Tôi biết mình không sao thoát chết, nay có lời tâm huyết dặn dò lại hai vị, xin lấy tình cảm chân thành mà bảo bọc giùm con gái tôi. Hay nhất là một trong hai người sẽ kết duyên với nó, như vậy tôi mới an lòng nhắm mắt”. Hai người bằng lòng. 

*Từ đó, Phù Dung và hai người sống cùng nhau dưới mái chùa Quốc Thanh, rất thương yêu đùm bọc lẫn nhau. Hàn Sơn lớn tuổi nên có kinh nghiệm sống, chăm lo cho Phù Dung rất chu đáo, nên dần dần tình cảm gắn bó giữa hai người phát sinh. Người ngoài thấy anh ta đã lớn mà chưa có vợ, thường hay xúi biểu anh lập gia đình với Phù Dung.
-Một hôm nọ, vào sáng sớm Hàn Sơn đi kiếm củi trở về . Thấy trong phòng của Phù Dung còn đốt đèn, lại có tiếng nói chuyện. Hàn Sơn lấy làm lạ, đến gần bên cửa sổ lắng nghe. Hóa ra là Phù Dung vì nhớ mẹ nên khóc, Thập Đắc vào dỗ dành. Y nói :- “Phù Dung đừng khóc nữa, chúng ta cùng trang lứa nên dễ thông cảm nhau hơn, chắc Hàn Sơn chưa biết chuyện chúng mình đâu. Mà dẫu có biết, nhất định Hàn Sơn cũng vui vẻ thành toàn cho hai ta mà thôi. Ta và nàng tuy không thể kết làm vợ chồng, nhưng mãi mãi nàng vẫn là đứa em gái dễ thương của ta thôi”.
-Hàn Sơn nghe xong, biết là Thập Đắc và Phù Dung yêu nhau, nên nãy ra ý định bỏ chùa mà đi để cho hai người kết hợp nhau.
Lúc ra đi, Hàn Sơn sợ hai người không biết mà lo âu, nên đến bên bức tường, vẽ hình một hòa thượng đầu trọc và viết bài thơ ngũ ngôn:-
“Tương hoán thể Phù Dung,
Khả liên thanh giang lý
…………….. 
Thử thời cư châu tiếp,
Hạo đãng tình vô dĩ”.
*Dịch:-
Tạ từ Phù Dung đẹp,
Đáng thương trên sông Thanh.
…………………. 
Ta sống đời lênh đênh,
Mênh mông tình chẳng tận”
-Viết xong, Hàn Sơn ra đi.
*Thập Đắc và Phù Dung không thấy Hàn Sơn đâu, liền ra ngoài tìm. Chợt thấy hình ảnh và bài thơ trên tường, biết là Hàn Sơn đã bỏ đi , sẽ xuất gia làm Hòa Thượng. Thập Đắc nói :- “Ta nhất định phải đi tìm cho bằng được Hàn Sơn, dù cho phải đến chân trời góc biển. Tìm được rồi, ta sẽ cùng anh ta xuất gia một lượt. Còn nếu không gặp, ta quyết không trở về”. Tội nghiệp cho nàng Phù Dung, nghe nói như vậy và lâu nay cũng hiểu tình cảm khắn khít của hai người, đành nuốt lệ tiễn Thập Đắc lên đường.
*Thập Đắc đi tìm Hàn Sơn, chẳng nề hà đói khát vất vả, không ngại ngùng núi cao sông dài, nhiều nơi đi qua mà vẫn bặt tăm dấu thỏ. Một hôm, đến thành Tô Châu, hỏi thăm thì có người cho biết là, ở ngoại thành gần Phong Kiều có ngôi chùa đẹp, có một vị  tu  sĩ ở đâu mới đến. Qua sự mô tả về tướng mạo thì biết đúng vị ấy là Hàn Sơn. Thập Đắc mừng rỡ, vội vàng đi đến chùa. Đến Phong Kiều, Thập Đắc suy nghĩ, chẳng lẽ mình đến tay không, liền xuống ao sen cạnh đó bẻ một đóa sen đỏ thắm to đẹp, nâng niu trên tay vui vẻ đi vào chùa.
*Hàn Sơn được nhà chùa báo là có người tên Thập Đắc muốn gặp, cũng hết sức mừng rỡ. Bụng nghĩ chắc Thập Đắc đi đường xa rất đói , nên vào phòng lấy một cái bánh bao chay to, bỏ vào hộp tre đựng thức ăn   mang đi.
Hai người gặp nhau, mừng mừng tủi tủi, trao tặng nhau món quà đơn sơ mà thắm đậm tình nghĩa. Thập Đắc tặng đóa hoa sen (=hà :- 荷  hoa sen, đồng âm với Hòa:- 和 chung lại với nhau). Hàn Sơn tặng chiếc hộp bánh (=hạp 盒:- cái hộp, đồng âm với Hợp :- 合nghĩa là  ăn ý với nhau) (Thành ngữ:- Hàn Sơn tống hạp, Thập Đắc hiến hà). Câu chuyện ấy trở thành giai thoại thú vị về sau, gọi là chuyện “Hai Tiên Hòa Hợp” (hòa hợp nhị tiên).
*Ngôi chùa bên  cạnh cầu Phong Kiều ở Tô Châu từ đó đổi tên thành “Hàn Sơn Tự”.
- Hiện nay,  trong chùa Hàn Sơn vẫn còn treo bức họa của “Hòa Hợp Nhị Tiên”, để ca tụng  và biểu trưng  sự tương thân tương ái, tình sâu nghĩa nặng của hai người.
2/- Cầu PHONG CAN:-
Qua khỏi đình Hàn Thập không xa, thì thấy Cầu Phong Can . Dưới cầu nước chảy róc rách. Trên đầu cầu, có tượng “Sư tử đá” để gìn giũ, nói lên sự trang nghiêm của cảnh vật nơi đây. Vì sao cầu lại có tên là Phong Can. Do vì câu chuyện kể sau:-
Phong Can xuất thân là một vị quan ở thời nhà Đường, phụ thân đã từng làm quan đến chức Thượng Thư, ông ta tuy là con cháu dòng dõi danh gia thế phiệt, nhưng lại phát tâm xuất gia . Vào chùa, ông sống rất đạm bạc và khiêm tốn, lãnh phần nấu ăn ở nhà bếp. Vì thế, rất thân thiết với Hàn Sơn và Thập Đắc, người sau xưng ba người là “Tam Hiền”.
*Một lúc nọ, có một vị tham quan tên Lư Khâu, làm thân trâu ngựa cho bề trên, nhưng đối với kẻ dưới thì vô cùng tàn ác thâm độc. Ông quan nầy bị một chứng bệnh lạ là toàn thân đau nhức, đã tìm khắp danh y mà vẫn không biết nguyên nhân và cách chữa trị.
Vào năm nọ, Lư Khâu được bổ nhậm làm Thứ Sử  ở  Quận Xích Thành (Châu Kim Đài) . Trên đường đi phó nhậm, tình cờ gặp Phong Can. Phong Can chỉ dùng có chén nước chú nguyện rồi cho ông ta uống mà hết bệnh, nên rất đổi tạ ơn. Thêm nữa, ông ta thấy vị Hòa Thượng nầy không giống như các tu sĩ khác, nên ướm hỏi:- “Bổn quan đang đi trấn nhậm chỗ mới, không biết đường công danh hoạn lộ sẽ ra sao ?”. Phong Can nói :-“Việc nầy tôi không biết, hãy đến Xích Thành , hỏi hai vị Bồ Tát Văn Thù và Phổ Hiền sẽ rõ”. Lư Khâu hỏi :- “Hai vị Bồ Tát nầy đang ở đâu , hình dạng hai vị ra sao ?”. Phong Can đáp :- “Ở  núi Thiên Đài  có Chùa Quốc Thanh, chỉ sợ ông đên đó thấy mà không biết, biết mà không hỏi được thôi.” Rồi tả hình dạng hai vị Hàn Sơn và Thập Đắ cho ông nghe. Xong, bỏ đi.
-Lư Khâu đến Xích Thành, hôm nọ tìm đến chùa Quốc Thanh. Đến giữa cầu, gặp một vị tăng, liền hỏi :- “Xin hỏi, ở đây có hai vị Bồ Tát Văn Thù Và Phổ Hiền phải không ?”. Vị tăng không hiểu, đáp :- “Chùa nầy đâu có Bồ Tát nào” . Lư Khâu bèn mô tả hình dạng hai người, nghe xong vị tăng thốt lên :- “À ! Kiếm hai người như thế phải không, cứ đi thẳng vào nhà bếp sẽ gặp, là hai người đang nấu ăn ở đó”.
-Lư Khâu liền đến nhà bếp, chỉ thấy hai người đang vừa nấu nướng vừa trò chuyện vui vẻ. Hình dạng tướng mạo giống hệt sự mô tả của Phong Can. Ông mừng quá, vội hỏi :- “Xin lỗi, hai vị có phải là Bồ Tát Văn Thù và Phổ Hiền không ạ ?”. Hàn Sơn và Thập Đắc nghe xong, cười ha hả , rồi cả hai vừa đi ra ngoài vừa nói :- “Phong Can bày điều, Phong Can bày đặt. Lũ chúng ta là người hèn mọn, chẳng phải thần cũng không phải tiên, không có duyên với nhà quan, xin đi ra, xin đi ra” (Phong Can nhiêu thiệt, Phong can nhiêu thiệt, ngã đẳng tham tiện, phi thần phi tiên, dữ quan nhân vô duyên, thỉnh xuất, thỉnh xuất).
Hai người nói rồi, nắm tay nhau vừa cười vang vừa chạy mất. Lư Khâu kinh ngạc, biết mình bị đùa dai, há miệng định kêu to lên, thì bổng bệnh cũ tái phát, đành bảo thủ hạ khiêng về.
Đó là câu chuyện xưa  có tựa đề là :- “Phong Can hí Lư Khâu” (Phong Can đùa giỡn với Lư Khâu).
Người sau lấy chuyện mà đặt tên “Cầu Phong Can” là vậy.

*NHƯỢC   THỦY  dịch
(từ  http://www.fushantang.com) 
*Xin xem Phụ Lục bài thơ Phong Kiều Dạ Bạc của Trương Kế, có nói đến chùa Hàn San (Sơn) bên dưới.
 *Phụ ghi của người dịch :-
Đây là dịch theo nguyên tác của bài nầy. Riêng hai vị Hàn Sơn và  Thập Đắc là hai vị tăng thần bí trong Phật Giáo, tương truyền là hóa thân của hai vị Bồ Tát Văn Thù , Phổ Hiền. Trong lịch sử có ở Chùa Quốc Thanh và để lại phần thơ văn dạy đạo khá dài. Tôi sẽ đưa lên ở  phần Tiêu Diêu Các. Mời quí huynh đệ đến xem. Thân ái. 
*Nhược Thủy
-Xin xem ở:- http://www.hoangthantai.com/forum/index.php?topic=1274
*Xem tiếp phần Phụ Lục của bài nầy :- Bài thơ "Phong kiều dạ bạc" của Trương Kế.
*PHỤ LỤC :-
(Bài thơ nổi tiếng “Phong Kiều dạ bạc” và giai thoại về bài thơ nầy )

 PHONG KIỀU DẠ BẠC .

(Phong Kiều dạ bạc là bài thơ rất nổi tiếng của Trương Kế (张继 Zhang Jì), tác giả sống vào khoảng trước sau năm 756- đời vua Đường Túc Tông. Trương Kế tự là Ý Tôn, từng thi đậu tiến sĩ và làm quan trong triều với chức vụ Tự bộ viên ngoại lang, về sau bị đổi ra Hồng Châu coi việc tài phú và mất tại đây. Sinh thời, ông là người học rộng, thích đàm đạo và bàn bạc văn chương, thế sự... đặc biệt rất thích làm thơ.
Nguyên tác bài thơ Phong Kiều dạ bạc sau này đã được Khang Hữu Vi đời nhà Thanh khắc trên tấm bia lớn dựng trong chùa Hàn San để cho người đời sau qua đây thưởng lãm.)
*Nguyên bản chữ Hán:-
楓橋夜泊 
月落烏啼霜滿天 
江楓魚火對愁眠 
姑蘇城外寒山寺 
夜半鐘聲到客船    
*Phiên âm Hán-Việt: -
Phong Kiều dạ bạc 
Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên 
Giang phong ngư hỏa đối sầu miên 
Cô Tô thành ngoại Hàn San tự 
Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền 
*Các bản dịch:-
•Bản dịch tiếng Việt của nhà thơ Nguyễn Hàm Ninh (thường bị nhầm là bản dịch của Tản Đà) (chuyển thể thành lục bát): -
Đỗ thuyền đêm ở bến Phong Kiều 
Trăng tà chiếc quạ kêu sương 
Lửa chài cây bến sầu vương giấc hồ 
Thuyền ai đậu bến Cô Tô 
Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn San 
•Bản dịch ra tiếng Việt của Trần Trọng San: -
Ban đêm thuyền đậu bến Phong Kiều 
Trăng tà tiếng quạ vẳng sương rơi 
Sầu đượm hàng phong giấc lửa chài 
Ngoài lũy Cô Tô chùa vắng vẻ 
Nửa đêm chuông vẳng đến thuyền ai 
•Một bản dịch ra tiếng Việt khác (cũng ở dạng lục bát): -
Quạ kêu, trăng lặn, sương rơi 
Lửa chài, cây bãi, đối người nằm co 
Con thuyền đậu bến Cô Tô 
Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn San 
•Bản dịch ra tiếng Việt của Nguyễn Hàm Ninh (Theo: Tạp chí Văn Học, số 191, tháng 3 năm 2002, trang 36): -
Quạ kêu, trăng lặn, trời sương 
Lửa chài le lói sầu vương giấc hồ 
Thuyền ai đậu bến Cô Tô 
Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn San 
•Bản dịch ra tiếng Việt của Thích Quảng Sự :-
Bên trời trăng xuống quạ kêu sương 
Lửa rọi bờ phong đối mộng trường. 
Thuyền khách Cô Đài đêm vắng vọng 
Chuông chùa buông nhẹ chút sầu vương. 
Còn rất nhiều bản dịch khác nhau, song cho đến nay khó có bản dịch nào có thể chuyển tải hết được "thần" của bài thơ.
*Xuất xứ bài thơ:-
Theo sử sách Trung Hoa viết lại, căn cứ vào tài liệu của tác giả Trần Trọng San (4), tôi xin ghi lại câu chuyện về Trương Kế và bài "Phong Kiều Dạ Bạc". Chuyện này giải thích rất rõ ràng về tiếng chuông chùa Hàn San vào lúc nửa đêm. 
Một đêm trăng, sư cụ trụ trì chùa Hàn San, cảm hứng nghĩ ra hai câu thơ: 
Sơ tam sơ tứ nguyệt mông lung 
Bán tự ngân câu bán tự cung 
Thao thức mãi trong phòng mà sư cụ không nghĩ ra hai câu tiếp. Tự nhiên có tiếng gõ cửa. Thì ra là chú tiểu cũng trằn trọc vì 2 câu thơ mình mới nghĩ ra: 
Nhất phiến ngọc hồ phân lưỡng đoạn 
Bán trầm thủy để bán phù không 
nhưng cũng không làm tiếp được và xin thầy giúp. Nghe xong, sư cụ mừng quá, quỳ xuống tạ Phật. Vì quả thật 2 câu thơ của chú tiểu ăn khớp với 2 câu của sư cụ, thành bài tứ tuyệt mà Trần Trọng San đã dịch như sau: 
Mồng ba, mồng bốn, trăng mờ 
Nửa dường móc bạc nửa như cung trời 
Một bình ngọc trắng chia hai 
Nửa chìm đáy nước nửa cài từng không 
Làm xong bài thơ này lúc nửa đêm, sư cụ bảo chú tiểu đánh chuông tạ ơn Phật. Tình cờ đêm hôm đó trên thuyền, thi sĩ Trương Kế cũng không ngủ được vì không nghĩ được câu tiếp cho hai câu đầu  "Nguyệt lạc ô đề...". Tự nhiên chuông chùa Hàn San đổ đến, gợi hứng cho thi nhân hoàn tất bài Phong Kiều Dạ Bạc "...Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền.." 
Cảnh sắc lúc đó, sương phủ mờ cả dòng sông và bến đậu, trăng xế ngang đầu. Chiếc thuyền của nhà thơ Trương Kế đậu lẻ loi bên bến Phong Kiều. Trên bờ, ngoài thành Cô Tô, chùa Hàn San mờ ảo trong đêm. Tiếng chuông chùa ngân vang, lay động cả màn sương và bật mở hồn thơ Trương Kế. 
*Lời bình :-
"Phong Kiều dạ bạc" là một bài thất ngôn tứ tuyệt hàm súc, dễ hiểu, với nhiều địa danh đầy sức gợi cảm như Cô Tô- gắn với hình ảnh về người đẹp Tây Thi, Hàn San là ngôi chùa có nhiều vị sư nổi tiếng một thời và nhiều giai thoại, điển tích... nên thường có các cách giải thích khác nhau về một vài tình tiết khi chuyển ngữ. Tuy nhiên vẻ đẹp thống nhất từ hình tượng bài thơ thì các dịch giả từ Tản Đà, Nguyễn Hàm Ninh, Trần Trọng Kim, Trần Trọng San, Ngô Tất Tố v.v. cũng như các dịch giả khác sau này đều có điểm tương đồng trong cách cảm nhận.
Bài thơ là nỗi buồn của Trương Kế gửi gắm trong một tiếng quạ kêu thảng thốt, lẻ loi trong đêm và cái nỗi sầu len vào giấc ngủ chập chờn của hàng cây phong đối diện với ánh lửa chài. Hai câu thơ tả thực mà không thực, nó hấp dẫn người đọc ở cái vẻ hư ảo của nó. Những ‎ý thơ dường như không khớp nhau vì khi trăng lặn (nguyệt lạc), tức đã gần sáng, mà gần sáng (khác với nửa đêm - bán dạ) thì còn ai thức mà thỉnh chuông nữa. Tác giả viết những câu thơ trong chập chờn nửa tỉnh nửa mơ, gần sáng mà cứ tưởng nửa đêm. Đó là nỗi buồn của một người bị chuyển đi xa, nó giống như nỗi buồn của Bạch Cư Dị lúc về Giang Châu, luôn làm tác giả chìm vào trong ảo ảnh. Tiếng chuông đến từ chùa Hàn San, nơi có hai vị sư Hàn San và Thập Đắc nổi tiếng uyên thâm đạo học thời bấy giờ, ở ngoại thành Cô Tô đến làm khách của tác giả cũng giống như là tiếng chuông ảo. Câu thơ hay trong cái mơ màng hư ảo đó. Lấy một cái "giả thực" của ngoại cảnh để thể hiện một cái "đích thực" của tâm trạng là một đặc sắc nghệ thuật mà các tác giả cổ điển hay dùng. Nỗi buồn vô cớ hay nỗi buồn về nhân tình thế thái nói chung của tác giả, cho đến ngày nay vẫn chỉ là sự suy diễn.
* Một số ý kiến liên quan :-
Một số tranh cãi trong giới thi sĩ xoay quanh hai câu thơ đầu về các từ như "ô đề", "sầu miên". Có người cho rằng phải hiểu hai từ trên như là hai địa danh là Ô Đề và Sầu Miên, nhưng nếu hiểu như vậy thì giá trị nghệ thuật của bài thơ giảm đi đáng kể, ngoài ra chưa có chứng cứ gì chứng tỏ ở khu vực này đã từng tồn tại các địa danh như vậy. Câu kết cũng bị tranh luận nhiều, do một số người cho rằng các chùa (gần như) không đánh chuông vào nửa đêm, ngoài ra nó còn mâu thuẫn với câu đề là Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên đã hàm ý trời gần sáng. Tuy nhiên, trong thơ ca, sự phá cách là một điều hết sức tự nhiên. Âu Dương Tu thì cho rằng: "Thi nhân tham cầu hảo cú nhi lý bất thông giả, diệc ngữ bệnh dã" (Nhà thơ vì muốn đặt câu cho hay nên lý không được thông, đó là một ngữ bệnh vậy). Sô Nghiêu trong quyển Đường thi tam bách thủ độc bản thì cho rằng: "Hậu nhân dĩ vi dạ bán vô chung thanh tương cấu bệnh, vị miễn xuy mao cầu tì" (Người đời sau lấy cớ nửa đêm không có tiếng chuông và cho là một ngữ bệnh, như thế thì chưa tránh khỏi cái thói bới lông tìm vết).
*Nguồn :- 
(http://vi.wikipedia.org/wiki/Phong_Ki%E1%BB%81u_d%E1%BA%A1_b%E1%BA%A1c)
*Xem thêm các bản dịch  khác tại :- 
http://www.thivien.net/viewpoem.php?ID=1412


49. PHÁP CHỦ CÔNG .
法主公

  法主公,或稱張公法主、都天聖君、張聖公、張聖真君、張法主公聖君等,為福建省永春安溪一帶居民所篤信的神明,因他的法術強大,一般道士都祭拜。
  相傳法主公為宋朝人,法主就被奉為神明,擔任征罰下界罪人,并使善人升天的職責,據說每月要上天二次,報告民間的善惡。他的神像,手上拿著蛇。
  又據說,法主公,姓張,兄弟三人,武藝精通。聽說永春九龍潭石牛洞有一條千年大蛇,能化人形,為害地方,每年需獻活人祭拜,不然,就會發生水患、風災、虫害,民不聊生。張氏兄弟三人,不忍村民受蛇精加害,決心為民除害。于是進洞制伏大蛇,化為青煙,裊裊升入天中,而不見他們三人從洞中跑出來,村民才明白他們三人已升為天神。蛇患從此消滅,百姓安居樂業,於是民眾建廟祭祀,尊奉為法主公,以表感激之意。

永春九龍潭石牛寺
  另有一說,在同一地點,三個結義兄弟,為民除害,躍入潭中,圍攻怪蛇。當姓張的扼住蛇頭,怪蛇向他噴出一道黑煙,使他顏面變黑。姓蕭的水中拿大斧、亂砍蛇身,在怪蛇掙扎中,誤傷了姓洪的額頭。因此姓蕭的急得滿臉通紅。結果怪蛇被除,三人也化成煙升天而去。因此法主公有三尊神像,一尊黑面,一尊紅面、一尊額部有一條刀痕。法主公是福建渡海帶來的守護神,又稱「張聖君」、「都天聖君」、「張公法王」、「張法主公聖君」。法主公包含了三位神明,民間因為他們法力無邊而信奉他們。
  福建閩南地區、台灣各地,及遠至印尼馬來西亞的道士,也是以法主公的法術高明主治邪煞而崇拜他。一般人遇有疑難雜症,都會到法主公廟請求道士代為施法,為人們改運、補運、祈求平安。
  在台灣,法主公的誕辰祭日照例要舉行盛大的迎神會,稱之為「大龜會」。廟裡會先準備麵製的紅龜,以及糯米製的紅龜粿,讓善信們向神祈求,謂之「乞龜」。乞求時要先在管事處登記,等到第二年必須還願,且須加倍奉還,如果滿三年未還者,管事就將他的姓名寫在紅紙上,貼在廟牆上,俗稱「龜上壁」。還願時,有些人會演戲酬神,鑼鼓喧天,送迎大龜,謂之「還龜」。「乞龜」和「還龜」是祭法主公的重點活動。
  法主公也是台灣茶商恭奉的守護神。 
PHÁP  CHỦ  CÔNG
*Pháp Chủ Công còn gọi là Trương Công Pháp Chủ, Đô Thiên Thánh Quân, Trương Thánh Công,Trương Thánh Chân Quân, Trương Pháp Chủ Công, Thánh Quân…Các Ngài  được nhân dân ở vùng Vĩnh Xuân, An Khê tỉnh Phước Kiến tin rằng là thần minh, vì pháp thuật cao cường, các đạo sĩ khắp nơi đều đến lễ bái.
*Tương truyền Pháp Chủ Công là người đời Tống, được xưng tụng là thần minh, có nhiệm vụ  trừng phạt các người có tội ở hạ giới và giúp người lành đủ đạo đức thăng thiên. Truyền thuyết kể rằng, cứ mỗi tháng có hai lần các Ngài lên chầu trời để báo cáo việc thiện ác của thế gian. Tượng thờ của các Ngài , tay cầm con rắn.
*Cũng theo truyền thuyết, Pháp Chủ Công họ Trương, có ba anh em đều tinh thông võ nghệ. Nghe nói ở Động Thạch Ngưu đầm Cửu Long phủ Vĩnh Xuân, có một con đại xà ngàn năm tuổi, thường biến hóa ra hình người để sát hại dân địa phương. Mỗi năm , quan sở tại phải bắt người sống đem cúng tế thì mới được yên ổn. Còn không thì sẽ bị đủ thứ tai ách như :- thủy tai, gió bão, sâu rầy côn trùng phá hoại mùa màng, dân chúng hết sức lao đao khổ sở.
Ba anh em họ Trương, không nỡ ngồi nhìn cảnh thôn dân bị  Xà Tinh  hãm hại , quyết tâm  vì dân tiêu diệt cho được  Xà  Tinh nầy. Ba người vào động, chế ngự đại xà xong, liền giữa ban ngày sáng tỏ mà ba vị hóa ra ba luồng khói xanh  bay vút lên mây biến mất. Khi ấy, dân chúng mới biết ba người là thiên thần hạ giáng phàm gian mà trừ yêu cứu thế. Nạn Xà tinh đã chấm dứt, dân chúng an cư lạc nghiệp, nhớ ơn ba vị xây Miếu Thờ, nhang khói ngày đêm.
*Lại có một thuyết khác, nói cùng địa điểm như trên, nhưng là ba người kết nghĩa anh em với nhau, vì dân trừ hại. Ba người hăng hái tiến vào đầm Cửu Long để tấn công  Xà  tinh. Đương lúc người họ Trương nắm giữ đầu rắn, bị nó phun một luồng khói đen, khiến cho mặt ông bị biến thành sắc đen.Người họ Tiêu đang ở dưới nước, dùng búa chém loạn đả vào thân mình con rắn. Trong lúc rắn giãy dụa chết, khiến cho người họ Hồng bị thương ở trán, còn họ Tiêu mặt mày đầy máu đỏ.  Kết quả trừ được quái xà, ba người hóa thành khói bay lên trời. Do đó, Pháp Chủ Công có ba bức tượng, một người mặt đen , một người mặt đỏ, còn  người có vết thẹo ngang trán.
Pháp Chủ Công được ngư dân vùng Phước Kiến tôn làm Thần Thủ Hộ, xưng là Trương Thánh Quân, Đô Thiên Thánh Quân, Trương Công Pháp Vương, Trương Pháp Chủ Công Thánh Quân.
Pháp Chủ Công bao gồm ba vị thần minh, có pháp lực vô biên nên dân chúng tôn thờ.
*Vùng Phước Kiến, Mân Nam, Đài Loan và xa nữa là ở các nước Mã Lai, Nam Dương… các đạo sĩ cũng sùng bái pháp thuật của ba Ngài mà đến cúng viếng rất nhiều. Những bệnh nhân mắc bệnh tà hoặc bệnh hoạn không tìm ra nguyên nhân, đều đến Miếu Pháp Chủ để cầu bái, tất cả đều được mạnh khỏe. Ngoài ra, các đạo sĩ ở Miếu còn giúp thập phương bá tánh cải vận, bổ vận… vô cùng hiệu quả, được tiêu tai thoát nạn , đến cúng tạ rất đông.
*Tại Đài Loan, ngày cúng tế  Pháp Chủ Công theo lệ hàng năm rất long trọng, gọi là Hội Nghênh Thần, còn gọi là “Đại Quy Hội”. Ban Quản Trị Miếu chuẩn bị  sẵn, dùng bột mì chế tạo thành một con rùa đỏ rất lớn, còn bột nếp thì làm rất nhiều “Trứng rùa” để cho thiện nam tín nữ đến đăng ký xin vay “Phép trứng rùa” về làm ăn kinh doanh rất may mắn. Tục nầy gọi là “Khất Quy” (xin trứng rùa làm phép). Đến kỳ  Đại Quy Hội  năm tới sẽ mang tiền đến cúng trả lễ, thường thì họ cúng tạ rất nhiều tiền bạc, gọi là  lễ “Hoàn Quy” (trả rùa). Nếu như người nào quá ba năm mà vẫn không đến “hoàn nguyện” thì được ghi tên vào tờ giấy đỏ, dán trên vách Miếu, tục gọi đó là “Quy Thượng Bích” (bức tường trên rùa).
Ngày cúng tế theo lệ mỗi năm rất long trọng và vui vẻ, nhang khói phẩm vật ê hề, có hát xướng diễn kịch , kèn trống inh ỏi, có làm lễ “Nghênh Đại Quy” (rước rùa lớn).
Hai lễ Nghênh Quy và Hoàn Quy là hai nghi thức chủ đạo của lễ cúng Đại Quy Hội.
*Giới buôn bán trà ở Đài Loan tôn thờ Pháp Chủ Công làm Thần Thủ Hộ.
*NHƯỢC  THỦY  dịch
(từ  http://www.fushantang.com)
50. TẾ    CÔNG .
濟公

  在眾多的羅漢當中,濟公這位羅漢,極其特別,端是家喻戶曉,無人不知。是漢北化佛教的五百羅漢中,唯一的漢人。
  濟公,或稱濟公活佛、濟公和尚、濟顛僧。濟公在歷史上确有其人,姓李,名修元,又名心遠,是浙江台州(臨海)天台縣人。父親李茂春,是李駙馬的后裔,母王氏,因年邁尚無子嗣,於是日夜求神祈佛,某夜王氏夢見一尊羅漢贈以一朵五色蓮花,王氏接過吞食部久便懷有身孕,南宋紹興三年(1133)二月初二產下一子,夫婦一舉得男十分喜歡,滿月時大宴客,當時有高僧性空,前來祝賀,賜名「修元」。
  道濟十八歲時父母雙亡,守喪三年,後即往杭州西湖靈隱寺剃度為僧,住持─遠瞎堂知道修元是羅漢轉世,前來人間嬉戲,於是收他為門下弟子,賜法名「道濟」。他不守戒律,佯狂不飾細行,遊行市井間,喜的是喝大碗酒,吃大塊肉,酒肉羅漢,行為舉止顛狂放蕩,人以為顛,被人們稱為「濟顛」。
  道濟素為寺僧所厭,遠瞎堂仙逝後,靈隱侍再無濟顛容身之地,遂移居南屏山淨慈寺。嘉泰二年(1202)五月十六日端坐圓寂。
  濟顛圓寂時,留下偈詩一首:
  「六十年來狼籍-東壁打到西壁,於今收拾歸來-依舊天青水碧。」
  為方便度世,他常常假裝顛狂,裝瘋賣傻,因此被世人形容為濟顛或濟顛和尚。靈隱寺對面飛來峰的洞穴中,至今留有「濟公床」、「濟公桌」,相傳濟公常偷偷躲到這里燒狗肉吃,喝醉了酒就在石床呼呼沉睡。
  手持大蒲扇,瘋瘋顛顛,是「濟公活佛」的標誌。他的那把大蒲扇似乎有無窮的法力,濟公的形象正建立在他的借顛度人、濟世,不拘于形式而獨具一格。對這位善詩文,不畏強暴,又能扶助弱小的和尚,受到世人的普遍歡迎。
  在民間傳說中,濟公是個專管人間不平,又神通廣大的傳奇人物。他智斗秦丞相,懲治嘲弄貪官污吏,路見不平定要拔刀相助。又他的行動常常是以嬉笑怒罵、幽默識趣的形式出現。
  傳說,當濟公住過的淨慈寺,有一次,寺院被焚,急待重建,俱重建需要木料,於是,濟公前往四川募化木料,更以身上的袈裟罩住諸山,把山上巨木全部拔起,并順江流到杭州,寺內古井與海相通,木料由海上運來根根從井中浮出,這些木料修好了寺廟大殿,解決了重建寺廟的難題。
  有關濟公的種種救人于危的事跡傳說訪問所流傳的《濟公傳》有不少的描述,濟顛的助人為善與顛狂情事,都在這本民間流傳書中表露無遺。有人問他,藉酒裝瘋因何而醉?他說:「眾生已醉,我若未醉,如何醉裡度他」。
  濟公有次出外閒遊,遇到一富家新建房舍正待上樑,主人見濟公來此,就請他說些吉祥話,濟公道:今日上樑願出千口喪,妻在夫前死,子在父老亡。念畢即轉身離去,主人見這五句話非死即喪,大感不悅,這時有一老工匠說明其中含意,濟公所說大吉之至,此三間屋要出千口喪,表示可抵百年光陰,妻在夫前死,則世代無寡婦、子在父老死,表示永不絕嗣。
  濟公,有說是活佛下凡,亦有說其修道高深,神通廣大,但并未成佛。
  濟公活佛是佛道二教一齊信仰供奉的神祇之一。相傳濟公活佛很容易顯靈,供奉活佛的善信容易信念,不退初心。
  濟公死后,葬在杭州西南大慈山號稱為天下第三泉的杭州虎跑泉,虎跑泉西有二層樓高的濟公塔院,是他的葬骨處。濟公的塑像十分奇特,在羅漢堂中常能找到他的蹤影,由于濟公不大遵守戒律,所以他常常站在過道里,從不排在羅漢們的隊伍中。
  據說蘇州西園寺的濟公像,最為傳神。濟公身穿破僧衣,手拿把破扇,面部表情十分生動。從二個角度欣賞,竟有三種不同表情:

  從左面看,滿面笑容,叫做「春風滿面」, 從右面看,滿臉愁容,叫做「愁眉苦臉」 ,從正面看,更有意思,半邊臉哭半邊臉笑,所謂「半嗔半喜」、「哭笑不得」、「啼笑皆非」高超的雕塑藝術,正是濟公性格的絕妙定照。 


TẾ    CÔNG
Trong các vị được tôn xưng  La Hán trước nay, thì vị đặc biệt nhất là  TẾ  CÔNG, chẳng nhà nào không hay, chẳng người nào không biết. Năm trăm vị La Hán được Phật Giáo Bắc Tông thừa nhận, duy nhất chỉ có Ngài là người Hán (TQ).
Tế Công, còn gọi là Tế Công Hoạt Phật (Phật sống Tế Công), Tế Công Hòa Thượng, Tế Điên Tăng. Lịch sử đã thừa nhận Ngài là một “kỳ nhân”. Họ Lý tên Tu Nguyên tự Tâm Viễn, người huyện Thiên Thai, châu Thai (Lâm Hải), tỉnh Triết Giang. Phụ thân là Lý Mậu Xuân, là hậu duệ của Phụ Mã họ Lý. Mẹ là Vương Thị. (Trong tiểu thuyết Tế Điên Hòa Thượng, nói là Mông Thị-ND).Nhân vì lớn tuổi mà hai vợ chồng chưa có con, nên ngày đêm thành tâm cầu Thần Phật gia hộ. Một đêm nọ, bà mộng thấy có một vị La Hán đem cho đóa  sen ngũ sắc bảo ăn. Vương Thị vâng lời, ăn hết đóa hoa sen. Sau đó, bà có thai. 
Ngày mùng hai tháng hai năm Thiệu Hưng thứ ba đời Nam Tống (1133), hạ sanh một con trai, vợ chồng hết sức mừng rỡ. Đến đầy tháng tổ chức tiệc mừng. Đang lúc yến tiệc vui vầy, có nhà sư  Tánh Không (Tánh Không Thiền Sư) đến chúc mừng, đặt tên cho đứa bé là “Tu Nguyên” (đứng đầu việc tu).
Khi  Ngài được mười tám tuổi thì cha mẹ đều qua đời, cư tang trọn ba năm. Sau đến xuất gia ở chùa Linh Ẩn, Tây Hồ , Hàng Châu. Trụ trì là Viễn Hạt Đường biết đây là La Hán chuyển thế, hiếm có từ trước đến giờ, nên hoan hỉ thu nhận làm đệ tử, cho pháp danh là “Đạo Tế”.
Ngài không giữ theo giới luật nhà Phật, hành động rất ngông cuồng đượm màu sắc lạ lùng huyền bí, như uống hết cả thùng rượu, ăn nguyên cả khối thịt lớn v.v…Vị “La Hán tửu nhục” nầy có hành vi điên cuồng, phóng đãng, bị người đời cho là “điên”, nên thường gọi Ngài là “Tế Điên”.
*Sau khi Viễn Hạt Đường viên tịch thì Đạo Tế bị các sư ở chùa Linh Ẩn tẩn xuất, không còn chỗ dung thân. Ngài bèn đến ở chùa Tịnh Từ ở núi Nam Bình. Năm Gia Thái thứ hai (1202) , Ngài an tọa thị tịch vào ngày mười sáu tháng năm âm lịch.
*Ngài có để lại bài kệ:-
“Lục thập niên lai lang  tịch, 
Đông bích đả đáo tây bích . 
Ư kim thu thập qui  lai ,
Y cựu thiên thanh thuỷ bích .”
*Dịch:-
Bừa bãi sống hơn sáu chục năm,
Đông Tây khắp xứ kẻ “Điên Tăng”
Đến nay duyên hết, ta về xứ,
Nước biếc trời xanh cũ chẳng lầm”
*Phương tiện độ đời nên Ngài thường giả trang điên cuồng, quần áo lôi thôi lếch thếch, do đó người đời xét hình dung mà gọi là Tế Điên hay Tế Điên Hòa Thượng. Đối diện với Chùa Linh Ẩn  là  ngọn núi Phi Lai , bên trong có một cái động, ngày nay vẫn còn để lại “Tế Công Sàng” (giường của Tế Công) và “Tế Công Trác” (bàn của Tế Công). Tương truyền, Tế Công thường hay đem thịt chó về nướng tại đây, uống rượu đến say mèm rồi ngủ ở đó.
*Tay cầm chiếc quạt nan lớn, dáng vẻ điên điên khùng khùng, chính là nét “đặc trưng” của “Phật Sống Tế Công” . Chiếc quạt của Ngài chứa đựng công năng pháp lực vô biên., chỉ vì Ngài giả điên khùng để độ người cứu đời mà thôi. Ngài ưa thích văn thơ, không sợ bạo lực đè nén, thường hay đi vân du bênh vực những tăng sĩ yếu đuối, đến nay vẫn còn ca tụng.
*Theo truyền thuyết, thì Ngài hay can thiệp vào những chuyện bất bình của nhân thế, là nhân vật có thần thông quảng đại. Ngài dùng trí đánh lừa Tần Thừa Tướng, trừng trị  hay bỡn cợt đám tham quan ô lại, “giữa đường thấy chuyện bất bình chẳng tha”, cho nên Ngài có nhiều hành động rất kỳ bí mà tức cười, trong chứa đựng nhiều   ý thú cao siêu. 
(Xem Tế Điên Hòa Thượng ở:- http://vnthuquan.net/truyen/truyen.aspx?tid=2qtqv3m3237nvn0n3n4n31n343tq83a3q3m3237nvn )
*Cũng theo truyền thuyết, lúc Ngài Tế Công ở nơi chùa Tịnh Từ, hôm nọ,chùa bị cháy,cần phải xây dựng lại nên cần rất nhiều cây gỗ làm vật liệu. Ngài bèn một thân một mình khoác cà-sa chèo thuyền đến Tứ Xuyên để tìm cây gỗ. Đến núi Chư , Ngài dùng thần thông chặt hết cây quí lớn, rồi cho thuyền xuôi nước chở về Hàng Châu. Trong khu chùa, có một cái giếng cổ, thông tới ngoài biển. Cây gỗ từ ngoài biển trôi vào trong giếng, Ngài bảo người trong chùa cứ hễ nổi lên cây nào là vớt lên cây đó.  Số cây gỗ nổi lên vô số, nhờ thế mà giải quyết được nhu cầu xây dựng đại điện, phòng nhà của chùa một cách dư thừa.
*Những chuyện Tế Công cứu giúp  người được lưu truyền lại trong “Tế Công Truyện” kể ra rất nhiều. Hầu hết những câu chuyện đó hàm chứa  tính chất đặc thù  cứu người bằng phương pháp điên cuồng. Có người hỏi Ngài:- “Đã giả điên uống rượu tại sao lại còn say ?”. Ngài cười đáp :- [Chúng sanh đã say, nếu ta chưa say, làm sao mà   “trong say độ người” ? ] 
*Có một lần Tế Công ra ngoài du ngoạn, gặp một nhà giàu kia xây nhà lớn, đang chuẩn bị làm lễ thượng lương (gác đòn dông). Chủ nhân thấy Tế Công đi đến, thỉnh Ngài ban cho mấy lời  :chúc tốt lành”. Ngài nói :- [Hôm nay  là ngày thượng lương, nguyện được “thiên khẩu táng” (ngàn người chết), vợ chết trước chồng, con chết trước cha ]. Nói xong Ngài bỏ đi.
Người chủ nghe nói mấy câu  lạ lùng, có vẻ như là “không chết cũng chôn”, nên trong bụng không vui. Khi ấy, có một người thợ già giải thích ý thú câu nói của Ngài như sau :-“Tế Công toàn nói những lời tốt lành đấy thôi. Ba gian nhà nầy bền vững lâu dài  với thời gian, chẳng phải là có ngàn người chết hay sao ? Chúc cho vợ chết trước chồng, nghĩa là muốn chúc cho nhà ông không có “quả phụ” (đàn bà góa). Chúc cho con chết trước cha, nghĩa là chúc cho gia đình dòng họ của ông không lâm vào cảnh tuyệt tự. Như vậy, còn điều lành nào bằng ?”.
*Truyền thuyết cho rằng Tế Công là “Phật Sống hạ phàm”. Lại cũng cho rằng Ngài đã tu đắc đạo cao thâm, thần thông quảng đại, nhưng chưa thành Phật thôi.
Phật sống Tế Công được cả hai tôn giáo Phật và Lão kính ngưỡng, thờ cúng với tính cách thần kỳ.Trong dân gian tin rằng Ngài vô cùng hiển linh, ai có nạn cầu Ngài đều được cứu giúp, nên niềm tin không khi nào lui sụt.
*Tế Công tịch, an táng tại núi Đại Từ ở Hàng Châu. Phía Tây Nam núi nầy có suối Hổ Bào, là dòng suối nổi tiếng thứ ba của Hàng Châu. Tháp của Ngài là tòa Tháp cao hai tầng nằm phía Tây của suối Hổ Bào. Điều đáng nói là, mặc dù Ngài được  xếp vào  hàng La Hán, nhưng không bao giờ thấy ở La Hán Đường cả, mà thờ chỗ khác. Bởi vì, sinh thời Ngài không tuân thủ giới luật, nên không ai dám để tượng Ngài trong đó cả.
*Trong số tượng thờ Ngài, chỉ có tượng thờ ở chùa Tây Viên, Tô Châu, là hết sức “truyền thần” (sắc thái linh hoạt). Tượng Ngài mặc chiếc  y ca-sa rách, tay cầm chiếc quạt cũng rách, gương mặt hết sức sinh động. Tùy theo góc nhìn mà người xem thấy có ba biểu tượng khác nhau như sau:-
-Ở bên trái nhìn thì thấy toàn gương mặt cười, gọi là “Xuân phong mãn diện” (gió xuân đầy mặt).
-Ở bên phải nhìn, thấy  toàn cả gương mặt sầu buồn, gọi là “Sầu my khổ kiểm” (mày sầu má khổ).
-Ở giữa mà nhìn, thấy nửa bên cười, nửa bên khóc, biểu đạt hàm  ý:- “Bán sân bán hỉ” (nửa giận nửa vui); “Khốc tiếu bất đắc” (dỡ khóc dỡ cười); “Đề tiếu giai phi” (chẳng phải khóc cũng chẳng phải cười). Quả đây là một tác phẩm nghệ thuật vô cùng độc đáo, có một không hai trên thế gian, phản ánh đầy đủ cá tính và biểu trưng độc nhất vô nhị của Ngài Tế Công Phật Sống vậy.
*NHƯỢC  THỦY  dịch
(từ  http://www.fushantang.com) 
*Phụ lục:-
 Tế  Công  Hoạt  Phật  Thánh  Huấn
濟 公 活 佛 聖 訓

一生都是修來的——求什麼 
今日不知明日事——愁什麼 
不禮爹娘禮世尊——敬什麼 
兄弟姐妹皆同氣——爭什麼 
兒孫自有兒孫福——懮什麼 
豈可人無得運時——急什麼 
人世難逢開口笑——苦什麼 
補破遮寒暖即休——擺什麼 
食過三寸成何物——饞什麼 
死後一文帶不去——慳什麼 
前人田地後人收——佔什麼 
得便宜處失便宜——貪什麼 
舉頭三尺有神明——欺什麼 
榮華富貴眼前花——傲什麼 
他家富貴前生定——妒什麼 
前世不修今受苦——怨什麼 
賭博之人無下梢——耍什麼 
治家勤儉勝求人——奢什麼 
冤冤相報幾時休——結什麼 
世事如同局一棋——算什麼 
聰明反被聰明誤——巧什麼 
虛言折盡平生福——謊什麼 
是非到底見分明——辯什麼 
誰能保得常無事——誚什麼 
穴在人心不在山——謀什麼 
欺人是禍饒人福——卜什麼 
壽自護生愛物增——殺什麼
一旦無常萬事休——忙什麼

Tế  Công  Hoạt  Phật  Thánh  Huấn
1./ Nhất sanh  đô thị tu lai đích ——cầu thập ma  
2./Kim nhật bất tri minh nhật sự ——sầu thập ma  
3./Bất lễ  gia nương lễ Thế Tôn ——kính thập ma  
4./Huynh đệ thư muội giai đồng khí ——tranh thập ma  
5./Nhi tôn tự hữu nhi tôn phước —— ưu thập ma  
6./-Khởi khả  nhân vô đắc vận thời ——cấp thập ma  
7./Nhân thế nan  phùng khai khẩu tiếu ——khổ thập ma  
8./Bổ phá già hàn noãn tức hưu ——bãi thập ma  
9./Thực  quá tam thốn thành hà vật ——sàm thập ma  
10./Tử hậu nhất văn đái bất khứ ——kiên thập ma  
11./Tiền nhân điền địa hậu nhân thu ——chiếm thập ma  
12./Đắc tiện nghi xứ thất tiện nghi ——tham thập ma  
13./Cử đầu tam xích hữu thần minh ——khi thập ma  
14./Vinh hoa phú quí  nhãn tiền hoa ——ngạo thập ma  
15./Tha gia phú quí  tiền sinh định ——đố thập ma  
16./Tiền thế bất tu kim thụ khổ ——oán thập ma  
17./Đổ bác chi nhân vô hạ sao  ——sái thập ma  
18./Trị gia cần kiệm thắng cầu nhân ——xa thập ma  
19./Oan oan tương  báo kỷ thời hưu ——kết thập ma  
20./Thế sự như đồng cục nhất kỳ ——toán thập ma  
21./Thông minh phản bị thông minh ngộ ——xảo thập ma  
22./Hư ngôn chiết  tận bình sinh phước ——hoang thập ma  
23./Thị phi đáo để kiến phân  minh ——biện thập ma  
24./-Thuỳ năng bảo đắc thường vô sự ——tiễu thập ma  
25./Huyệt tại nhân tâm bất tại sơn ——mưu thập ma  
26./Khi nhân thị hoạ nhiêu nhân phước ——bốc thập ma  
27./Thọ tự hộ sanh  ái vật tăng ——sát thập ma 
28./Nhất đán vô thường vạn sự hưu ——mang thập ma
Giáo Huấn của Đức Phật Sống Tế Công
1./Cuộc đời là do có tu hay không mà (việc tốt hay xấu) đến- Cầu xin làm gì
2./Hôm nay không biết việc ngày mai - Lo âu làm gì
3./Không lễ  bái (cung kính) cha mẹ mà chỉ lễ Phật - Tôn kính làm gì
4./ Anh chị em đều là cùng khí huyết - Tranh giành nhau làm gì
5./Con cháu có phúc của riêng chúng nó - (Quá) Lo lắng (cho chúng nó)làm gì
6./Há có ai mà không gặp được thời vận của mình - Nôn nóng làm gì.
7./Ở đời khó gặp được lúc mở miệng  cười - Đau khổ làm gì. 
8./Sửa chỗ hỏng, che chỗ lạnh, đủ ấm thì thôi - Bày vẽ (đòi hỏi) làm gì.
9./(Thức ăn) Trôi qua hơn ba phân (chỉ cổ họng)   thành ra vật gì - Tham ăn làm gì
10./Chết rồi một đồng cũng không mang theo được – Keo kiệt làm gì
11./Ruộng đất của người trước rồi sẽ bị kẻ sau nắm giữ - Chiếm đoạt làm gì
12./Có thuận cảnh rồi  thì cũng mất thuận đi  - Tham luyến (tiếc nuối) làm gì. 
13./Ngẩng đầu (trên cao) ba thước  có thần linh – Khinh khi (ai đó) làm gì
14./Vinh hoa phú quý như là hoa đốm trước mắt  - Kiêu ngạo làm gì.
15./Nhà người ta giàu có là do kiếp trước tạo ra - Ganh ghét làm gì
16./Kiếp trước không tu kiếp này phải chịu khổ - Oán trách làm gì
17./Người đánh bạc không có lối thoát – Ham theo nó  làm gì
18./Làm cho  nhà mình cần kiệm hơn là đi cầu người ngoài- Xa xỉ làm gì
19./Oán thù báo trả lẫn nhau biết đến lúc nào ngừng - Kết oán làm gì
20./Việc đời như tình thế của  một ván cờ - Tính toán (viễn vông )làm gì
21./Thông minh (gạt người) sẽ bị kẻ thông minh khác gạt lại- Thủ đoạn làm gì
22./Lời nói lừa dối  tiêu huỷ hết phúc đức cả đời - Nói (lừa dối) làm gì
23./Chuyện thị phi cuối cùng sẽ sáng tỏ - Phân biện (thanh minh ) làm gì
24./Ai hay gìn giữ ( đạo lý) thường được vô sự - Trách móc làm gì
25./Huyệt địa (long mạch) ở trong tâm (lành) của mình, không ở trên núi – Mưu cầu  làm gì
26./Lấn lướt người  là hoạ, tha thứ người là phúc - Xem bói (để biết trước) làm gì
27./Một khi vô thường đến thì muôn việc đều bỏ hết  - Vui mừng (bám chặt) làm gì.
*Nhược Thủy  dịch
(từ http://tieba.baidu.com/f?kz=321912203)

51.THẤT   NƯƠNG   MỤ
七 娘 媽

  相傳七娘娘是天帝的第七掌珠,尊稱為「七娘媽」、「七星娘娘」。
  七娘媽是兒童的保護神,特別是女孩子。
  農業社會時代因為勞力的需要,一般家庭都養育許多子女,為了讓每個子女都平安長大,許多父母將子女送給七娘媽或靖姑娘媽、佛祖等神作契子,祈求神明保佑孩子「好搖飼」。凡給七娘媽作契子的孩童,在七夕黃昏須在門口設供桌準備雞油飯、胭脂水粉、鮮花、刈金、婆姐衣等祭品,並以銅錢繫上紅絲線掛在孩童頸部,稱為「掛誌」,此後每年七夕都須拜七娘媽並更換紅絲綿以示「換誌」,直到十六歲「脫誌」、「出花園」為止。
  民間俗信,十六歲以下的兒童都受到七娘媽的護佑,所以嬰兒出生滿週歲前,即由母親或祖母抱到寺廟去祈願,並用古幣、鎖牌、銀牌,串上紅絨線為絭,繫在頸上,直到滿十六歲時才在那年的七月初七拿下。
  七娘媽的信仰,在閩南及客家兩個方言群中又有著不同的傳說。
  閩南的傳說中織女的姐姐們由於同情牛、女兩人被王母娘娘拆散,便暗中保佑那兩個孩子,使他們平安健康的長大。由此才發展出七娘媽是兒童保護神的說法。為人父母者,為了能讓神保佑其子女,就把子女送給七娘媽為義子或義女,稱為「拜契」。
  客家人也有「拜契」的習俗,但是原因截然不同:相傳七星娘娘有七位,自從織女離開後,只剩下六星在一起,由於沒有固定祭祀的廟,所以在神格上屬於「閒神」,平時下凡來遊遊閒閒。相傳七星娘會抓人小孩,因此八字低的就給她作契子,以保平安。客家人祭祀七星娘時也不用「七娘媽亭」,而是一張印就的「七星娘圖」,以香爐壓住。為子女求七星娘絭的父母須手持杯茭,口唸:「紅(白)花枝某姓某名,身體欠安,容易驚嚇,現在要作妳的契子,帶妳的絭,以後若有遇到,就不要隨便摸他,如蒙允許,請賜一杯茭」。直至七星娘允許「聖杯」為止。
  民間信仰七娘媽者,皆於七夕此日黃昏供祭。供品有軟粿、圓仔花、雞冠花、茉莉花、樹蘭、胭脂、白粉、雞酒油飯、牲禮、圓鏡。必不可少的還有一座紙紮的七娘媽亭,家有剛滿十六歲者,特供粽類、麵線。祭後,燒金紙、經衣、並將七娘媽亭焚燒,無法焚盡的竹骨架丟至屋頂,此稱「出婆姐間」(婆姐,傳即臨水宮夫人女婢),表示該孩童已成年。胭脂、白粉一半丟至屋頂,一半留下自用,據稱可使容貌與織女一樣美麗。
  祈願時一般都會宣誓:「子女如果能順利長大,等到子女年滿十六歲成年時,我一定以豬、羊等為供品祭拜,或演戲娛神,或捐款給慈善事業。」等到子女十六歲成年時,就要在七月初七這天還願,從此才算脫離七娘媽的保護,稱為「脫絭」。
  家中有十六歲的子女則要做「十六歲」的儀式,由雙親捧著七娘媽亭(又稱七星亭),立於神案前,年滿十六歲的子女由亭下匍蔔穿過,男孩起身後須往左繞三圈,稱「出鳥母宮」,女孩則往右繞三圈,表示「出婆媽」,如此便表示孩子在七娘媽的佑護下,已經長大成人。然後再將七娘媽亭投入火中,奉獻給七娘媽。
  有些人的外婆家在做十六歲的儀式時還準備衣服、手錶、項鍊、腳踏車等物品,為其男女外孫做十六歲。過去的中上人家在祭拜完七娘媽後,還要設席宴請親友,大事慶祝一番。
  此外,七娘媽還能授予子女給無子女的家庭,有子女的則能治子女的病。有許多母親還讓孩子認七娘媽為乾媽,以保祐孩子平安長大。
  七娘媽亭是以竹片、和紙糊成,有一層、二層、也有三層,通常與金紙、經衣一併焚燒供獻,此稱「出婆姐間」,表示子女成年。

  農曆七月初七為七娘媽生辰。

 THẤT   NƯƠNG   MỤ
*Tương truyền  Thất Nương Nương  là vị giữ châu báu thứ bảy của Ngọc Hoàng Thượng Đế , được tôn xưng là Thất Nương Mụ  hay Thất Tinh Nương Nương  .
Thất Nương Mụ là vị Thần Bảo Hộ cho  các  trẻ nhi đồng , đặc biệt là các bé gái.
*Trong xã hội nông nghiệp ngày xưa, lực  lượng lao động là thành phần quan trọng , nên mỗi gia đình đều muốn có nhiều con cái để có đủ sức lao động đáp ứng nhu cầu sản xuất. Mà muốn con cái khỏe mạnh trưởng thành thì phải cần có vị Thần Bảo Hộ. Thất Nương Mụ hay Tĩnh Cô Nương Mụ là đối tượng được đại đa số bậc làm cha mẹ nương tựa vào để “ký bán” con cái  cầu cho bình an mau lớn. Lễ ký bán ấy gọi là “Hảo Dao Tự” (cho rợ Dao nuôi). Thường lễ nầy được tổ chức vào chiều ngày “Thất Tịch” (mùng bảy tháng bảy). Sắp đặt một bàn tiệc trước sân, gồm có :- gà luộc, giò heo hầm, hoa quả, giấy tiền vàng bạc đại, giấy áo đàn bà, cơm canh …Cúng vái rõ tên cha mẹ , tên đứa nhỏ nay ký bán cho Thất Nương Mụ , nhờ bảo bọc phù hộ được bính an mạnh khỏe, hay ăn chóng lớn v.v…Kế đó, lấy sợi chỉ đỏ xỏ một “đồng tiền xu cổ”  đeo vào cổ đứa bé. Lần  đầu gọi là “Quải chí” (đeo khế ước). Về sau, cứ mỗi năm cúng và đổi sợi dây đỏ mới, gọi là “Hoán chí” (đổi khế ước). Đến năm đủ mười sáu tuổi, gọi là “Thoát chí” (hết khế ước) hay “Xuất hoa viên” (ra vườn hoa) thì thôi.
*Một cách làm khác, phong tục dân gian tin rằng, trẻ con dưới mười sáu tuổi thuộc về sự bảo hộ của Thất Nương Mụ . Cho nên khi sanh con ra, đến ngày thôi nôi (tròn một tuổi) cha mẹ hoặc Ông Bà phải ẳm nó đến Miếu cúng vái, rồi dùng đồng tiền xưa, dây chuyền bạc đeo vào cổ để cầu bình an cho trẻ. Đến năm 16 tuổi, ngày mùng bảy tháng bảy, đến cúng tạ rồi thôi.
*Có hai truyền thuyết về Thất Nương Mụ , một ở vùng Mân Nam và một ở các địa phương khác.
*Ở Mân Nam, người ta tin rằng, sau khi Chức Nữ và Ngưu lang bị  Vương Mẫu Nương Nương  phạt, đày hai người ở hai nơi … thì “Các Bà Chị” của Chức Nữ âm thầm gia hộ bảo vệ cho con của hai người được mạnh giỏi cho đến lớn. Từ đó phát xuất ra quan niệm Thất Nương Mụ là Thần Bảo Hộ của nhi đồng. Các cha mẹ khi đem ký bán con mình cho Thất Nương Mụ , thì nhận Ngài làm Mẹ nuôi, nên đứa bé trở thành “con trai nuôi” hay “con gái nuôi” của Thất Nương Mụ . Lễ đó gọi là “Bái Khế” (làm hợp đồng khế ước).
*Ở một số nơi  cũng có làm lễ “Bái Khế” nầy, nhưng tin vào nguồn gốc khác. Tương truyền, Thất Tinh Nương Nương  có bảy vị, sau khi Chức Nữ đi rồi thì chỉ còn lại sáu người. Vì không có Tự Miếu cúng tế cố định, chỉ khấn vái chung chung, nên gọi những vị nầy là “Nhàn Thần” (Thần rảnh rỗi đi trong nhân gian). Dân gian tin rằng, Thất Nương Mụ hay quở phạt bắt bớ mấy đứa trẻ, nên khi cúng vái phải nói rõ đầy đủ “ bát tự ” (tám chữ năm tháng ngày giờ sanh. Ví dụ:- năm Giáp Tí tháng Ất Sửu ngày Bính Dần giờ Đinh Mão) cho Thất Nương Mụ ghi nhận mà bảo hộ.Ngày cúng, dùng một tờ giấy có vẽ hình bảy vị Nương Nương  (gọi là Thất Tinh Nương Đồ) mặt sau ghi bát tự của trẻ, xếp lại để dưới lư hương của mâm cúng tế, rồi khấn:-
“Hôm nay ngày…tên cha mẹ…tên đứa trẻ
52. SÀNG  MỤ .
床媽

  床母就是「床神」,又稱「公婆母」,在做母親的心中是兒女的守護神。
  傳說古代有一姓郭的書生,在赴京參加考試途中,遇到一位賣扇的姑娘,並和她墜入情網,發生了關係,沒想到郭書生卻生病而死亡。賣扇的姑娘為了怕別人知道,於是就將他的屍體埋在自己床下。後來賣扇的姑娘懷了郭書生的孕,並產下一子。她為了告慰郭書生的靈魂,就經常用酒菜在床上祭拜。人們問她是何道理,她回答說拜床母可以使孩子快快長大,從此就留下拜床母的習俗。其他人有樣學樣,漸漸就流傳開了。
  以上只是一則傳說,床母是床之神,祭祀床神是根源於古人自然崇拜中的庶物崇拜(窗、灶、井、門等)。人的一生中,有三分之一的時間是在床上渡過的,與人關係如此親蜜的床神,受人祭拜也十分必然。尤其是不會走動的嬰兒,睡眠時間長,與床的關係更為密切,所以民間乃以床母為兒童的保護神。
  閩南與台灣人則把十六歲以內的小孩稱為「花園內」,認為從嬰兒出生起,一直到十五歲,都有一位稱床母的兒童神,住在寢室裡保護兒童。因此,嬰兒出生後第三天就要上供祭拜床母,以後每遇到孩子生病時也要祭拜床母祈求保護。此外,每年農曆正月十五也要祭拜床母,保佑孩童今年平平安安。有些人在清明、端午、中元、重陽等節日也會祭拜床母。
  據說,小孩白天是受到註生娘娘的照顧,夜晚則是床母擔任保護工作。孩童的胎記就是「床母作記號」以利辨識。實際上人們相信祭拜小孩生活中的要地「床鋪」可以使其快快平安長大。另外長輩也說到,小孩睡覺時常會有微笑,或奇怪的表情是床母在教導小孩,所以不要吵醒她,以免打擾其學習。祭祀床母供奉雞酒、油飯、七張刈金和婆姐衣。祭品須在床舖正中央,如此孩子才會睡得安穩。祭拜時不用筷子,在上香時祝禱說:「日間好精神夜間好覺睡」,之後立刻焚燒刈金、婆姐衣,並收拾供品,因為民間傳說床母必須全心照顧小孩,不能花費太多時間享用祭品。也有說拜好不要太晚撤供,不然小孩容易有拖拖拉拉的習性。還有說祭拜床母時不可拜酒,否則床母會酒醉睡著疏於照顧小朋友。
  床母一般沒有塑像和畫像,有時在床頭擺上一只插著焚香的粗瓷碗,就代表床母的神位了。祭拜床母的時間大致上為小孩出生至十六歲,出生三天每逢初一十五、清明、端午、中元及重陽節皆可祭拜床母。
拜祭床母:
意思是把子女順利撫養長大。
當日下午六時左右,將供品置於床上16歲以內孩童的床上。
供品:雞酒油飯及雞腿各一碗、花生一盤、茶、酒。
上供品;
點燭火;
神前獻茶、酒;
焚香三柱迎神;
香燒至五分之一時,雙手捧持金紙拜供床母;
燒金十二張及床母衣;
收拾供品,禮成。

一般拜祭床母,不供奉魚;獻酒僅需獻酒一次即可。
SÀNG   MỤ
*Sàng Mẫu chính là “Thần Giường nằm” , còn gọi là “Công Bà Mẫu”, trong tâm của người Mẹ thì đây là vị thần thủ hộ (gìn giữ giúp đỡ) cho con cái trong nhà.
*Tương truyền vào thời xa xưa, có một người học trò họ Quách, khi đi lên kinh đô để dự thi, gặp một cô gái bán quạt. Hai người yêu nhau và cùng nhau chung sống. Thời gian sau, chẳng may anh chàng họ Quách nầy bị bạo bệnh mất đi, cô gái bán quạt sợ người ngoài biết được làm khó dễ, nên âm thầm chôn xác chàng Quách ngay dưới giường ngủ của mình. Lúc đó, cô gái đã có thai với họ Quách, sau sanh ra một đứa con trai. Cô làm lễ báo cáo cho cháng Quách biết, đặt phẩm vật cúng ngay tại trên giường nằm. Người ngoài thấy lạ, ướm hỏi thì cô đáp :- “Tôi cúng tế cho [Sàng Mẫu] để cầu cho con tôi được mạnh khỏe mau lớn.”.
Từ đó , người ngoài thấy hay nên cũng bắt chước làm theo, dần dần trở thành tập quán của đa số.
*Trên đây chỉ là câu chuyện truyền thuyết, thật ra, cúng tế Sàng Mẫu là phong tục từ xưa của con người phát sinh do “tín ngưỡng đồ vật” tạo ra. Ta thấy, có rất nhiều đồ vật trong nhà cũng được cúng bái như :- cửa  nẻo, bếp, giếng v.v…
Như vậy, xét lại con người chúng ta trong một đời, thời gian nằm ở giường chiếm ít nhất là một phần ba cuộc sống, thần giường trở thành thân thiết với con người, nên việc cúng bái Sàng Thần là lẽ tất nhiên mà thôi. Hơn nữa, sự trưởng thành của đứa trẻ cũng là nhờ vào phần lớn thời gian ngủ tại giường, nên gắn bó mật thiết với  giường , cho nên các bà Mẹ lấy Sàng Mẫu làm vị thần Bảo Hộ cho con cái là đúng thôi. 
*Người ở Mân Nam và Đài Loan có tập quán gọi những đứa trẻ dưới 16 tuổi là “Hoa Viên Nội” (trong vườn hoa). Từ lúc mới sanh ra cho đến 15 tuổi , luôn luôn được vị thần của nhi đồng là Sàng Mẫu phù hộ cho chúng được khỏe mạnh. Cho nên, khi đứa bé sanh ra được ba ngày, người ta phải tổ chức lễ cúng Sàng Mẫu để về sau, mỗi khi đứa bé bị bệnh, thì vái van Sàng Mẫu phù hộ độ trì cho nó lành mạnh hết bệnh. Rồi hàng năm, vào ngày rằm tháng giêng cũng phải cúng bái Sàng Mẫu, van vái cho nó được bình yên manh giỏi suốt năm. Có nhà còn cúng  Sàng Mẫu vào cả những ngày Thanh Minh, Đoan Ngọ, Trung Nguyên, Trùng Cửu … nữa. 
*Truyền thuyết nói rằng, trẻ con thì ban ngày được bà Chú Sanh Nương Nương quản lí dạy dỗ, còn ban đêm thì thuộc về Sàng Mẫu chăm sóc. Khi còn trong bào thai, đứa trẻ ấy đã được “Sàng Mẫu đánh dấu hiệu” để dễ phân biệt sau nầy. Có người còn cúng bái thần “Sàng Phô” (thần chiếu trải giường) để cầu cho con được mạnh giỏi cho đến lớn. Một số ông già bà cả dạy rằng :- “Trẻ con lúc ngủ thường hay tự cười tự khóc, đó là do Sàng Mẫu đang dạy cho nó, lúc đó đừng có đánh thức nó dậy, khỏi quấy rầy việc học tập của nó.”
*Cúng Sàng Mẫu có những phẩm vật sau :-
-hoa quả,trà rượu,  gà luộc tréo cánh, cơm chiên, mười hai  xấp giấy vàng bạc đại, mười hai xấp giấy áo Bà Thư, đậu phọng nấu còn vỏ.
Phẩm vật cúng đặt ngay chính giữa giường, như vậy đứa bé mới ngủ yên không giựt mình. Nhớ là lúc cúng không dùng đũa, khấn nguyện tên họ ngày giờ sanh, chỗ ở …và ý chính là  :- “Ban ngày được phấn chấn tỉnh táo, ban đêm được ngủ ngon giấc”. Vái  xong, đốt giấy tiền vàng bạc và giấy áo Bà Thư liền, rồi dọn dẹp thức cúng ngay không chờ lâu. Ông bà xưa nói rằng Sàng Mẫu còn bận lo lắng cho đứa bé, đâu có thời gian nhiều để hưởng thụ lâu. Có thuyết thì nói rằng, nếu để lâu thì sau nầy đứa trẻ sẽ có tánh chậm chạp rề rề không hay. Lại có thuyết nói, cúng Sàng Mẫu thì đừng cúng rượu, sợ Bà uống say ngủ quên không chăm sóc cho bé được.
* Sàng Mẫu thì không có hình tượng nên khi cúng chỉ cần để trước mâm đồ cúng một cái “Tô kiểu lớn” tượng trưng cho Sàng Mẫu là được. Thời hạn cúng bái Sàng Mẫu diễn ra tứ lần cúng sau khi sanh ba ngày, hàng năm đến ngày rằm tháng giêng, Thanh Minh, Trung Nguyên, Trùng Cửu (mùng chín tháng chín) đều phải cúng bái Sàng Mẫu cho đến năm 16 tuổi mới ngưng.
*Tóm tắt lễ cúng bái Sàng Mẫu như sau :-
-Mục đích:- để cầu cho con trẻ từ khi sanh đến năm 16 tuổi được mạnh khỏe, ít bệnh, mau lớn.
-Thời  điểm cúng :- lúc sáu giờ chiều của ngày cúng.
-Phẩm vật cúng :- hương đăng hoa trà quả,rượu trắng,  con gà luộc (hoặc một cặp đùi gà thay thế), cơm chiên, một mâm đậu phọng nấu còn nguyên vỏ.
-Bày đồ cúng ngay chính giữa giường đứa bé nằm.
-Đốt đèn nhang, rót rượu (một lần thôi, không châm thêm)
-Khấn vái tên tuổi (ngày giờ sanh) đứa bé v.v…xin Sàng Mẫu phù hộ …
-Khi nhang cháy đến phân nửa, hai tay bưng lư hương lên xá ba xá (để cúng Sàng Mẫu)
-Đốt giấy tiền vàng bạc và giấy áo (mỗi thứ 12 xấp)
-Dọn dẹp đồ cúng
-Lễ xong.
*Ghi chú quan trọng:- không được cúng “Cá” (sợ con lêu lỏng), không châm rượu hai lần (sợ Sàng Mẫu say, bỏ bê đứa trẻ).
*Nhược  Thủy  dịch
(từ http://www.fushantang.com)

53. THÁI  DƯƠNG  TINH  QUÂN.
太陽星君

太陽星君或稱太陽菩薩,是人類最早信奉的自然神之一,古時中國即有祭日的儀式,堯帝定春分、秋分為朝日與餞日的重要日子,而後歷朝典制更將祭日視為國家大事。
        在〈老子歷藏中經〉中,曾記載太陽星君的姓名為張表,一說太陽星君姓孫名開,與太陰星君唐末在天地初開之時,陰陽相混,雙雙隱居於咸池,以致日月不照,晝夜不分,世尊專程趕至咸池,念動八字真經,將日月強制分開,各按方位升降,萬物始生。
        而關於太陽的神話除了后羿射日的傳說外,另有一則鄉野閒談:相傳太陽本有兄弟九人,每日當空照耀,使得萬物奄奄一息,這種情形看在風火雷三神的眼裡,實在是又怒又急,於是前往勸諫,誰知九兄弟不但不接受眾神的請求,反而變本加厲,雷神大怒,以閃電轟落八日,僅存的一個太陽,躲在豬母菜中而逃過一劫。劫後餘生的太陽重回天上,為報答豬母菜救命之恩,就讓此菜在炎夏時,仍能茂盛生長,不受曬日之苦。
  
太陽出現,「太陽宮」位於東天第十層天之東方,乃  太陽帝君之所居。宮殿均以耐火銅磚築成。四週有不計其數,高五丈之赤色欄杆,圍成一圓型,範圍有千丈方圓,每支欄杆頂端崁有一吐焰之「火球」,照耀太陽宮四週,一片火紅。內中並有「火蓮」等仙草也。
    府第正門上,懸一匾,上書:「太陽宮」三字。兩邊亦有對聯曰:
    掌人魂魄,宇宙咸沾赫烈。
    煉道精靈,洪荒亦仰慈熙。
  太陽帝君乃陽剛之神,司日之運行,掌火焰之輕重,日由東升,再由西墜,光熙普照大地,施恩萬民,凡世人代代祭祀之故也。
  東天各層天,均有天仙之所居,府第林立天上,難以枚舉,但畢竟天界與凡界迥異,俗塵繁華粗俗,天界均是幽雅悠閑,逍遙極樂之天堂也。
  總之,凡世之人,如能了悟,有善覺,多行善、多積德、造功立果、借假修真,即天堂有路,先居有位。若一味作惡,不修德者,終墜地獄,就難睹天界之風光也。
  然則,今日科學昌明,太空人可上月球、星球,但,其目睹者,不過亦「空空如也」,何有如是天堂之風光乎!須知天界之風光,豈凡眼所能及乎!如無善德,不修真凝固其先天之靈,豈能隨便凡人俗子可見也。
    天界乃一幻境,無德無緣者難得一睹也。為何天界之高真均是中國漢人,而無外國之人耶?蓋因中土文化與開國,遠在五千年前,故,文化早,善覺早萌,人人之修道德,養氣靈光,故能升天堂為聖、為賢,而主掌諸天;外國之文化與開國,不過二千餘年,雖有不少成道者,但,均是後輩而已,豈能一躍超乎數千年成道者之上乎!此乃「中土難生,人身難得」之謂也。
太陽星君簡歷
太陽星君姓離。名明。是玉子之朋友。玉子學道成功後。太陽子則拜其為師。恭敬侍奉。不敢懈怠。玉子非常器重太陽子。太陽子喜歡飲酒。每飲必醉。太陽子長於陰陽五行之道。雖然頭髮全白。但皮膚卻細潤光滑。滿面紅光。太陽子因其對陰陽學特有知識。所以救人無數。濟世行誼之功為世人所不能或忘。人稱太陽子。修成仙道後。人稱之為太陽星君。 
THÁI DƯƠNG TINH QUÂN

*Thái Dương Tinh Quân hay còn xưng là Thái Dương Bồ Tát, là một trong những vị Thần được loài người tín ngưỡng thờ phụng sớm nhất.
Ngày xưa, ở Trung Quốc đã có hẵn một nghi thức “Tế Mặt Trời”. Thời Nghiêu Thuấn cũng đã biết lưu ý về giờ mọc lặn khác nhau mỗi mùa, lấy hai mốc quan trọng là Xuân Phân và Thu Phân để định tiết. Về sau, nhiều triều đại kế tiếp đã đưa việc cúng tế Mặt Trời vào sách cúng tế chính thức của triều đình, xem đó là một công việc quan trọng.
*Trong sách “Lão Tử Lịch Tạng Trung Kinh” đã từng viết, Thái Dương Tinh Quân có tên là Trương Biểu. Một thuyết khác thì nói Thái Dương Tinh Quân họ Tôn tên Khai, cùng với Thái Âm Tinh Quân  đã có từ lúc trời đất hỗn độn, âm dương chưa phân, hai vị ẩn cư trong ao Hàm Trì, nên không có mặt trời mặt trăng chiếu sáng. Thế Tôn đã đến ao Hàm Trì , niệm chú Bát Tự Chân Kinh , bắt buộc nhật nguyệt phân chia ra ngày đêm, trình tự mọc lặn, làm cho vạn vật được sinh ra.
*Liên quan đến các truyền thuyết về mặt trời, ngoài câu chuyện Hậu Nghệ bắn rụng chín mặt trời ra, trong dân gian còn truyền tụng câu chuyện  sau :-
“Nguyên Thái Dương có tất cả chín anh em, tất cả đều tranh  nhau chiếu sáng mỗi ngày, khiến cho mọi vật quá nóng bức không chịu đựng nổi. Việc nầy truyền đến tai ba vị thần : Phong, Hỏa, Lôi, khiến ba vị nổi giận. Liền đến khuyên can anh em nên chia ra mỗi người làm một ngày cho muôn vật nhờ, nhưng chín anh em chẳng những không nghe theo mà còn tăng thêm sức hại . Lôi Thần nổi giận, dùng sét đánh chết tám người, chỉ còn  lại một , nhờ trốn trong đám “Trư Mẫu Thái” (rau heo mẹ) nên thoát chết. Do đó, sau nầy Thái Dương nhớ ơn cứu tử, nên không xúc phạm đến Trư Mẫu Thái, khiến cho loại rau nầy vào mùa hè nắng gắt mà vẫn xanh tươi không héo úa, phát triển càng nhiều.
*Thái Dương xuất hiện :-
Cung Thái Dương ở về hướng Đông của tầng trời thứ mười, là nơi ở của Thái Dương Đế Quân. Cung điện đều làm bằng những vật liệu “chịu lửa” (nại hỏa) . Bốn bên không thể tính đếm đo lường được, có lan can màu đỏ cao năm trượng  bao thành hình tròn, bên trong là  Thiên Trượng hình vuông. Mỗi nhánh lan can trên đỉnh có gắn một “hỏa cầu” (trái cầu lửa) chiếu ánh sáng rực rỡ xung quanh  Thái Dương Cung, thành một khối lửa đỏ. Trong cung, có “Hỏa Liên” (hoa sen lửa) và các loại “Tiên Thảo” (cỏ tiên) khác. 
*Ở chính môn của phủ đệ, có treo tấm biển đề ba chữ cực lớn : “Thái Dương Cung”, hai bên có hai câu đối :-    “Chưởng nhân hồn phách , vũ trụ hàm triêm hách liệt . 
    Luyện đạo tinh linh , hồng hoang diệc ngưỡng  từ hi  .”
*Dịch:-
“Nắm giữ hồn phách con người, cả vũ trụ đều thấm nhuần ơn chiếu rọi hiển hách,
Luyện đạo đạt đến chỗ tối linh, từ thuở hồng hoang đã ngưỡng mộ đức sáng lòng từ”
*Thần Thái Dương thuộc về thần “dương cương” (khí dương cứng rắn), điều khiển sự vận hành của mặt trời, quản lí sự nặng nhẹ của núi lửa. Mặt trời từ hướng Đông mà lên, rồi chìm về hướng Tây. Ánh sáng soi rọi khắp sơn hà đại địa, ra ơn cho muôn dân, là nguyên nhân của việc cúng tế “hết sức lớn” của loài người vậy.
*Các tầng trời của Đông Thiên đều có các vị Tiên ở, phủ đệ ở trên trời nhiều không kể xiết. Có điều, thiên giới khác với phàm giới rất xa. Cõi tục thì phồn hoa thô tháo, cảnh tiên thì  u nhã  du nhàn, là chốn thiên đường tiêu dao cực lạc .
*Tóm lại, nếu thế nhân biết tích đức hành thiện cho thật nhiều, công quả lớn lao, lại gặp bậc cao minh chỉ giáo tỉnh giác  tu hành tốt, thì chắc chắn có nẽo đến thiên đường, có ngôi nơi Tiên Cung vậy. Nhược bằng, cứ mê muội làm ác không tu nhân bồi đức, thì nhất định phải sa vào địa ngục, bao giờ mới biết được cảnh đẹp đẽ của trời cao ?
*Có điều, ngày nay khoa học tiến bộ, cho rằng mặt trời, mặt trăng, đến các tinh cầu khác đều lơ lửng trong không gian vũ trụ, nào thấy có thiên đường tiên cảnh gì  đâu ! Nhưng nên biết là, cảnh đẹp cõi trời nầy không thể dùng phàm nhãn mà trông thấy được. Phải là những người đủ phước duyên, gắng sức tu chân, đạt đến “Tiên Thiên chi linh” (tính linh diệu của khí tiên thiên) mới nhận ra, đâu thể dùng cặp mắt phàm tục mà mong thấy nó .
*Thiên giới  là một “cảnh ảo” (phi vật chất), nên  những người vô đức vô duyên làm sao có thể cảm nhận nó. Nhưng tại sao , những vị Chân Quân Cao cấp hầu hết là người Hán mà không thấy có người nước khác ? Điều đó bởi vì, Trung Quốc là một nước sớm có nền văn hóa tinh thần tốt từ hơn năm ngàn năm trước, nhân dân biết đạo đức, tu thiện tích đức lâu dài ; lại có pháp tu “dưỡng khí linh quang” nên việc nhiều vị thăng thiên đường làm Thánh , làm Hiền, chủ quản các cung trời là lẽ đương nhiên thôi. Trải qua hai ngàn năm nay, số lượng người chứng thánh cũng đâu phải ít. Chúng ta là những kẻ hậu sinh, lại không chịu nghe và thực hành theo lời dạy của các bậc tiền bối, làm sao đòi vượt qua số vị đã thành đạo nói trên cho được ? Cho nên nói :-
“Trung thổ nan sinh—Nhân thân nan đắc” (khó được sanh ra ở Trung Hoa, thân người khó được) là vậy.
*Có một thuyết khác nói rằng :- “Thái Dương Tinh Quân  họ  Li (không phải Lí) tên Minh, là bạn của Ngọc Tử. Khi Ngọc Tử học đạo thành công, Li Minh liền bái Ngọc Tử làm thầy. Lúc nào cũng cung kính, không dám lười mỏi, nên Ngọc Tử rất trọng quí , gọi là Thái Dương Tử. Thái Dương rất thích uống rượu, mỗi khi uống đếu đến lúc say mới chịu. Thái Dương Tử lớn lên trong đạo âm dương ngũ hành, tuổi già tóc bạc trắng mà da dẻ vẫn còn tươi nhuận. Mặt Ngài có ánh sáng đỏ. Nhờ nắm vững học thuyết âm dương mà Thái Dương Tử cứu nhân độ thế vô số, không có ai trên thế gian nầy bì kịp. Sau tu tiên đắc đạo, xưng là Thái Dương Tinh Quân.
*Ngày vía của Thái Dương Tinh Quân là ngày mùng một tháng hai âm lịch.


*NHƯỢC   THỦY   dịch 
(từ  http://www.suntemple.org.tw/new_page_16.htm)
*Xin xem phần Phụ Lục :- Thái Dương Tinh Quân Thánh Kinh và Thái Âm Tinh Quân Thánh Kinh"
*PHỤ  LỤC
 Thái Dương Kinh (phiên âm)
Thái Âm Kinh (phiên âm)
Thái Dương Tinh Quân Thánh Kinh
太陽星君寶誥 
志心皈命禮 (三稱) 
洞陽至聖﹐炎明上真﹐主南極之陽。關﹐掌人身之魂魄﹐光輝盛大﹐行為萬象之尊功德高明﹐主世照眾生之命﹐昭回天地神光晝夜巡行﹐樞紐陰陽﹐炎魄威施赫烈﹐凡蒙光照﹐實賴生成﹐大悲大願﹐大聖大慈﹐日宮太陽恩光普照大天尊。
 太陽星君聖經
 (朝日早晨誦念七遍有求必應) 

太陽明明珠光佛﹐四大神明正乾坤﹐太陽日出滿天紅﹐ 
曉夜行來不住停﹐行得快來催人老﹐行得遲來不留停﹐ 
家家門前都走過﹐倒惹諸人叫小名﹐惱得二人歸山去﹐ 
餓死黎民苦眾生﹐天上無我無晝夜﹐地下無我少收成﹐ 
個個神明有人敬﹐那個敬我太陽星﹐太陽冬月十九生﹐ 
家家念佛點紅燈﹐有人傳我太陽經﹐闔家老幼免災星﹐ 
無人傳我太陽經﹐眼前就是地獄門﹐太陽明明珠光佛﹐ 
傳與善男信女人﹐每日朝朝念七遍﹐永世不入地獄門﹐ 
臨終之時生淨土﹐九泉七祖盡超昇﹐

THÁI DƯƠNG TINH QUÂN BẢO CÁO.
*Chí tâm qui mệnh lễ  (tam xưng  ) 
Đỗng dương chí thánh ﹐viêm minh thượng  chân ﹐chủ Nam cực chi dương quan ﹐chưởng nhân thân chi hồn phách ﹐quang huy thịnh đại ﹐hành vi vạn tượng chi tôn công đức cao minh ﹐chủ thế chiếu chúng sanh  chi mệnh ﹐chiêu  hồi thiên địa thần quang trú dạ tuần hành ﹐khu nữu âm dương ﹐viêm phách uy thi hách liệt ﹐phàm mông quang chiếu ﹐thực lại sinh thành ﹐Đại bi đại nguyện ﹐Đại thánh đại từ ﹐Nhật Cung Thái Dương Ân Quang Phổ Chiếu Đại Thiên Tôn .  
Thái Dương Tinh Quân Thánh Kinh
 (triêu  nhật tảo thần tụng niệm thất biến hữu cầu tất ứng ) 
Thái Dương minh minh châu quang Phật ﹐tứ đại thần minh chính càn  khôn ﹐thái dương nhật xuất mãn thiên hồng ﹐ 
Hiểu dạ hành lai bất trụ  đình ﹐hành đắc khoái lai thôi nhân lão ﹐hành đắc trì lai bất lưu đình ﹐ 
Gia gia môn tiền đô tẩu quá ﹐đảo nhạ chư nhân khiếu tiểu danh ﹐não đắc nhị nhân qui  sơn khứ ﹐ 
Ngạ  tử lê dân khổ chúng sinh ﹐thiên thượng  vô ngã vô trú dạ ﹐địa hạ vô ngã thiểu  thu thành ﹐ 
Cá cá thần minh hữu nhân kính ﹐na  cá kính ngã Thái Dương Tinh ﹐thái dương đông nguyệt thập cửu sinh ﹐ 
Gia gia niệm Phật điểm hồng đăng ﹐hữu nhân truyền  ngã Thái Dương Kinh ﹐hạp gia lão ấu miễn tai tinh ﹐ 
Vô nhân truyền  ngã Thái Dương Kinh ﹐nhãn tiền tựu thị địa ngục môn ﹐thái dương minh minh châu quang Phật ﹐ 
Truyền  dữ thiện nam tín nữ nhân ﹐mỗi nhật triêu   triêu  niệm thất biến ﹐vĩnh thế bất nhập địa ngục môn ﹐ 
Lâm chung chi thời sanh  tịnh thổ (độ) ﹐cửu tuyền Thất Tổ tận siêu thăng ﹐

Thái Âm Tinh Quân Thánh Kinh

太陰星君寶誥
志心皈命禮 (三稱) 
廣寒至聖﹐紫光上真﹐主北極之陰 關﹐掌人身之魄體﹐明分長短﹐致吉兇有缺有圓﹐顯示災祥﹐降禍福無差無忒﹐巡遊不住﹐月碧亙古常明﹐輝燿無邊﹐素魂普施大化﹐凡承運照﹐實荷生成﹐大悲大願﹐大聖大慈﹐月宮太陰皇君普照大天尊。
 太陰星君聖經 
(朝日靜夜誦念七遍求則得之)
 太陰菩薩向東來﹐十重地獄九重開﹐十萬八千諸菩薩﹐ 
諸佛菩薩二邊排﹐諸尊佛敬無雲地﹐出水蓮花滿地開﹐ 
頭帶七層珠寶塔﹐娑婆世界眼光明﹐一佛報管天地恩﹐ 
二佛報答父母恩﹐在生父母增福壽﹐過世父母早超昇﹐ 
南摩佛﹐南摩法﹐南摩阿彌陀佛﹐天羅神﹐地羅神﹐ 
人離難﹐難離身﹐一切災殃化為塵﹐有人念得七遍太陰經﹐ 
生死不踏地獄門。 
THÁI ÂM TINH QUÂN BẢO CÁO
*Chí tâm qui  mệnh lễ  (tam xưng  ) 
Quảng Hàn chí thánh ﹐tử quang thượng  chân ﹐chủ bắc cực chi âm  quan ﹐chưởng nhân thân chi phách thể ﹐minh phân trường  đoản ﹐trí cát hung hữu khuyết hữu viên ﹐hiển thị tai tường ﹐giáng  hoạ phúc  vô  sai  vô thắc ﹐tuần du bất trụ  ﹐nguyệt bích cắng cổ thường minh ﹐huy diệu  vô biên ﹐tố hồn phổ thi đại hoá ﹐phàm thừa vận chiếu ﹐thực hà  sinh thành ﹐Đại bi đại nguyện ﹐Đại thánh đại từ ﹐Nguyệt Cung Thái Âm Huỳnh Quân Phổ Chiếu Đại Thiên Tôn .  
Thái Âm Tinh Quân Thánh Kinh
 (triêu nhật tĩnh  dạ tụng niệm thất biến cầu tắc đắc chi ) 
Thái Âm Bồ Tát hướng đông lai ﹐thập trọng  địa ngục cửu trùng khai ﹐thập vạn bát thiên chư Bồ Tát ﹐ 
Chư Phật Bồ Tát nhị biên bài ﹐chư tôn Phật kính  vô vân địa ﹐xuất thuỷ liên hoa mãn địa khai ﹐ 
Đầu đái thất tằng châu bảo tháp ﹐Ta bà thế giới nhãn quang minh ﹐nhất Phật báo quản thiên địa ân ﹐ 
Nhị Phật báo đáp phụ mẫu ân ﹐tại sinh phụ mẫu tăng phước thọ ﹐quá thế phụ mẫu tảo siêu thăng ﹐ 
Nam ma phật ﹐Nam ma pháp ﹐Nam ma A Di  Đà Phật ﹐Thiên la thần ﹐Địa la thần ﹐ 
nhân ly nạn ﹐nạn ly thân ﹐nhất thiết tai ương hoá vi  trần . Hữu nhân niệm đắc thất biến Thái Âm Kinh ﹐ sanh  tử bất đạp địa ngục môn .  
*NHƯỢC   THỦY   dịch 
(từ  http://www.suntemple.org.tw/new_page_16.htm).
Xin theo dõi tiếp BÀI 11. dienbatn giới thiệu.
Xem chi tiết…

THẦN THÁNH TRUNG HOA .NHƯỢC THỦY DỊCH . BÀI 9.

4/04/2015 |
THẦN THÁNH TRUNG HOA
Bản dịch của Nhược Thủy - dienbatn giới thiệu.

LỜI NÓI ĐẦU : Đây là bản dịch rất công phu của Nhược Thủy trong trang Hoangthantai . Nay không còn thấy trang này hoạt động nữa. dienbatn chép lại vào đây để làm tư liệu . Mong bác Nhược Thủy cảm thông.
 THẦN THÁNH TRUNG HOA TẬP  I
Lời giới thiệu:- Nhận thấy từ trước đến nay, người Việt Nam chúng ta theo phong tục tập quán của người Trung Hoa, nên đã tin tưởng và thờ phụng rất nhiều vị Thánh, Thần giống như người Trung Hoa. Tài liệu giải thích về các Ngài thì quá ít và không có cơ sở khảo cứu , chỉ theo truyền khẩu nhiều hơn. Nay tôi xin cố gắng dịch những tài liệu nầy từ một Website có uy  tín và khảo cứu cẩn thận, xin kính tặng tất cả huynh đệ trong 4R-HTT. Nếu có chỗ nào sai sót, xin quí cao nhân hoan hỉ chỉ bảo cho (kèm theo nguyên tác  để quí vị dễ đối chiếu).
Xin thành thật cảm ơn quí huynh đệ.
Nhược Thủy
( Mùa Hạ năm Mậu Tí-2008).
Phần bổ sung cho bài “Huyền Thiên Thượng Đế”
45. THÁI  ÂM  NƯƠNG  NƯƠNG .

太陰娘娘

  農曆八月十五是中秋節,也是中國傳統的三大節日之一,而中秋節的主角則是高掛天空的一輪明月。
  中秋時的月空萬里無雲,天朗氣清,正足以顯出月亮皎潔的光華。因此,每到秋天,古代天子都會到月壇去祭月。上古祭月的禮儀,很可能就是中秋節祭月的起源。到了清代,拜月仍是一項國家祭典,由此可看出先秦祭月與後世中秋祭月一脈相承的關係。
  「月娘」,或稱為「太陰娘娘」、「大陰星君」,其「夜明之神」祭典,極受歷代帝王重視,民間自然也不會例外。
  民間也把「太陰星君」看成嫦蛾,認為「太陰星君」是一位絕色美人,所以非常喜歡人人都欣賞她,也因為這個緣故,八月十五日的「太陰星君」誕辰祭,都在入夜以后,面對當空的皓月家家戶外圍院,排設香案點上一對紅燭,供上四色鮮果,焚香膜拜,氣氛十分虔誠,而又帶有几分閑情逸致之感。此外,還有賞月會,一家人團圓,或筵款親朋在皓潔月色的籠罩下,共度良宵,另外有博狀元餅,聽香等風雅韻味的趣事。
  民間流行的一篇《太陰星君經》,據說:每月十五、十六兩日,趁太陰團圓之夜,戒焚香,誦念十遍,合家清吉。而民間供奉太陰星君的宮廟不多。傳說,孩子營養不良、多病,向太陰星君祈禱,很靈驗。
  道教沿襲我國上古時代的宗教思想,因此對星辰的崇信,就成了教義的重要部份,其中對日、月、北斗、五星及二十八星宿尤為崇信,認為與人生的命運前途有密切的關係。
  歷代有關月亮的傳說有很多,除了玉兔搗藥、吳剛伐桂外,就屬嫦娥奔月的故事最為人津津樂道。據說后羿向王母娘娘求得不死之藥後,卻被其妻嫦娥偷偷吃掉了,並成仙奔月,當了月宮仙子。嫦娥到了月宮後發現月宮出奇的冷清,不像他所想像的美好。但又怕后羿殺了他,不敢回到人間來,於是只好孤獨寂寞的一個人住在月宮裡。
  中秋節對農民而言也是一個大日子,眼看一年的辛勞得到收穫,誠心對土地神表示一番謝意。除了祭祀土地公外,農民還會在田間插設「土地公柺杖」。土地公柺杖是以竹子夾上土地公金,插在田間,插好後再以月餅祭祀。由於中秋節有「秋報」的含意在,所以也有農村在此夜聚資演戲,俗稱「謝平安」。
  就道教來說,中秋節也是太陰娘娘或稱「月宮娘娘」的生日,因此若當地有供奉太陽星君的廟兼祀太陰娘娘,也要在這天到廟裡為太陰娘娘祝壽。
  八月十五中秋節為太陰娘娘誕辰。 

THÁI  ÂM   NƯƠNG  NƯƠNG
Ngày rằm tháng tám âm lịch là  Tết Trung Thu, đó là một trong ba ngày Tết  theo truyền thống “Ba ngày Tết lớn” của Trung Quốc. Đối tượng chủ yếu của đêm Trung Thu là  “một vầng trăng sáng vằng vặc giữa không trung” .
*Vào tiết Trung Thu, bầu trời không một gợn mây, ánh trăng chiếu sáng khắp nơi, tỏa ra nhiều vầng  hoa sáng hết sức gợi cảm. Do đó, mỗi năm đến ngày nầy, các vị thiên tử lập ra “Nguyệt Đàn” để tế trăng, đây là khởi nguyên của việc tế trăng ở thời điểm khác trong năm.  Đến đời nhà Thanh, thì việc tế trăng đã được xếp vào một trong những lễ cúng tế hàng năm, ghi vào “sách tế lễ” (tế điển). Như vậy, ta thấy có một sự xuyên suốt gắn bó từ tế trăng thời Tiên Tần cho đến tế trăng Trung Thu đời sau.
*Nguyệt Nương hoặc “Thái Âm Nương Nương”, “Thái Âm Tinh Quân”, việc cúng tế  “Dạ Minh Chi Thần” chẳng những được các vua chúa xưa coi trọng, mà ngay cả trong dân gian vẫn lấy đó là sự hứng thú vô cùng.
*Dân  gian thì gọi “Thái Âm Tinh Quân” là “Thường (Hằng)  Nga”, cho rằng “Thái Âm Tinh Quân” là một “tuyệt sắc mỹ nhân” , cho nên cực kỳ thú cảm trong việc thưởng trăng. Do đó, việc cúng tế “Thái Âm Tinh Quân” được tổ chức vào ban đêm, mặt ngước lên nhìn trăng sáng, nhà nhà đều ra sân, thiết bày hương án có đôi đèn sáp, bình hoa đẹp,  dĩa bánh Trung Thu, dĩa trái cây bốn màu. Tất cả đều thắp hương, thành tâm vái nguyện cho được những gì đang hoài bảo ôm ấp trong lòng, sau đó lạy tạ Thái Âm Nương Nương. Ngoài ra, đây cũng là dịp đoàn viên hội tụ cả nhà để chung vui với nhau một cách tao nhã. Đôi khi, cũng có người trổ tài văn chương ngâm vịnh cùng nhau, thật không có dịp nào ấm cúng thơ mộng bằng !
*Trong dân gian có lưu hành một thiên sách là “"Thái Âm Tinh Quân Kinh”, trong đó ghi :- “Mỗi tháng vào hai ngày rằm và mười sáu, gọi là đêm đoàn viên của Thái Âm, nên đốt nhang, tụng mười biến kinh nầy, cả nhà sẽ vui vầy” . Tuy thế, những Miếu Thờ "Thái Âm Tinh Quân"  không có nhiều lắm. Theo truyền thuyết, khi nào có con trẻ èo uột khó nuôi, lập bàn hương án cầu nguyện khấn vái với "Thái Âm Tinh Quân"  , hiệu nghiệm vô cùng.
*Đạo Giáo kế thừa những tín ngưỡng dân gian từ thời cổ đại, trong đó, niềm tin đối với mặt trời, mặt trăng, các sao … rất lớn. Nhất là đối với Bắc Đẩu, Ngũ Tinh và Nhị Thập bát Tú thì lại càng nhiều hơn nữa. Bởi họ tin là, những “Vị” đó có quan hệ mật thiết đến tiền đồ vận hạn của con người.
* Truyền thuyết có liên quan đến mặt trăng khá nhiều, như những chuyện “Thỏ ngọc giả thuốc”, “Ngô Cương chặt cây quế” còn có chuyện “Hằng Nga bay lên mặt trăng” là hấp dẫn nhất :-
Vua Hậu Nghệ  cầu xin Tây Vương Mẫu ban cho thuốc trường sanh bất tử, nhưng bị vợ của ông là Thường (Hằng) Nga lấy trộm và uống hết, sau đó nàng hóa thành Tiên, bay lên mặt trăng để trốn, trở thành một vị Tiên trên cung Quảng Hàn (cung trăng). Hằng Nga quan sát hết cung điện, thấy hoàn toàn vắng vẻ lạnh lẽo, không giống như  cảnh đẹp do tưởng tượng trước đây của nàng. Nhưng rồi sợ bị Hậu Nghệ trả thù, Hằng Nga không dám quay về trần thế, đành phải chịu sống cô độc một mình , vắng vẻ lạnh lẽo ở cung trăng nầy . (Quảng:- rộng rãi; Hàn:- lạnh lẽo)
*Còn đối với nông dân, thì Tết Trung Thu là một ngày  quan trọng và đầy hân hoan sau khi đã thu hoạch mùa màng sau những ngày vất vả cực khổ. Ngoài việc cúng tế trả lễ đối với “Thổ Địa Công” ở ruộng đất, nông dân còn tạo ra một món đồ cúng tế rất đặc biệt, gọi là “Thổ Địa Công Dụ Trượng” (cây gậy giàu có của ông Thổ Địa) để cắm ở ruộng đất của mình. Gậy được làm bằng cây tre, trên đầu có cột những giấy tiền vàng bạc khối (Thổ Địa Công Kim). Bên dưới thì bày bánh Trung Thu đèn nhang hoa quả để cúng. Bởi vì Tết Trung Thu còn chứa đựng ý nghĩa “Tế Thu” (của hai kỳ cúng tế mùa Xuân và mùa Thu), nên nông dân cón tổ chức diễn kịch hát xướng , gọi là  lễ “Tạ Bình An” [ Ở Việt Nam là lễ “Kỳ An”-ND].
*Trong Đạo Giáo thì lấy ngày Tết Trung Thu làm ngày sinh nhật của "Thái Âm Nương Nương"  hay “Nguyệt Cung Nương Nương”. Ngày đó, dân chúng đến Miếu Thờ Thái Dương Tinh Quân trong đó có thờ luôn cả Thái Âm Nương Nương  để làm lễ chúc thọ Nương Nương  .
*Ngày rằm tháng tám âm lịch là ngày vía của Thái Âm Nương Nương  .
*NHƯỢC  THỦY    dịch
(từ  http://www.fushantang.com) 

46. NGUYỆT   HẠ   LÃO  NHÂN .

(Nguyệt Lão)
月下老人
月下老人又稱「月老」、「月老公」,是我國神話傳說中專管婚姻的媒神,是有情人曾虔心寄託自己美好姻緣的幸運之神。俗諺:「千里姻緣一線牽,無緣對門不相識」。每個人一生中最大的幸福,無非是討個好老婆,或是有個貼心又溫柔的另一半。不過,僅管如此,這世上還是有不少曠男怨女,在苦苦地尋找另一半,因此月下老人廟就應運而生了,有時它是間獨立的廟宇,有時則附屬在一些廟的側殿。
  杭州西湖白云庵的月下老人祠的廟聯:「愿天下有情人,都成了眷屬,是前生注定事,莫錯過姻緣。」
  唐代李復言的《續幽怪錄˙定婚店》中描述,唐朝時有一位名叫韋固的公子,有天夜裡遇到一位白髮白鬚的奇異老人,依著一只布袋,坐在月光下看書。韋固好奇,就走過去問老人說:「借問您在看什麼書?」老人回答:「我在核對天下男女婚姻的姻緣簿」。韋固又問老人那袋子裡裝的是什麼東西?老人回答:「袋內都是紅繩,用來繫住夫婦之足。雖仇敵之家,貧富懸殊,天涯海角,吳楚異鄉,此繩一繫,就定終身。」。此亦是「千里姻緣一線牽」的出處。
  韋固一聽,連忙請老人幫他查詢未來的妻子。老人翻書一查,告訴他說:未來的妻子是北邊一位瞎眼老太太陳氏的女兒。韋固聽後就前往查看,見到此女才三歲,鼻涕滿面,滿身髒垢藍縷,心中很不高興,推了小女孩一下,結果女孩跌倒傷了眉心。十四年後,韋固當了武將,刺吏王泰很欣賞他,就把女兒嫁給了他。這位姑娘秀麗非常,只是眉間有一道疤痕,韋固詢問後才知道這位姑娘就是十四年前被他推跌的那個女孩,十四年來刺吏撫養她,把他當成了親閨女。韋固這才知天命不可違,而跟這位小姑姐相親相愛,后來二人所生的兒女都很有出息,子孫滿堂,幸福無比。此事傳開後,民間就把執掌男女婚配的媒神,稱之為「月下老人」。月下老人成了媒人的代名詞,一直沿用至今。
  由於月下老人會幫有緣的男女繫紅線,在民間也漸漸出現「栓紅線」的習俗。此一習俗在唐代已有。唐代史書上記載:袞州都督郭元振年長未婚,宰相張嘉振見他有才幹又相貌堂堂,就想納他為婿,因為有五個女兒不知許配給那一位好,張宰相於是想了一個辦法,讓他的五個女兒坐在布幔子後面,每人手上各拿一根紅絲線,將線頭露在外面,讓郭元振隔著幔子去牽,牽到誰就以誰為妻,郭元振一下牽到了漂亮非凡的張家三女,倆人結下了美滿良緣。
  最初婚禮上有栓紅線的儀式,到了宋代逐漸演化成「牽紅巾」,婚禮上新郎新娘各持一端,相牽入洞房。這種習俗因含有「同心相結、白首偕老」的美好寓意,所以直到今天,有些地方的婚禮上還能看到。
  相傳農曆的八月十五日是月下老人的生日,所以這天很多「孤男寡女」都會前往廟裡祈求月老賜與好姻緣,許多得願的信徒也會攜帶喜餅、喜糖前往還願,感謝月老的促成。
  月下老人簡稱「月老」,是婚姻之神,而在民間的些神話故事中,除了月下老人是和人的終身大事有關之外,還有人是供奉「月神」、「月宮娘娘」、「月光菩薩」或「月姑」等等。
牛郎織女:
人們對牛郎與織女的祭拜,主要是和民俗的節日結合了起來。農曆七月初七,是牛郎與織女鵲橋相會的日子,又稱之為「七巧節」或是「乞巧節」。在一些地方建有織女廟,其中以江蘇太倉的織女廟最有名,裡面供奉著牛郎與織女。
月光菩薩:
月亮似乎總是與人的情感與愛情脫離不了關係,而且也源自於古老的天體祟拜觀念,人們常說「花前月下」,是形容非常浪漫的意思。在中國的古代,情人熱戀時會在月下盟定終身,拜禱月神,因此也成為了一種習俗,痴情男女常對「月光菩薩」發誓,盡管月移星轉,此情永世不變。所以月神可算是中國民間最流行的神明之一,其有許多稱呼,有時是「月神」、「太陰星主」、「月姑」、「月宮娘娘」、「月娘」或「月光菩薩」等。一般民間相信,月光菩薩是一位慈悲為懷的女神。
七星娘娘:
在台灣及閩南一帶,非常流行崇拜七娘媽,也可稱之為「七星娘娘」或是「七星夫人」。而七星娘娘,有說是織女變的,也有說是「七仙女」。七星娘娘的正職,主要是保護孩子及嬰兒,免於受疾病的威脅,因此常有婦女帶著自己的孩子到廟中,認七星娘娘為乾媽。而每年農曆的七月初七的那天,父母要帶著孩子拿著供品,到七娘廟中去酬謝神明,女孩子十六歲時,也要去祭謝七娘媽,因此七娘媽就像是孩子的父母親一般。傳說在每年農曆七月初七之後,七娘媽就會把造好的未婚男女花名冊,送交給月下老人,經月老仔細審查後,就把名冊上的男女用紅線繫在腳上,所以七星娘娘變為紅娘之一了。
泗州大聖:
在世俗的世界中,既然有人談戀愛,就有人會失戀。當失戀的時候,有人也許會哭,也有人會情緒低落,甚至為愛殉情。在這種情形下,除了有祝福有情人終成眷屬的月下老人之外,在廣東及福建等地,更有失戀者的保護神泗州大聖。泗州大聖又稱為泗州佛,據說他本來是西域僧人,後來在唐高宗時來到長安、洛陽等地,後來到了江南地區,受觀音渡化成佛。據說,泗洲佛對人世間的痴情男女,非常的同情。所以,如果有熱戀中的男女發生了問題,或是婚姻受挫,只要在泗州佛的腦後挖下一點泥巴,偷偷的撒在心愛人的身上,愛情或婚姻,就會得到圓滿和幸福的結局,因此許多地方的泗州佛,大部份後腦勺都被人挖去了大半。
  農曆八月十五日為月下老人誕辰。

NGUYỆT   HẠ   LÃO  NHÂN
(Nguyệt Lão)
Nguyệt hạ lão nhân (ông già dưới trăng) còn gọi là Nguyệt Lão hay Nguyệt Lão Công, theo truyền thuyết , là vị thần chuyên về làm mai mối hôn nhân của con người. Là vị thần mà biết bao cặp tình nhân từng thành tâm ký thác mệnh vận tốt đẹp của nhân duyên đời mình.
*Tục ngữ nói  :- “Thiên lý nhân duyên nhất tuyến khiên—Vô duyên đối môn bất tương thức” 
(Nếu có duyên thì ngàn dậm cũng có sợi dây cột lại, Còn không duyên với nhau thì đối cửa cũng chẳng biết nhau. Tương tự hai câu phổ biến :- Hữu duyên thiên lý năng tương ngộ--Vô duyên đối diện bất tương phùng--ND). 
*Hạnh phúc lớn lao nhất của đời một người là, chẳng phải lấy nhầm một “bà già tốt”, mà hơn phân nửa là thích chọn người hiền hậu ôn hòa, có tâm chung thủy. Nhưng mà cái sự đời không đơn giản  như thế, trên thế gian nầy vẫn luôn có những trai đơn gái chiếc, mặc dầu  họ đã bỏ ra rất nhiều công sức đi tìm đầu nầy đầu nọ. Vì vậy, mới có Miếu Thờ Nguyệt Hạ Lão Nhân, gọi là “ứng vận nhi sinh” (theo vận hạn mà sinh ra) để làm chỗ giải bày tâm sự của người “có nhu cầu”. Có lúc  thì Miếu Thờ Nguyệt Lão  ở nơi riêng biệt, có khi lại nằm bên cạnh một miếu thờ khác.
*Ở Tây Hồ của Hàng Châu có Am Bạch Vân, trong có Miếu Thờ Nguyệt Lão. Nơi đây có câu liễn đối rất khéo:-
“Nguyện thiên hạ hữu tình nhân, đô thành liễu quyến thuộc,
Thị tiền sanh chú định sự, mạc thác quá nhân duyên”
(Nguyện cho những đôi tình nhân trong thiên hạ, đều thành quyến thuộc của nhau—Nếu đã là chú định từ kiếp trước, thì đừng để lầm bỏ qua nhân duyên)
*Ông Lý Phục đời Đường  đã kể lại  trong  quyển “Tục U Quái Lục—Định Hôn Điếm” rằng :-
-Đời Đường, có một vị công tử tên là Vi Cố, vào một đêm nọ đi dạo chợt thấy một lão già râu tóc bạc phơ, mang theo bên mình một cái túi lớn, đang ngồi dưới trăng xem sách. Vi Cố hiếu kỳ đến gần hỏi ông lão :- “Dám xin hỏi ông cụ  đang xem sách gì ạ ?”. Lão nhân đáp :- “Ta đang tra xem sổ bộ nhân duyên của nam nữ trên thế gian nầy”. Vi Cố lại hỏi trong cái túi nầy đựng vật gì, thì ông lão cười đáp:- “Trong túi chứa những sợi dây đỏ, dùng để buộc chân cặp trai gái có nhân duyên với nhau. Cho dù là hai nhà cừu địch nhau, giàu nghèo khác nhau, ở nơi góc biển chân trời, lạ quê khác quán với nhau đi nữa, một khi đã buộc sợi dây nầy, thì nhất định phải chung sống với nhau !” (Đây là chỗ xuất xứ của câu :- “Thiên lý nhân duyên nhất tuyến khiên” ở trên).
Vi Cố nghe xong, liền xưng tên mình và  nhờ ông lão tra giúp xem người vợ trong tương lai của mình là ai ? Lão nhân tra một hồi , bảo anh ta :- “Người vợ tương lai của anh là đứa con gái họ Trần, con của một bà lão mù đi xin ăn ở chợ phía Bắc”.
Vi Cố nghe xong, cám ơn và lui về. Hôm sau, anh ta mò đi tìm. Quả nhiên gặp bà lão mù, đang dẫn một đứa con gái độ ba bốn tuổi, mặt mày lem luốc, quần áo lam lũ. Anh ta bèn nổi nóng, đá con bé gái một đá lăn cù mèo, té xuống nền gạch tét chỗ mi mắt, máu ra xối xả. Vi Cố bỏ chạy mất.
Mười bốn năm sau, Vi Cố trở thành một võ tướng. Có quan Thứ Sử tên Vương Thái rất có cảm tình với chàng, đem con gái yêu quí gả cho anh ta.Vị cô nương nầy rất đẹp, chỉ có điều là chỗ mi mắt có một vết thẹo nhỏ. Vi Cố theo gặn hỏi mãi mới biết đây chính là đứa bé gái mà mình đã đá té nó hồi mười bốn năm trước. Nguyên sau khi hành hung xong, Vi Cố bỏ chạy thì tình cờ có vị quan đi qua, thấy tình cảnh đáng thương mới đem đứa bé về nuôi, nhận làm con. Mười bốn năm sau, ông trở thành Thứ Sử, còn cô bé trở thành một tiểu thơ khuê môn đài các, chính là vợ Vi Cố hiện giờ.
Nghe xong, Vi Cố dấu bặt chuyện xưa, nhưng trong lòng quả quyết rằng “Đã số chạy đâu cho khỏi số !”. Vợ chồng thương yêu nhau tha thiết. Về sau hai vợ chồng sanh ra con cái đều làm nên, cả nhà hưởng phước lộc. Chuyện nầy được truyền ra ngoài, dân gian mới lấy vị thần mối mai tôn xưng là “Nguyệt Hạ Lão Nhân”. Từ đó, nguyệt hạ lão nhân trở thành một đại danh từ chỉ về người mai mối, truyền tụng cho đến ngày nay”.
*Do vì Nguyệt Hạ Lão Nhân nối sợi chỉ đỏ cho những cặp nam nữ nào có nhân duyên với nhau, nên trong dân gian phổ biến tục lệ “Cột sợi chỉ đỏ” cho dâu rễ vào ngày cưới. Tục lệ nầy đã có từ đời Đường. Trong quyển Sử Thư  đời Đường có chép câu chuyện:- “Quan Đô Đốc Cổn Châu là Quách Nguyên  Chấn đã lớn tuổi mà chưa có vợ, quan Tể Tướng Trương Gia Chấn thấy anh ta vừa có tài vừa đẹp trai, mới chọn chàng làm rễ quí. Nhưng vì ông ta có tới năm đứa con gái, không biết chọn đứa nào để gả cho tốt. Bèn nghĩ ra một cách, cho năm cô gái ngồi ở sau một tấm màn. Tay mỗi người đều có cột một sợi chỉ đỏ, đầu mối chỉ để lú ra ngoài trước. Bảo Quách Nguyên Chấn ngồi trước màn để chọn lựa sợi chỉ, hễ của cô nào thì gả cô đó. Chàng lựa một hồi báo kết quả là đã chọn được tiểu thư thứ ba rất có tài có sắc, hai người kết hợp được cuộc nhân duyên tâm đầu ý hiệp, vô cùng mỹ mãn”.
*Hồi mới đầu, cuộc hôn lễ nào cũng có nghi thức “cột chỉ đỏ”, nhưng đến đời Tống lại biến thành “đội khăn đỏ” . Trong hôn lễ, cặp dâu rễ đội chung chiếc khăn đỏ đi vào phòng tân hôn. Tập tục nầy hàm ý nói:- “Đồng tâm tương kết, bạch thủ giai lão” (đồng tâm kết hợp nhau, đến lúc già đầu bạc). Cho nên hiện nay, ở một vài địa phương vẫn còn duy trì tập tục nầy.
*Tương truyền vào ngày rằm tháng tám âm lịch là ngày sinh nhật của Nguyệt  Hạ Lão Nhân. Cho nên , vào ngày ấy, có rất nhiều trai đơn gái chiếc đến Miếu Thờ của Nguyệt Lão để cầu cho được mối lương duyên. Cũng có rất nhiều người được thỏa nguyện nên mang “bánh mừng” , “đường mừng” đến cúng tế Ngài để trả lễ.
*Nguyệt Hạ Lão Nhân gọi tắt  Nguyệt Lão, là vị Thần Hôn Nhân  chính thức. Trong dân gian, ngoài câu chuyện có quan hệ đến việc chung thân là Nguyệt Lão kể trên, còn thờ cúng một số vị Thần khác, như là :- “Nguyệt Thần”, “Nguyệt Cung Nương Nương”, “Nguyệt Quang Bồ Tát” hay “Nguyệt Cô” v.v…

*Ngưu Lang Chức Nữ :-

Việc trong dân gian cúng tế Ngưu Lang Chức Nữ đầu tiên là do liên quan đến tập tục “mừng nửa năm” có  từ trước.
Mùng bảy tháng bảy là ngày mà Ngưu Lang và Chức Nữ gặp nhau trên cầu Ô Thước, còn gọi là “Thất Xảo Tiết” (tiết tháng bảy khéo léo) hoặc “Khất Xảo Tiết” (tiết cầu cho sự khéo léo).
Tại một vài địa phương có lập Miếu  Chức Nữ , trong số đó, Miếu Chức Nữ ở Giang Tô là nổi tiếng nhất. Trong điện có tượng thờ Ngưu Lang và Chức Nữ rất đẹp.
*Nguyệt Quang Bồ Tát :-
Sự ái cảm của con người với ánh trăng thực ra thì không có quan hệ gì đến ái tình nam nữ cả, nhưng vì từ ngàn xưa đã có quan niệm cổ xúy “thiên thể mặt trăng” rồi, cho nên người ta thường nói câu “trước hoa dưới nguyệt”, là một ý tứ rất lãng mạn.
Thời cổ đại Trung Quốc, những cặp tình nhân thường hứa hẹn sống trọn kiếp với nhau ở dưới trăng, đống thời bái lạy Thần Trăng xin chứng minh. Dần dần thành ra tập tục . Những đôi tình nhân đã cùng nhau phát lên lời thệ nguyện để xin “Nguyệt Quang Bồ Tát” (Bồ Tát ánh trăng) chứng minh , cho dù nguyệt đổi sao dời thì tình yêu của họ vẫn mãi vững bền không phai lạt. Cho nên, Nguyệt Thần là vị thần minh lưu hành rộng rãi nhất trong dân gian, phát sinh nhiều cách gọi khác nhau như là :- “Nguyệt Thần”, “Thái Âm Tinh Chủ”, “Nguyệt Cô”, “Nguyệt Cung Nương Nương”, “Nguyệt Nương” hoặc “Nguyệt Quang Bồ Tát” v.v…Có một số người cho rằng Nguyệt Quang Bồ Tát là một vị nữ thần ôm ấp nhiều từ bi trong lòng.
*Thất Tinh Nương Nương :
Tại Đài Loan và một dãy Mân Nam, rất lưu hành sự sùng bái “Thất Nương Mụ”, còn gọi là “Thất Tinh Nương Nương” hoặc “Thất Tinh Phu Nhân”. Nhưng  Thất Tinh Nương Nương chỉ là một biến thể của Chức Nữ mà thôi, nên còn gọi là “Thất Tiên Nữ”.
Chức trách chính thức của Thất Tinh Nương Nương là bảo hộ cho trẻ sơ sinh và con nít, tránh khỏi những bệnh tật đau ốm. Do đó, thường có những bà mẹ mang đứa con mình đến các Miếu Thờ , lạy xin nhận Thất Tinh Nương Nương là “Càn Mụ” (mẹ trời). Nhất là vào dịp mùng bảy tháng bảy, rất nhiều bậc cha mẹ đã mang con  và vật cúng đến Miếu  Thất Nương để cúng tạ thần minh phù hộ được mạnh giỏi. Rồi đến khi đứa con gái được mười sáu tuổi, lại đến cúng tế Thất Nương Mụ trọng thể. Như vậy, Thất Nương Mụ đã trở thành “cha mẹ nuôi” của những đứa trẻ.
Theo truyền thuyết,mỗi năm sau ngày mùng bảy tháng bảy, Thất Nương Mụ chuyển giao cho Nguyệt Lão bản danh sách những cặp trai gái yêu nhau, để Nguyệt Lão thẩm tra lại xem có đúng là duyên số với nhau hay không, mà cột sợi chỉ đỏ gắn bó hai người với nhau suốt đời. Cho nên, Thất Tinh Nương Nương trở thành một vị “Thần Mối Mai” vậy.
*Tứ Châu Đại Thánh :-
*Trong thế giới của người thế tục, có những người được yêu thương mà cũng có những kẻ chẳng ai ngó ngàng đến hoặc bị phụ tình. Trong số những người bị tình phụ ấy, có những người đã khóc, có những người bị bệnh hoạn thậm chí có người tự tử vì tình cũng thường thấy. Trong tình hình ấy , trừ những người có phước được  thành hôn với người mình yêu thương và được Nguyệt Hạ Lão Nhân cột liền sợi chỉ đỏ để thành quyến thuộc suốt đời, thì ở Quảng Đông và Phước  Kiến, đặc biệt có Miếu Thờ một vị chuyên bảo hộ cho những kẻ thất tình hoặc bị tình phụ, đó là “Tứ Châu Đại Thánh”.
Tứ Châu Đại Thánh còn được tôn xưng là Tứ Châu Phật. Theo truyền thuyết thì Ngài vốn là một thầy tăng người Tây Vực (Ấn Độ), đến Trường An và Lạc Dương  vào thời vua Đường Cao Tông. Rồi về sau lại đến khu vực Giang Nam, được Bồ Tát Quan Âm  độ thành Phật.
*Tương truyền, Tứ Châu Phật rất đồng cảm thương xót những nam nữ si tình. Cho nên, nếu chuyện tình cảm giữa đôi trai gái có vấn đề không ổn, hoặc chuyện hôn nhân không thành, chỉ cần đến Miếu Thờ Ngài, xin một chút “đất bùn” ở phía sau “não bộ” của Ngài, rồi đem về nghiền nát ra, tìm cách bôi vào thân mình của “người trong mộng”, thì sau đó, ái tình hoặc hôn nhân đều thành tựu tốt đẹp. Vì thế, những tượng  Tứ Châu Phật ở các miếu thờ mọi địa phương , tất cả phần sau đầu đều bị khuyết lõm chỉ còn không tới phân nửa (!).
*Ngày rằm tháng tám âm lịch là ngày vía của Nguyệt Hạ Lão Nhân.

*NHƯỢC   THỦY  dịch
(từ  http://www.fushantang.com)   

47. MÔN  THẦN .

門神
   門神是人類最常見的守護神之一,屬于物神,自古就是天子的五祀之一,以避邪祈安,后來由于許多不同的神話,讓門神人格化,而成為神仙世界的特殊人物。門神源于古代的庶物崇拜,據古籍記載,以門作為祭祀對象,始於上古時代少昊金天氏。庶物崇拜是指經人工制造的器物,民間認為其上附有神靈,加以崇拜。例如橋神、路神、灶神、井公、車神、船神、床母以及門砷等。
  門神的信仰很早,最早的作用是為了驅鬼辟邪,後來卻演變為祈福致慶。《禮記》曲禮篇上己有「春祀戶祭」的記載,《禮記.月令》曰:「孟秋之月其祀門。」《喪大記注》曰:「君釋菜,以禮禮門神。」當時的五祀之中也包括了門神在內。《淮南子》記載:「夏后祀戶,殷人祀門。」門神在歷代都有不同的角色出現,漢朝以後是以繪製的神像為代表。唐朝時,換成了唐太宗手下的兩員大將秦叔寶與尉遲敬德。晚唐五代時,鐘馗也加入了門神的行列。現代除了武將門神外,也有畫朝服文官的文門神,稱為「五福臨門」或「納福迎祥」。而文門神多穿一品朝服,或抱象牙笏板,或持吉祥器物。吉祥物有爵、鹿、蝠、喜、馬、寶、瓶、鞍等。代表官位,榮祿,福氣,平安等等。
  門神是我國民間最受信仰的神祇之一。門神的歷史之久、流傳之廣、種類之多,在民間諸神中是很突出的。門神從其誕生之日起,即傲立於千家萬戶的大門之上,抖盡了威風,歷二千餘年,至今不衰的。古人有祀門和掛桃人的習俗,早在周朝,就有了祭門的風俗。
  據《禮記.祭法》記載,大夫立二祀,適士二祀,庶人只一祀,其中包括祀門。古代祀典中有五祀之說,所謂「五祀」,即祭祀門、井、床、霤、土地等五神。古人對大自然不太認識,鬼神之說十分流行,把一切壞事和怪事都當作鬼魂作祟。雖然人們建造了屋子,但古人還是覺得不太可靠,無孔不入的鬼怪來了該怎樣辦呢?所以就創造出門神來守衛門口。最早具有門神功能的,其實只是一塊桃木,古人認為桃木是「仙木」,能驅邪逐鬼,而且以桃木為劍,還可以斬妖除怪,所以一般人常在門上挂著桃木,以鎮四方想來搗蛋的妖魔鬼怪。這就是俗稱的「桃符」。《典術》云:「桃者,五木之精也,故壓伏邪氣者也。桃之精生在鬼門,制百鬼,故今作桃人梗著門以壓邪,此仙木也。」而桃人其實是兩位神將:神荼、鬱壘的化身。
  門神的陣營,經過漢、魏、晉、唐等朝代逐漸擴充,到宋、明朝時已十分壯大,連道觀也開始在大門上繪上守護神畫像,並改由上天的「星宿之神」來擔任。以后,只有驅鬼鎮妖一種功能的武將門神,已不能滿足人們的各種需要,於是又出現了文官門神和祈福門神。后者寄托了人們祈望升官發財,福壽延年的愿望和心態。文官門神都與升官發財有關,而祈福門神卻與多子多福、福壽延年挂上鉤。二者有時也配雙成對,如天官(或狀元)門神,常與送子娘娘匹配,此外,還有喜神、和合二仙、劉海、招財童子等。
  門神已成為具有驅邪魔、衛家宅、保平安、助功利、降吉祥等多種功能的保護神,成為民間諸神中最受群眾歡迎的俗神之一,至今興盛不衰。
神荼、鬱壘:
這二位門神在許多古書籍中均有記載,如《論衡》、《山海經》等都有描述,據南朝《荊楚歲時記》中記載:「正月一日,繒二神貼戶左右,左神荼,右鬱壘,俗謂之門神。」故事越來越完整,在民間流傳則越廣。據傳神荼、鬱壘是古代幫助黃帝管理鬼國的部將。他們住在東海一個叫「桃都山(或稱度朔山)」的小島上,山上有一株巨大的樹,樹枝盤屈伸展達三千里。樹頂上站著一隻金雞,每當太陽初升,第一縷陽光照在它的身上時,金雞即會啼起來,天下的公雞也會跟著啼起來。樹的東北方有一座鬼門,兩旁就站著神荼、鬱壘。一左一右,他們監視著哪些剛從人間遊盪回來各式各樣的鬼怪。如發現曾在人間作惡,他們就會馬上用葦索把鬼怪綁起餵白虎。因此鬼最怕神荼、鬱壘、金雞和老虎。最初人們用桃木雕成兩位門神的神像,但因雕人像比較麻煩,故此以人簡化為在桃木上畫上兩位的圖像,或者只寫「神荼」、「鬱壘」幾個字貼上,亦已經可以作門神,抵禦邪魔之用。
金雞:
雞是司晨之靈,慣於夜間活動的鬼怪皆畏之,「畫雞戶上,百鬼畏之。」
老虎:
號稱百獸之王,「能執搏挫銳,噬食鬼魅。」,「畫虎於門,么不敢入。」古代建築物的門扇上的門環,均設計為兇猛的虎、獅面形,其淵源應出於此。         
鐘馗、魏徵:
鐘馗,右手執筆,左手握劍,瞪目張口,怒發沖冠,是民間信仰中頗受歡迎的驅邪納吉之神,早在唐朝時,民間已普遍崇拜信奉這位外貌猙獰兇惡內心善良正直的俗神。據說最給鍾馗畫像的是唐代著名畫家吳道子,唐代宮廷曾將鍾馗的畫像或印有鍾馗像的曆日賜給大臣。據傳鐘馗乃唐朝終南山人,才華出眾,赴京城參加武舉考試,因貌醜未被錄取,於是羞憤怒撞殿階而死,被皇帝賜以綠袍安葬。一說鐘馗是西嶽華山蓮花寺內的伏蟒羅漢,投胎於華陰縣鐘家莊,相貌雖醜,卻武功蓋世,文才敏捷。道教則把鐘馗當作鎮惡逐鬼的判官,其生前應是神靈轉世,擁有與生俱來的超凡神力,故常為人們擔任陰陽界溝通的工作,喜好鋤奸扶弱、行俠仗義,能看透陰陽事理,肩負扶正祛邪的重任,為人間帶來安定,最終則遁世悟真成道,而敕以神格。    
*鐘馗
元朝以后鐘馗的畫像,不但長上了毛茸茸的胡子,而且是坐著藤轎由「丑狀千百態」的小鬼們抬著他。不僅把鐘馗形容成一個鎮祛邪魅的靈鬼,几乎變成執掌死后裁判的閻羅王。
據說鐘馗在民間捉鬼時,還有“含冤”和“負屈”二位小鬼作為協助。并有蝙蝠作他的先驅前導。

秦叔寶、尉遲恭:
相傳唐太宗因玄武門事變,殺死了兄弟才奪得皇位,有一次夢見死了的兄弟滿面恐怖,前來索命,生了大病,此後每天晚上都夢見兄弟前來索命,有大臣魏徵建議請兩位大將秦叔寶和尉遲恭把守前後門,使鬼魂不敢入內,一試之下,果然靈驗。但兩大將身居要職,沒有可能晚晚都在守門口,所以就畫了他們的畫像貼在門上,發現一樣有效。此後民間效法,將二位將軍的畫像貼在大門上,以阻擋一切妖魔鬼怪入宅,也是民間流傳最廣的。這對門神的神像樣式也有很多,有坐的,有立的,有披袍的,有貫甲的,有徒步的,有騎馬的。他們執金瓜的,有舞鞭的。而秦叔寶對尉遲恭的另有對聯:「昔為唐朝將;今作鎮宅神。」
  其他門神有:「趙雲、馬超」;「馬超、馬岱」;「薛仁貴、蓋蘇文」;「孟良、焦贊」。另還有燃燈道人、趙公明、岳飛、馬武、姚期、楊延昭、穆桂英、蕭何、韓信、孫臏、龐涓、黃三太、楊香武,乃至哼哈二將等等。
  門神已成為具有驅邪魔、衛家宅、保平安、助功利、降吉祥等多種功能的保護神,成為民間諸神中最受群眾歡迎的俗神之一,至今興盛不衰。除了大門、後門貼門神外,或在客廳或臥房貼「福祿壽」三星或「五路財神」、「增福財神」,在倉庫貼「神農田祖」等大紅大綠的年畫。
  通常門神一年張貼一對新的上去,以舊換新。如門神破爛了就會失去法力。用任何一對門神皆可,但只可用一對,不可以兩對一起用。供奉門神是不用上香的。 


Môn Thần
Môn Thần là một trong những vị Thần Thủ Hộ (giữ gìn và bảo vệ) thường thấy của loài người, xếp loại vào “Vật Thần” (thần đồ vật), từ xưa đã là một trong năm hạng cúng tế của vua chúa. Mục đích của nó là để trừ tà cầu bình an, về sau do có nhiều thần thoại khác nhau, đã nhân cách hóa Môn Thần trở thành nhân vật đặc biệt của thế giới Thần Thánh.
Môn Thần phát sinh từ cổ đại do sự sùng bái  các vật mà thành. Theo sách xưa ghi lại, lấy cửa nẻo làm đối tượng sùng bái xuất phát từ Thiếu Hạo Kim Thiên thời thượng cổ, dân gian cho rằng những thứ đồ vật đều có hàm chứa sự phù hộ của thần linh trong đó, tỷ như :- Thần cây cầu, Thần đường sá, Thần bếp, Thần giếng, Thần xe, Thần thuyền bè, Sàng Mẫu (mẹ giường) và Môn Thần v.v…
 *Tín ngưỡng về Môn Thần có rất sớm, trước tiên là có tác dụng đuổi quỉ trừ tà, về sau mới thêm ý cầu phước đón lành. Thiên Khúc Lễ trong sách Lễ Ký có ghi :-“Những cúng tế vào mùa Xuân, có lễ cúng môn hộ (cửa nẻo)”. Trong “Lễ Ký—Nguyệt Lệnh” thì viết :- “Tháng mạnh thu (tháng 7) thì cúng tế cửa”. Còn trong “Táng Đại Ký Chú” thì nói :- “Vua dọn thức ăn làm lễ cúng Môn Thần”. Như vậy, trong  Ngũ Tự (năm hạng cúng tế) có lễ cúng  Môn Thần vậy. Trong Hoài Nam Tử có viết :- “Hậu của vua Hạ cúng cửa, người đời Ân cúng cổng”.
*Về xuất xứ của Môn Thần thì qua nhiều triều đại có thay đổi khác nhau. Từ đời Hán trở đi thì chọn Hội Chế làm thần. Đời Đường thì đổi thành hai vị tướng của vua Đường Thái Tông là Tần Thúc Bảo và Uất Trì Kính Đức (Cung). Cuối đời Đường thì có thêm nhân vật Chung Quỳ vào danh sách Môn Thần. Hiện nay chỉ còn một số ít thờ Môn Thần với hình tượng võ tướng,đa số thờ  hình tượng quan văn mặc triều phục, gọi là “Ngũ Phước Lâm Môn” hoặc “Nạp Phước Nghênh Tường”. Môn Thần quan văn thường mặc triều phục (quần áo chầu vua), hoặc cầm hốt (tín vật của quan), hoặc cầm “vật cát tường” như :- chim sẻ (đồng âm  tước của chức tước), nai (âm lộc), con dơi (âm phúc), con nhện càng (âm hỉ), cái thẻ ghi số (âm mã), đồng tiền xưa (âm bảo), chiếc bình (âm bình trong bình an), cái yên ngựa (âm an) … để nói lên sự mong cầu quan vị, lợi lộc, phước đức, bình an …
*Tín ngưỡng về Môn Thần có từ xa xưa, trải qua nhiều đời, nhiều nơi, nhiều giới …nên cực kỳ đa dạng và phong phú. Môn Thần từ khi xuất hiện đến nay, đã được mọi nhà từ sang đến hèn, giàu đến nghèo …trang trọng “tôn trí” lên trước cửa, uy phong lẫm liệt suốt hơn hai ngàn năm mà không chút suy suyển. Tập tục cúng Môn Thần và treo tượng người bằng gỗ đào có từ đời Chu, đến nay vẫn còn.
*Theo “Lễ Ký—Tế Pháp” nói :- “Quan đại phu có hai lễ cúng, nho sĩ cũng có hai, thứ dân chỉ có một, trong đó có cúng Môn Thần. Trong từ điển cúng tế có nói đến “năm hạng cúng tế”  là :- cổng, giếng, giường, mái nhà (thần mái nhà gọi là Trung Lựu), Thổ Địa. Người xưa vì chưa đủ nhận thức xem cái nào là đáng cúng hay không, mà thứ gì cũng cho là có quỉ thần, nên thờ cúng loạn xạ. Riêng đối với “cửa cổng” thì cho là quan trọng cũng đúng. Xây nhà thì phải có cửa cổng để ra vô, chẳng lẻ bít lại. Có cổng thì ai gìn giữ ngăn cản không cho ma quỉ xâm nhập ? Sự ra đời của Môn Thần rất hợp logic vậy.
*Biểu tượng sơ khởi của Môn Thần chỉ là một khối gỗ đào. Bởi vì dân gian cho rằng, cây đào là một loại “cây tiên” có năng lực trừ tà kỵ quỉ. Do đó, dùng gỗ đào đẽo thành cây gươm, là trở thành “thần vật tối linh’ đủ công năng xua đuổi tất cả tà ma quỉ quái tránh xa nhà mình rồi ! Phép đó gọi là “Đào Phù” (bùa bằng gỗ đào).
*Trong “Điển Thuật” nói “ Cây đào là tinh hoa của năm thứ cây. Tinh hoa của nó sanh ở quỉ môn nên có thể ngăn chận trăm thứ quỉ. Cho nên tạo ra hình người bằng gỗ đào để trước cửa cổng là để trấn áp tà mị, nó là thứ gỗ tiên vậy”. Truy tìm nguồn gốc xa hơn, người bằng gỗ đào chính là hóa thân  của hai vị Thần Tướng tên là “Thần Đồ  神荼” (quen đọc nhầm là Trà) và Uất Lũy. (Đồ : 荼; Trà : 茶)
*Sự phát triển của Môn Thần trải qua các triều đại Hán, Ngụy, Tấn, Đường…càng lúc càng thêm lớn, cho đến đời Tống, Minh thì quả thật đã hết sức “hoành tráng”. *Ngày xưa, trước cổng của các Đạo Quán có treo một bức tượng gọi là “Thần Tinh Tú” ở bên trên để làm nhiệm vụ bảo vệ. Về sau đổi thành tượng một vị võ tướng môn thần, có năng lực trừ tà đuổi quỉ. Như thế cũng chưa đáp ứng đủ nhu cầu của dân gian, nên họ tạo ra thêm Môn Thần quan văn và Môn Thần cho phước. Hai vị nầy có chức năng thỏa mãn yêu cầu của dân gian :- Môn Thần quan văn thì giúp cho thăng quan phát tài, Môn Thần cho phước thì ban cho “nhiều con nhiều phước, tuổi thọ, mạnh khỏe …Hai vị nầy dần dần được biến đổi sao cho “trở thành một cặp”. Tỷ như :- Thiên Quan (hoặc Trạng Nguyên) Môn Thần thì phối hợp với Tống Tử Nương Nương  …Ngoài ra, lại còn phải cho thêm nhiều vị có nhiều chức năng khác như :- Hỷ Thần, Hòa Hợp Nhị Tiên, Lưu Hải, Chiêu Tài Đồng Tử … (Đến đây thì phải bái phục đức tính  đa thần thánh của người  TQ –ND).
Nói tóm lại, một “Môn Thần hoàn chỉnh” là phải có đầy đủ năng lực và ban bố sau đây:-
1/- trừ tà đuổi quỉ
2/- bảo vệ nhà cửa
3/- hộ cho người trong nhà được bình an
4/- giúp cho công việc có lợi lộc
5/- ban cho mọi sự cát tường (điều lành đem đến, điều dữ tống đi…)
Như thế, thử hỏi làm sao mà mọi người không hoan nghênh đón rước về nhà mình cho được ?
I.- Thần Đồ--Uất Lũy :-
Hai vị Môn Thần nầy đa số sách vở xưa đều có nói đến, như Luận Hành, Sơn Hải Kinh  đều có nhắc đến.
Theo sách “Kinh Sở Tuế Thời Ký” viết :- “Ngày mùng một tháng giêng (Tết ), dùng lụa vẽ hình hai vị thần dán ở hai bên cửa cái, bên trái là Thần Đồ, bên phải là Uất Lũy, tục gọi là Môn Thần”. Nhưng sự việc càng ngày càng phát triển cho hoàn chỉnh hơn lên lưu truyền trong dân gian. Theo truyền thuyết thì Thần Đồ, Uất Lũy xưa giúp cho Huỳnh Đế quản lí bộ tướng của nước quỉ. Hai vị nầy cư ngụ ở đảo “Đào Đô Sơn” (hay Độ Sóc Sơn) ngoài biển Đông. Trên núi có một cái cây cổ thụ rất to, tàn phủ rộng đến ba ngàn dậm. Trên cây có một con “Gà vàng” đậu ở đó. Mỗi ngày khi ánh thái dương đầu tiên chiếu vào mình nó, thì nó cất tiếng gáy rền vang bốn phương, các con gà ở thế gian bắt chước gáy theo. Ở hướng Đông Bắc của cây, có một tòa Quỉ Môn, hai vị Thần Đồ và Uất Lũy ở đó. Họ thường giám sát thế gian hễ có quỉ quái gì quậy phá thì họ lập tức đến bắt về cho Bạch Hổ  ăn thịt. Nhân đó, các loài quỉ đều sợ hai vị thần, gà vàng và bạch hổ. Đầu tiên, dân gian chạm trổ  hình tượng hai vị thần bằng  gỗ đào, nhưng vì việc chạm trổ khá khó khăn tốn công nhiều quá, nên về sau người ta chỉ vẽ hình hai vị thần, rồi đơn giản hơn, chỉ viết hai tên Thần Đồ, Uất Lũy treo lên, cũng phát huy được tác dụng trừ tà đổi quỉ .
2/-  Kim Kê :- (Gà Vàng)
Gà là Tư Thần linh hiển, theo dõi hoạt động của quỉ quái, nên nghe tiếng gà, bọn quỉ rất sợ. Sách nói :- “Vẽ gà trên cửa, trăm quỉ đều sợ”.
3/- Bạch Hổ:-
 Là chúa sơn lâm của trăm thú, có thể chụp bắt lanh lẹ, cắn nuốt quỉ mị. “Vẽ hình cọp vào cửa, yêu ma không dám xâm nhập”. Những kiến trúc xưa, ở phía trê cửa thường hay tạo ra hình dạng cọp hay sư tử để trấn yểm ma quái.
         4/- Chung Quỳ 、Nguỵ Trưng :-
*Chung Quỳ :-  tay phải cầm bút, tay trái cầm kiếm bén, trừng mắt há miệng, sắc mặt nổi giận xung thiên, là hình tượng mà dân gian rất thích dùng làm thần trừ tà thâu hoạch điều tốt. Từ thời Đường, dân gian đã phổ biến việc sùng bái ông thần mặt mày hung dữ mà tâm chính trực nầy. Theo truyền thuyết, người vẽ hình thần Chung Quỳ trước tiên chính là vị họa sư nổi danh Ngô Đạo Tử. Đời nhà Đường có lệ là dùng hình vẽ thần hoặc in hình thần vào lịch sách để ban phát cho các quan trong triều.
-Tương truyền, Chung Quỳ người ở núi Chung Nam, tài nghệ  xuất chúng, về kinh đô để dự kỳ thi võ trạng, tuy giỏi võ mà hiềm vì gương mặt quá khó coi, nên bị đánh rớt. Ông ta nổi xung lên, giận quá hét lớn một tiếng mà chết, được nhà vua ban cho “áo bào màu lục” để tống táng.
Một thuyết khác nói rằng Chung Quỳ nguyên là một vị La Hán Phục Mãng (nhiếp phục con trăn) ở chùa Liên Hoa, núi  Tây Nhạc Hoa Sơn. Đầu thai vào nhà họ Chung ở huyện Hoa Âm, tướng mạo xấu xí, nhưng văn hay võ giỏi, chết tương tự như trên.
Đạo Giáo thường cho Chung Quỳ là Phán Quan, có khả năng trấn ác phục quỉ. Lúc sanh tiền, Ngài là vị thần linh chuyển thế, nên có một thần lực ảo bí,  thường giúp nhân gian liên lạc với cõi âm, chuyên diệt kẻ gian giúp người yếu đuối, hành hiệp trượng nghĩa, có thể thấu rõ việc âm dương nên thêm nhiệm vụ trừ tà giúp chánh, khiến dân gian an ổn. Sau ẩn vào núi tu hành, đắc quả nên được vào hàng Thần.
-Thời nhà Nguyên, không họa hình tượng Chung Quỳ có tóc tai dựng đứng đáng sợ, mà là người ngồi trên chiếc kiệu, có những tiểu quỉ gọi là “Sửu trạng thiên bách thái” (mặt hề đủ kiểu) khiêng đi. Ý là chuyển nhiệm vụ của Chung Quỳ từ trừ tà đuổi quỉ thành ra vị Phán Quan trợ giúp Diêm Vương trong việc xử tội người chết.
Cũng theo truyền thuyết thì, khi Chung Quỳ đi bắt quỉ ở trần gian, có hai người phụ tá đi theo , gọi là “Hàm Oan” và “Phụ Khuất” (bị oan ức mà không nói ra được) để hiệp trợ. Hai người nầy cầm tấm biển  đi tiền đạo cho Chung Quỳ.
*Ngụy Trưng :- Là vị Thừa Tướng của vua Đường Lý Thế Dân. Trong Tây Du Ký có  kể chuyện rồng làm mưa sai giờ, bị Thượng Đế sai Ngụy Trưng xử trảm. Rồng  nhờ nhà vua giữ không cho Ngụy Trưng đi đâu vào ngày giờ xử tội. Vua hứa giúp, gọi Ngụy Trưng vào cung đánh cờ hôm đó,  không ngờ ông đang đánh cờ với nhà vua , lại ngủ thiếp đi, xuất hồn ra chém chết rồng. Từ đó, dân gian tin rằng Ngụy Trưng có khả năng trảm quỉ trừ yêu, nên thờ ông làm Môn Thần để ma quái không dám xâm nhập.
5/- Tần Thúc Bảo 、Uất Trì Cung :


Tương truyền vua Đường Thái Tông sau biến cố ở Huyền Vũ Môn, giết chết hai người anh để lên ngôi vua. Có một đêm, nằm mộng thấy hai anh gương mặt máu me dữ tợn , đến đòi mạng, nhân đó sanh bệnh. Đêm nào cũng thấy ác mộng như vậy, bệnh tình ngày càng nguy ngập. Quan Thừa Tướng Ngụy Trưng tâu lên xin cho hai vị đại tướng là Tần Thúc Bảo và Uất Trì Cung đứng canh gác ở cửa trước và cửa sau, khiến các hồn quỉ không dám xâm nhập. Quả nhiên bệnh vua thuyên giảm dần. Nhưng không thể bắt hai người canh gác mãi, có người đề nghị họa hình hai người treo ở cửa, thấy có kết quả. Dân gian biết chuyện, cũng bắt chước làm theo một cách rộng rãi.
Dạng thức nầy phổ biến đến ngày nay.Hình tượng thì đa dạng, đủ kiểu đủ loại. Có chỗ thì hình ngồi,  chỗ thì hình đứng,  chỗ thì vẽ cỡi ngựa.Có hình thì mặc áo bào,  hình mặc giáp trụ v.v…Hai vị tay cầm giáo vàng, tay cầm roi ngựa. Hai câu liễn thờ  như sau :-
“Tích vi Đường triều tướng—Kim tác trấn trạch thần”
(Xưa là đại tướng  triều Đường—Nay Thần trấn trạch bốn phương an lành)
*** Ngoài ra, còn có những  đôi  thần khác như là :- “Triệu Vân—Mã Siêu”, “Mã Siêu—Mã Đại”, “Tiết Nhơn Quí—Cáp Tô Văn”, “Mạnh Lương—Tiêu Tán”. Lại cũng có nơi thờ Nhiên Đăng Đạo Nhân, Triệu Công Minh, Nhạc Phi, Mã Vũ, Tiêu   Hà, Hàn Tín, Tôn Tẩn— Bàng Quyên, Huỳnh Tam Thái, Dương Hương Vũ, cho đến Hanh Cáp Nhị Tướng v.v…
*Kết luận:- 
Môn Thần có rất nhiều công năng, nào là trừ tà đuổi quỉ, giữ gìn nhà cửa, ban cho sự bình an, trợ giúp công việc thuận lợi, ban giáng cát tường …Môn Thần đã trở thành vị thần thế tục được hoan nghênh phổ biến đến mọi tầng lớp, mọi địa phương nhiều nhất, đến nay vẫn chưa có lúc nào vắng bóng.
Môn Thần được treo cố định ở cửa cổng, cửa hậu. Còn ở phòng khách hoặc phòng ngủ thì treo (hay đặt) tượng ba ông Phước, Lộc, Thọ; “Ngũ Lộ Tài Thần”, “Tăng Phước Tài Thần”. Ở nhà kho thì treo bức họa xanh đỏ  “Thần Nông Điền Tổ”.
*Thông thường thì mỗi năm phải thay tượng Môn Thần mới, vì tượng cũ hoặc bể, rách thì không linh nghiệm. Phải dùng hình tượng Môn Thần đủ đôi đủ cặp thì tác dụng mới nhiều, nhưng chỉ được dùng một cặp chứ không được hai , ba cặp.
*Cúng Môn Thần thì không cần phải thắp hương đèn.


*Nhược Thủy   dịch
(từ  http://www.fushantang.com)   
Xin theo dõi tiếp BÀI 10. dienbatn giới thiệu.


Xem chi tiết…

THỐNG KÊ TRUY CẬP

LỊCH ÂM DƯƠNG

NHẮN TIN NHANH

Tên

Email *

Thông báo *