THẦN THÁNH TRUNG HOA .NHƯỢC THỦY DỊCH . BÀI 16 - HẾT TẬP 1.

4/09/2015 |
THẦN THÁNH TRUNG HOA
Bản dịch của Nhược Thủy - dienbatn giới thiệu.

LỜI NÓI ĐẦU : Đây là bản dịch rất công phu của Nhược Thủy trong trang Hoangthantai . Nay không còn thấy trang này hoạt động nữa. dienbatn chép lại vào đây để làm tư liệu . Mong bác Nhược Thủy cảm thông.
 THẦN THÁNH TRUNG HOA TẬP  I
Lời giới thiệu:- Nhận thấy từ trước đến nay, người Việt Nam chúng ta theo phong tục tập quán của người Trung Hoa, nên đã tin tưởng và thờ phụng rất nhiều vị Thánh, Thần giống như người Trung Hoa. Tài liệu giải thích về các Ngài thì quá ít và không có cơ sở khảo cứu , chỉ theo truyền khẩu nhiều hơn. Nay tôi xin cố gắng dịch những tài liệu nầy từ một Website có uy  tín và khảo cứu cẩn thận, xin kính tặng tất cả huynh đệ trong 4R-HTT. Nếu có chỗ nào sai sót, xin quí cao nhân hoan hỉ chỉ bảo cho (kèm theo nguyên tác  để quí vị dễ đối chiếu).
Xin thành thật cảm ơn quí huynh đệ.
Nhược Thủy
( Mùa Hạ năm Mậu Tí-2008).
75.-Giới thiệu tóm tắt Thần Thánh Trung Hoa theo lịch sử  .
Tổng quát về Thánh Thần Trung Hòa
Vào thời kỳ viễn cổ, những người nguyên thủy đối với các hiện tượng phát sinh trong Đại tự nhiên như: - mặt trời, mặt trăng, các sao, ao hồ sông biển, núi đá đất cát, hoa cỏ cây Cối, sấm sét nước lửa, tối sáng mưa gió, mong trời răng trời ... Họ không biết được đó là tự nhiên mà cho rằng "có một chủng loại nào không biết đó sinh ra các thứ trên". Từ đó sinh ra tín ngưỡng đầu tiên của con người mang tính cách "thần thoại" như: - Phong Thần có gió, lửa có Hỏa Thần, nước có Thủy Thần ... sau trở thành quan niệm muôn vật đều có thần linh cả Quan niệm nay là một bộ phận quan trọng trong đời. sống của người thời xưa. Tín ngưỡng nay nói chung là "kính trọng các vật thể siêu tự nhiên".
Thần linh hồi ban đầu, có tài biến hóa vô cùng, mà không nghe tiếng có, mà thấy không có hình, đi lại không tung tích Thời kỳ. Đó, người nguyên thủy sùng bái các Thần, không thấy các Thần ở chỗ thân thiết, mà là thấy các Thần ở chỗ đáng sợ Mong mỏi. các Thần đừng tai họa giáng xuống cho họ, vì thế, những vị Thần của người nguyên thủy đa số là nửa người, nửa cầm thú hoặc nửa loài bò sát ... hoặc hỗn hợp các loài đó với nhau, quái thành những vật không thể nghĩ bàn.
Rồi nhân loại tiến hóa dần, những vị Thần, không còn là chỗ sợ hãi, là chỗ giáng tai họa cho người nữa, mà trở thành chỗ để con người cầu xin phước huệ lợi lộc Cho nên., Chỉ trừ các loại "Ôn thần "(thần gây bệnh dịch) đại đa số các vị thần đều là" Thần Bảo Hộ "cho con người. Do vậy, sự sùng bái thần dần dần được" Nhân Hình Hóa "(hóa thành hình người) và tạo ra các hình tượng để thờ cúng.
Thời cổ đại đời nhà Chu, dân gian đã có sự lưu truyền việc sùng bái thần linh, tư tưởng và nghi lễ cúng tổ tiên Từ sau. Nho gia khi khởi hưng, đã nhấn mạnh đến các việc đề cao công đức của việc cứu nước cứu dân, những hành vi trung hiếu tiết nghĩa của các bậc cổ thánh tiên hiền, nói chung là những cống hiến đối với xã hội Từ đó., phát triển mộ bước từ "Thần Linh" hát "Thần Minh" (thần cách hóa những người có công).
-Đời nhà Hán thì Đạo Giáo hưng khởi, đề xướng các việc "tu tâm dưỡng mệnh" "Trường sinh Bất lão", "Tôi cát Tị treo", cùng các pháp "Luyện đan", "Thổ nạp" vv ... Những lý thuyết ấy cộng với sự phục hưng tư tưởng của Thần Đạo cổ đại, làm cho nội dung thần thoại vô cùng phong phú, rồi được gia thêm lễ nghi, cộng với những khát vọng về nhu cầu đời sống, về sự sợ hãi chết chóc ... khiển cho số lượng Thần càng ngày càng tăng rất nhiều lên Những vị Thần về sau gọi "thần được phong" hay "thần được tạo ra.".
-Đồng thời khi ấy, Phật Giáo du nhập vào Trung Hòa, với những lý thuyết về nhân quả, báo ứng, lưu chuyển ba đời, sáu đường luân hồi, thiên đường địa ngục ... thêm một lô danh sách phong phú những Thần Quân , được nhân dân tiếp thụ dần dần trở thành tín ngưỡng thần kì.
-Đến đây có sự hỗn đồng của "thần các thần làm cách hóa" và "thần làm các nhân cách hóa", nổi bật là tổ tiên của con người thế tục và các vị Thánh Hiền cũng lên được cách thăng "Thần Minh" Tiêu chí. bắt buộc của Thần là: - "Thông minh, Từ bi, Chính trực" Theo tiêu. chí đó, đời sau ông đã có những vị đế vương, anh hùng, những vị cứu dân độ thế ... cũng được đưa nhân dân vào danh sách các thần Phụng để thờ cúng bái.
-Trong cuộc lữ trình của người con, phải chấp nhận những biến hóa khôn lượng trong cuộc sống, những cái mà con người không thể tự cứu, tự định đoạt được đó Từ., Nhu cầu của các thần bảo hộ về mặt con người đã thể hiện qua những truyền thuyết, nói lên những yêu cầu nội tâm, nguyện vọng hoặc lý tưởng của con người Tất cả. đã trở thành lực lượng mạnh mẽ của tâm lý, chi phối cuộc sống nhân loại.
Ta gọi đó là "Kính Thần Quân" (quan niệm tôn kính thần), và câu nói phổ biến: --
Thảo vọng Xuân sinh, nhân vọng thần phù "(cỏ chờ mùa Xuân đến để sinh sôi nẩy nở, người chờ chư Thần phù hộ để sung sướng khổ bớt).
Đại bộ phận các tôn giáo đều nhằm vào mục tiêu "khuyên dạy người làm lành lánh dữ", còn dân chúng có tín ngưỡng, sùng bái Thánh Thần là để cầu xin ban phước Việc tìm hiểu kỹ về "lý lịch". Thần Thánh ít có ai làm đến nơi đến chốn, chỉ đơn giản một quan niệm "lay được nhiều Thần Thánh ở nhiều nơi là được các ngài phù hộ" Tính ". hỗn dung" trong tôn giáo cũng là tất yếu, nghi thức cúng tế có nguồn gốc từ nhiều tín ngưỡng khác nhau hợp lại mà thành Như việc. tổ chức tang lễ chẳng hạn, người con thuộc về Nho gia, nghi thức tống táng theo Đạo giáo, cầu siêu độ theo Phật giáo Đây là thí dụ điển hình. nhất cho việc "Tam giáo hợp nhất".
* Việc sùng bái tuy mang tính cách cá nhân, nhưng trải qua thời gian lâu dài, nhiều đời nhiều kiếp đã thành "thâm căn cố đế" (thâm căn cố đế), tín ngưỡng tôn giáo ngày càng cao, càng đa dạng phức tạp hơn Không có một. tôn giáo hay tín ngưỡng nào mà còn giữ nguyên được "trạng thái ban đầu" cả. Đạo giáo cũng không thoát ra khỏi qui luật khách quan ấy Cho nên., việc đánh giá một vấn đề nào đó, là "mê tín" hay không, là cả một việc hết sức khó khăn, phải dè dat cho lắm.
* Việc cúng tế tổ tiên, nhiều đời dã làm, đến nay và về sau có lẽ cũng không dứt , nhưng có ai khẳng định được hay có "không có cái gọi là Tổ Tiên" ấy? Tổ tiên trong lòng con mắt và mọi người, là quan trọng nhất Bởi vì. ơn nghĩa sanh thành, dưỡng dục, sánh với trời cao biển rộng Những luân. lý đạo đức đã thành nếp, khắc sâu vào tâm khảm mọi người, mọi thế hệ như: - kính trọng người trên, báo hiếu cha mẹ, thờ cúng tổ tiên ... thì đối với một gia đình nào đó, có thể là họ không có thờ Phật, không có thờ Thần của Đạo giáo ... nhưng không thể không thờ kính tổ tiên, dù bằng cách nay hay cách khác Điều nay cho thấy., khách quan mà nói, thờ kính tổ tiên vượt khỏi giới hạn của mọi tôn giáo.
* Nói về "Phả hệ" của Thánh Thần trong Đạo Giáo, vì đã kế thừa nào là tôn giáo xưa, thần thoại cổ tích, những nhân vật sống thành Tiên lâu, những anh hùng dân tộc được nhân dân kính ngưỡng Phụng thờ ... kết hợp với những vị thần Phật Giáo, Đạo Giáo ... lần lần hình thành một "hệ thống Thánh Thần" hết sức đa dạng và phức tạp, khó mà định hình thống nhất được.
* Phả hệ đầu tiên của Thánh Thần có nguồn gốc cơ bản là từ các vị "tôn thần" của Đạo Giáo (bao gồm các giáo chủ, các bậc đạo cao, các bậc được tôn xưng trong ba cõi vv ... cốt lõi của việc "hình thành Thánh Thần" là dựa vào ba yếu tố căn bản sau: - một là đạo, hai là khí, ba là hóa và sinh Hóa là "nhân cách. hóa các Thần" (từ sự sùng bái thiên nhiên hoặc Điểu thú linh hiển ...) và "Tiên hóa người tu hành".
* Đời Tống, các vị học giả đã cố gắng "hệ thống hóa" lại Phả hệ Thần Thánh trong Đạo Giáo, sơ bộ có mười một tầng lớp như sau: --
1. Tam Thanh, Tứ Ngự;
2. Nam Cực Trường Sinh Đại Đế, Đông Cực Cứu Khổ Thiên Tôn, Mộc Công Đạo Quân, Kim Mẫu Nguyên Quân Cập Tam Thập Nhị Thiên Đế (1);
3. Thập Thái Nhất (Thái Ất) (2), Nhật Nguyệt Ngũ Tĩnh, Bắc Đầu, Nhị Thập Bát Tú Tinh Quân;
4. Ngũ Đế, Tam Quan, Tứ Thánh;
5. Những vị Pháp Sư truyền dạy kinh sách nhiều đời;
6. Ma Vương, Thần Vương, Tiên Quán;
7. Ngũ Nhạc và Chư Thần của Phong Đô và Địa Phủ;
8. Phù Tang Đại Đế và Chư Thần của Thuỷ Phủ;
9. Các đáng chú Tể và chư Thần của Thiên Xu Viện, Khu Tà Viện, Lôi Phủ;
10. Các đang Công Tạo, Sứ Giả, Kim Đồng, Ngọc Nữ, Hương Quân, Lại Dịch vv ...;
11. Thành Hoàng, Thổ Địa Thần và các sở thuộc. 

* Chú thích: --
(1) Tam Thập Nhị Đế
1.-Đông Phương Bát Thiên 
Đường Huỳnh Thái Hoàng Thiên, Đế Úc Giám Ngọc Minh 
Thái Minh Ngọc Hoàn Thiên, Đế Tu A Na Điền 
Thanh Minh Hà Đồng Thiên, Đế Nguyên Dục Kinh Tế 
Huyền Thái Bình Dục Thiên, Đế Lưu Độ Nội Tiên
Nguyên Minh Văn Cử Thiên, Đế Sửu Pháp Luân 
Thượng Minh Thất Diệu Di Ma Thiên, Đế Điềm Huệ Diên
Vô Ngũ Hành Thiên Việt, Đế Chính Quang Định 
Thái Cực Mông E Thiên, Đế Khúc Dục Cửu Xương 
2.-Nam Phương Bát Thiên 
Xích Dương Thiên Minh Hoà, Cẩm Thượng Đế Lý Chân 
Huyền Minh Cung Thiên Hòa, Đế Không Đạo Sửu Âm 
Diệu Minh Tôn Phiêu Thiên, Đế Trọng Quang Minh 
Trúc Huỳnh Già Thiên Lạc, Diệu Đế Ma Di Biên 
Hư Minh Đường Diệu Thiên, Đế Một Gia Lâu Sinh 
Quán Minh Đoan Tịnh Thiên, Đế Úc Mật La Thiên 
Huyền Minh Cung Thiên Khánh, Long Đế La Bồ Đề 
Hoàn Thái Cực Đạo Thiên, Đế Uyển Nhữu Vô Diên
3.-Tây Phương Bát Thiên 
Nguyên Tải Khổng Thăng Thiên, Chân Đế Khải Định Quang 
Thái An Huỳnh Thiên Nhai, Đế Bà La Một Thám 
Hiển Định Cực Phong Thiên, Chân Đế Chiêu Đồng 
Mạng thuỷ Hoàng Hiếu Thiên, Đế Tát Lâu La Vương 
Ông Thái Hoàng Trọng Phù Dung Thiên, Đế Mân Bà Cuồng 
Vô Tư Giang Đỗ Thiên, Đế Minh Phạm Quang 
Thượng Diệp Nguyễn Lạc Thiên, Đế Bột Bột Lâm 
Vô Cực Đàm Thiên, Đế Phiêu No Khung Long 
4.-Bắc Phương Bát Thiên 
Hạo Đình Tiêu Độ Thiên, Đế Huệ Giác Hôn 
Thông tin Uyên Nguyên Động Thiên, Đế Phạm Hành Quán Sinh 
Thái Văn Han Sung Diệu Thành Thiên, Đế Na Dục Sửu Anh 
Thái Tố Lạc Tú Cẩm Thượng Thiên, Đế La Giác Long Trường
Thái Hư Vô Thượng Thường Dũng Thiên, Đế Tổng hợp Giám Quỉ Thần 
Thái Hư Ngọc Long Đằng Thánh Thiên, Diệu Diệu Đế Hành Nguyên 
Độ dài Biến Phạm Thiên, Đế Vận Thượng Huyền Huyền 
Thái Cực Bình Dục Dịch Cổ Thiên, Đế Đại Trạch Pháp Môn 
Các nguồn "từ lâu, chiết trung, Thiên Chúa Sở không đồng nhất, phân cấp rõ ràng" như là đặc trưng của dòng dõi bất tử được xác định bởi các yếu tố truyền thống, các yếu tố tôn giáo, hạn chế các yếu tố, làm bằng không gian-thời gian.
* Phả hệ của Thần Tiên Đạo Giáo có đặc điểm "từ nhiều nguồn gốc khác nhau, cái nào cũng lấy vào, hệ thống tạp nhập, tầng thứ không rõ ràng". Có tình trạng Sở dĩ như thế vì các lý do sau: -- 
-tiếp thu theo truyền thống
-tiếp thu theo sở thích mỗi người
-tiếp thu theo từng giáo phái
-tiếp thu theo thời gian
-tiếp thu theo không gian, địa phương ...
Tất cả những thứ đó làm cho tổng thể trở thành phong phú nhập tạp nhưng hỗn loạn,, thứ lớp lao lộn, trùng lắp ... không thể nào có cái gọi là "lớp lang thứ bậc" hoàn chỉnh được.
* Tôn giáo là một hiện tượng phổ biến của lịch sử con người, đến nay thì tạm dừng. Chúng ta thấy rằng nhận, tất cả tôn giáo đều chứa yếu tố cơ bản là "tôn giáo của tự nhiên", nghĩa là làm sự sùng bái các yếu tố tự nhiên, các động thực vật, các linh Quỉ, tổ tiên, linh vật hay "TÔ-TEM", các ngẫu tượng vv ...
Những sùng bái từ nguyên thủy đến giờ vẫn còn dấu vết sinh hoạt trong xã hội hiện nay của các dân tộc trên thế giới Có thể. Nói tôn giáo nào cũng có sự kế thừa của tinh thần sùng bái thần linh cả.
* Đạo Giáo lại là một tôn giáo "cá biệt", không giống như các tôn giáo khác là "có một giáo chủ cụ thể", mà lại phát triển mở rộng đến mọi nơi, mọi lúc cầu xã hội Trung Quốc Trải dài. năm tháng, càng dày ngày càng sâu, không ngớt tồn tại và phát triển. Có người dùng câu "tạp nhi đa đoan" (phức tạp mà nhiều nguồn gốc) để nói về Đạo Giáo Ý ấy hàm nghĩa châm Biếm,. nhưng cũng phản ảnh thật đúng với tình trạng thực tế của Đạo Giáo.
* Khi nghiên cứu về Phả hệ của Thần Tiên trong Đạo Giáo, phải chấp nhận yếu tố "ảnh hưởng thần học" làm đầu mối Điều đó. Có nghĩa là, những tôn giáo tự nhiên của xã hội nguyên thủy Trung Quốc đã dần dần trở thành "tôn giáo của con người" (tôn giáo thần học).
Thời đại Ân, Chu thì làm vì người đời Ân rất sùng bái Quỉ thần Như Chiêm bốc chẳng hạn., Ngày nay còn ghi lại nhiều "lời que" có đặc điểm thời nhà Ân Thời ấy,. Mỗi khi có việc gì cần giải quyết, họ đều hướng về "ĐẾ" để cầu xin ý kiến. Đế ở đây là chỉ cho "tổ tiên" (sách Vương Tân Nhật ghi) Đến đời. Chu, việc sùng bái Quỉ thần được ghi khá đầy đủ trong "Chu Lễ - Thiên Đại Tôn Bá "rằng: -" Chức năng của Đại Tôn Bá là có nhiệm vụ xây dựng Miếu Thờ cùng phụ trách việc cúng tế các Thiên Thần ". Thiên thần ở đây bao gồm: - Hạo Thiên Thượng Đế, mặt trời, mặt trăng, các sao, Thần Gió, Thần Mưa, Thần Xã Tắc (lúa gạo), Ngũ Nhạc (năm núi lớn), Thần Rừng Núi, Thần Sông Nước, vật trăm bốn phương, nhân qui (tổ tiên của người) ".
Tôn giáo cổ đại của Trung Quốc có nguồn gốc từ các tín ngưỡng trên phát triển dần thành hệ thống những thiên thần, địa linh Quỉ nhân,, là những nhân tố khởi đầu của sự sùng bái thần linh của Đạo Giáo. Trọng sách các của Đạo Giáo nói "... trong những vị đắc đạo thiên sanh, cao nhất là Ngọc Hoàng ... dưới có sông núi Quỉ thần cầm thú, không ngoài sở đắc học hỏi của con người", "Ngũ Đế của cung Thái Thanh, là các vị thần của tự nhiên ".
Trọng đây, câu "các thần tự nhiên" là chỉ cho trời đất, trời trăng sao, núi rừng sông nước Như ". Ngũ Đấu Mễ Đạo" (đạo năm lít gạo) thì thờ ba vị (Tam Quan) của trời, đất và nước (Thiên, Địa, Thủy Quân), Đạo Thái Bình thì thờ Huỳnh Thái Ất ... tất cả đều có dấu vết sùng bái tự nhiên.
-Nguyên Thủy Thiên Tôn là vị tôn thần cao nhất của Đạo Giáo Theo sự. Mô tả của Cát Hồng đời Tấn trong "Chăm Trung Thư": - "Xưa chưa phân trời đất, toàn cõi mờ mit hỗn mang, vũ trụ chưa thành hình, mặt trăng mặt trời chưa có, giống như hột gà mới sanh, Lào lộn trắng đỏ, đã có vị Bàn Cổ Chân Nhân tức là tinh hoa của trời đất, hiệu là Nguyên Thủy Thiên Vương ". Lối nói nay là hoàn toàn dựa vào Từ Chỉnh, người nước Ngô thời Tam Quốc viết trong "Tam Ngũ Lịch Kỷ" về thần thoại Bàn Cổ khai thiên lập địa trước đây.
-Về hai danh xưng "Nguyên Thủy Thiên Vương" và "Nguyên Thủy Thiên Tôn" thì sách của Đạo Giáo cho là hai người khác nhau. Trọng "Chân Linh Vị Nghiệp Đồ" của Đào Hoằng Cảnh thời Nam Triều thì xếp Nguyên Thủy Thiên tôn và trung vị thứ nhất, còn Nguyên Thủy Thiên Vương là trung vị của "bốn vị bên tả" Còn giữa. Nguyên Thủy Thiên Tôn và Bàn Cổ Chân Nhân thì có mối liên hệ thông nhất là "Bàn Cổ là hóa thân của Nguyên Thủy ", như vậy hai người là một Thực tế., lại có" hai Bàn Cổ ", một là Bàn Cổ làm Nguyên Thủy hóa thân được thờ cúng trong Đạo Giáo, hai là Bàn Cổ làm thế gian sùng bái và ông tin chỉ Bàn Cổ khai thiên lập địa nay thôi Một thí. dụ nay cũng đủ nói lên "tính biến hóa" của Phả hệ Thần Tiên rồi!
* Trọng ảnh hưởng thần học truyền thống có tác động đến phả hệ Thần Tiên. Cũng phải nói đến việc kế thừa tập quán "sùng bái thánh hiền" Kinh điển. Sớm nhất của Đạo Giáo "Thái Bình Kinh" đã có tên của những "thánh nhân", "hiền nhân". 
-Cát Hồng trong "Chăm Trung Thư" thì có Tam Hoàng Ngũ Đế.
-Thượng Thanh Chúng Tiên ký, Chân Linh Vị Nghiệp Đồ, Vô Thượng Bí Yếu và các "danh tác Đạo gia" đều có nêu nào là: - ba vua Nghiêu, Thuận, Ngũ, Thành Thánh của nhà Ân, Vũ Vương nhà Chu , te Hoàn Công, Hán Cao Tổ, Lưu Bị ... các thánh hiền như: - Khổng Tử, Nhan Hồi, Mặc Địch ...
* Trọng "Thái Thượng Cảm Ứng Thiên" đời Tống nói: - "Có ba loại hiền thánh, nhà Phật thì lấy những nhân vật trong Tam Thừa, thì Đạo gia lấy Ngũ Chủng Tiên, nhà Nho thì lấy các đồ đệ Khổng Mạnh" điều đó. phản ảnh chủ trương "Tam Giáo đồng nguyên" của thần học đương thời Như vậy,. khi nghiên cứu về Phả hệ thần thánh của Đạo Giáo không thể nào bỏ qua được mối "quan hệ hữu cơ" giữa ba tôn giáo Nho, Lão, Thích được.
* Một vấn đề cũng cần phải làm sáng tỏ là, giữa hai vị Thái Thượng Lão Quân là "Tổ của nguyên khí, bậc chí tôn của Đạo, gốc rễ của trời đất" và Nguyên Thủy Thiên Tôn "tinh hoa của trời đất, Tổ khí của Đạo lớn, tự nhiên sinh, không khí hình là, có hình là thần "thì giải quyết ai lớn hơn ai đây?. Việc nay thật khó vô cùng.
-Truy tầm nguyên ủy của vấn đề, hóa ra có sự khác biệt như vậy, là làm lúc đầu, Ngũ Đấu Mễ Đạo và Thái Bình Đạo ra đời, tôn sùng Thái Thượng Lão Quân làm chủ tế. Đồng thời cũng thờ Tam Phụng Quân, Huỳnh Thái Ất Tiếp sau., đến thời Nam Bắc Triều, có Khấu Khiêm Chí của Bắc Ngụy lập Thiên Sư Đạo, cũng tôn thờ Thái Thượng Lão Quân. (20 quyển của "Vân Trung Giả Âm Tùng Tân Khoa chi giới" nói về việc chỉnh đơn Đạo Giáo) Đến đời. Đông Tấn, có hai phái Thượng Thanh và Linh Bảo xuất hiện, thì không thờ Thái Thượng Lão Quân làm chủ Tể nữa Như phái Thượng Thanh thì lấy Nguyên Thủy Thiên Vương tức Thái Thượng. Ngọc Thần Đạo Quân làm chủ tế; phái Linh Bảo thì lấy Nguyên Thủy Thiên Tôn và Thái Thượng Đại Đạo Quân làm chủ tế, rồi sau dùng thuyết hóa thân giải thích để đưa Nguyên Thủy Thiên Tôn hay Nguyên Thủy Thiên Vương lên địa vị độc tôn.
Về sau, trong các phái có sự hiệp thương, đã đề xuất giải pháp dung hợp lại tất cả. Thống nhất là ý kiến: "Đạo không thể không có vị tôn sư, Giáo không thể không có bậc tôn chủ Lão Quân đã. xưng là Đại Ngọc Thần Đạo Quân, mà Đại Đạo Quân là kế thừa của Nguyên Thủy, lẽ ra phải kể là thầy trò, nhưng xét kỷ ba vị cũng làm một biến hóa ra, nên địa vị ngang nhau "Cuối cùng. tôn ba vị Nguyên Thủy Thiên Tôn, Thái Thượng Lão Quân, Linh Bảo Thiên Tôn làm thành "TAM THÁNH TÔN THẦN", là địa vị tối cao của Thần Tiên Trong phần hệ Đạo Giáo.
Miêu tả ở đây, các vị thần địa phương người dân tin tưởng vào vị thần chủ yếu là ở miền nam Trung Quốc.
* Xét các vị gọi là "Tiên Chân" về mặt đối đãi, trong quá trình biên soạn các sách truyện về Thần Tiên, ta thấy nổi bật yếu tố "giáo phái" sớm nhất là ". Liệt Tiên truyện" có kê ra gần bảy mươi hai vị Đến Cát Hồng trong "Thần Tiên truyện" thì có chín mươi bốn vị Đến Triệu. Đạo Nhất đời Nguyên, biên soạn các sách "Lịch thế chân Tiên thể đạo thông giám". "Tục biên", "Hậu biên "đã tăng lên đến vị hơn trăm chín.
Trước tình trạng số lượng Thần Tiên nhiều như thế, "Đạo Giáo Chính Lược" là giải thích [tên trong việc xếp những vị "Tiên", vì ý niệm về Tiên gần gũi với mọi người, nên gọi là Tiên cho dễ hiểu. Thật ra theo Đạo Giáo, chưa phải là đúng nghĩa "Tiên"] lại nói thêm ", ông sách truyện của đạo Nho thì lấy tên của nhà Nho, chứ không nói tên thánh hiền.Đạo Phật thì lấy tên của cao tăng, chứ không nói đến Phật, Bồ-Tát Còn Đạo. gia thì lấy đạo sĩ hoặc những nam nữ thế gian tu hành đắc đạo Thành ra. kết quả hỗn tạp, nhiều chỗ không thể truy cứu được "Cũng vì. lý do không có một" tiêu chuẩn rõ ràng "nào để công nhận là" Tiên Thật ", chỉ tùy theo sự truyền thừa của các giáo phái không giống nhau, mà sinh ra tình trạng" không thể sắp xếp "theo hệ thống được rõ ràng.
* Thí dụ như, khi tôn xưng các vị "Chân Tiên", Thiên Sư Đạo thì thờ Trương Thiên Sư, Khấu Thiên Sư; Thượng Thanh Phái thì thờ Tam mao Quân, Hứa Chân Quân; Linh Bảo Phái thì thờ Cát Huyền, Cát Hồng; Tịnh Minh Đạo thì thờ Hứa Tốn; Toàn Chân Đạo thì thờ Bắc Ngũ Tổ, Bắc Thất Chân ...
* Về việc tôn xưng các danh sơn, các cung, đạo quán ..., mỗi phái cũng có "bản sơn" riêng Thí như. Thiên Sư Đạo thì ở Long Hổ Sơn-Giang Tây; phái Thượng Thanh Mao Sơn thì ở Mao Sơn; Toàn Chân Đạo thì có ba "đại tổ đình" Rồi đến việc. mỗi cung quán ... lại thờ những vị khác nhau, như là: - Ở Tây xây Thiêm "Thuyết Kinh Đài-Chu Chí Lâu" thờ Lão Tử; ở Giang Tây có Vạn Thọ Cung thờ Hứa Tốn, Thuần Dương Cung thờ Lữ Đồng Tân; điện Khuu Tổ ở Bạch Vân Quán thờ Khu Xử Cơ.
Như vậy, ta thấy rất rõ ràng sự khác biệt về "Phả hệ Thần Tiên" ngay trong nội bộ các giáo phái của Đạo Giáo rồi.
* Yếu tố thời gian và không gian không phải là yếu tố quyết định trong việc sắp xếp "Phả hệ Thần Tiên" trong Đạo Giáo, mà chính là trước hết do ảnh hưởng của "sự biến hóa tư tưởng giáo lý" của Đạo Giáo Khi Đạo Giáo mới thành hình., lý tưởng mục tiêu quan trọng nhất của Đạo Giáo là "trường sinh thành Tiên" bạch nhật và "thăng thiên" (giữa ban ngày bay lên trời).
* Yếu tố thời gian và không gian không phải là nguyên nhân chính của sự "đa dạng" về Phả hệ Thần Tiên của Đạo giáo, mà chính là do sự biến hóa về tư tưởng giáo lý mà ra.
Thời kỳ đầu khi Đạo giáo mới xuất hiện, trọng tâm của nó là ở chỗ "trường sinh thành Tiên, giữa ban ngày bay lên trời" Điều nay. Phản ánh rõ nét trong "Chân Linh Vị Nghiệp Đồ" của Đào Hoằng Cảnh thời Nam Triều, cơ bản là các vị Thiên Đế, tôn xưng là "Đạo Quân", "Nguyên Quân", "Quân", "Cao Chân" Còn xưng. Đế là Thiên Hoàng Thượng Đế hay Cao Thượng Đế Ngọc Tứ Cực Đại. đế là Đông Minh, Tây Hòa, Bắc Huyền, Nam Chu thì được xưng là "Cao Thượng Hư Hoàng Đạo Quân".
* Đến thời Bắc Chu, trong "Vô Thượng Bí Yếu", quyển 55, khi nêu Phả hệ, thì dựa vào tiêu chí "đắc đạo thành Tiên" để xếp hạng Thuật ngữ. Được dùng ở đây là: - "Đại Thánh, Chí Chân, Chư Quân, Trường Nhân "để tôn xưng.
* Đến thời Ngụy, Tấn của Nam Bắc Triều thì lại nêu tôn chỉ "Tiên Chân" để xưng hô Thế nào là ". Tiên Chân" Theo sách? "Tạo Tượng Phẩm" nói "Tất cả các Chân Tiên, từ Tam Thanh ở trên rồi đến Đại La Thiên ... đều phải được tạo hình theo mô thức "Thánh tiên chân tướng" (hình dáng của chân Tiên có tính hàng Thánh). Cũng làm tư tưởng chủ đạo ấy mà phát sinh quan điểm đưa Tam Thanh lên cao hơn các Thiên Đế.
* Từ đời Tống đến nay, có nhiều sự cải biến tình huống, trong Phả hệ Thánh Thần, sau "Tam Thanh xếp thì" "Tứ Ngự" cho các vị Thiên Đế, rồi mới đến các vị Tiên Chân khác.Sự biến đổi nay, có lẽ do nguồn gốc từ bên ngoài, chế độ phong kiến nhà Tống cố muốn cũng "trung ương tập quyền", nên phản ánh qua việc sắp xếp lại Phả hệ nay Trọng nội. bộ Đạo Giáo, quan điểm "bạch nhật thăng thiên "cũng đã trở thành một việc" ảo tưởng "Hơn nữa., giờ bay lúc, chủ thuyết" tam giáo hợp nhất "đang được đề xuất mạnh mẽ Như". Toàn Chân Đạo "cho rằng: --
"Nho môn, Thích hộ, Đạo tương thông,
Tam giáo tùng lai nhất Tổ phong ... "
(Nhà Nho, cửa Phật giáo và Đạo tương thông với nhau, Tam giáo trước giờ vẫn chung một Tổ)
nên đã dung nạp tư tưởng "hiếu trung" của Nho gia, "từ bi" của Phật giáo vào trong Đạo Điều đó., phản ánh rõ nét vào năm thứ 35 Vạn Lịch đời Minh (năm 1607), Đại Chân Nhân Trương Quốc Phùng Chí Tường đã hiệu chỉnh sách "Sưu Thần Kỷ" gồm sáu quyển, quyển một thì nói rõ nghĩa trong sáng gắn bó mật thiết của Nho, Thích và Đạo Đế cao vị trí của Ngọc Hoàng,. Hoàng Hậu Thổ Địa Kỳ, rồi sau đó mới sắp xếp các vị Hứa Chân Quân, Trương Thiên Sư, Tam Mao Chân Quân của Đạo giáo ở bên dưới Đồng thời,. cũng đưa vào danh sách các vị như: - Quan Âm, Đạt Ma ... các Phật, Bồ Tát vv ...; bên Nho thì có: - Tây Sở Bá Vương, Ngũ Tử Tư ... Thêm nữa, cũng đưa các vị được dân gian tôn thờ như: - Động Đình Quân, Tương Quân, kể cả chồn, chó của những vị nay. Điều đó nói lên ý nghĩa "chính quyền lập ra là từ dân gian, tín ngưỡng của các vua chúa cũng phản ánh tín ngưỡng dân gian mà thôi". Đây cũng là yếu tố có liên quan rất nhiều đèn pha hệ của Thánh Thần Đạo giáo vậy.
* Việc tôn xưng "Tổ Sư" của Đạo Giáo cũng có phần từng tham dự của Triều đại vua chúa Như đời. Đường thì tôn xưng Lão Tử, đời tôn Tống thì Huỳnh Đế, đời Minh thì tôn Chân Vũ Đại Đế (nhân vì kỵ huy tên vua Tống Chân Tông nên cải "Huyền" Vũ thành Chân Vũ) Lại còn. đề cao công đức của "(Tống) Thái Tổ bình định thiên hạ, Thái Tông dẹp nạn, công dày sâu lớn, hai kinh lệnh cho các quan cúng tế hai ngày sóc, vọng chu đáo ". Điều nay cho thấy rõ, theo yêu cầu của mỗi Triều đại mà có ảnh hưởng sâu sắc đèn pha hệ của Đạo giáo Thí như vậy., đời Tống Huy Tông đã đàn áp Phật giáo, cải Phật thành "đại giác kim tiên", nhưng chỉ một năm thì không còn tình trạng ấy Nhưng ảnh hưởng của. nó khiển cho tín ngưỡng bị trộn lẫn, "kim tiên" trở thành vừa vừa Tiên Phật Hợp tôn. lại có mười hai vị "Kim Tiên", như Điện Tam Thanh của Thanh Dương Cung ở Thành Đô có tượng của 12 vị tiên là kim: - Quảng Thành Tử, Xích Tùng Tử, Đạo Hạnh Thiên Tôn, Thái Ất Chân Nhân, Đạo Đức Chân Quân, Linh Bửu Đại Pháp Sư, Cù Lưu Tôn, Vân Trung Tử, Văn Thù Thiên Tôn, Phổ Hiền Chân Nhân, Từ Hàng Đạo Nhân, Ngọc Đỉnh Chân Nhân. Sắc thái dung hợp và ảnh hưởng thời đại thể hiện rất rõ ở đây. 
* Về yếu tố "không gian" nói mà, hồi mới khai sáng Đạo Giáo, Ngũ Đấu Mễ Đạo (đạo năm đấu gạo) gốc ở miền Ba Thục của Hán Trung Còn Thái Bình Đạo lưu. Truyền ở tám châu là: - Thanh , Từ, U, Ký, Kinh, Dương, Con, Dự Châu, nên hình tượng tôn thờ phải khác nhau thôi Về sau. lại xuất hiện các phái Thượng Thanh, Linh Bảo, Tịnh Minh, Lâu Quán ... thì việc tôn thờ hình tượng mang sắc thái tùy theo địa phương nổi lên rất rõ.
Thêm nữa, các nghi thức về làm khoa, trai đàn ... của Đạo giáo cũng biến đổi theo "tâm lý quần chúng" Như Đạo. Sĩ Lữ Nguyên Tố ở Tây Thục lập thành "Đạo Môn Định Chế" quyển thứ chín viết: -- "Trong ba giai đoạn đều nói lên tinh thần trung quân của người dân Tây Thục, cùng hình tượng núi sông xung quanh, tùy theo nơi thờ Phụng mà có sự thêm bớt". Điều nay cho thấy ảnh hưởng địa phương không phải là nhỏ đối với việc cấu tạo thành Phả hệ Thánh Thần.
* Tóm lại, trong lịch sử lâu dài của việc hình thành Phả hệ "Thánh Thần Đạo Giáo", mặc dù đã hết sức cố gắng bám chắc vào tín ngưỡng "ĐẠO", nhưng vì có sự phân hóa các chi phái, ảnh hưởng biên thiên lịch sử các Triều đại, tác dụng tương hỗ của các tôn giáo, không gian quá phổ biến rộng lớn tạo nhiều "tính địa phương" ... cuối cùng tạo thành kết quả Phả hệ vô cùng phức tạp như ngày nay.

* Tài liệu nay chủ yếu giới thiệu Thần thánh Đạo giáo của vùng, khu vực phía Nam Trung Quốc mà thôi.
* Nhược Thủy dịch 
(từ http://www.fushantang.com)
Giới thiệu sơ lược về Thánh Thần Trung Quốc

BẢNG DANH SÁCH THÁNH THẦN TRUNG QUỐC THEO LỊCH SỬ
A. - CHƯ THẦN THEO CHÍNH DIỆU .
1 .- TỐI CAO: -- 
Bàn Cổ Thị-còn gọi Nguyên Thuỷ Thiên Vương, tên khác, Phù Lê Nguyên Thuỷ Thiên Tôn. 
2 .- Tam Thanh: --
 1 / - Nguyên Thuỷ Thiên Tôn 
2 / - Linh Bảo Thiên Tôn còn gọi Thái Thượng Đạo Quân 
3 / - Đạo Đức Thiên Tôn còn gọi Thái Thượng Lão Quân (Tây Du Ký gọi là Thái Thượng Đạo Tổ) 
3 .- Lục Ngự: -- 
1 / - Trung ương Ngọc Hoàng Đại Đế-Vợ: - Vương Mẫu Nương Nương, còn gọi là Tây Vương Mẫu.
2 / - Phương Bắc Trung Thiên Bắc Cực Tử Vi Đại Đế 
3 / - Nam Phương Nam Cực Trường Sinh Đại Đế, còn gọi là Ngọc Thanh Chân Vương, là con trai thứ chín của Nguyên Thuỷ Thiên Vương. 
4 / - Đông Phương Đông Cực Thanh Hoá Đại Đế Thái Ất Cứu Khổ Thiên Tôn 
5 / - Tây Phương Thái Cực Thiên Hoàng Đại Đế [Thủ hạ gồm có: Bát Đại Nguyên Soài Rạp, Ngũ Cực Chiến Thần (Thiên Không Chiến Thần, Đại Địa Chiến Thần, Nhân Trung, Chiến Thần, Bắc Cực Chiến Thần Và Nam Cực Chiến Thần)]. 
6 / - Mẹ của đại địa: Thừa Thiên Hiệu Pháp Hoàng Hậu Thổ Địa Kỳ 
4 .- Ngũ Phương Ngũ Lão: -
1 / - Nam Phương Nam Cực Quan Âm 
2 / - Đông Phương Sung Ân Thánh Đế 
3 / - Tam Đảo Thập Châu Tiên Ông Đông Hòa Đại Đế Quân (tức Đông Vương Công, tên \ "Kim Thiền Thị \", hiệu Mộc Công).
4 / - Bắc Phương Bắc Cực Huyền Linh Đầu Mẫu Nguyên Quân (Trời là Ma Lợi của hai mươi vị Trời trong Phật Giáo)
5 / - Trung ương Hoàng Cực Giác Huỳnh Đại Tiên 
5 .- Các Tiên ở Trung ương Thiên Cung: --
Thiên Lý Nhãn | Thuận Phong Nhĩ | Kim Đồng | Ngọc Nữ | Lôi Công | Điện Mẫu (Kim Quang Thánh Mẫu) 
Phong Bá | Vũ Sư | Du Dịch Linh Quân | Dực Thánh Chân Quân | Đại Lực Quỉ Vương | Thất Tiên Nữ | Thái Bạch Kim Tinh | 
Xích Cước Đại Tiên | Quảng Hàn Tiên Tử (Hằng Nga Tiên Tử) Thường Nga | Ngọc Thọ | Ngọc Thiêm | Ngô Cương | Thiên Bồng Nguyên Soài Rạp | 
Thiên Hữu Nguyên Soài Rạp | Cửu Thiên Huyền Nữ | Thập Nhị Kim Thoa | Cửu Diệu Tinh | Nhật Du Thần | Dạ Du Thần | Thái Âm Tinh Quân | 
Thái Dương Tinh Quân | Vũ Đức Tinh Quân | Hữu Thành Chân Quân 
Thác Tháp Thiên Vương Lý Tịnh | Kim Trà | Mộc Trà (Hành Giả Huệ Ngạn) | Tam Đàn Hải Hội Đại Thần Na Trà | Cự Linh Thần | 
Nguyệt Lão | Tả Phụ Hữu Bật | Nhị Lang Thần Dương Tiển | Thái Ất Lôi Thanh Ứng Hoá Thiên Tôn Vương Thiện Vương Linh Quân | Tát Chân Nhân | 
Tử Dương Chân Nhân (Trương Bá Đoan) | Văn Xương Đế Quân | Thiên Lũng | Địa Á
6 .- Tam Quan, Đại Đế: Thiên Quân | Địa Quân | Thuỷ Quân 
7 .- Tứ Đại Thiên Vương: -- 
Tăng Trưởng Thiên Vương, Trì Quốc Thiên Vương, Đa Văn Thiên Vương và Nghiêm Mục Thiên Vương 
8 .- Tứ Trị Công tạo: -- 
Trị Niên Thần: - Lý Bính | Trị nhục Nguyệt Thần: - Huỳnh Thừa Ất | Trị Nhật Thần: - Chu Đăng | Trị Thời Thần: - Lưu Hồng 
9 .- Tứ Đại Thiên Sư: -
Trương Đạo Lăng, Hứa Tốn (tự Kính Chi, hiệu Hứa Tinh Dương), Khẩu Hoằng Tế, Cát Hồng 
10 .- Tứ Phương Thần: -- 
Thành Long Mạnh Chương Thần Quân, Bạch Hổ Giám Bình Thần Quân, Chu tuoc Lăng Quảng Thần Quân, Huyền Vũ Chấp Minh Thần Quân. 
11 .- Tứ Đậu Long Thần: - (Long Thần ở hang, động)
Hoàng Hà | Trường Giang | Hoài Hà | Tế Thuỷ Hà Thần 
12 .- Mã-Triệu-Ôn-Quân-Tứ Đại Nguyên Soài Rạp: -- 
1 / - Mã Nguyên Soài Rạp còn gọi Mã Thiên Quân, Hòa Quang Thiên Vương, Hòa Quang Đại Đế.
2 / - Triệu Nguyên Soài Rạp tức Vũ Tài Thần Triệu Công Minh, còn gọi Triệu Huyền Đàn. 
3 / - Ôn Nguyên Soài Rạp Ôn Quỳnh (bộ tướng của Đông Nhạc Đại Đế) 
4 / - Quan Nguyên Soài Rạp Quan Vũ. 
13 .- Ngũ Phương Yết Đế: --
Kim Quang Yết Đế, Ngân Đầu Yết Đế, Ba La Yết Đế, Ba La Tăng Yết Đế, Hà Yết Ma Đế 
14 .- Ngũ Khí Chân Quân: -- 
1 / - Đông Phương Tuệ Tĩnh Mộc Đức Chân Quân 
2 / - Nam Phương Huỳnh Hoặc Hoả Đức Chân Quân
3 / - Tây Phương Thái Bạch Kim Đức Chân Quân
4 / - Bắc Phương Thuỷ Tinh Thần Chân Đức Quân
5 / - Trung ương Sân Tĩnh Thổ Đức Chân Quân 
15 .- Ngũ Nhạc: --
1 / - Đông Nhạc Thái Sơn Thiên Te Nhân Thánh Đại Đế 
2 / - Nam Nhạc Hành Sơn Tư Thiên Chiêu Thánh Đại Đế 
3 / - Trung Nhạc Tung Sơn Trung Thiên Sung Thánh Đại Đế 
4 / - Bắc Nhạc Hằng Sơn An Đế Thiên Huyền Thánh Đại 
5 / - Tây Nhạc Hoa Sơn Thiên Kim Nguyện Thánh Đại Đế 
(Ngũ Nhạc Đế Quân: - Đông Nhạc Đế Quân, tên Thị Kim Hồng, em trai Đông Hòa Đế Quân Còn bốn vị Đế Quân kia là bốn người con của Đông Hoa Đế Quân và Bích Hà Nguyên Quân..)
16 .- Ngũ Đầu Tinh Quân: --
 Đầu đông Tinh Quân | Tây Đầu Tinh Quân | Trung Đầu Tinh Quân | Nam Đầu Tinh Quân | Bắc Đầu Tinh Quân 
17 .- Lục Đinh Lục Giáp: -- 
a / - Lục Định là: -- 
* Sáu vị Âm Thần Ngọc Nữ: --
1 / - Đinh Mao Thần Tư Mã Khánh 
2 / - Đinh Tỵ Thần Thôi Cự Khánh 
3 / - Đinh Mùi Thần Thạch Thúc Thông
4 / - Đinh Dậu Thần Tăng Văn Công 
5 / - Đinh Hợi Thần Trương Văn Thông 
6 / - Đinh Sửu Thần Triệu Tử Ngọc 
b / - Lục Giáp là: -- 
* Sáu vị Thần Dương Ngọc Nam: -- 
1 / - Giáp Tý Thần Vương Văn Khánh 
2 / - Giáp Tuất Triển Thần Tử Giang 
3 / - Giáp Thân Thần Hỗ Văn Trường 
4 / - Giáp Ngọ Thần Vệ Ngọc Khánh 
5 / - Giáp Thìn Thần Mạnh Phi Khanh 
6 / - Giáp Dan Thần Minh Văn Chương 
18 .- Nam đầu lúc Tinh Quân: --
1 / - Đệ Nhất Thiên Cung Phủ: Tư Mệnh Tinh Quân 
2 / - Đệ Nhị Thiên Tướng Cung: Tư Lộc Tinh Quân 
3 / - Đệ Tam Thiên Cung Lương: Diên Thọ Tinh Quân 
4 / - Đệ Tứ Thiên Đồng Cung: Ích Toán Tinh Quân 
5 / - Đệ Ngũ Cung Thiên Xu: Độ ạch Tinh Quân 
6 / - Đệ Lục Thiên Cơ Cung: Thượng Sanh Tinh Quân 
19 .- Bắc Đầu Thất Tinh Quân: (là Bắc Thiên Thất Hoàng của "Sư Đà Quốc") 
1 / - Bắc Đầu Đệ Nhất Dương Minh - Tham Lang Tinh Quân 
2 / - Bắc Đầu Đệ Nhị Âm Tinh - Cự Môn Tinh Quân 
3 / - Bắc Đầu Đệ Tam Chân Nhân - Lộc Tồn Tinh Quân 
4 / - Bắc Đầu Đệ Tứ Huyền Minh - Văn Khúc Tinh Quân 
5 / - Bắc Đầu Đệ Ngũ Đan Nguyên - Liêm Trinh Tinh Quân 
6 / - Đệ Lục Đầu Bắc Bắc Cực - Vũ Khúc Tinh Quân 
7 / - Bắc Đầu Đệ Thất Thiên Quân - Phá Quân Tinh Quân 
* Ghi chú: - Sư Đà Quốc là tên gọi của khu vực chòm sao Bắc đâu.
- Bắc Đầu Thất Tinh Quân còn có tên hiệu khác là: --
Thiên Xu, Thiên Tuyền, Thiên Cơ, Thiên Quyền, Ngọc Hành, Khai Dương, Diệu Quang. 
* Trong đó, \ "Thiên Xu, Thiên Tuyền, Thiên Cơ, Thiên Quyền \" hợp thành nhóm gọi là "Đầu khôi" hay "Tuyền" (hình cái GÁO mục nước) Bà sao. Còn lại hợp thành "Thước" ( tức là cái cán GÁO)
20 .- Bát Tiên: -- 
Lý Thiết Quái (Thiết Quái Lý), Hán Chung Ly, Lữ Động Tân, Hà Tiên Cô, Lâm Thái Hoà, Hàn Tương Tử, Tao Quốc Cửu (Cựu), Trương Quả Lão 
21 .- Tám vị tướng thủ hạ của Tăng Trưởng Thiên Vương: --
* Gọi tắt là: - Bưu Lưu Tuân Tất, Đặng Tân Trương Đào. 
* Tên đủ tám vị là: --
Lưu Tuấn, Tuân Lôi Cát, Bưu Dục, Viễn Tất Tông; 
Đặng Bá Ôn, Tân Hán Thần, Trương Bá Nguyên, Đào Nguyên Tín (tứ mục) 
22 .- Cửu Diệu Tình: --
Kim Tinh | Mộc Tinh | Thuỷ Tinh | Hoả Tinh | Thổ Tinh | 
La Hậu (Thực Tĩnh) | Kế Đô Tinh | Tử Khí Tinh | Nguyệt Bột Tĩnh 
23 .- Thiên Tiên trên mặt đất: --
 1 / - Khương Tử Nha (còn gọi Đông Hòa Đế Quân, là Người Tiếp Khách của Mộc Công)
 2 / - Bồng Lai Tam Tiên: --
 Phúc Lộc Thọ Tam Tinh 
* Ghi chú: - Phúc Thiên Thần Quân Đại Đế: - có thuyết nói là Dương Thành đời Tây Hán, có thuyết nói là Dương Thành đời Đường.
3 / - Vũ Tài Thần Triệu Công Minh, (còn Tỷ có thể, Phạm Lãi là Văn Tài Thần) 
4 / - Thọ Tinh Nam Cực Tiên Ông - Nữ Thọ Tĩnh: Ma Cô (hình vẽ hiến đào) 
5 / - Chân Vũ Đại Đế, còn gọi Cửu Thiên Hàng Ma Tổ Sư, Huyền Vũ Nguyên Soài Rạp. 
6 / - Quy Xà Nhị Tướng (còn có tên là Thái Huyền Linh Hắc Thuỷ Tinh Thần Tôn, Thái Huyền Hoả Tinh Xích Linh Tôn Thần) 
7 / - Tiểu Trương Thái Tử và Ngũ Đại Thần Long.
8 / - Lê Sơn Lão Mẫu, Sân Nguyên Tử 
9 / - Long Vương: --
Đông Hải Long Vương Ngao Quảng | Nam Hải Long Vương Ngao Khâm | Tây Hải Long Vương Ngao Nhuận | Bắc Hải Long Vương Ngao Thuận | Tỉnh Hải Vương (thần Long Vương ở giếng)
* Nhược Thủy dịch 
* Nguồn: -- http://www.tianyabook.com/zongjiao/cndaojiao3/001.htm

B. - THẦN THEO THÁNH THẦN TIÊU PHẢI 
1 .- Bắc Cực Tử Vi Đại Đế 
2.-Ngọc Thanh Chân Vương (Nam Cực Trường Sinh Đại Đế) - Con thứ chín của Nguyên Thuỷ Thiên Vương) 
3.-Thần Tiêu Bát Đế 
(Tám vị Thần Tiêu, làm Đạo Giáo hư cấu), Ngọc Thanh Chân Vương và Thần Tiêu Bát Đế hợp thành Thần Cửu Tiêu Thần Đại Đế: --
* Tám vị là: --
1 / - Đông Cực Thanh Hoá Đại Đế,
2 / - Cửu Thiên ứng Nguyên Lôi Thanh Phổ Hoá Thiên Tôn (Huỳnh Đế),
3 / - Cửu Thiên Lôi Tổ Đại Đế. 
4 / - Thái Ất Thiên Đế,
5 / - Lục Thiên Uyên Động Đại Đế,
6 / - Lục Bà Thiên Chủ Đế Quân,
7 / - Khả Hàn Chân Quân,
8 / - Thái Phóng Chân Quân. 
* Cửu Ty - Tam Tỉnh - Bắc Cực Tứ Thánh 
4 .- Cửu Ty: --
Phủ Ngọc Phan Phủ Chân Quân, Ngọc Phủ Tả Hữu Đại Trung, Ngọc Phủ Tả Hữu Bộc Tạ, Thiên Lôi Thượng Tướng, Ngọc Xu Sử Tướng, đầu Xu Thượng Tướng, Thượng Thanh Tư Mệnh Phủ Ngọc Hữu Khánh, Ngũ Lôi Viện Sử Quân , Lôi Đình Nguyên Đô Ty Mệnh Chân Quân 
5 .-- Tam Tỉnh: --
Lôi Đình Thái Tỉnh, Lôi Đình Huyền Tỉnh, Lôi Đình Đô Tỉnh 
6 .-- Bắc Cực Tứ Thánh: --
 - Thiên Bồng Nguyên Soài Rạp (Trư Bát Giới)
* Các thủ hạ là: - Thiên Cương Đại Thánh, Cửu Thiên Sát Đồng Đại Tướng (Bắc Đầu Đệ Bát Tĩnh, còn gọi Thiên Sát Đại Thần), Lôi Sứ Giả. 
- Thiên Hữu (Du) Nguyên Soài Rạp 
- Dực Thánh Nguyên Soài Rạp
- Huyền Vũ Nguyên Soài Rạp (Chân Vũ Đại Đế) 
* Ngoài ra còn có: - Ngũ Phương Lôi Vương, Ngũ Phương Lôi Đình Đại Đế 
7 .- Âm Tao Địa Phủ: --
1/-Bắc Âm Phong Đô Đại Đế 
2/-Ngũ Phương Quỉ Đế: - Gồm có: -- 
a / - Đông Phương Quỉ Đế: - Sái Úc Lũy, Thần Đồ, cai trị \ "Đào Chỉ Sơn \" Quỉ Môn Quan 
b / - Tây Phương Quỉ Đế Triệu Văn Hoà, Vương Chân Nhân, cai trị \ "Bà Trung Sơn \" 
c - Bắc Phương Quỉ Đế Trương Hành, Dương Vân, cai trị Phong Sơn La; 
d-Nam Phương Quỉ Đế Đỗ Tử Nhân, cai trị La Phù Sơn;
 e / - Trung ương Quỉ Đế Chu Khát, Kê Khang, cai trị \ "Bão Độc Sơn \" 
8 .- Sáu Thần giữ sáu cung ở Cõi Trời La Phong: --
1 / - Thần Trụ Tuyệt - Âm Thiên Cung,
2 / - - Thái Sát Lượng Sự - Tông Thiên Cung,
3 / - - Minh Thần Nại Phạm Vũ - Thành Thiên Cung, 
4 / - - Điềm Chiêu Tội - Khí Thiên Cung,
5 / - - Tôn Thất Linh - Phi Thiên Cung,
6 / - - Cảm Tư Liên Uyển - Lâu Thiên Cung 
9 .- Địa Tạng Bồ Tát
10 .- Thập Điện Diêm Vương: --
1 / - Mười vua: - Tần Quảng Vương, Sở Giang Vương, Tống Đế Vương, Ngũ Quan Vương, Diêm La Vương, Bình Đẳng Vương, Thái Sơn Vương, Đô Thị Vương, Biện Thành Vương, Chuyển Luân Vương 
2 / - Những Tướng, Thần hộ giá: -- 
Thủ tích phân Quân Thôi Phủ Quân, Chung Quỳ, Hắc Bạch Vô Thường, Ngưu Đầu Mã Diện, Mạnh Bà Thần .
C. - Chư Thần theo Thần Thoại Thượng Cổ
1.-Hỗn độn Thiên Thần: --
Bàn Cổ là vị Thần khai thiên lập địa đầu tiên, nhưng lại có thuyết nói "lúc trời đất còn hỗn độn sinh ra Bàn Cổ".
2.-Sáng Thế Thần: -- 
Thiên Ngô, Tất Phương, Cư Tỷ, Thụ Hợi, Chúc Âm, Nữ Oa 
3 .- Thượng Cổ Tứ Phương Thiên Đế và Phụ Thần: -- 
1 / - Thái Dương Thần Viêm Đế và Hoả Thần Chúc Dung cùng chung nhau cai trị cõi trời phương Nam suốt mười hai ngàn dặm.
2 / - Thiếu Hạo và Thuỷ Thần Công Cộng cai trị cõi trời phương Tây suốt mười hai ngàn dặm.
3 / - Chuyên húc và Hải Thần Ngũ Cường (còn gọi Đông Thần Huyền Minh) cai trị cõi trời phương Bắc suốt mười hai ngàn dặm.
4 / - Thanh Đế Phục Hi và Cửu Hà Thần Nữ Tư Thị Hòa với Chúc Thần Câu Mang cai trị cõi trời phương Đông suốt mười hai ngàn dặm. 
4 .- Chư Thần Thời Đại Huỳnh Đế: --
Lục Ngô, Anh Chiêu, Nhữu Châu, Kim Giáp Thần (truyền thuyết nói vị nay là hóa thân của Kim Giáp Lôi Thần của Sư Đà Quốc)
Xi Vưu, Phong Bá, Vũ Sư, Xích Tùng Tử, Lực Mục, Thần Hoàng, Phong Hậu, Ứng Long, Bát Cánh, Phụ Khoa, Đại Lực Thần, Khoa Thị Nga, Đại Đình Thị, Ngũ Long Thị.
5.-Viêm Đế, sau xưng là Thần Nông Thị Các con là:. --
* Con gái: --
a / - Khuê, sau hóa thân thành chim Tinh Vệ.
b / - Đạo Cơ, ở "Sư Đà Quốc" có tên là Uyển Hoa Tiên Tử. 
c - một người con gái khác, không biết tên, ở "Sư Đà Quốc" có tên là Viêm Thiên Thánh Mẫu. 
d / - Hoàng Nga, mẹ của Thiếu Hạo.
* Con trai: --
e / - trưởng tử Xuân Thần Câu Mang.
f / - thứ tử Thủ Thần nhục Thu. 
6 .- Sau thời đại Chuyên húc: --
* Con trai: - Ngược Quỉ, vòng Lượng, Tống Cùng Quỉ, Thọ Ngọt. 
-Đời sau: -: Lão Đồng, Thái Tử Trường Cầm, Lê, Trọng, Bánh Tổ (cháu) Đế Tuấn 
* Vợ ở trên trời: -: Hi Hoà, Thường Hi
* Con gái: - Sửu, Nghệ 
* Vợ ông Con: - Nữ Hi. 
* Vua Nghiêu có tên: Phóng Huân; vợ: - Nữ Hoàng; 
* Vua Thuận Hồ Diệu, tên Trọng Hòa; vợ: - Nga Hoàng, Nữ Anh; 
* Vua Vũ, cha là con, vợ: - \ "Nữ Kiều \", còn gọi Đồ Sơn Thị, có liên quan đến Cửu Vĩ Bạch Hồ Tĩnh (tinh chồn trắng chín đuôi)
7 .- Tam Hoàng: -- 
-tức Thiên-Địa-Nhân Tam Hoàng, phân biệt là Phục Hi, Thần Nông và Nữ Oa. 
8 .- Ngũ Đế: -- 
* Thông thường chỉ Huỳnh Đế | Chuyên húc | Đế Tuấn | Nghiêu | Thuận .

D. - Phần phụ: --
CÁC VỊ CHÂN TIÊN HẬU THIÊN NỔI DANH
Phòng Trưng Chí Tổ - Bánh Tổ | Si Hoành Thuỷ Tổ - Quỷ Cốc Tử | 
Văn Thuỷ Chân Nhân - Doãn Hi | Nam Hoa Chân Nhân - Trang Tử
Cầu Tiên Sứ Giả - Từ Phúc | Mao Sơn Tiên Tổ - Tam Mao Chân Quân | 
Vạn Cổ Đan Vương - Ngụy Bá Dương | Thái Cực Chân Nhân - Lưu An 
Khôi Hài Tuệ Tĩnh - Đông Phương Sóc | Thái Bình Giáo Chủ - Vũ Cát |
Dịch Sử Quỉ Thần - Phí Trưởng Phòng | Trúc Lâm Cuồng Sĩ - Kê Khang 
Thuỷ Phủ Tiên Bá - Quách Phác | Tịnh Minh Giáo Chủ - Hứa Tốn | 
Bồng Lai (Đô) Thuỷ Giám - Đào Hoằng Cảnh | Thiên Sư - Khấu Khiêm Chi 
Tình Tiên - Bùi Hàng | Phù Diệu Tử - Trần Đoàn | 
Hiển Hoá Chân Nhân - Trương Tam Phong 
 * Trung Dương Vương và Thuyên Chân Thất Tử (Trường Xuân Tử Khẩu Xử Cơ, Ngọc Dương Tử Vương Xử Nhất, tỉnh Quảng Trữ Tử hách Đại Thông, 
Thanh Tịnh Tản Nhân Tôn Bất Nhị, Trường Sinh tử Lưu Xử Huyền,
Trường Chân Tử Đàm Xử Đoan, Đan Dương Tử Mã Ngọc)

E. - Phần phụ 2: --
THẦN LINH DÂN GIAN 
* Thiên Phi Nương Nương | Thành Hoàng | Thổ Địa Thần | Môn Thần: - Tần Thúc Bảo, uất Trì Kính Đức 
* Sàng Thần (chia ra Sàng Công, Sàng Mẫu Sàng Công. Là \ "Cửu Thiên Minh Giám Sinh Tố Quân Chân \", Sàng Mẫu là \ "Cửu Thiên Vệ Phòng Thánh Mẫu Thiên Quân \") 
* Hi Thần | Xí Tử Thần Cô | Thạch Cảm Đương | Tiểu Nhị Thần Hồng Thác | Châu Thiên Đại Đế Sung Trịnh | Trà Thần Lục Vũ | Hoa Thần | Nhiễm Chức Nhị Thánh Mai, Cát | Tửu Thần Đỗ Khang | Thổ Công Tổ Sư Thần Lỗ Ban | * Phương Chức Thần Hoàng Đạo Bà | (thần dệt may)
* Tàm Thần Mã Đầu Nương (Sơn Hải Kinh nói là Tây Lăng Thị, Lũy Bán Tổ) | ngục Thần Cao Đào | Lê Viên Thần Đường Minh Hoàng Mã Thần | Thanh Oa Thần Bạch Ngọc Thiêm | Khu Hoàng Thần Lưu Mạnh (ý nói Thủ Mạnh Tưởng Quân) | Xà Vương Thị Tướng Công (Thị Thuyên) | 
* Đậu Thần Trương Soài Rạp | Thần Nông Hậu Tắc 
* Ôn Thần: - còn gọi Ngũ Quỉ hoặc Ngũ Phương Lực Sĩ, nhân gian gọi là Ngũ Ôn.
Trong đó có: - Xuân Ôn Trương Bá Nguyên, Hạ Ôn Lưu Nguyên Đạt, 
Thu Ôn Triệu Công Minh, Đông Ôn Chung Sĩ Quí, Tổng hợp Quản Trung Ôn Sử Văn Nghiệp. 
* Diệu Thần Thái Thượng Lão Quân | Tác Thời Thiên Thần | Cùng Thần | 
Mưu Thần Quản Trọng | Vũ Mục Vương Nhạc Phi | Chu Công, Đào Hoa Nữ | Hoàn Hi Thần Hoà Hợp Nhị Tiên Hàn Sơn, Thập Đắc 

F. - Phần phụ 3: -- 
CÁC VỊ TIÊN MA HƯ CẤU TRỌNG SÁCH VÕ.
Thái Cổ Viên Quân | Ma Phật Lão Nhân | Thiên Diện Thiên Yêu | Địa Tâm Cổ Long | Thánh Thủ Tiên Vương | Thánh Thủ Văn Vương | La Thiên Vương 
(Là hóa thân của Tam Thanh trong Đạo Giáo) 
Càn Khôn Đại Tiên | Điên Đảo Lão Tổ | Khung Thiên Lão Tổ | Tiên Thiên Lão Tổ | Vô Cực Lão Tổ | Vô Vi Lão Tổ | 
Tích Lịch Lão Tổ | Đằng Tổ | ảo Tiên Tử | Thanh Nhị Thiên Thần Chư | Âm Dương Pháp Vương / / 
Độc Long Sơn Thiên Độc Chiểu Chiểu Để --- Mang Thần (có hai cánh) | * Ở độ sâu một Ngan dam dưới đáy Nam Hải: - Hải Hoàng (Chương Ngư Quái); 
* Thú Đế (rắn chín đầu có lưng rùa) (Cửu Anh giao hợp với khí trời đất sanh ra quái vật) 
* Bá Vương (khủng long ở ao Thiên Trì núi Trường Bạch)
* Thiên Tử Thọ Ngọt (con trai Chuyên húc, trú tại Bắc Phương Huyền Băng Cung) 
* Bất Hoài Lâm Vương Toan Nghê (trú trong rừng già nhiệt đới phương Nam, thân cứng hơn sắt, đao thương đâm không thùng) 
* Bình Thiên Đại Thánh Ngưu Ma Vương | Phúc Hải Đại Thánh Giao Ma Vương | Di Sơn Đại Thánh Sư Đà Vương | Khu Thần Đại Thánh Dã Tượng Vương | 
Hồn Thiên Đại Thánh Bằng Ma Vương | Thông Phong Đại Thánh Di Hậu Vương | Te Thiên Đại Thánh Mỹ Hầu Vương.

G. - Phần phụ 4: -- 
TIÊN PHẬT Ở LINH SƠN TÂY THIÊN
(Đây là cách hiểu theo dân gian Trung Quốc, không phải của Phật giáo thuần túy - ND)
1.-Tam Thế Phật:
Có hai cách giảng về Tam Thế Phật (đúng nghĩa thì nói là Phật quá khứ, hiện tại và vị lai; nhưng dân gian lại có cách hiểu thứ hai) Hải danh. Hiệu: -- 
a - Thụ Tam Thế Phật: -- 
* Quá khứ phật: - Nhiên Đăng Thượng Cổ Phật, 
* Hiện tại thế: - Thích Ca Phật (nguyên danh: Tất Đạt Đa), 
* Vị lai thế: - Di Lặc Phật 
b / - Hoành Tam Thế Phật: --
* Giữa là Thích Ca Mâu Ni Phật, Văn Thù Bồ Tát, Phổ Hiền Bồ Tát; 
* Bên phải: - Tây phương cực lạc thế giới: - A Di Đà Phật, Quán Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát; 
* Bên trái: - Đông Phương Tịnh Lưu Li Thế Giới: - Dược Sư Phật, Nhật Quang Bồ Tát và Nguyệt Quang Bồ Tát. 
2 .- Tứ Đại Kim Cang: -- 
1 / - Ngũ Đài Sơn Bí Ma Nham: - Thần Thông Nghiêm Bát Đại Pháp Kim Cang 
2 / - Nga Mi Sơn Thành Lương Động: - Pháp Lực Vô Lượng Thắng Điệt Kim Cang 
3 / - Tu Di Sơn Ma Nhĩ Nhai: - Tì Lô Sá Môn Đại Lực Kim Cang 
4 / - Côn Sơn Kim Lon Nhĩ Lãnh: - Bất Hoài Tôn Vương Vĩnh Trụ Kim Cang 
3 .- Ngũ Phương Phật: --
-Đông Phương Bất Động (Thân) Phật;
-Nam Phương Bảo Sanh Phật;
-Trung ương Tì Lô Giá Na Phật; 
-Tây Phương A Di Đà Phật;
-Bắc Phương Bất Không Thành tựu Phật. 
4 .- Bát Bồ Tát: -- 
Quán Âm Bồ Tát, Phổ Hiền Bồ Tát, Văn Thù Bồ Tát, Địa Tạng Vương Bồ Tát, 
Linh Cát Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát, Nhật Quang Bồ Tát, Nguyệt Quang Bồ Tát 
5 .- Thập Đại Đệ Tử: -- 
Xả Lợi Phát: - Trí Tuệ Đệ Nhất | Mục Kiên Liên: - Thần Thông Đệ Nhất | A Nan Đà:-Đa Văn Đệ Nhất | Ưu Ba Ly: - Trì Giới Đệ Nhất 
A Na Luật:-Thiên Nhãn Đệ Nhất | Đại Ca Điệp:-Đầu Đà Đệ Nhất | Phú Lâu Na: - Thuyết Pháp Đệ Nhất | Ca Chiên Diên:-Luận Nghị Đệ Nhất 
La Hầu La:-Mật Đệ Nhất Hạnh | Tu Bồ Đề:-Giải Không Đệ Nhất 
6 .- Thập Bát La Hán: -- 
Thác Tháp La Hán | Thám Thủ La Hán | La Hán Quá Giang | Bà Tiêu La Hán | Tĩnh Toàn La Hán | 
Kỵ Tượng La Hán | Khan Môn La Hán | Hàng Long La Hán | Cử Bát La Hán | Bố Đại La Hán | 
Trường Mi La Hán | Khai Tâm La Hán | Hi Khánh La Hán | Oat Nhĩ La Hán | Tiếu Sư La Hán | 
Phục Hổ La Hán | Trầm Tư La Hán | Ky Lộc La Hán | 
7 .- Thập Bát Già Lam: -- 
Mỹ Âm | Phạm Âm | Thiên Cổ | Than Dieu | Than Mỹ | Ma Diệu | Lôi Âm | Sư Tử | Diệu Than 
Phạm Hưởng | Nhân Âm | Phật Nô | Tùng Đức | Nghiêm Mục | Diệu Nhãn | Triết Thính | Triết Thị | Biến Thị 
8 .- Nhị Thập Chư Thiên: 
Nhật Thiên (còn gọi Nhật Cung Thiên Tử) | Đại Phạm Thiên | Đa Văn Thiên | Kim Cương Mật Tích | Quỷ Mẫu Tử Thần; 
Nguyệt Thiên (còn gọi Nguyệt Cung Thiên Tử) | Đế Thích Thiên | Trì Quốc Thiên | Đại Tự Tại Thiên | Ma Lợi Chi Thiên; (Đại) Biện Tài Thiên | (Đại) Công Đức Thiên | Tăng Trưởng Thiên | Tán Chỉ Đại Tướng | Bà Kiệt Long Vương; 
Vi Đà Thiên (thần chiến đấu: - Tắc Kiên Đà) | Kiên Lao Địa Thần | Nghiêm Mục Thiên | Bồ Đề Thụ Thần | Ma La Diêm Vương. 
* Ngoài ra: -- 
Kim Đỉnh Đại Tiên, A Na, Cà Điệp. 

H. - Phần phụ 5: --
CÁC THẦN BÀ-LA-MÔN GIÁO
* Phật Tổ Ma Ha Bà La Phật và Bà La Tam Thế Phật (bốn vị Phật nay đều là hư cấu; sau đây là tên những vị Tiên có liên quan đến Phật Thích Ca)
Tần Bà Sa, A Lâm La /, uất Đà, Đề Bà Đạt Đa 
* Thần lớn chủ yếu: - Đại Phạm Thiên, Thấp Bà Lâu Đà La, Tuyết Sơn Nữ Thần Đỗ Nhĩ Ca, Quần Chủ 
Bà La Bát Bộ (Bà La Môn Thiên Long Bát Bộ) - (Bà La Bát Bộ là hư cấu, dưới đây là chư Thần làm Ấn Độ tạo ra) 
Thuỷ Thần Phát Lâu Na | Thổ Thần Đà Thấp Đa | Phong Thần Phát Do | Nhật Thần Tô Lý Đà | Thiên Đế Nhân Đà La 
Đạo Thần Phổ Thiện | Bảo Hộ Thần Tì Thấp Nô | A Tu La: Đắc Đề Đà và Đàn Bà Nà | Bà Đỗ Hoả Thần. 
* Người viết: - Ngoan Tiên Lão Tàu - trợ lý cấp hai của web.
* Nhược Thủy dịch 
* Nguồn: -- http://www.tianyabook.com/zongjiao/cndaojiao3/001.htm
(Hết Tập I - Xin xem tiếp Tập II)

Do sự sơ xuất của tôi, trong tập TTTH 1 nay thiếu mất một bài quan trọng Đó là. Bài Tử Vi Đại Đế, một trong Tứ Ngự, nay xin bổ sung thêm cho đủ. Chân thành xin lỗi quí vị.
Nhược Thủy.


Trung Thiên Bắc Cực Tử Vi Đại Đế.

* Còn gọi là "Bắc Cực Tử Vi Đại Đế", "Bắc Cực Đại Đế", "Bắc Cực Tinh Quân", là một vị trong "Tứ Ngự".
* Tín ngưỡng về Bắc Cực Đại Đế là do sự sùng bái trời trăng sao của người Trung Quốc từ thời cổ đại Bắc Cực tức là "Sao bắc cực" nói gọn, còn gọi là "sao bắc", nằm trong khu vực. Thiên Từ trong Tử Vi Viên (danh từ của khoa thiên văn).
* Trong quyển thứ tư của "Thượng Thanh Linh Bảo Đại Pháp" có nói: -- 
"Bắc Cực Đại Đế là vị sao chủ (đế) của Tử Vi Viên".
Thiên Văn Chí nói: - "Nam Cực thì nhập địa ở ba mươi sáu độ, còn Bắc Cực thì xuất địa ở ba mươi sáu độ, có hình dạng như chiếc ghế đai, phân nửa thì chỉ đất, phân nửa chỉ trời. Các sao khác thì xoay chuyển, chỉ có hai sao Nam Bắc Cực thì đứng yên trong bầu trời chuyển động Đời nhìn. sao Bắc Cực thì cho là hướng Bắc, kỳ thực là sao ấy ở giữa trời, làm chủ của muôn vì sao khác, là vua thứ hai của tam giới sau Thượng Đế, ứng vào nguyên khí của thanh thượng, nên gọi là Bắc Cực Tử Vi Đại Đế ".
* Hậu Hán Thư quyển bốn mươi tám viết: - "Trời có cung Tử Vi, là nơi cư trú của Thượng Đế" Vậy Tử. Vi Viên tức là Tử Vi Cung, về sau Huỳnh Đế cũng cư trú ở nơi này, gọi là Tử Cấm Thành.
* Đạo Giáo cho rằng sao Bắc Cực mãi mãi không di chuyển, nằm ở chính giữa của trời, vị trí rất cao, cực kỳ tôn quí, gọi là "chủ của các sao" hay "gốc của các thần thánh". Do đó , thế gian hết sức tôn sùng Bắc Cực.
* Trọng "Tấn Thư-Thiên Văn Chí" nói: - "Bắc Cực có năm sao, Câu Trần có sáu sao, đều ở tại Tử Vi Cung Bắc Cực. Hay Bắc Thần là tôn quí hơn hết, tuy thể hình nhỏ, nhưng là "mẫu chốt" của trời "Lại nói. thêm" là tòa của vua "" vua thường hay ở đây ".
* Khổng Dĩnh Đạt đời Đường viết trong "Thư Đạo-Thuyết Mệnh": - "Bắc Đầu xoay quanh Bắc Cực, giống như các quan ở xung quanh hộ vệ cho vua, sao năm nay coi sóc các tinh tú khác là các quận huyện cai quản đất đai của vua ban Nhị thập. bát tú chia ra bốn phương, là đất của thiên tử cấp cho chư hầu. Thiên tượng ấy biểu trưng cho tự tôn ti trát chính pháp ở đời vậy "
* Về lai lịch của Bắc Cực Tử Vi Đại Đế, trong "Thái Thượng Thuyết Huyền Thiên Đại Thánh Chân Vũ Bản Vân Thần Chú Kinh Diệu dẫn theo" "Đầu Bản Sanh Bắc Kinh" nói rằng: --
"Xưa còn ở sơ kiếp Long Hán, Tử Quảng Phú Nhân ở nước Chu Thượng Ngự vào ngày xuân, đi du ngoạn đến bên suối Ôn Ngọc Tuyền, định coi y phục để tắm, chợt thấy có chín đóa sen nở ra, hóa sanh chín người con trai Phú nhân. đem về nuôi nấng, với tâm nguyện Sau này họ sẽ thành những bậc thánh triết, phụ giúp cho trời đất Những vị. nay đã đến trang các quán để tu hành, trải qua thời gian quả công viên mãn, thăng thiên bạch nhật đến cung điện Tam Thanh mà thọ lãnh chức tuoc Người con trưởng được phong làm Thiên Hoàng Đại Đế, cai quản về. kỷ cương của Tử Vi Thượng Cung. Người con thứ hai, được phong làm Tử Vi Đại đế, coi sóc việc bố chính ở minh đường nơi Bắc Cực.
* Trọng Đạo Kinh, nói về chức năng của Tử Vi Đại Đế như sau: -- 
"Chấp chưởng thiên kinh địa vĩ (chiều đứng của trời và chiều ngang của đất), cai quản các thần trong tam giới và các thần sông núi" Đây là. Hiện tượng tôn vương của các hiện tượng tự nhiên. "Ngài có thể kêu gọi mưa gió, sai sử các Quỉ thần của Lôi Bộ ".
* Theo "Cửu Thiên Lôi ứng Nguyên Thanh Hoá Tích Thiên Tôn Hứa Ngọc Bảo Kinh Tập Chú" quyển thượng nói: - "Bắc Cực Tử Vi Đại Đế chưởng quản Ngũ Lôi thần" Do đó., Tử Vi Đại Đế được các Triều đại vua chúa thờ Phùng, đặc biệt đề cao thời nhà Tống, thường thờ chung với Ngọc Hoàng Đại Đế.
Hiện nay ở các vùng Tứ Xuyên, Đại Túc ... vẫn còn lại những tượng thờ Tử Vi Đại Đế được tạo từ thời Tống.
* Trọng "Minh Sử • Lễ Chí Tứ" viết: - "Thời Minh, Triều đình ban chiếu chỉ xây dựng Điện Tử Vi và tạo tượng để cúng tế" Tượng thờ. Có dáng vẻ của một vị đế vương, hai bên có những võ tướng oai phong lâm vệ liệt hộ, thật là thân phận mười phần cao quí.
* Ngày Đản sinh của Tử Vi Đại Đế là ngày mười tám tháng tư âm lịch.
(Có sách nói là ngày hai mươi bảy tháng mười)
* Nhược Thủy dịch
(Từ: -- http://taoismdata.org/).


MỤC LỤC
THẦN THÁNH TRUNG HOA
TẬP I
STT ĐỀ TÀI
01 Giới thiệu tổng quát về Thánh Thần Trung Hòa
02 Giới thiệu tóm tắt Thánh Thần Trung Hòa, theo lịch sử
03 Nguyên Thủy Thiên Tôn
04 Thái Thượng Lão Quân
05 Linh Bửu Thiên Tôn (LBTT)
06 Thái Thượng LBTT thuyết Diên Thọ Kinh
07 Ngọc Hoàng Đại Đế (Bài 1)
08 Ngọc Hoàng Đại Đế (Bài 2)
09 Vương Mẫu Nương Nương (9A-Bài 1 + 9B-Bài 2)
10 Huyền Thiên Thượng Đế
11 Chân Vũ Đại Đế
12 Tiên thiên thần tôn-Tứ Ngự
13 Câu Trần Đại Đế
14 Thổ Hoàng Địa Kỳ (Hậu Thổ)
15 Cửu Thiên Huyền Nữ
16 Nữ Oa Nương Nương
17 Phụ lục: - Tam Hoàng Ngũ Đế -
18 Nguyên Thần Điện (Điện thờ các tinh tú)
19 Chức năng của Nhị Thập Bát Tú
20 Trung Thiên Bắc Cực Tử Vi Đại Đế
21 Bắc Đầu Thất Tinh Nguyên Quân
22 Thần chú Bắc Đầu Tiêu Tai
23 Kinh Đại Thánh Bắc Đầu Thất Nguyên Quân
24 Bắc Đầu Chân Kinh
25 Nam Cực Trường Sinh Đại Đế + Nam Cực Tiên Ông
26 Thái Ất Cứu Khổ Thiên Tôn-Phụ lục
27 Vương Công Đông (Mộc Công)
28 Tiên thiên thần tôn LỢI TỔ
29 Thái Dương Tinh Quân + Kinh Thái Dương-Thái Âm
30 Thái Âm Nương Nương (Nguyệt Nương)
31 Đông Nhạc Đại Đế
32 Hỏa Đức Tinh Quân
33 Chú Sanh Nương Nương (Bà Chúa Thái Sanh)
34 Tâm Tình:-Phước-Lộc-Thọ
35 Bích Hà Nguyên Quân
36 Quan Thánh Đế Quân
37 PL: - Kinh Minh Thánh + Giác Thế Chân Kinh
38 Văn Xương Đế Quân
39 Thiên Hậu Thánh Mẫu
40 Thập Điện Diêm Vương (Mười Điện-Mười Vua DV)
41 Bảo Sanh Đại Đế
42 Tam Quan, Đại Đế
43 Viêm Đế Thần Nông
44 Tam Thái Tử Na Tra
45 Nguyệt Hạ Lão Nhân (Nguyệt lão)
46 Phù Hữu Đế Quân Lữ Đồng Tân
47 Bát Tiên (tổng quát)
48 Tiểu sử Bát Tiên (theo truyện Đông du Bát Tiên)
49 Khôi Tĩnh
50 Thái Tuệ
51 PL: - Tên của Thái Thứ sáu 60 năm theo trường phái
52 Cách cúng một vị Thái Thứ năm hàng (bài vị mẫu + thần chú)
53 Thành Hoàng
54 Phước Đức Chính Thần (Thổ Địa)
55 Võ Văn Tài Thần (Thần Tài)
56 Định Phước Táo Quân (Ông Táo)
57 Môn Thần
58 Thất Nương MU (Má)
59 Sàng MU (Má)
60 Lôi Bộ Ngũ Nguyên Soài Rạp
61 Lôi Công-Điện Mẫu
62 Vũ Sư (Thần làm mưa)
63 Phong Bá (Thần làm gió)
64 Long Vương
65 Thờ Bạch Hổ
66 Tổ chức Thiên Đình (theo Wikipedia tiếng Việt)
67 Nhị thập bát tú (theo Thiên Văn Học)
68 Pháp Chủ Công
69 Tế Công Hoạt Phật-Phụ lục: - Tế Công Thánh Huấn
70 Hòa Hợp Nhị Tiên: - Hàn Sơn, Thập Đắc
71 Khai Chương Thánh Vương
72 Tam Sơn Quốc Vương
73 Thanh Thủy Tổ Sư (bốn bài)
74 Thương hiết Tổ Sư
75 Thạch Cảm Đương (Bua đá trấn yếm)
76 Đẳng cấp của Thánh Thần

Vài lời ngỏ của dienbatn :
 Qua 76 mục tập 1 cuốn THẦN THÁNH TRUNG HOA do bác Nhược Thủy dịch ta thấy hệ thống Thần Thánh của Trung Hoa vô cùng phức tạp và có ảnh hưởng rất lớn đến tín ngưỡng thờ cúng của người Việt nam. Hiện nay, rất nhiều người đi lễ tại các Đình, Chùa, Miếu, Đường ... không hề biết đến sự tích các vị Thần Thánh mà mình đang vái lạy như thế nào ? Tác phẩm này của bác Nhược Thủy đem lại cho chúng ta một hiểu biết cơ bản khi tiếp xúc với hệ thống Thần Thánh của Trung Hoa trong các dịp du ngoạn của mình. Xin trân trọng cảm ơn tâm huyết của bác Nhược Thủy.
dienbatn cũng có ý định trong mục MẬT TÔNG - ĐẠO PHÁP - HUYỀN MÔN này sẽ sưu tầm và biên soạn lần lượt các sự tích về Thần , Thánh của Ấn Độ, Thái Lan, Căm Pu Chia.... Các dân tộc ít người của Việt nam..để làm cơ sở dữ liệu cho các bạn nghi nghiên cứu. Thân ái. dienbatn.


THẦN  THÁNH  TRUNG  HOA
                                 (  TẬP    2  )
                                    ******
*Source :- http://www.tianyabook.com/zongjiao.htm
                 http://gb.taoism.org.hk/ 
MỤC   LỤC
01.- Ngũ  Lão Quân
02.- Ngũ Tinh Thất Diệu Tinh Quân
03.- Li (Lê) Sơn Lão Mẫu
04.- Lâm Thủy Phu Nhân
05.- Lục Đinh  --  Lục Giáp
06.- Bành Tổ
07.- Huỳnh Đế
08.- Xích Tùng Tử
09.- Ninh Phong Tử
10.- Quảng Thành Tử
11.- Dung Thành Công (Tử)
12.- Quỷ Cốc Tiên Sinh
13.- An  Kỳ   Sinh
14.- Âm  Trường  Sinh
15.- Hà  Thượng  Công
16.- Tứ đại Thiên Sư
17.- Tam Mao Chân Quân
18.- Ma   Cô (Nữ Thọ Tinh)
19.- Vương  Linh  Quan
20.- Vương   Kiều
21.- Thanh  Hư  Chân  Nhân
22.- Thanh  Linh  Chân  Nhân
23.- Thái Cực Chân Nhân
24.- Thái Hòa Chân Nhân
25.- Cát Tiên Ông
26.- Hoài Nam Bát Công
27.- Vương Thường Nguyệt
28.- Ngưng Dương Chân Nhân
29.- Trần Đoàn Lão Tổ
30.- Điền Đô Nguyên Soái
31.- Tạ  Tiên  Tổ
32.- Thanh Hư Huyền Diệu—Trương Chân Quân
33.- Hồng Ân Linh Tế Chân Quân
34.- Ngũ Tổ Thất Chân
35.- Ngộ Chân-Tử Dương Chân Nhân
36.-Hạnh Lâm-Thúy Huyền Chân Nhân
37.-Đông Hoa Đế Quân Vương Huyền Phủ
38.- Chính Dương Đế Quân Chung Ly Quyền
39.- Thuần Hựu Đế Quân Lưu Hải Thiềm
40.- Thuần Hữu Đế Quân Vương  Trùng Dương
41.- Trường Xuân Chân Nhân Khưu Xử Cơ
42.- Vô Vi Chân Nhân Mã Ngọc
43.- Uẩn Đức Chân Nhân Đàm Xử Đoan
44.- Trường Sinh Chân Nhân—Lưu Xử Huyền
45.- Ngọc Dương Chân Nhân—Vương Xử Nhất
46.- Quảng Ninh Chân Nhân Hách Đại Thông
47.-Thanh Tịnh Tản Nhân Tôn Bất Nhị 
48.- Vương Linh Thiên Quân
49.- Dược  Vương
50.- Ôn Thần
51.- Tàm Thần
52.-  Xí   Thần
Dienbatn giới thiệu.
Xem chi tiết…

THẦN THÁNH TRUNG HOA .NHƯỢC THỦY DỊCH . BÀI 15.

4/08/2015 |
THẦN THÁNH TRUNG HOA
Bản dịch của Nhược Thủy - dienbatn giới thiệu.

LỜI NÓI ĐẦU : Đây là bản dịch rất công phu của Nhược Thủy trong trang Hoangthantai . Nay không còn thấy trang này hoạt động nữa. dienbatn chép lại vào đây để làm tư liệu . Mong bác Nhược Thủy cảm thông.
 THẦN THÁNH TRUNG HOA TẬP  I
Lời giới thiệu:- Nhận thấy từ trước đến nay, người Việt Nam chúng ta theo phong tục tập quán của người Trung Hoa, nên đã tin tưởng và thờ phụng rất nhiều vị Thánh, Thần giống như người Trung Hoa. Tài liệu giải thích về các Ngài thì quá ít và không có cơ sở khảo cứu , chỉ theo truyền khẩu nhiều hơn. Nay tôi xin cố gắng dịch những tài liệu nầy từ một Website có uy  tín và khảo cứu cẩn thận, xin kính tặng tất cả huynh đệ trong 4R-HTT. Nếu có chỗ nào sai sót, xin quí cao nhân hoan hỉ chỉ bảo cho (kèm theo nguyên tác  để quí vị dễ đối chiếu).
Xin thành thật cảm ơn quí huynh đệ.
Nhược Thủy
( Mùa Hạ năm Mậu Tí-2008).
Phần bổ sung cho bài “Huyền Thiên Thượng Đế”.
70.- Nam Cực Trường Sinh Đại Đế (Nam Cực Tiên Ông).
Nam Cực Trường Sinh Đại Đế
* Nam Cực Trường Sinh Đại Đế còn gọi là Ngọc Thanh Chân Vương, là con thứ chín của Nguyên Thủy Thiên Vương.
Thường Phụng thờ cúng tế Ngài sẽ được khỏe mạnh sống lâu Ngài còn. Có tên gọi khác là Nam Cực Tiên Ông, Nam Cực Chân Quân, Trường Sinh Đại Đế, nhân vì Ngài chủ về tuổi thọ, nên công gọi là "Thọ Tĩnh "hoặc" Lão Nhân Tịnh ".
* Đạo Giáo là tôn giáo có tôn chỉ mưu cầu sự trường sinh, nên trong Phả hệ thần thánh của họ phải có một vị chủ về thọ mệnh của người con.
* Thời cổ đại rất sùng bái tinh tú, danh sách rất nhiều, thời gian lâu dài mà không bị bỏ bớt Trong đó., "Thọ Tinh" là được mọi người hoan nghênh, được phổ biến rộng rải nhất.
* Trong "Sử Ký-Phong Thiện Thư" làm Tư Mã Trinh viết: - "Thọ Tinh tức Nam Cực Lão Nhân, chủ về sự an ổn và tuổi thọ của người".
Trọng "Nhĩ Nhã-Thích Thiên" lại nói: - "Thọ Tĩnh, là sao Giác, sao Cang vậy" Hải sao. Giác và Cang là hiện sao đứng đầu trong bảy sao Thanh Long ở phương Đông của hệ Nhị Thập Bát Tú. Quách Phác chú giải: - "Thọ Tĩnh, là hai sao khởi đầu Giác và Cang, hai sao dài chiều nay, tượng trưng cho tuổi thọ lâu.
Tư Mã Thiên trong "Sử Ký-Thiên Quán Thư nói thì": - "Tại phương Tây có bốn ngôi sao lớn, gọi là" Nam Cực Lão Nhân ". Nhìn thấy Lão Nhân Tịnh xuất hiện thì đất nước là ổn, nếu không thì thấy có binh đao "
-Đại học giả đời Đường Trương Thủ Tiết nhận xét về lời giải thích của Tư Mã Thiên như sau: "Lão Nhân chỉ có một sao, ở góc về phương Nam (đông nam của Thiên Lang Tĩnh), còn gọi là Nam Cực, chủ về tuổi thọ lâu dài và một sự ổn Thấy nó thì. vận mệnh đất nước tốt, nên gọi là "Thọ Xương"; không thấy nó, tất có nhiều ưu sầu lo lắng "Cho thấy là., mọi người rất quan tâm đến Thọ Tĩnh.
-Trọng "Hán Thư-Thiên Văn Chí" nói "Nam Cực Lão Nhân thường lấy thời điểm sau Thu Phân mà hiện". Lại trong "Hậu Hán Thư nhất nghi chí" nói: - "Mặt trăng tháng tám, bảy mươi tuổi mới , chống gậy, ăn cháo Đến tám. mươi, chín mươi, có lễ ban cho thêm .... Thờ Phụng Lão Nhân Tịnh Lão Thái Miếu ở phía Nam kinh đô ".
* Như vậy, tử xưa, hai bên Thiên Văn Học và tôn giáo đã có sự quan tâm khảo sát và phát hiện Thọ Tĩnh rồi. Trong đó nêu lên hai ý nghĩa: - thứ nhất là xác định khu vực của sao trên trời, ở vị trí sao Giác sao Cang của Nhị Thập Bát Tú; thứ nhì là nêu lên Nam Cực Lão Nhân Tịnh thời Đông Hán là đã có ý nghĩa tôn kính người già và xác nhận bắt đầu có sự cúng tế Lão Nhân Tịnh.
* Trọng hệ Nhị Thập Bát Tú, bảy sao phương Đông là: - Giác, Cang, Đê, Phòng, Tâm, Vĩ, Cơ tạo thành hình Thành Long, mà Giác hai ngôi sao lại có hình dạng cái sung dê con, nên nói "sao Giác ở về phương Đông, giống như rồng sung" Sao Cang bốn. ngôi sao nâng Càng đi lên, nên gọi là "Kháng" (trên cao, chở che) giống như hình đầu rồng Khoa thiên. văn học ngày nay lại lấy hai sao nay xếp vào vị trí của sao Thất và sao Nữ, trong đó Giác là sao sáng nhất hạng Mỗi năm. vào đầu tháng năm, lúc chiều trời thật trong, bảy giờ tối thì thấy Lão Nhân Tịnh rất rõ Nhưng vì. vị trí của nó ở vĩ độ 50 độ Nam, nên ở Trung Quốc, nhất là phía Bắc thì không thể thấy rõ, chỉ có từ địa khu Nam Hòa của Trường Giang trở xuống phía Nam thì thấy được.
* Từ thời Chu, Tần việc cúng tế Thọ Tinh chẳng qua là cúng Nam Cực Lão Nhân Tịnh (sao Cang) Nhưng sách theo ". Thông Điển-Lễ Tứ" nói: - "... ban chiếu lệnh cho Ty sở lập đàn Thọ Tĩnh để cúng tế sao Lão Nhân Tịnh tức bảy sao Giác, Cang ", cho đến đời nhà Đường mới hợp lại cúng chung hai sao nay.
* Từ Chu Tần về sau, Thọ Tĩnh được các vua chúa các Triều đại cho ghi vào "Sách Cúng Tế của Hoàng Gia" Đến đời. Minh, tuy sách bỏ cúng tế, nhưng trong dân gian vẫn còn lưu hành nghi lễ này. như là đời Minh, các sách Bạch Xà Vân, sau đổi là Lôi Phong Tháp và Nghĩa Yêu Vân, về sau là Tam Bảo Vân Tiên, trong đó hình tượng Thọ Tinh là một vị Tinh Quân có lòng tốt cứu giúp tuổi thọ đã xuất Khi hiện sách. Bạch Xà Vân được chuyển thể thành tuồng hát, đoạn "Dạo Tiên Thảo" (ăn trộm cỏ tiên) diễn tả: - Bạch xà uống rượu hùng hoàng vào bị hiện nguyên hình rắn, khiển cho Hứa Tiên sợ đến chết xác chàng. được đưa đến núi Côn Lớn, Bạch Xà ăn cắp cỏ tiên bị hai tướng Hạc và Lộc ngăn trở, Nam Cực Tiên Ông hiện xuống, tặng chàng "chi linh" uống lại và sống. Ai xem đoạn đến nay đều cũng cảm động rơi lệ.
* Tiểu thuyết nổi tiếng đời Minh "Cảnh Thế Thông Ngôn" quyển thứ 39 là "Phước Lộc Thọ Tam Tinh độ thế" đã giảng giải rất nhiều sự tích cứu đời của Nam Cực Tinh Ngoài ra., Các vở kịch khác đời Nguyên Minh cũng lấy đề tài như: - Nam Cực Đăng Tiên, Quần Tiên Chúc Thọ, Trường Sinh Hội vv ...
* Hình tượng thờ Thọ Tĩnh từ cuối đời Minh thì được hoàn chỉnh như sau: - "đầu đội mạo liên hoa, mắc áo lông hạc, con bế, tóc bạc, râu bạc, tay cầm Ngọc Khuê", có nơi thêm tay cầm quyền trường nhiều khúc uốn cong, Trần Cao thẳng, gọi là Thọ Tinh Cao Phòng Động.
-Còn ở thời Đông Hán, cùng lúc làm lễ cúng Thọ Tĩnh, đồng thời cũng lồng ghép thêm "lễ chúc thọ các cụ già" Từ bảy mươi tuổi trở lên,. Mỗi cụ được tặng một cây gậy dài chín thước, đầu khắc hình chim cưu (tu hú). (Chú thích: - Dove:-Cửu: - Con tu hú Tính nó. vựng tổ làm không biết, nên hay dùng để nói ví những kẻ không biết việc kinh doanh nhà Nó lại. là một loài chim ăn không mắc nghẹn bao giờ, nên cho những gậy của người già hay chống khắc hình con cưu vào. Như trường chim bồ câu cưu thanh gậy cưu chim khắc hình-NT) Đây là xuất xứ của Thọ Tinh nay sau cầm gậy. Về hình trạng cầm gậy, quyển 4 của "Trình Sử" viết: - "Thọ cầm Tĩnh trường (gậy), thị trường phải dài hơn người của tay, lại có dáng GÃY Neu khúc ngắn. trường thẳng mà, là ý gậy hộ thân , là vật bất tường vậy "Cho nên. hình tượng thờ Thọ Tĩnh từ trước đời Nam Tống là có hình dáng GÃY khúc Còn về. hình dáng đầu Thọ Tĩnh có Trần Cao mà thẳng, gọi là tướng" Cao não môn ", theo "Thông Tục Biên" có ghi "Thế tục họa hình Thọ Tinh để thờ, có đầu rất dài" Trọng ". Nam sử-Di mạch vân" nói "Tỷ Khiên Vương xưa mình cao một hai trường, đầu dài ba thước, từ xưa được xem là vua bất tử cổ dài ". Người họa hình lấy ý theo đó mà vẽ Thọ Tĩnh, tiêu biểu cho sự trường thọ.
-Trước đời Nguyên Minh, thường thấy có Đền thờ hoặc Đàn Thọ Tinh Sau đời. Minh, dân gian đem Thọ Tinh kết hợp với hai ông Phước Tĩnh và Lộc Tĩnh thờ chung lại, gọi là Tam Tinh Pước Lộc Thọ, được mọi người hoan nghênh Trọng lễ chúc thọ,. thường đặt tượng Phước Lộc Thọ ở giữa, hai bên có hai câu liên treo "Phước như đông hải" và "Thọ tỉ nam sơn" hay "Danh cao Bắc đâu".
* Thọ Tĩnh có danh xưng đầy đủ là "Cao Thượng Thần Tiêu Ngọc Thanh Chân Vương Sinh Trường Đại Đế Thống Thiên Nguyên Thánh Thiên Tôn", cư ngụ ở Ngọc Thanh phủ, Cao Thượng Thần Tiêu Cung.
* Về lai lịch của Nam Cực Trường Sinh Đại Đế có hai thuyết giải thích: --
1 .- Là trưởng tử của Nguyên Thủy Thiên Vương Theo Đạo. Kinh "Cao Thượng Thần Lôi Ngọc Thanh Chân Tử Vương Thư Đại Pháp - Tự" viết: - "Xưa chưa thành hình vũ trụ, nguyên khí chưa sanh ra, Nguyên Thủy Thiên Vương là Tổ của Hạo Mang Minh Luật Đại Phạm (cõi mờ mit mênh mang chưa phân biệt), ngưng Thái Thân kết, tạo thành "hỗn độn", kế có trời đất, chia ra khí bên trong và ngoài khí, gọi là "hư hỗn" Nguyên Thủy. Thiên Vương vận thần thông mở ra vũ trụ, tạo nên mặt trời, mặt trăng, các sao Rồi chia. thành trời đất Ở Ngọc. Kinh, Ngài phối hợp với Tổ Mẫu Khí Vạn Thái Ngọc Huyền cực Nguyễn Cảnh Tự Nhiên Cửu Thiên Thượng Huyền Ngọc Thanh Thần Mẫu, sanh ra tám người con. Người con trưởng là Nam Cực Trường Sinh Đại Đế Còn có hiệu là. "Cửu Long Phù Tang Nhật Cung Đại Đế" và "Cao Thượng Thần Tiêu Ngọc Thanh Vương "Một mình có ba tên, là một vị Thánh vậy.." Vị Chân. Vương nay (tức Nam Cực Trường Sinh Đại Đế) đã ngưng ở thần cung khuyết kim, giải cứu tam tai bát nạn cho sanh linh , hộ trì cho chín cõi tuyền phong, cứu giúp cho tất cả tội hồn đang chịu báo ứng. Thế gian nếu người nào có lòng tin, cầu khẩn nơi Ngài, chẳng kể ngày đêm, không nói xa gần, Ngài liền ứng cứu hiện giúp, Sức thần thông của Ngài có thể nói là "khó nghĩ bàn", chúng sanh trong tam giới cửu u đều có thể nương tựa Theo sách. "Thần Chân Tiêu Vương Bí Pháp" (một bộ ba quyển) dạy rằng: -- "Đức Ngọc Thiên Nguyên Thủy Thượng Đế nơi Tử Vi Thượng Cung Tử Quỳnh truyền bá bí pháp" Cao Thượng Thần Tiêu Ngọc Thanh Chân Vương Trường Sinh Hộ Mệnh Bí Pháp "cho Ngài để cứu giúp chúng sinh".
2 .- Là con thứ chín của Nguyên Thủy Thiên Vương Theo sách. "Cao Thượng Cửu Tiêu Ngọc Thanh Đại Phạm Tử Vi Huyền Đô Lôi Đình Ngọc Kinh" nói rằng, "con thứ chín của Nguyên Thủy Thiên Vương được làm phong" Cao Thượng Thần Tiêu Ngọc Thanh Chân Vương Sinh Trường Đại Đế ", chủ quản ba mươi sáu cõi trời ở cửu tiêu, thống lãnh ba mươi sáu vị Thiên Tôn. Đồng thời sách" Cao Thượng Thần Lôi Ngọc Thanh Chân Tử Vương Thư Đại Pháp " ở một quyển, phần phong chức cho tám con người, có nói đến Nam Cực Trường Sinh Đại Đế, là được phong làm "Cao Thượng Thần Lôi Ngọc Thanh Vương" và "Thái Dương Cửu Khí Ngọc Hiền Quân" hay "Thái Dương Cửu Khí Ngọc Hiền Quân "Tên huy của Ngài là Côn Động,. tên chữ Diệu Hoa. Trong kinh" Bát Đế phong hiệu quan chức vị "cũngg có nói đến Ngài: -" người con thứ chín làm được phong Thần Tiêu Ngọc Thanh Chân Vương hay còn gọi là Thái Bình Ứng Hóa Đạo Chủ Đại Đế, cũng có tên là Diệu Lãnh Phù Tang Cửu Khí Thái Dương Thần Quân ". Thuyết nay được chấp nhận hiện nay..
* Nhược Thủy dịch
(từ http://www.taoism.org.hk).
* Phần phụ thêm: 
TINH QUÂN - NAM CỰC TIÊN ÔNG.


TINH QUÂN
NAM CỰC TIÊN ÔNG
Nam Đầu Tinh Quân còn gọi là Nam Cực Lão Nhân, Nam Cực Đại Đế hoặc Nam Cực Tiên Ông.
Xét về gốc gác của vấn đề, ta thấy Nam đầu ở phương Nam, làm sáu ngôi sao hợp thành, có hình dạng như cái "đấu" (đồ dùng để đong ngày xưa), cho nên gọi là Nam Đầu (cái đấu phương nam).
* Sách "Sử Ký đại quan thư chú" chép: - "Nam Đâu có sáu sao, ở hướng Nam".
* "Tinh kinh" (kinh về sao) chép: - "Nam Đâu có sáu sao, chủ về nhận lệnh của vua, lại chủ về tuoc lộc Tể Tướng".
* Sách "Hồn thiên phú" của Dương Quỳnh chép: - "Nam chủ đầu về tuoc lộc, còn Đông bích thì chủ về văn chương".
* Sao Nam Cực còn gọi là "Thọ Tinh" (sao chủ về tuổi thọ), "Lão nhân tinh", "Nam cực lão nhân tinh" hay "Nam cực lão nhân".
* Sách "Sử ký phong ẩn thiền sách thư" chép: - "Thọ tinh là Nam cực lão nhân tinh", thờ cúng vị ấy để cầu phước thọ ".
* Sách "Hậu Hán thu thiên chí" chép: - "Sao Lão nhân còn gọi là sao Nam cực".
* Sách "Sử ký quan thiên thư" chép: - "Có sao lớn hình sói con giống, gọi là sao Nam cực lão nhân".
* Nhà thơ Đỗ Phủ có hai câu thơ: --
- "Nam cực lão nhân tự hữu tinh,
Bắc sơn di văn minh thùy Lặc "
(lão già nam cực có tên sao, bài văn ở núi bắc thì ai khắc)
* Nam Đâu có sáu sao, sao nam cực là một sao nằm ở giữa, chủ về phước thọ. Còn "Nam Cực Tiên Ông" lại là vị thần chủ về phước thọ, để ám chỉ sự sống lâu của người con. Đó không phải là Nam đầu tinh, cũng không phải để chỉ sao Nam cực.
* Sao Nam đầu hay sao Nam cực chỉ là yếu tố tự nhiên, nhưng tin tưởng dân gian mới ghép gan với việc các sao ấy có quyền lực siêu nhiên về quyết định vận mệnh của loài người, trở thành việc sùng bái vị "Thọ thần ".
* Nhược Thủy dịch
(từ http://www.fushantang.com) 
71.TIÊN THIÊN TÔN THẦN
THÁI AT CỨU KHỔ THIÊN TÔN.
THÁI ẤT CỨU KHỔ THIÊN TÔN
 * Thái Ất Cứu Khổ (Hộ) Thiên Tôn hay "Tầm Thanh Cứu Khổ Thiên Tôn", "Thập Phương Cứu Khổ Thiên Tôn", gọi tắt là "Cứu Khổ Thiên Tôn".
* Theo truyền thuyết cho rằng Ngài là một trong hai vị thị giả của Ngọc Hoàng Đại Đế, trợ giúp cho Ngọc Đế thống Ngự muôn loài.
Đạo Gia thì cho rằng, Ngài là hóa thân của Thanh Huyền Thượng Đế, phát các cứu giúp tất cả chúng sinh, nên hóa thân thành Cứu Khổ Thiên Tôn để giúp đời.
* Theo "Thái Ất Cứu Khổ Hộ Thân Diệu Kinh" nói: - "Ở thế giới Trường Lạc về phương Đông có một vị đại nhân đại từ tên là Thái Ất Cứu Khổ Thiên Tôn, hóa thân của Ngài nhiều như số cát sông Hằng , cứu liền nghe tiếng Hoặc trụ. ở thiên cung, hoặc giáng xuống nhân gian, hoặc ở địa ngục, hoặc lan vào đám đông, hoặc hiện Kim Đồng Ngọc Nữ, hoặc hiện Đế Quân, Thánh Nhân, hoặc làm Thiên Tôn Chân Nhân , hoặc làm Kim Cang Thần Vương, hoặc làm Ma Vương Lực Sĩ, hoặc làm Thiên Sư Đạo Sĩ, hoặc làm Huỳnh Nhân Lão Quân, hoặc làm Thiên Y Công Tạo, hoặc hiện thân nam thân nữ, hoặc làm quan văn quan võ, hoặc làm Đô Đại Nguyên Soài Rạp, hoặc làm Pháp Sư Thiền Sư, hoặc làm Thần Mưa Thần Gió ... Thần thông vô lượng, công hạnh vô cùng, tầm thanh cứu khổ, ứng biến tùy duyên ".
* Vị Thánh nay ở trời gọi là Thái Nhất Phước Thần ", ở thế gian xưng là Đại Từ Đại Bi, ở địa ngục tôn làm Nhật Diệu Đế Quân; ngoại đạo tiếp thu xưng là Sư Tử Minh Vương, ở thủy phủ xưng là Động Châu Đế Quân "Khi gặp khó khăn tai nạn., chỉ cần xưng danh hiệu hay cầu nguyện Ngài là có thể" giải lo trừ nạn, biến hung thành cát ", tu theo Ngài có thể đạt công thành quả mãn, giữa ban ngày sanh lên cõi trời.
* Hình tượng thờ Phụng Ngài, theo sách "Đạo Giáo Linh Nghiệm Ký" nói: - "... ngồi ngay thẳng trên đóa hoa sen, chung quanh có sư tử chín đầu miệng phun lửa hỏa Diệm, tỏa ra khắp bảo tỏa, trên đầu ngài có hào quang chín sắc, phóng ra ánh sáng đập muo, rất nhiều Chân Nhân, Lực Sĩ, Kim Cang Thần Vương, Kim Đồng Ngọc Nữ hầu hạ xung quanh. "
* Ngày Đản thần của Ngài là mười một tháng mười một âm lịch.
* Còn truyền thuyết dân gian ghi trong "Bát Độ Huyết Hồ Bảo Thiên" thì nói là "mây lành che phủ thân Ngài".
* Trong "Thanh Huyền Tể Luyện Thiết Quán Thi Tự Toàn Tập" thì nói Ngài "... mình ngồi trên sư tử chín đầu, tay cầm nhánh dương liễu, quỳnh rầy nước tương hộ cứu sống còn để chúng sinh, độ hồn người vong roi chết "Có bài. thơ: --
"Đông Cực Thanh Hoa Diệu Nghiêm Cung,
Tử vụ hà quang triệt thái không
Thiên đóa liên hoa ánh bảo tỏa,
Cửu đầu sư tử xuất vân trung.
Nam Cực đan đài khai bảo cấp
Bắc Đô huyền cấm phá la phong
Duy nguyện thùy quang lai cứu hộ
Chúng đẳng khe Thủ Lệ từ dung
Thị thực công đức bất tư nghi
Cô hồn trệ Phách tảo siêu thăng "
* Dịch: --
(Ngài) Ở trong cung Đông Cực Thanh Hoa Diệu Nghiêm,
Rang tim mong chơi sáng rọi khắp cả hư không
Ngàn đóa hoa sen tỏa sáng xung quanh bảo Tọa (của Ngài)
(ngồi) Trên sư tử chín đầu bay ra khỏi mây.
Nơi đài đỏ phương Nam mở ra quí sách hôm
Kinh đô phía Bắc trong cung cấm huyền diệu phá trừ tai ách
Ban bố công đức không thể nghĩ bàn
Giúp cho những cô hồn và kẻ mê muội được siêu thăng
* CHỨC NĂNG VÀ VIỆC THỜ PHỤNG: --

 Trong sách "Thái Thượng Tam Động Biểu Văn" nêu lên có chín vị Thiên Tôn là: --
1.-Thái Ất Cứu Khổ Thiên Tôn,
2.-Thập Phương Cứu Khổ Thiên Tôn, 
3.-Cửu U Bát Tội Thiên Tôn,
4.-Châu Lăng Độ Mệnh Thiên Tôn, 
5.-Hoả Luyện Đan Giới Thiên Tôn, 
6.-Pháp Kiều Đại Độ Thiên Tôn,
7.-Kim Khuyết Hoá Thân Thiên Tôn, 
8.-Tiêu Dao Khoái Lạc Thiên Tôn, 
9.-Bảo Hoa Viên Mãn Thiên Tôn 
Trong đó, Thái Ất Cứu Khổ Thiên Tôn là vị đứng đầu Chức năng của Ngài là "vượt thánh vượt phẩm,. Cực từ cực ái, Ngũ trên sư tử chín đầu, tỏa sáng bài đập muôn lành xa, tiếp độ sinh linh" .
* Lại nói, khi người gặp tai ách, chỉ cần niệm danh hiệu Thái Ất Cứu Khổ Thiên Tôn, Ngài sẽ nương theo tiếng cầu mà đến cứu, giúp người giải tai trừ nạn, chuyển rủi thành có thể.
-Đối với những người tu hành, suốt đời làm thiện, tu pháp giải thoát huyền diệu Tiên gia, khi công thành quả mãn sẽ được Ngài "Ngự tỏa trên sư tử chín đầu, bài sáng đập muôn lành xa" dẫn đến sanh tiếp lên cõi trời.
* Các Đạo Quán của Đạo Giáo đều có Điện Thái Ất để thờ Ngài, hoặc tạo tượng Thái Ất Cứu Khổ Thiên Tôn ngồi trên sư tử chín đầu, hoặc bài vị Ngài.
* Trọng Đạo Giáo, ba tiết Thượng, Trung, Hạ Nguyên, hoặc khi tổ chức Đạo Tràng cầu siêu độ cho vong linh, làm thành đại lễ, cúng tế rất trọng thể.
* Từ đời Tống, Nguyên, những khoa nghi cúng tế Thái Ất Cứu Khổ Thiên Tôn xuất hiện rất nhiều, như: --
- "Thái Ất Cứu Khổ Thiên Tôn Thuyết Bát Độ Huyết Hồ Bảo Thiên" 
- "Linh Bảo Luyện Độ"
- "Cửu U Đăng Nghi"
Trong những khoa nghi đó, ngoài chức năng tiếp dẫn chúng sinh, Thái Ất Cứu Khổ Thiên Tôn còn có phép "thủy hỏa giao luyện" cứu độ vong hồn, các diệu pháp giải trừ nạn đóa vào Huyết Bồn, sa vào địa ngục của chúng sinh.
* Thái Ất Cứu Khổ Thiên Tôn hóa hiện cứu độ mười phương nên được tôn xưng là Thập Phương Cứu Khổ Thiên Tôn.
* Trong "Thập Phương Cáo Giản toàn tập" có nói đến chức năng của Thập Phương Cứu Khổ Thiên Tôn là: 
1/-Hóa thân ở phương Đông, gọi là Bảo Ngọc Hoàng Thượng Thiên Tôn, "ở ngôi cung Chấn, cư Mao vị, cai quản địa ngục Phong Lôi, dùng sấm sét để trị tôi, người làm lành được siêu thăng, kẻ làm ác bị tiêu tan thân xác nơi đen tối, xét xử rất công bằng.
2 / - Hóa thân ở phương Nam, gọi là Huyền Chân Vạn Dũng Thiên Tôn, "ở ngôi cung Lý, cư Ngọ vị, cai quản địa ngục Hỏa Y, dùng lửa thiêu đốt kẻ ác, giam giữ ở cõi u minh, chịu cảnh biển khổ mênh mang, nếu không có chút duyên lành dời trước, thì không sao thoát khỏi cảnh khổ sở nơi địa ngục này.
3 / - Hóa thân ở phương Tây, gọi là Thái Diệu Điệt Cực Thiên Tôn, "ở ngôi cung đoái, cư Dậu vị, cai quản địa ngục Kim Cương, dùng phương tiện cứng rắn đập thân thể nát như, xét tội lỗi không sai sót chân tơ kẻ tóc, tìm ra công đức đã làm từ nhiều đời kiếp, cho người lành thăng thiên, kẻ dữ bị đóa.
4 / - Hóa thân ở phương Bắc, gọi là Huyền Thượng Ngọc Cao Thiên Tôn, ở ngôi cung Kham, cư Tý vị, cai quản địa ngục Bánh Lãnh, dùng băng tuyết để lấp thân người, bốn bên thành lũy bằng sắt, không có cửa ra, trên có cắm guom bén, chỉ nhìn cũng đủ sợ, những chúng gây tạo tội lỗi bị hình phạt nơi đây khó mà ra khỏi.
5 / - Hóa thân ở phương Đông Bắc, gọi là Độ Tiên Thượng Thánh Thiên Tôn, ở ngôi cung Cấn, cư Sửu vị, cai quản địa ngục Hoạch Thắng, dùng pháp hầm nấu để chạy chúng, những kẻ Bường trôi theo thất tình lục dục, nào tránh khỏi sự phản ánh của Gương soi nghiệp, thân thể tứ chi, bị thọ khổ đao bay bấm Chém, phán quyết việc tử sanh, thiện ác báo ứng phân minh.
6/-Hóa thân ở phương Đông Nam, gọi là Hiếu Sinh Độ Mạng Thiên Tôn, ở ngôi cung Tốn, cư U Phủ (phủ tối tầm), cai quản địa ngục Đồng Trụ, dùng pháp cháy thân để trị tội, phán xét thiện ác, rõ ràng vô tư như nhật nguyệt, phê cho tên họ, sao cho tránh khỏi sấm gió, chúng sinh mê muội, làm sao thoát khỏi lục đạo luân hồi.
7 / - Hóa thân ở phương Nam, gọi là Thái Linh Hư Hoàng Thiên Tôn, ở ngôi cung Khôn, cư Tuyền Khúc (đoạn suối), cai quản địa ngục Đồ Cát, dùng hình phạt đao cắt thân thể, không thiên lệch không tư vị, xét tội kiếp nhiều đời, khó cai khó xin, chuyển thế sanh tử, xác định công đức.
8 / - Hóa thân ở phương Bắc, gọi là Vô Lượng Thái Hòa Thiên Tôn, ở ngôi cung có thể, cư Âm Phủ, cai quản địa ngục Hỏa Xa, dùng hình phạt xe cán thây để trị tội, công tội định phân, vô tư minh xét, cho người đi lên hay đi xuống, cầm cân nay mực, không riêng không cong, chẳng thuận chẳng nghịch.
9 / - Hóa thân ở phương Trên, gọi là Ngọc Hư Minh Hoàng Thiên Tôn, hình tướng hợp với gốc có thể (trời), đức rộng khắp đất, cai quản địa ngục Phổ Kinh, dùng uy quyền để lớn mà việc xét, ba trăm sáu mươi ngày không nai trễ, mọi việc chơi không, một trăm lẻ tám địa ngục tuần tra, người người kính nè, xét kỹ tội nghiệp nhiều đời trước, nay đem xử lại, cho luân hồi chín địa, bắt vào ra ba đường. 
10 / - Hóa thân ở phương Dưới, gọi là Chân Hoàng Động Thần Thiên Tôn, ở ngôi U Đô, danh trên mười vua, cai quản Phủ La Phong, quyền hành thẩm tra luật lệ, có sanh lại có tử, phân định rõ ràng mà thi hành, không phe lệch không, khảo xét ba cõi u minh, ngày trước đã làm, nay sao thoát khỏi.
* Trên là nói chức năng của Thiên Tôn ở mười phương, thể hiện quyền hạn của Địa Phủ Minh Vương Nay nói. Đến việc quản lý Quỷ Thần ở Cửu U Tuyền Khúc Minh Phủ Cũng hóa sanh thành. Minh Vương Chân Quân, phương vị , nơi cư ngụ và ngày Đản thần như sau: --
1 / - Ở phương Đông, gọi là Nhất điện Thái Tố Diệu Nghiêm Chân Quân Tần Nghiêm Đại Vương, cư Huyền Minh Cung, Đản thần ngày mùng một hai tháng.
2 / - Ở phương Nam, gọi là Nhị điện Âm Đức Định Hưu Chân Quân Sở Giang Đại Vương, cư Phổ Minh Cung, Đản thần ngày mùng một ba tháng.
3 / - Ở phương Tây, gọi là Tam điện Động Minh Phổ Tĩnh Chân Quân Tống Đế Đại Vương, cư Củ Tập Cung, Đản thần ngày mùng tám tháng hai.
4 / - Ở phương Bắc, gọi là Tứ điện Huyền Đức Ngũ Linh Chân Quân Ngũ Quan Đại Vương, cư Thái Hòa Cung, Đản thần ngày mười tám tháng hai.
5 / - Ở phương Đông Bắc, gọi là Ngũ điện Tối Tạng Diệu Linh Kỳ Quân Diêm La Đại Vương, cư Củ Luân Cung, Đản thần ngày mùng tám tháng Giêng.
6 / - Ở phương Đông Nam, gọi là Lục điện Bảo Túc Chiêu Thành Chân Quân, cư Minh Thần Cung, Đản thần ngày mùng tám tháng ba. 
7 / - Ở phương Tây Nam, gọi là Thất điện Đẳng Quan Minh Lý Chân Quân Thái Sơn Đại Vương, cư Thần Hoa Cung, Đản thần ngày hai mươi bảy tháng ba.
8 / - Ở phương Tây Bắc, gọi là Bát điện Phi Ma Diễn Khánh Chân Quân Đô Thị Đại Vương, cư Bích Chân Cung, Đản thần ngày mùng một tháng tư.
(Sách "Thập Vương Cáo Bốc" nói là điện thứ chín, còn điện thứ tám là Bình Đẳng Vương, nhưng xét ý tứ không hợp, nên chỉnh lại như trên).
9 / - Ở phương trên, gọi là Cửu điện Vô Thượng Chính Độ Chân Quân Bình Đẳng Đại Vương, cư Thất Phi Cung, Đản thần ngày mùng tám tháng tư.
10 / - Ở phương dưới, gọi là Thập điện Ngũ Hoa Uy Linh Chân Quân Chuyển Luân Đại Vương, cư Túc Anh Cung, Đản thần ngày hai mươi bảy tháng tư.
* Tài liệu tham khảo:
"Thái Thượng Tam Động Biểu Văn", 
"Thái Nhất Cứu Khổ Hộ Thân Kinh", 
"Thái Ất Cứu Khổ Thiên Tôn Thuyết Bát Độ Huyết Hồ Bảo Sám" 
* Nhược Thủy dịch 
(từ http://www.taoism.org.hk).
72. TIÊN THIÊN TÔN THẦN
Đông Vương Công
(Lần đầu Thiên Tôn Đức Chúa Trời)
Đông hoàng tử .

TIÊN THIÊN TÔN THẦN
Đông Vương Công
* Đông Vương Công còn gọi là Mộc Công, Đông Vương Phụ, Phù Tang Đại Đế, Đông Hòa Đế Quân. 
-Khởi đầu, là một vị nam thần của thần thoại Trung Quốc, về sau Đạo Giáo nâng lên thành lãnh tụ của tất cả nam thần, hai tông phái Đạo Giáo phương Nam và phương Bắc đều tôn Ngài làm Thủy Tổ.
* Danh xưng Đông Vương Công xuất hiện sau Tây Vương Mẫu khoảng vài thế kỷ Trọng ". Hán Thượng Phương Ký Minh" đã có nêu tên Ngài nhưng chưa có sự tích rõ ràng. Là sớm nhất trong "Thần Kinh Dị" mới nói về sự tích của Ngài Đông Vương Công.
-Về quyển sách này, ghi tên tác giả là Đông Phương Sóc. Nhưng trong quyển "Tứ khố Toàn Thư Tổng Mục - 142 quyển" lại nói: - "Sách nay theo Lưu Hướng trong Thất Lược không thấy ghi tên, có lẽ làm đời sau mượn danh "Trọng Tấn. Thư cũng không thấy ghi tên Thần Kinh Dị Tóm lại,. sách ghi tên tác giả Đông Phương Sóc, người chú giải là Trương Hòa, là thực sự làm các văn sĩ đời Lục Triều viết mà thôi.
* Sách nay mô phỏng theo "Sơn Hải Kinh" để phân chia khu vực thành ra "Đông Kinh Hoàng", "Đông Nam Hoàng Kinh" làm thành chín thiên Trọng Đông. Hoàng Kinh nói: - "Đông Vương Công ở trong thạch thất lớn núi Đông Hoàng Ngài cao một trường,. đầu tóc bạc phố, thân người, mặt chim mà đuôi cọp, bên cạnh có một con gấu đen, đi đâu cũng theo Thường cùng. Ngọc Nữ chơi "nem hồ", mỗi lần nem đến một ngàn hai trăm lần, người cho là mạnh mẽ, có lúc lại nem giả bộ (đùa) nên không đón tiếp (quả hồ), lấy đó làm trò cười ".
- "Trung Hoàng Kinh" nói: - "Núi Côn Lớn có trụ đồng, cao ngất trời, nên nói rằng" trụ chống trời "Chu vi. Ba Ngan dam, nhìn cao chót VOT Dưới có. Thạch thất, vuông trăm trường, chín phủ tiên nhân ở đây Trên có. con chim lớn, gọi là "Hi Hữu", đầu quay về Nam Giang cánh trái che. Đông Vương Công, Giang cánh phải che Tây Vương Mẫu. Trên lưng có một chỗ nhỏ không có lông vũ, đập rộng một vạn chín trăm Tây Vương Mẫu. leo lên cánh mà đến với Đông Vương Công ".
-Danh xưng Đông Vương Công xuất hiện, có liên quan mật thiết den văn hóa Trung Quốc Theo quan. Niệm âm dương, ngũ hành của Trung Quốc, khi đã có vị thần thuộc âm, tất phải có vị thần thuộc dương Nữ thần. là Tây Vương Mẫu, phương Tây thuộc kim, nên gọi là Kim Mẫu Đối đãi. lại, nam thần phải xưng là Đông Vương Công, phương Đông thuộc mộc, nên xưng là Mộc Công Còn về văn hóa phối hợp thì. Tây Vương Mẫu là phối ngẫu của Đông Vương Công vậy.
-Từ đó, khi nói về Tây Vương Mẫu, tất phải đề cao Đông Vương Công, xếp Ngài ở trước Vương Mẫu Sở dĩ có chuyện đến sau mà ở trước,. Là vì phải theo tôn ti tự trát của văn hóa Trung Quốc và tinh thần trọng nam Khinh nữ làm chủ đạo.
* Sách "Hải nội thập châu ký" (ghi tác giả là "Đông Phương Sóc") nói: --
"Ở cõi Phù Tang về bờ phía Đông của Đông Hải, trong" biển Biec "có đập trăm địa phương, có trên cung Đại Đế, do Ngài Thái Chân Đông Phụ Vương trị vì ở đó" Từ đó., Phù Tang có liên quan đến Đông Vương Công, trở thành trú xứ của Ngài. Điều nay giống như núi Côn Lớn có liên quan đến Tây Vương Mẫu, trở thành nơi cư ngụ của Bà Đông Vương. Công làm vậy cũng có tên là Phù Tang Đại Đế.
* Cũng đồng quan điểm như trên, trong quyển "Nguyên Thuỷ Thượng Chân Tiên Chúng Ký" phần phụ đề Chăm Trưng Thư của Cát Hồng nói: - "Khi chưa phân lưỡng nghi (âm dương), trời đất còn hỗn độn, đã có Nguyên Thủy Thiên Vương Khi đã. phân âm dương, Nguyên Thủy Thiên Vương tinh thông khí kết cùng Thái Nguyên Thánh Mẫu, sanh ra "Phù Tang Đại Đế Đông Vương Công, hiệu là Nguyễn Dương Phụ (cha nguyên dương), kế đó mới sanh ra Tây Vương Mẫu "Các Tiên thì ba ngày chầu Phù Tang Công., ba ngày chầu Tây Vương Mẫu" Lại nói.: - [Phù Tang Đại Đế là khí nguyên dương, trị vì phương Đông, nên đời gọi con trai của vua chúa là "Đông cung"].
* Phù Tang Đại Đế cư nơi Bích Hải (biển Biec), bốn bề cuộc đất ba Ngan dam vuông, trên đó có Cung Thái Chân ... tiên chúng vô lượng vô số, các vị Huyền Châu, Phương Trường chưa lên trời ở tại đó Cũng giống như nói về Tây. Vương Mẫu, những "sự tích" về Đông Vương Công có rất nhiều, không biết được đúng sai ra sao cả.
-Theo "Thượng Thanh Huyền Kỷ Thất Thánh Kinh" phần "Phù Tang Đại Đế Quân" nói Ngài là một người có vị trí rất cao trong bảy vị Thánh Phái Thượng Thanh xuất hiện vào thời kỳ. Tùy Đường của Nam Bắc Triều. Sách nay hiện nay bị thất lạc, chưa tìm thấy.
-Trọng "Thái Bình Nghiêm Ký" quyển một phần "Nói về Mộc Công", phần cuối có đề cập đến Vân Tiên Thập Vị. Sách này không biết tên tác giả, được sách Tục Sự Thủy, đời Đường, trích dẫn như sau : - "Mộc Công, tức là Đông Vương Phụ hay Đông Vương Công, là nguyên khí thuần thanh, có trước muôn vật, đầu đội mạo Tam Duy, mặc y phục bằng mây màu răng chín, cũng có hiệu là Ngọc Hoàng Quân. Hưng nam nữ đắc đạo, được lập danh sách ở đó Hồi đầu. nhà Hán, trẻ con thường phổ biến bài hát "mặc quần áo xanh, vào thiên môn, ra mắt Kim Mẫu, bái Mộc Công Lạy" Cho nên. Sau này , khi có người đắc đạo, đời thường nói là "được gặp Kim mẫu, lễ Lạy Mộc Công" là do sự tích này.
-Theo sách "Tam Giáo sưu thần đại toàn" của Tăng Toản cuối đời Nguyên đầu nhà Minh, một quyển nói về Đông Hòa Đế Quân, viết: - "Khi đạo khí ngưng lại động, liền sanh ra Mộc Công, nơi cư biển Đây là Biec. khí thuần dương ở Đông phương, gọi là Đông Vương Công, cùng với Tây Vương Mẫu sanh ra trời đất, nuôi lớn muôn vật. Phạm mười phương trong trời đất nam nữ có đăng tiên, đều làm hai vị duyệt nay xét ".
* Sáu lại nói, "khảo cứu theo sách trước, nói là ... hiệu Đông Vương Công, hay Thanh Đồng Quân, Đông Phương Gia hoặc Thanh Đề Đế Quân (có lẽ là Thanh Đồng, làm nhầm chép, người dẫn chú giải). Danh hiệu tuy nhiều, nhưng cũng chỉ là một vị Đông Hòa thôi Vua phong. chức "Đông Hòa Dương Tử Phủ Thiếu Đế Quân" vào tháng Giêng năm Điệt Nguyên thứ sáu.
* Qua các sử liệu nêu trên, chúng ta thấy là các đạo sĩ đã dùng rất nhiều danh hiệu để nói về Đông Vương Công Cuối cùng., Sự tích được chấp nhận vào đời Nguyên là: - "Sự tích về Đông Vương Công ra đời sau sự tích Tây Vương Mẫu Ngài xuất hiện làm người phối ngẫu cho Tây Vương Mẫu,. để hoàn chỉnh vấn đề: - Tây Vương Mẫu là lãnh tụ của nữ thần, Đông Vương Công là lãnh tụ của nam thần.
* Xét lịch sử thì thấy, thời nhà Đường và Bắc Tống, trong danh sách các Thần của đạo sĩ, không có tên Đông Vương Công Đến đời Nam Tống mới. Đưa vào danh sách, đứng trước Tây Vương Mẫu. 
Trong một khoa nghi quan trọng thời Nam Tống là "Kỳ tự bái chương đại tiêu nghi", có thần thỉnh danh sách, Đông Vương Công đứng thứ mười chín với tên là "Đông Hòa Mộc Công Đạo Quân".
-Đến khi Kim Doãn viết sách "Tán đàn thiết tiêu phẩm thượng" trong ba trăm sáu mươi vị thần liệt kê, Đông Vương Công được nâng lên vị trí thứ mười, với tên "Đông Hòa Thượng Tướng Mộc Công Thành Đồng Đế Quân" .
-Đến Lữ Nguyên Tố trong "Huỳnh Lục La Thiên nhất thiên nhị bách phân vị" thời Nam Tống, quyển thứ ba là "Đạo Môn định chế" chín xếp hạng mục thần thỉnh, trong đó có tên "Thủy Phủ Phù Tang Đại Đế "là vị đứng đầu thủy phủ.
-Cho dù, Đông Vương Công xuất hiện sau Tây Vương Mẫu, nhưng vì Ngài là nam tính, nên phải xếp địa vị cao hơn Ngài Tây Vương Mẫu, cho đúng với truyền thống "trọng nam nữ Khinh" thời bây giờ Việc nay. xay ra vào lúc hai tông phái Nam, Bắc Đạo Giáo hợp nhất thời nhà Nguyễn, tranh nhau chọn tướng Tổ nâng, cuối cùng nhất trí chọn Đông Vương Công làm "Tổ Sư" chung cho hai tông.
-Đạo Sĩ Tần Chí An đời Nguyên viết một quyển sách trong bộ "Kim Liên Chánh Tông Ký" nói về Đông Hòa Đế Quân: --
"Đến chỗ toàn chân của đạo, có sự nhen nhúm gầy dựng lâu dài Từ bậc. Cao nhất nói là Kim Mẫu, kế thay bằng Bạch Vân, rồi nay bằng Đế Quân" Đế Quân. Ở đây là chỉ cho Đông Hòa Đế Quân , tức Đông Vương Công Lại nói tiếp:. - "Đế Quân họ Vương, tự Huyền Phù, đạo hiệu là Đông Hòa Tử", Ngài đã "trải qua trăm ngàn đời mà dung nhan vẫn không già bị Ngài xiên. dương tông huyền , phát huy lẽ ảo diệu sâu kín, giúp đời cứu vật, đức sâu lớn như trời, nên thiên chân ban hiệu là Đông Hoa Đế Quân, còn gọi là Tứ Phủ Thiếu Dương Quân Ngài đã truyền thụ cho học trò là. Chính Dương Chân Nhân Chung Nhữu Phòng (Chung Nhữu Quyền) "Vì muốn đề cao phái Toàn Chân,. nên chỉ dựa vào một sự tích nhỏ rồi phóng đại thành chuyện lớn, để rồi phái Toàn Chân tôn Ngài làm" Đệ Nhất Tổ "vậy.
-Như vậy, Tần Chí An cho Đông Hòa Đế Quân (Đông Vương Công) một cái tên thế tục là Huyền Phù, tôn lên làm Đệ Nhất Tổ của Toàn Chân Giáo Ngài là. Thầy của nhân vật đời Hán là Chung Nhữu Quyền.
-Kế đến sách "Kim Liên Chính Tông Tượng Vân" đã sửa đổi lại tiểu sử Ngài là: - "Đế Quân họ Vương, không biết tên, sanh vào đời nào ở đâu không biết Ngài đắc. Đạo Thái Thượng, ẩn núi Côn Lớn, hiệu là Đông Hoa Đế Quân, sau dời qua Ngũ Đài Sơn, động Tử Phủ, hoặc xưng là Tử Phủ Thiếu Dương Quân Sáu dời lại đến Chung Nam Sơn,. động ngưng Dương, dạy đạo cho Chung Nhữu Quyền " 
* Một truyền thuyết khác, trong sách "Vân Tiên Thập Vị" nói: - "Đế Quân là nguyên khí thuần dương, có trước muôn thần. Ở Cư cung Thái Thần có làm tía lộng mây che phủ, mây xanh bao quanh làm thành , đã dạy làm cho muôn ức người thành tiên, cho nên các Tiên tôn Ngài làm Lão Quân.
Nói là họ Vương, để nêu lên tính tôn quí cao thượng của Ngài, chứ không phải là họ tộc thế gian, phải hiểu chỗ tinh tế đó ".
- Vua Nguyên Thế Tổ phong là hiệu: - "Đông Hòa Dương Tử Phủ Thiếu Đế Quân".
- Vua Vũ Đế gia phong làm "Đông Hòa Tử Phủ Phụ Nguyên Lập Cực Đại Đế Quân".
* Khả Đạo Xung trong "Huyền Giáo Đại Công Án" nói: - "Việc thống lãnh Đạo giáo, đến nau đã lâu Trước kia., Đức Lão Tử Đạo Đức Kinh đem giao cho Doãn Hi, mười đệ tử của Doãn Hi đều đượ chỗ kỳ diệu, nên trước sau nối nhau làm Tổ Nay,. Đế Quân ở Kim Khuyết tiếp theo thống lãnh, truyền cho Đông Hòa Đế Quân, Đế Quân truyền cho Chung Nhữu Tiên Quân, Chung Nhữu truyền cho Thuần Dương Tiên Lữ Quân. "
* Đạo giáo ở đời Lữ Hậu chia ra làm hai tông Nam, Bắc Nguyện Đặng. Kỳ trong "Đạo Đức Kinh Chân Tâm Giải-Đại Đạo Chính Thống" nói khác chút ít: - "Nguyên Thủy Thiên Tôn tiếp truyền cho Lão Tử, đến An Sinh Kỳ, rồi Hoa Dương Chân Nhân, truyền tiếp Dươgn Chân Nhân Chính Chung nhữu Quyền, Thuần Dương Chân Nhân Lữ Thì Nhậm, Hải Thiêm Chân Nhân Lưu Huyền Anh Sáu phân. Nam, Bắc "Ở đây., Đông Hòa Đế Quân Vương Huyền Phủ biến thành Hoa Dương Chân Nhân, thực tế là đều nói đến Đông Vương Công.
* Cho dù Đông Vương Công có đến sau mà ở trên, địa vị cao hơn Tây Vương Mẫu đi nữa, ảnh hưởng của Ngài đối với dân gian vẫn không lâu dài bằng Tây Vương Mẫu.
Ngoại trừ trong các quán có đạo thờ cúng hình tượng Đông Vương Công ra, trong dân gian rất ít người biết đến Ngài Nếu có. Thì họ lại biết theo thần thoại sau: --
"Đông Vương Công còn gọi là Mộc Công, vốn tên là Nghê, tự là Quân Minh. 
Lúc thế giới chưa có loài người trở về trước Ông đã hoá sanh ở trên. Bích Hải (biển xanh) mênh mang hoang vắng Tính tình ông trầm tĩnh, tâm linh thông suốt, tuy. Bề ngoài vô tác vô vi, trên thực tế ngược lại có thể giúp đỡ tạo hoá, dẫn dắt vạn vật Ông ta làm chủ dương khí trên thế gian trấn ở Đông phương.. Do đó có hiệu là Đông Vương Công Phạm tất cả nam nữ thành tiên đắc đạo trên trên trời,. đất, đều ở trong sự quản lý của ông Ông thường. vào ngày Đinh Mao lên đài trông tình hình tu tiên đắc đạo ở mọi nơi trên thế gian, phân định làm chín phẩm: --
Nhất phẩm là Cửu Thiên Chân Hoàng 
Nhị phẩm là Tam Thiên Chân Hoàng. 
Tam phẩm là Thái Thượng Chân Nhân. 
Tứ phẩm là Phi Thiên Chân Nhân. 
Ngũ phẩm là Trung Linh Tiên. 
Lục phẩm là Chân Nhân. 
Thất phẩm là Linh Nhân. 
Bát phẩm là Phi Tiên. 
Cửu phẩm là Tiên Nhân. 
Các vị tiên này ngày sau thành đạo lên trời đều phải trước bái Vương Công Đông (Mộc Công) Sau đó. Bái yết Tây Vương Mẫu (Kim Mẫu), lễ rồi sau lay, mới có thể thăng tiên lên Cửu Thiên, vào Tam Thanh, tham lễ Thái Thượng Lão Quân mà gặp Nguyên Thuỷ Thiên Quân. "
* Nhược Thủy dịch
(Nguyên tác: - Trung Quốc tôn giáo thần minh-Thẩm Bình Sơn)
    * Tài liệu tham khảo: --
"Tứ Kho Toàn Thư Tổng Mục"
"Thần Kinh Dị"
"Bút Ký Tiểu Thuyết Đại Quan"
"Hoàng Đông Kinh"
"Trung Hoàng Kinh"
"Tứ Kho Toàn Thư"
"Tứ Kho Tổng Mục Đề Yếu"
"Thần Vân Tiên"
"Ngũ Nhạc Chân Hình Đồ"
"Hán Vũ Đế Vân Nội"
"Tuỳ Thư • Kinh Tịch Chí"
"Đạo Tạng"
"Thái Bình Nghiêm Ký"
"Tâm Giáo Sưu Thần Đại Toàn"
* Nguồn: -- http://www.dk101.com/Discuz/viewthread.php?extra=page% 3D1 & = 84.462 tid
Phụ lục: --
ĐÔNG VƯƠNG CÔNG
(MỘC CÔNG)
* Trong quyển "Nguyên Thuỷ Thượng Chân Tiên Chúng Ký" phần phụ đề Chăm Trưng Thư của Cát Hồng nói: - "Khi chưa phân lưỡng nghi (âm dương), trời đất còn hỗn độn, đã có Nguyên Thủy Thiên Vương Khi đã. phân âm dương, Nguyên Thủy Thiên Vương tinh thông khí kết cùng Thái Nguyên Thánh Mẫu, sanh ra "Phù Tang Đại Đế Đông Vương Công, hiệu là Nguyễn Dương Phụ (cha nguyên dương), kế đó mới sanh ra Tây Vương Mẫu." Các Tiên thì ba ngày chầu Phù Tang Công, ba ngày chầu Tây Vương Mẫu "Lại nói.: - [Phù Tang Đại Đế là khí nguyên dương, trị vì phương Đông, nên đời gọi con trai của vua chúa là" Đông cung " .
* Phù Tang Đại Đế cư nơi Bích Hải (biển Biec), bốn bề cuộc đất ba Ngan dam vuông, trên đó có Cung Thái Chân ... tiên chúng vô lượng vô số, các vị Huyền Châu, Phương Trường chưa lên trời ở tại đó Cũng giống như nói về Tây. Vương Mẫu, những "sự tích" về Đông Vương Công có rất nhiều, không biết được đúng sai ra sao cả.
-Theo "Thượng Thanh Huyền Kỷ Thất Thánh Kinh" phần "Phù Tang Đại Đế Quân" nói Ngài là một người có vị trí rất cao trong bảy vị Thánh Phái Thượng Thanh xuất hiện vào thời kỳ. Tùy Đường của Nam Bắc Triều. Sách nay hiện nay bị thất lạc, chưa tìm thấy.
-Trọng "Thái Bình Nghiêm Ký" quyển một phần "Nói về Mộc Công", phần cuối có đề cập đến Vân Tiên Thập Vị. Sách này không biết tên tác giả, được sách Tục Sự Thủy, đời Đường, trích dẫn như sau : - "Mộc Công, tức là Đông Vương Phụ hay Đông Vương Công, là nguyên khí thuần thanh, có trước muôn vật, đầu đội mạo Tam Duy, mặc y phục bằng mây màu răng chín, cũng có hiệu là Ngọc Hoàng Quân. Hưng nam nữ đắc đạo, được lập danh sách ở đó Hồi đầu. nhà Hán, trẻ con thường phổ biến bài hát "mặc quần áo xanh, vào thiên môn, ra mắt Kim Mẫu, bái Mộc Công Lạy" Cho nên. Sau này , khi có người đắc đạo, đời thường nói là "được gặp Kim mẫu, lễ Lạy Mộc Công" là do sự tích này.
-Theo sách "Tam Giáo sưu thần đại toàn" của Tăng Toản cuối đời Nguyên đầu nhà Minh, một quyển nói về Đông Hòa Đế Quân, viết: - "Khi đạo khí ngưng lại động, liền sanh ra Mộc Công, nơi cư biển Đây là Biec. khí thuần dương ở Đông phương, gọi là Đông Vương Công, cùng với Tây Vương Mẫu sanh ra trời đất, nuôi lớn muôn vật. Phạm mười phương trong trời đất nam nữ có đăng tiên, đều làm hai vị duyệt nay xét ".
* Sáu lại nói, "khảo cứu theo sách trước, nói là ... hiệu Đông Vương Công, hay Thanh Đồng Quân, Đông Phương Gia hoặc Thanh Đề Đế Quân (có lẽ là Thanh Đồng, làm nhầm chép, người dẫn chú giải). Danh hiệu tuy nhiều, nhưng cũng chỉ là một vị Đông Hòa thôi Vua phong. chức "Đông Hòa Dương Tử Phủ Thiếu Đế Quân" vào tháng Giêng năm Điệt Nguyên thứ sáu.

* Qua các sử liệu nêu trên, chúng ta thấy là các đạo sĩ đã dùng rất nhiều danh hiệu để nói về Đông Vương Công Cuối cùng., Sự tích được chấp nhận vào đời Nguyên là:
"Đông Vương Công còn gọi là Mộc Công, vốn tên là Nghê, tự là Quân Minh. 
Lúc thế giới chưa có loài người trở về trước Ông đã hoá sanh ở trên. Bích Hải (biển xanh) mênh mang hoang vắng Tính tình ông trầm tĩnh, tâm linh thông suốt, tuy. Bề ngoài vô tác vô vi, trên thực tế ngược lại có thể giúp đỡ tạo hoá, dẫn dắt vạn vật Ông ta làm chủ dương khí trên thế gian trấn ở Đông phương.. Do đó có hiệu là Đông Vương Công Phạm tất cả nam nữ thành tiên đắc đạo trên trên trời,. đất, đều ở trong sự quản lý của ông Ông thường. vào ngày Đinh Mao lên đài trông tình hình tu tiên đắc đạo ở mọi nơi trên thế gian, phân định làm chín phẩm: --
Nhất phẩm là Cửu Thiên Chân Hoàng 
Nhị phẩm là Tam Thiên Chân Hoàng. 
Tam phẩm là Thái Thượng Chân Nhân. 
Tứ phẩm là Phi Thiên Chân Nhân. 
Ngũ phẩm là Trung Linh Tiên. 
Lục phẩm là Chân Nhân. 
Thất phẩm là Linh Nhân. 
Bát phẩm là Phi Tiên. 
Cửu phẩm là Tiên Nhân. 
Các vị tiên này ngày sau thành đạo lên trời đều phải trước bái Vương Công Đông (Mộc Công) Sau đó. Bái yết Tây Vương Mẫu (Kim Mẫu), lễ rồi sau lay, mới có thể thăng tiên lên Cửu Thiên, vào Tam Thanh, tham lễ Thái Thượng Lão Quân mà gặp Nguyên Thuỷ Thiên Quân.
* Năm đầu Triều Hán có một đám trẻ con ở trên đường vừa chơi vừa hát một bài đồng dao: "Mặc quần xanh, lên cửa trời, chào Kim Mẫu, bái Mộc Công". Thời ấy chưa có người nghe hiểu được ý nghĩa trong bài đó, chỉ có Trương Lương nghe hiểu được ben hướng về đám trẻ con lễ Lạy Đồng thời. bảo người bên cạnh nói: "Đám trẻ con này là Ngọc Đồng của Đông Vương Công".
Tây là hướng mặt trời lặn, đó là nơi khí Âm thanh dần nên thuộc Nữ phái; đối lại chữ Đông là hướng mặt trời mọc, khí Dương Thành dần nên thuộc Nam phái.
Nên nói ở phương Đông có Đông Vương Công, làm chủ Khí Dương; ở phương Tây có Tây Vương Mẫu làm chủ Khí Âm Đông Vương. Công còn được gọi là Mộc Công, vì theo Ngũ Hành, Mộc ở phương Đông Tây Vương Mẫu. cũng được gọi là Kim Mẫu, vì hành Kim ở phương Tây.
Đông Vương Công chính là Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế, làm chủ khí Dương quang; Tây Vương Mẫu chính là Đức Diêu Trì Kim Mẫu, làm chủ Khí Âm quang.
Theo truyền thuyết Trung Hòa, thì Tây Vương Mẫu là 1 bà lão từ bi sống trên núi Côn Luân (phía tây Trung Hoa đại lục) Bà họ. Dương tên Hồi và còn có tên là Uyển Cấm.Bà cùng chồng là Vương Công Đông ( Ngọc Hoàng Đại Đế) hòa hợp hai khí âm dương tạo ra trời đất thiên địa, họ là chủ nhân và cai quản mọi vật trên thế gian Bà cai. quản các nữ thần còn chồng bà cai quản các nam thần Trọng Tâm Thế bất. cứ ai muốn đăng thiên đắc đạo, khi lên trời đều phải bái Mộc Công (Đông Vương Công), sau bái Kim Mẫu (Tây Vương Mẫu) mới có thể lên chín tầng mây và nhập vào trong Tam Thánh.
* Nguồn: - http://vi.wikipedia.org/wiki/
74. GIỚI THIỆU CỦA THẦN TIÊN
Hệ thống Thần Tiên trong Đạo Giáo có số lượng lớn quá, càng ngày càng tăng thêm . Đứng về mặt lý luận mà nói., Các vị thần là làm "Đạo Khí sinh hóa", mà đạo khí thì vô hạn, cho nên số thần cũng sẽ vô hạn Đạo khí. hóa sanh các vị thần nhân, chân nhân vô hạn. 
-Đồng thời, người đắc đạo có thể thành Tiên, nghĩa là Tiên làm người tu thành Như vậy,. Số lượng Tiên sẽ ngày càng nhiều càng làm người tu có kết quả. Ngoài ra, người Trung Quốc có quan niệm là "người nào tạo ra nhiều công trạng đối với dân với nước thì sẽ chết thành Thần "Trong nước có rất nhiều chí sĩ nhân nhân, hiền đạt, liệt sĩ ... hoặc làm Triều đình (nay là nhà nước) hoặc làm dân gian. sùng bái tôn thờ Tất cả dần dần hợp. thành "một hệ thống thần tiên", số lượng quá nhiều mà nguyên lai không cùng một chỗ tạo ra, nên việc phân định hệ thống đẳng cấp rất khó khăn.
Trọng Đạo Giáo, rất coi trọng việc xếp hạng đẳng cấp Từ thời Đông Hán,. "Thái Bình Kinh" đã bắt đầu có sự sắp xếp thần tiên. Từ thời Ngụy Tấn Nam Bắc Triều về sau, các chi phái Đạo Giáo phát sanh ra nhiều, mỗi phái mỗi thờ Tổ Sư và tôn thần khác nhau, cho nên cái gọi là "thống nhất Đạo Giáo" là việc "khó vô cùng" Từ trước. đã có quyển "Nguyên Thủy Thượng Chân Tiên Chúng Ký" sắp xếp hệ thống thần tiên có lúc bây giờ còn tương đối ít, thế mà cũng đã có nhiều chỗ "khiển cương" (gan ép) Đến đời. Te Lương, Đào Hoằng Cảnh của phái Thượng Thanh sách viết "Chân Linh Vị Nghiệp Đồ" sách này. còn được dùng cho đến nay.
* Từ sau thời Đào Hoằng Cảnh, đội ngũ thần tiên càng gia tăng rất nhanh, không thể thống kê cho hết. Nhưng dựa vào lý luận cơ bản mà nói, chúng ta có thể nhận tạm chấp hệ thống đẳng cấp của Trung Thần Tiên Quốc theo thứ lớp sau: --
1. Tam Thanh, Tứ Ngự;
2. Nam Cực Trường Sinh Đại Đế, Đông Cực Cứu Khổ Thiên Tôn, Mộc Công Đạo Quân, Kim Mẫu Nguyên Quân và Tam Thập Nhị Thiên Đế (1);
3. Thập Thái Nhất (2), Nhật Nguyệt Ngũ Tĩnh, Bắc Đầu, Nhị Thập Bát Tú Tinh Quân;
4. Ngũ Đế, Tam Quan, Tứ Thánh;
5. L ịch đại truyền kinh trư danh pháp sư;
6. Ma Vương, Thần Vương, Tiên Quán;
7. Ngũ Nhạc và Phong Đô Địa Phủ Chư Thần;
8. Phù Tang Đại Đế và Thuỷ Phủ Chư Thần;
9. Thiên Xu Viện, Khu Tà Viện, Lôi Phủ (chủ Tể và chư thần);
10. Các vị Công Tạo, Sứ Giả, Kim Đồng, Ngọc Nữ, Hương Quân, Lại Dịch đẳng;
11. Thành Hoàng, Thổ Địa và các thần chúng thuộc sở.
* Chú thích: -- 
(1) Tam Thập nhị THIÊN ĐẾ
Tam thập nhị Thiên là 32 cõi trời. Mỗi Bốn phương phương có 8 cõi: 4 x 8 = 32 cõi trời. 
A / - Theo Đạo Giáo Trung Quốc: --
Tam Thập Nhị Thiên / Tam Thập Nhị Đế
1.-Đông Phương Bát Thiên 
Đường Huỳnh Thái Hoàng Thiên, Đế Úc Giám Ngọc Minh 
Thái Minh Ngọc Hoàn Thiên, Đế Tu A Na Điền 
Thanh Minh Hà Đồng Thiên, Đế Nguyên Dục Kinh Tế 
Huyền Thái Bình Dục Thiên, Đế Lưu Độ Nội Tiên
Nguyên Minh Văn Cử Thiên, Đế Sửu Pháp Luân 
Thượng Minh Thất Diệu Di Ma Thiên, Đế Điềm Huệ Diên
Vô Ngũ Hành Thiên Việt, Đế Chính Quang Định 
Thái Cực Mông E Thiên, Đế Khúc Dục Cửu Xương 

2.-Nam Phương Bát Thiên 
Xích Dương Thiên Minh Hoà, Cẩm Thượng Đế Lý Chân 
Huyền Minh Cung Thiên Hòa, Đế Không Đạo Sửu Âm 
Diệu Minh Tôn Phiêu Thiên, Đế Trọng Quang Minh 
Trúc Huỳnh Già Thiên Lạc, Diệu Đế Ma Di Biên 
Hư Minh Đường Diệu Thiên, Đế Một Gia Lâu Sinh 
Quán Minh Đoan Tịnh Thiên, Đế Úc Mật La Thiên 
Huyền Minh Cung Thiên Khánh, Long Đế La Bồ Đề 
Hoàn Thái Cực Đạo Thiên, Đế Uyển Nhữu Vô Diên

3.-Tây Phương Bát Thiên 
Nguyên Tải Khổng Thăng Thiên, Chân Đế Khải Định Quang 
Thái An Huỳnh Thiên Nhai, Đế Bà La Một Thám 
Hiển Định Cực Phong Thiên, Chân Đế Chiêu Đồng 
Mạng thuỷ Hoàng Hiếu Thiên, Đế Tát Lâu La Vương 
Ông Thái Hoàng Trọng Phù Dung Thiên, Đế Mân Bà Cuồng 
Vô Tư Giang Đỗ Thiên, Đế Minh Phạm Quang 
Thượng Diệp Nguyễn Lạc Thiên, Đế Bột Bột Lâm 
Vô Cực Đàm Thiên, Đế Phiêu No Khung Long 

4.-Bắc Phương Bát Thiên 
Hạo Đình Tiêu Độ Thiên, Đế Huệ Giác Hôn 
Thông tin Uyên Nguyên Động Thiên, Đế Phạm Hành Quán Sinh 
Thái Văn Han Sung Diệu Thành Thiên, Đế Na Dục Sửu Anh 
Thái Tố Lạc Tú Cẩm Thượng Thiên, Đế La Giác Long Trường
Thái Hư Vô Thượng Thường Dũng Thiên, Đế Tổng hợp Giám Quỉ Thần 
Thái Hư Ngọc Long Đằng Thánh Thiên, Diệu Diệu Đế Hành Nguyên 
Độ dài Biến Phạm Thiên, Đế Vận Thượng Huyền Huyền 
Thái Cực Bình Dục Dịch Cổ Thiên, Đế Đại Trạch Pháp Môn 

B / - Theo Phật Giáo: --
1 .- Phương Nam có tám cõi: --
Sơn phong thiên.
Sơn đỉnh thiên.
Thiện kiến thiên.
Bát tư tha thiên.
Cư sử thiên.
Tạp thiên điện.
Hoàn Hỷ viên thiên.
Quang minh thiên. 

2 .- Phương Tây có tám cõi: --
Bà lý da đa thiên.
Lý Ngạn thiên hiểm.
Cốc Ngạn thiên nhai.
Ma ni tạng thiên.
Triển hành thiên.
Kim điện thiên.
Man hình thiên.
Như huyền thiên. 

3.-Phương Bắc có tám cõi: --
Tạp trang nghiêm thiên.
Như ý thiên.
Vi tế thiên.
Cà âm Hỷ lạc thiên.
Oai đức luân thiên.
Nhựt hành thiên.
Diễm ma na ta la thiên.
Tốc hành thiên. 

4 .- Phương Đông có tám cõi: --
Ảnh thiên chiếu.
Trí huệ hành thiên.
Chúng phân thiên.
Man đà la thiên.
Thượng thiên hành.
Oai đức thiên nhan.
Oai đức Diễm luân quang thiên.
Thanh tịnh thiên. 
* Mỗi cõi có một vị Thiên Đế cai quản nên có ba mươi hai vị Thiên Đế Ở giữa. Là Trời Đế Thích cai quản.
* Hoặc xếp theo nhóm như sau: --
 A. - TIÊN THIÊN TÔN THẦN: --
1 .- TAM THANH: - Nguyên Thủy Thiên Tôn-Thái Thượng Lão Quân-Linh Bửu Thiên Tôn Đứng đầu. Hệ thống Thần Tiên.
2 .- TỨ NGỰ: - Ngọc Hoàng Đại Đế, Trung Thiên Bắc Cực Tử Vi Đại Đế, Câu Trần Thượng Cung Thiên Hoàng Đại Đế Và Hoàng Hậu Thổ Địa Kì Chủ tế. Của trời đất vạn vật.
3.-Tây Vương Mẫu và Lôi Tổ.
B.-TINH QUÂN: --
-Chân Vũ Đại Đế (Huyền Thiên Thượng Đế)
-Thái Tuệ Tĩnh Quân. (60 vị)
-Nhị Thập Bát Tú.
-Bắc Đầu Thất Tĩnh.
-Đầu Mẫu.
-Văn Xương Đế Quân.
C.-THẦN sông núi .
-Bích Hà Nguyên Quân.
-Đông Nhạc Đại Đế.
-Lôi Bộ Ngũ Nguyên Soài Rạp.
Công-Điện - Điện Mẫu
-Lôi Công.
-Vũ Sư
-Phong Bá
-Long Vương.
D. - THẦN ĐẤT ĐAI: --
-Phước Lộc Thọ Tam Tinh.
-Thành Hoàng
-Thổ Địa.
-Thần Tài.
-Môn Thần.
E. - U Minh CẢNH GIỚI: --
-Phong Đô Đại Đế.
-Thập Điện Diêm La Vương.
* Đây chỉ là tạm thời đề xuất, bởi vi phạm hệ Thần Tiên của Đạo Giáo rất "mở rộng", dựa trên cơ sở lý luận chủ đạo: - "Người người đều có khả năng thành Tiên, đời đời đều có thể học tiên ", cho nên đội ngũ Thần Tiên ngày càng nhiều thêm và phong phú thêm lên.
* Việc sắp xếp theo trên theo tiêu chuẩn là "Vị và Nghiệp" "Nghiệp.", Là chỉ cho việc tu đạo đạt đạo hạnh cao thấp, sự cống hiến lớn hay nhỏ, nội đức dày hay mỏng; "Vị", là chỉ vị trí, địa vị ở Tiên Giới Phạm ông. nghiệp ưu thì vị càng cao càng Như vậy., nghiệp và vị nhất trí với nhau Về điểm. này, Mạnh An trong Bài "Đạo Giáo Nghĩa Từ" từng giải thích rõ ràng , có thể tham khảo sách này.
* Có một cách tổng quát xếp loại Thần Tiên thành ra chín phẩm, theo như cách làm của Thần Tiên Truyện như sau: --
1 .- Thượng Tiên
2 .- Thứ Tiên
3 .- Thái Thượng Chân Nhân
4 .- Phi Thiên Chân Nhân
5 .- Linh Tiên
6 .- Chân Nhân
7 .- Linh Nhân
8 .- Phi Tiên
9 .- Tiên Nhân
* Trọng "Bảo Phác Tử nội thiên-Luận Tiên" lại chia làm: - Thiên Tiên, Địa Tiên và Thị Giải Tiên (Tiên bỏ thây thi) [lại thì chết bỏ thây, nhưng hồn Tiên thành biến, mọi người Chỗ này hạng còn hạng kém hơn "giữa ban ngày phi thăng lên cõi trời" bậc một].
* Vương Trung Dương Nội và các Đan Gia thường chia thành Thiên Tiên, Địa Tiên, Nhân Tiên, Thần Tiên, Quỷ Tiên năm cấp khác nhau.
* Theo một thuyết được đa số người chấp nhận là: - "Kết quả tối cao của người học theo Đạo Giáo là, phi thăng về Đại La Thiên, nơi cư ngụ của vị thần tối cao tôn Nguyên Thủy Thiên Tôn, thành ra một vị Đại La Kim Tiên là hay hơn cả.
* Người viết: - Lưu Trọng Vũ 
* Nhược Thủy dịch 
(từ http://www.taoism.org.hk)
Xin theo dõi tiếp bài 16. dienbatn giới thiệu.
Xem chi tiết…

THỐNG KÊ TRUY CẬP

LỊCH ÂM DƯƠNG

NHẮN TIN NHANH

Tên

Email *

Thông báo *