CÁC VỊ THẦN ẤN ĐỘ TRONG TÍN NGƯỠNG BÀ LA MÔN VÀ HINDU GIÁO. BÀI 2.

4/13/2015 |
CÁC VỊ THẦN ẤN ĐỘ TRONG TÍN NGƯỠNG BÀ LA MÔN VÀ HINDU GIÁO.


Lời tựa : Lẽ ra các bài tiếp theo trong mục : MẬT TÔNG - ĐẠO PHÁP - HUYỀN MÔN là những bài trong tập 2 cuốn THẦN THÁNH TRUNG HOA do bác Nhược Thủy dịch. Tuy nhiên  dienbatn đăng tiếp loạt bài  CÁC VỊ THẦN ẤN ĐỘ TRONG TÍN NGƯỠNG BÀ LA MÔN VÀ HINDU GIÁO để thay đổi không khí . Loạt bài viết này , dienbatn biên soạn lại theo những tư liệu sưu tầm được, những tư liệu đã đăng trên internet . Do vậy có thể có nhiều đoạn không ghi nguồn xuất xứ . Mong các tác giả lượng thứ khi dienbatn trích dẫn mà không ghi nguồn. dienbatn chỉ biên tập lại thành hệ thống làm tư liệu của mình và giúp các bạn tư liệu khi cần khảo cứu. Xin chân thành cảm ơn các tác giả đi trước. Thân ái . dienbatn.
2. Bộ tam thần Trimurti.
2/ Thần Bảo Tồn - Vishnu .

Ngôi thứ hai của Chúa Ba Ngôi trong huyền thoại Ấn Độ là Vishnu. Có thuyết cho rằng tất  cả các vũ trụ khi chưa thị hiện ra đều được chứa trong bụng của Vishnu, trong lúc Ngài nằm ngủ trên mình con  rắn ngàn đầu Ananta (chữ có nghĩa là vô tận), bập bềnh trên Biển Sữa nguyên thủy. Chính năng lượng nảy sinh từ rốn của Vishnu làm nở đóa sen trên đó Brahma hiện ra và tác thành vạn vật. Nếu Brahma là ý chí sáng tạo, thì Vishnu là năng lực bảo hộ, duy trì, dưỡng nuôi. Trong khi Brahma làm công việc sáng tạo xong bèn lè phè, đứng ngoài thế sự, thì Vishnu không ngần ngại nhảy vào cuộc sống nhân sinh mỗi khi cần thiết. Ngài là Đấng Nhập Thế, với rất nhiều hóa thân, được tôn thờ rộng rãi trong dân gian.
 Là vị thần cao nhất, là thần sáng tạo, còn được gọi là thần tay phải (tay phải đưa lên,khuỷu tay gấp lại cong lên , lòng bàn tay phải đua ra trước (động tác abhayamudra: không kinh sợ). Những vật thường có ở nơi Vishnu là một ốc tù và, một tràng hạt cầu kinh, một hoa sen. Vishnu là hiện thân của sự ổn định nữ tính và khả năng sinh thành. Vishnu được mô tả với bốn cánh tay, nhiều đầu, có nhiều hóa thân khác nhau (avataras) nhằm gìn giữ đạo đức và văn minh của nhân loại. Narayanna (con cua Nara: người đầu tiên, bằng hữu) được hiểu là “nơi cư ngụ chung của con người”. Trong thiên anh hùng ca Ramayanna, Vishnu xuất hiện là con cua Nara. Trong thiên anh hùng ca Mahabharata Vishnu xuất hiện với danh xưng Krishna để giảng thuyết nền đức lý vĩ đại của người anh hùng Arjuna trong Chí tôn ca (Bhagavad Gita). Vishnu ngủ bốn tháng trong năm, nghỉ ngơi trong vòng cuộn của rắn Ananta hay rắn Sesanaga. Shiva được đánh thức bởi một nghi lễ đặc biệt. Người phối ngẫu thường xuyên với Vishnu là nữ thần may mắn Lakshmi. Đối thủ chính của Vishnu là Yama (thần chết). Vishnu ngồi trên lưng con vật thiêng đầu người mình chim Garuda để di chuyển. Garuda chuyên ăn tươi nuốt sống nuốt sống lũ ác quỷ.
Thần Vishnu là một trong các vị thần quan trọng nhất của đạo Hindu và là vị thần được thờ cúng rộng rãi nhất. Vishnu cùng với Shiva và Brahma tạo nên bộ ba các vị thần lớn, gọi là Tam vị. Là thần bảo vệ vũ trụ, Vishnu là vị thần uy phong đôi khi dữ tợn. Nhưng nói chung ông là vị thần tử tế và ít gây khiếp sợ hơn thần Shiva nhiều. Những người thờ thần Vishnu, gọi là những "Vaishnava", xem ông là vị thần tối cao. Một trong vô số những tính ngữ của ông là "Thần tối cao". Brahma khái niệm về sự "Tuyệt đối" hay "Thực thể tối cao" của người Hindu, đôi khi được mô tả là Vishnu. Theo một truyền thuyết, một hoa sen từ lỗ rốn thần Vishnu mọc ra trên một cuống dài do Vayu, vị thần gió đầy sức mạnh nắm giữ. Ngồi giữa hoa sen ấy là Brahman, vị thần bắt đầu công việc sáng tạo liền sau đó.
Chức năng chính của Vishnu là đảm bảo sự chiến thắng của điều thiện đối với cái ác. Trong thánh ca cổ Rig-Veda của người Hindu, Vishnu chỉ là một vị thần nhỏ. Có vẻ như ông xuất thân là một vị thần mặt trời và trong hiện thân mặt trời, ông có thể bước ngang qua vũ trụ chỉ trong ba bước, một cử chỉ có lẽ để biểu trưng cho việc đo đạc vũ trụ của thần, để biến nơi này thành chỗ ở cho các vị thần và cho con người. Về sau Vishnu dần dần được gắn với các nhân vật khác, gồm một concá, rồi một chú lùn, sự liên kết này làm nảy sinh khái niệm về các hóa thân hay Avatar của thần Vishnu. Vishnu hiện ra dưới các lốt khác nhau để đánh dẹp loài quỷvà phục hồi trật tự thiêng liêng mỗi khi các vị thần bị đe dọa. Hai hóa thân quan trọng nhất của Vishnu là người anh hùng Râm và vị thần Krishna. Trong đạo Hindu, Đức Phật Thích-ca Mâu-ni cũng được xem là một hóa thân của vị thần vĩ đại này.
Trong hóa thân làm con cá Matsya, Vishnu đã cứu Manu, con người đầu tiên, thoát khỏi một trận lụt lớn. Truyện kể rằng Manu tìm thấy một con cá nhỏ, con cá năn nỉ anh ta cứu nó khỏi bị một con cá lớn ăn thịt. Manu đem con cá về nhà nuôi trong vại nước. Chẳng bao lâu, con cá trở nên quá lớn đối với cái vại, chàng đem bỏ nó xuống ao. Nhưng Matsya rồi cũng trở nên quá lớn với cái ao nên Manu phải trả nó về biển. Khi Manu thả con cá xuống nước, Matsya quay lại báo cho chàng biết là sắp có một trận lụt lớn, nhấn chìm cả thế giới. Nó khuyên chàng đóng một chiếc thuyền. Khi trận lụt xảy ra, Manu đã tá túc trên chiếc thuyền của mình. Chiếc thuyền bị sóng to gió lớn vùi dập, Matsya lại hiện lên, lần này là con cá khổng lồ. Matsya dắt chiếc thuyền đi trong suốt nhiều năm cho đến khi tới núi Hemavat, đỉnh ngọn núi này chưa bị nước ngập. Manu buộc thuyền vào núi để còn cho hết lụt. Matsya khi ấy nói rõ rằng mình thực ra là thần Vishnu và ông đã cứu Manu để cho thế giới này lại có người ở.
Trong hóa thân làm chú lùn Vamana, Vishnu đã cứu cả thế giới khỏi tay quỷ Bali. Chú lùn xin quỷ Bali cho chú một miếng đất chỉ vừa ba bước của chú thôi. Ngay khi quỷ Bali vừa đồng ý thỉnh cầu của mình, chú lùn Vamana liền biến thành một gã khổng lồ. Chỉ với hai bước, gã đã bước qua toàn thế giới, rồi giao lại cho các vị thần. Sau đó, gã lại gặp con quỷ đòi bước tiếp bước thứ ba như đã hứa. Không còn gì để giao nữa, quỷ Bali bèn lấy cái đầu của nó để thay thế. Thấy quỷ có hành động trung thực, thần Vishnu bèn ban cho nó quyền cai trị âm cung.
Trong khoảng thời gian giữa các đợt sáng tạo của thần Brahma, người ta nói rằng thần Vishnu nằm ngủ trong biển vũ trụ, trên mình con rắn nhiều đầu Ananta haySesha. Trong lúc ngủ, Vishnu từ từ biến thành một hóa thân khác sẽ xuất hiện trong chu kỳ sáng tạo sau đó.
Vishnu thường được mô tả như một chàng trai tuấn tú, màu xanh cam và có bốn tay. Các vật biểu trưng của thần gồm một cây thùy liên quan với sức mạnh kiến thức, một vỏ ốc tù liên quan với nguồn gốc sự sống, một bánh xe liên quan với các quyền năng sáng tạo và hủy diệt, hoa sen liên quan với mặt trời, với cây đời sống từ lỗ rốn thần Vishnu mọc ra - vật cưỡi của thần là con chim huyền thoại Garuda.
Thần Vishnu cũng được xem như cây cột vũ trụ chống đỡ bầu trời. Vợ ông là Lakshmi, nữ thần của sự giàu có và may mắn.

Theo truyền thuyết, Vishnu nằm trên biển sữa trên mình con rắn vũ trụ nhiều đầu Ananta hay Sesha. Trong lúc ngủ, một hoa sen từ lỗ rốn thần mọc ra trên một cuống dài do thần gió VAYU nắm giữ. Trên hoa sen là BRAHMA bắt đầu công việc sáng tạo. Thần Vishnu ngủ trong các khoảng thời gian giữa những đợt sáng tạo nối tiếp này. Trong lúc ngủ, thần sẽ biến thành một hoá thân khác xuất hiện trong các chu kỳ sáng tạo sau đó. Theo thần thoại Ấn giáo, thần Vishnu có tất cả 10 hoá thân (avatar), hoá thân thứ 10 chưa xuất hiện trong cõi này.
Vishnu được mô tả với hình dáng chàng trai tuấn tú, màu xanh cam, có 4 tay, mỗi tay cầm các vật biểu trưng: cây chuỳ - biểu tượng cho sức mạnh của kiến thức, vỏ ốc tù và – nguồn gốc sự sống, bánh xe - quyền năng sáng tạo và huỷ diệt, hoa sen - biểu tượng của mặt trời và liên quan đến cây đời sống mọc ra từ lỗ rốn của thần.
Vợ của Vishnu là nữ thần Laksmi - nữ thần của sự giàu có và may mắn.
Vật cưỡi của thần là Garuda (đại bàng kim sí điểu) – con chim thần huyền thoại.

CÁC HOÁ THÂN CỦA THẦN VISHNU:
Các hoá thân của thần Vishnu là những hiện thân của thần ở thế gian này để cứu loài người trong những lúc gay go nhất. 

Người ta thường cho rằng thần Vishnu có 10 hoá thân. Đó là :
1-Mastya: Con cá từng bảo vệ cho Manu, thuỷ tổ loài người trong cơn đại hồng thuỷ.
2-Con rùa Kurina (kurma): chở hòn núi Mandara trên lưng trong khi khuấy đảo biển sữa.
3-Varaha: Con heo rừng đã cứu cả trái đất.
4-Narasimha: hoá thân sư tử vương giết chết con quỷ Hiranyakashipu - hiện thân của Ravana.
5-Chàng lùn Vamana: cứu thế giới khỏi tay con quỉ Bali
6-Parasurama: người tạo ra tầng lớp Satđếlỵ mới.
7-Hoàng tử Rama: nhân vật chính trong sử thi Ramayana của Ấn Độ.
8-Thần Krisna: vị thần tài năng với cây sáo mê hồn.
9-Sakya Muni (Đức Phật): cứu giúp những kẻ xấu lầm đường lạc lối trở về đường chính.
10-Kalkin (Kali Yuga) : Hoá thân thứ 10 này sẽ hiện ra cuối kỷ nguyên hiện tại để lập ra kỉ nguyên mới.
Mỗi hoá thân và sự tích về các hoá thân ấy của thần Vishnu sẽ lần lượt trình bày ở phần tiếp sau.
Các hoá thân của Vishnu tuân theo một qui luật tiến hoá từ cá, bò sát, thú, rồi đến chú lùn, đến con người. Cuối cùng là thần nhân và đấng sáng tạo tương lai. 
1/ Hoá thân đầu tiên là con cá Mastya.
Hóa thân đầu tiên của Vishnu là con cá có sừng Matsya.
Một ngày nọ, Manu, con người đầu tiên, cứu một con cá bị mắc cạn (chữ « man », trong các tiếng Anh, Đức, có thể đến từ tên ông Manu này, và có lẽ cả các chữ « mán », « mường » – trại chữ « hmong » gần với « human » – trong tiếng Việt mình) . Cá cho Manu biết Đại Hồng Thủy sắp xảy ra, và khuyên Manu đóng một chiếc tàu lớn, đem vào trong đó súc vật, cây cỏ, để tránh lụt. Con cá ấy là Matsya, cứu tinh của nhân loại, và Manu chính là « tiền thân » của Noah (Noë) trong Thánh Kinh Do Thái. Có chuyện kể rằng Matsya hóa thành một con cá vĩ đại đưa tàu của Manu đến một vùng đất cao trên Hy Mã Lạp Sơn, nơi gọi là Manali, để thoát nạn Đại Hồng Thủy. Con người đầu tiên Manu sau này để lại một bộ luật, được coi như bộ luật đầu tiên của Ấn Độ, gồm 5370 câu, hiện vẫn còn được lưu giữ.

            Trong trận Đại Hồng Thủy, Matsya cũng có công lặn xuống lòng đại dương nhặt lên được bốn quyển Kinh Vệ Đà bị mất, và giao chúng cho Brahma. Kinh Vệ Đà mang những nguyên lý sáng tạo, nên Matsya cũng được coi như đã cứu sự Sáng Tạo.
Thần thoại Hindu kể rằng, một ngày kia, trong khi Manuđang tắm đưới sông thì thấy một con cá nhỏ van xin ông cứu nạn.
Manu đem nó về nuôi. Con cá lớn dần lên cho đến một ngày nó xin thả trở về biển.Trước khi bơi đi, con cá bảo Manu biết sắp có một trận lụt lớn nhận chìm cả thế gian và nó khuyên ông ta nên đóng một chiếc thuyền lớn, trong đó có chứa các loại sinh vật và hạt giống cây cối.
Manu vừa chuẩn bị xong thì mưa tuôn xối xả ngập lụt cả thế gian. Nước cuồn cuộn sắp lật đổ chiếc thuyền thì cá Mastya hiện ra dẫn dắt thuyển khỏi cơn nguy hiểm. Sau đó, nó bảo Manu buộc thuyền vào một đỉnh núi cao không bị ngập, chờ khi nước rút. Lúc đó, con cá mới cho Manu biết rằng chính mình là hoá thân của Vishnu.
Để tạ ơn thần, Manu hiến tế bằng sữa và bơ lỏng. Một năm sau lễ vật cúng dường này biến thành một người đàn bà xinh đẹp. Họ sống với nhau và sinh ra loài người.

2/ Hóa thân thứ hai của Vishnu là con rùa Kurma (Kurina): 
 Hóa thân thứ hai của Vishnu là con rùa Kurma.
Số là sau trận Đại Hồng Thủy, một số bảo vật bị chìm trong lòng Biển Sữa. Brahma khuyên các vị Thần nên liên kết với đám Quỷ Ma để thu hồi các bảo vật ấy, đặc biệt là thuốc trường sinh Amrita. Thần và Quỷ mới dựng một ngọn núi (tên là Mandara) giữa Biển Sữa. Kế đó thâu dụng một con rắn vĩ đại (Vasuki) quấn quanh ngọn núi ấy, rồi hè nhau nắm đầu nắm đuôi rắn mà làm quay quả núi để quậy Biển Sữa ! Tuy nhiên, không thể thiếu một điểm tựa để núi Mandara khỏi chìm xuống biển sâu. Thế là Vishnu hóa thành rùa Kurma, lặn xuống nước sâu, chịu núi Mandara trên lưng mình, cho các anh Thần chị Quỷ … quậy ! Quậy mãi không được gì, Thần cũng như Quỷ đều mệt mỏi chán nản, thì thình lình nổi lên một mảng độc chất vô cùng mãnh liệt, có khả năng hủy diệt mọi sự vật mà nó đụng vào, khiến cả vũ trụ lâm vào nguy khốn. Thần và Quỷ hướng về Shiva xin giúp đỡ. Shiva liền vận dụng thần thông nuốt trọn độc chất nọ, nhưng giữ không cho nó xuống bụng. Từ đó cổ họng Shiva mang màu xanh.
Màn quậy biển sữa tiếp diễn và đem đến những kết quả khả quan hơn : một con bò, nguồn sữa vô tận ( ?), Cây Như Ý (muốn gì được nấy), mặt trăng, mặt trời, Nữ Thần Lakshmi, đẹp tuyệt vời, được Vishnu lấy ngay làm vợ, một con voi, một ngựa trắng v.v… Sau cùng, Dhanvantri, một đồng nghiệp Y Sĩ, hiện lên với chén thuốc trường sinh. Sự hợp tác giữa Thần và Quỷ lúc đó chấm dứt, và một màn tranh dành thuốc trường sinh diễn ra …
Có thuyết cho rằng màn « quậy Biển Sữa » xảy ra ở lúc Tạo Thiên Lập Địa, với Mandara là cột trụ của thế giới, Brahma làm vị chủ trì, Vishnu là điểm tựa và Shiva, năng lực khai thông bế tắc. Từ đó nổi lên những biểu tượng như sự sống (thuốc trường sinh cho chư Thần, bò sữa cho con người), thời gian (mặt trăng), ánh sáng (mặt trời), sự chết (độc chất), cái đẹp (Lakshmi), ước vọng (cây như ý),  sức mạnh (ngựa), sự thông thái (voi) v.v…
Chở cả hòn núi Mandara trên lưng trong cuộc khuấy đảo biển vũ trụ.
Sau trận Đại Hồng Thủy (xem hoá thân Mastya), một số bảo vật bị chìm trong lòng Biển Sữa. Brahma khuyên các vị Thần nên liên kết với đám Quỷ để thu hồi các bảo vật ấy, đặc biệt là thuốc trường sinh Amrita. Thần và Quỷ liền bứng ngọn núi Mandara đặt ngược đầu xuống để giữa Biển Sữa. Đỉnh núi cắm sâu vào trong đất trong khi việc khuấy đảo biển sữa bắt đầu. Để khuấy được biển, hai bên dùng con rắn Vasuki quấn quanh ngọn núi ấy, mỗi bên nắm đầu và đuôi rắn mà quay quả núi để quậy Biển Sữa ! Tuy nhiên, không thể thiếu một điểm tựa để núi Mandara khỏi chìm xuống biển sâu. Thế là Vishnu hóa thành rùa Kurma, lặn xuống nước sâu, chịu núi Mandara trên lưng mình, và xoay tròn theo hòn núi mỗi lần khuấy như một cái guồng để công việc được nhanh chóng hơn.
Khuấy đảo mãi là con rắn nổi giận, nó liền phun ra nọc độc nhằm hủy diệt. Thần Brahma nhờ thần Shiva nuốt những nọc nầy. Shiva liền vận dụng thần thông nuốt trọn độc chất nọ, nhưng giữ không cho nó xuống bụng. Nọc độc con rắn làm cho cổ họng Shiva mang màu xanh. 
Việc khuấy biển sữa kéo dài trên 1000 năm. Nước biển màu sữa biến thành chất bơ. Rồi từ trong biển sữa lần lượt xuất hiện bò thần Nandin, voi thần 3 đầu Airavata, ngựa trắng, cây như ý, mặt trăng, mặt trời, nữ thần Lakshmi, các bọt biển hoá thành những tiên nữ Apsara. Sau cùng là Dhanvantri, một đồng nghiệp Y Sĩ, hiện lên với chén thuốc trường sinh nhưng bọn quỷ chụp lấy. Thần Vishnu một lần nữa đánh thắng bọn ác quỉ và đoạt lại ly thuốc trường sinh
Có thuyết cho rằng màn « quậy Biển Sữa » xảy ra ở lúc Tạo Thiên Lập Địa, với Mandara là cột trụ của thế giới, Brahma làm vị chủ trì, Vishnu là điểm tựa. Và Shiva, năng lực khai thông bế tắc. Từ đó nổi lên những biểu tượng như sự sống (thuốc trường sinh cho chư Thần, bò sữa cho con người), thời gian (mặt trăng), ánh sáng (mặt trời), sự chết (độc chất), cái đẹp (Lakshmi), ước vọng (cây như ý), sức mạnh (ngựa), sự thông thái (voi) v.v
3- Hoá thân thứ ba của Vishnu là con lợn rừng Varaha:
Con lợn này đã cứu quả đất ra khỏi lòng đại dương sau khi bị con quỷ Hiranyaksa (Mắt Vàng) dìm vào đấy. Con quỷ này đã tu khổ hạnh, nhờ đó được thần Brahma ban cho quyền năng không thể bị người, vật hay thần giết chết.
Có được quyền năng này, Hiranyaksa lộng hành tất công loài người, khiêu khích các vị thần, lấy trộm bộ kinh sách thiêng của Brahma, sau đó lôi quả đất vào trong đáy biển vũ trụ. Nhưng con quỷ có một nhược điểm, vào lúc thương lượng với Brahma, Hyranyaksa phải kể tên các con vật không thể làm hại nó được, và nó đã bỏ sót tên con lợn rừng.
Vishnu liền hoá thành con lợn rừng khổng lồ với tiếng kêu ớn hơn cả tiếng sấm của Indra, hai mắt đỏ hơn hai luồng sét…
Varaha lặn xuống đáy đại dương, giết chết Hyranyaksa và giải cứu cho trái đất, đưa nó trở về mặt nước. 

Một số sách vở còn ghi lại hình ảnh trái đất như là một người thiếu nữ được Vahara nâng lên trên cánh tay lực lưỡng của mình.

Trong Mật giáo, có ý kiến cho rằng Ma lị chi Thiên là một dạng chuyển đổi của Varaha từ Hindu sang Phật Pháp. Dưới đây là hình Ma Lị Chi Thiên:

4/ Hoá thân thứ tư của Vishnu là người Sư tử Narasimha.
Thần tích của Hindu giáo kể rằng, Hiranyakashipu là anh của quỷ Hiranyaksha được sự ban phúc của thần Brahma nên trở thành bất tử. Không có thần, người hay vật nào có thể giết được nó, dù là ban đêm, ban ngày, trong nhà hay ngoài trời cũng vậy.
Hiranyakashipu cũng giống em trai của mình, cao ngạo và tàn phá mặt đất. Hắn tự cho mình là vị thần bất tử tối cao, nên cấm việc thờ cúng các vị thần khác. Con trai hắn là Pralada lại rất tín ngưỡng ở Vishnu nên không nghe lời hắn. Con quỷ giận dữ toan giết con mình nhưng kì lạ thay, con hắn vẫn cứ bình an dù hắn đã giết bằng mọi cách.
Một ngày kia, quỷ Hirayakashipu hỏi giận dữ hỏi Pralada rằng Vishnu có trong cây trụ khung của ngôi đền hắn ta không, Pralada trả lời một cách chắn chắn rằng có.
Hiranyakashipu gầm lên và lấy chân đạp ngã cây trụ để tìm giết Vishnu. Lập tức, Vishnu với hình dáng mình thần đầu sư tử hiện ra và xé xác con quỷ.
Hành động như thế, thần đã không vi phạm lời hứa của Brahma. Vì lúc ấy không phải ban ngày hay ban đêm, thần đang đứng trên đà của ngôi đền nên không phải ở bên trong hay bên ngoài, thần đã đội lốt Narasimha nên không phải là thần, không phải là người, cũng không phải thú vật.
Trong 10 hoá thân thì có lẽ đây là hoá thân dữ dằn nhất của Vishnu.
Trong các hoá thân tiếp theo thì Vishnu có dạng hình con người.
5/ Hoá thân thừ năm là chàng lùn Vamana.
Khi vương quốc nhà trời rơi vào tay vua phàm trần ngạo nghễ Bali thì Vishnu hoá thân thành chàng lùn Vamana con trai của Aditi và Thánh nhân Kashyapa để chiếm trở lại vương quốc.


 Người lùn Vamana, một cứu tinh khác của thế giới. Vào lúc ấy, một Ma Vương tên là Bali chinh phục được cả mặt đất, thiên đàng và địa ngục . Biết rằng Bali nổi tiếng rộng rãi, Vamana chỉ xin ông một mảnh đất nhỏ trong giới hạn 3 bước chân của mình.  Bali buồn cười anh lùn Vamana nên ưng thuận. Vamana vận dụng thần thông bước một bước trải hết mặt đất, bước thứ hai hết thiên đường, nhưng ngừng lại nhường cho Quỷ Vương Bali … địa ngục.   Và ông ta đã kinh hãi khi nhìn thấy Vamana biến thành một người khổng lồ. Chàng chỉ bước có 2 bước đã đi qua hết toàn bộ vương quốc của mình. Bali đành chấp nhận trao hết vương quốc cho Vamana.
Thấy sự thành thật của nhà vua, Vamana đã dành lại thế giới âm cung cho Bali trị vì.

Vợ của Shiva là Parvati còn con của Shiva là Ganesa, hình tượng con voi có cái vòi bị gãy 1 bên . 
Dưới đây là hình của Ganesa và Parvati:



Hình Parvati:



( Theo Minh Thông và Lương Văn Hồng ).
Phần sau đây dienbatn thêm vào từ các bản dịch.
6/ Hóa thân thứ 6 Parasurama: người tạo ra tầng lớp Satđếlỵ mới.




Parasurama là con trai út của Jamadagni , một người gốc Bregu . Đó là lý do tại sao ông đã được biết đến với biệt danh Bhargawa. Khi sinh ra Jamadagni đã cho con trai của mình tên của Rama. Khi trưởng thành, cũng được biết đến với biệt danh Rama Parasurama như luôn luôn mang theo một chiếc rìu làm vũ khí. Ngoài ra, Parasurama cũng có một vũ khí khác là một cánh cung lớn lạ thường.
Là một thanh niên Parasurama đã giết mẹ của mình, người đã đặt tên Renuka. Việc tạo nên lỗi tày trời đó là do Jamadagni Renuka  mẹ của ngài làm cho cha ngài tức giận. Jamadagni sau đó ra lệnh cho con trai của mình rằng giết mẹ . Ông hứa sẽ cho bất cứ điều gì mà ngài yêu cầu. Tuy nhiên, như một đứa trẻ, con trai Jamadagni, trừ Parasurama, không có ai sẵn sàng làm như vậy. Jamadagni ngày càng tức giận và nguyền rủa họ thành đá.
Parasurama là con trai út và thông minh nhất là sẵn sàng giết chính mẹ của mình. Sau cái chết của Renuka, ông cũng có một yêu cầu theo lời hứa của Jamadagni . Yêu cầu đó là làm cho mẹ chàng sống trở lại .Jamadagni cũng cảm thấy tự hào và thỏa mãn tất cả các yêu cầu của Parasurama.




Ông sinh ra trong một gia đình Bà la môn , có quyền lực và thể chất mạnh mẽ của một chiến binh. Thân Shiva , hài lòng bởi sự tận tâm và sám hối của ông trao cho ông một cái rìu, siêu vũ khí của mình để làm cho thế giới khỏi sự áp bức của những kẻ cai trị Kshatriya, người đi lạc khỏi con đường của Phật pháp. Bị xúc phạm bởi vua Arjuna và con trai của ông, người đã giết cha thánh thiện của mình, Parasurama thề tiêu diệt toàn bộ Kshatriya. Parasurama tiến hành chiến tranh sau chiến tranh 21 năm, và tiêu diệt Kshatriya , như vậy là hoàn thành nhiệm vụ của người đại diện của Vishnu .
Truyền thuyết kể rằng Parasurama, theo lệnh của cha mình, cắt nhỏ  đầu của mẹ mình, một nhiệm vụ cực kỳ tàn ác mà anh em đã từ chối. Hài lòng với sự tuân phục của mình, khi cha của ông yêu cầu ông chọn một ước vọng, ông đã chọn mong muốn mẹ cô trở lại cuộc sống!
Khi có một vị vua không công bình , lấy trộm bò của cha mình ,một biểu tượng của sự giầu có, một con vật mà có thể đáp ứng tất cả các mong muốn. Để trả thù cho hành vi trộm cắp, Parasurama giết vua. Khi ông trở về nhà, cha của ông không hài lòng với hành vi đó. Ông khiển trách nặng nề Parasurama cho làm cho mất hết pháp thuật của Parasurama, bắt Parasurama thực hiện một cuộc hành hương toàn quốc để chuộc tội tội.
Không giống như Rama , Krishna hay Đức Phật , Parasurama không phải là một trong những đại diện nổi tiếng của Vishnu. Tuy nhiên, có rất nhiều đền đài dành cho ngài. Các đền thờ Parasurama tại Akkalkot, Khapoli, và Ratnagiri ở Maharashtra, Bharuch và Songadh ở Gujarat, và Akhnoor ở Jammu và Kashmir đều nổi tiếng. Các khu vực Konkan trên bờ biển phía tây của Ấn Độ là đôi khi được gọi là "Parashurama Bhoomi" hoặc đất Parshurama. Các Parashuram Kund ở Bắc Ấn Độ Arunachal Pradesh là một hồ nước thánh được vây quanh bởi hàng trăm tín đồ, những người đến để ngâm mình trong nước thánh của nó trong Makarsankranti vào tháng Giêng hàng năm .
Ngày sinh nhật của Parasurama hoặc "Parasurama Jayanti" là một lễ hội quan trọng cho các tín đồ Bà la môn hay giai cấp tư tế của người Hindu . Vào ngày này, mọi người thờ phượng Parasurama và tiến hành một nhanh nghi lễ để vinh danh ngài . Parasurama Jayanti thường rơi vào cùng một ngày như Akshaya Tritiya , được coi là một trong những ngày tốt đẹp nhất của lịch Hindu .
Tranh Parasurama người đã cắt một ngàn cánh tay của vua Arjuna Kartawirya (Arjuna Sahasrabahu).
Sau khi kết hôn với Sita, Rama trở về Ayodhya. Đây là cuộc hành trình đến Mithila và với Ahalya nhận được sự giải thoát của mình, Rama đã gặp Parasurama.
Sage Jamadagni, cha của Parasurama, đã sở hữu bò Divine Kamadhenu, và khi vua Kartaviryarjuna trộm nó, Parasurama giết ông ta. Con trai của Kartaviryarjuna sau đó giết Jamadagni. Giận dữ, Parasurama thề sẽ tiêu diệt tất cả các vị vua . Tên Parasurama được gọi là Bhargava Rama, về sau đã được biết đến như Parasurama, vì Siva cho ông một cái rìu (parasu) như là một phần thưởng cho sự sám hối của mình.
Câu chuyện nổi tiếng nhất liên quan đến Parasurama mô tả hành động của mình để khôi phục lại pháp luật . Trong Krita Yuga, các Kshatrya (chiến binh) đẳng cấp đã trở nên quá tự tin vào sức mạnh quân sự và chính trị của họ, và bắt đầu đàn áp các Bà La Môn-giai cấp tư tế đã được tổ chức theo truyền thống là cao nhất về trật tự xã hội Hindu. Parasurama đã được sinh ra trong tầng lớp của Bhrigu, được coi là một đẳng cấp có giá trị thấp. Cha ông Jamadagni, mặc dù sinh ra một người Bà La Môn, đã trở thành một Kshatrya vì mẹ anh đã sai lầm tiêu thụ thực phẩm mang đậm tính chất của giai cấp thứ hai. Jamadagni SIRED Parasurama bởi Renuka, người sinh cho ông một đứa con trai và đã nhanh chóng được đặt tên Parasurama vì ông mang một cái rìu gọi Parashu-đó đã được trao cho ông lúc sinh bởi Shiva , vị thần hủy diệt của Hindu Trinity .
Trong suốt cuộc đời Parasurama trật tự xã hội đã xấu đi do Kartavirya-một vị vua hùng mạnh có một trăm cánh tay. Một ví dụ, các Kartavirya độc ác và tay sai của ông đã đi đến nơi ẩn cư Jamadagni khi Renuka ở đó một mình. Theo phong tục, cô đã chăm sóc của các vị vua và những người theo ông. Kartavirya thấy Kamadhenu, con bò mang lại rất nhiều của cải , mà thuộc về Jamadagni. Mong muốn có con bò, Kartavirya cướp Renuka đi và mất bò thiêng liêng. Không lâu sau đó, Jamadangi và những người khác đã trở lại để ẩn tu và nhìn thấy những gì đã xảy ra. Họ theo đuổi vua, sau đó áp đảo và giết chết ông ta , giành lại con bò, đó là lợi ích chính đáng của họ. Khi con trai của nhà vua nghe nói về cái chết của cha mình, ông trở về nơi ẩn cư cùng quân đội kéo và giết Jamadangi. Tìm cách trả thù, Parasurama thề rằng ông sẽ phá hủy tất cả Kshatryas ở trái đất. Trong hai mươi mốt trận, sau đó ông hoàn thành lời thề của mình và phá hủy tất cả các Kshatryas trên trái đất. Sau đó, tất cả Kshatryas là hậu duệ từ Bà La Môn, làm cho các giai cấp tư tế được ưu thế của hơn của các chiến binh. Bởi chiến thắng của mình và sức mạnh đó , Parasurama bảo đảm cho cha mình một vị trí cao trong Hindu như chòm sao của Saptarishis, trong đó ông là Gấu Lớn.
Một câu chuyện hoàn toàn khác nhau chi tiết về nguồn gốc tên của Parasurama. Ban đầu, ông được đặt tên là Rama. Rama là một cung thủ xuất sắc, ông đã đi đến dãy Himalaya, nơi ông đã tu luyện nhiều năm. Shiva đã rất hài lòng với sự tận tâm của Rama, và như vậy khi đấu tranh nổ ra giữa các vị thần và ma quỷ, Shiva ra lệnh Rama  chiến đấu cho các vị thần. Rama đã không có cây cung của mình, và vì vậy ông hỏi Shiva làm như thế nào ông có thể chiến đấu mà không vũ khí của mình. Shiva khuyến khích ông chiến đấu bất kể không có cây cung , mà Rama đã chiến thắng. Shiva thưởng Rama với nhiều quà tặng và các loại vũ khí, bao gồm cả chiếc rìu Parasu, mà đã trở thành vũ khí Rama của sự lựa chọn. Từ thời điểm này, Rama đã được biết đến như Parasurama, "Rama bằng rìu."
Một huyền thoại phổ biến liên quan đến Parasurama kể về một ví dụ khi mẹ của Parasurama ra bờ sông để tắm. Ở đây cô thấy Chitraratha, Vũ nữ âm nhạc gọi là Apsaras. Khi nhìn thấy các đấng thiêng liêng, Renuka bị thu hút bởi sự trụy lạc. Khi cô trở về nơi ẩn cư của chồng bà, ông đã nhanh chóng xác định được mức độ phạm tội của cô . Giận dữ, ông ra lệnh cho con trai của mình để giết mẹ của họ. Bốn người con trai cả đã từ chối, và bị nguyền rủa bởi cha của mình để trở thành kẻ ngu. Parasurama tuân thủ, và sử dụng rìu chặt đầu mẹ mình. Đó là một  đánh giá cao cho sự vâng phục của con trai mình, Jamadagni tặng con trai của ông là một ân huệ. Parasurama yêu cầu rằng mẹ của ông được phục hồi cuộc sống và không có hồi ức nào về những gì đã được thực hiện, và anh em của mình và được giao lại trí thông minh bình thường của họ. Ngoài ra, ông yêu cầu cha mình để đảm bảo rằng không ai có thể đánh bại anh ta trong chiến đấu từ thời điểm đó.

Tranh Parasurama gặp Rama.

7-Hóa thân thứ 7 - Hoàng tử Rama: nhân vật chính trong sử thi Ramayana của Ấn Độ.


dienbatn giới thiệu.
Xin theo dõi tiếp bài 3.

Xem chi tiết…

CÁC VỊ THẦN ẤN ĐỘ TRONG TÍN NGƯỠNG BÀ LA MÔN VÀ HINDU GIÁO. BÀI 1.

4/11/2015 |
CÁC VỊ THẦN ẤN ĐỘ TRONG TÍN NGƯỠNG BÀ LA MÔN VÀ HINDU GIÁO.


Lời tựa : Lẽ ra các bài tiếp theo trong mục : MẬT TÔNG - ĐẠO PHÁP - HUYỀN MÔN là những bài trong tập 2 cuốn THẦN THÁNH TRUNG HOA do bác Nhược Thủy dịch. Tuy nhiên  dienbatn đăng tiếp loạt bài  CÁC VỊ THẦN ẤN ĐỘ TRONG TÍN NGƯỠNG BÀ LA MÔN VÀ HINDU GIÁO để thay đổi không khí . Loạt bài viết này , dienbatn biên soạn lại theo những tư liệu sưu tầm được, những tư liệu đã đăng trên internet . Do vậy có thể có nhiều đoạn không ghi nguồn xuất xứ . Mong các tác giả lượng thứ khi dienbatn trích dẫn mà không ghi nguồn. dienbatn chỉ biên tập lại thành hệ thống làm tư liệu của mình và giúp các bạn tư liệu khi cần khảo cứu. Xin chân thành cảm ơn các tác giả đi trước. Thân ái . dienbatn.
"   Tầng tầng lớp lớp các vị thần, nhiều đến mức có vị thần có đến chục vạn tên gọi và hóa thân…nhiều đến nỗi các Brahmin thông thái nhất cũng không thể nào nhớ hết tên các vị thần của điện thờ Hindu… nhiều đến mức có người nói rằng số lượng các vị thần Hindu còn nhiều hơn cả dân số Ấn Độ… Không thể “cảm” được văn hóa Ấn nếu không “hiểu” được hệ thống thần linh Hindu. Tham vọng của tác giả trong loạt bài về chủ đề này là “giản dị hóa” hệ thống thần linh Hindu để độc giả có thể đặt bước chân thành kính đầu tiên vào ngôi đền Ấn Độ giáo. Thiết nghĩ nghiên cứu Hindu (Ấn Độ giáo) là một việc rất đáng quan tâm với người Việt ta. Ở phía Nam, đã từng có những nền văn minh Óc Eo, Chân Lạp, Cát Tiên, Champa chịu ảnh hưởng sâu đậm và trực tiếp từ văn hóa Hindu. Ở phía Bắc, có nhiều hiện vật và phong tục của người Việt mang đậm tính chất Hindu. Ở miền Trung, suốt 500 năm qua, qua sự chung sống cùng nhau giữa người Chăm và người Việt, rất nhiều các yếu tố Hindu đã xâm nhập vào tâm thức người Việt sinh sống trên lãnh thổ xưa của Champa cho đến tận mũi Cà Mau. Với giới nghiên cứu, rất nhiều cán bộ, quan chức ngành văn hóa-bảo tàng tại các nơi có di tích Hindu (hầu như khắp từ Đà Nẵng cho tới Kiên Giang) rất cần trang bị kiến thức về Hindu để có thể “hiểu” và “cảm” các hiện vật vô giá của các nền văn minh Hindu đã từng tồn tại và phát triển rực rỡ tại Việt Nam như Óc Eo, Chân Lạp, Cát Tiên, Champa, để có thể bảo tồn các giá trị tinh thần độc đáo ấy. Ngay cả tôn giáo có nhiều tín đồ tại Việt nam hiện nay là Phật giáo thì cũng xuất phát từ vùng đất Hindu-Ấn Độ và Phật giáo đã truyền từ Ấn Độ sang Việt Nam trước khi đổ bộ lên Trung Hoa. Để hiểu Phật giáo sâu sắc hơn, theo thiển kiến của tác giả, có lẽ phải nghiên cứu Hindu để nhìn thấy lại “cái nền” mà trên đó Sakya Muni (Bậc thông tuệ họ Sakya- tức Phật Sakya) đã sử dụng để xây nên ngôi nhà Phật giáo (có thể thấy qua Jataka-chuyện tiền thân Phật), cũng như tránh các lầm lạc “tam sao thất bổn” do du nhập Phật giáo không chính thống từ Trung Hoa phải qua ít nhất hai lần phiên dịch và bị Hán hóa sâu nặng suốt cả ngàn năm nay. Có rất nhiều cứ liệu chứng tỏ rằng người Việt nhận nhiều ảnh hưởng của văn minh Ấn không kém gì văn minh Trung Hoa. Nghiên cứu văn minh Ấn, so sánh đối chiếu để khám phá lại các vết tích văn minh-văn hóa Ấn trong tâm thức Việt để hoàn thiện “bản sắc Việt” cũng là một con đường “thoát Hán” hiện nay cho người Việt." ( http://nguyenphunepal.blogspot.com/ )

MỤC LỤC.
1. Mở đầu.
1/ Điều kiện ra đời của đạo Bà La Môn và Hindu .
a/ẤN ĐỘ GIÁO (HINDUISM)
b/Ấn giáo thời Văn minh lưu vực sông Ấn Độ.
c/ Khái quát về đạo Bàlamôn và đạo Hiđu.
d/Khái quát về đạo Bàlamôn và đạo Hiđu.
2/ Sự giống nhau và khác nhau giữa  đạo Bà La Môn và Hindu .
2. Bộ tam thần Trimurti.
1/ Thần BRAHMA - Thần sáng tạo .
2/ Thần Bảo Tồn - Vishnu . ( Các hóa thân của Vishnu :
1-Mastya: Con cá từng bảo vệ cho Manu, thuỷ tổ loài người trong cơn đại hồng thuỷ.
2-Con rùa Kurina (kurma): chở hòn núi Mandara trên lưng trong khi khuấy đảo biển sữa.
3-Varaha: Con heo rừng đã cứu cả trái đất.
4-Narasimha: hoá thân sư tử vương giết chết con quỷ Hiranyakashipu - hiện thân của Ravana.
5-Chàng lùn Vamana: cứu thế giới khỏi tay con quỉ Bali
6-Parasurama: người tạo ra tầng lớp Satđếlỵ mới.
7-Hoàng tử Rama: nhân vật chính trong sử thi Ramayana của Ấn Độ.
8-Thần Krisna: vị thần tài năng với cây sáo mê hồn.
9-Sakya Muni (Đức Phật): cứu giúp những kẻ xấu lầm đường lạc lối trở về đường chính.
10-Kalkin (Kali Yuga) : Hoá thân thứ 10 này sẽ hiện ra cuối kỷ nguyên hiện tại để lập ra kỉ nguyên mới.
3/ Thần hủy diệt Shiva.
3. Các vị thần khác .
1/ Nữ thần Laksmi - nữ thần của sự giàu có và may mắn - Là vợ của Vishnu .Tên gọi khác: Mahalakshmi, Padma, Kamala … 
2/Thần Sarasvati, nữ thần của học vấn và là thần đỡ đầu của nghệ thuật, khoa học và ngôn từ - Vợ của Brahma . 
3/ Thần Parvati có các hóa thân :
* Nữ Thần Tuyết Parvati .
* Nữ thần Durga .
*Thần Kali .
* Thần Uma .
4/ Thần Kârttikeya - Con trai lớn của cặp vợ chồng Shiva- Pârvatĩ , đã có công diệt được quỷ Târaka, đem lại yên vui cho thế giới thần linh và được thờ làm thần chiến tranh.
5/  Thần Ganesha - Con thứ hai của Shiva và Pârvatĩ  - mình người đầu voi, được tín đồ Ấn Độ giáo tin thờ như một phúc thần, ban phát hạnh phúc thịnh vượng cho nhân loại .
6/Thần Indra. 
7/Thánh nữ Sông Hằng Ganga. 
8/ Thần Apsara - Vũ nữ trên Trời.
9 / Thần Garuda (đại bàng kim sí điểu) – con chim thần huyền thoại. Là vật cưỡi của thầnVishnu .
10/ Thần Khỉ Hunuman được coi là thần Sức Mạnh và thần Trung Thành
11/Rắn thần Naga.
12/ ​ Thần Hamsa - Là một con ngỗng hay con thiên nga . 
13/  Thần Bò Kamđênu .
14/ THẦN MẶT TRỜI SURYA.
15/Một vài nét về sử thi ấn độ mahabharata và ramyana .


1. MỞ ĐẦU .
1/ Điều kiện ra đời của đạo Bà La Môn và Hindu .
a/ẤN ĐỘ GIÁO (HINDUISM)
Ấn Độ giáo là tên chỉ những nhánh tôn giáo chính có tương quan với nhau và hiện còn tồn tại ở Ấn Độ. Khoảng 80% người Ấn tự xem mình là người theo Ấn Độ giáo và người ta cho rằng, có khoảng 30 triệu người theo Ấn Độ giáo sống tại hải ngoại.
Kể từ thế kỷ 16 các nhà truyền giáo và du phương thường nhắc đến tôn giáo và phong tục tại Ấn Độ và thường gọi người bản xứ này là “ngoại đạo” (en. pagan, de. Heiden) nếu họ không tự nhận là theo một trong tôn giáo lớn. Họ được gọi theo tiếng La Tinh là gentiles, tiếng Bồ Đào Nha là gentio và từ đó ra tiếng Anh là gentoo và tiếng Hà Lan, tiếng Đức là Heyden(Heiden). Đến thế kỷ 18 thì từ “Hindoo” (tiếng Ba Tư Hindu) bắt đầu được dùng và cuối cùng, trong thế kỷ 19, danh từ “Hinduism” trở nên rất thông dụng.
Như vậy thì từ “Hinduism” – được dịch là Ấn Độ giáo ở đây – không phải là một danh hiệu tự xưng của một tôn giáo Ấn Độ. Nhưng tên này lại ảnh hưởng đến quan điểm tự nhận của phong trào Tân Ấn Độ giáo (Neo-Hinduism) trong thế kỉ 19 và thế kỷ 20 vì nó gợi ý một sự thống nhất tôn giáo trong cuộc chiến giành độc lập Ấn Độ, và được dùng để phản ứng các khuynh hướng phân chia ngày nay.
Tuy vậy, từ Hinduism có thể gây hiểu lầm. Khi người ta bắt đầu dùng nó thì đã dựa trên hai điều kiện tiên quyết không đúng. Thứ nhất là người ta tin là từ phái sinh từ gốc Ba Tư Hindoo (Hindu) chỉ tín đồ của một tôn giáo nhất định. Thứ hai là người ta cho tất cả những người Ấn đều là tín đồ của tôn giáo này nếu họ không theo các tôn giáo lớn còn lại. Cả hai điều kiện tiên quyết bên trên đều bị nhìn nhận sai. Danh từ Ba Tư “Hindu” chỉ có nghĩa tương đương với từ có gốc Hi Lạp là “Indian”, và cả hai đều có gốc từ tên con sông lớn Ấn Độ (tiếng Phạn : sindhu, tiếng Ba Tư: hindu, tiếng Hi Lạp : Indós), đã mang đến đất nước nó chảy qua tên này : Hindus là những người xuất xứ từ nước Ấn Độ (india). Ngay khi người Hồi giáo nói tiếng Ba Tư đến xâm chiếm, phân biệt giữa tín đồ Hồi giáo và Hindus thì sự việc này cũng không có nghĩa là tất cả những người Hindu đều là tín đồ của một tôn giáo.
Ngày nay, người ta biết được hàng loạt tôn giáo của người Ấn Độ và các thông tin nghiên cứu ngày càng phong phú. Thế nên, từ "Hinduism", "Ấn Độ giáo", không thể mang nghĩa là một tôn giáo nhất định của người Ấn mà chỉ là cách gọi mang ý nghĩa bao quát, chỉ một nhóm tôn giáo có sự tương quan với nhau, nhưng khác biệt nhau, xuất phát từ Nam Á (Ấn Độ, Pakistan, Bangladesh). Các tôn giáo này dù có quan hệ với nhau nhưng cũng khác nhau như sự khác biệt giữa Do Thái, Phật, Thiên chúa và Hồi giáo. Chúng có những khái niệm thượng đế khác nhau, có những pho thánh điển khác nhau cũng như những phương pháp tu tập, hình thức thực hiện nghi lễ khác nhau. Chúng có những hệ thần học khác nhau, lập cơ sở trên những nhà thần học, những bậc đạo sư khác nhau, và tôn xưng các thần thể khác nhau như vị Thần tối cao.
Một cách gọi thường gặp nhưng không chính thức và cũng không chính xác của tín đồ Ấn giáo là Sanātana-dharma (सनातनधर्म), nghĩa là "Pháp trường tồn". Các tên khác như vaidikadharma (Ấn giáo Phệ-đà) hoặc brāhmaṇa, brāhmaṇya (Bà-la-môn giáo) chỉ nêu được những nhánh của Ấn Độ giáo mà thôi.
b/ Ấn giáo thời Văn minh lưu vực sông Ấn Độ
Lưu vực sông Ấn Độ với hai trung tâm Mohenjodaro và Harappa, thuộc Pakistan hiện nay.
Tôn giáo thời Văn minh lưu vực sông Ấn Độ (Indus Valley Culture, hưng thịnh khoảng 2300-1750 TCN) chỉ có thể được dựng lại một cách khiếm khuyết từ các công trình khảo cổ. Nhìn chung thì các cách diễn giảng những di tích này đều nhất trí ở điểm là những thành phần của nền văn hoá Indus vẫn tiếp tục tồn tại và có phần được hấp thụ bởi những tôn giáo cổ điển khác của Ấn Độ. Các hình tượng trên những con ấn bằng đá steatite (talc) ở những nơi như Mohenjodaro, Harappa và những khu định cư khác cho thấy những vị thần cây, được các nhà nghiên cứu xem là tiền thân của các loài La-sát (zh. 羅剎, sa. rākṣasa) và La-sát nữ (zh. 羅剎女, sa. rākṣasi) sau này. Một hình Thần thể (zh. 神體, sa. devatā) trong tư thế ngồi của một hành giả Du-già cho thấy là có thể nguồn gốc của Du-già bắt đầu từ thời văn minh Indus. Người ta cũng tìm thấy một Thần thể ngồi giữa đám thú, được xem là Thú chủ (zh. 獸主, sa. paśupati), "chúa tể loài cầm thú" và - có thể là sai - tiền thân của thần Thấp-bà (sa. śiva). Hình tượng được xem là dương vật dựng đứng (sa. liṅga, en. phallus) của Thấp-bà có lẽ chỉ là một sợi thắt lưng lõng và vì những thần thể này mang trang vật trên cánh tay nên các nhà khảo cổ chưa xác định được đây là hình tượng nam hay nữ. Tắm rửa theo nghi lễ giữ một vai trò quan trọng vì có nhiều dấu tích của những nhà tắm trang trọng được xây rất công phu (có thể được hấp thụ bởi các nhánh tôn giáo Ấn Độ sau này dưới dạng cái ao ở đền thờ). Tuy nhiên, người ta không tìm thấy dấu tích của một ngôi đền thờ nào. Việc diễn giảng những vòng đá như dương vật Thấp-bà và âm hộ (nền của các vòng đá) và các tượng phụ nữ bằng đất nung như các vị Thiên mẫu vẫn là những phỏng đoán.
c/ "Bà-la-môn giáo" và những bước phát triển mới .
Sự phát triển của tôn giáo Phệ-đà theo hướng nhấn mạnh sự thanh tịnh trong khi thực hiện tế lễ thần thánh đã mang lại một sự chuyên hoá trong giới Bà-la-môn trong thời đoạn 1000-500 TCN. Nó cũng đồng thời loại những người ở cấp dưới, phần lớn là không thuộc nhóm Nhã-lợi-an, thuộc cấp nô lệ (zh. 奴隸, sa. śūdra, cũng gọi là Thủ-đà-la 首陀羅), ra khỏi việc thực hành tế lễ cũng như nghiên cứu Phệ-đà. Trong tay của các Bà-la-môn, bộ môn tế lễ đã trở thành một khoa học xử lí mối tương quan giữa năng lực hữu hiệu trong quá trình tế lễ và quy luật vũ trụ. Những mối tương quan giữa đại vũ trụ và vi quan vũ trụ, giữa chân ngôn với năng lực đi kèm và đối tượng được chân ngôn chỉ đến cũng như giữa hành vi tế lễ và sự việc xảy ra trong tương lai, tất cả đã dẫn đến một quan niệm bao gồm thế gian và sự tế lễ mà trong đó, người ta không cần thần thánh nữa. Thời đoạn này của Phệ-đà giáo cũng được gọi là Bà-la-môn giáo. Trong thời gian này, người ta tìm thấy những gì ban đầu chỉ được nhắc đến sơ qua trong Phạm thư, và không lâu sau đó được các Áo nghĩa thư trình bày rõ ràng: Khái niệm tái sinh và quy luật nhân quả (nghiệp, sa. karman). Giáo lí mới này cho rằng, những hành động tốt cũng như xấu trong đời này sẽ mang kết quả trong đời sau và như thế, nó cũng khiến người ta rút lui dần từ mục đích nguyên thuỷ của Phệ-đà giáo: Một cuộc sống trên thiên đường giờ đây không còn là sự việc cứu cánh vì nơi đó vẫn chịu quy luật tái sinh tái tử cũng như nghiệp quả. Như vậy thì chỗ giải thoát không thể có được nơi chư thiên và cũng không thể đạt được qua việc cúng tế. Giải thoát chỉ có thể được thực hiện qua trí huệ và mục đích của nhận thức này là trạng thái bất tử (sa. amṛtatva), cơ sở của tất cả những hiện hữu: brahman (Phạm 梵), hoàn toàn tương đồng với ātman, cái tiểu ngã. Với khái niệm này, tôn giáo Phệ-đà đã vượt qua cái bóng của chính nó. Ý nghĩa của sự cúng tế được nghi vấn lại và con đường được mở rộng cho những phong trào tôn giáo cải cách mới như Phật giáo, Kì-na giáo, cũng như những nhánh vô thần khác (ví như Số luận phái, xem thêm Triết học Ấn giáo), hệ Bất nhị nhất nguyên (sa. advaitavedānta) và những tôn giáo thờ Nhất thần. Một vài phong trào nêu trên phản đối độc quyền thực hiện nghi lễ của Bà-la-môn và phản đối chế độ chủng tính (sa. varṇa) nói chung.
Tôn giáo Phệ-đà mất vị trí hàng đầu ở Bắc Ấn trong những thế kỉ cuối trước CN, tại Nam Ấn thế kỉ thứ nhất. Nó vẫn tồn tại, nhưng chỉ trong một phạm vi hạn chế và gây ảnh hưởng nhất định trong lĩnh vực triết học dưới dạng Di-mạn-sai (zh. 彌曼差學派, sa. mīmāṃsā). Sau sự phát hiện Phệ-đà của các nhà nghiên cứu châu Âu và được kích động bởi tâm tư hào hứng truy nguyên của họ, người Ấn Độ cũng đã quay về với giáo lí Phệ-đà với những dấu hiệu rõ rệt trong trào lưu Tân Ấn Độ giáo cải cách sau này.
( http://vi.wikipedia.org/wiki).
d/ Khái quát về đạo Bàlamôn và đạo Hiđu.
Nhìn xuyên suốt dòng lịch sử của đất nước Ấn Độ, ta nhận thấy Ấn Độ là nơi xuất phát tổ chức mọi mô hình tôn giáo của thế giới. Ấn Độ không những là nước đa sắc tộc, mà còn là một nước đa tôn giáo. Những tôn giáo quan trọng nhất của Ấn Độ phải kể đến đạo Bàlamôn về sau là đạo Hinđu và đạo Phật. Bàlamôn là phiên âm của từ Brahman, sau này cải biến thành đạo Hinđu, một tôn giáo chính của Ấn Độ, nên ngày nay gọi là Ấn Ðộ giáo. Ðặc biệt Bàlamôn hay Ấn Ðộ Giáo là một tôn giáo không có giáo chủ. Đạo Bàlamôn được truyền bá rộng rãi ở Ấn Độ trong nhiều thế kỉ nhưng đến khoảng thế kỉ VI TCN bị suy thoái do có sự xuất hiện của Đạo Phật. Đến khoảng thế kỉ thứ VIII, IX đạo Bàlamôn dần dần phục hưng và phát triển thêm nhiều yếu tố mới nên nó được gọi là đạo Hinđu. Như vậy đạo Hinđu chính là đạo Bàlamôn đã có những biến đổi. Vì thế đạo Bàlamôn và đạo Hinđu vừa có điểm giống nhau vừa có điểm khác nhau. Trong bài luận này chúng tôi sẽ so sánh đạo Bàlamôn và đạo Hinđu để thấy được sự giống nhau cũng như khác nhau cơ bản giữa chúng. Sự so sánh dựa trên các phương diện : Điều kiện ra đời, đối tượng sùng bái, giáo lý.
2/ Sự giống nhau và khác nhau giữa  đạo Bà La Môn và Hindu .
1.Điểm giống nhau:
- Hình thành trên cơ sở xã hội có sự phân chia về giai cấp, không có sự bình đẳng về giai cấp sâu sắc.
- Là những tôn giáo không có người sáng lập.
2. Điểm khác nhau:
a) Đạo Bàlamôn
- Đạo Bàlamôn ra đời sớm hơn đạo Hinđu. Nó bắt đầu vào khoảng thế kỉ đầu của thiên kỉ I TCN, do sự  phát triển của xã hội có giai cấp và do sự không bình đẳng cấp ngày càng sâu sắc. - Đạo Bàlamôn còn mang nhiều dấu vết của thời nguyên thủy do tập hợp từ các hình thức tín ngưỡng dân gian.
- Không có tổ chức giáo hội chặt chẽ.
b) Đạo Hinđu
- Đạo Hinđu ra đời muộn hơn. Đến khoảng thế kỉ VII, khi mà đạo Phật bị suy sụp ở Ấn Độ. Thì đạo Hinđu đã ra đời trên cở sở của đạo Bàlamôn. Nhưng đạo Hinđu cũng đã có thêm những yếu tố mới.
- Vì ra đời muộn hơn nên đạo Hinđu có tổ chức giáo hội chặt chẽ hơn và dấu tích nguyên thủy cũng mờ nhạt hơn.
II. Đối tượng sùng bái của đạo Bàlamôn và đạo Hinđu.
1. Điểm giống nhau: Đạo Hinđu và đạo Bàlamôn về cơ bản giống nhau về đối tượng sùng bái, điều đó được thể hiện như sau:
• Đều là các tôn giáo đa thần
• Cùng thờ một số vị thần như: Thần Brama (Vị thần sáng tạo thế giới), Thần Siva (vị thần phá hoại), thần Vinus (Vị thần bảo vệ, thần ánh sáng, thần bốn mùa, thần làm cho nước sông Hằng dâng lên và làm mưa tưới cho ruộng đồng tươi tốt).
• Hai đạo này đều có sự phân chia thành hai phái là: Phái thờ thần Visnu và phái thờ thần siva.
• Một số loài động vật cũng là đối tượng sùng bái của hai đạo này: trong đó phải kể đến khỉ và bò. 
• Ngoài ra còn có các thần: Thần đá, thần cây, thần lửa... 
• Đối với các đối tượng sùng bái của mình các hai đạo đều rất coi trọng và tôn kính được thể hiện thờ cúng, và cách thể hiện sự sùng bái của tín đồ.
2. Điểm khác nhau:
Về cơ bản đạo Hinđu và đạo Bàlamôn giống nhau về một số đối tượng sùng bái song cũng có những điểm khác nhau nhất định ở hai đạo này.
a) Đạo Bàlamôn:
-Vai trò của thần Brama giữ vị trí cao nhất. Nhưng vị trí đó không hoàn toàn thống nhất mà ở một số nơi thì coi thần Siva hoặc thần Visnu là cao nhất.
-Để thống nhất các phái đó thì đạo Bàlamôn đưa ra quan niệm thần sáng tạo Brama, thần phá hoại Siva và thần bảo vệ Visnu tuy là ba nhưng vốn là một.
- Bò là loài động vật rất được sùng bái.
b) Đạo Hinđu
-Khác với đạo Bàlamôn, đạo Hinđu bổ sung thêm nhiều yếu tố mới về đối tượng sùng bái được thể hiện như sau: Vẫn là thờ ba vị thần: Brama, Visnu, Siva. Tuy nhiên vị trí các vị thần này đã có sự đổi khác. Vai trò của thần Brama bị hạ thấp và vai trò của thần Siva được đề cao.
-Hình tượng của các vị thần thường rất kì dị như: Nhiều đầu, nhiều mắt, nhiều tay...
Khác với đạo Bàlamôn:
+ Thần Brama được thể hiện bằng hình tượng có bốn đầu chứng tỏ thần có thể nhìn thấu mọi nơi.
+ Thần Siva được thể hiện bằng hình tượng có mắt thứ ba ở trên trán, thần Siva ở đây lại có thêm mặt sáng tạo thể hiện qua linga - yoni.
+ Liên quan đến thần Siva có nữ thần Kali - vợ thần, thần Ganexa - con trai của thần. Nữ thần Siva được thể hiện bằng hình tượng một người phụ nữ mặt đen, miệng há ngoác, lưỡi lè ra. Thần Ganexa thì thể hiện là hình tượng có hình thù kì dị đầu voi mình người nhưng đó là thần trí tuệ và thần thịnh vượng.
-Thần Visnu được quan niệm là đã giáng trần 9 lần. Lần thứ 9 thì thần Visnu biến thành Phật Thích Ca. Đây là điểm khác với đạo Bàlamôn và nó chứng tỏ đạo Hinđu có tiếp thu một số yếu tố của đạo Phật, đồng thời đây cũng là thủ đoạn để đạo Hinđu thu hút tín đồ Phật cải giáo theo đạo Hinđu. Lần giáng trần cuối cùng
thì thần Visnu biến thành thần Kali. -Đạo Hinđu có sự giải thích sâu sắc cho nguyên nhân tại sao lại tôn thờ các loài đồng vật. Ví dụ: Thần khỉ sở dĩ được tôn sùng là vi có công giúp Rama (tức là Visnu) giết được quỷ Ravan đưa Sita trở về quê hương. Vì vậy thần Hunuman được coi là thần Sức Mạnh và thần Trung Thành. Thần Bò Kamđênu được thần Krisna chăn dắt, suốt đời đi theo Krisna. Thần bò còn được coi là mẹ của hầu hết các vị thần. Vì vậy cho đền nay ở Ấn Độ bò được coi là loài vật thiêng liêng. Sự tôn sùng đối với các vị thần và các loài vật ở đạo Hinđu có phần cao hơn trước. Ví dụ: Tín đồ đạo Hinđu kiêng ăn thịt bò, không dùng những đồ làm bằng da bò; Mỗi buổi sáng tín đồ phái Visnu dùng son vẽ lên trán, còn tín đồ phải Siva thì bôi lên lông mày một vạch ngang bằng than phân bò hoặc đeo ở cổ tay cái Linga; trong các chùa thờ lớn thì có tới hàng nghìn tu sĩ và hàng nghìn vũ nữ; Khi tế lễ các tu sĩ thường xoa dầu, sức nước hoa cho tượng ...
Về cơ bản đạo Hinđu và đạo Bàlamôn tương đối giống nhau về đối tượng sùng bái. Tuy nhiên đạo Hinđu là đạo xuất hiện sau và là kế thừa đạo Bàlamôn nên đạo Hinđu có sự phát triển hơn đạo Bàlamôn.
 Giáo lí đạo Bàlamôn và đạo Hinđu.
1.Điểm giống nhau:
- Cùng chú trọng thuyết luân hồi. Cho rằng con người sau khi chết linh hồn sẽ đầu thai nhiều lần.
- Sử dụng bộ kinh Vêđa
- Quan niệm về sự phân chia đẳng cấp trong xã hội: phân thành bốn đẳng cấp (chế độ đẳng cấp Vacna).
- Đạo tuyên truyền thuyết luân hồi và nghiệp báo, tổ chức các nghi lễ cúng tế thần thánh xa xỉ. 
2. Điểm khác nhau:
a) Đạo Bàlamôn: - Có một quyển kinh duy nhất là kinh Vêđa
 b) Đạo Hinđu:  -Có sự bổ sung nhiều quyển kinh thánh mới: Mahabharata, Ramayana, Purana…
 - Quy định thêm các chuẩn mực, luật lệ xã hội, hình phạt... một cách tỉ mỉ. Những quy định của đạo Hinđu đã tác động đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội Ấn Độ.
Đạo Bàlamôn và đạo Hinđu về giáo lí cơ bản giống nhau. Sau khi đạo Phật suy sụp, đạo Bàlamôn đã nhân tình hình đó dần dần được phục hưng,Thế kỉ VII - IX đạo Bàlamôn với tên gọi mới là đạo Hinđu - một tôn
giáo chính của Ấn Độ ngày nay gọi là Ấn Ðộ giáo. Ðặc biệt Bàlamôn hay Ấn Ðộ Giáo là một tôn giáo không có giáo chủ với sự bổ sung thêm nhiều yếu tố mới về đối tượng sùng bái, về kinh điển, nghi thức tế lễ... nhưng về cơ bản vẫn chú trọng về thuyết luân hồi, coi trọng sự phân chia đẳng cấp dựa trên cơ sở 4 đẳng cấp cũ còn xuất nhiều các đẳng cấp nhỏ gọi là Jati. Bàlamôn – Hinđu (Ấn Độ giáo) đã góp phần trong tôn giáo Ấn Độ nói riêng và trong văn minh Ấn Độ nói chung, văn hoá Bàlamôn đã sớm ghi dấu ấn ở Srilanka và các nước Đông Nam Á trong đó có Việt Nam, hiện nay vẫn còn đền thờ và các tín đồ ở các nước này. Bàlamôn cũng có ở 1 số nước Phương Tây như Anh, Mỹ… Tuy tín đồ ở Đông Nam Á của Hinđu chiếm
tỉ lệ thấp nhưng do Phật giáo (chiếm đa số trong dân cư) chịu ảnh hưởng sâu sắc của đạo Hinđu (thuyết luân hồi) nên có thể coi cư dân Đông Nam Á chịu ảnh hưởng sâu sắc của Hinđu một cách gián tiếp. Tìm hiểu, so sánh về đạo Bàlamôn - Hinđu giúp ta hiểu hơn, biết rõ hơn những nét trong văn minh Ấn Độ. Đúng vậy,
xúc cảm đẹp đẽ nhất mà chúng ta có thể chứng nghiệm chính là sự bí ẩn. Đó là loại xúc cảm ở ngay tại cái nôi của tất cả mọi nghệ thuật chân chính và khoa học. Những nét đẹp đó chúng ta có thể tìm thấy ở nền văn minh - tôn giáo của người Ấn Độ.
           ( nội dung được trích dẫn từ 123doc.org  ).
2. Bộ tam thần Trimurti.
Gồm ba vị thần tối cao trong Ấn Độ giáo: Brahma là đấng tạo hóa, Vishnu là đấng bảo hộ, còn Shiva là đấng hủy diệt. Cả ba tạo thành bộ tam thần Trimurti.
Trimurti hay Tam thần Ấn giáo là ba vị thần tối cao trong Ấn Độ giáo bao gồm Brahma là đấng tạo hóa, Vishnu là đấng bảo hộ, còn Shiva là đấng hủy diệt. Cả ba tạo thành bộ tam thần Trimurti, thường được gọi là "Brahma-Vishnu-Maheshwara." Họ là những dạng khác nhau của một người được gọi là Đấng Tối cao hay Svayam Thế Tôn / Thần Krishna / Parabrahman.
Ba vị thần tối thượng của Ấn Độ giáo Brahma, Vishnu, Shiva (Trimurti: tam vị nhất thể) có thể được giải thích như là những phương diện của một quyền năng duy nhất. Brahma là là thần sáng tạo ra vũ trụ (thần sáng thế). Vishnu tượng trưng tất cả những gì tích cực và xây dựng trong vũ trụ. Shiva là phản đề (antithesis), biểu thị những lực tiêu cực và phá hoại chung quanh ta. Ba vị thần ở Điện thờ Ấn giáo là những biểu tượng của các nguyên lý trừu tượng. Vũ trụ được điều lý theo nhịp thái hòa. Có vị thần Shiva tàn phá, thì lại có thần bảo lưu Vishnu, không có vị thần nào hiện hữu đơn độc. Shiva không tách rời khỏi Vishnu. ( nguồn Newvietart.com  ).
1/ Thần BRAHMA ( Phạm Thiên ) - Thần sáng tạo .


    Là thần của mọi tri thức, thường xuyên mang theo bộ kinh veda thiêng liêng.  Thần chui ra từ quả trứng vàng trôi nổi trên làn nước nguyên thủy, dùng hai mảnh vỏ trứng tạo nên trời đất. Brahma là hiện thân của Thượng Đế. Tuổi thọ của thần Brahma được tính là 100 năm trời. Mỗi năm trời có 365 ngày đêm. Mỗi ngày trời (kalpa) bằng 4 triệu 320 ngàn năm trái đất.
Thần Brahma có bốn tay, bốn đầu nhìn bốn phương trời. Thần Brahma phối ngẫu với nữ thần của khôn ngoan Sarasvati, nhưng cũng có khi với nữ thần diễn từ Vach hay với vú nuôi Gayatri.
Thần Brahma đã sống 51 năm trời. Mỗi lần sinh nhật của thần Brahma là một lần vũ trụ bị hủy diệt rồi được xây dựng mới.
     Trong những bộ Vêđa sớm nhất có ghi về Brahma như một vị thần sáng tạo và đầy quyền năng, thống trị cả vũ trụ. Dần dần sau đó triết học Vêđa hướng đến sự diễn giải về thuyết độc thần, nói về vũ trụ và khởi nguyên của nó, và quyền năng thiêng liêng của vị thần sáng tạo ấy dần dần được nhân cách hóa thêm. Vào thế kỷ thứ IV và thứ V sau Công nguyên, Brahma lúc ấy lại được xem là một trong ba vị có quyền năng cao tột bậc nhất trong Ấn giáo cùng với Vishnu và Shiva. 
Hình ảnh Brahma thường được thấy với ba mặt và bốn tay, mỗi tay cầm quyển kinh Vêđa, cầm bông hoa sen, cầm chùy, bắt ấn … đầu có vòng hoa và râu rậm; khi thì cưỡi con thiên nga Hamsa (tượng trưng cho tri thức), khi thì ngồi trên một bông sen mọc từ rốn của Vishnu, khi thì nằm trên mình con rắn Naga nổi bồng bềnh trên đại dương nguyên thủy.
     Theo thần thoại Hindu là người sáng tạo và lèo lái vũ trụ. Brahma là cha của các thần và của loài người. Trong ý tưởng xưa của người Ấn Độ, thần này cùng với các thần Vishnu, Shiva hợp thành bộ ba gọi là Trimurti. Vishnu và Shiva là hai thế lực đối nghịch nhau, còn Brahma là một thế lực cân bằng.
    Brahma còn là một sự nhân hóa của Brahma (Đại ngã). Ban đầu từ này được dùng để chỉ quyền năng thiêng liên trong một buổi lễ hiến tế, nhưng sau đó nó được dùng để chỉ quyền năng được gọi là "Tuyệt đối" đằng sau mọi sự sáng tạo.
     Trong khi thiền quán, thần Brahma đã tạo ra tất cả mọi yếu tố vật chất của vũ trụ và các khái niệm giúp cho loài người hiểu được các yếu tố đó. Cứ mỗi ngày, trong cuộc đời Brahma, vũ trụ lại một lần được sáng tạo, rồi lại bị hút đi mỗi đêm. Trong mỗi chu kỳ này có bốn giai đoạn nối tiếp, hay Yuga, bắt đầu bằng Krita Yuga, hay giai đoạn vàng son và kết thúc với Kali Yuga, tức là giai đoạn đầy xung đột và tuyệt vọng hiện nay của chúng ta.
Theo một câu truyện thần thoại, Brahma tạo ra nữ thần Satarupa kiều diễm từ chính cơ thể mình. Nàng ta đáng yêu đến nỗi Brahma không ngớt đăm đăm nhìn nàng và mỗi khi nàng nhích qua một bên để tránh cái nhìn của ông thì Brahma lại mọc ra thêm một cái đầu mới để có thể tiếp tục nhìn nàng. Cuối cùng Brahma vượt qua sự e lệ của nàng và cầu hôn với Satarupa. Họ lui về sống một nơi bí mật trong 100 năm thiên giới, cuối cùng thì Manu, con người đầu tiên đã được sinh ra.
     Một thần thoại khác về sự sáng thế nói rằng vào lúc khởi nguyên, vũ trụ chìm trong bóng tối. Sau cùng một hạt giống bồng bềnh trên mặt biển vũ trụ đã tạo nên một cái trứng đẹp đẽ, sáng ngời. Theo các tư liệu thiêng liêng có tên là "Luật Manu" thì "Đấng tối cao nằm trong trứng suốt một năm rồi tự dùng sức mình để tách cái trứng ra làm đôi". Ngài dùng một nửa để làm nên bầu trời hay thiên cung còn nửa kia thì tạo ra quả đất hay thế giới vật chất, ngài xếp vào giựa hai phân nửa quả trứng này nào là không khi, nào là tám hướng chính và trú xử muôn đời của nước". Từ nơi chính mình ngài lấy ra phần Hồn, trong đó hàm chứa cái thực thể và phi thực thể, rồi từ Hồn mà sinh ra sự ý niệm về bản ngã vốn là sự ý thức về bản thể của mình và là điều quan trọng nhất. Cái trứng cuối cùng để lộ ra thần Brahma, vị thần này tự tách mình ra làm hai người, một nam một nữ. Sau đó, hai thực thể này tạo ta toàn bộ thần còn lại của thế gian. Một lời kể khác về truyện thần thoại này nói rằng thần Brahma đã từ quả trứng mà ra dưới dạng một thực thể nguyên thủy mang tên là Purusha. Thực thể này có 1000 chân, 1000 tay, 1000 mắt, 1000 mặt và 1000 đầu. Để cho vũ trụ xuất hiện, thần đã tự lấy thân mình làm vật hiến tế. Từ cửa miệng ngài sinh ra loài người và thần linh, từ hố nách sinh ra bốn mùa, từ chân chân sinh ra đất và từ mắt ngài sinh ra mặt trời.
    Thần Brahma đôi khi cũng có tên là Narayana, hay "Người từ dưới nước hiện lên". Trong hình thức này, thần được xem như đang nằm trên một chiếc lá nổi trên mặt nước nguyên thủy, miệng ngậm ngón chân - biểu tượng của sự trường cửu.
    Việc thờ cúng Brahma có lẽ đã đạt đến đỉnh điểm vào các thế kỷ đầu tiên của thiên niên kỷ thứ nhất sau CN. Tuy nhiên, thần này thường được xem là ít quan trọng hơn các thần Vishnu và Shiva. Ngày nay chỉ có duy nhất một đền thờ dành cho thần này trên toàn cõi Ấn Độ.
     Sự mất đi tính chất tối cao của thần Brahma được giải thích trong một câu truyện thần thoại nói về nguồn gốc của thần Shiva. Theo truyện này, một ngày kia Brahma và Vishnu đang tranh luận xem ai trong họ là người có quyền năng nhất. Cuộc cãi cọ đang hồi sôi nổi nhất thì từ dưới đại dương của vũ trụ trồi lên một lingam (sinh thực khí nam) - vật biểu trưng có hình dương vật của thần Shiva - thật lớn, xung quanh là một vòng lửa, khi Brahma và Vishnu đang xem xét cái lingam thì nó nổ tung ra. Hai thần này nhìn thấy trong ấy là vị thần Shiva sáng tạo tối cao và họ phải tuân phục quyền uy của thần này.
     Thần Brahma thường được thể hiện với bốn đầu và bốn tay, mỗi tay cầm một cuốn kinh Vệ Đà, thánh điển của người Ấn Độ cổ đại. Các vật biểu trưng khác của thần gồm một chai đựng nước sông Hằng và một vòng hoa hồng. Thần cưỡi trên một con ngỗng hay con thiên nga có tên Hamsa. Vợ của Brahma là người đẹp Sarasvati, nữ thần của học vấn và là thần đỡ đầu của nghệ thuật, khoa học và ngôn từ.
Brahma (Phạm Thiên): người sáng tạo và lèo lái vũ trụ, là cha của các thần và của cả loài người. Brahma cùng với Shi va và Visnu hợp thành bộ ba gọi là Trimurti. Visnu và Shiva là hai thế lực đối lập, còn Brahma là thế lực cân bằng.
Brahma tạo ra nữ thần Satarupa từ chính cơ thể mình. Nàng đáng yêu đến nỗi Brahma nhìn nàng đăm đăm. Mỗi khi nàng nhích qua một bên để tránh thì Brahma lại mọc ra một đầu khác để nhìn. Cuối cùng Brahma đã chinh phục được Satarupa. Họ lui về sống ở một nơi bí mật trong 100 năm thiên giới. Và, MANU – con người đầu tiên được sinh ra…
Thần Brahma thường được thể hiện với 4 đầu và 4 tay, mỗi tay cầm một cuốn kinh Vệđà. Các biểu trưng khác là lọ nước sông Hằng, vòng hoa, ấn thí vô uý…

a- Thần Brahma trong tư thế sáng tạo thế giới:

b- Trong tư thế tu thiền định khổ hạnh .

c- Hình dáng Thiên Nhân giữa hư không .

d- Cưỡi cỗ xe có ngỗng thần Hamsa đang kéo .

e- Cưỡi ngỗng thần Hamsa .

f- Các hình dáng, hoá thân khác qua những nét vẽ của nghệ nhân Ấn giáo.




g- Hình Tứ diện Phật (Phật 4 mặt) của Thái Lan cũng là hình tướng hoá thân của Brahma:



Tượng Brahma khắc tại một ngôi đền ở Halebidu.

( Theo Minh Thông - Thegioivohinh )


Xin theo dõi tiếp bài 2. dienbatn giới thiệu.
Xem chi tiết…

THỐNG KÊ TRUY CẬP

LỊCH ÂM DƯƠNG

NHẮN TIN NHANH

Tên

Email *

Thông báo *