THẦN LINH VÀ BÙA PHÉP THÁI LAN . BÀI 1.

5/24/2015 |
THẦN LINH VÀ BÙA PHÉP THÁI LAN . BÀI 1.


ĐÔI LỜI MỞ ĐẦU : " Gần 95% người Thái theo đạo Phật Nam Truyền (bao gồm các phái Thiền Lâm Thái Lan, Dhammayuttika Nikaya và Santi Asoke). Một nhóm nhỏ người Thái Lan (4.6%) theo đạo Hồi, 0.7% dân số theo đạo Thiên Chúa. Ngoài ra, còn có các tôn giáo khác. Phật giáo Nam Tông ở Thái Lan được sự hậu thuẫn và quan tâm lớn từ Chính phủ. Các nhà sư được hưởng nhiều lợi ích do Chính phủ mang lại, ví dụ như được sử dụng các phương tiện giao thông công cộng miễn phí.
Phật giáo ở Thái Lan bị ảnh hưởng lớn bởi các niềm tin truyền thống về tổ tiên và các vị thần tự nhiên; các niềm tin này đã được đưa vào vũ trụ luận Phật giáo. Hầu hết người Thái xây một miếu thờ nhỏ trong nhà, là một ngôi nhà gỗ nhỏ nơi mà họ tin rằng là chỗ trú ngụ của các vị thần linh. Người Thái dâng thức ăn và nước uống cho các vị thần này để cho các thần hài lòng. Nếu các vị thần không hài lòng, thần sẽ đi ra ngoài miếu thờ và trú ngụ trong nhà của gia chủ và quấy nhiễu. Những miếu thờ này cũng được dựng lên ven đường ở Thái Lan, nơi mà công chúng thường xuyên dâng lễ vật lên các vị thần.
Trước khi Phật giáo Nam Tông phát triển, Bà-la-môn Giáo Ấn Độ và Phật giáo Phát triển đã hiện diện. Ngày nay, ảnh hưởng từ hai truyền thống này vẫn còn rõ nét. Các chùa Bà-la-môn đóng một vai trò quan trọng đối với tôn giáo dân gian Thái, và các ảnh hưởng từ Phật giáo Đại Thừa vẫn còn được phản ánh trong các hình tượng, ví dụ như Quán Thế Âm, một hình dạng của Bồ Tát Quán Thế Âm, người thỉnh thoảng vẫn được xem là biểu tượng Thái Lan . " ( http://vi.wikipedia.org/ ). 
Chúng ta đã khảo cứu qua các vị Thần của Trung Hoa, của Hin đu và Bà La môn Ấn Độ. Nay tiếp theo mạch , chúng ta khảo cứu tiếp về THẦN LINH VÀ BÙA PHÉP THÁI LAN . Các khảo cứu này do dienbatn sưu tập trong Huyền môn và trên Internet và biên tập lại làm tư liễu khảo cứu. Nếu có phần nào không ghi nguồn là do dienbatn không nhớ nguồn sưu tập - Xin các tác giả lượng thứ. Thân ái. dienbatn.

I. GIỚI THIỆU VỀ ĐẤT NƯỚC THÁI LAN.

Thái Lan (tên chính thức: Vương quốc Thái Lan, là một quốc gia nằm ở vùng Đông Nam Á, phía bắc giáp Lào và Myanma, phía đông giáp Lào và Campuchia, phía nam giáp vịnh Thái Lan và Malaysia, phía tây giáp Myanma và biển Andaman. Lãnh hải Thái Lan phía đông nam giáp với lãnh hải Việt Nam ở vịnh Thái Lan, phía tây nam giáp với lãnh hải Indonesia và Ấn Độ ở biển Andaman. chính do vị trí địa lý, văn hóa Thái Lan luôn chịu ảnh hưởng từ Ấn Độ và Trung Quốc cũng như từ những nước láng giềng Đông Nam Á khác. 
Theo sử sách Thái Lan, người Thái xuất xứ từ vùng núi Altai, đông bắc tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc từ 4500 năm trước, sau đó di cư dần xuống vùng đất hiện nay là Thái Lan. Vào năm 1238, người Thái thành lập một vương quốc Phật giáo tên Sukhothai (ở miền Bắc Thái Lan), dần thay thế vai trò của Đế chế Khmer đang tàn lụi (vào thế kỷ 13 – thế kỷ 15). 
Trong khoảng 400 năm, từ thế kỷ 14 đến thế kỷ 18, giữa người Thái và người Miến Điện láng giềng luôn xảy ra các cuộc chiến tranh và kinh đô Ayuthaya bị huỷ diệt ở thế kỷ 18. Năm 1767, một tướng người Thái gốc Hoa, Taksin, đứng lên chống quân Miến Điện giành lại độc lập và dời đô về Thonburi, bên bờ sông Chao Phraya, đối diện với Bangkok. Vua Rama I (1782) lên ngôi và chọn Bangkok (hay "Thành phố của các thiên thần") làm kinh đô. 

Văn hóa Thái Lan là một khái niệm bao hàm những niềm tin và các đặc trưng văn hóa bản địa trên vùng đất mà ngày nay được biết đến như là đất nước Thái Lan hiện đại, cùng với những ảnh hưởng văn hóa đến từ Ấn Độ, Trung Quốc, Campuchia và ảnh hưởng từ các nền văn hóa sơ sử của các quốc gia láng giềng Đông Nam Á khác. Chủ yếu, đó là những ảnh hưởng đến từ Phật Giáo, Ấn Độ Giáo, vật linh giáo và từ các nhóm dân di cư gần đây đến từ Trung Quốc và miền nam Ấn Độ.
Vương Quốc Thái Lan – Xứ sở của Chùa Vàng với các danh lam thắng cảnh nổi tiếng như Chùa Phật Ngọc; Chùa Quảng Phước; Bình Minh; Chùa Xá Lợi; Chùa Thuyền; Chùa Phật nằm…; Cung điện Hoàng Gia; Các danh lam thắng cảnh nổi tiếng Thailand Bangkok – Pataya…Các danh lam thắng cảnh nổi tiếng Thailand Bangkok – Huahin…
"NGÔI NHÀ THẦN LINH CỦA NGƯỜI THÁI LAN.
Đến Thái Lan, không chỉ có chùa tháp thờ Phật mà còn thấy vô số những “ngôi nhà thần linh” cầu kỳ, nguy nga rực rỡ ở khắp mọi nơi: bên cạnh nhà, ở trường học, khu buôn bán, công trường xây dựng hay các tòa nhà cao tầng… Lưu tâm một tí, chúng ta sẽ thấy người dân Thái luôn cung kính xì xụp vái lạy, khi đi ngang qua hay dâng cúng vật thực, nhang đèn, hoa quả và đủ loại đồ mã ngày ngày tại các “ngôi thần linh” này. Gọi “ngôi thần linh” là cách gọi theo nghĩa đen. Thực ra, đó là các ngôi miếu thờ các thần linh bảo hộ gia đình hay cộng đồng của người Thái.
1. Khoảng 97% người Thái Lan theo đạo Phật, nhưng họ cũng chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi khuynh hướng tôn sùng sức mạnh siêu nhiên của thuyết vật linh và các thần linh gốc từ đạo Hindu. Những nhân tố của các hệ thống tín ngưỡng khác biệt này đòi hỏi sự cầu cúng hằng ngày và những lễ nghi định kỳ. Như vậy bên cạnh đối tượng tôn kính của Phật giáo, người dân Thái còn tin vào các vị thần linh địa phương, thần đất, nữ thần cây, cô hồn, rắn thần Naga và các vị thần Hindu khác…Điều phổ biến là họ đặc biệt tin tưởng vào khả năng tác động, ảnh hưởng của vị thần đầy quyền năng này trong mọi công việc lớn nhỏ của cuộc sống đời thường.
Do đó, khi xây dựng nhà mới, cửa hàng buôn bán, kinh doanh…thì nơi trú ngụ của các linh hồn, thần thánh, ma quỷ đó cũng sẽ mất đi. Nhưng đối tượng thiêng liêng này do không có nơi cư trú sẽ trở nên giận dữ và tạo ra tai nạn, vận rủi cho kẻ phá bĩnh.
Vì vây để xoa dịu, người chủ buộc phải dâng cúng cho họ một ngôi nhà mới mà dân gian thường gọi là miếu thờ thần, có phần tương tự như miếu thủ chủ, miếu thổ địa hay miếu thờ phúc thần của người Việt. Việc thiết lập ngôi miếu thờ thần linh này nhằm đảm bảo cho gia chủ sức khỏe thịnh vượng và hạnh phúc. Khi các vị thần linh thỏa mãn, họ sẽ ban cho gia đình hay cộng đồng dân cư nơi này một cuộc sống an lành sung túc.
Để lập một ngôi miếu thờ thần, đòi hỏi người chủ nhà phải hỏi ý kiến của ác vị thầy lễ Bà La Môn hay tu sỹ để tìm ra đúng loại miếu phù hợp với nghề nghiệp hay tử vi của người chủ nhà. Thầy lễ sẽ tra cứu lá số tử vi và tính toán ngày giờ để tranh cử hành lễ nghi xây dựng, màu sắc ngôi miếu. Thầy lễ thậm chí còn chỉ dẫn kiến trúc sư phác họa nên kiểu thức những ngôi miếu này. Một số nguyên tắc thiết lập ngôi miếu thờ thần linh mà người Thái Lan rất tin tưởng là miếu thờ tốt nhất nên đặt trước một cái cây, không nên để ngôi miếu nơi mặt trái cửa; miếu nên đặt cùng dãy với điện thờ Phật trong cao ốc; không nên đặt miếu thờ đối mặt với nhà vệ sinh hay con đường; miếu thờ nên đặt hướng Bắc hoặc Đông Bắc; không đặt ngôi miếu dưới bóng của ngôi nhà…
Tuy nhiên, khi nhà cửa ngày càng đông đúc, để thỏa mãn những nguyên tắc trên, người dân đã lập miếu nơi đầu mái nhà. Đó là trường hợp phổ biến ở vùng đô thị, thị tứ.
2. Có 4 loại miếu thờ thần linh thấy khắp Bangkok, phổ biến nhất là San Jao Tii và San Pra Phoom, chúng thường tồn tại bên nhau. Phần lớn chúng được làm bằng gỗ tốt tương tự như những ngôi nhà, điện thờ Thái Lan truyền thống. Ngoài ra, chúng còn được đúc khuôn bêtông hay làm bằng đá…Nó thường thể hiện những kiểu thức kiến trúc ngoại nhập giống như đầu hồi chùa tháp Trung Hoa, hay phong cách đường cong uốn lượn xoắn ốc Khmer. Màu sắc ngôi nhà thờ thần thường được liên hệ với cung hoàng đạo, tử vi của người chủ đất. Nhưng người Thái gốc Hoa thường xây dựng miếu thổ chủ màu đỏ hay may mắn hay màu vàng ánh kim.
San Jao Tii: miếu thờ thổ chủ
San Jao Tii là linh hồn/thần linh của những vị chúa tể, kẻ đã sinh sống ở vùng đất/địa phương này. San Jao Tii điển hình có 4 cột đỡ cắm sâu vào lòng đất, tương tự như những ngôi nhà Thái Lan bằng gỗ kiểu cũ. Các loại miếu thổ chủ có nguồn gốc từ tín ngưỡng của thuyết vật linh, đó là quan niệm về sức mạnh và linh hồn của thế giới vô hình hiện hữu trong các dạng vật chất có thực. Giữa chúng và người chủ đất do đó phản ánh mối quan hệ lợi ích qua lại truyền thống của thuyết vật linh: vị thần đất chăm sóc, che trở và cho con người chỗ ẩn náu, nương tựa thì chính con người cũng phải chăn sóc, phụng sự cho chính họ. Đó là triết lý hỗ tương của cuộc sống.
Vị chúc Đất thường được biểu thị bởi cặp tượng lão ông – lão bà đặt trong miếu và cùng với việc cúng tiến các thiên thần, vũ công, voi, ngựa kễ cả cúng tiệc chiêu đãi họ. Thông thường, những linh hồn/thần linh của thuyết vật linh cư ngụ trong mọi đồ vật, ở mọi nơi từ những cánh đồng lúa, kho thóc, cây cối, cầu cổng, cũng như con người… Những ngôi miếu này được thiết lập nhằm an ủi, dỗ dành các thần linh hơn là thể hiện sự tôn kính, sùng kính thành tâm được duy trì, giữ gìn như đối với các thiên thần hay Đức Phật.
San Jao Ti
San Pra Phoom: miếu thờ phúc thần bảo hộ địa phương
San Pra Phoom là miếu thờ thiên thần bảo hộ hay thần linh ở địa phương. Nó được dựng lên một đế cột tương tự như điện thờ Phật giáo Thái Lan và phong cách uốn cuộn Khmer được thể hiện ở chóp miếu. Ở khu buôn bán Bangkok, chúng ta thấy mọi phong cách, chất liệu từ cổ điển đến những kiểu dáng đẹp đẽ hiện đại, công nghệ kỹ thuật cao; chúng là những kiểu thức bằng gỗ, bê tông, đá và cả thủy tinh.
Vào khoảng thế kỷ thứ 1, miếu San Jao Tii ngày càng mở rộng khi ảnh hưởng của Hindu giáo và Phật giáo bắt đầu xâm nhập vào Thái Lan. Cột trụ đơn lẻ được cho là biểu thị núi Meru, ngọn núi thiêng của Hindu giáo và trong quan niệm về vũ trụ Phật giáo, đó là trú sở của các thần linh. Để phản ánh thứ bặc tự nhiên của vũ trụ Hindu giáo (điều này không được thể hiện trong thuyết vật linh), miếu San Pra Phoom bởi vậy được dựng cao hơn và uy nghi hơn San Jao Tii. Bức tượng nhỏ biểu thị cho thiên thần bảo hộ thường được đặt bên trong miếu. đó là hình ảnh của vị thần Hindu Phra Cahi Mongkon với một tay cầm gươm, một tay cầm túi. Vị thần được tin rằng sẽ kiểm tra, xem xét và bảo hộ tài sản và cộng động dân cư. Một nhóm người hầu pha tạp, sặc sỡ nhiều màu và vật cưỡi đi cùng thần. Không giống San Jao Tii, loại San Pra Phoom này biểu trưng cho hệ thống vũ trụ của tín ngưỡng Thái Lan có ảng hưởng rộng lớn. Do đó ngoài việc dâng cúng thiên thần bảo hộ, người dân còn cầu xin sự giúp đỡ tại miếu San Pra Phoom và thỉnh thoảng tụng kinh niệm phật.
San Phra Brahm: miếu thờ thần Bốn Mặt Bahma.
Đây là ngôi nhà thờ thần linh mở rộng bốn mặt, thường thấy bên ngoài những ngôi nhà và văn phòng lớn, là nơi thờ vị thần Hindu Phra Brahma, vị thần sáng tạo. Sau khi mời thần về ngụ nơi miếu này thì nơi đó trở lên thiêng liêng; đặc biệt, nó có thể trở thành điện thờ có uy linh lớn và người dân lũ lượt kéo tới để bày tỏ lòng tôn sùng và biết ơn đối với vị thần Brahma linh thiêng và cầu xin sự giúp đỡ (như điện thờ Erawan). Bốn mặt mở rộng của điện thờ ứng với bốn mặt tượng thần Brahma bên trong, mỗi mặt lần lượt biểu trưng cho đức hạnh của lòng tốt, sự nhân từ, lòng thương cảm và tính vô tư, không thiên vị.
San Phra Brahm
Điện thờ Erawan
San Piyanda: miếu thờ thần giám sát
Đây là những ngội miếu tạm thời, có hình đơn giản. Nó đặc biệt được người Thái thường tạo lập trong quá trình xây dựng ác cao ốc để đảm bảo cho công nhân được an toàn. Nó tồn tại cho đến khi việc xây cất hoàn thành và một ngôi nhà thờ thần linh cố định được thiết lập.
3.Lễ khởi công thường được cử hành vào lúc 5 giờ 52 phút 32 giây (giờ) tốt. Nghi lễ bắt đầu đúng như cách thức nghi lễ mua bán đất. Thầy cúng/tế triệu nữ thần Đất Mae Thorani đến và ca tụng vị nữ thần Đất này. Sự gọi/triệu nữ thần Đất là nhằm loại bỏ, làm tiêu tan những yếu tố, tính chất tiêu cực/xấu xa của đất. Để tẩy trừ những tai ương trên đất, thầy cúng/tế truyền vào cái hố/lỗ đặc tính của cây cột đại diện cho vị nữ thần Đất, đặt 9 chiếc lá may mắn, hoa và tiề đặt cọt bằng gỗ khắc các ký tự Lanna may mắn để xua đuổi ma quỷ. Một ma trận gồm những hình vẽ hình học và 9 viên đá quý có mối liên hệ với các hành tinh trong thuật chiêm tinh cũng được bỏ xuống hố.
Sau khi các thầy cúng tụng kinh, mọi người cùng nhau hợp sức dựng ngôi nhà thờ thần. Hành động này được gọi là chuyển dịch, được thể hiện ở việc tụng kinh kể lể trước khi thỉnh triệu những thần lực vào bức tượng thần Phra Chai Monkon. Thần Phra Chai Monkon được biết đến như là vị thần canh giữ nơi kinh doanh, hàng quán, nhà cửa với một tay giữ túi tiền, một tay cầm gươm mà chúng ta có thể thấy ở phần lớn các loại miếu thờ San Pra Phoom. Năng lực thiêng từ thế giới thần linh trực tiếp đi vào bức tượng và một chiếc lá vàng được đặt trên đỉnh tượng. Người chủ đất là người duy nhất được phép tiến vào bên trong ngôi miếu để đặt tượng. Sau đó họ dâng cúng những người hầu (đồ mã), hoa và cột vải nhiều màu quanh tượng.
Bên cạnh ngôi miếu thờ thần San Pra Phoom, là ngôi miếu thờ San Jao Tii. Thầy cúng sẽ thực hiện một nghi lễ vắn tắt và đời thường hơn để khẩn cầu thần Đất và truyền đại những mong c ầu, sự tôn kính của công đồng qua các lời cầu nguyện đến với thần. Bức tượng nhỏ thể hiện mộ cặp đôi lão ông - lão bà già cả biểu trưng cho linh hồn của đất đặt trong điện thờ. Sau cùng, nhang được đặt trên mỗi các đĩa ở trên bàn cùng phía trước ngôi miếu, thầy cúng tụng kinh khoảng 30 phút trước khi rảy nước thiêng xuống mỗi ngôi miếu. Vậy là những thần linh đã có một ngôi nhà mới.
Một ngôi miếu của thần linh được xây dựng đòi hỏi phải luôn giữ được vẻ đẹp hấp dẫn, lôi cuốn và gây chú ý hết mực có thể. Thường người dân dùng mọi cách để trang trí chúng thật nguy nga, lộng lẫy hơn là xây dựng một ngôi miếu cho thật to lớn. Để làm được điều đó, đòi hỏi người chủ và người thân đều đặn dâng cúng nhang, đèn cầy, thức ăn và các vòng hoa hằng ngày. Để thần linh không bỏ đi, ngoài bức tựợng đôi lão ông – lão bà nhỏ đặt bên trong tranh thờ, người dân còn dâng cúng ngững mô hình voi, ngựa để cho thần linh di chuyển đây đó, thậm chí họ còn cúng tiến những phương tiện vận chuyển hiện đại như xe hơi đồ chơi, máy bay nhựa được để bên phía ngoài. Những dây đèn điện nhấp nháy, kiều cách được mắc quanh miếu để thần linh không lạc lối khi trở về nhà.
Người ta tin rằng thần linh của người chủ đất cũ sẽ gây ra những nguy hại vể sức khỏe nếu bị đuổi đi. Khi những người chủ mới đến, họ di dời nguyên trạng các ngôi nhà thờ thần này đi và ít khi phá hủy nó và xây một ngôi nhà thờ thần mới dọc theo vị trí cũ. Một lễ nghi di dời cũng sẽ được thầy cúng thực hiện đúng nghi lễ. Họ sẽ quyết định ngày, giờ di dời. Ngôi nhà thần linh của chủ cũ sẽ được chuyển tới khu chỉ định của nghĩa đại hay bãi tha ma.
Tác giả: Huỳnh Thanh Bình ".
BÙA PHÉP THÁI LAN !
 " Còn được gọi là Bùa Xiêm , nôm na gọi như vậy nhưng thực ra có rất nhiều trường phái , môn phái huyền thuật trên đất Thái ở các miền Nam , Bắc ! Thông dụng được nhiều người biết và tín ngưỡng cao là Pháp : NÔ MÔ BÚD THIA DẮ (Ngũ Phương Phật) , HINDU , JATUKHAM MARATHEP , KHUNPAEN v.v......
 Mỗi năm tổng số tiền thâu nhập được từ các dịch vụ bán Bùa , cho thỉnh phép (Amulet , Charm) trên Mạng của Thailand có năm lên tới hơn 300 triệu Mỹ Kim . Trong đó bao gồm tất cả các loại Bùa Phù , tình yêu , công danh , ăn nói , lên chức v.v........ với nhiều hình thức mang , đeo , nuôi , thờ , luyện ..... . Ví dụ như Gumanton (Ma con , Bé Linh Vàng) , Phorngung (Binh rừng , tướng núi), Lõ Lườn (Bùa hình dương cụ) v.v..... Dĩ nhiên những loại Bùa Phép do các Acharn (Sư Phụ) thiệt làm ra thì có số lượng và chất lượng rất là linh ứng , thường là làm để gây quỹ xây Chùa , cứu tế . Cũng không hiếm những loại Bùa , Phép dỏm mà người thỉnh tốn tiền cũng chẳng thấy kết quả gì . Vì do thỉnh trên mạng , tiền bạc thanh toán qua thẻ tính dụng hay ngân phiếu và do xuyên quốc gia nên việc đòi tiền lại cũng mong manh lắm khi gặp Bùa giả , điều này coi như là hên xui mà thôi . " 
Bùa Thái còn được gọi là Bùa Xiêm, nôm na gọi như vậy nhưng thực ra có rất nhiều trường phái, môn phái huyền thuật trên đất Thái ở các miền Nam, Bắc.
Có nhiều loại bùa khác nhau và có những tâm niệm khác nhau nhưng cùng chung một ý nguyện như, sức khỏe, cầu con, bảo vệ thai nhi, bảo vệ trẻ con, hạnh phúc gia đình.
Điểm qua một số loại bùa
Bùa Jatukham Ramathep.


Dùng hộ thân, hộ mạng, cầu tài lộc, sức khỏe và nhiều công năng khác, đây là loại bùa được sử dụng khá nhiều ở Thái Lan giá khoảng 300 USD.
Bùa Khunpaen.
Khun paen amulet Khunpaen bồng vợ.  Tượng khắc và vẽ bằng tay, hình Khum paen không giống như các Khumpaen thường thấy.  Theo truyện tích Khumpaen có một người vợ lẻ, trẻ đẹp, v.v. được Khumpaen rất yêu mến.  Khi được lệnh vua xuất quân đánh trận, Khunpaen mang nàng theo.  Nên hình Khunpaen bồng nàng là làm theo truyện tích này.  Bùa làm hoàn toàn bằng xương người, ngâm trong dầu âm linh (nam man prai) (800 USD).         

Bùa Khunpaen còn gọi là bùa Phép Miên Thái.Thông thường các Thầy Miên Thái muốn làm bùa cho linh thì hay ra nghĩa điạ để cúng và thu âm linh cho bùa thiêng. Dưới đây là những Buà được sên từ các Thầy Miên Thái cấp qua dịch vụ internet toàn cầu và có cả giá thành theo dollars. 
Bùa Nangrub - Pháp Lỏ Lườn (Buà Thờ Dương Cụ)
Thái (Thái Lan) gọi là Padlakig, Ấn (Ấn Độ) gọi Lingam.

Theo Huyền Thoại của Ấn Giáo một vị Thánh Sĩ Bà La Môn muốn lên tham khảo về giáo lý pháp thuật quan trọng nơi cung trời nên xuất hồn lên cõi cuả Ngài SHIVA, khi đến cung điện của Ngài SHIVA vị Tu Sĩ kia gỏ cửa nhưng không ai trả lời, Ông lại gỏ cửa to hơn nhưng vẩn không trả lời.  Ông lại tiếp tục gỏ lại chờ đợi sau cùng gỏ trở thành đập dộng đùng đùng như trống, cuối cùng thì Ngài Thiên Đế ShiVA cũng xuất hiện, nhưng với giáng đệu chậm rãi tay trái ôm quàng vai vợ là bà PARVATI ân ân ái ái để bước ra gặp vị Giáo Sĩ Bà La Môn.
Dĩ nhiên đều đó tỏ rỏ Ngài SHIVA đã chú tâm vào chuyện ân ái với vợ hơn chuyện chú tâm tới vị Thánh Sĩ kia.  Thấy được tâm ý của ngài Shiva, và sự đối sử thiếu tương kính, vị thánh tu tuyên cáo vì ngài Shiva thích làm tình, nên vị thánh tu sẽ tôn thờ dương vật của ngài Shiva thay vì hình tượng.  Vì vậy cho đến ngày nay Ấn giáo dùng dương vật để thờ ngài Shiva.  Dương vật dựng đứng từ Âm hộ của phái nữ.
Dương vật biểu tượng cho Shiva có tên gọi là lingam .  Lingam có nghĩa là “dấu hiệu” (sign).

Phallus hay lingam là biểu tượng cho Shiva cũng như sức sống, tái tạo.  Không chỉ riêng Ấn giáo , thời thượng cổ ở Greek cũng có thờ Lingam, tuy khác về truyền thống, nhưng cùng chung một ý nguyện như, sức khỏe, cầu con, bảo vệ thai nhi, bảo vệ trẻ con, hạnh phúc gia đình.  Có một truyền thống cổ tại Greek, ngươi vợ mới cưới trước đêm tân hôn thường phải qua một lễ, do một vị đạo sĩ, dùng lingam để chứng tỏ sự trong trắng và đồng thời ban phép cho người nữ dễ thụ thai.  Nhưng sau một số vị đạo sĩ không dùng lingam mà dùng dương vật của mình nên gây nhiều tai tiếng và từ đó tập tục này không còn nữa. 
Một truyền thuyết khác, một vị thánh tu rừng ghen giận khi người phối ngẫu của mình quá si mê ngài Shiva.  Trong cơn giận vị thánh tu rừng đã cắc bỏ dương vật của Shiva và ném xuống trần thế.  Khi lingam rơi xuống trần bể thành 12 đoạn, những nơi đoạn lingam này rơi xuống trở thành thánh địa.  Thánh địa có tên gọi là 12 Jyotirlingas, Jyotirlingas có nghĩa là quang minh lingam, hay hào quang lingam.  Là 12 nơi thường được hành hương tế lễ của các tín đồ Ấn giáo.
Lại một truyền thuyết dựa trên truyền thuyết trên, khi lingam Shiva rớt xuống trần.  Sức sống và lực của lingam còn quá mạnh, nên lingam chuyển động đi khắp nơi.  Khi di động sức nóng của lingam đốt cháy và tàn phá chốn đó.  Chư thánh thần hợp sức nhưng không khắc phục được.  Cuối cùng mẹ đất, Dharti Mata, hàng phục được lingam khi lingam chuôi vào âm hộ người. 
Có lẽ truyền thuyết này là một để giải thích tại sao lingam dựng đứng trong âm hộ.
Bùa Nangrub  là bùa tình ái phía sau khăn bùa là thịt bụng của một người đàn bà. Bùa này tên là Nang rub, có lẽ người bán chế ra tên, vì trong hình Nàng cầm lỏ lường để gần âm hộ mình. Bùa này có dùng âm linh có hình Khun paen amulet Khunpaen bồng vợ.Tượng khắc và vẽ bằng tay, hình Khum paen không giống như các Khumpaen thường thấy. Theo truyện tích Khumpaen có một người vợ lẽ, trẻ đẹp... được Khumpaen rất yêu mến.  Khi được lệnh vua xuất quân đánh trận, Khunpaen mang nàng theo. Nên hình Khunpaen bồng nàng là làm theo truyện tích này. Bùa làm hoàn toàn bằng xương người, ngâm trong dầu âm linh (nam man prai).
Ngày nay lỏ lường, Padlakig, tại Thái có sự liên quang mật thiết đến đạo Ấn giáo, là một phép môn cổ.  Đạo Ấn giáo được truyền vào Thái lan và thịnh thành lâu đời trước Phật giáo.  Tuy Phật giáo chiếm đa số tin ngưỡng của dân Thái, cũng như những nhu cầu và linh hiển vẫn còn ứng, phép môn này vẫn còn được lưu truyền, các hầu hết các pháp sư, tăng hay tục, đều biết về pháp môn này.  Chỉ khác biệt là các tăng khi cho phép thường pha lẫn với phép phật.
Bùa Rahu .
Bùa này làm riêng cho người nào muốn thỉnh. Sau có hai takrut. Tên tuổi người thỉnh được viết vào Takrut trước khi làm bùa.
Amulets Ajarn Wara.



Lóng xương ngón tay của Ajarn Wara – làm bùa tình ái. 
Phayant Nang Riek Rak.
Khăn phù Nàng kêu tình  –  Riek = kêu hay gọi, Rak = tình yêu.  Nàng một tay cầm nữ trang và tiền, một tay cầm vật gì, không rõ hình, để gần âm hộ.  So với hình trên, khăn phù của Ajarn Ming, tuy có khác, nhưng có lẽ chỉ là một.  Hình phù của Ajarn Min, Nang rub cầm lỏ lường để gần âm hộ.  Có lẽ bùa Ajarn Min hiệu nghiệm hơn vì có âm linh.  Các phù trên khăn này thường thấy vẽ cho các bùa tình ái.  Hình như phía dưới hết là tên phù và số thứ tự của bùa.


So với hình trên, khăn phù của Ajarn Ming, tuy có khác, nhưng có lẽ chỉ là một.  Hình phù của Ajarn Min, Nang rub cầm lỏ lường để gần âm hộ. Có lẽ bùa Ajarn Min hiệu nghiệm hơn vì có âm linh. Các phù trên khăn này thường thấy vẽ cho các bùa tình ái. Hình như phía dưới hết là tên phù và số thứ tự của bùa. 
Theo tra cứu, âm linh những người nữ chết vì tình, hay thất tình tự tử người Thái gọi là Hong Prai.  Hay dùng loại linh này để làm bùa tình yêu. Âm linh bị chồng ruồng bỏ hay bị chồng đánh chết cũng gọi là Hong prai.
Kruba Kiewma và Ajarn Neng Praitong .
Kruba Kiewma rất nổi tiếng về phép miên (bùa Khun paen). Bùa âm linh này làm chung với Ajarn Neng. Ajarn Neng có lẽ là người trung hoa nên được tiếng ở Singapor, Malaysia, HK. Bùa âm linh có tính làm bá sự cho chủ và có tài khiển các âm linh khác. Theo thông thường bùa loại âm linh theo người đeo bùa, thì có hình Khunpaen ngồi thiền và ở dưới là hình tượng âm linh. Bùa này âm linh, hình nhân sọ người, hai tay để trên đầu một sọ người, và ngồi trên 5 sọ người, để diễn ý âm linh trong bùa này có thể khiển các âm linh trợ cho chủ. Sau lưng bùa là một miếng xương người, và có phù Nắc & Nắc Mắc Pă’c Tắc. ( XuanAnBinh ).
CÁC VỊ THẦN THÁI LAN.
MỤC LỤC.
1 HÌNH TƯỢNG NỮ THẦN TÀI LỘC , TÌNH YÊU - NÀNG KWAK.
2. PHÚC THẦN VOI GANESHA .
3. KUMAN THONG .
4. XÂM BÙA - SAK YANT.
5. BÙA TAKRUT VÀ THUẬT VÔ KIM VÀNG GOLD NEEDLE TAKRUT
6. BÙA DƯƠNG VẬT PALAD KHIK.
7. DẦU MA THUẬT ĐEN - NAM MAN PRAI .
8. MA THÁI LAN - NHỮNG CON MA NỔI TIẾNG.
9. NGẢI THÁI LAN - (  Black Magic Thailand ) .
10.  MỘT SỐ GURU HUYỀN MÔN THÁI LAN TIÊU BIỂU.
11. MỘT SỐ CÂU CHÚ ĐỂ SỬ DỤNG KHI TÔM BÙA THÁI - Kata Chanting.
12. NHỮNG BÀI KINH QUAN TRỌNG KHI SỬ DỤNG VÀ THỰC HIỆN BÙA THÁI .
13. MA THUẬT ĐEN THÁI LAN .
14. GIẢI THƯ ẾM TẠI THÁI LAN .
15. BÙA NGẢI – CÁCH GIẢI TRỪ BÙA NGẢI VÀ PHÒNG CHỐNG .
....................................................................
Xin theo dõi tiếp bài 2. dienbatn giới thiệu .
Xem chi tiết…

CÁC VỊ THẦN ẤN ĐỘ TRONG TÍN NGƯỠNG BÀ LA MÔN VÀ HINDU GIÁO. BÀI 16.

5/23/2015 |
CÁC VỊ THẦN ẤN ĐỘ TRONG TÍN NGƯỠNG BÀ LA MÔN VÀ HINDU GIÁO.
Lời tựa : Lẽ ra các bài tiếp theo trong mục : MẬT TÔNG - ĐẠO PHÁP - HUYỀN MÔN là những bài trong tập 2 cuốn THẦN THÁNH TRUNG HOA do bác Nhược Thủy dịch. Tuy nhiên  dienbatn đăng tiếp loạt bài  CÁC VỊ THẦN ẤN ĐỘ TRONG TÍN NGƯỠNG BÀ LA MÔN VÀ HINDU GIÁO để thay đổi không khí . Loạt bài viết này , dienbatn biên soạn lại theo những tư liệu sưu tầm được, những tư liệu đã đăng trên internet . Do vậy có thể có nhiều đoạn không ghi nguồn xuất xứ . Mong các tác giả lượng thứ khi dienbatn trích dẫn mà không ghi nguồn. dienbatn chỉ biên tập lại thành hệ thống làm tư liệu của mình và giúp các bạn tư liệu khi cần khảo cứu. Xin chân thành cảm ơn các tác giả đi trước. Thân ái . dienbatn.

"   Tầng tầng lớp lớp các vị thần, nhiều đến mức có vị thần có đến chục vạn tên gọi và hóa thân…nhiều đến nỗi các Brahmin thông thái nhất cũng không thể nào nhớ hết tên các vị thần của điện thờ Hindu… nhiều đến mức có người nói rằng số lượng các vị thần Hindu còn nhiều hơn cả dân số Ấn Độ… Không thể “cảm” được văn hóa Ấn nếu không “hiểu” được hệ thống thần linh Hindu. Tham vọng của tác giả trong loạt bài về chủ đề này là “giản dị hóa” hệ thống thần linh Hindu để độc giả có thể đặt bước chân thành kính đầu tiên vào ngôi đền Ấn Độ giáo. Thiết nghĩ nghiên cứu Hindu (Ấn Độ giáo) là một việc rất đáng quan tâm với người Việt ta. Ở phía Nam, đã từng có những nền văn minh Óc Eo, Chân Lạp, Cát Tiên, Champa chịu ảnh hưởng sâu đậm và trực tiếp từ văn hóa Hindu. Ở phía Bắc, có nhiều hiện vật và phong tục của người Việt mang đậm tính chất Hindu. Ở miền Trung, suốt 500 năm qua, qua sự chung sống cùng nhau giữa người Chăm và người Việt, rất nhiều các yếu tố Hindu đã xâm nhập vào tâm thức người Việt sinh sống trên lãnh thổ xưa của Champa cho đến tận mũi Cà Mau. Với giới nghiên cứu, rất nhiều cán bộ, quan chức ngành văn hóa-bảo tàng tại các nơi có di tích Hindu (hầu như khắp từ Đà Nẵng cho tới Kiên Giang) rất cần trang bị kiến thức về Hindu để có thể “hiểu” và “cảm” các hiện vật vô giá của các nền văn minh Hindu đã từng tồn tại và phát triển rực rỡ tại Việt Nam như Óc Eo, Chân Lạp, Cát Tiên, Champa, để có thể bảo tồn các giá trị tinh thần độc đáo ấy. Ngay cả tôn giáo có nhiều tín đồ tại Việt nam hiện nay là Phật giáo thì cũng xuất phát từ vùng đất Hindu-Ấn Độ và Phật giáo đã truyền từ Ấn Độ sang Việt Nam trước khi đổ bộ lên Trung Hoa. Để hiểu Phật giáo sâu sắc hơn, theo thiển kiến của tác giả, có lẽ phải nghiên cứu Hindu để nhìn thấy lại “cái nền” mà trên đó Sakya Muni (Bậc thông tuệ họ Sakya- tức Phật Sakya) đã sử dụng để xây nên ngôi nhà Phật giáo (có thể thấy qua Jataka-chuyện tiền thân Phật), cũng như tránh các lầm lạc “tam sao thất bổn” do du nhập Phật giáo không chính thống từ Trung Hoa phải qua ít nhất hai lần phiên dịch và bị Hán hóa sâu nặng suốt cả ngàn năm nay. Có rất nhiều cứ liệu chứng tỏ rằng người Việt nhận nhiều ảnh hưởng của văn minh Ấn không kém gì văn minh Trung Hoa. Nghiên cứu văn minh Ấn, so sánh đối chiếu để khám phá lại các vết tích văn minh-văn hóa Ấn trong tâm thức Việt để hoàn thiện “bản sắc Việt” cũng là một con đường “thoát Hán” hiện nay cho người Việt." ( http://nguyenphunepal.blogspot.com/ ).

 14/ THẦN MẶT TRỜI SURYA.


Cửu Diệu- navagraha là một khái niệm của thiên văn học và chiêm tinh học Ấn Độ. Graha (từ tiếng Phạn ग्रह gráha—nắm giữ, cai quản là những vị thần vũ trụ có ảnh hưởng lên đời sống của các sinh vật, đứa con của mẹ Đất Bhumidevi. Theo chiêm tinh học Ấn Độ, navagraha (tiếng Phạn: नवग्रह- chín vị thần cai quản) là các vị thần chính ảnh hưởng đến các sinh vật trên Trái Đất.
Tất cả các navagraha đều tương ứng với chuyển động của các ngôi sao nhất định trong vòng hoàng đạo. Các sao này bao gồm: Sao Hỏa, Sao Thủy, Sao Mộc, Sao Kim, Sao Thổ, Mặt Trời và Mặt Trăng cũng như là vị trí của chúng trên bầu trời, La Hầu ("giao điểm Mặt Trăng Bắc" hay "giao điểm Mặt Trăng thăng") và Kế Đô ("giao điểm Mặt Trăng nam" hay "giao điểm Mặt Trăng giáng")
Theo vài tài liệu, các graha là những dấu hiệu ảnh hưởng, chỉ ra ảnh hưởng của nghiệp (karma) lên hành vi của các sinh vật. Bản thân chúng không tạo nghiệp , chúng chỉ là các dấu hiệu chỉ dẫn.
Theo văn bản chiêm tinh Prasna Marga, còn có nhiều thực thể tinh thần khác được gọi là graha hoặc linh hồn. Tất cả chúng (trừ cửu diệu) đã được tạo ra từ cơn giận của thần Shiva hay là Rudra. Nhiều graha có bản tính ác nhưng cũng có một số ít mang tính thiện. Trong Kinh Thư cổ của Ấn Độ (purana), dưới đầu đề 'Graha Pinda', người ta đã liệu kê các grahas (linh hồn hay thực thể tinh thần) nào được tin rằng có thể làm hại trẻ em và những người khác. Cũng trong Kinh Thư, ở nhiều đoạn, tên của nhiều graha cũng được đề cập, ví dụ như 'Skhanda graha' được tin rằng có thể tạo ra lầm lạc.
Surya (Devanagari: सूर्य, sūrya) là vị thần chính, thần Mặt Trời, một trong ba ngôi tối linh (Adityas), con trai của Kasyapa và vợ của ông là Aditi, hay là con của Indra, hay của Dyaus Pitar (tùy theo phiên bản). Ông có mái tóc và cánh tay bằng vàng ròng. Cỗ xe ngựa của ông được kéo bởi bảy con ngựa, tượng trưng cho bảy Luân xa. Ông là "Ravi" hay là người cai quản ngày Chủ Nhật ("ravi-var").
Trong các văn bản Hinđu Giáo, Surya được cung kính miêu tả như một hiện thân hữu hình của ông Trời mà mọi người có thể nhìn thấy hàng ngày. Hơn nữa, Shaivites và Vaishnavas thường đề cập đến Surya như là một hiện thân của Shiva và Vishnu. Ví dụ như, mặt trời được Vaishnavas gọi là Surya Narayana. Trong thần thoại Shaivite, Surya được xem là một trong tám dạng của thần Shiva, tên là Astamurti.
Ông được xem là năng lượng thanh lọc (Sattva Guna) và biểu trưng cho tâm hồn, Vua, những người cao quý và người cha.
Theo truyền thuyết Hinđu, trong dòng dõi của thần Surya có những vị thần nổi bật sau Shani(Sao Thổ), Yama(Diêm Vương) và Karna(Mahabharatha).
Người ta hiểu rằng tụng niệm câu Gayatri Mantra hay là Aditya Hrudaya Mantra (Adityahridayam) sẽ làm cho thần Mặt Trời vui lòng.
Loại ngũ cốc tương ứng với Mặt Trời là lúa mì nguyên hạt. ( http://vi.wikipedia.org/ ).

" Surya theo Sanskrit có nghĩa là "Ánh sáng chói lọi huy hoàng", từ Surya theo văn minh India thường được xem là đồng nghĩa với mặt trời. Thần Surya là vị thần đứng đầu trong các thần liên quan đến các hành tinh. Vị thần này thường được mô tả ngự trên một cỗ xe do bảy con ngựa kéo. Bảy con ngựa này tượng trưng cho 7 ngày trong một tuần.
  Trong cõi thần linh có vị thần Vishwakarma là Thần Kiến trúc và Xây dựng. Ông này có một cô con gái là Sanjana (nghĩa mà mềm, mỏng manh) rất đẹp nhưng tính tình đỏng đảnh, khó chịu nên mãi chưa có ai đến rước có mòi trở thành "ống chề"…. Vishwakarma liền tìm đến Surya và ngỏ lời gả Sanjana cho Thần mặt trời. Vốn nể trọng bậc niên lão Vishwakarma nên Surya đồng ý không chút đắn đo.
    Sanjana về với Surya một thời gian thì thói đỏng đảnh lại trỗi dậy. Cô nàng nhận thấy rằng sức nóng và ánh sáng chói lọi của Surya là cháy sạm làn da trắng toát của nàng và trên hết nàng luôn bị che khuất bởi hào quang của ông chồng vĩ đại. Vì làn da nàng trở nên sẫm màu, các vị thần gọi đùa nàng là Sandhya nghĩa là Chạng Vạng hi hi… Thế là Sanjana quyết định bỏ trốn. Nàng tạo ra một nàng Sanjana nhân bản vô tính ( he he… đây có lẽ là sản phẩm nhân bản vô tính đầu tiên trong lịch sử) giống nàng như đúc và gọi là Chhaya, nghĩa là "cái bóng" (các bạn chú ý đến tên Chhaya nhé vì đấy chính là nguyên gốc của từ Chhath-Tết của người Mithila). Nàng bố trí cho Chhaya thay thế mình để ở bên cạnh Surya và bỏ trốn về nhà Vishwakarma.
  Vì là cái bóng phản chiếu ngược lại mọi thứ của Sanjana nên Chhaya có các nết tốt mà nguyên bản không có. "Cái bóng" yêu quý Surya hết mực và chăm sóc chàng thật chu đáo. Không lâu sau, Chhaya sinh hạ cho Surya một đứa con trai và họ đặt tên cho đứa nhỏ là Shani (Crimson-màu đỏ cờ).
  Ở nhà mình, Vishwakarma nghe tin "vợ" của Surya sinh con trai trong khi con gái Sanjana thì đang ở nhà mình bấy lâu. Vốn biết sự trung thực và ngay thẳng của Thần Mặt trời nên ông đoán con gái mình đã làm điều gì mờ ám. Nổi cơn thịnh nộ, ông căn vặn Sanjana về thực hư của câu chuyện. Sanja đành phải thú thực chuyện nhân bản vô tính của mình. Vishwakarma liền ra lệnh Sanjana phải lập tức quay về với Surya và thu xếp mọi chuyện sao cho êm đẹp.
   Sanjana trở về nhà Surya và trút giận lên đầu Chhaya. Nàng hủy diệt Chhaya và biến Chayya trở thành ảo ảnh dưới bóng mặt trời.
   Surya không hề biết gì về câu chuyện nhân bản, không hề biết đã từng có một "Cái Bóng" mang tên Chaya hoàn toàn trái ngược với Sanjana, nên vẫn yêu thương vợ con thắm thiết. Một thời gian sau, Sanjana sinh hạ cho Surya một đứa con trai đặt tên là Yama – nghĩa là Tự chủ và có kỷ luật và một cô con gái đặt tên là Yamuna-nghĩa là Nhanh nhẹn (các bạn có nhớ đến huyền thoại về Diwali không? Chính là cô em gái Yamuna đã làm lễ tiệc linh đình khoản đãi ông anh Yama [Thần chết] 05 ngày trong một năm khi ông này nghỉ làm việc và đến thăm cô. Xin xem lại ở đây).  
  Vì Surya không hề biết Shani là anh em cùng cha khác mẹ với Yama và Yamuna nên Sanjana lo ngại một ngày nào đó quyền lực của Surya sẽ rơi vào tay con trưởng. Bà tìm mọi cách để ly gián làm cho cha con Surya-Shani không thể sống gần nhau được.
  Đỉnh điểm của câu chuyện là buổi lễ trưởng thành của ba đứa con của Thần mặt trời Surya với sự chứng kiến của tất cả các vị thần. Bị đầu độc bởi lời lẽ của Sanjana, Surya làm ngơ không sắc phong gì cho đứa con cả Shani. Thần mặt trời phong cho Yama làm "Dharmaraj" (Dharma= số phận, vận mệnh, Raj=vua ; Dharmaraj= vua cai quản số mệnh của loài người) với nhiệm vụ là "khám phá sự thật của mỗi con người". Người ta đã hiểu nhầm Yama là Thần Chết là bởi nhiệm vụ này của ông. Thực ra, Yama xuất hiện ở thời điểm cuối cùng của mỗi người chỉ để thu thập Nhân Thiện và Ác của mỗi người để đảm bảo người ấy sẽ hái đúng Quả đã gieo trong kiếp này vào những kiếp sau.
   Cô con gái Yamuna được phong làm chủ quản con sông thiêng sau này mang tên cô là Yamuna (các bạn có đi India thăm Taj Mahal ở Agra thì sẽ biết đến con sông Yamuna này). Nhiệm vụ của Yamuna là tẩy sạch mọi tội lỗi cho ai đến tắm ở con sông này, tương đương như dòng sông thiêng Ganga (sông Hằng) do con gái của Thần Núi Himalya chủ quản.
  Yama và Yamuna liền lên đường nhận nhiệm vụ, còn lại Shani bị làm ngơ, bơ vơ, hổ thẹn. Không thể chuyện trò thân mật với ngay cả cha mình, không được biết đến tình mẫu tử từ thuở nằm nôi, không thể chứng tỏ khả năng của chính mình, giờ vị trí xã hội còn dưới cả em mình, Shani không kềm chế được cơn giận dữ. Chàng tung một cước vào bụng của Sanjana nhằm trút giận lên cái tử cung đã sinh ra chàng. Sanjana cũng nổi giận xung thiên liền tung ra một lời rủa khiến Shani mất biến một chân. Shani ngã lăn quay giữa quảng trường trong khi Sanjana vẫn còn chưa nguôi cơn giận.  
   Surya ngồi trên ngai chứng kiến sự bùng nổ của hai cơn giận. Nếu ông có thể hiểu được lý do của cơn giận của Shani thì ông không thể nào hiểu nổi tại sao một người mẹ lại có thể nguyền rủa con trai mình đến mất một chân. Với trí tuệ mẫn tiệp, Surya hiểu ngay có vấn đề gì không ổn ở Sanjana. Ông liền vươn mình đứng dậy và tập trung tất cả ánh sáng chói lòa của mình vào Sanjana , yêu cầu bà này nói lên sự thật. Không thể chịu đựng nổi sức nóng của mặt trời và cũng không thể che giấu gì dưới ánh sáng mặt trời, Sanjana bèn xin lỗi Surya và Shani rồi kể lại toàn bộ câu chuyện nhân bản vô tính.
  Surya hoàn toàn bất ngờ trước câu chuyện về "Cái Bóng" Chhaya. Ông tỉnh ngộ và vô cùng hối hận bấy lâu nay đã không chăm sóc đứa con của người mình yêu thực sự. Ông liền tuyên bố trước sự chứng kiến của các vị thần công nhận Shani là con trai trưởng hợp pháp của mình. Ông hóa giải lời nguyền của Sanjana (nhưng vẫn không hoàn toàn 100% vì đó là lời nguyền của Vợ Thần mặt trời nên phải có uy lực nhất định; vì thế sau này Shani bị thọt). Surya đồng thời cũng phong cho Shani chủ quản Sao Hỏa (Saturn) – vì sao chủ quản Karma-Nghiệp của loài người; và chọn ngày thứ bảy là ngày của Shani (theo lịch India).
 Surya, Shani và Sanjana sau đó tổ chức bốn ngày lễ để tưởng niệm nàng Chhaya. Và lễ đó ngày nay là lễ hội Chhath ở vùng Nam Nepal và Bắc India. Chúng ta có thể thấy Chhath diễn ra vài ngày sau lễ Diwali của anh em Yama và Yamuna là vì từ câu chuyện này." (http://nguyenphunepal.blogspot.com/ ).




"Đền thờ Mặt Trời Konark (tiếng Oriya: କୋଣାର୍କ ସୂର୍ଯ୍ୟ ମନ୍ଦିର IPA: [koɳarkə]; còn được gọi là Konârak) là một đền thờ thần Mặt Trời được xây dựng vào thế kỷ 13 ở Konark, Orissa, phía Đông Ấn Độ. Nó được xây dựng bởi vua Narasimhadeva I của triều đại Đông Ganga khoảng năm 1250. Đền thờ được xây dựng theo hình dạng của một chiếc xe khổng lồ với bánh xe, cột trụ và các bức tường làm từ đá được chạm khắc rất tinh xảo. Một phần quan trọng của cấu trúc hiện nay chỉ còn là một đống đổ nát. Năm 1984, đền thờ đã được UNESCO công nhận là một Di sản thế giới, nằm trong Danh sách bảy kỳ quan tại Ấn Độ của NDTV và của Times.

Tên Konark xuất phát từ sự kết hợp của ngôn ngữ tiếng Phạn, Kona (góc) và Arka (mặt trời), trong tham chiếu đến các ngôi đền được dành riêng cho thần Mặt Trời Surya.
Ngôi đền cũng được gọi là chùa Đen bởi các thủy thủ tới từ châu Âu. Ngược lại, Đền Jagannath ở Puri được gọi là chùa Trắng.
Ngôi đền được xây dựng tại cửa sông Chandrabhaga nhưng ngày nay mực nước đã bị rút đi. Đền thờ đã được xây dựng theo hình thức một chiếc xe ngựa khổng lồ của thần Mặt Trời Surya. Nó có mười hai cặp bánh đá chạm khắc công phu, một số trong số đó có đường kính lên tới 3 mét  và được kéo bởi bảy cặp ngựa. Ngôi dền được xây theo phong cách truyền thống của kiến trúc Kalinga và được định hướng một cách cẩn thận về phía đông để các tia nắng mặt trời đầu tiên vào lúc bình minh chiếu rọi vào lối vào chính. Ngôi đền sử dụng nguyên liệu là đá Khondalite để xây dựng.

Ngôi đền ban đầu có cấu trúc chính để bái đường cao 70 mét (229 ft) nhưng hiện nay cấu trúc này đã không còn nguyên vẹn, chỉ còn lại những cột trụ chính của cấu trúc. Tiếp đó là một khán phòng (Jagamohana) cao 30 mét hiện nay vẫn còn tồn tại, và là cấu trúc chính trong tàn tích còn xót lại. Ngôi đền thờ còn nổi tiếng với tác phẩm điêu khắc Maithuna" (http://vi.wikipedia.org/ ).


Đền mặt trời Konark, Orissa ở Ấn Độ
" Đền mặt trời Konark nằm bên ngoài thành phố Puri ở Orissa, bên bờ biển của vịnh Bengal. Orissa xưa kia là trung tâm cực thịnh của đạo Phật ở Ấn Độ. Đền mặt trời Konark là biểu tượng cho kiến trúc mang phong cách Phật Giáo trong nền văn hóa Ấn Độ. Đền mặt trời Konark được xây dựng vào khoảng năm 1238 – 1264 dưới triều đại của vua Narasimha Deva. Ấn Độ có nhiều đền thờ Thần Mặt Trời nhưng đền mặt trời Konark là ngôi đền lớn nhất trong số đó.
Toàn bộ ngôi đền được xây dựng từ vật liệu là đá sa thạch với những chi tiết chạm trổ công phu và có hình dáng như một cỗ xe ngựa với 24 bánh xe và 6 con ngựa. Phía trước mặt đền là 2 con sư tử lớn canh giữ. Đền mặt trời Konark là 1 trong 7 kỳ quan của Ấn Độ và là 1 trong 30 di sản thế giới được Unesco công nhận. 



Bởi nằm ngay bên bờ vịnh Bengal nên ngôi đền Konarak hứng chọn những tia nắng mặt trời, chính điều này làm tăng thêm vẻ đẹp rực rỡ của đền Konarak. Đền mặt trời Konarak là minh chứng cho thời kỳ hưng thịnh của vương quốc Orissa và có liên quan mật thiết đến tín ngưỡng Bà La Môn và các hinh thức liên kết trong lịch sử. Konarak có nguồn gốc từ tên vị thần mặt trời trong truyền thuyết của Ấn Độ. Konarka là sự kết hợp của hai từ Kona và Arka. Đây được coi là một trong những trung tâm đầu tiên thờ thần mặt trời ở Ấn Độ.
Được vua Narasimha Deva cho xây dựng để mừng chiến thắng sau khi dẹp tan quân xâm lược Hồi Giáo. Sau những năm tháng huy hoàng, đền thờ đã bị bỏ hoang trong những năm đầu thế kỷ 17 sau khi xảy ra việc sứ giả của Hoàng đế Mughal Jahangir tới đây và xúc phạm, coi thường nơi này. Truyền thuyết kể rằng ngôi đền được dựng nên bởi Samba – con trai của Chúa Krishna. Samba bị bệnh phong và sau mười hai năm sám hối, ông đã được thần Surya chữa lành bệnh vì thế ông đã cho xây dựng ngôi đền này như lời cảm tạ đến thần mặt trời. 


Chạy quanh hai bên tường là hàng nghìn bức phù điều được cham khắc tinh tế với nhiều chủ để từ nhạc sĩ, vũ công đến những hình ảnh có nội dung về tình dục.
Bởi nằm ở vị trí địa lý đặc biệt nên đền thờ thần mặt trời Konarak là nơi đón những tia nắng mặt trời đầu tiên trên vịnh Bengal. 24 bánh xe bên ngoài đền thờ với những nét điêu khắc về những động cơ, trục bánh xe tượng trưng cho chu kỳ của các mùa và các tháng. Cũng giống như nhiều ngôi đến khác  ở Ấn Độ, đền thờ thần mặt trời Konarak được chia thành những khu vực riêng. Xung quanh đền thờ có rất nhiều các bức phù điêu chạm khắc cầu kỳ và tinh xảo đặc trưng của Ấn Độ. Những bức phù điêu ở đây rất đa dạng với nhiều hình ảnh và câu chuyện khác nhau từ những hình ảnh về các con vật thần thoại như sư tử, đến các nhạc sĩ, vũ công và đặc biệt rất nhiều những bức phù điều với hình ảnh khiêu dâm , tình dục. Đền thờ thần mặt trời Konarak còn là minh chứng cho những thành tựu của kiến trúc Kalinga – một trong những nét kiến trúc đặc trưng của Ấn Độ. 

Đền mặt trời Konarak không chỉ thu hút khách du lịch mà còn có rất đông người dân bản địa đến đây cầu khấn hàng ngày...


Những kiến trúc độc đáo mang màu sắc tín ngưỡng ở đến thờ thần mặt trời cho thấy sự cầu ký, tinh tế trong các tác phẩm nơi đây
Trước đây, Konarak đã từng có thời kỳ là một cảnh biển nhộn nhịp của Kalinga. Trong thời gian đó nơi đây được coi là nơi giao thương buôn bán và du nhập nhiều nền văn hóa của khu vực Đông Nam Á. Hiện nay đền thờ thần mặt trời Konarak là một trong nhưng di sản quan trọng của Ấn Độ, vào những ngày lễ quan trọng người dân Ấn Độ vẫn hành hương về đây để cúng bái tỏ lòng thành kính với thần Surya. Khách du lịch cũng tìm đến đây thăm quan khá đông để tìm hiểu về một trong những tín ngưỡng tôn giáo của Ấn Độ. Đền nằm trong một khung cảnh thiên nhiên khá đẹp, xung quanh là rừng phi lao và một số loài cây sống trên cát khác. Do địa hình nên xung quanh khu vực này vẫn còn khá hoang sơ vì thế càng làm cho ngôi đền trờ nên huyền bí và hấp dẫn với khách du lịch. ( NLH )."
Theo huyền thoại, ngôi đền được hoàng tử trẻ Samba, con trai của thần Krisna dựng nên để tỏ lòng tạ ơn đối với Surya – thần Mặt trời. Vì nhờ giúp đỡ của Surya mà Samba khỏi bệnh…

Còn theo các nhà sử học, ngôi đền được xây dựng vào những năm 1250, bởi vua Narashimhadev I. Và được các nhà khoa học Âu châu “khám phá” vào thế kỷ 19, ngôi đền đã nhanh chóng nhận được sự quan tâm của các nhà sử học cũng như khảo cổ học vì nét độc đáo của nó.
Những bánh xe đá được điêu khắc rất tỉ mỉ và tinh xảo
Ngôi đền chính được xây dựng mô phỏng theo chiến xa hoành tráng của thần Mặt trời. “Chiến xa” cao khoảng 50m này được kéo bởi bảy chú ngựa chiến oai phong (tượng trưng cho bảy ngày/tuần), và có 24 bánh xe đá (tượng trưng cho 24 giờ/ngày). Không những thế, từ các bức tường dang dở tìm thấy, người ta biết rằng các pho tượng, phù điêu ở đây được tạc trực tiếp vào đá sau khi ngôi đền cơ bản được dựng nên.

15/ Một vài nét về Sử thi ấn độ mahabharata và ramyana.
A/ Sử thi ấn độ mahabharata.
Một trang diễn tả Trận chiến Kurukshetra trong Mahabharata
Mahabharata (chữ Devanagari: महाभारत - Mahābhārata) là một tác phẩm sử thi bằng tiếng Phạn vĩ đại nhất của Ấn Độ cổ đại.
Mahabharata là một trong hai cuốn Sử thi tiếng Phạn (Sanskrit) Ấn Độ cổ, cuốn thứ hai là Ramayana. Mahabharata bao gồm hơn 74.000 câu thơ và những đoạn văn xuôi dài, tổng cộng khoảng 1,8 triệu từ, và là cuốn thiên sử thi dài nhất trên thế giới, gấp bảy lần tổng số câu thơ của hai bộ sử thi Hy Lạp cổ đại là Iliad và Odyssey cộng lại. Tác phẩm này được coi là "Đại Bách khoa toàn thư" về văn hóa truyền thống, về các truyền thuyết và về các thể chế chính trị - xã hội của Ấn Độ cổ xưa. Nó là tấm gương phản chiếu toàn bộ đời sống con người Ấn Độ truyền thống như lời một câu ngạn ngữ cổ: "Cái gì không thấy được ở trong Mahabharata thì cũng không thể nào thấy được ở Ấn Độ."
Cuốn sử thi này cũng chiếm vị trí quan trọng trong triết học và tôn giáo tại Ấn Độ, do nó còn chứa Bhagavad Gita, một kinh văn quan trọng hàng đầu của Ấn Độ giáo (đạo Hindu) dài chừng 700 câu thơ.
Cái tên Mahabharata có thể được dịch thành: Bharath Vĩ Đại, mang nghĩa là Ấn Độ Vĩ Đại hay còn được hiểu là "Câu chuyện vĩ đại về triều vua Bharath".
Theo dân gian, cuốn Mahabharata được coi là tác phẩm của Vyasa. Với độ dài đáng kinh ngạc, những nghiên cứu ngữ văn về cuốn sử thi có một lịch sử dài làm sáng tỏ những đầu mối về sự phát triển và những lớp ngữ nghĩa. Tuy còn nhiều tranh cãi, cuốn sử thi được ước đoán ra đời chừng thế kỷ 8 - 9. Theo BKTTVN thì Mahabharata ra đời khoảng thế kỷ 5 TCN và được sửa chữa dần, hoàn thiện khoảng thế kỷ 5 CN.
Nội dung cơ bản của bộ sử thi Mahabharata nói về cuộc chiến tranh khốc liệt giữa hai dòng họ Kaurava và Pandava, cả hai đều là dòng dõi vua Bharata vào khoảng thế kỷ 11 TCN đến thế kỷ 10 TCN. Do đó tên Mahabharata có nghĩa là "các truyện vĩ đại của triều đại nhà Bharata".
Bên cạnh nội dung chính, chỉ chiếm chừng 1/4 độ dài tác phẩm, bộ sử thi này còn có rất nhiều sự tích thần linh, những truyện ngụ ngôn về muông thú, những cuộc phiêu lưu và những câu chuyện tình thú vị, hấp dẫn li kì (như chuyện nàng Savitri cãi lại Diêm vương để được lấy anh chàng đốn củi...). Nhưng trong tác phẩm Mahabharata, các giáo sĩ Ấn Độ giáo đã đưa vào những giáo lý triết học tự biện siêu hình về pháp (dharma), nghiệp (karma), về sự giải thoát (moksha), những ẩn dụ triết học, châm ngôn xử thế...
Sử thi gồm 18 phần, gọi là 18 parva:
1.Adi
2.Sabha
3.Vana
4.Vitara
5.Udyoga
6.Brishma
7.Drona
8.Karna
9.Shalya
10Sauptika
11.Stri
12.Shanti
13.Anushasana
14.Ashvamedhika
15.Ashramavasika
16.Mausala
17.Mahaprasthanika
18.Svargarohana
Bộ sử thi Mahabharata đã trở thành nguồn cảm hứng cho các thi nhân, nghệ sĩ sáng tác những tác phẩm văn, thơ, nhạc, họa và những công trình kiến trúc, điêu khắc trong nền văn học - nghệ thuật Ấn Độ và những nước chịu ảnh hưởng của nền văn học - nghệ thuật này.
Tục ngữ Ấn Độ có câu:
"Cái gì không tìm thấy ở trong Mahabharata thì cũng không thể tìm thấy được ở Ấn Độ"

B.Sử thi ấn độ ramyana.
Rāmāyaṇa (Devanāgarī: रामायण) là một sử thi cổ đại viết dưới dạng trường ca tiếng Sanskrit và là một phần quan trọng của bộ kinh Ấn Độ giáo (smṛti). Đây là bộ sử thi bằng tiếng Phạn nổi tiếng thứ hai của Ấn Độ cổ đại. Người ta cho rằng tác giả của Ramayana là nhà thơ Valmiki.

Tên gọi Rāmāyaṇa là một từ ghép tatpurusha của Rāma và ayana "đi đến, tiến đến", được dịch ra là "những cuộc du hành của Rāma". Rāmāyaṇa bao gồm 24.000 câu trong bảy tập (kāṇḍas) và kể về câu chuyện của một hoàng tử, Rama của xứ Ayodhya, vợ là Sita bị bắt đi bởi vua quỷ (Rākshasa) vua xứ Lanka, Rāvana. Trong dạng hiện tại của nó, Valmiki Ramayana có niên đại có thể từ 500 TCN đến 100 TCN, hay là khoảng cùng thời với những bản đầu tiên của sử thi Mahabhārata.
Ramayana được cho là sáng tác bởi Vanmiki và được viết bằng văn vần vào khoảng thế kỷ thứ 3-4 TCN, sau bộ Mahabharata nhưng lại kể về chuyện xảy ra trước thời đại của Mahabharata.
Sử thi này gồm 24.000 câu thơ đôi, tức 48.000 dòng thơ, chưa bằng 1/4 khối lượng dòng thơ của bộ Mahabharata nhưng bố cục chặt chẽ hơn. Chủ đề của tác phẩm là câu chuyện tình duyên giữa hoàng tử Rama và người vợ chung thủy Sita.
Xưa kia ở vương quốc Kosala có ông vua già yếu tên là Dasaratha, có bốn người con trai do bà vợ sinh ra. Con cả Rama hơn hẳn các em về tài đức. Vua có ý định nhường ngôi cho chàng, nhưng vì bị trói buộc bởi lời hứa với bà vợ thứ hai Kaikeyî xinh đẹp cho nên đã đày Rama vào rừng 14 năm và trao ngôi lại cho Bharata, con của Kaikeyî.
Vợ Rama, nàng Sita, cùng em trai Laksmana tình nguyện theo Rama vào rừng sống ẩn, luyện tập võ nghệ. Quỷ vương Rãvana ở đảo Lanka lập mưu cướp nàng Sita đem về làm vợ. Hắn dụ dỗ và ép buộc nàng nhưng nàng đã kịch liệt chống cự. Mất Sita, Rama đau buồn khôn xiết. Chàng quyết tâm cứu bằng được vợ trở về. Trên đường đi, Rama gặp và giúp đỡ vua khỉ Xu-gri-va, sau đó chàng được tướng khỉ Hanuman cùng đoàn quân khỉ giúp. Cuối cùng Rama cũng c­ứu được Sita.
Nhưng sau chiến thắng vẻ vang đó, Rama nghi ngờ tiết hạnh của Sita, nổi cơn ghen dữ dội, không muốn nhận lại nàng làm vợ. Để Rama tin ở lòng chung thủy của mình, Sita đã bước vào lửa. Thần lửa A-nhi biết được nàng trong sạch, đã cứu nàng. Thấy vậy Rama vô cùng sung sướng, giang tay đón nàng. Hai người đưa nhau trở về kinh đô trong cảnh chào đón nồng nhiệt của dân chúng.
Ramayana ngợi ca chiến công và đề cao đạo đức của hoàng tử Rama, ca ngợi mối tình chung thuỷ của nàng Xita, đồng thời phản ánh sự phát triển của xã hội người Arian. Tuy là một tác phẩm ca ngợi đẳng cấp quý tộc vũ sĩ nhưng đã khắc họa được những gương mặt có tâm hồn trong sáng. Rama là nhân vật lí tưởng kiểu mẫu của đạo Hinđu, của đẳng cấp vương công quý tộc đồng thời là khát vọng của nhân dân về một vị minh quân, một anh hùng tài ba, đức độ, đem lại hạnh phúc cho xã hội. Sita thánh thiện, là mẫu người phụ nữ Ấn Độ cổ đại, một người vợ tiết hạnh, một người con gái nhân hậu, quả quyết, hi sinh quên mình. Tướng khỉ Hanuman có trái tim nóng bỏng nhiệt tình, là hoá thân của lực lượng quần chúng nhân dân làm hậu thuẫn cho những anh hùng chiến đấu cho tự do và công lý, giải phóng bảo vệ đất nước.. Tác phẩm cũng đã nêu bật được khát vọng chiến thắng cái ác, đem lại nguồn an ủi cho quần chúng nhân dân bị áp bức, do đó được nhân dân rất ưa chuộng. Vì thế, những câu chuyện và những nhân vật trong Ramayana đã được nhiều văn nghệ sĩ khắc họa trong thơ ca và trong các công trình mỹ thuật - điêu khắc ở Ấn Độ và các nước Đông Nam Á.
Đặc điểm nổi bật khiến Ramayana sống mãi trong lòng người đọc là sức gợi cảm của nó, với sự kết hợp của yếu tố tưởng tượng kì ảo và việc phản ánh hiện thực khách quan, nét hoang đường kì ảo và việc miêu tả tính cách con người trần tục, những cảnh oai hùng và những cảnh bi tráng.
Ramayana đã song hành cùng lịch sử dân tộc Ấn Độ dẫu qua nhiều sự gọt giũa của các thi sĩ vô danh, qua nhiều lời kể của các nghệ nhân dân gian, song vẫn là tiếng ca bất hủ về lòng hướng thiện, tư tưởng yêu hòa bình, đề cao sự công bình bác ái; với những triết lí mang tầm nhân loại có giá trị cho muôn đời: lẽ hài hòa, bổn phận, khát vọng, đúng như Vanmiki đã nói: "chừng nào sông chưa cạn, đá chưa mòn thì anh hùng ca Ramayana còn làm say mê lòng người và giải thoát họ ra khỏi vòng tội lỗi". 
( http://vi.wikipedia.org/ ).
" Ấn Độ đầy bí ẩn và huyền hoặc có thể làm choáng ngợp bất cứ ai mới tiếp xúc với nền văn minh thâm hậu này. Một trong những vấn đề làm rối nhiều “người ngoài” chưa quen thuộc với văn hóa Ấn nhất chính là hệ thống thần linh Hindu.
Tầng tầng lớp lớp các vị thần, nhiều đến mức có vị thần có đến chục vạn tên gọi và hóa thân…nhiều đến nỗi các Brahmin thông thái nhất cũng không thể nào nhớ hết tên các vị thần của điện thờ Hindu… nhiều đến mức có người nói rằng số lượng các vị thần Hindu còn nhiều hơn cả dân số Ấn Độ… Không thể “cảm” được văn hóa Ấn nếu không “hiểu” được hệ thống thần linh Hindu. Tham vọng của tác giả trong loạt bài về chủ đề này là “giản dị hóa” hệ thống thần linh Hindu để độc giả có thể đặt bước chân thành kính đầu tiên vào ngôi đền Ấn Độ giáo. Thiết nghĩ nghiên cứu Hindu (Ấn Độ giáo) là một việc rất đáng quan tâm với người Việt ta. Ở phía Nam, đã từng có những nền văn minh Óc Eo, Chân Lạp, Cát Tiên, Champa chịu ảnh hưởng sâu đậm và trực tiếp từ văn hóa Hindu. Ở phía Bắc, có nhiều hiện vật và phong tục của người Việt mang đậm tính chất Hindu. Ở miền Trung, suốt 500 năm qua, qua sự chung sống cùng nhau giữa người Chăm và người Việt, rất nhiều các yếu tố Hindu đã xâm nhập vào tâm thức người Việt sinh sống trên lãnh thổ xưa của Champa cho đến tận mũi Cà Mau. Với giới nghiên cứu, rất nhiều cán bộ, quan chức ngành văn hóa-bảo tàng tại các nơi có di tích Hindu (hầu như khắp từ Đà Nẵng cho tới Kiên Giang) rất cần trang bị kiến thức về Hindu để có thể “hiểu” và “cảm” các hiện vật vô giá của các nền văn minh Hindu đã từng tồn tại và phát triển rực rỡ tại Việt Nam như Óc Eo, Chân Lạp, Cát Tiên, Champa, để có thể bảo tồn các giá trị tinh thần độc đáo ấy. Ngay cả tôn giáo có nhiều tín đồ tại Việt nam hiện nay là Phật giáo thì cũng xuất phát từ vùng đất Hindu-Ấn Độ và Phật giáo đã truyền từ Ấn Độ sang Việt Nam trước khi đổ bộ lên Trung Hoa. Để hiểu Phật giáo sâu sắc hơn, theo thiển kiến của tác giả, có lẽ phải nghiên cứu Hindu để nhìn thấy lại “cái nền” mà trên đó Sakya Muni (Bậc thông tuệ họ Sakya- tức Phật Sakya) đã sử dụng để xây nên ngôi nhà Phật giáo (có thể thấy qua Jataka-chuyện tiền thân Phật), cũng như tránh các lầm lạc “tam sao thất bổn” do du nhập Phật giáo không chính thống từ Trung Hoa phải qua ít nhất hai lần phiên dịch và bị Hán hóa sâu nặng suốt cả ngàn năm nay. Có rất nhiều cứ liệu chứng tỏ rằng người Việt nhận nhiều ảnh hưởng của văn minh Ấn không kém gì văn minh Trung Hoa. Nghiên cứu văn minh Ấn, so sánh đối chiếu để khám phá lại các vết tích văn minh-văn hóa Ấn trong tâm thức Việt để hoàn thiện “bản sắc Việt” cũng là một con đường “thoát Hán” hiện nay cho người Việt." ( http://nguyenphunepal.blogspot.com/ ).
MỤC LỤC.
1. Mở đầu.
1/ Điều kiện ra đời của đạo Bà La Môn và Hindu .
a/ẤN ĐỘ GIÁO (HINDUISM)
b/Ấn giáo thời Văn minh lưu vực sông Ấn Độ.
c/ Khái quát về đạo Bàlamôn và đạo Hiđu.
d/Khái quát về đạo Bàlamôn và đạo Hiđu.
2/ Sự giống nhau và khác nhau giữa  đạo Bà La Môn và Hindu .
2. Bộ tam thần Trimurti.
1/ Thần BRAHMA - Thần sáng tạo .
2/ Thần Bảo Tồn - Vishnu . ( Các hóa thân của Vishnu :
1-Mastya: Con cá từng bảo vệ cho Manu, thuỷ tổ loài người trong cơn đại hồng thuỷ.
2-Con rùa Kurina (kurma): chở hòn núi Mandara trên lưng trong khi khuấy đảo biển sữa.
3-Varaha: Con heo rừng đã cứu cả trái đất.
4-Narasimha: hoá thân sư tử vương giết chết con quỷ Hiranyakashipu - hiện thân của Ravana.
5-Chàng lùn Vamana: cứu thế giới khỏi tay con quỉ Bali
6-Parasurama: người tạo ra tầng lớp Satđếlỵ mới.
7-Hoàng tử Rama: nhân vật chính trong sử thi Ramayana của Ấn Độ.
8-Thần Krisna: vị thần tài năng với cây sáo mê hồn.
9-Sakya Muni (Đức Phật): cứu giúp những kẻ xấu lầm đường lạc lối trở về đường chính.
10-Kalkin (Kali Yuga) : Hoá thân thứ 10 này sẽ hiện ra cuối kỷ nguyên hiện tại để lập ra kỉ nguyên mới.
3/ Thần hủy diệt Shiva.
3. Các vị thần khác .
1/ Nữ thần Laksmi - nữ thần của sự giàu có và may mắn - Là vợ của Vishnu .Tên gọi khác: Mahalakshmi, Padma, Kamala … 
2/Thần Sarasvati, nữ thần của học vấn và là thần đỡ đầu của nghệ thuật, khoa học và ngôn từ - Vợ của Brahma . 
3/ Thần Parvati có các hóa thân :
* Nữ Thần Tuyết Parvati .
* Nữ thần Durga .
*Thần Kali .
* Thần Uma .
4/ Thần Kârttikeya - Con trai lớn của cặp vợ chồng Shiva- Pârvatĩ , đã có công diệt được quỷ Târaka, đem lại yên vui cho thế giới thần linh và được thờ làm thần chiến tranh.
5/  Thần Ganesha - Con thứ hai của Shiva và Pârvatĩ  - mình người đầu voi, được tín đồ Ấn Độ giáo tin thờ như một phúc thần, ban phát hạnh phúc thịnh vượng cho nhân loại .
6/Thần Indra. 
7/Thánh nữ Sông Hằng Ganga. 
8/ Thần Apsara - Vũ nữ trên Trời.
9 / Thần Garuda (đại bàng kim sí điểu) – con chim thần huyền thoại. Là vật cưỡi của thầnVishnu .
10/ Thần Khỉ Hunuman được coi là thần Sức Mạnh và thần Trung Thành
11/Rắn thần Naga.
12/ ​ Thần Hamsa - Là một con ngỗng hay con thiên nga . 
13/  Thần Bò Kamđênu .
14/ THẦN MẶT TRỜI SURYA.
15/Một vài nét về sử thi ấn độ mahabharata và ramyana .

 "Aum Bhoor Bhuvaha Swaha, Tatsavitur Varenyam, Bhargo Devasya Dheemahi, Dheeyo Yo Nah Prachodayat. ''
dienbatn giới thiệu.
Xem chi tiết…

CÁC VỊ THẦN ẤN ĐỘ TRONG TÍN NGƯỠNG BÀ LA MÔN VÀ HINDU GIÁO. BÀI 15.

5/20/2015 |
CÁC VỊ THẦN ẤN ĐỘ TRONG TÍN NGƯỠNG BÀ LA MÔN VÀ HINDU GIÁO.

Lời tựa : Lẽ ra các bài tiếp theo trong mục : MẬT TÔNG - ĐẠO PHÁP - HUYỀN MÔN là những bài trong tập 2 cuốn THẦN THÁNH TRUNG HOA do bác Nhược Thủy dịch. Tuy nhiên  dienbatn đăng tiếp loạt bài  CÁC VỊ THẦN ẤN ĐỘ TRONG TÍN NGƯỠNG BÀ LA MÔN VÀ HINDU GIÁO để thay đổi không khí . Loạt bài viết này , dienbatn biên soạn lại theo những tư liệu sưu tầm được, những tư liệu đã đăng trên internet . Do vậy có thể có nhiều đoạn không ghi nguồn xuất xứ . Mong các tác giả lượng thứ khi dienbatn trích dẫn mà không ghi nguồn. dienbatn chỉ biên tập lại thành hệ thống làm tư liệu của mình và giúp các bạn tư liệu khi cần khảo cứu. Xin chân thành cảm ơn các tác giả đi trước. Thân ái . dienbatn.

12/ ​ Thần Hamsa - Là một con ngỗng hay con thiên nga . 


Hamsa là một từ tiếng Phạn, chỉ một loài chim sống ở nước, thường được cho là ngỗng hay thiên nga; song nó luôn được hiểu là linh điểu, biểu trưng thiêng của nền văn hoá Ấn Độ và các nước Đông Nam Á.
Theo tín lý Hindu, Hamsa là loài ngỗng vào mùa hạ luôn di trú đến hồ thiêng Manasarovar trên dãy Tuyết sơn (Himalaya). Manasarovar có nghĩa là “Hồ tâm tri”' bởi nó được thần Sáng tạo Brahma nghĩ đến đầu tiên trong tâm trí ngài. Hồ được đồng nhất với sự tịnh khiết: ai uống được nước của hồ này thì khi chết sẽ được siêu sinh lên cảnh giới của thần Siva và nước hồ có khả năng thanh tẩy tội lỗi của một trăm kiếp đời. Chính vì được sống ở nơi hồ nước thiêng liêng thanh tịnh như vậy nên Hamsa là một yếu tố quan trọng trong hệ biểu tượng của trí tuệ và cái đẹp. Hamsa có tên gọi khác nhau trong các ngôn ngữ của các nền văn hoá khác: tiếng Hindi là hans, Miến Điện thường gọi là hintha hay hinthar, Mon là hongsa, Shan là hong, Khmer là hong, Thái là hong... Ở Tây Tạng, thiên nga được gọi là ngang pa (Phạn: hamsa) và ngỗng là so bya (Phạn: karanda) thường được pha trónlãn^. lộn trong sự mô tả tranh tượng Hindu và Phật giáo dưới một tên gọi chung là Hamsa.
Thần Brahma cưỡi cỗ xe có ngỗng thần Hamsa đang kéo .
Hamsa là vật cưỡi của cả thần sáng tạo Brahma. Trong Upanishads, Hamsa sở hữu trí tuệ thiêng liêng của thần Brahman. Và cũng là vật cưỡi cho người phối ngẫu của thần Brahma là Sarasvati - nữ thần của sự thông thái, trí tuệ. Hamsa được tin là ăn những hạt ngọc trai và có khả năng tách sữa từ hỗn hợp sữa với nước, đó là biểu tượng của sự hiểu biết sáng suốt và uyên thâm. Trong truyền thống Hatha Yoga Ấn Độ, từ hamsa biểu thị sức mạnh sinh lực (prana) của bản ngã cá nhân (jiva), ở đó hơi thở đi ra tạo nên âm “ham” và hơi thở đi vào tạo nên âm “sa”. Những âm của hơi thở lặp đi lặp lại thở thành “so-ham” mang nghĩa “tôi là anh”, tại đó bản thân cá nhân hay nhận thức bản thân (Tôi) hoà tan hoàn toàn vào thể vô định hình (không có hình dáng rõ rệt) (Nó). Những yogin Ấn Độ vĩ đại thường được ám chỉ như là paramahamsa, có nghĩa là “con thiên nga tối thuợng”+. Thiên nga trắng cũng được nhận dạng với garuda trắng của Tây Tạng (mkhaldíng), như là vua của loài chim nước.
Sự bay lượn trên bầu trời bao la của Hamsa cũng biểu trưng cho sự giải thoát ra khỏi vóngchù kỳ luân hồi. Con vật cũng có ý nghĩa đặc biệt trong thuyết nhất nguyên luận của Advaita Vedanta - khi thiên nga sống trên nước nhưng lông chúng không bị ướt bởi nước.
Trong suốt thời kỳ Veda, Hamsa được cho rằng có sự liên hệ với Surya. Khi đó, nó biểu thị cho sức mạnh và sự kiên cướng hùng dũng. Với sự xuất hiện và thống nhất trong các kinh Upanishad, Hamsa có những thuộc tính như: biểu tượng của sự thuần khiết, riêng biệt, sự hiểu biết siêu phàm, hơi thở vũ trụ (prana) và sự thành tựu thiêng liêng nhất. Chủ nghĩa tượng trưng ở mức độ cao gắn liền với Hamsa vượt quá giới hạn của sự sáng tạo xung quanh nó: nó có thể đi trên mặt đất (prithvi), bay lượn trên trời, và cả bơi dưới nước.
Trong quan điểm nối kết Hamsa với một vài thuộc tính biểu thị bề trên, những vị thánh và đối tượng linh thiêng nhận được danh hiệu paramhamsa, ấy là Hamsa tối cao. Danh hiệu này được thêm vào trươc/ sau tên để biểu thị cho những người đặc biệt có vị trí cao trong đời sống tinh thần của cộng đồng dân cư.
Trong các di vật phát lộ trong khai quật Hoàng thành Thăng Long có nhiều tượng ngỗng thần Hamsa, bị gọi nhầm là uyên ương. Điều này cho thấy ngỗng thần Hamsa đã từng có mặt trong lịch sử văn hóa - tín ngưỡng xứ ta, song sau đó lại bị khuất lấp đến nỗi người đời sau không nhận dạng để định danh được chúng .
2. Trong Phật giáo, một trong những tiền thân của Đức Phật được kể trong Jataka là một Hamsa, lúc đó Ngài là một Hamsa đầu đàn, cai quản 96000. Hamsa khác. Có lẽ từ câu chuyện bổn sanh này, Đức Phật được tôn là “Hamsaraja”, và trong ngữ cảnh văn hoá Hán được dịch là “Nhạn vuơng”+. Theo đó, “Nhạn mon”^ được dùng để chỉ “Phật mon”^; “Nhạn đuờng”+ đồng nghĩa với “Nhạn vu”~, dùng để chỉ cho chùa Phật; và ngôi tháp “Hamsa-stupa” của xứ Ma-yet-đấ, thuộc Ấn Độ xưa được dịch là “Nhạn thap”'... Nói chung, Hamsá Nhạn trong Phật giáo Đại thừa được đồng nhất với Phật và các danh lam Trung Quốc cũng được định danh là Đại Nhạn Tháp, Tiểu Nhạn Tháp... . Tuy nhiên, mức độ ảnh hưởng của Hamsa trong các quốc gia Phật giáo Đại thừa có phần hạn chế hơn so với các quốc gia Phật giáo Tiểu thừa.
Hình tượng Hamsa cũng được dùng rộng rãi trong nghệ thuật Phật giáo thuộc trường phái Gandhara, cùng với hình ảnh của Đức Phật Shakyamuni. Nó được tôn kính linh thiêng trong Phật pháp. Motif thiên nga hay ngỗng Ba-la-mồn được phát triển rộng rãi vào giai đoạn đầu của mỹ thuật Phật giáo, đặc biệt được chạm khắc đá trang trí các trụ tròn hay đường viền trên tranh tô vẽ hay thiết kế ở các tranh thêu kim tuyến.
Ngoài Ấn Độ, Hinthá Hamsa được mô tả đặc biệt phổ biến trong nghệ thuật Miến Điện và là biểu tượng tộc người Mon. Nó cũng được vẽ trên cờ của phân khu Bago và quốc bang Mon, cả hai đều là thành trì Mon nổi tiếng trong lịch sử.
Con Hintha đẹp đẽ còn là biểu tượng tôn quý của người Mon. Đây là biểu tượng bất tử của chùa tháp - Hintha Gon Paya. Một trong những vị vua vĩ đại cai trị Bago là Dhammazedi, nắm quyền từ 1471 đến 1492. Trong 21 năm, ông không chỉ xây dựng nhiều chùa tháp ở Bago mà còn cho mạ vàng lại chùa Shwedagon của Yangon (sau đó nó được gọi là Dagon) 4 lần...
Brahma 4 đầu, 4 tay đang cưỡi Hamsa .
Thần thoại về loài chim nước phổ biến Hintha (Hamsa) của Miến Điện có nguồn gốc từ con sông Bago - một con sông chảy mạnh vào sông Yangon và từ đó đổ ra biển. Xưa kia, đây là một vùng rộng lớn chìm trong nước và chỉ duy nhất chóp của một cồn đất là đứng vững trước dòng chảy của con sông. Theo thần thoại, hai hoàng tử - người sau đó đã dựng nên vương quốc thấy một cặp chim Hintha với chiếc cổ lông màu vàng kim sáng rực, nghỉ trên chóp đất này. Cồn đất khô này quá nhỏ nên con chim mái phải đậu trên lưng của con chim trống. Hình tượng này sẽ không bị phát hiện nếu như những tin đồn về việc các tiểu thư Bago luôn lấy được một người chồng tốt lan truyền rộng ra khắp nơi.
Trong điêu khắc gỗ Miến Điện, con chim thần Hintha có nguồn gốc từ tộc người Mon. Truyền thuyết kể rằng Đức Phật đã từng bay qua nơi Pegu toạ lạc ngày nay, khi nhìn xuống đã thấy hai con vịt trời có lông màu sáng sống ở vùng ven biển bằng vàng. Con chim mái đậu trên đỉnh đầu con chim trống, và con chim trống đứng trên một hòn đá nhỏ. Đức Phật sau đó đã tiên đoán rằng ngày sau sẽ có một thị tứ to lớn phát triển ở nơi đây. Ngày nay, nơi đây được ghi dấu bởi chùa Hinthagone tuyệt đẹp.

Ngoài ra, nơi đây theo truyền thuyết Shan, kể rằng có một con chim khổng lồ gọi là tilanka đã mang hoàng hậu từ cung điện đến gần nơi Đức Phật được sinh ra, trong một khu rừng xa xôi. Hoàng hậu sau đó đẻ một bé trai. Khi đứa bé lớn lên, thagyas/ thần linh ban cho chàng một chiếc đàn hạc thần kỳ. Giai điệu réo rắc của chiếc đàn hạc đã dẫn tất cả voi trong khu rừng trở lại quê nhà, nơi con chim đã cắp mẹ chàng mang đi. Khi chàng lên ngôi vua, chàng đã gọi vương quốc là Muang Mao. “Mao” có nghĩa là chóng mặt hoa mắt, bởi sau khi con chim cắp mẹ chàng, bà đã bị hoa măt' chóng mặt. Do đó, con số chim Hintha hay Hamsa cũng được dùng nhiều trong đơn vị hệ thống đo lường thuốc phiện của Miến Điện (!).
3. Hamsa xuất hiện trong văn hoá các nước Đông Nam Á, trước hết là từ ảnh hưởng của Ba-la-mồn và sau đó, hội nhập vào trong mỹ thuật Phật giáo. Hamsa trong di tích Ba-la-mồn giáo là vật cỡi của thần Sáng tạo Brahma hay Sarasvati (vợ của Brahma) - nữ thần trí tuệ; theo đó, Hamsa được coi là linh điểu biểu tượng của trí tuệ. Từ biểu tượng cho trí tuệ đó, Hamsa được Phật giáo tiếp nhận làm biểu trưng cho sự phổ truyền Phật pháp (flight doctrine) và các chùa Phật giáo Tiểu thừa thường đặt tượng Hamsa trên đỉnh cột phướn dựng giữa sân chùa một cách trang trọng. Việc dựng cột phướn với tượng Hamsa - gọi là Hong, như vậy phổ biến ở chùa Khmer và chùa Thái Lan. Mặt khác, Hóng Hamsa cũng thấy trong các đồ án trang trí chùa tháp...
Ở Thái Lan, Hamsa được gọi là chim Hong. Nó cũng được cho là một con vật không tưởng đẹp nhất. Con vịt thần thoại này, giống thiên nga ở mình dài, cổ mảnh mái thon thả, và lù xù lông với đuôi xoè, duyên dáng ở nhiều chùa Phật miền Bắc Thái Lan. Ngoài ra, còn có những biến thể với đôi má phồng to đặc thù vốn là dạng chim Hong của Miến Điện Lan Na.
Một dạng hình tượng chim Hong tao nhã xuất hiện trên cổng, cửa và cửa sổ toà nhà tu viện, nơi chúng hoà quyện vào các đồ án trang trí trau chuốt, tỉ mỉ và trở thành phần không thể thiếu của khungcứa tò vò. Chim Hong cũng được đặt trên cột đínhchỏp mái của đền điện, chúng thường chiếm vị trí trung tâm hay lắc luđi+/ lạch bạch dọc theo sống mái nhà cùng với anh chị em của chúng.
Chim Hong đặt trên đỉnh của loại cột phướn saothong, cột gỗ cao, thấy ở miền Bắc Thái. Đỉnh của saothong treo miếng gỗ mỏng và dài hay là phướn vải gọi là thong. Khi đóng vai trò quan trọng, chim Hong thường trang nghiêm với một cái lọng hoặc mũ miện mọc lên từ lưng. Ở các chùa phía Bắc Thái Lan, chim Hong thỉnh thoảng được thể hiện thành tượng chạm trổ mỹ lệ gắn đầu mái thuyền rồng. Có thể những kiểu thức chim Hong trừu tượng là đặc điểm con chim canh gac' hộ pháp, những kiểu thức khác của hình chạm đầu mái thấy ở một vài chùa Lan Na và Lào. Sự khác biệt là ở sự cách điệu thon dài, uốn cong nơi đầu và cái mỏ hình móc, dài hay ngắn tuỳ theo từng nghệ nhân. Chim Hong được xem là vật trung gian giữa con người và thần Phật. Chim Hong thường ngậm ở mỏ một sợi dây hay dây leo treo một chiếc lá bo-đè^`: sự chuyển động theo những cơn gió nhẹ mang những lời cầu nguyện từ mặt đất lên cõi trên của Trời Phật.
Kiểu thức chim Hong hay Hamsa Miến Điện thấy ở chùa tháp Bắc Thái Lan mập lùn hơn và giống vịt hơn các kiểu thức của Thái Lan. Chim Hong làm bằng gốm đất nung Phan cho thấy sự chuyển tiépquâ' độ giữa cổ vật dài. Chim Hong được trang trí với motif đường tròn trên cánh và các mẫu trang sức trên cổ chim. Những tua dây leo xoắn cuộn từ mỏ chim trong khi đuôi mắt hình tam giác xoắn cuộn dài ra từ con mắt tròn nhỏ. Kích cỡ Hamsa thông thường phù hợp với trọng lượng. Con vật thuộc về thiên giới này thường được làm bằng đồng thiếc hoặc gốm, có đặc điểm mỏ dày, mập mạp và ngắn ngủn như bị cắt ngang đột ngột...
Nhìn chung, Hamsa từ một linh điểu thần thoại Hindu đã tiếp tục hoá thân thành Hongsa, Hintha, Hong…  trong Phật giáo Tiểu thừa và trong ngữ cảnh văn hoá Hán đã thành chim nhạn trong văn hoá Phật giáo Đại thừa. Ở xứ ta, Hamsa chỉ thấy trong di vật Hoàng thành Thăng Long, tức khá hiếm hoi so với chim phượng, uyên ương. Có điều, như đã nói trên, hình dáng cột phướn saothong có chim Hóng Hamsa đứng trên đầu cột ngậm lá phướn (gọi là thong) dường như khá tương đồng với cây cột phướn được kể trong các truyện dân gian truy nguyên về nguồn gốc cây phướn ở xứ ta. Có điều, ở đây, ngỗng trời Hamsa đã được thay thế bằng con quạ (có dị bản là diều). Phải chăng để khế hợp với tình tiết của câu chuyện về bộ lòng ruột bị vất bỏ hôi thối, tác giả dân gian đã biện sự bằng cách thay ngỗng trời bằng loài chim ăn tạp là quạ? Dù đổi thay như vậy, ý nghĩa biểu trưng của cây phướn vẫn hàm chứa nguyên nghĩa của nó. Ở đây cũng cần lưu ý thêm rằng, bộ lòng, với ruột già, ruột non lòng thòng (được cho là hình tướng nguyên mẫu của lá phướn) trong Phật giáo là biểu thị cho sự biến đổi vô thường: mọi vật thực vào đến ruột đều bị biến hoá thành cái khác, hoặc hữu ích hay chất thải hôi thối vô ích.  ( Huỳnh Thanh Bình ).

13/ Thần Bò Kamđênu .
Nhiều Đền thờ Bò được xây dựng trên khắp đất nước Ấn Độ
Trong văn hóa của người Ấn Độ, bò là loài vật thiêng liêng, được tôn thờ như những vị thần, Bò là linh vật ở Ấn Độ, nhất là với cộng đồng theo đạo Hindu. Những tín đồ Bàlamôn giáo thờ con bò, người theo đạo Bàlamôn tôn thờ con bò như đấng thiêng liêng của mình, họ không ăn thịt bò, thậm chí còn ví vẻ đẹp đôi mắt của thiếu nữ như mắt bò cái. Điều đó chứng tỏ ở đây xa xưa cộng đồng người ở đây đã lấy con bò làm tổ tiên của mình.Người Hindu coi bò là linh vật, nhưng trâu thì không.
Sự thần thánh của bò bắt nguồn từ việc bò là vật cưỡi của thần Shiva. Đây là con bò mộng Nandi. Bò thần Nandin hay còn gọi là Nandi, Nandil, còn có tên khác là Kapin (hoặc Kapil) được người ta cho rằng là hai mắt tròn, bò Nandin còn có con mắt thứ ba. Con mắt này gọi là thiên nhãn phát ra những phép thuật nhiệm mầu và là mối liên kết giữa con người và thần linh. Đối với người Chăm thì Nandin biến thành bò thần Kapin và trở thành nhân vật trong truyện cổ dân gian Chăm theo đó con bò này được thờ như là một vị thần có nhiều quyền năng.
Bò là linh vật ở Ấn Độ, nhất là với cộng đồng theo đạo Hindu.
Theo truyền thống, người Ấn chỉ kiêng ăn thịt bò tuy vậy họ không kiêng uống sữa bò người Ấn giáo lại không dùng thịt bò và khi tới Ấn Độ thì tránh mang những món hàng làm từ da thuộc vì bò được xem là con vật linh thiêng ở nước này.Sự tôn sùng bò như vậy nên ở Ấn Độ xảy ra hiện trạng là bò tự do đi lại lung tung và phóng uế bừa bãi .
Cũng ở Ấn Độ, việc tôn sùng quá mức đối với con bò đã khiến một con bò bị dị tật bẩm sinh hay một con bò 6 chân ở Ấn Độ đã được nhiều người dân nơi đây sùng bái, tôn thờ. Người dân Ấn Độ tin rằng con bò này mang lại may mắn cho bất cứ ai chạm vào cặp chân thừa trên cổ của nó. Một số người còn khẳng định rằng nó là biếu tượng của vị thánh Hồi giáo, người ta còn đến để xem cặp chân thánh và thể hiện sự kính trọng của họ bằng tiền quyên góp, mọi người cũng chào đón mẹ bò và xin phước lành. Hầu như ai cũng muốn chạm vào cặp chân thừa.
Trong văn hóa của người Ấn Độ, bò là loài vật thiêng liêng được tôn thò như những vị thần
Ngoài ra tại Ấn Độ và Mã Lai những vùng thuộc ảnh hưởng của Văn hóa Ấn Độ giáo, bò cũng có vai trò nhất định, chẳng hạn như bò tót được xem là biểu tượng của sức mạnh và sự cường tráng. Ở Thái Lan, bò tót đỏ (tiếng Thái: กระทิงแดง Krathing Daeng) là biểu trưng cho sản phẩm nước uống tăng lực nổi tiếng bò húc.

Thần bò Kamđênu được thần Krisna (kiếp thứ 8 của Visnu) chăn dắt, suốt đời đi theo Krisna. Thần Kamđênu được quan niệm là do thần Brama tạo ra đồng thời với đẳng cấp Bàlamôn và được coi là mẹ của hầu hết các thần. Vì vậy, cho đến nay, bò được coi là một con vật thiêng liêng. Tín đồ đạo Hinđu không những kiêng ăn thịt bò mà còn không dùng những đồ dùng làm bằng da bò.Đạo Hinđu cũng chia thành hai phái là phái thờ thần Visnu và phái thờ thần Siva.Mỗi buổi sáng, tín đồ phái Visnu dùng son vẽ lên trán, còn tín đồ phái Siva thì bôi lên lông mày một vạch ngang bằng than phân bò cái hoặc đeo ở tay, ở cổ cái linga. Tuy nhiên hai phái đó vẫn đoàn kết với nhau và có khi cùng cúng tế trong một ngôi đền. Đạo Hinđu cũng chú trọng thuyết luân hồi, cho rằng con người sau khi chết, linh hồn sẽ đầu thai nhiều lần. Mỗi lần đầu thai như vậy con người sẽ sung sướng hơn hay khổ cực hơn kiếp trước là tuỳ thuộc vào những việc làm của kiếp trước tức là quả báo (Karma).

Sự ra đời của thần Ganesha từ một mảnh vải là một phép lạ do Thần cha (Shiva) ban phát, vì thế đứa bé không sống lâu, trong một thời gian rất ngắn, một cái chết an lành sẽ đến với đứa bé yểu mệnh này, và ngay sau đó đầu đứa bé rơi xuống đất. Parvati đau đớn tột cùng. Nàng ôm lấy xác con và nức nở khóc. Nàng không ngớt gào lên: “Bé con của tôi, bé con của tôi”. Kinh ngạc, Shiva cầm lấy cái đầu của con mình và dịu dàng nói với nữ thần, nàng hãy thôi buồn khổ, ta sẽ cho con nàng sống lại. Thần Shiva khuyên nàng hãy chắp cái đầu này vào giữa hai vai đứa bé. Nữ thần Parvati làm theo lời chồng, nhưng cái đầu không khớp một cách vững chắc. Khi đó từ trên trời có một giọng nói vang lên: “Này ngài Shiva, cái đầu của con trai ngài sinh ra với một thương tổn do hành tinh của những kẻ tự vẫn tạo nên, vì vậy, nó không thể sống được với cái đầu đó, hãy đặt một cái đầu của ai đó lên hai vai nó và làm cho nó sống lại, và vì đứa bé con ngài đang có định mệnh hướng Bắc, hãy mang đến một cái đầu của ai đó đang hướng về phía Bắc và chắp vào cho đứa bé”. Khi nghe giọng nói của trời, thần Shiva gọi Nandin đến và trao cho nó nhiệm vụ đó.


Nandin lang thang khắp ba vũ trụ rồi đến Amaravati nơi trông thấy Airavata, con voi của Indra với cái đầu hướng về phía bắc. Một cuộc chiến giữa Nandin (tôi tớ của Shiva) và con voi, đạo quân của Indra. Cuối cùng, Nandin hùng mạnh đã chiến thắng, đem đầu voi Airavata về cho thần Shiva, thần Shiva vui mừng ôm hôn Nandin và đặt cái đầu voi lên giữa hai vai của con ngài. Ngay khi cái đầu voi đặt đúng khớp, đứa bé trở nên rất sinh động. Vị thần hơi lùn mập, bụng phệ, với khuôn mặt của vua – voi, sáng như mặt trăng và đỏ au như hoa hồng. Thần có bốn cánh tay, ba con mắt xinh đẹp của thần lấp lánh trước sự hiện diện của Shiva.




Đối với người Chăm, họ thần tượng con bò đực (Nandin) người Chăm gọi còn gọi là Limoaw Kapil. Bò Nandin có vai trò rất quan trọng không những trong kiến trúc, điêu khắc mà còn trong đời sống tâm linh tín ngưỡng tôn giáo của người Chăm mà ở bất kì địa vị nào trong xã hội, quý tộc, tu sĩ, thường dân. Tầng lớp Sudra (nô lệ) khi chết đều hỏa táng đều có hình tượng bò Nandin trong dàn hỏa táng và nó đã đi vào đời thường của từng con người Champa xưa cũng như người Chăm hiện nay. Trong đám tang của người Chăm Bà La Môn bò Nandin thường được làm biểu tượng “Heng” mà Chăm gọi là Limoaw Kapil. Limoaw Kapil là một trong những biểu tượng được vẽ đầu tiên và dán trên nhà hỏa táng và đòn khiêng.

Bò Nandin là con bò đực, có màu lông trắng như tuyết. Bò thần Nandin là vật cưỡi của thần Shiva có nhiệm vụ đưa linh hồn người chết qua con sông và nhiệm vụ bảo vệ, giữ gìn và dẫn đường cho linh hồn người quá cố lên thiên đường hòa nhập với đại linh hồn vĩ đại của thế giới cực lạc. Người Chăm quan niệm bò Nandin sẽ giữ gìn và bảo vệ linh hồn người chết thoát khỏi sự cám dỗ của ma quỷ giúp người chết đi đúng đường của đạo, con đường của cực lạc và chính bò Nandin là con vật chở linh hồn người chết được tái sinh.
Nữ thần Bò 
Bò Nandin được tạc tượng bằng đá và nghệ nhân làm bằng chất liệu đá. Với tư thế hai chân trước và hai chân sau quỳ phục, đây là tư thế phổ biến ở điêu khắc bò thần Champa. Ngoài ra thân bò có cục bướu tròn tạo cho con bò rất uy nghi, đặc biệt là có 3 mắt. Bò này được thể hiện rất nhiều ở các công trình kiến trúc và nhất là ở điêu khắc với ý nghĩa là Bảo vệ và thường đặt ở lối vào ngay ở trước cửa tháp Champa cổ. so sánh với bò thần Nandin khơme có những nét thô đầu to và sừng vuốt cong, không có trang trí hoa văn. Nhưng nhìn chung, có phong cách gần gũi với bò Nandin Chămpa.
Trong văn hóa của người Ấn Độ, bò là loài vật thiêng liêng, được tôn thờ như những vị thần, nhất là với cộng đồng những người theo đạo Hindu, bởi bò mộng Nandi vốn là con vật cưỡi của thần Shiva – đấng Hủy diệt, một trong ba vị thần tối cao nhất Ấn Độ giáo. Do đó, người Ấn Độ kiêng ăn thịt bò, tuy nhiên sữa bò vẫn được sử dụng.
Con bò được gọi là thánh Hindu demi-thần, hay còn gọi được gọi là Nandi; Nandi là một người cận thần của vị thần của Shiva. Ngôi đền Dodda Basavana Gudi được cho là ngôi đền lớn nhất thờ vị thần bò Nandi trên thế giới. Bò Nandin là linh vật thần Shiva (thần hủy diệt, một trong ba vị thần của Hindu) thường cưỡi, là “Mẹ của quá khứ và tương lai”, cung cấp sữa nuôi sống con người và giúp trị bá bệnh.
Ấn Độ là đất thánh của bò, khắp hang cùng ngõ hẻm, từ thủ đô tráng lệ đến từng hộ gia đình, bò thân thiết như thành viên trong nhà. Khác với khỉ quậy phá, quạ ồn ào; bò đủng đỉnh, sống chậm và vô lo như người dân Ấn. Có bò được mặc áo, có nhà hẳn hoi; còn bình thường chúng sống tự do, ăn ngủ, thải… đâu cũng được.
Bò ở Ấn Độ, còn hơn cả VIP, ai cũng phải nhường đường, nhường chỗ, kể cả nguyên thủ quốc gia. Bò cũng là nguyên nhân của vô số nạn kẹt xe vớ vẩn khi nổi hứng nằm ngang giữa đường. Nhiều nước xem thịt bò là thực phẩm số 1 còn Ấn Độ thì ngược lại, không ai dám ăn. Ăn thịt bò là phạm thượng, khi thần. Chỉ dám dùng chất thải của hậu duệ thần Nandin là nước tiểu và phân để chữa… bá bệnh, từ cảm mạo đến ung thư.
Ngôi đền Dodda Basavana Gudi được cho là ngôi đền lớn nhất thờ vị thần bò Nandi trên thế giới.

"Người nước ngoài đến Ấn Độ luôn lấy làm lạ khi thấy bò thả rông trên đường phố, có khi làm cản trở giao thông, bò xông vào quấy nhiễu những quầy hoa quả và hàng quán. Dần dần người ta vỡ lẽ, bò là con vật được bảo vệ. Theo tín ngưỡng Hindu, bò (cái) được coi là con vật thiêng, là biểu tượng của Mẹ - Trái Đất. Với những người di cư đến đây từ cổ đại và làm nghề nông, bò là thành viên gắn bó của gia đình. Bò cung cấp cho họ sữa, các sản phẩm từ sữa và những thứ thiết yếu như dầu đốt đèn (từ bơ) và phân bón. Thời ấy, người Aryan cầu cúng rất nhiều thần linh thông qua lễ yagna (từ chữ yaj tức là cúng). Ban đầu đó chỉ là hình thức cúng riêng tư đơn giản, dần dần nó trở thành lễ cúng chung, bao gồm cả việc gọi Thần Lửa Agni bằng cách làm lễ xếp củi khô lên ban thờ, thường xuyên giữ lửa bằng cách rẩy bơ lỏng vào lửa. Thông qua Agni, người ta cúng các món sữa, sữa chua và mật ong cho vị thần yêu thích của mình. Bò trở thành con vật thiêng vì nó cung cấp những thứ thiết yếu cho lễ cúng tế của giáo sĩ Bà La Môn và dân chúng.
Trong thần thoại, Kamdhenu là Thần Bò, được Krishna chăn dắt, suốt đời đi theo Krishna. Bốn chân của Thần Bò được coi như bốn bản kinh Veda. Mỗi bộ phận trên cơ thể thần bò đều có một ý nghĩa tôn giáo: cặp sừng là biểu tượng của thần thánh, mặt bò là biểu tượng của mặt trời và mặt trăng, vai là thần lửa Agni, bốn chân tượng trưng cho dãy Himalaya. Thần bò được thần Brahma tạo ra cùng lúc với đẳng cấp Bà La Môn. Trong khi các giáo sĩ Bà La Môn đọc kinh Veda, thần bò lấy sữa của mình tạo ra bơ tinh khiết, dùng cho việc đốt lửa cúng tế.
Sau thời đại Sử thi, việc tế sinh giảm dần vì người theo đạo Hindu chuyển sang ăn chay - ảnh hưởng của đạo Phật và đạo Jain, đặc biệt là đối với tầng lớp giáo sĩ Bà La Môn và bình dân tự do. Dần dần bò được coi là Gaumata (Mẹ Bò), rồi Aditi (Mẹ của Các Thần). Việc phái Vaishna (tín đồ theo Vishnu) nổi lên trong đẳng cấp trung lưu sung túc và đẳng cấp thấp (thể hiện qua nhân vật Krishna chăn bò) giúp củng cố sự tôn vinh bò về mặt tôn giáo. Một số yếu tố khác dẫn đến việc tôn bò là vật thiêng: kinh Veda có sử dụng hình ảnh của bò; việc giáo sĩ Bà La Môn cấm giết bò; và khi người Hồi giáo đến xâm lược, biểu tượng bảo vệ bò được đưa ra nhằm khẳng định tình đoàn kết giữa các tôn giáo bản địa.

Như vậy, con vật thiêng phải là bò cho sữa (bò cái). Bò đực chỉ liên quan ở chỗ con bò Nandi đã là "phương tiện giao thông" của thần Shiva. Nhưng bò đực, nếu không dùng để làm sức kéo ở một số vùng nông thôn thì chỉ là con vật vô dụng, lang thang khắp nơi. Người Hindu cho rằng phân bò là thứ sạch sẽ, có thể dùng vào việc tẩy uế. Cho đến tận ngày nay, ở nhiều vùng nông thôn, công việc dọn dẹp vệ sinh đầu tiên của buổi sáng là dùng phân bò khô kỳ cọ lối vào nhà." (TS. Hồ Anh Thái ).
Những tín đồ đạo Hindu tin rằng, uống một cốc nước tiểu ấm trước bình mình từ những con bò cái còn zin có thể chữa bệnh hiểm ác này.
Thậm chí, nhóm người này còn khẳng định, thứ “thần dược” đó có thể chữa được nhiều bệnh khác nữa. Họ sùng bái bò như một loài vật linh thiêng, mang lại sự thịnh vượng.
Ông Jairam Singhal, 42 tuổi, đã uống nước tiểu bò trong hơn 10 năm nay. Nhân chứng này khẳng định “chắc như đinh đóng cột” về lợi ích của nước tiểu bò còn trinh tiết đối với sức khỏe con người.

Ở thành phố Agra, miền Bắc Ấn Độ, rất nhiều người tập trung ở trang trại bò DD Singhal để xếp hàng chờ được “chữa bệnh” bằng thứ thần nước từ bò.
Xin theo dõi tiếp bài 16. dienbatn giới thiệu .
Xem chi tiết…

THỐNG KÊ TRUY CẬP

LỊCH ÂM DƯƠNG

NHẮN TIN NHANH

Tên

Email *

Thông báo *