CHUẨN BỊ VÀO MÙA CẢI TÁNG 2015 . BÀI 1.

7/27/2015 |
CHUẨN BỊ VÀO MÙA CẢI TÁNG 2015 . BÀI 1.


Năm 2015 - Ất Mùi - Lập thu vào giờ Dần ngày Bính Thìn - 24/6/ Ất Mùi , tức là vào lúc 3g 01 phút ngày thứ bảy 8/8/2015. Bắt đầu từ ngày Lập Thu , chúng ta đã có thể tiến hành những bước đầu tiên cho việc cải táng . Thời gian có thể cải táng bắt đầu từ Lập thu cho đến ngày Đông Chí . Đông chí năm nay vào giờ Mùi ngày Nhâm Dần - 12/11/Ất Mùi - tức là vào 11g 48 phút ngày 22/12/2015 . Ngày Đông Chí là ngày có đêm dài nhất trong một năm và là ngày có ngày ngắn nhất trong một năm. Ngày Đông Chí là ngày khí nhất Dương sinh ra, là ngày khí Âm cực đại và bắt đầu có khí Dương sinh ra. Ngày này thường sinh ra gió Đông Nam thổi và chính vì vậy, ngày xưa Khổng Minh lợi dùng sự hiểu biết này để đốt chiến thuyền của Tào Tháo trong trận Xích Bích .Trái lại  , ngày Hạ Chí là ngày có ngày dài nhất trong năm, đêm ngắn nhất trong năm, là ngày khí Dương cực đại và khí Nhất Âm sinh ra. Trục Hạ Chí - Đông Chí cũng là trục để tính Âm độn hay Dương độn trong Kỳ Môn Độn giáp chính là vì lý do đó. Ngày Đông Chí cũng chính là ngày kết thúc việc cải táng mộ phần. Bởi khi Dương khí sinh ra, sẽ ảnh hưởng đến xương cốt khi cải táng. 

 CÁC BƯỚC CẦN THỰC HIỆN TRƯỚC KHI CẢI TÁNG NHƯ SAU :
1/ VẤN ĐỀ ĐOÀN KẾT TRONG DÒNG HỌ :

Khi cải táng một ngôi mộ, nhất là những ngôi mộ Tổ và dòng họ có nhiều chi, nhánh, vấn đề đoàn kết trong các thành viên vô cùng quan trọng. Người ta có câu :" Ma chê - Cưới trách ". Trong dòng họ có nhiều nhánh, nhiều chi, việc bàn ra, tán vào là tất yếu, song trong họ phải có người đứng đầu ( thường là trưởng dòng họ ) phải có khả năng đoàn kết và thống nhất được tất cả những tâm nguyện của mọi người. Việc này vô cùng khó khăn , bởi những người đang làm ăn xuôi chèo, mát mái thì không muốn động vào mộ phần sợ "động mộ ", còn những gia đình đang gặp khó khăn , bất trắc trong cuộc sống lại muốn tu tạo lại mộ cho cuộc sống êm đẹp hơn. Mong muốn của cả 2 phái đều có lý đúng của nó, nhưng nhiều trường hợp bắt buộc phải di dời thì sự đoàn kết, nhất trí trong dòng họ, bản thân nó đã là sự tích phúc rồi. Việc quy tập mộ của các đời trước về nghĩa trang dòng họ , thoạt đầu ta tưởng không có gì khó khăn , khi mà chúng ta đã xây dựng được nghĩa trang hoàn chỉnh theo đúng phong thủy. Tuy nhiên lúc này mới chính là lúc mà chữ Phúc phận của dòng họ biểu hiện ra mạnh nhất. Người lĩnh xướng và chủ trì việc lập nghĩa trang phải là người có uy tín trong dòng họ mới có thể thuyết phục và tập trung sức lực, tiền bạc để thực hiện việc này. Trong rất nhiều trường hợp, vì sự thiển cận của một số thành viên trong dòng họ, sợ rằng các chi khác " ăn hết lộc " của chi nhà mình nên đưa đến những trường hợp dở khóc, dở cười.  
Trong quá trình làm mộ ở khắp nơi, dienbatn đã gặp phải những trường hợp dở khóc, dở cười của các thành viên trong một dòng họ. Thôi thì mỗi người một ý, cãi nhau như mổ bò, thậm chí các nhánh trong dòng họ còn đòi " chia xương " để mỗi nhánh chôn riêng ở khu vực của mình. Thật là kinh khủng. Nhìn mọi người cãi nhau , ở dưới âm phần, chắc các cụ không khỏi phải đau lòng, xót xa. Có dòng họ vì có nhiều chi, mộ phần đời trước có những biểu hiện xấu, thất vận.... có chi làm ăn được, có chi làm ăn sa sút, bệnh tật triền miên. Có chi về nhân đinh toàn là nữ nhân. Lúc này, nếu động đến việc mồ mả thì chi làm ăn sút kém muốn tu bổ hoặc di dời mộ phần, còn chi đang làm ăn tốt thì tâm lý là không muốn động chạm đến mộ phần vì sợ ảnh hưởng. Chỉ đến khi mọi việc trở nên xấu đều thì mới cuống quýt tu sử mộ phần, lúc này mọi sự đã muộn.
 Thật ra mọi người đều không nhớ một điều rằng : " Tiên tích Phúc - Hậu tầm Long ", nhà không có phúc thì kể cả đến cụ Tả Ao hay Cao Biền, Lưu Bá Ôn có sống dậy cũng đành chịu chết , không thể giúp gì được. 
Khi táng di hài Tổ tiên,chắc người ta phải chọn Địa huyệt thật tốt mà an táng , song song với việc trên , người tại tiền phải nỗ lực tu dưỡng thân , tâm cầu lấy gốc rễ của Đạo. Nếu chỉ chú trọng quan sát hình thể Địa Huyệt,sẽ cho kết quả trái ngược, làm tổn hại đến con cháu đời sau.
Nếu như có Nhân,tất phải có Quả;nhưng Nhân -Quả thiện ác tùy vào Tâm khi chiêu lấy họa phúc.
Một việc rất quan trọng là phải cân được phúc đức của dòng họ người cải táng. Phúc phận của dòng họ đó như thế nào phải đặt vào khu Địa Huyệt có năng lượng tương đồng mới có kết quả.Không phải cứ thấy con Long to mà ham đặt huyệt mộ dòng họ vào đó, bởi nhiều khi không hợp hoặc không tụ đủ Phúc mà lợi bất cập hại. Không vì khu đất kết Huyệt quá to , quá mạnh, quá nhiều đời mà đặt vào khi phúc phận của dòng họ chưa đủ. Việc đó giống như ta đặt cái quạt máy sử dụng điện 110v vào mạch điện 220v, lúc đó cái quạt sẽ bị cháy rụi. Thông thường những gia đình bình thường về phúc phận chỉ cần một con giun cũng đủ cho một cuộc sống bình an, ổn định, đâu có cần tới những con Long, những Huyệt kết đắc địa.Những Huyệt lớn chỉ sử dụng cho những vị , những dòng họ đã đủ phước báu do Thiên định mà thôi.
Những việc Tầm Long Địa Huyệt còn phải hội thêm phần cảm ứng tức là Thiên Đạo (Đạo Trời ) ; sự ứng nghiệm của việc hành thiện lập âm chất,tạo nhân quả tốt.Tục ngữ có câu :"Âm địa tốt không bằng Tâm địa tốt ".Do vậy,tìm kiếm chọn lọc được Địa mạch Huyệt vị,Phong Thủy Sư và mọi thành viên trong dòng họ phải tích đức hành thiện làm căn bản.Nếu kẻ nào có phẩm chất cao thượng,thì ắt Thiên cơ sẽ ứng,Địa cơ theo đó mà tăng thêm sự tốt lành cho con cháu đời sau hưởng Phúc.Bởi Tâm địa thiện lương thì tương ứng với Địa mạch cát lợi ,vận Trời ứng cho,chứ chẳng phải chủ quan tâm về hình thức mà quên đi nội dung,cứ tưởng rằng tầm được Long huyệt rồi,con cháu đời sau sẽ được hưởng Phúc,cái gốc chúng ta chẳng lo mà lại đi lo cái ngọn,rõ là ta chẳng biết gì cả.Nếu như các Phong Thủy Sư họ tài giỏi như thế thì ắt họ phải giành những huyệt Đế vương,Công Hầu,Khanh tướng cho con cháu họ,chứ dại gì mà họ chỉ cho ai ?

2/ KIỂM TRA MỘ .

Việc đầu tiên trước khi chúng ta muốn cải táng hoặc quy tập mộ là phải xem mộ đó như thế nào ? đã đủ thời gian cải táng chưa ?Mộ đó có kết hay phạm trùng không ?Mộ kết là mộ đã thụ được Linh Khí của Long mạch, tụ khí lại trong mộ và làm cho con cháu trong dòng họ đó làm ăn thuận lợi,gia đình , dòng họ thuận hòa và mạnh khoẻ. Có nhiều cách để kiểm tra mộ kết như bằng các phương pháp Cảm xạ, ngoại cảm, cảm nhận trường Khí...Có thể quan sát bằng mắt thường sẽ thấy ngôi mộ đó càng ngày càng nở ra do được tích tụ Linh khí của Long mạch, giống như những cái gò thường nổi lên do hiện tượng dư khí của Long mạch trên cánh đồng. Trên các ngôi mộ kết thường cỏ mọc rất nhanh và xanh tốt. Tại Hà Tĩnh, có ngôi mộ kết khi người nhà đi thăm mộ, khi về vứt bỏ những đoạn thân của bó hoa cúc ra ven mộ, vài ngay sau những đoạn thân đó đã mọc ra những cây cúc hết sức tươi tốt. Người xưa cũng dùng phương pháp này để xác định Huyệt kết. họ cắm những cành cây khô vào những cuộc đất nghi có mộ kết, nếu những cành khô đó nẩy mầm xanh tốt thì gần như chắc chằn nơi đó có Huyệt kết. Một quan sát khác nữa là nhìn những viên đá , bia mộ tại Huyệt, nếu mộ kết tức là làm cho những viên đá, bia mộ đó bóng loáng lên như được lau chùi bằng dầu bóng.Khi gặp trường hợp Mộ kết, tốt nhất là để nguyên không được dịch chuyển vì sẽ gây ra vô vàn rắc rối trong cuộc sống của dòng họ. Nếu bắt buộc phải di dời vì lý do nào đó phải có những phương thức của Huyền môn và Phong thủy rất phức tạp mới có thể di dời.Khi mộ kết, thông thường kết từ chân lên tới đầu, cũng có vài ngôi mộ do kết cấu của Long mạch và của mộ sẽ kết theo chiều ngược lại. Có các dạng kết như kết mạng nhện, kết tơ hồng, kết băng, kết chu sa...Có các màu từ xám đến trắng, hồng, đỏ như chu sa là loại mạnh nhất. Một loại khác người ta thường hay nhầm với mộ kết là mộ bị phạm trùng.Có nhiều loại trùng nhưng biểu hiện rõ nhất tại mộ là xác chôn qua nhiều năm không tan. Có những khu vực có hàng loạt mộ chôn tới hàng chục năm xác cũng còn gần như nguyên vẹn.dienbatn đã thấy nhiều lần cảnh người nhà họ phải cầm dao róc lấy xương cốt, hình ảnh thật rùng rợn. Gặp trường hợp này phải dùng bột của loại Ngải Hổ rắc xuống và đọc chú thì thịt mới tan ra.

A/ KINH NGHIỆM XÁC ĐỊNH MỘ KẾT .


Việc đầu tiên trước khi chúng ta muốn cải táng hoặc quy tập mộ là phải xem mộ đó như thế nào ? đã đủ thời gian cải táng chưa ?Mộ đó có kết hay phạm trùng không ?Mộ kết là mộ đã thụ được Linh Khí của Long mạch, tụ khí lại trong mộ và làm cho con cháu trong dòng họ đó làm ăn thuận lợi,gia đình , dòng họ thuận hòa và mạnh khoẻ. 
Mộ kết là mộ khi đặt vào vùng có trường khí tốt , đã quán Khí ( tức là thu nhận được năng lượng của Địa Huyệt ) . Gia đình có mộ Kết thường là đang làm ăn phát đạt , con cháu học hành , công tác đều tốt . Bản chất của việc kết mộ , hiện chưa có một tài liệu nào nói cho rõ ràng cả , song trong quá trình đi khảo sát hàng trăm ngôi mộ , dienbatn có nhận xét như sau : Thường là do phúc phận của dòng họ tới ngày thịnh phát , nên có thể do chủ định ( Nhờ thày Địa lý đặt mộ ) , hoặc do vô tình ( thường là trường hợp Thiên táng rất bất ngờ ) đặt được vào trúng Long Huyệt ( Hay còn gọi là vùng có năng lượng tập trung ) . Đừng cứ tưởng là chỉ có những Long mạch khổng lồ kết Huyệt mới có mộ kết . Bản thân dienbatn đã chứng kiến nhiều trường hợp chỉ có một con Long nhỏ cũng đủ để kết mộ và gia đình của họ làm ăn rất phát đạt .
Việc phân biệt mộ thường ( có thể bốc hay di dời ) với những ngôi mộ Kết ( Tuyệt đối không được di dời ) , thực ra cũng cần phải hết sức cẩn trọng . Theo nhận xét của dienbatn , thứ nhất là : những ngôi mộ Kết , thường thì đất ngày càng nở ra , làm cho ngôi mộ cứ to dần , nhiều khi to như một cái gò . Mặt khác , cây cối trên và xung quanh ngôi mộ thường là rất xanh tốt ( Đây là biểu hiện của vùng đất có Sinh Khí ) . Thứ hai có thể nhìn nhận một cách trực quan một ngôi mộ Kết là : những viên gạch , nhất là gạch men hay đá ốp vào mộ thường sáng bóng như có chùi dầu . Thông thường , các ngôi mộ , ít chăm sóc lau chùi thường xuyên thường có bám một lớp bụi ( dày hay mỏng do nhà chủ có thường xuyên chăm sóc hay không ) , nhưng tại những ngôi mộ Kết , ta thấy những viên đá hay gạch ốp vào luôn như vừa được chùi rửa sạch sẽ , sáng bóng .Một cách khác nữa là khi ngồi bên một cái mộ Kết , ta cảm thấy như có một luồng hơi ấm áp , tràn đầy Sinh lực thấm vào người , làm cho ta cảm thấy cực kỳ thoải mái , dễ chịu .
Để có thể xác định được mộ có Kết hay không , ngoài những nhận xét về tình trạng bên ngoài như trên , ta còn cần phải nhờ các thày Địa lý có kinh nghiệm hoặc nhờ các nhà Ngoại Cảm xem xét giúp .
Có nhiều cách để kiểm tra mộ kết như bằng các phương pháp Cảm xạ, ngoại cảm, cảm nhận trường Khí...Có thể quan sát bằng mắt thường sẽ thấy ngôi mộ đó càng ngày càng nở ra do được tích tụ Linh khí của Long mạch, giống như những cái gò thường nổi lên do hiện tượng dư khí của Long mạch trên cánh đồng. Trên các ngôi mộ kết thường cỏ mọc rất nhanh và xanh tốt. Tại Hà Tĩnh, có ngôi mộ kết khi người nhà đi thăm mộ, khi về vứt bỏ những đoạn thân của bó hoa cúc ra ven mộ, vài ngày sau những đoạn thân đó đã mọc ra những cây cúc hết sức tươi tốt. Người xưa cũng dùng phương pháp này để xác định Huyệt kết. họ cắm những cành cây khô vào những cuộc đất nghi có mộ kết, nếu những cành khô đó nẩy mầm xanh tốt thì gần như chắc chằn nơi đó có Huyệt kết. Một quan sát khác nữa là nhìn những viên đá , bia mộ tại Huyệt, nếu mộ kết tức là làm cho những viên đá, bia mộ đó bóng loáng lên như được lau chùi bằng dầu bóng.Khi gặp trường hợp Mộ kết, tốt nhất là để nguyên không được dịch chuyển vì sẽ gây ra vô vàn rắc rối trong cuộc sống của dòng họ. Nếu bắt buộc phải di dời vì lý do nào đó phải có những phương thức của Huyền môn và Phong thủy rất phức tạp mới có thể di dời.Khi mộ kết, thông thường kết từ chân lên tới đầu, cũng có vài ngôi mộ do kết cấu của Long mạch và của mộ sẽ kết theo chiều ngược lại. Có các dạng kết như kết mạng nhện, kết tơ hồng, kết băng, kết chu sa...Có các màu từ xám đến trắng, hồng, đỏ như chu sa là loại mạnh nhất. 

B/  KINH NGHIỆM XÁC ĐỊNH MỘ PHẠM TRÙNG.

Một loại khác người ta thường hay nhầm với mộ kết là mộ bị phạm trùng.Có nhiều loại trùng nhưng biểu hiện rõ nhất tại mộ là xác chôn qua nhiều năm không tan. Có những khu vực có hàng loạt mộ chôn tới hàng chục năm xác cũng còn gần như nguyên vẹn. dienbatn đã thấy nhiều lần cảnh người nhà họ phải cầm dao róc lấy xương cốt, hình ảnh thật rùng rợn. Nguyên nhân của việc phạm trùng thường có mấy nguyên nhân như sau :
* Do khu vực đất chôn bị yếm Khí .
* Do người chết trước khi mất bị bệnh, nhất là bệnh ung thư phải dùng hóa trị hay xạ trị, hay dùng quá nhiều thuốc kháng sinh làm cho thân xác khó tiêu hủy.
* Do khi liệm, người ta cho người mất mặc quá nhiều quần áo, nhất là loại quần áo bằng nilon làm cho quá trình phân hủy khó xảy ra.
* Một trường hợp khác làm cho thi thể khó phân hủy là quan tài làm bằng gỗ cây Thị. Không rõ nguyên do nhưng qua quá trình cải táng mộ phần, dienbatn thấy rằng, những quan tài làm bằng gỗ cây Thị thì các thi thể hầu như còn nguyên vẹn sau hàng chục năm.
Khi cải táng gặp phải trường hợp xác không tiêu hủy dù đã chôn hàng chục năm, người ta thường xử lý theo một số cách như sau :
- Mở hé nắp ván Thiên ( là tấm ván trên cùng của quan tài ) , dùng kéo cắt dọc quần áo người mất cho hở thân thể ra rồi đổ rượu mạnh hay nước cháo loãng vào , sau đó đậy nắp lại , lấp đất như cũ và để sang năm mới tiếp tục cải táng.
- Có thể dùng nước muối đặc đun nóng đổ vào quan tài từ lúc phạt nấm và hé mở ván Thiên ( thường vào buổi chiều tối ngày hôm trước ). Để từ chập tối đến khoảng gần sáng tiếp tục cải táng , thi thể sẽ bị phân hủy hết. Theo một số vị bốc mộ chuyên nghiệp, có thể dùng nước điếu ( Điếu hút thuộc Lào ) đổ xuống quan tài cũng làm cho thi thể mau phân rã. 
- Người ta có thể dùng bột cây Ngải Hổ rắc xuống và đọc chú , chỉ vài tiếng sau xác sẽ phân hủy hết.
- Nếu người tu Mật Tông gặp trường hợp này hãy đọc chú Uế Tích Kim Cang có tác dụng phân hủy xác rất nhanh.
- Trong trường hợp thi thể không tan của người bị gù hay sau khi chôn thi thể bị co lại giống như người gù , để thi thể dãn ra, người ta đổ khoảng 20 lít rượu mạnh vào quan tài.
- Trường hợp thi thể không tan sau quá nhiều năm , cách xử lý tốt nhất là cho lại vào áo quan mới và đưa đi hỏa táng ở Đài hóa thân Hoàn Vũ. Làm cách này vừa sạch sẽ vừa nhanh chóng và đảm bảo .

C/ KINH NGHIÊM DÂN GIAN CỦA NHỮNG NGƯỜI CHUYÊN BỐC CỐT ĐỂ PHÁT HIỆN THÂN XÁC ĐÃ SẠCH HAY CHƯA ?

Qua quá trình tiếp xúc với rất nhiều toán chuyên bốc cốt khi cải táng, dienbatn được truyền lại một số kinh nghiệm để có thể xác định được một ngôi mộ chuẩn bị cải táng đã sạch xương như thế nào ?
Theo lời một số vị có thâm niên bốc hài cốt ở nhiều nơi , người ta có thể biết được hài cốt dưới mộ đã " sạch " chưa bằng một số kinh nghiệm như sau :
- Theo quan sát loại cỏ mọc ở trên mộ.
- Quan sát theo các loại sinh vật làm tổ trên mộ như các loại tổ kiến, tổ rắn, tổ chuột...
- Cảm nhận nhiệt độ của đất khi phạt nấm...
- Riêng dienbatn sử dụng phương pháp Cảm xạ , qua thời gian khá dài , chưa bị sai lầm lần nào.

3/ TÌM ĐẤT VÀ XÂY CẤT KHU HUYỆT MỘ .

Chọn vị trí đặt mộ khi cải táng.
"Chọn lựa huyệt đất mới :
Khi đã chọn lựa được thời điểm tiến hành thì người trong gia đình sẽ phải chọn lựa một huyệt đất mới để chuyển hài cốt sang. Ngày xưa, điều kiện đất đai còn rộng lớn thì việc này tương đối dễ dàng. Ngày nay, đất chật người đông, diện tích đất dành cho người chết cũng rất hạn chế. Thường ở địa phương sẽ tiến hành bố trí cho gia đình một huyệt đất mới ở cùng nghĩa trang nơi hung táng. Nếu các gia đình có nhu cầu chọn lựa phải mua đất ở nơi khác rồi chuyển hài cốt về. Việc chọn lưạ huyệt đất là tương đối khó khăn, để tìm được vị trí mới tốt lành, cần lưu ý các điểm sau đây :
- Huyệt mộ là nơi đất mới chưa từng bị chôn lấp, đào xới. Khí đất của huyệt tươi tốt, đất rắn chắc tươi tắn. Nếu là vùng đồng bằng thì đất tươi mịn, có mùi thơm, đào lên phía dưới độ 6,70cm đất đặc quánh, có màu vàng nhạt hoặc màu nâu đậm. Nếu là miền sơn cước thì đất mịn màng, tuy khô nhưng có màu vàng nhạt.
- Kỵ nhất là huyệt là nơi đất tơi xốp, có chứa nhiều rác rưởi, hoặc có nguồn nước thải bị ô nhiễm. Đào lên ở đáy huyệt phải có mạch nước ngầm chảy dưới huyệt. Màu sắc của nước trong xanh, mùi thơm, tránh nước bị ô nhiễm hoặc nước có mùi hôi. Những huyệt ở đồng bằng thì kỵ không có nước ở dưới huyệt.
- Ở các vùng nghĩa trang nơi quy tập nhiều mộ, thường bị tình trạng quá tải về diện tích, các mộ chen lấn nhau. Tránh huyệt bị các mộ xung quanh lấn chiểm, hoặc nằm án ngữ ngay trước phần mộ, hoặc đâm xuyên vào 2 bên cạnh mộ. Nếu chọn được huyệt phía trước rộng thoáng, lại nhìn ra ao hồ hay sông suối là đắc cách. Trường hợp đất đai quá hiếm không chọn được huyệt có phía trước thoáng rộng thì tối thiểu cũng phải có một khoảng đất trống nằm ngay phía trước huyệt mộ.
- Quan sát cẩn thận hệ thống đường đi xung quanh huyệt. Nếu huyệt có đường đi đâm thẳng vào giữa hoặc đâm xuyên sang hai bên thì chủ về phá bại không thể dùng. Đường đi sát ngay phía sau huyệt cũng tối kỵ chủ tổn hại nhân đinh. Tốt nhất chọn huyệt nơi yên tĩnh xa cách với đường đi lối lại quanh khu vực mộ.
- Ở vùng núi non thì cần thẩm định huyệt theo những tiêu chí của địa lý chính tông. Huyệt cần được bao bọc có long hổ hai bên ôm lấy huyệt, phía sau có cao sơn che chắn, phía trước có minh đường thuỷ tụ…
Các bạn lưu ý rằng, nên nhờ một thầy chuyên gia có kinh nghiệm Phong Thuỷ chính tông tiến hành xem xét cẩn thận trước khi cải táng, nếu không biết mà tự ý tiến hành thì sẽ dẫn đến những hậu qủa khó lường."
Nếu đã có nghĩa trang của dòng họ được thiết kế sẵn từ trước thì việc này rất đơn giản vì khi lập nghĩa trang đã có các Phong thủy sư tính toán cho rồi. Trường hợp quy tập mới hoặc cải táng riêng lẻ thì việc này rất phức tạp, có khi phải thực hiện trước đến vài năm. Gia đình dienbatn khi đặt mộ, có nhiều ngôi thời gian từ lúc bắt đầu đến khi kết thúc mất tới 3 năm trời. Sở dĩ lâu như vậy là phải thực hiện tất cả những công việc sau : Tầm Long tróc mạch- Xác định Huyệt Khí-Mua cuộc đất đã tìm được- Tính toán, phân kim sẵn, bao gồm các bước như xác định Loan đầu,Thiên Môn, Địa hộ,xác định vị trí kết Huyệt- Tính toán thời gian đặt mộ, độ sâu và phương đặt để đạt được Huyệt Khí Bảo Châu...-Thực hiện các bản vẽ quy hoạch tổng thể các đời, các chi trong dòng họ- Thực hiện các nghi lễ khi bắt đầu động thổ xây dựng hàng rào bao, nơi tế lễ, đào huyệt, xây thành Huyệt...- Thực hiện các hình dáng của mộ theo nhiều yếu tố như địa hình, phúc phận dòng họ, loan đầu. Nhiều khu vực vì đã có đất hay nghĩa trang từ trước nhưng không tụ đủ Khí phải thực hiện việc dẫn Long về để tụ Khí tại cuộc đất đã chọn. Tất cả những việc nói qua ở trên rất phức tạp và là chuyên môn của các Phong Thủy Sư. Một việc rất quan trọng là phải cân được phúc đức của dòng họ người cải táng. Phúc phận của dòng họ đó như thế nào phải đặt vào khu Địa Huyệt có năng lượng tương đồng mới có kết quả. Không vì khu đất kết Huyệt quá to , quá mạnh, quá nhiều đời mà đặt vào khi phúc phận của dòng họ chưa đủ. Việc đó giống như ta đặt cái quạt máy sử dụng điện 110v vào mạch điện 220v, lúc đó cái quạt sẽ bị cháy rụi. Thông thường những gia đình bình thường về phúc phận chỉ cần một con giun cũng đủ cho một cuộc sống bình an, ổn định, đâu có cần tới những con Long, những Huyệt kết đắc địa.Những Huyệt lớn chỉ sử dụng cho những vị , những dòng họ đã đủ phước báu do Thiên định mà thôi.

4/ CHỌN MUA ĐẤT LÀM NGHĨA TRANG DÒNG HỌ.

Bạn đừng tưởng cứ có tiền là có thể mua được đất.Cái lý : " Cái gì không thể mua bằng tiền thì có thể mua được bằng rất nhiều tiền " , hình như không đúng trong trường hợp này. Đất hay đá quý đều chọn chủ - Đó là cái lý của Tạo hóa gần như bất di bất dịch. Có nhiều trường hợp do không tụ đủ phúc mà cố cưỡng cầu đặt vào , ngay lập tức thảm họa tới liền. " Khi táng di hài Tổ tiên,chắc người ta phải chọn Địa huyệt thật tốt mà an táng,song song với việc trên ,người tại tiền phải nỗ lực tu dưỡng thân,tâm cầu lấy gốc rễ của Đạo.Nếu chỉ chú trọng quan sát hình thể Địa huyệt,sẽ cho kết quả trái ngược,làm tổn hại đến con cháu đời sau.
Nếu như có Nhân,tất phải có Quả; nhưng Nhân -Quả thiện ác tùy vào Tâm khi chiêu lấy họa phúc- dienbatn " .Nếu đã đủ duyên để mua được cuộc đất đẹp, chúng ta nên tính toán mua khoảng đất đó đủ dùng cho vài ba đời trước và vài ba đời sau, để con cháu hàng trăm năm sau đỡ vất vả đi tìm đất. Cách tốt nhất là quy tụ mồ mả về một nơi có quy hoạch thống nhất, vừa đảm bảo được các yêu cầu về Phong thủy vừa tiện cho con cháu đời sau thăm viếng.

5/ LÀM LỄ MUA ĐẤT ÂM .

 Khi đã mua được đất của người dương rồi, chúng ta vẫn cần phải có một cái lễ gọi là mua đất của người âm.  Động tác này có ý nghĩa báo cáo với các vị Thần linh sở tại và các vong linh hồn của khu vực này người chủ mới ra mắt. Việc này các Phong thủy sư phải làm hết sức thành kính, tôn nghiêm. Thường các Phong thủy sư đều là các Pháp sư. Khi ra đến nơi khu đất đều phải có những nghi lễ riêng. 
Khi lập đàn mua đất người âm, cần phải có 3 đàn riêng biệt là : Đàn lễ phật, Đàn lễ các Thần và Đàn Mông sơn thí thực để cúng các vong linh hồn.
a/ Đàn lễ Phật : Đồ lễ chỉ có trầu cau, hoa quả, trầm hương, đèn nến. Tuyệt đối không xử dụng tiền mã và đồ mặn. Đàn có 2 cây nến lớn đặt đằng trước bên cạnh Kính đàn ( hai cây nến này tương trưng cho Nhật - Nguyệt), Phía dưới có 7 cây nến nhỏ tượng trưng cho chùm sao Bắc cực - Quê hương của loài người. Phía dưới nữa có 3 chung trà - 3 chung rượu- 3 chung nước tượng trưng cho Tam tài : Thiên có Nhật - Nguyệt - Tinh, Nhân có : Tinh - Khí - Thần , Địa có Thủy - Hỏa - Phong.
Đàn này thường sau khi đọc nghi quỹ Mật tông thường trì các chú : Chuẩn Đề và Tỳ Lô Giá Na mỗi chú 1 chuỗi ( 108 biến ). Sau cùng là đọc chú hồi hướng công đức cho các đấng các cõi và các vong trên mảnh đất này.
b/ Đàn lễ các Thần : Các Thần ở đây bao gồm : Ngài U Minh Giáo chủ Bản Tôn Địa Tạng Vương Bồ Tát .
Ngài Kiên Lao Địa Thần Bồ Tát .Các Ngài Ngũ Phương , Ngũ Đế , Hậu Thổ Nguyên Quân , Sơn Nhạc Đế Quân , Đương Phương Thổ Địa , Thổ Phủ Thần kỳ , 24 Khí Thần Quan , 24 Long mạch Thần Quan , 24 Địa mạch Thần Quan , 24 Sơn Địa mạch Thần Quan , 24 Hướng Địa mạch Thần Quan , Thanh Long , Bạch Hổ , Thổ Bá , Thổ Hầu , Thổ Mãnh , Thổ Trọng Thần Quan , Thổ Phụ , Thổ mẫu , Thổ Lương , Thổ Gia Thần Quan , Thổ Tử , Thổ Tôn , Thổ Khảm , Thổ Khôn Thần Quan , Thổ Kỳ Ngũ Phương bát Quái và các vị Thần minh quyến thuộc . Ngài Kim Niên hành Khiển Thái Tuế chí đức tôn Thần , Ngài Bản Cảnh Thành Hoàng chự vị Đại Vương  và tất cả các vị Thần minh cai quản trong khu vực này . 
Đàn lễ này có thể có đồ mặn hoặc đồ chay tùy ý nhưng nhất thiết phải có một hay 5 bộ Quan Thần Linh ( bao gồm mũ , áo, ủng, ngựa và vàng hoa). Nếu 5 bộ là lấy các màu theo Ngũ hành : Xanh - Đỏ - Vàng - Trắng - Tím. Nếu một bộ lấy màu vàng. Việc này là để cúng cho Ngũ phương ngũ thổ Long Thần ( Đông phương thanh Đế - Tây phương bạch Đế - Nam phương xích Đế- Bắc phương hắc Đế và trung ương Hoàng Đế ). Ngoài ra có thêm các bộ giấy tiền vàng cúng ông Địa, cúng Ngọc Hoàng Thượng Đế và vài trăm cuốn Thọ Sinh Kinh. Ngoài tiền âm ra phải có một số tiền Dương ( tiền thật ) khi làm lễ. Khi làm lễ Phong thủy sư phải có một lá sớ trạng đại ý thay mặt gia chủ xin mua đất âm của các vị Thần xứ này.
Phàm đã làm Pháp sư hay Phong thủy sư đều có kinh qua luyện tập một khả năng là giao tiếp được với các vị Thần linh, Thổ địa để biết khu vực này do vị nào cai quản, lịch sử của khu vực này như thế nào mới biết đường mà lần.Trong Đạo tràng LHVV của dienbatn , các anh chị em hầu như đều có khả năng này, đặc biệt các vị nào có học qua các lớp Cảm xạ của Thày Dư Quang Châu đều có những bước tiến khá nhanh.Học qua một vài khóa Cảm xạ sẽ giúp anh chị em trong Đạo tràng dễ dàng vượt qua môn học giao tiếp này.
c/ Đàn lễ Mông sơn thí thực : Mục đích là cúng và cấp đồ ăn cho các vong linh y thảo phụ mộc và vong linh những người từng sống, chết trong khu vực này. Đồ lễ gồm có : Cháo trắng, gạo , muối, ngô, khoai luộc, bỏng ngô, bộ Tam sên , trầu cau, rượu, thuốc lá...và một chút tiền giấy cúng cô hồn. Đồ lễ không cần nhiều vì khi cúng Phong thủy sư phải có động tác đọc chú biến thực, biến thủy dùng để biến một đồ lễ ra hàng hà sa số đồ lễ mới đủ cho các thế giới vô hình ở đó. 

6/ HÓA GIẢI CHƯỚNG NGẠI TRÊN CUỘC ĐẤT .

Việc hóa giải các chướng ngại trên cuộc đất có rất nhiều trường hợp cụ thể không thể liệt kê ra hết được. Tạm thời có thể nêu ra một số việc cần lưu ý, đó là : 
* Cuộc đất đó đã bị các Thày đời trước trấn yểm nhằm nhiều mục đích như giữ cuộc đất đó cho riêng mồ mả của dòng họ mình. 
* Cuộc đất mà từ trước đã có các thày Phong thủy, do chưa tụ đủ Phúc hoặc chưa tìm được người đủ phúc mà trao tặng nên dùng thuật Xích Long thu giữ để không ai có thể đặt mộ vào khu vực đó được. 
* Cuộc đất bị người Tàu trấm yểm tàn phá Long mạch .
* Cuộc đất từ ngày xưa đã có mộ người Tàu đặt ngầm ở dưới hoặc là khu vực chôn dấu của có Thần giữ của coi giữ.
* Cuộc đất nằm trên những phay đất di chuyển hoặc có những dòng sông nước ngầm chảy ở bên dưới. Có nhiều khu đất rất đẹp về hình thế, nhưng do ở sâu phía dưới ( thường từ 50-90 m ) có những dòng sông ngầm ( nóng hay lạnh ) chảy bên dưới rất xiết và tạo ra một vùng trường Khí đầy ác xạ cũng rất khó hóa giải. Thông thường những Phong thủy sư khi đi tầm Long cắm Huyệt chỉ để ý đến những dòng nước ở phía trên mặt đất, hầu như từ xưa đến nay chưa có một tài liệu nào nói đến những dòng nước ngầm, những hang động ngầm dưới đất. Trong quá trình điền dã, tìm hiểu, dienbatn thấy những vấn đề đó hết sức quan trọng và thực tế phải dựa vào những số liệu, những mũi khoan thăm dò Địa chất Thủy văn mới có thể nhìn nhận được thấu đáo cuộc đất mình đang xem xét.
Để có thể hóa giải những vấn đề trên, các Phong thủy sư phải am hiểu thật nhiều môn học như : Kinh dịch, Thái Ất dương minh , Độn giáp , Địa lý về âm trạch, Bát diệu thủy pháp và tam hợp ngũ hành, Tý Ngọ lưu trú và Linh quy bát pháp, Cảm xạ địa khí, phải nghiên cứu và thực hành thuần thục các loại bùa chú của Tiên gia, của Mật tông.....
Đó là một kiến thức thật sự đồ sộ đòi hỏi nhiều thời gian, sự đam mê giành cả cuộc đời.

7/TRẤN TRẠCH KHU HUYỆT MỘ.

Sau khi đã tìm cách hóa giải được những trở ngại trên khu Huyệt mộ ,  việc cần làm ngay là phải tạo được một hàng rào tâm linh trên khu huyệt mộ để các tương tác xấu khác không xâm phạm vào được. Việc này giống như chúng ta đã giải tỏa được mặt bằng, ngay lập tức chúng ta phải xây dựng hàng rào để tránh bị tái chiếm hoặc để ngăn chặn xì ke, ma túy, dân vô gia cư xông vào lấn chiếm.
Từ xưa, kinh nghiệm về trấn trạch cả âm phần và dương phần, các Pháp sư, Phong thủy sư có rất nhiều kinh nghiệm và có rất nhiều sách cổ nói về vấn đề này. 

8/ THU KHÍ VỀ HUYỆT MỘ.



Các Phong thủy sư sau khi đã thực hiện đầy đủ những bước ở trên thường có một động tác là thu khí của cả khu vực về khu vực Huyệt mộ mình đang làm. Hầu như không có sách nào nói về vấn đề này, dienbatn trong quá trình đi ta bà điền dã được một Ân Sư chỉ dạy, không dám dấu làm của riêng, xin chép ra để giữ gìn cho đời sau.
Để làm được điều này, Phong thủy sư phải nhận biết được ngũ hành, sắc thái và đường đi của dòng Sinh khí trong khu vực đặt Huyệt mộ. Khi đã biết được ngũ hành, sắc thái và đường đi của dòng Sinh khí trong khu vực đặt Huyệt mộ , chúng ta có thể bắt đầu việc thu khí.
Giữa trung tâm của Địa Huyệt, chúng ta trồng một tháp Thạch anh tím có tác dụng như một cây antena thu sóng.Để có thể tích tụ năng lượng về mộ , sau khi ta đã có antena thu sóng, chúng ta cần có một vật tích tụ năng lượng giống như một cái ác quy. Đó chính là một quả cầu bằng caxidon tùy theo ngũ hành của khí mà chọn màu phù hợp. 
Khi đặt những vật này , tốt nhất là phải khởi động năng lượng tự tại của viên đá và vẽ các Linh phù, chủng tử của Phật cùng trì chú bằng mật tông lên đá sẽ khiến cho viên đá phát huy được tối đa việc tích tụ năng lượng.

9 / XÁC ĐỊNH ĐỘ SÂU CỦA HUYỆT MỘ MỚI KHI CẢI TÁNG.
PHÂN KIM ĐIỂM HƯỚNG - TÍNH TOÁN ĐỘ SÂU VÀ THỜI GIAN ĐẶT MỘ.

Hướng của nghĩa trang dòng họ không phải tính theo tuổi của một người nào dù cho đó có là mộ Tổ đi chăng nữa. Hướng chính của nghĩa trang phải xác định theo Loan đầu, tức là theo bố cục của cuộc đất. Tất cả các mộ trong nghĩa trang đều phải lấy theo một hướng nhất định theo Loan đầu.
Khi tính toán thiết kế -  Cần phải  tính toán phong thủy những yếu tố sau :
* Hướng của Thiên môn ( Đường nước đến ) - Địa hộ ( Đường nước chảy đi ) - Lấy Huyệt mộ làm chuẩn .
 * Quan sát tổng quát về Long - Huyệt - Sa - Thủy của cuộc đất .
*  Xác định chính xác khu vực kết huyệt là nới tận cùng của lai Long, nơi Sinh khí hội tụ , nơi mà Âm - Dương giao hòa, Khí mạch tụ lại kết thành Huyệt.
* Xác định được chính xác kiểu Huyệt : a/ Thạch Huyệt : Là Huyệt mộ ở trong đá, chọn chỗ đá mềm và ấm, dễ đào khoét hoặc chỗ đá có màu tím hay trắng thì được coi là cát Huyệt. nếu đất đá cứng, khô, lạnh lẽo thì là hung Huyệt. Thạch Huyệt mềm, khoét sâu 20-30 cm ( nhiều nhất là 40 cm ), sau đó để tiểu vào và lấy đất liền thổ ( đất tốt, sạch ) lấp lại, cuối cùng là đắp thành nấm. Nếu khoét sâu quá là bị thoát khí.
 b/ Thổ Huyệt : Là Huyệt mộ trong đất, chọn chỗ đất có chất mịn, hạt nhỏ, chắc chắn ( Nếu quá ẩm , thấp tơi tả là hung ). Hoặc chọn chỗ đất có mầu hồng, màu vàng, có ánh kim là tốt. Lưu ý là Huyệt phải đào sâu đến mạch Khí mới tốt.Thổ Huyệt có 3 loại đất :  Phù Thổ, Thực Thổ, Huyệt Thổ .  
* Phù Thổ là lớp đất mặt trên cùng của Huyệt mộ.
* Thực Thổ là phần đất ở sau lớp Phù Thổ ta hay gọi là đất liền thổ.
* Huyệt Thổ là lớp đất dưới lớp Thực Thổ . Đây chính là vùng đất tích tụ Sinh Khí của Long mạch, quý báu như ngọc trong đá. Khi đào Huyệt nhất thiết phải đào đến lớp Huyệt Thổ . Tuy nhiên tuyệt đối không được đào xuyên qua lớp đất Huyệt Thổ, vì Huyệt Thổ tàng trữ Sinh khí, nếu chưa đào đến lớp đất này thì chưa lấy được Khí mạch rót vào Huyệt, còn nếu đào xuyên qua sẽ làm tổn thương Long mạch, thậm chí cắt đứt Long mạch . Trường hợp đào xuyên qua Thổ Huyệt không còn là táng nữa mà chính là hiện tượng trấn yểm, cắt đứt Long mạch . Do vậy khi lấy chiều sâu của Huyệt phải hết sức thận trọng , đòi hỏi phải có sự tinh thông về Thổ Huyệt. Để phân biệt được Thổ Huyệt phải căn cứ vào loại Long mạch, màu sắc cũng như đường vân của thớ đất. Đường vân của Thổ Huyệt thường có nhiều dạng như hình Thái cực, như vân của vỏ ốc, hoặc như lỗ vuông của đồng tiền cổ hoặc có những sợi ánh vàng , đỏ xen nhau thì chính là Huyệt Thổ. Khi đào đến Huyệt Thổ hoặc nghi ngờ đó là Huyệt Thổ ta phải bốc một ít đất và dùng tay vê thử , nếu đất thành viên tròn thì đó chính là chân Thổ, có thể cho đào sâu xuống nữa. Lưu ý cố gắng đào với diện tích hết sức nhỏ, chỉ vừa đủ đặt quách và tiểu là tốt nhất - Đào lớn quá sẽ gây đứt Long mạch. Nếu đào tới độ sâu mà không thể vê đất thành viên được tức là lúc đó phần đất Huyệt Thổ đã hết . Như vậy chúng ta thấy rằng, khi táng , quách phải nằm trọn trong lớp đất Huyệt thổ và lỗ đào không quá lớn để không làm tổn thương Long mạch. 
Do vậy , người ta không có công thức chung cho độ sâu của Huyệt mộ, chỉ có thể ngồi tại chỗ và quan sát các tầng đất để có thể đặt quách và tiểu nằm lọt vào trong lớp đất Huyệt Thổ. 


Thông thường làm mộ đúng trong thời gian từ Trung Thu đến ngày Đông Chí thì lớp đất Huyệt Thổ chỉ còn sâm sấp một lớp nước mỏng .

10/ XÂY DỰNG HÀNG RÀO VÀ THIẾT KẾ TỔNG QUÁT TOÀN BỘ CHO CÁC ĐỜI DỰ KIẾN.


Khi chúng ta đã có một cuộc đất dùng để đặt nghĩa trang cho dòng họ rồi, việc tất yếu chúng ta phải có quy hoạch cho phần mộ các đời và dựng hàng rào xung quanh cuộc đất để không bị người khác lấn chiếm. Hàng rào thường được xây dựng với độ cao từ 1,2 - 1,5 m. Không nên xây thấp quá sẽ bị trâu bò tràn vào, cũng không nên xây quá cao sẽ ảnh hưởng tới Khí mạch vận chuyển. Không nên xây hàng rào kín mít mà chúng ta nên đặt những hoa gió hoặc con tiện trên chiều dài của hàng rào cho thông thoáng khí. Khi phân gianh giới các đời cần theo thứ tự các đời từ trước đến sau theo chiều dài của khu Huyệt mộ. Thường khi quy hoạch nghĩa trang có khoảng 3-4 đời trước và 4-5 đời sau. Mỗi đời làm thành một hàng và giữa các đời nên giật cấp để bao giờ đời trước cũng ở cao hơn đời sau khoảng 5-10 cm tùy địa hình. Khi đặt mộ, theo nguyên tắc Nam tả - Nữ hữu. Nếu là hai vợ chồng thì đặt chồng bên trái, vợ bên phải nếu nhìn ra cổng.
Phía đầu khu mộ người ta xây một cái nhà nhỏ có mái để thờ cúng . Nhà này nằm chính giữa đầu khu đất và có mái che . Tùy điều kiện kinh tế gia đình mà trang trí khu thờ cúng, nhưng nhất thiết phải có một bàn thờ xây áp lưng vào tường sau và phải có bài vị của dòng họ cùng bát hương chung cho cả dòng họ đặt chính giữa bàn thờ. Ngoài ra hai bên ban thờ thường có đôi câu đối ca tụng công đức của những người quá vãng. Hai bên thành của nhà thờ cúng nên xây thành hai tay ngai ( Thanh Long - Bạch hổ ), thường người ta lượn khúc này thành hình Tam sơn hay Ngũ nhạc. Ở phía đối diện với nhà thờ cúng ( phía cuối nghĩa trang ) người ta xây cổng vào.Cổng hàng rào thường làm bằng sắt khóa lại cho người ngoài , trẻ trâu hoặc trâu bò vào phá. Chốt cổng hay làm phía sát đất để khi mở cổng, người ta phải cúi xuống, tỏ ý thành kính các bậc tiền nhân. Hai trụ cổng thường gắn đôi sư tử hoặc Nghê đá để trấn giữ. Lưu ý, sư tử hay nghê đá phải là một cặp đực , cái. Con được thường dẫn trên quả cầu, đặt bên Thanh Long ( phía tay trái nếu  từ trong nhìn ra ) , con cái thường dẫm lên một con con đặt bên Bạch hổ ( phía tay phải nếu từ trong nhìn ra ). Xung quanh khu nghĩa trang người ta thường trồng trầu cau, cây hoa Đại ( Xứ ), trúc cảnh...Không nên trồng những cây có rễ đâm sâu và cây cổ thụ phòng trường hợp rễ cây đâm xuyên xuống quan tài hay tiểu.





11/ PHÂN KIM ĐIỂM HƯỚNG - TÍNH TOÁN ĐỘ SÂU VÀ THỜI GIAN ĐẶT MỘ.

Khi tính toán thiết kế -  Cần phải  tính toán phong thủy những yếu tố sau :
* Hướng của Thiên môn ( Đường nước đến ) - Địa hộ ( Đường nước chảy đi ) - Lấy Huyệt mộ làm chuẩn .
 * Quan sát tổng quát về Long - Huyệt - Sa - Thủy của cuộc đất .
*  Xác định chính xác khu vực kết huyệt là nới tận cùng của lai Long, nơi Sinh khí hội tụ , nơi mà Âm - Dương giao hòa, Khí mạch tụ lại kết thành Huyệt.
* Xác định được chính xác kiểu Huyệt : a/ Thạch Huyệt : Là Huyệt mộ ở trong đá, chọn chỗ đá mềm và ấm, dễ đào khoét hoặc chỗ đá có màu tím hay trắng thì được coi là cát Huyệt. nếu đất đá cứng, khô, lạnh lẽo thì là hung Huyệt. Thạch Huyệt mềm, khoét sâu 20-30 cm ( nhiều nhất là 40 cm ), sau đó để tiểu vào và lấy đất liền thổ ( đất tốt, sạch ) lấp lại, cuối cùng là đắp thành nấm. Nếu khoét sâu quá là bị thoát khí.
 b/ Thổ Huyệt : Là Huyệt mộ trong đất, chọn chỗ đất có chất mịn, hạt nhỏ, chắc chắn ( Nếu quá ẩm , thấp tơi tả là hung ). Hoặc chọn chỗ đất có mầu hồng, màu vàng, có ánh kim là tốt. Lưu ý là Huyệt phải đào sâu đến mạch Khí mới tốt.Thổ Huyệt có 3 loại đất :  Phù Thổ, Thực Thổ, Huyệt Thổ .  
* Phù Thổ là lớp đất mặt trên cùng của Huyệt mộ.
* Thực Thổ là phần đất ở sau lớp Phù Thổ ta hay gọi là đất liền thổ.
* Huyệt Thổ là lớp đất dưới lớp Thực Thổ . Đây chính là vùng đất tích tụ Sinh Khí của Long mạch, quý báu như ngọc trong đá. Khi đào Huyệt nhất thiết phải đào đến lớp Huyệt Thổ . Tuy nhiên tuyệt đối không được đào xuyên qua lớp đất Huyệt Thổ, vì Huyệt Thổ tàng trữ Sinh khí, nếu chưa đào đến lớp đất này thì chưa lấy được Khí mạch rót vào Huyệt, còn nếu đào xuyên qua sẽ làm tổn thương Long mạch, thậm chí cắt đứt Long mạch . Trường hợp đào xuyên qua Thổ Huyệt không còn là táng nữa mà chính là hiện tượng trấn yểm, cắt đứt Long mạch . Do vậy khi lấy chiều sâu của Huyệt phải hết sức thận trọng , đòi hỏi phải có sự tinh thông về Thổ Huyệt. Để phân biệt được Thổ Huyệt phải căn cứ vào loại Long mạch, màu sắc cũng như đường vân của thớ đất. Đường vân của Thổ Huyệt thường có nhiều dạng như hình Thái cực, như vân của vỏ ốc, hoặc như lỗ vuông của đồng tiền cổ hoặc có những sợi ánh vàng , đỏ xen nhau thì chính là Huyệt Thổ. Khi đào đến Huyệt Thổ hoặc nghi ngờ đó là Huyệt Thổ ta phải bốc một ít đất và dùng tay vê thử , nếu đất thành viên tròn thì đó chính là chân Thổ, có thể cho đào sâu xuống nữa. Lưu ý cố gắng đào với diện tích hết sức nhỏ, chỉ vừa đủ đặt quách và tiểu là tốt nhất - Đào lớn quá sẽ gây đứt Long mạch. Nếu đào tới độ sâu mà không thể vê đất thành viên được tức là lúc đó phần đất Huyệt Thổ đã hết . Như vậy chúng ta thấy rằng, khi táng , quách phải nằm trọn trong lớp đất Huyệt thổ và lỗ đào không quá lớn để không làm tổn thương Long mạch. 
* Tính toán thời gian đặt mộ : Có thể tính theo Tý- Ngọ lưu trú, Linh Quy bát pháp hoặc có một cách tính đơn giản hơn là phương pháp tính theo Mộ Long biến vận.
Mộ Long biến vận là phép để tìm năm tháng ngày giờ cát để hạ táng. Phương pháp này tính theo cách : Lấy 24 sơn theo Hồng phạm ngũ hành làm chính, xem mộ tại thời nào rồi dùng Ngũ thư độn của bản niên ( tức là năm cần tránh ) đến thời mộ của bản sơn nạp âm thì mộ chính là biến vận. Lấy nạp âm Thái tuế so với nạp âm Mộ nếu :
_ Ngang hòa, tương sinh là cát.
_ Nạp âm mộ vận khắc nạp âm Thái tuế là đặc biệt tốt.
_  Nạp âm Thái tuế khắc nạp âm mộ vận là hung, không dùng được.
Tính năm tháng ngày giờ cũng theo đó mà suy.
Khi phân kim điểm hướng cho Huyệt mộ .

12/ TÌM QUẺ CỦA HUYỆT VỊ.

Trong táng pháp, chúng ta phải xác lập được quẻ của Huyệt vị theo Tam quái pháp ( Huyền vi bí kíp ). Huyệt phát được dài nhất theo lý thuyết là 540 năm.
 * Thời điểm kết phát :
Lấy năm táng ( Can chi năm hạ táng ) , tính đến Can chi của hào động xem cách nhau bao nhiêu vị , mỗi vị là một năm thì cuối của số vị đó là thời điểm của Huyệt kết phát.
* Thời hạn kết phát :
Muốn xác định thời hạn kết phát của Huyệt nhanh hay chậm , ta phải căn cứ vào đốt của Long nhập thủ .

13/ ĐÀO HUYỆT CẢI TÁNG.



Huyệt để cải táng người ta thường đào và xây trước khoảng 3-5 ngày . 
- Khi xây dựng Huyệt mộ, người ta chỉ xây ở xung quanh bằng gạch chỉ và phần dưới cùng, đất phải để nguyên đất Huyệt Thổ, không được trát vữa hay đổ bê tông vào lòng Huyệt. Làm như vậy sẽ ngăn cản Địa Khí không nhập vào Huyệt mộ được. Dưới đáy Huyệt, người ta phải đánh độ dốc khoảng 3 độ từ Đầu tới Chân ( Đầu cao hơn chân ).
- Khi gặp trường hợp đất đào Huyệt mộ chẳng may gặp phải đất là Huyệt hung táng đã cải đi rồi, tốt nhất là tránh ra chỗ khác. Trường hợp bất khả kháng , người ta phải đào hết đất cũ đi đến phần đất liền thổ và đắt Quách và tiểu chìm hẳn vào lớp đất liền thổ đó. Sau khi lấp Huyệt , người ta phải dùng đất sạch ( tốt nhất là đất phù sa sông ) để lấp. Kinh nghiệm của dienbatn là trong quá trình lấp đất vào Huyệt mộ, lớp đầu tiên người ta dùng cát để cố định Quách không cho dịch chuyển sau khi đã Phân Kim - Điểm hướng. Lấp khoảng 1/3 chiều cao của Quách người ta mới cho đất mịn xuống tiếp cho đến khi ngang mặt trên của Quách. Tiếp sau đó mới cho đất cục lớn và lấp dần tới cách mặt đất khoảng 40 cm. Lúc này , phải cho một lớp cát có chiều dày khoảng 10 - 15 cm phủ lên trên. Mục đích của lớp cát này là để chống mối không cho ăn vào Quách. Khi những con mối đào hang tới lớp cát sẽ bị cát sụt xuống làm sập lỗ đào , khiến con mối đó bị giữ lại và chết trong lớp cát đó. Lưu ý là sau khi hạ quách xuống, phải cho tấm bia cũ ở mả hung táng xuống phía chân Quách.

14. HÌNH DẠNG MỘ CẢI TÁNG .

Thông thường, nếu đặt mộ dài hình chữ nhật, theo Huyền không phi tinh thì nếu huyệt mộ có được vận cũng chỉ được nhiều nhất là hai vận liền nhau ( 40 năm ) mà thôi. Thường hai vận tốt liền nhau là Đáo Sơn Đáo hướng và Toàn cục hợp Thập. Ðiều cần chú ý là đáo sơn đáo hướng theo Châu-bảo tuyến chỉ tốt trong thời gian  nằm trong vận của nhà mà thôi vì khi đến vận kế tiếp thì sao đương vận (vượng khí) của vận trước đã trở thành sao thoái khí tức là xấu, năng lực suy giảm nên các cung tọa và hướng của cuộc đất trở thành xấu. Ðến vận sau nữa thì các cung này lại còn xấu hơn nữa... Do đó đáo sơn đáo hướng chỉ tốt trong vận của cuộc đất mà thôi tức là chỉ tốt nhiều nhất là 20 năm. Do vậy, để có thể ngăn chặn những vận xấu của Huyệt mộ, chúng ta cần phải thực hiện theo một cách khác mà dienbatn đã thực hiện thành công trong những năm qua .
Mộ sau khi cải táng có nhiều kiểu , nhưng nhìn chung cha ông chúng ta có câu truyền lại rằng " : Chết mộ dài - Cải táng một tròn " ( Tức là khi hung táng thì đắp mộ dài theo thân - Khi Cải táng thì đắp mộ hình tròn ) . Nghiên cứu kỹ lưỡng vấn đề này và soi rọi bằng những kiến thức Địa lý mà cha ông chúng ta truyền lại , dienbatn thấy cha ông chúng ta thật là chí lý. 
Sau khi cải táng, người ta tùy theo điều kiện kinh tế gia đình mà thực hiện phần mộ phía trên . Từ Bắc vào Nam nước ta , có nhiều kiểu mộ : Hình chư nhật, hình tròn, hình trứng ngỗng , hình mai rùa, hình lá sen, hình gáy ngựa ( cổ ngựa ) - Còn gọi là Mã Lạp , Mộ nấp liếp, mộ Trúc cách, Long đình ( giống như một chiếc kiệu ) - Thường dùng cho các bậc quyền quý, Lăng, Tẩm ( thường dùng cho những bậc Đế Vương ).
Theo Huyền Không phi tinh : Thông thường, nếu đặt mộ dài hình chữ nhật, thì nếu huyệt mộ có được vận cũng chỉ được nhiều nhất là hai vận liền nhau ( 40 năm ) mà thôi. Thường hai vận tốt liền nhau là Đáo Sơn Đáo hướng và Toàn cục hợp Thập. Sang đến vận thứ 3 thì hướng mộ này thường gặp phải Thượng Sơn - Hạ Thủy làm cho mất người, mất của.
Tam-Nguyên Cửu Vận là chu kỳ 180 năm chia làm 3 Nguyên và 9 Vận. Ba Nguyên là Thượng, Trung và Hạ-Nguyên mà mổi Nguyên có 60 năm. Mổi vận là 20 năm. 
Theo GS TS Nguyễn Tiến Đích ." "Khí gồm có Âm khí và Dương khí, Sinh khí và Tà khí. Đó là hai mặt đối lập cùng tồn tại khách quan của Khí. Ta không nhìn thấy Khí âm hay Khí dương, không nhìn thấy Sinh khí hay Tà khí, nhưng cảm nhận được nó. Vào một nhà mà thấy nóng quá thì đó là nhiều Dương khí quá, hoặc thấy khó thở thì có nghĩa là nhiều Tà khí quá. Con người ta cần một môi trường sống cân bằng Âm Dương khí, nhiều Sinh khí ít Tà khí.
 Quan sát một ngôi mộ như ở Hình 2 ta thấy, khi một dòng Khí tác động vào nấm mồ, nó lập tức được phân ra: Tà khí (TK) nặng trọc lao xuống dưới (trực vô tình), còn Sinh khí (SK) thanh nhẹ thì lượn theo dường cong hình khối của nấm mồ để thẩm thấu xưống dưới mộ (khúc hữu tình). Như vậy ngôi mộ này luôn được Sinh khí nuôi, lại cân bằng Âm Dương khí, dưới mộ luôn được mát, làm cho hài cốt tươi lâu.
   Ngược lại, ở ngôi mộ Hình 3 ta thấy: ngôi mộ này được xây tường xung quanh và lát kín trên mặt đã làm cho Sinh khí không thẩm thấu được xuống mộ được, mà bay đi mất. Thành ra ngôi mộ này luôn bị mất Sinh khí, lại bị nắng mặt trời nung nóng xung quanh làm cho Dương khí luôn quá lớn, mất cả cân bằng Âm Dương khí. Ngôi mộ này chắc chắn hài cốt sẽ mau hoai. Từ đây cho thấy rằng nấm mồ có cỏ xanh phía trên là rất cần thiết. Đó là phương tiện để nhận Sinh khí và thải bớt Tà khí và để cân bằng Âm Dương khí. Như vậỵ trên mộ cần phải có cỏ xanh là một tiên quyết !

 
Quan sát hình 4 ta thấy: Khi một dòng Khí tác động vào thành mộ tròn thì phần Tà khí (TK) sẽ tách ra lao xuống dưới. Còn Sinh khí (SK) thì vừa chạy viền quanh đường cong thành mộ, vừa đổ vào mặt trên của mộ để thẩm thấu vào mộ theo mọi hướng. Như vậy mộ tròn có ưu điểm là nhận được nhiều Sinh khí hơn là mộ xây hình chữ nhật.


Quan sát một ngôi mộ xây hình chữ nhật như hình 5 ta thấy: Ngôi mộ này không có đường Sinh khí bao quanh như ở mộ xây tròn vì mặt tường là mặt phẳng. Mặt khác, bức tường cao để đặt bia đã làm thoát mất Sinh khí SK2, không rơi xuống mặt mộ, mà vượt qua mộ đi mất. Mộ này chỉ có thể thường xuyên nhận Sinh khí SK1 từ 3 hướng mà thôi.


Như vậy, mộ có thể xây hình tròn hay hình chữ nhật đều được, nhưng xây tròn thì vẫn hơn. Có một nguyên tắc cần nhớ là trên mộ phải có cỏ xanh. Đó là cửa giao lưu thông thoáng Âm Dương giúp cho mộ luôn nhận được Sinh khí và cân bằng Âm Dương khí.

   Ở một vài tỉnh miền Trung nước ta, nhân dân xây mộ không làm tường cao gắn bia, mà đặt bia ngay trên thành mộ (Hình 6). Ưu điểm của những mộ này là không cản đường Sinh khí vào mộ. Mộ có thể nhận Sinh khí từ mọi phía. Mộ này vừa đơn giản, đủ lịch sự, lại vừa phù hợp với quy luật vận hành Khí của vũ trụ. Ở những mộ này bia được gắn trên thành mộ theo nguyên tắc: người đứng lễ phía chân người chết phải nhìn thấy bia. Nghĩa là: nếu gắn trên thành mộ thì bia gắn ở phía chân người chết (ngoài thành mộ). Còn gắn trên cao thì gắn phía đầu người chết (trong thành mộ). "
Qua phần phân tích về đường khi vào mộ như trên , ta thấy rằng hình dáng mộ hình tròn và trên mặt bằng phẳng là hình dáng không cản đường Sinh khí vào mộ. Mộ có thể nhận Sinh khí từ mọi phía. Mộ này vừa đơn giản, đủ lịch sự, lại vừa phù hợp với quy luật vận hành Khí của vũ trụ. 
Qua quá trình học tập và thực hành việc đặt mộ trong những năm qua , kết hợp với những gì Ân Sư đã chỉ dạy, dienbatn kết hợp giữa mẫu mộ hình tròn và trận đồ Bát quái thành một loại mộ phần có hình dạng Bát Quái rất đắc dụng và thành công.

SỬ DỤNG TẬN ĐỒ BÁT QUÁI VÀO TRẤN YỂM VÀ ĐẶT MỘ PHẦN .

Người ta có thể dùng TRẬN ĐỒ BÁT QUÁI vào việc TRẤN YỂM một khu đất hay địa huyệt nào đó với hai mục đích ngược nhau : Làm cho khu vực đó tốt lên hay là triệt phá Long mạch của vùng đất hay Địa Huyệt đó . Đó là hai chiều tương sinh và tương khắc của Ngũ hành - Âm , Dương .
Việc xây dựng một TRẬN ĐỒ BÁT QUÁI vì mục đích gì đi chăng nữa , người Chủ trận phải hiểu tường tận cách bố trí Trận pháp . Ngoài việc xác định rõ vị trí của Huyệt kết ở đâu , hướng của Long Nhập thủ như thế nào trong 72 Long Thấu Địa , Thiên Môn - Địa hộ ở đâu , Tính chất Âm - Dương ,Ngũ hành của Khí Huyệt như thế nào , người bố trí Trận đồ phải rất giỏi về Ngũ Tử Khí Long ( Phận biệt các loại Khí Hỏa Khanh , Không hư , Bảo Châu ) , phải thành thạo các thuật Toán an Ngũ Thân , Lộc , Mã , Quý , Tứ cát , Tam Kỳ , Bát Môn , an các Thiên Can , Địa Chi lên Bát Quái Đồ Hỗn Thiên . Những thuật này liên quan mật thiết đến Thuật tính Thái Ất , Độn Giáp .
Đã có nhiều lần người viết đề cập đến Trận đồ Bát quái này. Tên đầy đủ là BÁT QUÁI THIÊN ĐỒ TRẬN. Tục truyền rằng trận đồ này do hậu duệ của Khổng Minh Gia Cát Lượng lưu truyền lại từ xưa qua bao thăng trầm của dòng họ. Trận pháp này chỉ truyền lại cho đời sau, mỗi đời một người nắm giữ. Sau này vì một lý do nào đó lọt ra đến ngoài, nhưng số người nắm giữ được bí mật này cũng rất ít. Sư phụ của người viết là một trong số những người được truyền lại và tiếp tục truyền lại cho người viết trận đồ Bát quái này. Vì không được phép phổ biến nên người viết chỉ có thể nói sơ qua một chút để các bạn hình dung. Đây là một trận pháp áp dụng theo Bát môn có các cửa : Hưu - Sinh - Thương - Đỗ - Cảnh - Tử - Kinh - Khai. Trận đồ này áp dụng theo thuật số của Hà đồ - Lạc thư với hai vòng quay thuận - nghịch theo Thời gian. Trận đồ này bao gồm tổng hợp những thủ thuật dùng trong Phong thủy, Dịch lý, Thái ất.... với rất nhiều loại Linh phù, Chú của Tiên gia...Thường khi thực hiện, Pháp sư dùng 9 hũ bằng gốm, đặt theo 9 phương vị của Trời đất. Trong 9 hũ đó chứa đựng 5 thứ kim loại : Vàng - Bạc - Đồng - Chì - Sắt và rất nhiều loại Linh phù Trấn trạch ( Âm hoặc Dương trạch ). Trận đồ này chỉ được phép thực hiện trong một số ngày nhất định mà thôi. Người ta có thể dùng đèn cầy , nhang , đá hay bản thân người để thực hiện Trận đồ này tùy theo mục đích công việc. Công dụng của Trận đồ này qua hàng ngàn năm đã chứng tỏ uy lực mạnh mẽ của nó : Dùng trấn Âm , Dương trạch ( kể cả Chùa chiền, nhà cửa, Kinh thành, hoá giải được những Trấn yểm...). Người viết chưa đủ Năng lượng để thực hiện những Trận đồ với quy mô lớn, nhưng có dùng để Trấn trạch và hoá giải những cuộc đất xấu, những ngôi mộ bị Trùng tang liên táng hoặc phát sinh những việc xấu sau khi tang... đều thấy hiệu quả rõ rệt. Trận đồ Bát môn này quay đủ 360 độ theo thời gian theo hai vòng thuận nghịch nên có thể hóa giải được Cửu tinh của Huyền không .




Trong ứng dụng vào việc đặt mộ phần khi cải táng, dienbatn sử dụng vòng tương sinh và dùng các loại đá quý sắp đặt theo Bát trận để thu khí về Huyệt mộ. 
Xin theo dõi tiếp bài 2. Thân ái . dienbatn.  
Xem chi tiết…

THẦN LINH VÀ BÙA PHÉP THÁI LAN . BÀI 19.

7/26/2015 |
THẦN LINH VÀ BÙA PHÉP THÁI LAN .BÀI 19.


ĐÔI LỜI MỞ ĐẦU : " Gần 95% người Thái theo đạo Phật Nam Truyền (bao gồm các phái Thiền Lâm Thái Lan, Dhammayuttika Nikaya và Santi Asoke). Một nhóm nhỏ người Thái Lan (4.6%) theo đạo Hồi, 0.7% dân số theo đạo Thiên Chúa. Ngoài ra, còn có các tôn giáo khác. Phật giáo Nam Tông ở Thái Lan được sự hậu thuẫn và quan tâm lớn từ Chính phủ. Các nhà sư được hưởng nhiều lợi ích do Chính phủ mang lại, ví dụ như được sử dụng các phương tiện giao thông công cộng miễn phí.
Phật giáo ở Thái Lan bị ảnh hưởng lớn bởi các niềm tin truyền thống về tổ tiên và các vị thần tự nhiên; các niềm tin này đã được đưa vào vũ trụ luận Phật giáo. Hầu hết người Thái xây một miếu thờ nhỏ trong nhà, là một ngôi nhà gỗ nhỏ nơi mà họ tin rằng là chỗ trú ngụ của các vị thần linh. Người Thái dâng thức ăn và nước uống cho các vị thần này để cho các thần hài lòng. Nếu các vị thần không hài lòng, thần sẽ đi ra ngoài miếu thờ và trú ngụ trong nhà của gia chủ và quấy nhiễu. Những miếu thờ này cũng được dựng lên ven đường ở Thái Lan, nơi mà công chúng thường xuyên dâng lễ vật lên các vị thần.
Trước khi Phật giáo Nam Tông phát triển, Bà-la-môn Giáo Ấn Độ và Phật giáo Phát triển đã hiện diện. Ngày nay, ảnh hưởng từ hai truyền thống này vẫn còn rõ nét. Các chùa Bà-la-môn đóng một vai trò quan trọng đối với tôn giáo dân gian Thái, và các ảnh hưởng từ Phật giáo Đại Thừa vẫn còn được phản ánh trong các hình tượng, ví dụ như Quán Thế Âm, một hình dạng của Bồ Tát Quán Thế Âm, người thỉnh thoảng vẫn được xem là biểu tượng Thái Lan . " ( http://vi.wikipedia.org/ ). 
Chúng ta đã khảo cứu qua các vị Thần của Trung Hoa, của Hin đu và Bà La môn Ấn Độ. Nay tiếp theo mạch , chúng ta khảo cứu tiếp về THẦN LINH VÀ BÙA PHÉP THÁI LAN . Các khảo cứu này do dienbatn sưu tập trong Huyền môn và trên Internet và biên tập lại làm tư liễu khảo cứu. Nếu có phần nào không ghi nguồn là do dienbatn không nhớ nguồn sưu tập - Xin các tác giả lượng thứ. Thân ái. dienbatn.
CÁC VỊ THẦN THÁI LAN.
MỤC LỤC.
1 HÌNH TƯỢNG NỮ THẦN TÀI LỘC , TÌNH YÊU - NÀNG KWAK.
2. PHÚC THẦN VOI GANESHA .
3. KUMAN THONG .
4. XÂM BÙA - SAK YANT.
5. BÙA TAKRUT VÀ THUẬT VÔ KIM VÀNG GOLD NEEDLE TAKRUT
6. BÙA DƯƠNG VẬT PALAD KHIK.
7. DẦU MA THUẬT ĐEN - NAM MAN PRAI .
8. MA THÁI LAN - NHỮNG CON MA NỔI TIẾNG.
9. NGẢI THÁI LAN - (  Black Magic Thailand ) .
10.  MỘT SỐ GURU HUYỀN MÔN THÁI LAN TIÊU BIỂU.
11. MỘT SỐ CÂU CHÚ ĐỂ SỬ DỤNG KHI TÔM BÙA THÁI - Kata Chanting.
12. NHỮNG BÀI KINH QUAN TRỌNG KHI SỬ DỤNG VÀ THỰC HIỆN BÙA THÁI .
13. MA THUẬT ĐEN THÁI LAN .
14. GIẢI THƯ ẾM TẠI THÁI LAN .
15. BÙA NGẢI – CÁCH GIẢI TRỪ BÙA NGẢI VÀ PHÒNG CHỐNG .
LỜI KẾT VỀ BÙA - NGẢI .
  * Nhà nghiên cứu Tâm linh Phan Oanh : " Bùa ngải không có tội, chỉ có người thực hành phương pháp này sinh công hay sinh tội mà thôi. Bản thân nó rất vô ngã. Và nếu như cái nghiệp nhà anh mà nó hợp với cái pháp này thì cái duyên pháp ấy nó hợp nhau để tạo nên một sự lợi lạc. Và chính cái bùa ngải này là hóa giải, là chuyển nghiệp. Vậy thì muốn chuyển nghiệp có ngàn vạn cách. Nhà Phật có tám vạn bốn ngàn pháp môn cơ mà. Nhưng tại sao anh chọn một pháp tu, anh lại bảo chỉ pháp tu anh mới đúng còn pháp kia là sai, là xấu, là lệch. Cái đó là do nhận thức của chúng ta quá chật hẹp. " 
 * Tamandieungo  : "Những gì tôi viết cho đến hôm nay chỉ là một phần nổi của tảng băng huyền bí. Nhưng một phần ấy thôi cũng đủ vén chút ít tấm màn bí mật bao trùm lên cõi nhân gian này vậy.  Nếu vén nữa, e rằng không tốt cho bản thân tôi và cho nhiều người.
Qua các bài đã post, chúng ta hiểu biết thêm phần nào về những loại thảo mộc có tánh linh này. Như vậy cũng đủ lắm rồi.
Nếu các bạn biết quý trọng nó, nó sẽ không bao giờ phụ bạc các bạn. Loại linh thảo này có thể ví như chiếc gương soi bản tánh con người, tâm địa thế nào, ngải sẽ hiển thị như vậy. Cho nên, khi đã trồng thì phải dốc cái lòng thành của mình mà chăm sóc, biết chừng tổ ngải cảm động mà cảm ứng cho ta. 
Ngược lại, mang tâm địa độc ác, muốn mượn ngải để thoả mãn tư lợi cá nhân thì sau này ngải sẽ không tha. Sư huynh của ông dượng tôi vì thử ngải nên bị ngải vật đến chết, người đàn bà quen dùng ngải nói cuối cùng miệng bị ngải ăn sưng vếu như hai miếng da trâu rồi lở loét dần mà chết, người chuyên lừa bán ngải với giá cắt cổ mà không biết cách cúng ngải và cách hội tổ ngải cuối cùng cũng bị ngải ăn lở loét tay chân, rút hết sinh khí sanh ra bụng to cổ nhỏ xanh rờn như lá chuối non… 
Đó chính là lưỡi dao thứ hai của ngải mà ít người biết hoặc ít chịu quan tâm. 
Tôi không muốn hướng dẫn ai luyện ngải là vì vậy.
Bản thân tôi, vì  không muốn ngải bị lãng quên như cỏ dại nên thời gian qua liều mình đánh thức ngũ hổ tướng và thập nhị ngải nương thức dậy trong tâm thức nhân gian. Hy vọng các vị tổ ngải tiếp tục giúp đỡ cho đời, nhất là đối với những người bắt đầu biết hướng thiện, biết trân trọng quỷ thần. " 
 * THANH PALI : " Để biết thực hư với người ta ,chớ nghe đồn đãi mà không nhập cuộc thì mãn đời mù u ,bán tín bán nghi ,mơ mơ hồ hồ ..." 
 "  Ngải lục bình mọc trên đá núi luyện lôi cuốn tiền tài danh vọng đến rồi đi như làn gió , để lại nuối tiếc đau khổ cho người tham vọng "
  * LyNguyen 1968 : " Các bạn tin hay không tùy các bạn nhưng đây là một câu chuyện rất thật xảy ra với tôi.Bây giờ tuy tôi không làm Thầy Bà gì cả nhưng tôi vẫn tự hào vì mình có những người bạn tốt ở thế giới vô hình.tui chỉ muốn các bạn biết rằng không phải Ngãi là Tà mà do tâm người luyện Ngãi là Tà hay Chánh mà ảnh hưởng đến cây Ngãi họ luyện. " 
 * PV Hoàng Anh Sướng báo TGM : " Cần sự lý giải về một hiện tượng tâm linh của văn hoá Mường.
Trở lại với nhà văn Nguyễn Hữu Nhàn, người đã có hàng chục công trình nghiên cứu về văn hoá Mường Thanh Sơn. Trao đổi với chúng tôi tại tư thất ở Khu tập thể Di Lâu, thành phố Việt Trì về vấn đề: có hay không sự linh nghiệm của phép thuật nèm chài, nhà văn khẳng định: “Chài nèm là có thật”. Theo “Cổ sử Việt Nam” của Đào Duy Anh thì Vua Hùng chính là người Lạc Việt có nhiều phép thuật, quyền năng, phục được các bộ lạc, làm thủ lĩnh mà xưng là Hùng Vương. Xứ Mường Thanh Sơn, đất bản bộ của Vua Hùng còn in đậm phong tục tập quán, lễ nghi tín ngưỡng, chế độ thổ tù lang đạo, ruộng đất nhà lang..., đặc biệt, những truyền thuyết dân gian về vua Hùng, về Thánh Tản Viên còn rất nhiều. Pháp thuật thần bí của người Lạc Việt mà sử sách thời Trang Vương bên Tàu gọi là phương thuật hay Việt phương nay còn sót lại ở xứ Mường chính là nèm chài, bùa mê ngải lú... Cách đây bốn năm, trong hội nghị giữa nhóm các nhà khoa học của Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia với Sở văn hoá Phú Thọ bàn về vấn đề “nghiên cứu văn hoá Mường Phú Thọ”, nhà văn Nguyễn Hữu Nhàn đã tha thiết đề nghị cần nghiên cứu sớm phương thuật của người Mường để làm sáng tỏ bức màn tâm linh kỳ bí này song rất tiếc, cho đến nay, vẫn cha ai đoái hoài tới. Riêng tôi, lặn ngụp mấy ngày ở xứ Mường Thanh Sơn để viết phóng sự này, không có ý tuyên truyền về những điều nhảm nhí, mê tín dị đoan... mà đơn giản chỉ là kể một cách trung thực những điều mắt thấy tai nghe đang lưu truyền trong dân gian để các nhà khoa học và bạn đọc tham khảo. Chuyện thuật nèm chài linh nghiệm đến đâu, cần phải tiếp tục nghiên cứu, đối chứng, tìm hiểu trong thực tế... H.A.S "
* dienbatn : " Chuyện Bùa - Chú , Ngải nghệ thực là xưa như trái đất . Tuy nhiên chính vì cái " Xưa " đó mà người viết đã cố công tìm hiểu , mong tới ngọn nguồn . Nọc rắn rất chi là độc , nhưng nếu không nghiên cứu tường tận về rắn , đến khi bị rắn mổ rồi lấy ai cứu đây . Nhân - Duyên , Nghiệp - Quả thì ai mà chẳng biết . Nhưng nếu chỉ vì Nhân - Duyên , Nghiệp - Quả mà khi gặp bệnh không chịu chữa trị - Nằm chờ trái sung Nghiệp - Quả rụng thử hỏi có nên không ? Mặt khác nữa , chính những cái đó cũng là một phần Bản sắc Văn hóa của từng vùng , truyền trong dân gian hàng mấy nghìn năm - Của cải và kinh nghiệm của ông cha để lại - Liệu có nên vội chụp cho nó cái mũ Mê tín dị đoan không ???
Kết quả , tỷ lệ thành công của việc dùng Bùa - Chú , Ngải - Nghệ như thế nào ??? Chưa có ai thống kê và nghiên cứu tường tận cả . Chỉ cần biết rằng : cái gì tồn tại lâu dài , dai dẳng cả mấy nghìn năm - Tự bản thân nó đã là một sự hợp lý rồi .
Nếu chúng ta chỉ vì cái mũ Mê tín - Dị đoan mà không nghiên cứu vấn đề này cho tường tận , những nước khác họ đầu tư nghiên cứu , và nếu họ thành công trong phương diện điều khiển con người từ xa - Thì quả thật là nguy hiểm . Trong các phim ảnh giả tưởng của nước ngoài _ Vấn đề điều khiển ý nghĩ và hành động của con người từ xa đã được nêu ra rất cụ thể và thực ra đã rất gần gũi với những cách dùng trong Huyền thuật rồi . Người viết , bỏ công sức , tiền bạc , lăn lộn từ Nam ra bắc , Tử Lào tới Miên ,.... không phải nhằm tuyên truyền cho Huyền thuật hay sử dụng Huyền thuật vào mục đích riêng mà chỉ có mong mỏi ghi chép lại những Bí thuật cổ xưa - Hy vọng đến một lúc nào đó có sự quan tâm , nghiên cứu tường tận về vấn đề này của các nhà Khoa học .
Cứu một mạng người bằng xây mười cái Chùa . Gặp chết mà không cứu - Cứ đổ cho Duyên - Nghiệp thì thà chẳng có Đạo còn hơn ."
"dienbatn lăn lộn từ Nam ra Bắc , tìm tòi , học hỏi không phải để ca ngợi Bùa Ngải hay các Thày bà nào đó. Đây quả thực là một thứ vũ khí lợi hại và khủng khiếp của con người khi phải chống chọi với Thiên nhiên và chống chọi lẫn nhau . " Bùa , Ngải , Thư , Phù , Ếm , Đối , Thần Thông , Huyền năng , Pháp Thuật....là những khoa học cao cấp ; Chính quyền của tất cả các nước trên thế giới đều có thiết lập những trung tâm nghiên cứu từ lâu , cũng như đã từng áp dụng trong những trận chiến quan trọng , hay những chiến lược bí mật..... ( THIỆN ÁC VÀ THẦN THÔNG ). Tác dụng của Bùa Ngải là hoàn toàn có thực , nó có tác dụng chi phối suy nghĩ và hành động của con người . Bùa ngải cũng như những pháp thuật khác, đã được lưu truyền từ xưa đến nay , nếu nó không có giá trị , thì nó đã bị chìm vào quên lảng từ lâu , không còn ai nhắc tới nó nữa. Chúng ta nên có một cái nhìn khách quan và có thái độ nghiên cứu một cách nghiêm túc, chắc cũng rút ra được nhiều vấn đề cần thiết cho việc bảo vệ cuộc sống của chính mình cũng như của loài người . Không có ai tránh được ảnh hưởng của Bùa ngải , nhưng nếu chúng ta có đầy đủ phúc đức và hiểu biết , chúng ta có thể hóa giải những tác dụng xấu của Bùa Ngải . Bùa Ngải chỉ là một phương tiện dùng trong tranh đấu chống Thiên nhiên và chống kẻ địch .Bản thân Bùa Ngải không có công hay tội mà chính là người sử dụng mới có công hay có tội mà thôi . Ác lai - Ác báo . Thày nào làm ác sẽ phải chịu lãnh những đòn trừng phạt của luật Nhân - Quả . Lưới Trời lồng lộng - Thưa nhưng chả để lọt một ai . 
Về việc sử dụng Bùa Ngải : Chỉ nên sử dụng khi thật cần thiết , cũng như tạo cho ta một cơ hội cuối cùng trong công việc . Thuốc kháng sinh cũng còn vô số tác dụng phụ khi điều trị , huống hồ là Bùa Ngải . Các bạn ở vào vị thế cuối cùng khi phải sử dụng Bùa Ngải cũng nên nhờ những người có chuyên môn và hiểu biết thật sự giúp mình . Đừng bao giờ thấy có tài liệu hay sách vở ở đâu đó mà tự mình luyện và sử dụng - Hậu quả thật khó lường . Âm - Dương , tốt xấu là hai mặt của một sự việc , các bạn nên thận trọng và vô cùng thận trọng mới được . Tất cả những tư liệu dienbatn thu thập được trong bài viết chỉ có tác dụng tham khảo , dienbatn không chịu trách nhiệm nếu bạn nào cố ý luyện tập - Lợi bất cập hại . Thày bà nếu luyện đến mức độ giỏi , bén tay cũng đều phải chấp nhận những giá phải trả cực đắt . Mong các bạn đọc kỹ những dòng này . dienbatn cũng mong các bạn thông cảm là sẽ không tiết lộ địa chỉ cũng như danh tánh của các Thày bà đã viết ở trên để tránh những hậu quả đáng tiếc - Xin các bạn miễn cho việc trả lời vấn đề này . Đây chỉ là một công trình nghiên cứu - Không phải để giới thiệu hay ca ngợi bất cứ một vị Thày bà nào cả . "
Thân ái  - dienbatn .
Có một bài viết khá hay ( mặc dù dienbatn không hoàn toàn thống nhất quan điểm của tác giả - Xin giới thiệu coi như một bài kết của loạt bài này .
BÙA NGẢI – CÁCH GIẢI TRỪ BÙA NGẢI VÀ PHÒNG CHỐNG . 
" Phần I. BÙA CHÚ .
Thi thoảng ta vẫn bắt gặp đâu đó những câu chuyện ly kỳ, đậm chất liêu trai: có anh cán bộ lên miền núi công tác, bị dính bùa nên đã bỏ vợ bỏ con, ở lại cùng cô sơn nữ... Có những người trong giới Showbizz vì ghen ghét, đố kỵ nhau, người ta có thể dùng bùa chú để hại nhau... Hay có những người, gia đình đã mất mạng vì bùa ngải..vv... Thế giới bùa ngải đã tạo nên một màu sắc huyền bí, tạo nên sự tò mò, mê hoặc cho rất nhiều người. 
Chung quy lại cũng chỉ là biểu hiện của những sự bế tắc trong đời sống, sự cực đoan về tâm trí, hay sự eo hẹp về tâm hồn mà thôi. Người ta có thể vì lợi ích của bản thân mình mà sẵn sàng hại một ai đó, hay chỉ để thỏa mãn chút bản chất ích kỷ, đố kỵ trong con người mình, sẵn sàng xem nhẹ cuộc sống hay thân mạng của người khác. Những câu chuyện về lòng bi mẫn luôn ám ảnh người nghe.
Một mặt khác của bùa chú, dựa vào tính mê hoặc của nó, dựa vào khát khao muốn có được những điều tốt lành của tâm lý số đông, cũng xuất hiện những kẻ biết lợi dụng để để kiếm tiền trên sự không hiểu biết của người khác. Phần lớn những bùa chú được bán trên thị trường, được xin cho ở cửa chùa, cửa Phật đều thuộc dạng này, chẳng có chút giá trị hay ảnh hưởng gì.
Ngày nay, một số người trong chúng ta cũng tìm đến bùa chú như một giải pháp về tinh thần. Khi cuộc sống cứ mãi không may mắn, chúng ta cũng muốn xin được một lá bùa để cầu may. Khi gia đình có nhiều xáo trộn mà chúng ta không tìm ra cách giải quyết, do không hiểu nguyên nhân từ đâu nên ta cứ nghĩ hay là có nguyên nhân bí ẩn nào đó, và thế là ta cũng tìm một lá bùa để mong có sự an ổn trong nhà. Rồi bùa phòng thân, bùa chữa bệnh, bùa tình duyên, bùa hộ mạng, bùa hóa giải vận hạn, tai ương..vv...
Mỗi khi đã lạc vào mê trận của bùa chú, chúng ta cũng sẽ khó tìm được lối thoát cho thỏa đáng. Giống như một người bị bệnh nan y, cứ nghĩ bệnh của mình đã vô phương cứu chữa, thế là vội vã bỏ qua sự thông minh, sự tỉnh táo của bản thân mình, dùng những thứ thuốc đáng nhẽ ra không nên dùng, tin vào những điều đáng nhẽ chẳng nên tin mới phải. Để rồi khi thấy không có gì biến chuyển, bệnh vẫn càng ngày càng nặng hơn thi lại càng thiêm bi quan, mờ mịt.
Nhưng với những bùa chú có tác dụng thật thì sao? Khi sử dụng bùa chú, với nhiều mục đích khác nhau, đôi khi chúng ta đã vô tình quên đi, và bỏ qua những ẩn họa có thể ẩn tàng trong đó.
Những ai am hiểu bùa chú thì đều biết đây là con dao hai lưỡi, không dễ chơi chút nào. Người không hiểu thì đôi khi còn cảm thấy mừng vì đã xin được bùa.
Chúng ta nên hiểu rõ bản chất thực của bùa chú.
Bùa: là đồ hình (hình vẽ) do người làm bùa tạo ra.
Chú: (Thần chú) là những lời mà người làm bùa đọc lên trong lúc vẽ bùa.
Tùy vào từng loại bùa, ý nghĩa và tác dụng của nó, mà có những hình vẽ và lời chú khác nhau, nhưng quy tắc khi làm một lá bùa là vừa đọc chú vừa vẽ, miệng thì đọc chú đồng thời tay vẽ, tập trung tư tưởng, lúc vẽ xong lá bùa thì cũng là lúc đọc hết câu thần chú. Một hình vẽ phức tạp thường phải dùng nhiều biến chú (đọc chú lặp đi lặp lại nhiều lần).
Vì sao vậy?
Vì sao mà bùa chú có lại có một tác dụng nào đó? Xin thưa vì nó có tha lực.
Tha lực là gì ? là lực tác động được tạo ra không phải do con người mà do một thế lực khác, thuộc về thế giới tâm linh huyền bí.
Hình vẽ bùa bao giờ cũng có những đường cong uốn lượn, hoặc những hình xoáy trôn ốc. Bởi trong không gian không phải 3 chiều của thế giới tâm linh thì đây chính là những điểm khó thoát, những cái bẫy. Hay nói cách khác là chỗ để cầm giữ.
Câu chú thuộc một quyền năng lớn hơn. Nếu không có chú tác động thì bùa trở nên vô giá trị.
Chúng ta hiểu đại ý giống như việc một người lớn, quyết định hôm nay không cho trẻ ra khỏi nhà, áp đặt cho trẻ, yêu cầu trẻ ở nhà phải làm việc gì đó đồng thời khóa luôn cửa, thế là đứa trẻ đành chấp nhận ở bên trong ngôi nhà đó, và làm những việc mà người lớn đã yêu cầu.
Lời nói của người lớn ví như câu thần chú, ngôi nhà là lá bùa, và đứa trẻ là một vong linh. Khi một câu chú được đọc lên đồng thời với nét vẽ thì đã có một tha lực bị nhốt vào trong đó, và tha lực này có tác dụng tùy theo yêu cầu của lời chú.
Điều đáng quan ngại là làm bùa thì dễ, nhưng giải bùa lại rất khó, những ông thầy làm ra bùa, 10 người thì có đến 9 người không biết cách giải những lá bùa mà họ đã làm ra.
Bởi những câu thần chú cổ xưa truyền lại phần lớn đều bằng tiếng phạn, hay một thứ cổ ngữ nào đó, chỉ có thể hiểu ý chứ không thể dịch nghĩa cụ thể. Nên những thầy bùa phần lớn không thể học hỏi được một cách thấu đáo. Và phần lớn các ông thầy lúc học cũng chỉ học cách làm bùa chứ không học cách giải bùa, nên những câu chú giải bùa cho từng loại bùa không phải ai cũng biết.
Quy tắc giải bùa là đọc chú có tác dụng buông thả sự cầm giữ các tha lực, và thứ tự nét vẽ thì vẽ ngược lại so với lúc làm bùa.
(Đủ các loại Bùa được in sẵn và bán khắp nơi)
`Ví dụ về bùa: Ví dụ chúng ta hay bị vong theo, vong nhập… hay đơn giản chỉ để tránh tà ma, ta liền đi xin một lá bùa để tránh hiện tượng này. Lá bùa mà ta xin được sẽ có nhốt một tha lực nào đó ở trong, thường là vong (âm), và nó có tác dụng chống vong khác lại gần hay chống xâm nhập, vì âm đẩy âm (cùng dấu thì đẩy nhau, theo nguyên tắc vật lý). Về cơ bản thì điều này cũng không có gì khó hiểu hay phức tạp lắm. (bùa trừ tà, hộ mạng, trấn yểm, hóa giải… đều thuộc dạng này).
Nhưng bất cập hại ở chỗ tha lực bị nhốt vào bùa, ta không thể biết được bản chất nó tốt hay xấu, thầy bùa cũng không biết nốt (những người thực sự hiểu biết rõ thì họ thường sống ẩn dật, đã không còn làm bùa). Và cái tâm lực của người làm bùa khi làm đã không đủ độ (cùng một câu chú nhưng không phải ai đọc cũng có quyền năng, tác dụng như nhau, điều này phụ thuộc vào năng lực của người đọc), nên đôi khi đã không đủ sức để cầm giữ tha lực trong đó, tha lực đó thay vì giúp ta có khi lại quay ra quấy phá chúng ta.
Giống như việc chúng ta thuê một nhân viên bảo vệ đến nhà để bảo vệ gia đình mình, nhưng đôi khi người bảo vệ này lại nổi lòng tham ác, có thể trộm cắp tài sản, hoặc làm những việc phương hại đến gia đình chúng ta. Vì không phải lúc nào anh ta cũng nghe lời, hay bị ràng buộc bởi những quy định của công ty bảo vệ nơi đã tuyển dụng anh ta vào làm.
Nếu chúng ta mang một lá bùa về nhà, hay mang trong người mà không đem lại tác dụng như ý muốn, có khi còn phản tác dụng, tình hình còn xấu hơn, vậy chúng ta nên giải quyết cách nào?
Đốt đi chăng? Không thể đốt. Khi lời chú chưa được giải, đốt lá bùa là ta đã làm mất chỗ trú ngụ của tha lực, khi đó còn tệ hại hơn. Vứt đi chăng? Làm thế là ta đã ngược đãi họ.
Trước đây lão cũng từng hướng dẫn các học viên của lão cách giải bùa chú theo nguyên lý âm dương và trường năng lượng (Bùa chú thuộc năng lượng âm, Thiền là năng lượng dương, dương thịnh thì âm sẽ suy), nhưng quả thực rất hao tổn tâm sức, và đôi khi có rất nhiều thứ liên quan, phức tạp, nên lão đã khuyến cáo họ không nên làm nữa.
Cách tốt nhất là nếu bùa không có tác dụng mà nghi ngờ còn phản tác dụng thì chúng ta hãy mang lá bùa trả lại cho ông thầy bùa mà chúng ta đã xin, kèm theo chút lễ vật. Còn có giải được lá bùa đó hay không hay xử trí thế nào thì đó là việc của ông thầy, chúng ta không bận tâm đến nó nữa.
Tại sao phần lớn bùa chú thông thường không mấy khi có tác dụng rõ rệt ?
Vì các câu chú thường chỉ được truyền miệng lại bằng một thứ âm ngữ mà không phải ông thầy nào cũng hiểu nghĩa, nên dễ tam sao thất bản. Các thầy đã đọc không chuẩn, có người vì lâu ngày không dùng đến nên cũng quên, chẳng nhớ rõ.
Vì các câu chú thường viết bằng cổ ngữ, hay một thứ dịch nghĩa nào đó, các thầy nhà mình chẳng hiểu đó là chữ gì, chỉ thấy toàn giun dế thôi, nên nhiều khi viết theo để lưu giữ cũng sai. Hoặc chỉ được truyền khẩu mà không lưu lại bằng ngôn ngữ...
Vì hình vẽ của lá bùa nhiều khi các vị vẽ cũng không chuẩn xác, không đảm bảo độ to nhỏ, hay cự ly giữa các nét vẽ, các vị cứ vẽ bừa. Mức độ uốn cong nét vẽ thế nào là vừa, bao nhiêu vòng xoáy trôn ốc thì đủ, có vị do không hiểu biết nên còn giả vờ nhắm mắt lại vẽ để biểu thị sự huyền bí với người xem...
Hơn nữa khi đọc một câu thần chú không phải ai cũng có thể hô được thần, gọi được thánh về để trợ giúp mình, ai đọc chú cũng có thể hiệu triệu được thần thánh, ma quỷ thì có mà... loạn.
Những người tu luyện, thực sự có khả năng thì chẳng mấy ai lại đi sa đà vào cái việc này. Có chăng chỉ là giới hành tà đạo làm mà thôi, phần lớn cũng đều do thiếu hiểu biết về cội nguồn, chân lý. Chỉ nhất thời thích thú với những điều huyền bí, huyền thuật mà ra, giân dan gọi đó là những “thầy bùa”, theo ngôn ngữ tây phương thì là “Pháp sư, Phù thủy...”
Nếu chúng ta tỉnh táo, không bị mê hoặc và có sự nhìn nhận, hiểu biết cơ bản thì khi gặp gỡ họ, chúng ta sẽ biết ngay được một ông thầy nào đó thực sự có khả năng làm bùa chú hay không, hay chỉ là phường lừa bịp.
Một điều nữa là, những lá bùa mà đã “phô – tô” lại thì không hề có tác dụng, cho dù có đóng dấu gì, ấn gì hay triện gì lên đó, đỏ hay xanh đi nữa. Những vật vô tri thì khó mà phát ra năng lượng được.
Như chúng ta đã phân tích ở trên, nếu khi chúng ta có nhu cầu về bùa chú, thì phải xác định được vấn đề của ta là gì? Cần giải quyết ra sao?. Khi đó ta phải gặp trực tiếp, nói rõ để người làm bùa hiểu được vấn đề. Thường họ cũng phải tìm hiểu các mối quan hệ, các sự liên quan của ta nữa để họ có cái nhìn toàn cảnh hơn. Lúc đó người làm bùa mới biết nên dùng loại bùa gì, thêm bớt ra sao, không ngoại trừ sự liên tưởng tâm linh giữa ta với lá bùa nữa. (Nó giống như việc bác sỹ kê đơn thuốc cho bệnh nhân vậy, đừng hy vọng dùng đơn thuốc của người này để chữa khỏi bệnh cho người khác).
Khi vẽ, năng lực của câu chú sẽ thoát ra từ tâm thức (cầu nối) của người vẽ, có khi truyền qua tay của họ mà đi vào nét bút (lão đã từng vẽ nhiều dịch quái, linh phù để chữa bệnh cho người khác nên lão hiểu rõ điều này).
Cho nên bùa phải được vẽ, phải đọc chú trực tiếp (thông thường để đảm bảo sự linh ứng thì phải có mặt khổ chủ ngồi bên cạnh), thế nên mỗi lá bùa chỉ dùng cho 1 trường hợp, một đối tượng cụ thể mà thôi. Do vậy không thể in ấn, bán tràn lan, hay một loại bùa lại đem dùng cho nhiều người có hoàn cảnh khác nhau, tên họ khác nhau, sự việc không giống nhau được. Cho nên bùa chú mà chỉ được mua ở hàng quán, thỉnh ở chùa chiền thì chỉ là thứ... an ủi tâm lý mà thôi.
Bạn nào đã từng đi kiếm một lá bùa theo kiểu này thì biết, thấy tình hình chẳng tốt, cũng chẳng xấu hơn. Nhưng cũng có một nhược điểm của nó là khi ta dán những lá bùa này theo lời dặn lên trước cửa chính, trên cửa phòng ngủ, phòng khách hay ban thờ... thường gây một cảm giác “nghi ngại” cho khách đến nhà. Họ không hiểu mình thuộc giới tà thuật, hay là có hoàn cảnh gì đó dị thường nên mới dùng bùa. Mà trong tâm lý giao tiếp, làm ăn người ta lại muốn tránh những dạng người này vì sợ xui xẻo, và thế là lợi đâu chưa thấy, nhưng đã bắt đầu “có hại” rồi đấy. Với những loại bùa chú kiểu này nếu thấy “không thích” nữa, chúng ta có thể tự tay gỡ bỏ (cho dù trước đó đã nhờ thầy làm lễ, dán lên), cho vào sọt rác, không sao cả.
(Một khu chợ bùa chú và đồ vật trấn yểm ở châu Phi)
Các đồ vật dùng trấn yểm cũng vậy. Ngày nay có nhiều người vì không hiểu biết, chỉ vì nghe nói nên cứ đi mua, đi cầu những thứ này vật nọ để về hóa giải phong thủy, trấn yểm trong gia đình, nhằm mong đạt được điều gì đó. Những luận điệu này chỉ là do giới buôn bán, trục lợi lan truyền mà thôi. Những thứ được sản xuất hàng loạt, máy móc, vô tri thì sẽ chẳng có tác dụng gì. Người nào đã từng thử thì biết, đôi khi còn gây ra sự phức tạp, để lại thì thêm rối rắm, bỏ đi thì lại sợ... Nếu một vật thực sự có tác dụng trấn yểm thì cũng không thể dùng tùy tiện, vì nó sẽ phá hỏng trường năng lượng mà nơi ta đang sinh sống, thường thì hại nhiều hơn là lợi.
Về cơ bản, lão đã nói rõ bản chất của bùa chú, việc trấn yểm... đó là con dao 2 lưỡi, dùng hay không tùy bạn. Tuy nhiên, theo lão thì để giải quyết một vấn đề gì đó, sẽ có nhiều cách khác nhau, nên chọn những cách đơn giản hơn, hiệu quả mà không bị cuốn vào vòng phức tạp.
Phần II: NGẢI .
Ngải thuộc họ thực vật, thân thảo, có củ. Củ nhỏ nhất thì nhỏ hơn củ nghệ một chút như ngải đen, ngải nàng thâm, nàng xoài; lớn hơn thì có thể to bằng con heo đất như ngải hổ, ngải tượng...vv... Một số loài đã có tên khoa học và đã được công nhận tính năng chữa bệnh hay giúp ích cho cơ thể con người, bởi các nhà nghiên cứu khoa học công bố. Chẳng hạn có những loại củ cây ngải có thể giúp tăng cường sinh lực, tăng sự dẻo dai mà dân phu trầm thường hay dùng trong những chuyến luồn rừng dài ngày. Người ta thường hay nói “ngậm Ngải tìm trầm” là vì thế. Nhưng đa phần cây ngải vẫn còn mang nhiều bí ẩn mà tên gọi chỉ được truyền miệng qua kinh nghiệm dân gian.
Ngược lại với những loài ngải có tính dược liệu thì cũng có những loại ngải có tính độc, nhẹ thì gây mẩn ngứa ngoài da, nặng hơn thì có thể ngộ độc, dẫn đến bệnh tật hoặc mất mạng.
(Một rừng cây có khả năng ăn thịt trên núi Koh Pov, Campuchia)
Giới luyện ngải thường dùng một loại cây Ngải biết ăn thịt, để tăng thêm sự huyền bí. Thực tế, theo khoa học thì trong tự nhiên có những loài cây mà khi sống ở những nơi đất bạc màu, để có thêm dưỡng chất nuôi thân, hoa của chúng tiết ra một loại dịch tạo mùi để hấp dẫn côn trùng. Khi chạm vào, chúng sẽ có cơ chế cử động giống như lá của cây xấu hổ để “ôm” lấy con mồi, rồi tiết những dịch có chứa vi khuẩn và thành phần hóa học phân hủy chất hữu cơ tạo thành dưỡng chất nuôi cây.
Những cây non dưới 3 năm tuổi chỉ có thể bẫy được côn trùng nhỏ như ruồi, muỗi... Cây trên 3 năm tuổi thường cao khoảng 0,5 mét, thân cành chằng chịt rối rắm thành một bụi lùm có thể bắt chim chóc, chuột, sóc... Những cây trên 5 năm tuổi tạo thành một bụi lùm khoảng 1 đến 2 mét vuông trở lên sẽ bắt được những động vật lớn hơn như gà, chồn... (Bạn vào youtube và tìm cây ăn thịt, hay thực vật ăn thịt thì sẽ có những hình ảnh sinh động về loài cây này).
Khi tiếp xúc với loại cây họ này chỉ cần cẩn thận với những chất dịch tiết ra từ hoa của nó. Nếu chạm vào da, những giọt a xít ấy không đủ làm phỏng ngay, nhưng cũng đủ để gây dị ứng, tấy đỏ. Chỉ cần dùng cồn để xoa vào diệt khuẩn rồi dội nước để rửa sạch chất axít là được.
Tương truyền rằng, khi luyện ngải, các thầy bùa, pháp sư phải nuôi ngải bằng máu gà và máu của mình... rồi tắm cho ngải, cho ngải ăn vào giờ nhất định, đọc thần chú cho ngải nghe..vv... Chăm ngải còn hơn cả chăm con so, cùng với đủ thứ chuyện ly kỳ, thâm u huyền bí khác.
Thực tế, với những loài cây có thể hấp thụ protein của động vật, thì việc protein đó được lấy từ máu gà, máu người, hay từ những động vật khác như côn trùng thì nguyên lý cũng đều như nhau, chẳng có gì khác biệt. Cũng giống như việc khi ta có thể ăn thịt gà, thì cũng có thể chén được thịt voi vậy.
Nhưng vì sao trong việc “luyện ngải” người ta lại thêu dệt nên lắm chuyện đến thế? Việc cho ngải hấp thụ máu người luyện có thật hay không? làm vậy để làm gì? Không làm như thế thì ngải sẽ không hiệu nghiệm hay sao?..vv.. và còn bao nhiêu truyền tụng ly kỳ, bí hiểm hư hư, thực thực nữa.
Lão cũng không có ý đề cập chi tiết mọi việc ở đây, điều này lão nghĩ chính các vị được gọi là chuyên gia “luyện ngải” đôi khi cũng không hiểu, chỉ vì được học như thế nào thì làm như thế thôi, chỉ vì cứ nghĩ phải làm như thế thì Ngải nó mới linh..vv...
Cũng như nhiều người đã không hiểu khi theo học một phương pháp, một giáo phái nào đó tại sao lại có lắm quy tắc, giới luật rườm rà phải tuân thủ đến thế, thậm chí nhiều thứ còn chẳng được hiểu là để làm gì.
Tư tưởng sẽ định hướng cho hành động, tư tưởng và hành động huyền bí sẽ tạo nên đức tin vào những huyền thuật. Đức tin sẽ giúp chuyển biến được tâm thức, và từ tâm thức có thể đi vào thế giới tâm linh. Đó là con đường phải đi của giới huyền thuật, tạo nên những hiện tượng, những khả năng khác thường nằm ngoài phạm vi hiểu biết thông thường của đời sống, trong đó có hiện tượng Bùa, Ngải.
Lão sẽ giải thích mọi thứ vào một dịp khác, để các bạn sẽ hiểu thế nào là tâm thức, tâm linh, những hiện tượng huyền bí, những khả năng khác thường từ đâu mà ra, những điều lạ lùng do đâu mà có. Bản chất của huyền thuật, của Mật Tông cũng như của Thôi miên và một số trường phái khác là gì. Lý do vì sao những ông thầy khi luyện Ngải, hay những người xin ngải về để sử dụng vào mục đích gì đó, hoặc bị ngải hại khi được “trục” ngải lại thường phải tuân theo, làm theo những việc, những lời dặn... kỳ quặc ?!
Những bạn học thiền cấp 3 ở chỗ lão sẽ được tìm hiểu ít nhiều, để từ đó có thể tự tin mọi lúc, mọi nơi, biết cách ứng xử, đối diện với mọi hoàn cảnh, biết cách chữa khỏi mọi bệnh âm mà không sợ rơi vào ma trận của thế giới huyền bí.
(Một loại Ngải hoa có màu đỏ, có nhựa độc)
Về bản chất thì ngải không khác gì Bùa chú. Dân gian cho rằng có những người chết trở thành những vong linh đói khát, oan khuất, lang thang vất vưởng. Họ thường tìm đến những nơi có thể được cho ăn như đình chùa để được thí thực, được thỏa cơn đói khát, được thỏa mãn ham muốn của mình. Giới luyện ngải cho rằng khi có những loài cây có thể ăn được thịt, thì những vong linh cũng có thể nương tựa vào những cái cây đó để thỏa mãn được nhu cầu ăn uống và những ham muốn khác của mình. Nuôi cây, nuôi ngải, nghĩa là nuôi vong, và tôi nuôi ông thì ông phải làm gì đó cho tôi.
Tương truyền các thầy pháp thường đọc thần chú để nhốt vong vào ngải khi luyện ngải, chăm sóc cầu kỳ để vong không bỏ đi, và khi cần thì sai khiến ngải (vong) làm việc gì đó cho mình.
Theo quan niệm, Bùa chú thì nhờ trợ lực của thần chú mà nhốt vong vào nét vẽ, tờ giấy. Ngải thì dùng thần chú để vong lệ thuộc vào một loại thực vật. Về cơ bản không khác gì nhau. Nên cứ gọi chung là Bùa ngải. Bên Thái Lan, Lào, Miên (Campuchia), những lá linh phù đi kèm những câu thần chú cũng đều được gọi là Ngải.
Ngày nay giới truyền thông đã tuyên truyền quá mức về mức độ huyền bí của Bùa ngải. Những cụm từ như huyền thuật, kỳ lạ, hãi hùng, không thể tưởng tượng, chết cả nhà..vv... Đã vô tình tạo ra tâm lý hoang mang cho người đọc. Mục đích ban đầu của họ chắc cũng chỉ là gợi sự tò mò để thu hút người đọc, câu khách mà thôi. Đọc cách miêu tả của họ thấy gần giống với các bộ phim kinh dị nói về Bùa ngải của Thái Lan. Đôi khi vì muốn người đọc phải tin nên nhiều người viết tự xưng mình là nhân chứng (có người là nhân chứng thật, nhưng cũng không hiểu là mình đang “chứng” cái gì?). Có người thì trích dẫn lời của các “cao thủ” bùa ngải... mà các “cao thủ” giả hay thật đó cũng vậy, có người còn không hiểu việc mình làm, có người hiểu bản chất nhưng lại cố tình nói khác đi..vv...
Và còn nữa, đôi khi người viết còn dùng cách viết kiểu hù dọa, buộc người ta phải tin. Vô tình họ đã tạo ra những điều không tốt cho xã hội, một số người trở nên hoang mang, nghi kỵ và đề phòng lẫn nhau trong cộng đồng. Và khi không hiểu thì họ cũng tìm đến những nơi “không hiểu” để giải quyết, và đã tạo cơ hội cho không ít kẻ lợi dụng mê tín trục lợi. Tiền thì mất mà mọi thứ càng trở nên phức tạp hơn.
Ngôn ngữ thì thôi rồi, sử dụng toàn những từ ngữ ẩn dụ để nhằm gây sự tò mò và tạo cảm giác huyền bí, ám ảnh. Một cây Ngải thuộc nhóm thảo mộc, có hoa màu đỏ, nhựa có chất độc thì họ phóng tác một cách văn vẻ gọi đó là “Huyết ngải độc thần tướng” !?? Là một trong những bảo bối tối thượng, chứng tỏ đẳng cấp của các ngải sư..vv...
Người không hiểu biết thì dễ lạc vào cái gọi là mê trận của Bùa ngải, do những người khác vô tình hay cố ý giăng ra.
(Một thầy pháp đang thao tác yểm bùa thông qua hình nhân)
Vì sao bùa ngải có thể tác động vào người bị hại ?
Nguyên tắc khi gieo Ngải là: Cần phải có họ tên, địa chỉ, của người sẽ bị tác động bởi Ngải. Hoặc có ảnh hoặc hình nhân thế mạng của người bị tác động, và những “ông thầy” sẽ “thao tác” trên ảnh hay hình nhân đó. Có trường hợp lại dùng Ngải trực tiếp, cho ngải độc vào quần áo, vào thức ăn, nước uống của người bị hại..vv...
Giới truyền miệng, giới cầm bút, hoặc những người đi xin Ngải do không hiểu về bản chất, mà chỉ căn cứ vào hiện tượng bên ngoài nên đã phóng tác và mô tả một cách vô tiền khoáng hậu. Nào là thầy bùa đã làm như thế này, người bị hại đã bị như thế kia, cách làm, cách bỏ bùa, ngải, thư, ếm; cách giải mỗi nơi một kiểu..vv...
Chúng ta chỉ nên nhìn nhận một cách đơn giản, và đúng bản chất hơn.
Khi bị tác động (nếu người ta thực sự tác động được, bằng cách này hay cách khác, bằng tâm lý, tư tưởng hay thể chất), thì người bị hại sẽ bị nhiễm một lượng âm khí (năng lượng âm, hay nói cách khác, dẫn đến mất sinh khí, dương khí) nhất định, nhiễm ít thì gây ra mệt mỏi, ủ rũ, chán nản, đau nhức..., nhiễm nhiều hơn sinh ra tâm thần, hoang tưởng, bệnh tật... Từ đó ảnh hưởng đến đời sống, công việc, nhiễm nặng có thể dẫn đến mất mạng.
Vì vậy, nguyên lý khi giải Bùa ngải là làm sao cho người bị hại được tiêu trừ âm khí trong cơ thể (hay nói cách khác, phục hồi được dương khí, sinh khí). Từ đó mọi triệu chứng cơ thể biến mất, người bị hại sẽ trở nên khỏe mạnh bình thường.
Nguyên tắc chỉ có vậy, nhưng đôi khi để tăng thêm vẻ huyền bí, thần thánh hóa, nhiều “ông thầy” đã vẽ ra đủ các kiểu cách thực hiện. Có người cũng chẳng hiểu được cơ chế tác động, hay tác động như thế nào của việc họ làm.
Nếu cứ tin và giải quyết Bùa ngải theo kiểu: có một hay nhiều vong (âm binh) theo hại ta (do người khác yểm bùa, gieo Ngải), ta liền phải nhờ một ông thầy bùa ngải khác cao tay ấn hơn giải giúp, nghĩa là nhờ một lũ âm binh khác mạnh hơn đến xua đuổi, đánh nhau với lũ âm binh cũ, bên nào mạnh hơn thì bên đó thắng. Rồi bên thua lại tiếp tục đi tầm thầy cao hơn nữa... Nghĩa là lúc đầu chỉ có một hoặc vài âm binh theo quấy phá ta thì giờ đây lại có cả một đàn. Theo kiểu bảo kê hay thanh toán nhau của xã hội đen. Cứ theo cái kiểu giải thích và giải quyết Bùa ngải như thế thì chẳng thể có hồi kết, và người ta cứ mãi lạc vào mê trận của Bùa, của Ngải, cuộc sống càng ngày càng trở nên bất an hơn và chẳng còn biết đâu mới là sự thật, và đâu là lối ra.
Như lão đã nói ở bài Âm dương. Theo nguyên lý âm dương thì vạn vật có trong vũ trụ đều không nằm ngoài hai yếu tố âm và dương. Từ cuộc sống hữu hình đến thế giới vô hình, từ đời sống đến tâm linh, từ con người đến mọi yếu tố liên quan. Và chân lý luôn là, dương thịnh thì âm sẽ suy, và ngược lại.
Bùa, Ngải chủ về âm, năng lượng âm. Mà đặc tính của âm là hư hoại, bệnh tật, đổ vỡ, không may mắn...
Chỉ cần dùng yếu tố dương cân bằng lại là được. Đặc tính của dương là thành công, may mắn, khỏe mạnh... sự sống của một con người phụ thuộc vào dương khí mà người đó có. Một người sẽ chết khi mất hết dương khí, chỉ còn lại âm khí mà thôi (đến đám ma bị nhiễm hơi lạnh là vì thế). Một người âm khí thịnh (nhiễm năng lượng âm) thì dương khí bị suy giảm, từ đó dẫn đến bệnh tật, ảnh hưởng đến sức khỏe và những điều không mong muốn.
Trong tính chất của Ngải cũng mang rõ nét âm dương. Ví dụ những loài cây Ngải gây độc, gây bệnh thuộc tính âm, trong luyện ngải người ta thường dùng nhiều cách làm cho nó trở nên âm hơn để tăng độc tính. Nhưng cũng có loại Ngải có tính dương, chứa nhiều dương khí, có tác dụng chữa bệnh như củ cây Ngải nàng thâm. Do vậy dùng Ngải nàng thâm cũng có thể hóa giải (cân bằng âm dương) được những loại ngải độc khác.
iểu biết nguyên lý âm dương và cơ chế tác động của trường năng lượng, sẽ giúp ta miễn nhiễm với mọi loại Bùa, Ngải, chẳng cần phải lo sợ bởi thế giới huyền bí, huyễn hoặc.
Khi đó ta sẽ hiểu vì sao giới giải Bùa, trục Ngải lại hay dùng thần chú hay bùa hộ thân..., những nghi lễ huyền bí rườm rà; giới "trục" Ngải lại dùng một biện pháp chẳng mấy tâm linh đó là... lăn trứng gà luộc, rồi lấy ra được toàn móc câu với dao lam trong cơ thể người bệnh.??
Bản chất thì cũng chỉ là âm với dương, chỉ có một, nhưng cách người ta miêu tả và giải thích thì có muôn vàn, vô thiên địa, và không hiểu biết thì cứ mãi lòng vòng.
(Dịp nào đó lão sẽ có bài viết sẽ giúp bạn giải mã thần chú, bản chất của thần chú là gì? Tại sao lại có thể tạo ra những quyền năng khác thường).
Phần III: GIẢI TRỪ VÀ PHÒNG TRÁNH BÙA NGẢI .
Như đã nói ở bài trước, Bùa chú hay Ngải (gọi chung là Bùa ngải) cũng chỉ nằm trong phạm trù âm dương, những quy luật của tự nhiên, trời đất mà thôi. Cho dù nó có thuộc thế giới siêu hình hay tâm linh huyền bí.
Do vậy, như lão đã nói ở bài “Âm dương cứu vãn đời sống, chữa khỏi mọi bệnh tật”. Chỉ cần hiểu rõ nguyên lý Âm dương thì sẽ biết vạn vật, hay tất thảy mọi hiện tượng có trong vũ trụ này đều không nằm ngoài quy luật của Âm dương. Biết cách điều chỉnh và sử dụng âm dương hợp lý thì có thể giải quyết mọi việc, giải thích mọi hiện tượng, chữa khỏi mọi bệnh tật. Giúp ta lấy lại sự cân bằng, lập lại trật tự trong đời sống từ đó đem đến hạnh phúc và mọi điều may mắn.
Hiểu đúng bản chất hiện tượng, và bình tĩnh ứng phó, xử lý mọi tình huống một cách tỉnh táo, logic. Đừng bị ám ảnh bởi những sự ly kỳ, sợ hãi, ma mị mà giới cầm bút và giới truyền miệng phóng tác nên. Có con người thì mới có thế giới tâm linh, và có những thứ liên quan, đó là chân lý. Cho nên con người chúng ta có thể hiểu, tác động và giải quyết mọi việc một cách thỏa đáng.
Các thầy pháp, thầy bùa thì sử dụng đủ mọi cách khó hiểu, kỳ quặc, nhằm gây nên sự sợ hãi mơ hồ, hoang mang cho người khác. Đừng bận tâm, đó chỉ là hiện tượng bên ngoài, không phải bản chất bên trong. Nếu chúng ta có kiến thức thì sẽ biết ngay những biện pháp đó sẽ có hiệu nghiệm hay vô hiệu với một người bệnh cụ thể. Bản chất thì giống nhau, nhưng tùy từng đối tượng cụ thể sẽ có những biểu hiện khác nhau, bởi con người khác nhau. Do không hiểu, không nắm được bản chất nên không phải trường hợp nào các thầy pháp cũng giải quyết được.
Nếu là một người thầy thông hiểu thì người thầy đó sẽ biết cách hướng dẫn cho từng người bệnh theo nhiều cách khác nhau, tùy theo trường hợp chứ không phải chỉ rập khuôn một kiểu. Khi ta hiểu bản chất, và biết được căn cơ, tình trạng, mức độ của người bệnh thì sẽ biết chọn cách nào để có tác dụng với người bệnh đó. Vì hoàn cảnh, nhận thức, trường hợp mang bệnh và khả năng tư duy của từng người bệnh là khác nhau. Với người mê tín có khi phải dùng phương pháp mê tín, với người trí thức phải dùng phương pháp khoa học..vv... Từ đó mới có thể giúp được cho người bệnh.
Có người chỉ cần một câu nói, một cái vỗ vai... đã có thể khỏi bệnh. Nhưng cũng có người lại cần có một cuộc cách mạng cho tinh thần và cho thân thể mới có thể giải quyết. Nếu không thực sự hiểu biết bản chất và có kiến thức về nhiều lĩnh vực, chỉ thực hành rập khuôn theo một kiểu đã họ được, thế thì không phải áp dụng cho ai cũng hiệu quả.
Bản chất của Bùa ngải, nhìn theo nguyên lý âm dương thì nó rất âm. Theo quy luật tác động thì âm sẽ đẩy (chống lại) âm. Như trong việc bói toán, những ông thầy có vong (âm) theo trợ giúp, nhưng nếu người đến xem lại mang một lá bùa (âm) trong người thì thầy không thể xem được là vì thế.
Hay khi giải bùa ngải, thường thì các thầy pháp lại cho ta mang một lá bùa hộ thân (âm), để cản trở các thế lực âm khác. Nhưng mà ta thì chán chuyện Bùa ngải rồi, lúc nào cũng phải mang theo trong người, phiền phức lắm, chẳng biết thực hư thế nào, nhưng rồi vẫn cứ phải bận tâm khiến cho ta ngày càng thêm mệt mỏi. Vậy phải làm sao?
Khi đi vào những nơi nhạy cảm, hoặc đi lên miền núi, vào vùng sâu, hay gặp những đối tượng mờ ám… nếu sợ bị chuốc bùa ngải, thì chúng ta chỉ cần mang theo một vật rất âm bên mình là được. Chẳng hạn chúng ta lấy một ít phân ngỗng, phơi khô, cất vào túi vải. Lúc nào cảm thấy cần thì mang đi theo bên mình (về nhà thì khỏi cần). Nếu phân ngỗng có thêm một ít lông của một con heo đen từ đầu đến chân thì càng tốt, lấy phần lông ở bụng.
Các động vật như ngỗng, heo thuộc động vật khá âm, nên phân ngỗng hoặc lông heo sẽ rất âm. Theo nguyên lý âm dương, thì âm sẽ chống lại (đẩy) âm. Chúng ta dùng cách này sẽ phòng tránh được bùa ngải mà lại chẳng có hại gì và khỏi phải phiền phức.
Dân gian cho rằng Tỏi có thể trừ được tà ma cũng bởi vậy. Theo tính chất âm dương thì tỏi là một thực phẩm mang nhiều tính âm.
Ví dụ sinh động về âm chống âm, dương đẩy dương:
Rắn và Ngỗng là 2 loài rất âm, nên chúng rất kỵ nhau. Bọn trộm thường dùng một con rắn sống hoặc chết, ban đêm quẳng vào giữa đàn ngỗng, ngỗng liền dạt về một phía và im thin thít, thế là bọn trộm tha hồ bắt ngỗng bỏ túi.
Chó và Hổ là 2 loài đều rất dương, nên chó nếu cảm nhận được dương khí phát ra từ Hổ, thậm chí khi còn cách xa thì thường sợ hãi cụp đuôi, lủi vào bụi rậm và không dám sủa. (Chúng ta có thể thử cao hổ cốt thật giả bằng cách này).
(Thiền sư)
Giải trừ, Hóa giải bùa ngải:
Còn trường hợp nếu xác định chắc chắn đã lỡ dính phải Bùa ngải thì sao?
Người bị dính Bùa ngải do người khác hại, cơ thể thường có những cơn đau buốt không thể diễn tả, có khi cảm giác như cơ thể bị chẻ dọc, có khi cơ thể biến đổi bất thường, có khi mất tự chủ, tâm thần bấn loạn, nặng thì có thể dẫn đến mất trí, điên khùng..vv... Nhưng tuyệt nhiên đi khám thì không thể phát hiện ra bệnh gì.
Có người thường trong một ngày vào những giờ nhất định sẽ bị đau yếu, mỏi mệt vô cùng, tinh thần bất định hoảng hốt, sợ hãi vô cớ... Sau giờ đó lại hết triệu chứng hoặc nhẹ đi hẳn. Giới đồn thổi cho rằng đó là do thầy pháp sai âm hành vào những giờ “tứ hành xung” của người bị hại để tăng hiệu quả ??
Trong Kinh Phổ Môn, Đức Phật dạy cách hóa giải bùa ngải như sau:
Chọn một bức ảnh hay một pho tượng Đức Quán Thế Âm Bồ Tát đẹp đẽ, ngắm nhìn bức ảnh hay tượng đó trong nhiều giờ để khắc sâu hình ảnh đó vào trong tâm trí của mình.
Múc một ly nước sạch, chọn một nơi bình yên, tĩnh lặng để dễ tập trung tâm trí.
Để ly nước sạch trước mặt và bắt đầu niệm: “Nam mô đại từ đại bi, cứu khổ cứu nạn, Quán Thế Âm Bồ Tát”. Niệm liên tục, lặp đi lặp lại nhiều lần và tưởng hình Quan Âm hiện ra trong ly nước. Nhất tâm tụng niệm, không để những tạp niệm khác khác nổi lên, xen lẫn vào trong đầu. Khi nhìn thấy hình ảnh Quán Thế Âm Bồ Tát hiện lên rõ ràng trong ly nước, thì bưng ly nước lên ngang trán khấn nguyện: “con là...(họ tên), hiện đang ở (địa chỉ)... nay chẳng may gặp nạn do Bùa ngải, do người khác hại..vv.. Cầu mong đức Quán Thế Âm Bồ Tát gia hộ, biến ly nước này thành Cam Lồ, để hóa tán được nghiệp chướng mà con đang mang, giúp con qua được kiếp nạn này, giải trừ mọi Bùa ngải... con xin chân thành cảm ơn ngài...”
Khấn nguyện xong thì bưng ly nước đó lên uống. Mọi thứ bùa ngải ngay lập tức được giải trừ. Nếu người bệnh không còn khả năng tỉnh táo để niệm thì người khác có thể niệm hộ, và khi khấn nguyện phải nêu rõ tên tuổi, địa chỉ người cần được hóa giải.
Trong thực tế, khi bùa ngải được hóa giải, thì người gieo bùa thường gặp phải quả báo ngay sau đó.
Tóm lại để kết thúc cho chuyện bùa ngải, cái chuyện mà giân dan đã thêu dệt, dẫn dắt nó đến chỗ quá huyền bí, ma mị, khiến cho nhiều người cũng thấy ngán ngẩm. Thế giới siêu hình, siêu tưởng khi hiểu thì nó cũng không đến mức đáng sợ như ta nghĩ.
- Khi có chút thất bại trong công việc, bất hòa trong gia đình, đổ vỡ tình cảm, cơ thể có chút thay đổi, hay bệnh tật... thì đừng vội thần hồn nát thần tính, cho rằng mình đã dính bùa ngải, đã bị người khác hại, đã bị vong âm theo quấy rối. Hãy bình tĩnh, phân tích, nhìn nhận một cách công bằng và đúng với bản chất sự việc đã xảy ra, để loại trừ dần các yếu tố. Can đảm nhìn thẳng và đối diện với bản thân mình là điều nên có, dám hỏi và dám chấp sự việc có phải do mình hay không, một cách trung thực là cơ sở để tìm ra cách giải quyết vấn đề.
Có bạn bị người yêu bỏ thì cứ nghĩ rằng người yêu mình bị người khác chuốc Bùa ngải? Trước mắt bạn hãy nghĩ rằng mình với họ có còn phù hợp không? mình còn đáng yêu trong mắt họ hay không đã chứ. Họ cũng như mình thôi, thông thường sẽ không thể yêu lại một người mà mình đã hết yêu.
- Làm ăn đổ bể, gia đình bất hòa, hãy xem có phải mình đã sai điều gì đó, từ đó biết mà sửa mình, từ chỗ biết sửa mình và thay đổi cách thức làm ăn cho phù hợp sẽ giúp giải quyết vấn đề.
- Bệnh tật thì hãy học hỏi, đừng bảo thủ; sẵn sàng học hỏi cái mới. Tìm cách hiểu nguyên nhân gây nên bệnh và cách chữa khỏi bệnh tật một cách đúng đắn, chẳng chịu thương chịu khó mà cứ sa đà vào chuyện Bùa ngải, có khi chưa giải được Bùa ngải thì đã mất mạng vì bệnh tật rồi.
- Khi loại trừ dần các yếu tố, ta sẽ dần biết mình có bị bùa ngải gì đó hay không. Và hãy sáng suốt tìm hiểu, tốt nhất là có duyên gặp được một người hiểu biết về thế giới tâm linh, khoa học, chỉ cho mình con đường đúng, không phải đi lòng vòng để không phải mất nhiều thời gian và tiếp tục bị cuốn vào cái trận đồ bát quái ma mị đó.
Vì cho dù có là bùa ngải, có là người khác hại, thì nó cũng không nằm ngoài nguyên lý Âm dương, những quy luật của tự nhiên, đời sống, và đều có thể giải quyết được.
Lão là người luôn quan niệm, mọi thứ đều có thể giải thích, hiểu và đều có thể giải quyết. Có chăng là bằng cách này hay cách khác mà thôi. Khi một người, một vật bị tác động thì hãy hiểu, cái gì đã tác động? cơ chế tác động đó đã xảy ra như thế nào? và cơ thể ta đã bị chuyển biến ra sao? vì sao gây nên các triệu chứng, hiện tượng đó?. Khi hiểu cơ chế tác động thì đồng thời ta cũng hiểu cách thoát khỏi sự tác động đó. Ở đây lão không có đủ thời gian để giải thích chi tiết mọi thứ, nhưng như lão đã nói, bản chất chỉ có 1, nhưng cách biểu hiện, giải thích thì có rất nhiều, và thông qua những cách thức giải quyết khác nhau cũng chỉ để tác động được vào bản chất thực của nó mà thôi.
- Những bạn ở xa, sau khi dùng phương pháp loại trừ các nguyên nhân như lão đã nói ở trên, nếu thực sự thấy mình bị Bùa ngải có thể làm thêm phương pháp này: dùng trứng gà ta có trống (một đầu to tròn, một đầu thuôn gọn), luộc chín, bóc vỏ và đem lăn lên khắp cơ thể, có thể lăn nhiều ở những chỗ đau hơn. Lăn càng nhiều càng tốt, càng nóng càng tốt luộc nhiều trứng, nguội trứng này thì thay trứng khác. Trứng đã dùng lăn lên cơ thể người bệnh xong thì bỏ đi, không cho người khác hay súc vật ăn. Lúc nguội hẳn, có thể bẻ trứng ra kiểm tra, nếu lòng đỏ chuyển màu xám đen, thì có thể người bệnh đã nhiễm Bùa ngải. Nếu lòng đỏ biến thành màu đỏ tươi thì người bệnh bị nhiễm từ lâu, có thể sắp dẫn đến mất mạng (thực tế điều này rất ít xảy ra). Tiếp tục lăn nhiều ngày cho đến khi lòng đỏ trứng không còn đổi màu, không còn những biểu hiện bất thường, trở về bình thường thì bệnh khỏi, Bùa ngải đã được giải trừ. Đây là cách đơn giản, dễ thực hiện và tương đối hiệu quả.
Như lão đã lý giải, Bùa ngải thuộc năng lượng âm. Trứng gà lại có nhiều tính dương nhất trong các loại thực phẩm (đọc bài: “Bảng phân loại thực phẩm theo tính chất âm dương”), nên khi dùng trứng lăn trên cơ thể, theo nguyên lý dương sẽ hút âm, từ đó trục hết được âm khí ra ngoài, giúp cơ thể trở lại cân bằng âm dương, từ đó khỏi bệnh. Ở đám ma của người mới chết, trong dân gian cũng thường cúng trứng luộc là vì thế, sẽ giúp hút bớt âm khí (hơi lạnh) của người chết.
- Những bạn ở xa, hãy làm như những gì mà lão đã hướng dẫn. Những bạn ở Hà nội thì hãy găp lão, lão sẽ hướng dẫn cho bạn cách giải quyết phù hợp với trường hợp của bạn, có thể đi con đường ngắn nhất để thoát khỏi mọi nghịch cảnh mà chẳng phải mất nhiều công sức hay tốn kém gì.
Thân và Tâm nói là hai cũng đúng mà là một cũng chẳng sai, vì tuy là hai nhưng nó gắn liền và tác động với nhau như là một. Khi thân bệnh thì tâm trí yếu đuối, lo sợ. Và ngược lại khi tâm bệnh thì dẫn đến thân đau yếu, mệt mỏi.
Thân dính bùa ngải không đáng ngại, chỉ cần làm cho thân thể mình dương lên là được, dương thịnh thì âm sẽ suy. Biết cách ăn uống đúng, kết hợp tập luyện bằng phương pháp hợp lý để nhanh chóng lập lại quân bình âm dương, hoặc các phương pháp bổ sung phù hợp khác để tăng trưởng dương khí cho thân thể, từ đó chữa khỏi Bùa ngải.
Tâm trí dính bùa ngải mới đáng ngại, vì tâm sẽ ảnh hưởng đến thân. Tâm trí lệch lạc, bất thường cũng sẽ gây nên sự đau nhức, bệnh tật và các hiện tượng bất thường cho cơ thể .
Tâm dao động, hoang mang là Tâm âm, Tâm tĩnh lặng, bình an là Tâm dương. Dương thịnh thì âm sẽ suy.
Một phương pháp Thiền phù hợp, một sự hiểu biết về nhân quả cũng có thể giúp cho tâm ta an bình, tự tại. Tốt nhất bạn gặp được người hiểu biết, chỉ cho bạn phương pháp Thiền đúng, đễ nhanh chóng quân bình tâm trí. Vì nếu phương pháp không hiệu quả trong khi tâm trí mình đang yếu đuối sẽ không giúp mình chữa khỏi bệnh nhanh, từ đó dễ dẫn đến mất niềm tin, dễ rơi vào trạng thái tiêu cực, và con đường chữa khỏi bệnh sẽ càng trở nên mờ mịt hơn.
Vì sao tâm tĩnh lặng bình yên lại có thể làm cho cơ thể khỏe mạnh, dẫn đến đời sống yên bình, may mắn. Cơ chế tác động nào đã xảy ra? sự chuyển hóa nào bên trong cơ thể đã được chuyển biến và thay đổi những gì? Vì sao số phận, cuộc đời lại thay đổi? Điều này thuộc một phạm trù khác, phạm trù của Thiền và đời sống, liên quan chặt chẽ đến khoa học. Bạn hãy đọc những bài viết về Thiền và đời sống của lão để hiểu thêm ít nhiều, hoặc bạn sẽ hiểu hơn khi tham gia khóa học (miễn phí).
Cao hơn cả, vượt lên trên tất thảy mọi phương pháp, là trong đời sống hãy cố gắng nuôi dưỡng và sống cho mình một đời sống nhiều thiện tâm. Không lợi dụng, không dối trá, không mưu mô xảo quyệt, không gây phiền phức và đem lại sự khó khăn cho người khác. Không nên chỉ lợi mình, chỉ vì mình mà không biết vì người khác. Luôn nuôi dưỡng đời sống với một tấm lòng nhân hậu, vị tha, bao dung, độ lượng và luôn ngay thẳng, biểu hiện sự chân thành của trái tim.
Một đời sống thiện sẽ cho ta một nội tâm yên ổn, không dao động, là gốc rễ, là nền tảng của mọi sự yên bình và may mắn, miễn nhiễm với mọi loại Bùa ngải hay tà thuật.
Đức Phật nói: “Tâm bất động, quỷ thần kinh”! Một nội tâm bất động trước các ác pháp và các cảm thọ, một cái tâm không hoang mang và dao động thì quỷ thần cũng phải kiêng và kính nể. Miễn nhiễm với mọi bùa ngải và ma thuật huyền bí.
Trong kinh Phật có kể câu chuyện rằng: “Một hôm Đức Phật đang ngồi Thiền dưới một gốc cây thì Ma vương và bè lũ của nó kéo đến quấy phá. Ma vương bắt đầu bắn những mũi tên nhằm vào Đức Phật. Những mũi tên tẩm độc có sức mạnh xé gió, tới tấp như mưa rào, lao nhanh. Nhưng thật kỳ lạ thay, khi những mũi tên đó bay đến gần Ngài thì liền rớt xuống, và biến thành những bông hoa xếp xung quanh chỗ Đức Phật đang tọa thiền...”
Đoạn này trong Kinh Phật chỉ muốn nói rằng với tâm từ bi, kham nhẫn thì không ma quỷ nào có thể chạm tới, cho dù gặp dữ cũng hóa lành. Tâm bất động, quỷ thần cũng phải kinh là vì thế.
Tâm thanh thản, bình an, vô sự. Sống không làm khổ mình và khổ người khác. Chìa khóa của hạnh phúc, an lạc, bình yên và may mắn chỉ có bấy nhiêu. " 
Lão tiensinh
TTđTD
Theo http://vevoiyeuthuong.blogspot.com/
Các bạn theo Nam tông nên tụng kinh này hàng ngày .
NIỆM ÂN ÐỨC PHÂT.
Quả báu đặc biệt niệm Ân đức Pháp .
Hành giả tiến hành niệm Ân đức Pháp, trong kiếp hiện tại chưa chứng đắc 4 Thánh Đạo - 4 Thánh Quả và Niết Bàn, hành giả sẽ được hưởng những quả báu đặc biệt ngay trong kiếp hiện tại và nhiều kiếp vị lai như sau:
- Được phần đông chúng sinh kính trọng.
- Thiện tâm trong sạch thanh tịnh.
- Khi sắp chết, tâm bình tĩnh sáng suốt, không mê muội.
- Sau khi chết, do thiện nghiệp này cho quả tái sinh làm người cao quý hoặc chư thiên cao quý.
- Tái sinh kiếp nào cũng thuộc hàng chúng sinh cao quý.
- Có sắc thân xinh đẹp đáng ngưỡng mộ.
- Các bộ phận trong thân thể đều xinh đẹp đáng quý.
- Thân có mùi thơm tỏa ra.
- Miệng có mùi thơm tỏa ra.
- Có trí tuệ nhiều.
- Có trí tuệ sâu sắc.
- Có trí tuệ sắc bén.
- Có trí tuệ nhanh nhẹn.
- Có trí tuệ phong phú.
- Trí tuệ phi thường.
- Nói lời hay có lợi ích…
- Kiếp vị lai có duyên lành gặp Đức Phật, lắng nghe chánh pháp dễ dàng chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc Thánh Đạo – Thánh Quả và Niết Bàn...
Đó là những quả báu phát sinh từ niệm Ân đức Pháp.
Chanting Itipiso Katha 108x times .
Itipiso bhagava araham
samma-sambuddho
vijja-carana sampanno
sugato-lokavidu
anuttaro purisa dhamma
saratthi satta
devamanusanam
buddho bhagavati.


MỤC LỤC.
1 HÌNH TƯỢNG NỮ THẦN TÀI LỘC , TÌNH YÊU - NÀNG KWAK.
2. PHÚC THẦN VOI GANESHA .
3. KUMAN THONG .
4. XÂM BÙA - SAK YANT.
5. BÙA TAKRUT VÀ THUẬT VÔ KIM VÀNG GOLD NEEDLE TAKRUT
6. BÙA DƯƠNG VẬT PALAD KHIK.
7. DẦU MA THUẬT ĐEN - NAM MAN PRAI .
8. MA THÁI LAN - NHỮNG CON MA NỔI TIẾNG.
9. NGẢI THÁI LAN - (  Black Magic Thailand ) .
10.  MỘT SỐ GURU HUYỀN MÔN THÁI LAN TIÊU BIỂU.
11. MỘT SỐ CÂU CHÚ ĐỂ SỬ DỤNG KHI TÔM BÙA THÁI - Kata Chanting.
12. NHỮNG BÀI KINH QUAN TRỌNG KHI SỬ DỤNG VÀ THỰC HIỆN BÙA THÁI .
13. MA THUẬT ĐEN THÁI LAN .
14. GIẢI THƯ ẾM TẠI THÁI LAN .
15. BÙA NGẢI – CÁCH GIẢI TRỪ BÙA NGẢI VÀ PHÒNG CHỐNG .
HẾT.
Thân ái - dienbatn.
 Có một bức thư gửi sau này, dienbatn xin đăng lại thay cho chỉnh sửa :

Thưa anh Bùi Hùng, loạt bài THẦN LINH VÀ BÙA PHÉP THÁI LAN của anh đăng đã lâu, nhưng nay Thúy mới đọc, Cảm giác phấn chấn lạ,nên mạnh dạn có vài lời với anh. Thưa anh,thấy bức ảnh anh dùng thân mình ra xăm ยันต์ thì khi đọc lướt qua cm giác mình sp có 1 đĩa cơm rang thập cẩm, nhưng khi đọc kỹ thì thấy có khá nhiều sạn. Những lỗi này là do Google Translate gây ra-ai cũng biết điều đó.

Thúy có biết bặp bẹ chữ Thái lan, xin phép nhăt 1 vài hạt sạn ra cho vui thôi, hoàn toàn không có ý gì khác, mong anh thật hiểu
Mae Sue (แม่ ซ้ือ) : mt v thn giám h hoc mt ma n tr -- แม่ ซ้ือ nghĩa là bà m
Chao Kam Nai Wen (เจ้ากรรมนายเวร): mt con ma mà vn duy trì sân hn đối vi
người do những việc làm sai trái cam kết trước đây – เจ้ากรรมนายเวร nghĩa là oan gia trái chủ
Pu Som Fao Sap (ปู่ โสม เฝ้ ทรัพย์) : mt con ma nam người bo v kho báu
xuất hiện giống như một ông già đáng kính -- ปู่ โสม เฝ้ ทรัพย์ nghĩa là thn gi ca
Nang Mai (นาง ไม้ ) : "Lady ca Wood"), mt loi n ma hay nàng tiên liên
quan đến cây.-- นาง ไม้ nghĩa là tinh ca cây
NGẢI THÁI LAN ( Magical herb - herb magic - สมุนไพรที่มีมนต์ขลัง ) - S quyến
rũ hấp dẫn. – สมุนไพรที่มีมนต์ขลัง nghĩa là tho dược có tính linh"
dienbatn xin cảm ơn.

 

Xem chi tiết…

THẦN LINH VÀ BÙA PHÉP THÁI LAN . BÀI 18 .

7/23/2015 |
THẦN LINH VÀ BÙA PHÉP THÁI LAN .BÀI 18.


ĐÔI LỜI MỞ ĐẦU : " Gần 95% người Thái theo đạo Phật Nam Truyền (bao gồm các phái Thiền Lâm Thái Lan, Dhammayuttika Nikaya và Santi Asoke). Một nhóm nhỏ người Thái Lan (4.6%) theo đạo Hồi, 0.7% dân số theo đạo Thiên Chúa. Ngoài ra, còn có các tôn giáo khác. Phật giáo Nam Tông ở Thái Lan được sự hậu thuẫn và quan tâm lớn từ Chính phủ. Các nhà sư được hưởng nhiều lợi ích do Chính phủ mang lại, ví dụ như được sử dụng các phương tiện giao thông công cộng miễn phí.
Phật giáo ở Thái Lan bị ảnh hưởng lớn bởi các niềm tin truyền thống về tổ tiên và các vị thần tự nhiên; các niềm tin này đã được đưa vào vũ trụ luận Phật giáo. Hầu hết người Thái xây một miếu thờ nhỏ trong nhà, là một ngôi nhà gỗ nhỏ nơi mà họ tin rằng là chỗ trú ngụ của các vị thần linh. Người Thái dâng thức ăn và nước uống cho các vị thần này để cho các thần hài lòng. Nếu các vị thần không hài lòng, thần sẽ đi ra ngoài miếu thờ và trú ngụ trong nhà của gia chủ và quấy nhiễu. Những miếu thờ này cũng được dựng lên ven đường ở Thái Lan, nơi mà công chúng thường xuyên dâng lễ vật lên các vị thần.
Trước khi Phật giáo Nam Tông phát triển, Bà-la-môn Giáo Ấn Độ và Phật giáo Phát triển đã hiện diện. Ngày nay, ảnh hưởng từ hai truyền thống này vẫn còn rõ nét. Các chùa Bà-la-môn đóng một vai trò quan trọng đối với tôn giáo dân gian Thái, và các ảnh hưởng từ Phật giáo Đại Thừa vẫn còn được phản ánh trong các hình tượng, ví dụ như Quán Thế Âm, một hình dạng của Bồ Tát Quán Thế Âm, người thỉnh thoảng vẫn được xem là biểu tượng Thái Lan . " ( http://vi.wikipedia.org/ ). 
Chúng ta đã khảo cứu qua các vị Thần của Trung Hoa, của Hin đu và Bà La môn Ấn Độ. Nay tiếp theo mạch , chúng ta khảo cứu tiếp về THẦN LINH VÀ BÙA PHÉP THÁI LAN . Các khảo cứu này do dienbatn sưu tập trong Huyền môn và trên Internet và biên tập lại làm tư liễu khảo cứu. Nếu có phần nào không ghi nguồn là do dienbatn không nhớ nguồn sưu tập - Xin các tác giả lượng thứ. Thân ái. dienbatn.
CÁC VỊ THẦN THÁI LAN.
MỤC LỤC.
1 HÌNH TƯỢNG NỮ THẦN TÀI LỘC , TÌNH YÊU - NÀNG KWAK.
2. PHÚC THẦN VOI GANESHA .
3. KUMAN THONG .
4. XÂM BÙA - SAK YANT.
5. BÙA TAKRUT VÀ THUẬT VÔ KIM VÀNG GOLD NEEDLE TAKRUT
6. BÙA DƯƠNG VẬT PALAD KHIK.
7. DẦU MA THUẬT ĐEN - NAM MAN PRAI .
8. MA THÁI LAN - NHỮNG CON MA NỔI TIẾNG.
9. NGẢI THÁI LAN - (  Black Magic Thailand ) .
10/  MỘT SỐ GURU HUYỀN MÔN THÁI LAN TIÊU BIỂU.
11. MỘT SỐ CÂU CHÚ ĐỂ SỬ DỤNG KHI TÔM BÙA THÁI - Kata Chanting.
12. NHỮNG BÀI KINH QUAN TRỌNG KHI SỬ DỤNG VÀ THỰC HIỆN BÙA THÁI .
13/ MA THUẬT ĐEN THÁI LAN .
14/ GIẢI THƯ ẾM TẠI THÁI LAN .
Tà thuật trù ếm và nguyền rủa có thể được sử dụng để hại người trực tiếp và gián tiếp. Người bị trù dập sẽ bị ốm đau, tai nạn, hay kể cả thiệt mạng. Trù ếm là một trong những tà thuật ghê sợ nhất, và rất ư là thông dụng ở dân gian. Mục đích trù ếm là để trả thù, hoặc để trấn an, bảo vệ một linh địa, một địa điểm chôn cất bảo vật hay nghĩa trang. Lời trù ếm có thể có hiệu lực ngay tức khắc, hoặc ngấm ngầm nhiều năm tháng. Có những lời trù ếm ám hại đến vài ba thế hệ, ảnh hưởng cả một đại gia tộc .  
Phương pháp trù ếm thông dụng nhất là dùng một hình nộm, tức là một tiêu biểu đại diện cho người bị trù. Hình nộm có thể được cấu tạo bởi sáp, đất sét, gỗ, vải hay giấy (những con rối nộm). Hình nộm sẽ được tác tạo giống hệt người bị trù ếm. Hình nộm càng giống đối tượng, càng có hiệu quả mãnh liệt.  Người bị trù sẽ chịu chung số phận với hình nộm của họ, khi bị đánh đập, hành hạ, xúc phạm, hủy diệt qua những hình thức đốt, đâm, bẻ gãy, nhận nước, xúc phạm bởi đồ dơ bẩn hoặc chôn xuống đất.
Tà thuật trù ếm, nguyền rủa, còn được những phù thủy, thầy bùa, thầy phép mang ra chợ đời buôn bán.  Những người này có quyền năng đặc biệt để mua bán tà thuật hại người cũng như để giúp người. Họ có thể ban phép miễn phí hay đòi hỏi phải có giá trả, có khi giúp ích cho công lý, có khi tạo thêm nghiệp ác. 
Rất nhiều người có khả năng sử dụng tà thuật trù ếm, nhưng tác động và hậu quả còn tùy thuộc bản lĩnh và quyền năng của từng phù thủy, thầy bùa, thầy phép được chiêu cầu. Phải là hạng cao tăng, sư thầy, giáo chủ, với đầy đủ quyền lực huyền bí mới thật sự đạt tới công lực cực kỳ lợi hại và nguy hiểm.  Thông thường những người nghèo khổ, bệnh hoạn, bất hạnh nhất của xã hội là những người hay cầu thầy để tìm công lý hay sự trả thù. Tự họ cũng có thể trù ếm nguyền rủa người khác, hiệu lực ghê gớm nhất là lúc họ trăng trối trước khi chết. 
Khi đối tượng bị trù ếm biết rằng họ đang bị ếm, sức khoẻ và tâm thần họ cảng bị suy sụp trầm trọng.  Chính sự lo sợ của người bị trù ếm khiến cho họ đau khổ và hoang mang gấp bội. Tuy nhiên, trong trường hợp bị phù thủy cao tay ấn dùng tà thuật ếm, dẫu đối tượng không biết mình bị trù dập, kết cuộc cũng có thể bi đát y như họ biết. Nếu đối tượng cảm nhận rằng họ bị ếm, họ có thể tìm đến các thầy phép khác để gỡ bùa, diệt trù, và thường thì phải hao tốn một số tiền lớn để đối phó. Có khi người thầy mà họ cầu, chính là người đã trù ếm họ. Nếu là hai lực lượng khác nhau đối chọi, một cuộc chiến tà thuật gay go có thể xảy ra. Bên nào quyền thế hơn sẽ chiếm ưu vị. Phương pháp gỡ bùa, diệt trù rất ư là quyền biến, không thể bàn hết ở đây. Một điểm đặc biệt lưu ý, những đêm rằm sáng trăng là lúc quyền năng trù ếm mãnh liệt nhất. Ngược lại, những đêm trăng khuyết là lúc để đối phó trừ diệt bùa phép, trù ếm, hiệu lực nhất.
Nói về bùa ngải người ta thường nói kèm theo là thư, ếm vậy thư ếm là gì? Thư là thường dùng hương, dùng bút, họa bùa để chữa bệnh hoặc đôi khi vì 1 mục đích nào đấy người ta sử dụng để hại người.
Còn ếm, người ta dùng các vật dụng của thân chủ hay người bị hại thổi vào đấy 1 thần lực hoặc một ma lực để chữa bệnh hoặc hại người. Thông thường ếm có thể được gửi lên mây, xuống mép nước, theo ngọn gió, trong bờ cỏ, dưới ngọn cây, v..v. Hoặc còn được làm vào gia súc như gà, chó, lợn, v..v. Những người làm được thư ếm thật ra phải là những thầy có công lực thật sự mới có thể thực hiện được vì thế việc giải thư ếm là cả 1 vấn đề và phải được 1 người thầy có đủ công lực của Phật pháp mới có thể giải ra được không phải ai cũng có thể làm được điều này. 
Thật ra, không cần vật dụng, thậm chí không cần biết tên tuổi của đối tượng pháp sư vẫn ếm được như thường. Việc ếm đối, không phải thổi vào đấy thần lực hay ma lực, pháp sư vận dụng ngũ hành sanh khắc hoặc lợi dụng vòng quay của từ trường thông qua linh phù và những phương pháp diệu dụng để "xử lý" đối tượng mà thôi. Người có đủ sức thực hiện phép ếm thường là mang sắc Hạ sư trở lên.
Phép ếm, bùa ếm là tên gọi chung. Phương pháp ếm thì đa dạng không lường, hình thức nào cũng độc cả: ếm lư hương, ếm bếp lò, ếm ngã ba đường, ếm nghĩa địa, ếm cột nhà, ếm bụng cá, ếm miệng chim... Tùy theo khả năng, mục đích, tâm địa của ông thầy và bổn mạng nguyên thần của đối tượng như thế nào thì cách ếm sẽ biến đổi như thế ấy...
Sở dĩ pháp sư sử dụng đến phép ếm là vì hám của, vì oan gia trái chủ, vì tự ái cá nhân, vì muốn khẳng định mình... tất cả không vượt ngoài cái TA quá lớn của mình.
Việc làm này vô cùng tổn âm đức. Những người thầy nào dụng tâm bất chính, sử dụng phép ếm để hại người, trong tương lai không xa sẽ gánh chịu hậu quả vì những điều mình tác tạo.
Phương pháp giải ếm cũng khá đa dạng... nhưng không ngoài quy luật ngũ hành sanh khắc. Riêng phép ếm bụng cá, ếm miệng chim thì phải nhờ đến Hà Bá, Sơn Thần giúp đỡ. ( Tamandieungo ).




LẤY ĐỒ THƯ ẾM TẠI VIỆT NAM ( Cô QC - Tham khảo thêm ).



LẤY ĐỒ THƯ ẾM TẠI MIÊN .


TRỤC VONG TẠI THÁI LAN .


Xin theo dõi tiếp bài 19. dienbatn.

Xem chi tiết…

THỐNG KÊ TRUY CẬP

LỊCH ÂM DƯƠNG

NHẮN TIN NHANH

Tên

Email *

Thông báo *