KHẢO SÁT PHONG THỦY KHU GÒ ĐỐNG – ĐẦM CÚT – XÃ LIÊN SƠN – GIA VIỄN – NINH BÌNH. BÀI 1.

4/02/2019 |
KHẢO SÁT PHONG THỦY KHU GÒ ĐỐNG – ĐẦM CÚT – XÃ LIÊN SƠN – GIA VIỄN – NINH BÌNH.

PHẦN I.       KHẢO SÁT CHUNG TOÀN KHU VỰC.
1/BẢN ĐỒ VỆ TINH KHU ĐẤT.







Gia Viễn được các triều đại phong kiến lập ra vào năm 669 với tên gọi là huyện Như Viễn, sau đổi thành huyện An Viễn. Đến đời nhà Trần đổi thành huyện Gia Viễn và tên gọi đó được duy trì đến nay.
Liên Sơn là xã vùng trũng, nằm trong khu bảo tồn thiên nhiên Vân Long, một khu bảo tồn ngập nước lớn nhất Bắc Bộ. Theo phân chia hành chính, Liên Sơn sở hữu phần trung tâm của đầm Cút, ở giữa 2 xã Gia Hưng và Gia Hòa.
Liên Sơn nằm rất gần động Hoa Lư là căn cứ ban đầu của Đinh Bộ Lĩnh và xã Gia Thủy là quê ngoại Vua Đinh nên có rất nhiều di tích thời Đinh ở đây. Xã Liên Sơn có đình Bình Khang là nơi thờ vị thần Quý Minh là người giúp Vua Đinh nên rất được sùng bái trong không gian Hoa Lư tứ trấn. Liên Sơn cũng là nơi duy nhất có đền thờ riêng hai vị trung thần nhà Đinh là đền Ngọc Sơn thôn Uy Viễn thờ Lưu Cơ và đền Quan Thái Bảo ở xóm Trường Xuân thờ Trịnh Tú, họ đều là những người bạn và là trung thần của Đinh Bộ Lĩnh. Gia Viễn là vùng đất cổ giàu truyền thống lịch sử. Đây là vùng đất "sinh vương, sinh thánh"; nơi đã sinh ra vua Đinh Tiên Hoàng và thánh Nguyễn Minh Không (Lý Quốc Sư). Gia Viễn còn nhiều danh nhân tiêu biểu khác như: Tể tướng Nguyễn Bặc, Ngoại giáp Đinh Điền, Thượng thư Trịnh Tú, Thái sư Lưu Cơ thời nhà Đinh và thái sư Trương Bá Ngọc thời Lý.
Khu vực mộ hướng 282 độ 5, có Minh đường là Đầm Cút . Bên Bạch hổ là dãy núi cao khoảng 200 m chạy theo trục Tây Bắc – Đông Nam. Phía trước mộ bên Bạch Hổ phía ngoại Minh đường có các di tích như Đền Quan Trạng, Đền Thung Lá , Đền Thung lau . Phía Bạch Hổ có 2 đường nước từ núi phun ra từ Hang Móc và Hang Bích Trường . Toàn bộ nước từ sườn núi phía Tây đổ về khu vực Đầm Cút , Hữu Thủy đảo Tả ra hướng Tân Tuất.
Đền Thung Lá nằm cạnh động Hoa Lư, thuộc địa phận xã Gia Hưng, huyện Gia Viễn, có diện tích khoảng 4ha. Đây là nơi thờ Mẫu Hậu của vua Đinh Tiên Hoàng và thờ Vương Bà bí ẩn đã có nhiều công lao giúp vua Đinh dẹp loạn 12 sứ quân. Tương truyền Vương Bà là người bói lá rất giỏi và thường xem bói lá cho vua Đinh Tiên Hoàng trước khi xuất quân. Nơi này có nhiều cây thuốc quý chữa bệnh nên khi binh lính của vua Đinh bị thương đều được đưa về đây chữa trị. Thung Lá là vùng rừng núi rất linh thiêng nên người dân địa phương trước khi đi rừng đều vào đây thắp hương cầu mong thần linh che chở, kiếm được vật phẩm và an toàn trở về.
Tương truyền, xưa kia có một nữ vương (sau này người ta lập đền thờ gọi là Vương Bà) chuyên bói lá rất giỏi, thường xem lá cho Vua Đinh Tiên Hoàng trước khi xuất quân hay làm việc trọng đại. Nơi này có nhiều cây thuốc quý nên cũng là căn cứ để nghĩa quân của Vua Đinh bí mật rút về chữa trị sau mỗi trận đánh. Có lẽ vì những lí do ấy mà nơi này mang tên Thung Lá.
   Thung Lá là nơi thờ Mẫu hậu vua Đinh (bà Đàm Thị) và thờ Vương Bà bí ẩn kể trên. Phía sau là đền thờ Thánh mẫu cùng ngũ vị quan ông, đây là các nhân vật trong tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt xưa.
    Tại đền Thung Lá, mỗi dịp đầu xuân du khách đổ về rất đông để cầu một năm mới tốt lành và để thực hành hoặc thưởng thức các giá đồng – một loại hình văn hóa đặc sắc trong tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt Nam.
Thung Lau (Động Hoa Lư) – là căn cứ đầu tiên của sứ quân Đinh Bộ Lĩnh đối với sự nghiệp thống nhất giang sơn thế kỷ X. Nơi đây thờ vua Đinh Tiên Hoàng cùng với thánh Nguyễn Minh Không.Tương truyền: Con đường Tiến Yết, nơi thuở nhỏ Đinh Bộ Lĩnh chăn trâu cắt cỏ… Đã được bạn bè tôn làm Thủ Lĩnh chỉ huy đánh trận giả ở Thung Lau.
Bên Thanh Long phía trước có Núi Cánh Cung . Sông Bôi ( còn gọi là sông Hoàng Long ) chảy theo trục Càn Tốn . Nước từ Tân Tuất đến trước Minh đường của mộ hữu Thủy đảo tả ra Đinh Mùi. Đặc biệt dưới nền đất của cả khu vực này là một mỏ đất sét rất lớn chứng tỏ Long mạch đi qua khu vực này rất mạnh mẽ.


Nhìn chung khu vực này là một vùng tả ngạn của Sông Bôi ( còn gọi là sông Hoàng Long ), thường có lũ lụt và là một vùng đất ngập nước. Đây là một khu Tâm linh rất linh thiêng .
PHẦN II. PHÂN CUNG ĐIỂM HUYỆT THEO LOAN ĐẦU.
1. PHÂN CUNG ĐIỂM HUYỆT THEO THỦY KHẨU.
Cung Ðoài (Tây) có các sơn: 
a.     Canh: nằm trong giới hạn từ 247.5 đến 262.4 độ. Chính Canh 255 độ .
b.     Dậu: nằm trong giới hạn từ 262.5 đến 277.4 độ. Chính Dâu 270 độ .
c.     Tân: nằm trong giới hạn từ 277.5 đến 292.4 độ. Chính Tân 285 độ .
HƯỚNG MỘ : 282 độ 5. Tọa Ất – Hướng Tân .
12 CUNG TRƯỜNG SINH.
Nguyên tắc lập hướng theo Thủy khẩu ta có công thức nhất định là :
1/ Tùy theo Thủy đảo tả hay đảo hữu mà ta lập hướng.
2/ Tùy theo xuất ra : Mộ, Tuyệt hay Thai.
Công thức sau áp dụng cho cả tứ đại Thủy cục : Kim – Mộc – Thủy – Hỏa cục.
A/ THỦY RA MỘ :
1/Hữu Thủy đảo tả lập 2 Hướng:
Trường sinh : Còn gọi là “ Vượng khứ nghinh sinh “, Ngọc đới triều yêu, chính Sinh Hướng.
Tuyệt Hướng : Còn gọi là “ Tuyệt xứ phùng sinh “, Tá khố tiêu Thủy. Tự sinh hướng.
2/ Tả Thủy đảo hữu, lập 2 Hướng :
Đế vượng Hướng : Còn gọi là “ Sinh lai hội vượng “, chính vượng Hướng.
Tử Hướng : Còn gọi là “ Hóa tử vi Vượng”, tá khố tiêu Thủy, Tự vượng Hướng.
B/ THỦY RA TUYỆT.
1/Hữu Thủy đảo tả lập 1 Hướng:
Hướng Dưỡng : Còn gọi là “ Quý nhân lộc mã thượng ngự giai “ , chính là Dưỡng Hướng.
2/ Tả Thủy đảo hữu, lập 1 Hướng :
Hướng Mộ : Còn gọi là “ Đế vượng quy Tuyệt”, cứu bần thủy pháp, chính Mộ Hướng.
C/ THỦY RA THAI.
1/Hữu Thủy đảo tả lập 1 Hướng:
Hướng Mộc Dục: Gọi là Mộc dục tiêu Thủy hay Lộc tồn lưu tận bội Kim ngư.
2/ Tả Thủy đảo hữu, lập 1 Hướng :
Lập hướng Tuyệt : Còn gọi là Lộc tồn tiêu Thủy, Cứu bần Thủy pháp.
Ngoài ra còn có thể lập được 2 Hướng bán cát bán hung là :
Lập Hướng Thai và lập hướng Suy.
Xét về Thủy pháp của Triệu Cửu Phong trong Địa lý ngũ quyết, Địa lý chánh tông, Địa lý tuyết tâm đều cùng chung một phương pháp là khởi Trường sinh tại :
Dần cho Hỏa cục.
Thân cho Thủy cục.
Tị cho Kim cục.
Hợi cho Mộc cục.
Tất cả đều đi Thuận.
Long khởi Trường sinh tại : Tý – Ngọ - Mão – Dậu thì đi nghịch.
Luận 12 cung Trường sinh tùy thuộc hoàn toàn vào Thủy khẩu, xê dịch Thủy khẩu là hoàn toàn thay đổi dự đoán cát hung.
Trong khu vực mộ Huyệt có 2 Thủy khẩu :
Nội Thủy khẩu : Hữu thủy đảo tả ra Tân Tuất.
Ngoại Thủy khẩu  : Hữu thủy đảo tả ra Đinh Mùi.
A. PHÂN CUNG THEO : Nội Thủy khẩu : Hữu thủy đảo tả ra Tân Tuất.
HỎA CỤC.
Thủy ra 6 chữ : Tân – Tuất, Càn – Hợi, Nhâm – Tý. Thì các phương Ất – Thìn , Tốn – Tị, Bính – Ngọ cao nên là Hỏa cục. Khởi Trường sinh tại Dần để luận Thủy.
1/ THỦY RA TÂN – TUẤT.
Là Hỏa cục. Thủy ra Mộ phương. Lập được 4 Hướng : Sinh – Vượng – Tử - Tuyệt.
Hữu Thủy đảo tả.
Lập Hướng Trường sinh.
Tọa Khôn – Hướng Cấn.
Tọa Thân – Hướng Dần.
Phú quý song toàn , mọi ngành đều phát.
Lập Hướng Tuyệt.
Tọa Tốn – Hướng Càn.
Tọa Tị - Hướng Hợi.
Bỗng nhiên phát lớn.
Như vậy với Thủy khẩu : Nội Thủy khẩu : Hữu thủy đảo tả ra Tân Tuất. Ta có thể lập được 2 hướng : Tọa Tốn – Hướng Càn  và Tọa Tị - Hướng Hợi.
B. PHÂN CUNG THEO : Ngoại Thủy khẩu  : Hữu thủy đảo tả ra Đinh Mùi.
MỘC CỤC.
Thủy ra 6 chữ : Đinh –Mùi , Khôn – Thân, Canh – Dậu. Thì phương Quý – Sửu, Cấn – Dần, Giáp – Mão cao, nên là Mộc dục , khởi Trường sinh tại Hợi để luận thủy.
1.THỦY RA ĐINH – MÙI.
Là Mộc cục Thủy. Thủy ra Mộ phương. Lập được 4 Hướng : Sinh – Vượng – Tử - Tuyệt.
Hữu Thủy đảo tả.
Lập hướng Trường sinh .
Tọa Tốn – Hướng Càn.
Tọa Tị - Hướng Hợi.
Bỗng nhiên phát lớn , đại vượng nhân đinh , phú quý gồm đủ.
Lập Hướng Tuyệt.
Tọa Cấn – Hướng Khôn.
Tọa Dần – Hướng Thân.
Phú quý thọ cao. Ngành út phát trước.
Như vậy với Thủy khẩu : Ngoại Thủy khẩu  : Hữu thủy đảo tả ra Đinh Mùi. Ta có thể lập được 2 hướng : Tọa Tốn – Hướng Càn  và Tọa Tị - Hướng Hợi.
Tổng kết lại theo cả 2 Thủy khẩu ta có thể lập theo 2 hướng : Tọa Tốn – Hướng Càn  và Tọa Tị - Hướng Hợi.
2. PHÂN CUNG ĐIỂM HUYỆT THEO LONG NHẬP THỦ.
A. Tọa Tốn – Hướng Càn.
1/GIÁP LONG NHẬP THỦ.
Long này được 2 hướng Thôi Quan:
1/ Cấn Sơn – Khôn Hướng.
2/ Tốn Sơn – Càn Hướng.
Lấy Kỉ Mão làm chính Khí.
Tốn Sơn – Càn Hướng.
Giáp Long nhập thủ , lạc mạch ở tả, lập Huyệt tọa Càn – Hướng Tốn, nên nhích về bên hữu. Lấy Kỷ Mảo làm chính Khí , mạch xuyên vào lưng hữu.
Thôi quan Thiên có thơ .
Âm cơ Huyệt Tốn hướng Cơ phong.
Khí tòng hữu yêu, gia hưng long.
Tả hữu bất giao long thất độ.
Quan quả , phong bì, động ôn hoàng.
Nghĩa : Long Giáp Huyệt tọa Tốn – Hướng Càn. Khí theo vào lưng hữu, nhà hưng thịnh. Nếu như tả hữu chẳng giao , Long sai độ số thì sinh cô quả , phong tật và  bệnh ôn hoàng.
Phân kim theo Chính châm Địa bàn.
- Kiêm Thìn Tuất : Tọa Bính Thìn – Hướng Bính Tuất. ( 297 độ 5 )
- Kiêm Tị Hợi : Tọa Canh Thìn – Hướng Canh Tuất. ( 302 độ 5 )
Phân kim theo Trung châm Nhân bàn :
- Kiêm Thìn Tuất : Tọa Canh Thìn – Hướng Canh Tuất.
- Kiêm Tị Hợi : Tọa Đinh Tị - Hướng Đinh Hợi.
2/ THÌN LONG NHẬP THỦ.
Thìn Long có 2 Hướng.
1/ Tọa Tốn – Hướng Càn.
2/ Tọa Cấn – Hướng Khôn .
Lấy Giáp Thìn làm chính Khí.
1/ Tọa Tốn – Hướng Càn.
Thìn Long nhập thủ, lạc mạch bên hữu. Huyệt lập Tọa Tốn – Hướng Càn, nhích về bê tả, gia chút ít Ất. Lấy Giáp Thìn làm chính Khí , mạch xuyên vào tai hữu.
Thôi quan Thiên có thơ .
Cang kim Huyệt Tốn hướng Dương kị.
Khí tòng hữu nhĩ vi hợp củ.
Thiên quan vi gia Huyệt niên tả.
Cự phú , đản khủng vô kì di.
Nghĩa : Thìn Long Huyệt Tốn, hướng phương Càn. Khí mạch theo tai hữu vào là hợp khuôn phép. Gia chút ít vào Ất, Huyệt nên dán sát vào tả. Xuất giầu to , chỉ sợ không thọ.
Phân kim theo Chính châm Địa bàn.
- Kiêm Thìn Tuất : Tọa Bính Thìn – Hướng Bính Tuất.
- Kiêm Tị Hợi : Tọa Canh Thìn – Hướng Canh Tuất.
Phân kim theo Trung châm Nhân bàn :
- Kiêm Thìn Tuất : Tọa Canh Thìn – Hướng Canh Tuất.
- Kiêm Tị Hợi : Tọa Đinh Tị - Hướng Đinh Hợi.
Như vậy trong cả 2 trường hợp Long nhập thủ ta đều điểm được 2 Huyệt là “
Phân kim theo Chính châm Địa bàn.
- Kiêm Thìn Tuất : Tọa Bính Thìn – Hướng Bính Tuất. ( 295 độ 5 ).
- Kiêm Tị Hợi : Tọa Canh Thìn – Hướng Canh Tuất. ( 302 độ 5 ).
B. Tọa Tị - Hướng Hợi.
1/MÃO LONG NHẬP THỦ.
Gồm có 4 Hướng :
1/ Tọa Giáp – Hướng Canh.
2/ Tọa Ất – Hướng Tân.
3/ Tọa Quý – Hướng Đinh.
4/ Tọa Tị - Hướng Hợi.
Lấy Quý Mão làm chính Khí.
Tọa Tị - Hướng Hợi.
Mão Long nhập thủ, mạch lạc ngang, hữu Thủy đến tả đi ra . Lập Huyệt Tọa Tị - Hướng Hợi , nhích về bên tả chút ít, lấy Quý Mão làm chính khí , mạch xuyên vào lưng bên hữu.
Thôi quan Thiên không có thơ .
Phân kim theo Chính châm Địa bàn.
- Kiêm Tốn Càn : Tọa Đinh Tị - Hướng Đinh Hợi.( 327 độ 5 ).
- Kiêm Bính Nhâm : Tọa Tân Tị - Hướng Tân Hợi. ( 332 độ 5 )
Phân kim theo Trung châm Nhân bàn :
- Kiêm Tốn Càn : Tọa Tân Tị - Hướng Tân Hợi.
- Kiêm Bính Nhâm : Tọa Đinh Tị - Hướng Đinh Hợi.
2/TỐN LONG NHẬP THỦ.
Gồm có 3 Hướng .
1/ Tọa Ất – Hướng Tân.
2/ Tọa Tị - Hướng Hợi.
3/ Tọa Khôn – Hướng Cấn.
Lấy Tân Tị làm chính Khí.
Tọa Tị - Hướng Hợi.
Tốn Long nhập thủ, lạc mạch bên hữu. Lập Huyệt Tọa Tị - Hướng Hợi là được thôi quan. Dịch quan tài về bên Thanh long, gia Thìn nửa phân, lấy Tân Tị làm chính Khí , mạch xuyên qua tai hữu.
Thôi quan Thiên có thơ .
Thái ất hành long, Thiên bình Huyệt.
Hữu nhĩ thừa Khí chân kì tuyệt.
Kim cang sát, vi vật gia đa .
Cự phú , tiểu quý, nhân anh kiệt.
Nghĩa : Cung Tốn hành long , Huyệt tọa phương Tị - Hướng Hợi . Thừa Khí mạch vào tai hữu là kì lạ , chân đích nhất. Cung Thìn ( Kim cang Long ) có sát Khí, chớ nên gia về bên đó nhiều ( Tị Tốn là âm , Thìn thuộc dương nên có sát Khí ). Được vậy xuất giàu to mà quý nhỏ , sinh anh hùng hào kiệt.
Phân kim theo Chính châm Địa bàn. 
- Kiêm Tốn Càn : Tọa Đinh Tị - Hướng Đinh Hợi.
- Kiêm Nhâm Bính : Tọa Tân Tị - Hướng Tân Hợi.
Phân kim theo Trung châm Nhân bàn :
- Kiêm Tốn Càn : Tọa Tân Tị - Hướng Tân Hợi.
- Kiêm Nhâm Bính : Tọa Đinh Tị - Hướng Đinh Hợi.
3/TỊ LONG NHẬP THỦ.
Long này chỉ có 1 Hướng : Tọa Tị - Hướng Hợi.
Lấy Ất Tị làm chính Hướng.
Tọa Tị - Hướng Hợi.
Tị Long nhập thủ, hợp nhích quan về bên hữu, lấy chính Tốn nhập Huyệt. Lập Huyệt Tọa Tị - Hướng Hợi , tất phát phú quý.
Thôi quan Thiên có thơ .
Xích xà đầu , Hướng Thiên môn Bắc.
Trực lai trực hướng thần công liệt.
Tốn Bính thụ Huyệt tối vi lương.
Phú quý vinh hoa , nhân anh kiệt.
Nghĩa : Xích xà là Tị chỉ tọa Sơn, hướng về Hợi là Bắc phương. Mạch đến thẳng, lập hướng thẳng nên thần công mạnh mẽ. Tốn Bính thụ Huyệt rất tốt lành.( Vì Tốn – Tị - Bính đều thuộc Âm, nên gia tả hữu đều tốt ). Hướng này giầu sang , vinh hoa, sinh anh hùng hào kiệt.
Phân kim theo Chính châm Địa bàn. 
- Kiêm Tốn Càn : Tọa Đinh Tị - Hướng Đinh Hợi.
- Kiêm Nhâm Bính : Tọa Tân Tị - Hướng Tân Hợi.
Phân kim theo Trung châm Nhân bàn :
- Kiêm Tốn Càn : Tọa Tân Tị - Hướng Tân Hợi.
- Kiêm Nhâm Bính : Tọa Đinh Tị - Hướng Đinh Hợi.
4/BÍNH LONG NHẬP THỦ.
Gồm  4 Hướng .
1/ Tọa Tị - Hướng Hợi.
2/ Tọa Giáp – Hướng Canh.
3/ Tọa Ất – Hướng Tân.
4/ Tọa Khôn – Hướng Cấn.
Lấy Nhâm Ngọ làm chính Khí.
1/ Tọa Tị - Hướng Hợi.
Bính Long nhập thủ, mạch lạc về bên hữu. Lập Huyệt Tọa Tị - Hướng Hợi.
, nhích quan tài về bên hữu chút ít, lấy Nhâm Ngọ làm chính , Bính Khí xuyên vào tai tả.
Thôi quan Thiên không có thơ .
Phân kim theo Chính châm Địa bàn. 
- Kiêm Tốn Càn : Tọa Đinh Tị - Hướng Đinh Hợi.
- Kiêm Bính Nhâm : Tọa Tân Tị - Hướng Tân Hợi.
Phân kim theo Trung châm Nhân bàn :
- Kiêm Tốn Càn : Tọa Tân Tị - Hướng Tân Hợi.
- Kiêm Bính Nhâm: Tọa Đinh Tị - Hướng Đinh Hợi.
5/ĐINH LONG NHẬP THỦ.
Gồm 2 Hướng.
1/ Tọa Khôn – Hướng Cấn.
2/ Tọa Tị - Hướng Hợi.
Lấy Quý Mùi làm chính Khí.
Tọa Tị - Hướng Hợi.
Đinh Long nhập thủ , từ bên tả lạc  mạch. Lập Huyệt Tọa Tị - Hướng Hợi , nhích quan về bên Bạch hổ gia Mùi 1 phân.  Lấy Quý Mùi làm chính Khí của Đinh long , mạch xuyên qua tai tả.
Thôi quan Thiên có thơ .
Nam cực hành long , Thiên hoàng hướng.
Khí xung tả nhĩ tối vi thượng.
Huyệt niêm Tây thú vi gia Dương.
Dương quyền thận vật hào ly gian.
Nghĩa : Hành Long từ Đinh ( Nam cực ) lập hướng Hợi ( Thiên hoàng ). Khí mạch xung vào tai tả là tốt nhất . Huyệt nhích về bên hữu gia Mùi chút ít. Cẩn thận ở Ngọ ( Dương quyền ) chớ sai sót trong khoảng hào ly.
Phân kim theo Chính châm Địa bàn. 
- Kiêm Tốn Càn : Tọa Đinh Tị - Hướng Đinh Hợi.
- Kiêm Bính Nhâm : Tọa Tân Tị - Hướng Tân Hợi.
Phân kim theo Trung châm Nhân bàn :
- Kiêm Tốn Càn : Tọa Tân Tị - Hướng Tân Hợi.
- Kiêm Bính Nhâm: Tọa Đinh Tị - Hướng Đinh Hợi.
Như vậy trong cả 5 trường hợp Long nhập thủ ta được 2 Huyệt mộ có phân kim như sau :
Phân kim theo Chính châm Địa bàn.
- Kiêm Tốn Càn : Tọa Đinh Tị - Hướng Đinh Hợi.( 327 độ 5 ).
- Kiêm Bính Nhâm : Tọa Tân Tị - Hướng Tân Hợi. ( 332 độ 5 )
PHẦN III. KHẢO SÁT SƠN HƯỚNG CỦA 2 KẾT QUẢ TÌM ĐƯỢC.
Như vậy với Thủy khẩu : Ngoại Thủy khẩu  : Hữu thủy đảo tả ra Đinh Mùi. Ta có thể lập được 2 hướng : Tọa Tốn – Hướng Càn  và Tọa Tị - Hướng Hợi.
A.Tọa Tốn – Hướng Càn. Phân kim theo Chính châm Địa bàn.
- Kiêm Thìn Tuất : Tọa Bính Thìn – Hướng Bính Tuất. ( 295 độ 5 ).
- Kiêm Tị Hợi : Tọa Canh Thìn – Hướng Canh Tuất. ( 302 độ 5 ).
B.Tọa Tị - Hướng Hợi. Phân kim theo Chính châm Địa bàn.
- Kiêm Tốn Càn : Tọa Đinh Tị - Hướng Đinh Hợi.( 327 độ 5 ).
- Kiêm Bính Nhâm : Tọa Tân Tị - Hướng Tân Hợi. ( 332 độ 5 )
A/TỐN SƠN – CÀN HƯỚNG : Đây là hướng từ năm 2004 khí bắt đầu vượng , hướng này có tên là cung quý nhân , hướng về văn chương , thi cử có vận thế rất mạnh . Trung quốc cổ đại gọi là sơn hướng Khoa cử . Do vậy người ta thường mời các nhà Địa lý phong thủy chọn cho để đặt hướng nhà , hướng mộ . Vào các năm từ 2024- 2043 vận khí vào hợp thập , song tinh đáo hướng đắc khí rất tốt .
. Phân kim theo Chính châm Địa bàn.
- Kiêm Thìn Tuất : Tọa Bính Thìn – Hướng Bính Tuất. ( 295 độ 5 ).
- Kiêm Tị Hợi : Tọa Canh Thìn – Hướng Canh Tuất. ( 302 độ 5 ).
TỐN SƠN KHAI MÔN PHÓNG THỦY.
Hoàng tuyền tại Tân , không nên có đường nước từ hướng đó chẩy đến chủ về sát nhân. 
Kiếp sát tại Quý , hướng đó không nên có gò núi , cây cối , lâu đài cao chiếu đến chủ bệnh tật triền miên .
Khôn – Canh –Giáp  hướng có nước chảy về chủ đem tài lộc đến cát lợi.
Nhâm – Quý - Tân hướng phóng nước đi đại cát .
Tấn Lộc tại Thìn , Tấn tài tại Tuất .
Khai môn hướng Canh – Càn – Khôn – Cấn – Nhâm  đại cát.
Hợp người tuổi mạng Hỏa .

1/HƯỚNG  :Tọa Tốn – Hướng Càn thuộc Tây tứ trach . Kiêm Thìn Tuất : Tọa Bính Thìn – Hướng Bính Tuất. ( 297 độ 5 ).
Vòng 1 : Tiên Thiên bát quái : Cấn.
Vòng 2 : Hậu Thiên bát quái : Càn.
Vòng 3-4 : Hướng và độ số hậu thiên : Tây bắc – 6.
Vòng 5-6 : Tam nguyên Long , âm dương , độ số kiêm hướng : Địa Nguyên Long -6.
Vòng 7 : Cửu tinh Đế ứng tứ viên cục : Văn Khúc.
Vòng 8-9 : 24 sơn hướng chính châm và phân âm dương Long : Tuất – Dương Long.
Vòng 10 : Nạp Giáp : Ly.
Vòng 11 : Phương Kiếp sát : Mùi.
Vòng 12 : Bát sát Hoàng tuyền : Ngọ.
Vòng 13: Vòng trung châm nhân bàn : Tuất.
Vòng 14: Vòng phùng châm Thiên bàn : Tân.
Vòng 15 : Hoàng tuyền : Càn.
Vòng 16 : Bạch hổ hoàng tuyền : Hợi.
Vòng 17 : 60 Long thấu địa : Canh Tuất .
 Vòng 18 : Bát môn lâm hướng ( KMDG) : H/4
Vòng 19-20 : Tam kỳ - Tứ cát : 6789
Vòng 21 : 24 Tiết khí : Sương Giáng.
Vòng 22-29 : Bát biến du niên ( bát trạch phối hậu thiên ) : Lục- Y – Ngũ - Họa – Tuyệt – Phúc - Sinh.
Vòng 30 : 72 Xuyên sơn :Canh Thìn – Bính Tuất.
Vòng 31 : Vòng Phúc đức .Tố tụng.
Vòng 32-33 : Vòng Tràng sinh ( Vòng âm và vòng dương thuận nghịch ) : Quan đới.
Vòng 34 : 64 quẻ Hậu thiên :Phong Sơn Tiệm.
Vòng 35 : 120 Phân kim : Tọa Bính Thìn – Hướng Bính Tuất.
Vòng 36 : Nhị thập bát tú : Lâu.
Thiên Nguyên Long : Sơn Tốn - Hướng càn .
Địa vận : 20 năm .
Các vận 2, 8 vượng Sơn , vượng Hướng .
Các vận 1, 9 toàn cục hợp Thập .
Các vận 6, 9 cung Ly đả kiếp .
Vận 6 Thành môn không dùng .
Vận 5, 7 Tý - Dậu cát . Vận 1,3,8 Dậu cát .
Các vận 2, 4, 9 Tý cát .
Vận 4, 6 phạm Phản phục ngâm . Hung .
VẬN 8 HẠ NGUYÊN TỪ 2004 – 2023 :
Vận 8 : Phối tinh : Cửu đáo Sơn , Thất đáo Hướng . Sơn tinh Cửu nhập trung cung bay ngược . Hướng tinh Thất nhập trung cung , bay ngược . Vượng Sơn - Vượng Hướng . Quẻ Sơn sinh xuất , hung . Quẻ Hướng khắc xuất , hung .
SƠN
    8                    1                         3                       5                 1                      3
              7                                                  3                                         5
     9                    2                        7                         9                  5                       7
               6                                                 8                                          1
      4                    6                        2                         4                   6                      8
              2                                                  4                                           9
                                                                                                                     HƯỚNG.

BÁT SÁT HOÀNG TUYỀN: Hướng Càn mà cửa đặt vào vị Ngọ là bị Sát . Nếu khởi công động thổ , xây dựng , sửa chữa vào năm tháng ngày giờ Ngọ là bị sát . nếu có dòng nước chẩy theo hướng sát vào Minh đường cũng rất xấu . Do vậy không được đặt cửa ra vào , cửa ngõ , cửa sổ vào vị Ngọ . Cũng như không khởi công , sửa chữa vào năm tháng ngày giờ Ngọ . Không được có dòng nươc chẩy vào Minh đường ở hướng Ngọ .
1/HƯỚNG  :Tọa Tốn – Hướng Càn thuộc Tây tứ trach .
Kiêm Tị Hợi : Tọa Canh Thìn – Hướng Canh Tuất. ( 302 độ 5 ).
Vòng 1 : Tiên Thiên bát quái : Cấn.
Vòng 2 : Hậu Thiên bát quái : Càn.
Vòng 3-4 : Hướng và độ số hậu thiên : Tây bắc – 6.
Vòng 5-6 : Tam nguyên Long , âm dương , độ số kiêm hướng : Địa Nguyên Long -6.
Vòng 7 : Cửu tinh Đế ứng tứ viên cục : Văn Khúc.
Vòng 8-9 : 24 sơn hướng chính châm và phân âm dương Long : Tuất – Dương Long.
Vòng 10 : Nạp Giáp : Ly.
Vòng 11 : Phương Kiếp sát : Mùi.
Vòng 12 : Bát sát Hoàng tuyền : Ngọ.
Vòng 13: Vòng trung châm nhân bàn : Càn.
Vòng 14: Vòng phùng châm Thiên bàn : Tuất.
Vòng 15 : Hoàng tuyền : Càn.
Vòng 16 : Bạch hổ hoàng tuyền : Hợi.
Vòng 17 : 60 Long thấu địa : Bính Thìn – Nhâm Tuất .
 Vòng 18 : Bát môn lâm hướng ( KMDG) : H/6
Vòng 19-20 : Tam kỳ - Tứ cát : 3455
Vòng 21 : 24 Tiết khí : Sương Giáng.
Vòng 22-29 : Bát biến du niên ( bát trạch phối hậu thiên ) : Lục- Y – Ngũ - Họa – Tuyệt – Phúc - Sinh.
Vòng 30 : 72 Xuyên sơn : Giáp Thìn – Canh Tuất.
Vòng 31 : Vòng Phúc đức .Tố tụng.
Vòng 32-33 : Vòng Tràng sinh ( Vòng âm và vòng dương thuận nghịch ) : Quan đới.
Vòng 34 : 64 quẻ Hậu thiên : Cấn vi Phong.
Vòng 35 : 120 Phân kim : Tọa Canh Thìn – Hướng Canh Tuất.
Vòng 36 : Nhị thập bát tú : Lâu.
B /TỊ SƠN – HỢI HƯỚNG :  Hướng này thích hợp với những người làm nghề đầu bếp .Hướng này nguyên nghĩa là nhà bếp của Thiên tử . Vì nó có nghĩa thực lộc nên là hướng thích hợp cho kinh doanh nghề ăn uống . Hướng này còn có nghĩa là Lộc nên nếu kết hợp với Địa long thì doanh lợi rất lớn .
TỊ SƠN KHAI MÔN PHÓNG THỦY.
Hoàng tuyền tại Càn , không nên có đường nước từ hướng đó chẩy đến chủ về sát nhân. 
Kiếp sát tại Dậu , hướng đó không nên có gò núi , cây cối , lâu đài cao chiếu đến chủ bệnh tật triền miên .
Khôn – Canh –Thân – Dậu  hướng có nước chảy về chủ đem tài lộc đến cát lợi.
Nhâm – Quý – Tân hướng phóng nước đi đại cát .
Trường sinh tại Dậu, Đế vượng tại Tị. Lộc tại Bính – Tuất . Quý nhân tại Nhâm – Quý .
Khai môn hướng Dần – Thân – Hợi – Dậu – Tý   đại cát.
Hợp người tuổi mạng Thổ .

Nhân nguyên Long : Sơn Tỵ - Hướng Hợi .
Địa vận : 20 năm .
Các vận 2, 8 vượng Sơn - Vượng Hướng .
Các vận 1 , 9 toàn cục hợp Thập .
Các vận 6, 9 cung Ly đả kiếp .
Vận 6 Thành môn không dùng .
Vận 5, 7 Quý , Tân cát .
Các vận 1, 3, 8 Tân cát .
Các vận 2, 4, 9 Quý cát .
Các vận 4, 6 phạm Phản phục ngâm .
PHỐI TINH TRONG VẬN 8 HẠ NGUYÊN ( TỪ 2004 - 2023 ) .
Vận 8 ; Phối tinh : Thất đáo Sơn - Cửu đáo Hướng . Sơn tinh Thất nhập trung cung , bay ngược . Hướng tinh cửu nhập trung cung , bay ngược . Vượng Sơn - Vượng Hướng . Quẻ Sơn khắc xuất , hung . Quẻ Hướng sinh xuất , hung .
SƠN 
      8                 1                     3                 5                       1                    3
             7                                           3                                           5
       9                  2                    7                 9                        5                    7
              6                                          8                                             1
        4                  6                    1                 4                        6                   8
               2                                         4                                              8
                                                                                                                  HƯỚNG

BÁT SÁT HOÀNG TUYỀN: Nhà hướng Càn thu Thủy hay đặt cửa vào vị Ngọ là bị Sát . Nếu khởi công vào năm , tháng , ngày , giờ Ngọ là bị sát . Nếu phạm phải , tai họa lập tức đến liền , ứng nghiệm như Thần .
Tọa Tị - Hướng Hợi. Phân kim theo Chính châm Địa bàn.
- Kiêm Tốn Càn : Tọa Đinh Tị - Hướng Đinh Hợi.( 327 độ 5 ).
- Kiêm Bính Nhâm : Tọa Tân Tị - Hướng Tân Hợi. ( 332 độ 5 ).
1/ Tọa Tị - Hướng Hợi. Phân kim theo Chính châm Địa bàn. Kiêm Tốn Càn : Tọa Đinh Tị - Hướng Đinh Hợi.( 327 độ 5 ).
Vòng 1 : Tiên Thiên bát quái : CẤN.
Vòng 2 : Hậu Thiên bát quái : CÀN.
Vòng 3-4 : Hướng và độ số hậu thiên : Tây Bắc  + 6.
Vòng 5-6 : Tam nguyên Long , âm dương , độ số kiêm hướng : Nhân Nguyên Long  + 6 .
Vòng 7 : Cửu tinh Đế ứng tứ viên cục : Liêm trinh.
Vòng 8-9 : 24 sơn hướng chính châm và phân âm dương Long : Hợi – Âm Long.
Vòng 10 : Nạp Giáp : Chấn.
Vòng 11 : Phương Kiếp sát : Dậu.
Vòng 12 : Bát sát Hoàng tuyền : Ngọ .
Vòng 13: Vòng trung châm nhân bàn : Hợi.
Vòng 14: Vòng phùng châm Thiên bàn : Càn.
Vòng 15 : Hoàng tuyền : Sát tại Càn , Nhâm phương .
Vòng 16 : Bạch hổ hoàng tuyền : Thân .
Vòng 17 : 60 Long thấu địa : Tọa Ất Tị - Hướng Tân Hợi , nạp âm thuộc Hỏa. Vòng 18 : Bát môn lâm hướng ( KMDG) : H/3
Vòng 19-20 : Tam kỳ - Tứ cát : 6789.
Vòng 21 : 24 Tiết khí : Tiểu Tuyết.
Vòng 22-29 : Bát biến du niên ( bát trạch phối hậu thiên ) : 
Vòng 30 : 72 Xuyên sơn : Tọa  Tân Tị  – Hướng Đinh Hợi.
Vòng 31 : Vòng Phúc đức : Quan Quý.
Vòng 32-33 : Vòng Tràng sinh ( Vòng âm và vòng dương thuận nghịch ) : Tử.
Vòng 34 : 64 quẻ Hậu thiên : Hỏa Địa Tấn.
Vòng 35 : 120 Phân kim : Tọa  Đinh Tị  – Hướng Đinh Hợi. ( 327,5 độ )
Vòng 36 : Nhị thập bát tú : Bích.
2/Tọa Tị - Hướng Hợi. Phân kim theo Chính châm Địa bàn.Kiêm Bính Nhâm : Tọa Tân Tị - Hướng Tân Hợi. ( 332 độ 5 ).
Vòng 1 : Tiên Thiên bát quái : CẤN.
Vòng 2 : Hậu Thiên bát quái : CÀN.
Vòng 3-4 : Hướng và độ số hậu thiên : Tây Bắc  + 6.
Vòng 5-6 : Tam nguyên Long , âm dương , độ số kiêm hướng : Nhân Nguyên Long  + 6 .
Vòng 7 : Cửu tinh Đế ứng tứ viên cục : Liêm trinh.
Vòng 8-9 : 24 sơn hướng chính châm và phân âm dương Long : Hợi – Âm Long.
Vòng 10 : Nạp Giáp : Chấn.
Vòng 11 : Phương Kiếp sát : Dậu.
Vòng 12 : Bát sát Hoàng tuyền : Ngọ .
Vòng 13: Vòng trung châm nhân bàn : Nhâm.
Vòng 14: Vòng phùng châm Thiên bàn : Hợi.
Vòng 15 : Hoàng tuyền : Sát tại Càn.
Vòng 16 : Bạch hổ hoàng tuyền : Thân .
Vòng 17 : 60 Long thấu địa : Tọa Đinh Tị - Hướng Quý  Hợi. 
Vòng 18 : Bát môn lâm hướng ( KMDG) : H/1
Vòng 19-20 : Tam kỳ - Tứ cát : 3455.
Vòng 21 : 24 Tiết khí : Tiểu Tuyết.
Vòng 22-29 : Bát biến du niên ( bát trạch phối hậu thiên ) : 
Vòng 30 : 72 Xuyên sơn : Tọa  Ất Tị  – Hướng Tân Hợi.
Vòng 31 : Vòng Phúc đức : Quan Quý.
Vòng 32-33 : Vòng Tràng sinh ( Vòng âm và vòng dương thuận nghịch ) : Tử.
Vòng 34 : 64 quẻ Hậu thiên : Lôi Địa Dự.
Vòng 35 : 120 Phân kim : Tọa Tân Tị - Hướng Tân Hợi. ( 332 độ 5 ).
Vòng 36 : Nhị thập bát tú : Bích.
III. HƯỚNG HƯỚNG PHÁT VI.
( Giảng nghĩa Thủy pháp )
Trong 12 Sơn , 12 Hướng , mỗi Hướng có đủ 12 Thủy khẩu. Hướng nào cát , hướng nào hung, Trường sinh , Thủy pháp đều biện kỹ càng , xét đoán không sợ sai lầm. ( Triệu Cửu Phong ).
TỐN SƠN – CÀN HƯỚNG; TỊ SƠN – HỢI HƯỚNG.
1/ Thủy ra Nhâm Tý. Hỏa cục.
Thủy ra Thai – lập Hướng Tuyệt. Tả Thủy đảo hữu qua Minh đường ra Thai, hợp Văn khố tiêu thủy, Dương công cứu bần, Tiến thần Thủy pháp. Thư nói : Lộc tồn lưu tận bội kim ngưu. Chủ phát phú quý , phúc thọ song toàn.
2/ Thủy ra Quý Sửu. Kim cục.
Thủy ra Mộ - Lập Hướng Bệnh. Đây là cách thoái thần Thủy pháp, lại phạm xung phá Quan đới, tất tổn thương con nhỏ thông minh, nữ nhân kiều diễm, trong nhà bệnh tật không hết , đa hung. Phạm Bệnh thì không nên lập.
3/ Thủy ra Cấn Dần. Kim cục.
Thủy ra Tuyệt – lập Hướng Bệnh. Đây là cách xung phá trên hướng Lâm quan, phạm Hoàng tuyền đại sát . Tất thương các con nhỏ mới thành tài, yểu vong không con nối dõi , cùng khổ rất hung.
4/ Thủy ra Giáp Mão. Kim cục.
Thủy ra Thai – Lập hướng bệnh. Là cách Sinh lai phá Vượng, chủ bần cùng ,buổi đầu có phát ít tài lộc, lâu dài bại tuyệt , bất lợi.
5/ Thủy ra Ất Thìn . Thủy cục.
Thủy ra Mộ - Lập hướng Lâm quan. Phạm 10 cái thoái thần như gặp quỷ, gặp Lâm quan không nên lập Hướng , không bại cũng tuyệt.
6/ Thủy ra Tốn Tị. Thủy cục.
Thủy ra Tuyệt – Lập hướng Lâm quan. Cách này ở đất sơn cước đa hung vì sau đầu thấp , gọi là : Giao như bất cập, chủ lâu ngày bại tuyệt.
7/ Thủy ra Bính Ngọ. Thủy cục.
Thủy ra Thai – Lập Hướng Lâm quan. Cũng là cách Giao như bất cập , chủ đoản thọ , bại tài.
8/ Thủy ra Đinh Mùi . Mộc cục.
Thủy ra Mộ - lập Hướng Trường sinh, hữu Thủy đảo tả , qua Minh đường ra chính Khố Mộc cục. Gọi là : Tam phương điếu chiếu chính Sinh hướng , hợp Dương công tiến thần cứu bần Thủy pháp, Vượng Khứ nghinh Sinh, tất phú quý đến mau. Thư nói : Thập tứ tiến thần gia nghiệp vững, chủ vợ hiền con hiếu, phúc lộc đến cửa, phú quý toàn hai , các nhành đều phát.
9/ Thủy ra Khôn Thân. Mộc cục.
Thủy ra hướng Thai – Lập Hướng Trường sinh. Đây là cách Tình nhi quá giang
Buổi đầu có vượng nhân đinh, thọ cao , phát ít tài lộc ,công danh không lợi, tuy nghèo có thọ nhưng không tuyệt.
 10/ Thủy ra Canh Dậu . Mộc cục.
Thủy ra Thai – Hướng Trường sinh. Đây là cách xung phá Thai thần. Buổi đầu có vượng nhân đinh, thọ cao , phát ít tài lộc , lâu rồi tuyệt tự nghèo khó, có thọ thì cùng khốn vì nước không về Khố.
11/ Thủy ra Tân Tuất. Hỏa cục.
Thủy ra Mộ - Hướng Càn Hợi là Tuyệt. Hữu thủy đảo tả ra chính khố Hỏa cục, là Tá Khố tiêu Thủy, Tuyệt xứ phùng sinh, Tự Sinh hướng hợp Dương công cứu bần, Tiến Thần Thủy pháp, không luận xung phá, chủ phú quý , thọ cao, nhân đinh đại vượng, phát phúc lâu dài.
12/ Thủy ra Càn Hợi . Hỏa cục.
Tuyệt Hướng – Tuyệt Thủy lưu. Nước hữu dài , lớn đảo tả ra chính chữ Càn , không phạm vào chữ Hợi, ngoài 100 bộ có Sa ngăn , Thủy đón, chủ đại phú quý, nhân đinh hưng vượng. nếu Long Huyệt hơi sai thì thấy tuyệt bại ngay không nên khinh thường.
Biện đồ hình 12 : Tốn sơn Càn hướng , Tị sơn Hợi hướng , như nước tả dài đảo hữu ra Càn, tức là phạm Mộ Tuyệt xung vào Minh đường, sing đại sát thì không bại cũng tuyệt, nếu Thủy ra chữ Hợi thì hung càng thêm hung.
IV. LUẬN THỦY PHÁP THEO CỬU TINH VÀ HƯỚNG.
1/TỐN SƠN – CÀN HƯỚNG.
Tốn sơn – Càn Hướng , gia Thìn.
Dùng Bính Thìn – Bính Tuất phân kim. Tọa sao Chẩn 13-14 độ, ấy là Tân Tị Mộc độ , bình phân Bính Thìn – Kỷ Tị . Chủ phú quý đời đời bất tuyệt. nếu tọa sao Chẩn 15-16 độ , phạm Kim Mộc quan sát , mọi sự chẳng lành .
Tốn sơn – Càn Hướng , gia Tị .
Dùng Canh Thìn – Canh Tuất phân kim . Tọa sao Chẩn 6-7 độ, ấy là Quý Tị Thổ độ , bình phân Tân Tị , Kỷ Tị. Chủ ngành 2,4,5 phát đinh tài . Qua sao Chẩn 8,5 độ , phạm Mộc Thổ quan sát , mọi sự chẳng lành .
Tốn sơn – Càn Hướng , chính châm.
Dùng Canh Thìn , Bính Thìn phân kim. Tọa sao Chẩn 10 độ - Hướng sao Khuê 1,5 độ , làm Mộc cục . Cục này nếu Thân sơn cao lớn , là Lộc sơn , chủ ngành trưởng nhân đinh hưng vượng, các ngành khác thứ cát . Nếu phương Tân sơn cao lớn , đinh tài đều vượng , các ngành tốt đều như nhau . 
Nếu Tân phương sơn cao lớn, có Càn Thủy triều về , chủ nam được vợ quý , nữ được hiền phu. Nếu phương Ất sơn cao lớn , chủ ngành 3 đinh tài đều vượng . nếu hữu Thủy đảo tả ra Đinh Mùi , chính là Sinh hướng – Vượng khứ nghinh Sinh , phú quý song toàn , vợ hiền con hiếu . Nếu Thủy xuất ra Tân Tuất ( Hỏa cục ) là Tuyệt xứ phùng Sinh , chủ phú quý , thọ cao , nhân đinh đại vượng . Nếu tả Thủy đảo hữu ra Nhâm Tý là Thai phương Tuyệt ướng là Cứu bần Thủy pháp , công cao , hiển đạt , đinh tài đều vượng , phú quý tề lai , thật đại cát đại lợi .
Phản cục : Nếu phương Thìn có núi cao lớn , các phòng đinh tài đại bại, không có ngày hưng phát . Tuất ,Sửu phương có núi cao lớn , chẳng lợi trưởng nam, quan phi khẩu thiệt . Mùi sơn có núi cao lớn , ngành trưởng hoán thê đổi thiếp , tuyệt tự . Bính Ngọ sơn có núi cao lớn, cha hưng con bại . Nhâm Tý có núi cao lớn , chẳng lợi cho ngành 3. Canh Dậu sơn có núi cao lớn, ngành trưởng và 4 chẳng lợi . Giáp Mão có núi cao lớn , ngành 6 chẳng lợi . 
 Nếu Thủy xuất Canh dậu phương , là Sinh Hướng Thủy xung phá Thai thần , lúc đầu có vượng đinh tài sau này tuyệt tự , bần hàn . Dần phương có núi cao lớn, ngành 3 sớm tuyệt tự . Nếu Thủy xuất Quý Sửu ( Là Bệnh Hướng Kim cục ) tất hại người thiếu niên thông minh.
Tốn sơn – Càn Hướng , kiêm Thìn Tuất.
Dùng tọa Bính Thìn – Hướng Bính Tuất phân kim . Tọa sao Chẩn 13 độ - Hướng sao Khuê 5 độ , làm Mộc cục để luận . Mộc trường sinh tại Càn Hợi. Cục này Tiên Thiên phối Hậu Thiên ( Vì Tuất nạp Ly ) , mọi ngành đều đăng quang vinh hoa phồn thịnh. Nếu được phương Càn Trường sinh Thủy đáo Minh đường , tất xuất người công danh hiển đạt . Càn Thủy ứng Càn Hướng là Long tú Thiên mông đại cát , là tứ trụ mà Âm Dương đắc phối, tọa Lộc , nghinh Lộc – Lộc Mã triều nguyên chi cách . Ấy cũng là Âm Mộc Âm luận, phía sau bên hữu Lạc sơn thấp ,Dương Thủy hành Mộc Long, lại được trước mặt có sơn phong nhọn đẹp , chủ xuất trung lương về tướng. Đế vượng Thủy lai triều , chú phú quý vinh hoa , tốc phát nhân đinh , tăng tuổi thọ phát quan phát quý .
Tốn sơn – Càn Hướng , kiêm Tị Hợi.
Dùng tọa Canh Thìn – Hướng Canh Tuất phân kim. Tọa sao Chẩn 6,5 độ - Hướng sao Bích 8,5 độ , làm Mộc cục . Tốn và Thìn Thổ làm chồng , Tị cùng Bính Hỏa làm vợ. Chẳng hay phối hiệp ,Âm Dương sai phối , mất đi chủ quyền. nếu là chân Cục thì hậu Thác Lạc sơn chẳng hợp cao, trước mặt Tuất Càn phương cần nhọn đẹp . Sửu , Cấn , Dần phương có phong loan cao chiếu , nhà có kẻ đọc sách Thánh hiền . Chính phối Tham Lang tinh hiển đạt , văn chương thành danh .
Tuất càn Thủy nghịch triều tuổi thọ cao . Hợi Nhâm Thủy lai triều tài vượng . Sửu, Cấn , Dần , Giáp , Mão, Ất có Thủy chảy về , thực lộc vạn chung.
Nếu Thuỷ chảy về quy tụ tại Khôn thân xuất khứ có tên Lộc Tồn khứ tận – Áo gấm về làng , chỉ hiềm kiếp luận 48 năm mà thôi. Sau đó tu tạo lại cũng hưng thịnh lại . Cục này nên phóng Thủy  Khôn là cát nhất.
Phản cục : Canh phương là Hoàng tuyền , Quý Tý có Thủy đến xuất dâm loạn phong tật . Thân Canh Thủy đến chủ phụ nữ trụy thai , con nuôi nối dõi . Tốn , Tị Bính phương có núi cao lớn , xuất nhiều bệnh tật đa đoan. Ngọ Đinh phương có núi cao lớn làm cướp phá nhà . Mùi Khôn phương có núi cao lớn , chủ có thủy hỏa tai , nếu có Thủy chảy lại là Thủy Hỏa chẳng giúp nhau , xuất huyết , vô hậu. Nếu tả Thủy đảo hữu xuất tại Tuất , Càn , Hợi , chủ tổn nhân đinh , xuất điên cuồng. Nếu Càn Hợi song Thủy lai triều , lo về việc yểu tử chết non.
2/TỊ SƠN – HỢI HƯỚNG.
Tị sơn – Hợi Hướng , Gia Bính.
Dùng Tân Tị - Tân Hợi phân kim . Tọa sao Dực 12 độ là Đinh Tị Kim độ , bình phân Ất Tị , Đinh Tị.Ngành trưởng xuất phú quý, ngành út cũng tốt . Nếu có sa , thủy tốt thì xuất quan cao , lộc cả . Không hợp 5,6,10 độ phạm vào cửa Kim Hỏa sát .
Tị sơn – Hợi Hướng , Gia Tốn.
Dùng Đinh Tị - Đinh Hợi phân kim . Tọa sao Dực 19 độ , ấy là Ất Tị Hỏa độ, bình phân Tân Tị , Quý Tị , trước sau đều phát .
Tị sơn – Hợi Hướng , chính châm .
Dùng Tân Tị , Đinh Tị phân kim. Tọa sao Dực 15 độ - Hướng sao Thất 14 độ làm Thủy cục . Cục này nên Tuất phương có núi cao lớn , mọi ngành nhân đinh đều vượng . Thìn , Sửu phương có núi cao lớn ngành 3, ngành 6 nhân đinh vượng. nếu chỉ có Sửu phương có núi cao lớn , đinh tài chỉ vượng ngành 3. Mùi phương có núi cao lớn , ngành trưởng đinh tài đều vượng . Canh Dậu phương có núi cao lớn , nam được vợ hiền , nữ được chồng sang . 
Nếu  hữu Thủy đảo tả đến trước mặt ra Khố , phú quý song toàn , vợ hiền con hiếu . Nếu hữu Thủy đảo tả ra Tân Tuất ( Hỏa cục ) là Tuyệt xứ phùng Sinh , phú quý đa thọ , nhân đinh đại vượng . Hữu Thủy đảo tả ra Nhâm Tý là Tuyệt Hướng Thai Thủy – Cứu bần Thủy pháp , công cao hiển đạt , đinh tài đại vượng , phú quý , thọ cao .
Phản cục : Quý phương có núi cao lớn, ngành 3 tuyệt nhân đinh . Đinh Thân phương có núi cao lớn , ngành trưởng và 4 không vượng . Ất phương có núi cao lớn, phòng 6 tuyệt nhân đinh . Tốn phương có núi cao lớn , ngành 2 cha hưng con bại . Càn phương có núi cao lớn, trưởng phòng suy bại . Như có Mùi Thủy chảy đến cứu , thì có đinh không tài . Giáp Mão phương có núi cao lớn , có tài không đinh . Nếu Thìn phương có núi cao lớn , ấy là có ứng cứu , không hại gì . Nếu Thân phương Thủy đến là Hình Thủy , có sự ám hại , thối tài . Ấy là Tứ Sinh tương phá , phá Âm Thủy , ám hại tiêu hao tổn đinh , thối tài .
Tị sơn – Hợi Hướng , kiêm Tốn Càn.
Dùng tọa Đinh Tị - Hướng Đinh Hợi phân kim. Tọa sao Dực 18 độ - Hướng sao Thất 17,5 độ , làm Âm Hỏa Cục . Cục này Âm Dương sai thố , chỉ phát phúc lộc nhỏ . Nếu Cục – Hướng chân đích , thì cần Quý Sửu thủy khuất khúc triều Minh đường , hay vượng đinh , tuổi thọ cao .
Cấn Dần Thủy lai triều ( Phương Sinh ) , đinh tài đều vượng . Thìn Tốn Thủy chảy đến , cùng phía sau cao dày sẽ phát phước . Tị , Bính phương có núi cao lớn lại được Quý phương có văn bút nhọn đẹp , chính là Hiệp Tham Lang chi vị , người sau thông minh hiếu học , văn chương hiển đạt , nếu không có Văn bút nhọn đẹp cũng được tiểu quý .
Ngọ , Đinh , Mùi , Khôn phương có núi cao lớn, cùng có Thủy lai triều , đồng quy Tân phương mà xuất Khố , chủ đinh tài đại vượng . Cục này vượng 48 năm thì thối bại . Cần trùng tu sẽ phục hưng lại . Cục này hợp Thủy phóng ra tại Tân phương ( Tuyệt Hướng – Thủy quy Mộ khố ) .
Phản cục : Canh , Dậu , Tân Thủy lai triều , chiêu quân làm giặc , lưu đày , phá gia , bệnh tật . Càn – Tuất – Hợi phương có núi cao lớn, phụ nữ trụy thai , con nuôi kế tự . Mão Ất Thủy lai , xuất dâm loạn phong tật .Canh - Tân – Dậu – Tuất – Càn – Hợi có Thủy chảy lại quy về Sửu – Cấn – Dần là Bệnh Hướng , tổn đinh phá tài . Thìn – Tốn – Tị Thủy xuất Khố , nhà không người học vấn , giáng quan , cách chức .
Tị sơn – Hợi Hướng , kiêm Bính Nhâm.
Dùng tọa Tân Tị - Hướng Tân Hợi phân kim. Tọa sao Dực 11,5 độ - Hướng sao Thất 11,5 độ , làm Hỏa cục . Cục này tọa Lộc , nghinh Lộc ( Bính Lộc tại Tị , Nhâm Lộc tại Hợi ) , chỉ sợ phân kim làm Bàng sát , tuy Âm Dương chính phối, mà phạm nữ khúc ác tinh , do vậy nên đề phòng các năm Hợi – Mão – Mùi  lao bệnh tử vong. Nếu Cục – Hướng chân đích , Cấn Dần Trường sinh Cục làm Thôi quan , thêm Đế vượng sơn loan nhọn đẹp là Thiên Hỉ , Hồng Loan đáo phương . Mộc Hỏa hành Long thật là trác tuyệt. Chủ cả 3 nguyên , sinh quý tử , cập đệ đăng khoa .
V.PHÂN KIM – KHAI MÔN – PHÓNG THỦY – TẠO TÁNG.
( Theo Địa lý Đại toàn ).
LƯU Ý: Độ số của Nhị thập bát tú có thể không khớp với phần trên vì ngày xưa có nhiều loại La kinh . Ta chỉ cần sử dụng đúng 120 phân kim là được . 
Riêng về phần phân kim, căn cứ vào “ Long gia Ngũ hành “ để luận Tam sát của Tọa sơn . Cần lưu ý :
Dần – Giáp – Mão - Ất thuộc Mộc cùng Tốn.
Tị - Bính – Ngọ - Đinh thuộc Hỏa .
Thân - Canh – Dậu – Tân cùng thuộc Kim.
Hợi – Nhâm – Tý – Quý thuộc Thủy .
Thìn – Tuất – Sửu – Mùi – Khôn – Cấn thuộc Thổ .
Thổ ở tại trung cung nên phải tá vào 4 vị :
Thìn tá Mộc.
Tuất tá Kim.
Mùi tá Hỏa.
Sửu tá Thủy.
Như vậy Càn – Khôn – Cấn – Tốn ở giữa những giao điểm của Ngũ hành . Cho nên phân kim của 4 Tọa sơn Càn – Khôn – Cấn – Tốn phải khác với 20 Tọa kia.
( Phần này rất quan trọng phải để ý ).
1/TỐN SƠN – CÀN HƯỚNG.
1/Kiêm Thìn Tuất 3 phân ( Theo Mộc cục ).
Vòng địa bàn chính châm 120 phân kim : Tọa  Bính Thìn  – Hướng Bính Tuất.
Vòng Thiên bàn Phùng châm 120 phân kim : Tọa  Canh Thìn  – Hướng Canh Tuất.
Tú độ : Tọa sao Chẩn 13  độ - Hướng sao Khuê 6 độ.
Xuyên sơn 72 Long : Tọa  Bính Thìn  – Hướng Nhâm Tuất.
Thấu địa 60 Long : Tọa Kỷ Tị nạp âm thuộc Mộc.
Độ tọa Huyệt : Bình phân Tân , Mộc  độ.
Quẻ : Long thấu địa thuộc quẻ : Trạch Phong đại quá .
Dùng Cục : Hợi – Mão – Mùi , Mộc cục – Hướng sát.
Cục : Dần – Ngọ - Tuất ( Hỏa cục ) : bình.
Cục :Thân – Tý – Thìn : Thủy cục , cát .
Cục : Tị - Dậu – Sửu , Kim cục , Tọa Tam sát hung.
2/Kiêm Tị Hợi 3 phân ( Theo Hỏa cục ).
Vòng địa bàn chính châm 120 phân kim : Tọa  Canh Thìn  – Hướng Canh Tuất.
Vòng Thiên bàn Phùng châm 120 phân kim : Tọa  Bính Thìn  – Hướng Bính Tuất.
Tú độ : Tọa sao Chẩn 7  độ - Hướng sao Bích 8 độ.
Xuyên sơn 72 Long : Tọa  Kỷ Tị  – Hướng Ất Hợi.
Thấu địa 60 Long : Tọa Tân Tị nạp âm thuộc Kim.
Độ tọa Huyệt : Bình phân Quý , Thổ  độ.
Quẻ : Long thấu địa thuộc quẻ : Bát thuần Tốn .
Dùng Cục : Hợi – Mão – Mùi , Mộc cục – Cát.
Cục : Dần – Ngọ - Tuất ( Hỏa cục ) : Cát.
Cục :Thân – Tý – Thìn : Thủy cục , Tọa Tam sát hung.
Cục : Tị - Dậu – Sửu , Kim cục , Bình.
3/ Chân lịch số .
Tiết Thu phân , Thái Dương đến Tốn . Hội 2 phương Canh , Quý  đều cát .
Tiết Xuân phân , Thái Dương đáo Hướng chiếu Tốn tốt.
Tiết Lập Hạ : Thiên Đế đến Tốn tốt.
Khai môn : Nên Tuất hợp chất khố tốt.Trên Tý có hoạnh tài, trên Càn chính môn cát.
Phóng Thủy : Nên dùng Quý phương  tốt. Hữu Thủy có Thủy đến là cát , Thủy đi là hung.
Hoàng Tuyền : Sát tại Tân , Nhâm phương , Trên Nhâm không nên khai môn , phóng Thủy.
Tạo táng : Tốn sơn – Càn Hướng, Không nên dùng năm tháng ngày giờ Tị - Dậu – Sửu , Kim cục là phạm Tam sát hung.
3/ Chọn năm tháng ngày giờ cho cục .
a/Tọa Tốn – Hướng Càn , kiêm Thìn Tuất 3 phân.
Tháng Giêng ( Dần ) : Nhâm Ngọ bình, Đinh , Quý Mão ngoại hướng sát. 
Tháng 2 ( Mão ) : Ngày Bính, Canh, Nhâm – Thân tốt. 
Tháng 3 ( Thìn ) : Phạm Kiếm phong sát .
 Tháng 4 ( Tị ) : Tam sát hung không dùng.
Tháng 5 ( Ngọ ) : Ngày Bính , Canh, Nhâm – Thân tốt. Ngày Bính, Mậu , Canh, Nhâm – Dần thứ cát.
Tháng 6 ( Mùi ) : Ngày Bính , Canh, Nhâm – Thân tốt. Ngày Bính , Nhâm – Dần , cát.
Tháng 7 ( Thân ) : Bính , Nhâm – Thân , Bính , Nhâm – Tý, Thìn tốt. Các ngày Tuất cát.
Tháng 8 ( Dậu ) : Tam sát hung không dùng.
Tháng 9 ( Tuất ) : Phạm Kiếm phong sát .
Tháng 10 ( Hợi ) : Ngày Mậu , Canh – Ngọ thứ cát. Ngày Ất , Đinh , Tân – Mùi thứ cát. Ngày Quý mão hướng sát
Tháng 11 : Bính ,Mậu , Nhâm – Thìn tốt. Ngày Bính, Mậu , Canh, Nhâm – Thân tốt. Ngày Bính, Mậu , Canh, Nhâm – Dần thứ.
Tháng 12 ( Sửu ) : Tọa Tam sát an táng bất lợi.
4/ Khảo chính giờ cát hung định cục .
Tý – Tốt , Sửu – Hung , Dần –Bình , Mão – Bình . Thìn – Tốt , Tị - Hung, Ngọ - Bình. Mùi – Bình . Thân – Tốt , Dậu – Hung . Tuất – Bình, Hợi – Bình.
b/ Tọa Tốn – Hướng Càn , kiêm Tị Hợi 3 phân.
Nếu dùng năm tháng ngày giờ Thân – Tý – Thìn là phạm tam sát nên tránh.
Tháng Giêng ( Dần ) : Ất , Đinh,Tân , Quý – Dậu tốt, Mão thứ.
Tháng 2 ( Mão ) : Ngày Quý Mùi , Đinh Mùi bình. Bính , Canh , Nhâm – Dần hướng sát.
Tháng 3 ( Thìn ) : Phạm Kiếm phong sát .
 Tháng 4 ( Tị ) : Ất , Đinh,Tân , Quý – Dậu tốt, Ất , Đinh, Quý – Sửu thứ,
Tháng 5 ( Ngọ ) : Không có ngày tốt . Ngày Bính, Mậu , Canh, Nhâm – Dần Bình.
Tháng 6 ( Mùi ) : Ất , Đinh,Tân , Quý – Dậu tốt, Mão bình .
Tháng 7 ( Thân ) : phạm tam sát nên tránh.
Tháng 8 ( Dậu ) : Đinh , Quý – Sửu, Dậu tốt.
Tháng 9 ( Tuất ) : Phạm Kiếm phong sát .
Tháng 10 ( Hợi ) : Ất , Đinh,Tân , Quý – Mùi tốt. các ngày Mão bình.
Tháng 11 : Tọa Tam sát an táng bất lợi.
Tháng 12 ( Sửu ) : Ất , Đinh,Tân , Quý – Dậu tốt, Mão thứ.
4/ Khảo chính giờ cát hung định cục .
Tý – Hung , Sửu – Bình , Dần –Tốt , Mão – Thứ . Thìn –Hung , Tị - Bình , Ngọ - Tốt . Mùi – THứ . Thân –Hung , Dậu – Bình . Tuất – Tốt , Hợi – Thứ .
2/TỊ SƠN – HỢI HƯỚNG.
1/Kiêm Tốn Càn 3 phân.
Vòng địa bàn chính châm 120 phân kim : Tọa  Đinh Tị  – Hướng Đinh Hợi.
Vòng Thiên bàn Phùng châm 120 phân kim : Tọa  Canh Thìn  – Hướng Canh Tuất.
Tú độ : Tọa sao Dực 19  độ - Hướng sao Thất 17 độ.
Xuyên sơn 72 Long : Tọa  Tân Tị  – Hướng Đinh Hợi.
Thấu địa 60 Long : Tọa Ất Tị nạp âm thuộc Hỏa.
Độ tọa Huyệt : Ất Bình phân , Hỏa  độ.
Quẻ : Long thấu địa thuộc quẻ : Lôi Phong Hằng .
Dùng Cục : Hợi – Mão – Mùi , Mộc cục –  Ấn cục Cát.
Cục : Dần – Ngọ - Tuất ( Hỏa cục ) : Vượng cục Cát.
Cục :Thân – Tý – Thìn : Thủy cục , Tọa Tam sát hung.
Cục : Tị - Dậu – Sửu , Kim cục , Tài cục , thứ cát.
2/Kiêm Bính Nhâm 3 phân.
Vòng địa bàn chính châm 120 phân kim : Tọa  Tân Tị  – Hướng Tân Hợi.
Vòng Thiên bàn Phùng châm 120 phân kim : Tọa  Đinh Tị  – Hướng Đinh Hợi.
Tú độ : Tọa sao Dực 13  độ - Hướng sao Thất 12 độ.
Xuyên sơn 72 Long : Tọa  Ất Tị  – Hướng Tân Hợi.
Thấu địa 60 Long : Tọa Đinh Tị nạp âm thuộc Thổ.
Độ tọa Huyệt : Đinh Bình phân , Kim  độ.
Quẻ : Long thấu địa thuộc quẻ : Sơn Phong Cổ .
Dùng Cục : Hợi – Mão – Mùi , Mộc cục –  Ấn cục Cát.
Cục : Dần – Ngọ - Tuất ( Hỏa cục ) : Vượng cục Cát.
Cục :Thân – Tý – Thìn : Thủy cục , Tọa Tam sát hung.
Cục : Tị - Dậu – Sửu , Kim cục , Tài cục , thứ cát.
3/ Chân lịch số .
Tiết Bạch Lộ , Thái Dương đến Tị . Hội 2 phương Dậu , Sửu  đều cát .
Tiết Kinh Trập , Thái Dương đáo Hướng tốt.
Tiết Tiểu mãn : Thiên Đế đến Tị  tốt.
Khai môn : Nên Hợi hợp chất khố tốt.Phương Dậu cũng tốt.
Phóng Thủy : Nên dùng Quý phương  tốt. Tả Thủy đảo hữu tốt , Hữu Thủy đảo tả hung.
Hoàng Tuyền : Sát tại Càn , Nhâm phương .
Tạo táng : Tị sơn – Hợi Hướng, Không nên dùng năm tháng ngày giờ Thân – Tý – Thìn ( Thủy cục ) là phạm Tam sát hung.
Nên dùng Kỷ Tị, Nhâm Ngọ, Nhâm dần là Tam hợp kiêm Bính Lộc phất cự phú , quý hiển.
3/ Chọn năm tháng ngày giờ cho cục Tọa Tị – Hướng Hợi .
Tháng Giêng ( Dần ) : Đinh , Kỷ , Tân Quý – Dậu tốt, Mão thứ cát.
Tháng 2 ( Mão ) : Đinh , Kỷ , Tân Quý –Mão thứ cát. Các ngày Mùi thứ cát.
Tháng 3 ( Thìn ) : Tam sát hung không dùng.
 Tháng 4 ( Tị ) : Đinh , Kỷ , Tân Quý – Dậu, Sửu tốt .
Tháng 5 ( Ngọ ) : Không có ngày Thượng cát. Giáp, Mậu , Bính , Nhâm – Dần hướng sát.
Tháng 6 ( Mùi ) : Đinh , Kỷ , Tân, Quý – Dậu tốt . Mão thứ cát.
Tháng 7 ( Thân ) : Tam sát hung không dùng.
Tháng 8 ( Dậu ) : Đinh , Kỷ , Quý – Dậu, Sửu tốt .
Tháng 9 ( Tuất ) : Đinh , Kỷ , Tân ,Quý – Dậu, Sửu tốt .Các ngày Dần , Ngọ sát.
Tháng 10 ( Hợi ) : Xung phá Tị sơn hung.
Tháng 11 : Tam sát hung không dùng.
Tháng 12 ( Sửu ) : Đinh , Tân ,Quý – Dậu tốt . Các ngày Dần , Ngọ sát.
4/ Khảo chính giờ cát hung định cục .
Tý – Hung, Sửu – Bình , Dần –Cát , Mão – Cát. Thìn – Hung , Tị - Bình, Ngọ - Cát. Mùi – Cát . Thân – Hung, Dậu – Bình . Tuất – Cát , Hợi – Cát.
72 LONG HƯỚNG CÁT HUNG.
( Trích dịch từ sách THẬP NHỊ TRƯỢNG – Dương Quân Tùng).
Trong phần dưới đây , căn cứ vào Lục thập Hoa Giáp để định Ngũ hành cho Long. Ngũ hành cho Long xem trong Trạch nhật . Ví dụ Giáp Thìn , Giáp Tuất thì Hỏa, Thủy , Thổ , Kim, Mộc – Tức là nạp Âm Ngũ hành tất biết năm đó phát cát hay hung . Ví dụ Mộc Long , Mộc Hướng tất phát vào các năm Hợi – Mão – Mùi …Vì căn cứ vào 60 Hoa Giáp , nên hướng Mộc Long thì Long Mộc ; Hướng Hỏa Long thì Long Hỏa, phần này Âm Dương không quan trọng , chỉ nêu để biết mà thôi.
I.TỐN SƠN – CÀN HƯỚNG.
1/Tốn Sơn – Càn Hướng.
Kiêm Thìn Tuất 3 phân – Tên là Phục Khí Long.
 Phục Khí Long có khác lạ , việc khác lạ này ít người biết , có lúc quyền quý ngang triều đình , chẳng lâu thì đã bại . Long này được Cửu tinh nhập Miếu thì võ chức lừng danh . Nếu gặp Sơn , Thủy hung thì có bệnh ôn hoàng , tổn thương các loại .
Như hạ Huyệt 7 phân Tốn sơn – Tọa Nhâm Thìn – Hướng Nhâm Tuất – Là Thủy Long , Thủy Hướng . Nên có Thủy tụ giữa Minh đường mới cát , Minh đường mà Thủy đi thẳng tất hung.
Thủy xuất ra Đinh Mùi ( Mộ ) là đại cát , Mộc cục , Sinh hướng đa tử tôn , lộc tài đều vượng , tuổi thọ cao. Thủy ra Tân Tuất là Tuyệt xứ phùng Sinh cũng cát .
Nếu Thủy ra Khôn Thân là Tuyệt phương phá Sinh , xung Vượng lắm bệnh tật , con cháu sớm bại tuyệt , ứng hung vào các năm Thân – Tý – Thìn , Thủy ra nơi này không thể xem nhẹ mà dùng.
Nếu Thủy xuất ra Dần Giáp là Kim cục , Bệnh Hướng là bại tuyệt đa hung , cách này không nên dùng.
2/Tốn Sơn – Càn Hướng.
Chính Hướng – Tên là Tử Thụ Long .
Tử Thụ Long cung phúc quý vẹn toàn .Đinh xuất công khanh , bái tướng phong hầu. Long này mừng giận thất thường , lắm tài năng nhưng hung ác , nên có phú quý mà chẳng lâu dài , ngành trưởng và giữa được vượng ; người mạng Thủy , Thổ phát phú.
Bốn vị :  Quý nhân tại Dậu , Mã tại Ngọ, Lộc tại Càn Hợi , Lộc Mã tại Giáp tức là cùng chánh Lộc tương chiếu , uy nghi quan tinh , tại Tuất làm quan tinh , thừa Mã tại Tân , lại càn , cấn có phong sơn đẹp . Phối an Thủy lưu Tân Canh Khôn xuất Khố ra Đinh , làm Sinh Hướng , chủ anh em cập đệ đăng khoa , thiếu niên phát vinh hoa lỗi lạc , cách này ứng nghiệm rất nhanh.
Như hạ chính Tốn sơn – Đầu Tọa Tử Thụ- Hướng hiệp phước tinh , Kim hướng không biến . Theo sơn đầu Thủy Càn Hợi đến Nhâm xuất là Hỏa cục , Tuyệt Hướng , Thai phương , là Lộc Tồn tiêu Thủy phú quý , tuổi thọ cao , nhân đinh vượng.
Nếu Càn Hợi Nhâm Thủy lưu xuất ra Canh Dậu – Sinh Hướng , Thủy ra Thai , nếu có phú quý cũng không lâu , 24 năm thoái bại , nam nữ mê hoa đắm sắc , điên đảo thất thường , mọi việc khó đương . Năm Thân – Tý – Thìn thấy thoái bại.
3/Tốn Sơn – Càn Hướng.
Kiêm Hợi Tị 3 phân – Tên là Quan Dưỡng Long.
Còn gọi là Quan Khố Long , Long cư nơi quan lộc , có điền viên , sản nghiệp xung túc, nhân đinh hưng vượng, đất này gồm cả phú và công khanh . Long này được Cửu tinh nhập Miếu xuất võ chức , 2 đời vạn sự như ý , ngành trưởng và giữa vượng tướng.
Như hạ Huyệt 7 phân Tốn sơn – Tọa Ất Tị - Hướng Ất Hợi- Hỏa Long , Hỏa Hướng , Dương lai cùng thọ , Thủy lưu Tân Canh Khôn ra ở Mộ là Mộ cục , Sinh Hướng , Mộ Thủy lưu là thượng cát . con cháu quý hiển , đại vượng nhân đinh, 3-9 năm điền trang hưng vượng , kho lẫm xung túc . Năm Dần – Ngọ - Tuất sinh quý tử , con cháu 9 đời lương thiện , ấm no hạnh phúc .
Nếu Thủy lưu Nhâm Quý  xuất ra Càn – Là Tuyệt Hướng Tuyệt Thủy cũng được trung cát . vì xuất Lộc vị , khoa bảng trung bình , giỏi văn chương , chỉ xuất thày giáo, ngành y lý , bốc dịch giỏi . Nếu xuất ra Tân Tuất là hướng Tuyệt xứ phùng Sinh cũng đại cát lợi.
II/Tị Sơn – Hợi Hướng.
1/Kiêm Tốn Càn 3 phân – Tên là Thọ Sát Long.
Long cung Thọ Sát chẳng được hay.
Làm nhà an mộ lắm người hư,
Nếu có nhân đinh ngàn nhân khẩu.
Vài năm tuyệt diệt cũng bằng không.
Long này được Cửu tinh nhập Miếu thì phát lên suy liền , ở nơi khác còn khá .
Như hạ Huyệt 7 phân Tị sơn – Tọa Đinh Tị - Hướng Đinh Hợi – Thổ Long , Thổ Hướng , Dương lai Dương thụ . Như Thủy lưu từ Càn Hợi , Tân Tuất xuất ra Đinh Mùi – Là Tham Lang Thủy lai triều , xuất tại Mộ khố Đinh Mùi – Là Sinh Hướng , Mộc cục thượng cát .
Nếu chảy ra Tuyệt , Thai 1 đời phát rồi Tuyệt. Như Càn Hợi Thủy triều ra Cấn là Bệnh Hướng , Tuyệt Thủy lưu , phá cục chẳng lành , phải thay tên đổi họ mà sống , tranh tụng , bệnh tật , mọi ngành mọi nhà hung.
2/ Tị Sơn – Hợi Hướng.
Chính Hướng – Tên là Đức Hóa Long.
Đức Hóa Long , hiệu Quý Long, làm Quý cung tinh . Được Cửu tinh nhập Miếu, nhà cửa phúc lộc lâm môn , ngựa xe vạn chung . Long này chủ văn chương phát đạt , đời đời cập đệ đăng khoa, mọi ngành mọi nhà đều phát .
Như hạ Huyệt chính Tị sơn – Tọa Kỷ Tị - Hướng Kỷ Hợi – Là Mộc Long , Mộc Hướng , Dương lai Dương thọ , Thủy lưu từ Canh , Tân , Khôn xuất ra Đinh là thượng cát  vì Sinh Hướng , Mộ Thủy lưu của Mộc cục.
Nếu Giáp , Cấn , Quý , Nhâm Thủy triều về là đại quý cách . Tân làm mã, Canh làm cờ , Khôn ngự vệ . Nếu được cả cách như trên phú quý vẹn toàn , quan cao chức trọng , 6 năm đại phát . Năm Hợi – Mão – Mùi sinh quý tử . Chủ sự ôn hòa , 18 năm sinh quý hiển , 24 năm xuất Tam công, ngũ phúc lâm môn , 9 đời con cháu sang giầu.
Nếu Thủy xuất ra Giáp Mão , Cấn Dần , Quý Sửu – Là Kim cục , Bệnh Hướng thời phá cục , nghịch Long chi địa đại hung . Hướng này Thủy nên xuất ra Nhâm hay Tân làm Hỏa cục đại cát.
3/ Tị Sơn – Hợi Hướng.
Kiêm Bính Nhâm 3 phân – Tên là Ngự Vệ Long .
Kim tinh Ngự Vệ là cung quý nhân , vượng về văn võ và lộc vị, người táng ở cung vị này tài lộc xung mãn , chức tước gia phong . Được Long cách lớn , 9 đời hưng vượng , Long cách nhỏ cũng 5-7 đời hưng vượng hiển quý. Nếu Long tinh bị lạc độ 1 đời bại tuyệt .
Như hạ Huyệt 7 phân Tị sơn _ Tọa Tân Tị - Hướng Tân Hợi – Là Kim Long , Kim Hướng , cung Âm tụ Âm , Thủy lưu từ Càn Hợi , Quý Sửu đều quy về Nhâm Tý mà ra là Hỏa cục , Thai Thủy , Tuyệt Hướng – Là Lộc Tồn tiêu Thủy , Cứu bần Thủy pháp , đời đời xuất anh hào.
Hoặc Thủy xuất khố tại Đinh Mùi làm Mộc cục , Sinh Hướng là thượng cát , 3 năm phát lớn , các năm Tị - Dậu – Sửu sinh quý tử , 12 năm phát tài . nếu được cả Đế vượng, Trường sinh Thủy triều lai , chủ đại phú đại quý, hậu nhân vinh hiển 9 đời , nhân đinh đại vượng.
Nếu Thủy ra Khôn Thân , Canh Dậu là nghịch Long chi địa tất tuyệt. Hướng này kị nhất Thủy xuất khố Kim cục , Bệnh Hướng đa hung.
KẾT LUẬN : Theo địa hình loan đầu cụ thể tại khu vực này ta có 4 hướng để đặt mộ.
1/ Tọa Tốn – Hướng Càn.
Thủy ra Đinh Mùi . Mộc cục.
Thủy ra Mộ - lập Hướng Trường sinh, hữu Thủy đảo tả , qua Minh đường ra chính Khố Mộc cục. Gọi là : Tam phương điếu chiếu chính Sinh hướng , hợp Dương công tiến thần cứu bần Thủy pháp, Vượng Khứ nghinh Sinh, tất phú quý đến mau. Thư nói : Thập tứ tiến thần gia nghiệp vững, chủ vợ hiền con hiếu, phúc lộc đến cửa, phú quý toàn hai , các nhành đều phát.
Phân kim theo Chính châm Địa bàn.
1. Kiêm Thìn Tuất : Tọa Bính Thìn – Hướng Bính Tuất. ( 297 độ 5 ).
Tốn sơn – Càn Hướng , kiêm Thìn Tuất.
Dùng tọa Bính Thìn – Hướng Bính Tuất phân kim . Tọa sao Chẩn 13 độ - Hướng sao Khuê 5 độ , làm Mộc cục để luận . Mộc trường sinh tại Càn Hợi. Cục này Tiên Thiên phối Hậu Thiên ( Vì Tuất nạp Ly ) , mọi ngành đều đăng quang vinh hoa phồn thịnh. Nếu được phương Càn Trường sinh Thủy đáo Minh đường , tất xuất người công danh hiển đạt . Càn Thủy ứng Càn Hướng là Long tú Thiên mông đại cát , là tứ trụ mà Âm Dương đắc phối, tọa Lộc , nghinh Lộc – Lộc Mã triều nguyên chi cách . Ấy cũng là Âm Mộc Âm luận, phía sau bên hữu Lạc sơn thấp ,Dương Thủy hành Mộc Long, lại được trước mặt có sơn phong nhọn đẹp , chủ xuất trung lương về tướng. Đế vượng Thủy lai triều , chú phú quý vinh hoa , tốc phát nhân đinh , tăng tuổi thọ phát quan phát quý .
2. Kiêm Tị Hợi : Tọa Canh Thìn – Hướng Canh Tuất. ( 302 độ 5 )
Phân kim theo Trung châm Nhân bàn :
-Kiêm Tị Hợi : Tọa Đinh Tị - Hướng Đinh Hợi. 
Dùng tọa Canh Thìn – Hướng Canh Tuất phân kim. Tọa sao Chẩn 6,5 độ - Hướng sao Bích 8,5 độ , làm Mộc cục . Tốn và Thìn Thổ làm chồng , Tị cùng Bính Hỏa làm vợ. Chẳng hay phối hiệp ,Âm Dương sai phối , mất đi chủ quyền. nếu là chân Cục thì hậu Thác Lạc sơn chẳng hợp cao, trước mặt Tuất Càn phương cần nhọn đẹp . Sửu , Cấn , Dần phương có phong loan cao chiếu , nhà có kẻ đọc sách Thánh hiền . Chính phối Tham Lang tinh hiển đạt , văn chương thành danh .
Tuất càn Thủy nghịch triều tuổi thọ cao . Hợi Nhâm Thủy lai triều tài vượng . Sửu, Cấn , Dần , Giáp , Mão, Ất có Thủy chảy về , thực lộc vạn chung.
Nếu Thuỷ chảy về quy tụ tại Khôn thân xuất khứ có tên Lộc Tồn khứ tận – Áo gấm về làng , chỉ hiềm kiếp luận 48 năm mà thôi. Sau đó tu tạo lại cũng hưng thịnh lại . Cục này nên phóng Thủy  Khôn là cát nhất.
2/Tọa Tị - Hướng Hợi.
Thủy ra Tân Tuất. Hỏa cục.
Thủy ra Mộ - Hướng Càn Hợi là Tuyệt. Hữu thủy đảo tả ra chính khố Hỏa cục, là Tá Khố tiêu Thủy, Tuyệt xứ phùng sinh, Tự Sinh hướng hợp Dương công cứu bần, Tiến Thần Thủy pháp, không luận xung phá, chủ phú quý , thọ cao, nhân đinh đại vượng, phát phúc lâu dài.
Phân kim theo Chính châm Địa bàn.
3.Kiêm Tốn Càn : Tọa Đinh Tị - Hướng Đinh Hợi.( 327 độ 5 ).
Tị sơn – Hợi Hướng , kiêm Tốn Càn.
Dùng tọa Đinh Tị - Hướng Đinh Hợi phân kim. Tọa sao Dực 18 độ - Hướng sao Thất 17,5 độ , làm Âm Hỏa Cục . Cục này Âm Dương sai thố , chỉ phát phúc lộc nhỏ . Nếu Cục – Hướng chân đích , thì cần Quý Sửu thủy khuất khúc triều Minh đường , hay vượng đinh , tuổi thọ cao .
Cấn Dần Thủy lai triều ( Phương Sinh ) , đinh tài đều vượng . Thìn Tốn Thủy chảy đến , cùng phía sau cao dày sẽ phát phước . Tị , Bính phương có núi cao lớn lại được Quý phương có văn bút nhọn đẹp , chính là Hiệp Tham Lang chi vị , người sau thông minh hiếu học , văn chương hiển đạt , nếu không có Văn bút nhọn đẹp cũng được tiểu quý .
Ngọ , Đinh , Mùi , Khôn phương có núi cao lớn, cùng có Thủy lai triều , đồng quy Tân phương mà xuất Khố , chủ đinh tài đại vượng . Cục này vượng 48 năm thì thối bại . Cần trùng tu sẽ phục hưng lại . Cục này hợp Thủy phóng ra tại Tân phương ( Tuyệt Hướng – Thủy quy Mộ khố ) .
4.Kiêm Bính Nhâm : Tọa Tân Tị - Hướng Tân Hợi. ( 332 độ 5 ).
Phân kim theo Trung châm Nhân bàn :
Kiêm Bính Nhâm: Tọa Đinh Tị - Hướng Đinh Hợi.
Kiêm Bính Nhâm 3 phân – Tên là Ngự Vệ Long .
Kim tinh Ngự Vệ là cung quý nhân , vượng về văn võ và lộc vị, người táng ở cung vị này tài lộc xung mãn , chức tước gia phong . Được Long cách lớn , 9 đời hưng vượng , Long cách nhỏ cũng 5-7 đời hưng vượng hiển quý. Nếu Long tinh bị lạc độ 1 đời bại tuyệt .
Như hạ Huyệt 7 phân Tị sơn _ Tọa Tân Tị - Hướng Tân Hợi – Là Kim Long , Kim Hướng , cung Âm tụ Âm , Thủy lưu từ Càn Hợi , Quý Sửu đều quy về Nhâm Tý mà ra là Hỏa cục , Thai Thủy , Tuyệt Hướng – Là Lộc Tồn tiêu Thủy , Cứu bần Thủy pháp , đời đời xuất anh hào.
Hoặc Thủy xuất khố tại Đinh Mùi làm Mộc cục , Sinh Hướng là thượng cát , 3 năm phát lớn , các năm Tị - Dậu – Sửu sinh quý tử , 12 năm phát tài . nếu được cả Đế vượng, Trường sinh Thủy triều lai , chủ đại phú đại quý, hậu nhân vinh hiển 9 đời , nhân đinh đại vượng.
Nếu Thủy ra Khôn Thân , Canh Dậu là nghịch Long chi địa tất tuyệt. Hướng này kị nhất Thủy xuất khố Kim cục , Bệnh Hướng đa hung.


Thân ái. dienbatn.
Xem chi tiết…

LƯỢC KHẢO THẦN TÍCH CỦA LÀNG ĐỒNG TỈNH - TỔNG XUÂN CẦU - HUYỆN VĂN GIANG - TỈNH BẮC NINH ( NAY LÀ HƯNG YÊN ). BÀI 3.

2/27/2019 |
LƯỢC KHẢO THẦN TÍCH CỦA LÀNG ĐỒNG TỈNH - TỔNG XUÂN CẦU - HUYỆN VĂN GIANG - TỈNH BẮC NINH ( NAY LÀ HƯNG YÊN ). BÀI 3.


VÀI LỜI DẪN NHẬP : Năm vừa rồi , dienbatn có dịp ghé thăm  LÀNG ĐỒNG TỈNH - TỔNG XUÂN CẦU - HUYỆN VĂN GIANG - TỈNH BẮC NINH ( nay là HƯNG YÊN ). Đây là một vùng quê có nhiều di tích lịch sử rất lâu đời , có một dòng chảy văn hóa cuồn cuộn hàng ngàn năm và còn để lại nhiều chứng tích hiếm có. Trong bài này dienbatn dựa vào các bản dịch của Nguyễn Thị Măng - Viện Hán Nôm , các tư liệu trong cuốn "HUYỀN TÍCH ĐỒNG TỈNH XUÂN CẦU" của tác giả Trần Xuân Đạt cùng một số tư liệu khác trong quá trình điền dã. Xin trân trọng cảm ơn các tác giả. dienbatn.

PHẦN III. TÌM HIỂU THÊM VỀ LÀNG ĐỒNG TỈNH - TỔNG XUÂN CẦU - HUYỆN VĂN GIANG - TỈNH BẮC NINH ( NAY LÀ HƯNG YÊN ).


1.LỊCH SỬ.
Muốn tìm hiểu một cách sâu sắc và triệt để về lịch sử của làng Đồng Tỉnh, Xuân Cầu phải bắt đầu từ lịch sử của vùng đất đã từng và vẫn đang dung chứa nó, ở đây chính là vùng đất Nghĩa Trụ và con sông Nghĩa Trụ (Sông Tế Giang) trải hàng ngàn năm luân chuyển phù sa đắp bồi kiến tạo mà thành, và muốn tìm hiểu lịch sử phát triển của vùng đất Nghĩa Trụ ta phải bắt đầu từ lịch sử của những con người đầu tiên tạo lập nên vùng đất. 
Theo các tư liệu : " Nghĩa Trụ là một vùng đất lịch sử có từ lâu đời.
Thời các Vua Hùng vùng đất này thuộc Bộ Vũ Ninh.
Thời Bắc thuộc, thuộc đất Luy Lâu.
Sang thời Lý-Trần thuộc Phủ Siêu Loại.
Thời Lê thuộc Huyện Văn Giang, Phủ Thuận An Trấn Kinh Bắc.
Dưới thời Bắc thuộc, các thôn Xuân Cầu, Đồng Tỉnh, Thọ Vực thuộc Tổng Xuân Cầu, thôn Đại Tài thuộc Tổng Đại Tài, cả hai Tổng thuộc Huyện Văn Giang Phủ Thuận Thành Tỉnh Bắc Ninh.
Cuối năm 1946, bốn thôn nằm trên triền sông Nghĩa Trụ là Xuân Cầu, Đồng Tỉnh, Đại Tài, Thọ Vực sát nhập thành xã Nghĩa Trụ.
Tháng 10 năm 1947 Huyện Văn Giang cắt về Tỉnh Hưng Yên. Xã Nghĩa Trụ thuộc Huyện Văn Giang, gồm bốn thôn và một ấp là Xuân Cầu, Đồng Tỉnh, Thọ Vực và ấp Đồng Tỉnh. Làng Đồng Tỉnh có giai đoạn gọi Cửu Tỉnh, làng Xuân Cầu có giai đoạn gọi Hoa Cầu, Huê Cầu, Huê Kiều, ngày nay gồm ba thôn (Tam Kì, Phúc Thọ, Lê Cao) xã Nghĩa Trụ có thời kỳ gọi Tổng Xuân Cầu, xã Xuân Cầu. 
Đây là vùng đất hiếu học, đất khoa bảng, giàu truyền thống yêu nước và cách mạng.
Trải qua 26 đời vua Lê sơ, Lê trung hưng và triều Hậu Lê, làng Hoa Cầu có nhiều người thành danh trong đường khoa cử. Đáng lưu ý nhất là vào giai đoạn triều hậu Lê với các vị:
Đồng tiến sĩ Nguyễn Hằng thi đỗ khoa Bính Tuất (1586), làm quan tới chức Tham chính, tước Thái Bảo Thọ Kiền hầu (Khi nhà Mạc mất, ông cùng một số quan lại trong triều đình Mạc đều bị bắt).
Đồng tiến sĩ Nguyễn Tính đỗ Khoa Nhâm Thìn (1640), làm quan tới chức Thượng thư, tước Nghĩa hầu công.
Đồng tiến sĩ Nguyễn Hành, đỗ khoa Mậu Thìn (1688) làm quan tới chức Thượng thư, tước Dương Trạch Bá.
Đồng tiến sĩ Quản Danh Dương, đỗ khoa Canh Dần (1710), làm quan tới chức Thị lang, tước Hoa phái hầu.
Đồng tiến sĩ Nguyễn Quốc Dực, đỗ khoa Mậu Tuất (1718), làm quan tới chức phó Đô ngự sử. 
(1) Cử nhân Nguyễn Nhã Trực, đỗ khoa Bính Ngọ (1726), làm quan tri huyện Yên Dũng.
Đồng tiến sĩ Quản Dĩnh, đỗ khoa Đinh Mùi làm quan tới chức Đại học sĩ.
Chánh tiến sĩ Quản Đình Du, đỗ khoa Tân Hợi (1731) làm quan đến chức Hàn lâm thị chế.
(2) Cử nhân Nguyễn Viết Thục, đỗ khoa Mậu Ngọ (1735).
(3) Cử nhân Nguyễn Giản Kính đỗ khoa Quý Mão (1747) làm quan tri huyện Thanh Châu (Phú Thọ).
Đồng tiến sĩ Nguyễn Gia Cát, đỗ khoa Đinh Mùi (1787).
Hương cống Nguyễn Thủ Phác, đỗ khoa Kỷ Mão (1819).
(4) Cử nhân Tô Ngọc Huyền, đỗ khoa Ất Dậu (1825)
Đồng tiến sĩ Tô Trân, đỗ khoa Bính Tuất (1826), làm quan tới chức Tham tri bộ Lễ, toản tu Quốc sử quán. 6.Tô Trân (1781-?) người xã Xuân Cầu huyện Văn Giang phủ Thuận An (nay thuộc xã Nghĩa Trụ huyện Văn Giang tỉnh Hưng Yên). Cử nhân năm Ất Dậu niên hiệu Minh Mệnh thứ 6 (1825). Ông giữ các chức quan, như Hàn lâm viện Biên tu, Tuần phủ Định Tường (1826), Án sát Thái Nguyên, Thái bộc tự Thiếu khanh sung làm Toản tu tại Quốc sử quán, rồi thăng Tả tham tri Bộ Lễ. Sau ông xin cáo lão về quê.
(5) Cử nhân Nguyễn Đức Huy, đỗ khoa Giáp Ngọ (1834), làm quan Án sát Cao Bằng.
(6) Cử nhân Tô Ngọc Nữu, đỗ khoa Canh Tuất (1850), làm Giáo thụ.
(7) Cử nhân Nguyễn Mệnh Phương, đỗ khoa Nhâm Tý (1852)
Tô Đăng (con trai Tô Trân) đỗ Cử nhân năm 1867
Phó bảng Tô Huân đỗ khoa Mậu Thìn (1868) 
(8) Cử nhân Tô Ngọc Sướng, đỗ khoa Bính Tuất (1886)
(9) Cử nhân Đào Quản, đỗ khoa Tân Mão (1891)
Phó bảng Nguyễn Đạo Quán, đỗ khoa Mậu Tuất (1898)
Cử nhân Tô Nha, đỗ khoa Canh Tý (1900)
Bước sang thế kỷ 20, Xuân Cầu lại xuất hiện nhiều danh nhân văn hóa, điển hình là ông Nguyễn Công Hoan (1903), họa sĩ Tô Ngọc Vân (1906) ... 
Cũng vào những năm hai mươi của thế kỷ XX, Xuân Cầu lại xuất hiện một đội ngũ thanh niên còn rất trẻ, giàu lòng yêu nước căm thù giặc, cống hiến trọn đời mình cho Đảng, cho đất nước. Đó là các đồng chí: Tô Hiệu, Lê Văn Lương, Tô Chấn, Lê Giản, Tô Quang Đẩu.
Ngày nay có Đồng chí Giáo sư, Tiến sĩ Đại tướng Tô Lâm, ủy viên Bộ chính trị, Bí thư đảng ủy công an Trung ương, bộ trưởng Bộ công an."

2. VÀI NÉT VỀ DÒNG SÔNG NGHĨA TRỤ ( CÒN ĐƯỢC GỌI LÀ SÔNG TẾ GIANG).

"Nghĩa Trụ – một chi lưu/phân lưu của dòng sông Hồng (tức sông Cái/sông Mẹ/sông lớn) ngậm đỏ phù sa. Đây là một dòng sông cổ, do bồi lấp và trải qua thời gian mà dòng sông này có khúc chỉ còn như một con mương hoặc bị đứt đoạn. Tìm trong sử sách và nhất là khảo sát thực địa, chúng tôi thấy dòng sông Nghĩa Trụ được bắt nguồn từ sông Hồng mà điểm đầu phân lưu thuộc địa phận xã Bát Tràng, huyện Gia Lâm, Hà Nội. Năm 1958, khi xây dựng công trình thuỷ nông Bắc – Hưng – Hải, đoạn này được đào rộng và phải di chuyển một phần dân cư Bát Tràng vào trong làng, trong đó có ngôi chùa Kim Trúc. Như vậy, hiện nay đôi bờ đoạn đầu sông này (tức đoạn công trình thuỷ nông Bắc – Hưng – Hải) là cư dân của hai xã Bát Tràng và Kim Lan thuộc huyện Gia Lâm. 
Sau đoạn đầu phân lưu/chi lưu này thì dòng Nghĩa Trụ được chia làm hai nhánh lớn. Nhánh thứ nhất chảy vào địa phận tỉnh Hưng Yên, nhánh sông này bị đứt đoạn làm hai. Đoạn thứ nhất chảy qua địa phận Văn Giang, Xuân Cầu, Đồng Tỉnh rồi đổ vào sông Hoan Ái. Đoạn thứ hai ở phía nam tỉnh Hưng Yên, gọi là sông Cầu Cáp hoặc sông Điềm Xá/Mai Xá. Sông bắt đầu từ ngã ba thôn Ba Đông (Phan Sào Nam) chảy qua Cầu Cáp, xã Đoàn Đào (Phù Cừ), rồi chảy đến thôn Hà Linh, gặp sông Hồ Kiều và chảy thẳng xuống Mai Xá (Tiên Lữ). Nhánh thứ hai của dòng Nghĩa Trụ chảy vào địa phận Hà Nội, đi qua địa phận xã Kiêu Kỵ (huyện Gia Lâm) gọi là sông Cầu Chùa (vì ven sông có một ngôi chùa Minh Ngộ), chảy lên đến địa phận xã Đa Tốn (huyện Gia Lâm) được gọi là sông Đào Xuyên (tức sông Đào), theo hồi cố của các cụ cao niên thì ven sông đoạn thôn Đào Xuyên trước đây có trồng nhiều Đào, chảy qua địa phận thôn Lê Xá (xã Đa Tốn) thì hợp lưu với sông Đài Bi tại miếu Cầu Vương (dòng sông Đài Bi bị “chết” vào thế kỷ 18, nay chỉ còn dấu vết là dải đầm chạy dọc hai thôn Khoan Tế và Thuận Tốn thuộc xã Đa Tốn). Tương truyền xưa kia, nơi đây là ngã ba sông sầm uất đông vui. Nhân dân Đa Tốn còn truyền câu ca dao xưa nói về phong cảnh phồn thịnh:

Cầu Vương có chốn thanh nhàn
Có sông tắm mát có hàng nghỉ ngơi
Tháng tám thì đi xem bơi
Tháng hai xem hội, tháng mười đúc chuông

Sách Đại Nam nhất thống chí, Nhà xuất bản Khoa học – Xã hội, Hà Nội, 1971, tập 4, trang 83 cho biết:
“Sông Nghĩa Trụ ở cách huyện Gia Lâm 22 dặm về phía đông nam, do nguồn nước ruộng các xã Lê Xá, Phú Thị, Nông Vụ và Cổ Bi đổ xuống... Năm đầu niên hiệu Vĩnh Khánh triều Lê (1727), đê Cự Linh và các xã bị vỡ, triều đình sai Hữu thị lang bộ Lễ, tiến sĩ Hồ Phi Tích đôn đốc việc khai sông để thuỷ chế các lưu thông...”.
Dòng Nghĩa Trụ tiếp tục chảy qua địa phận xã Đông Dư (huyện Gia Lâm) đến đầu địa phận thôn Thạch Kiều (Thạch Cầu) xã Thạch Bàn (nay là phường Thạch Bàn, quận Long Biên) chỗ giao lưu với con đường thiên lý về xứ Hải Đông (Hải Dương, nay là đường quốc lộ số 5) thì được gọi là sông Cầu Bây. Cái tên Cầu Bây chắc là có muộn, vì rằng vào giữa thế kỷ 19, dòng sông này vẫn được gọi là Nghĩa Trụ. Văn bia đợt tu sửa cầu dưới thời Nguyễn Thiệu Trị thứ 6 (1846) hiện còn tại đình Cầu Bây có ghi:
“Trưởng làng, chức sắc cùng mọi người thôn Thạch Cầu, xã Cự Linh, tổng Cự Linh, huyện Gia Lâm, phủ Thuận An, tỉnh Bắc Ninh làm bài minh văn ghi lại sự việc. Ruộng đất của làng được phân chia bởi giữa sông Nghĩa Trụ, cầu cũ đã bị đổ. Vào ngày tháng năm Tân Sửu (1841) cùng sửa lại 10 bộ vì cầu đá. Cho đến mùa Hạ năm Bính Ngọ (1846) việc tu sửa hoàn thành, toàn dân mỗi người một chút bằng những tấm lòng đã gom được công đức...”.
Dòng sông tiếp tục chảy qua địa phận Nông Vụ, xã Hội Xá (nay là phường Phúc Lợi) đi ngược lên Lệ Mật, xã Việt Hưng (nay là phường Việt Hưng) rồi nhập vào dòng Thiên Đức (nay là sông Đuống). Đôi câu đối hiện còn tại chùa Lệ Mật (chùa Cổ Giao), nói về vị thế của ngôi chùa, đề rằng:

Đối diện Thường Sơn phiếu nhật nguyệt
Cận lâm Nghĩa thuỷ tẩy trần ai”
Nghĩa là:
Đối diện núi Thường khều nhật nguyệt
Gần sông Nghĩa Trụ rửa bụi trần

Núi Thường là núi gì? thì chưa có điều kiện bàn đến nhưng ở đây, chúng tôi muốn nói đến cái thuỷ danh Nghĩa Trụ và cũng là nói đến điểm kết của dòng chảy này, của nhánh thứ hai trên địa bàn huyện Gia Lâm và quận Long Biên thuộc Hà Nội.
Điểm qua một chút cơ bản về dòng chảy địa lý – dòng sông Nghĩa Trụ chẳng qua là cái cớ/cái mở đầu để tìm về quá khứ, tìm về vẻ đẹp muôn đời qua đúc kết của dòng chảy lịch sử. Đó chính là những giá trị có trong bản thân một vài di chỉ, di tích tiêu biểu bên dòng Nghĩa Trụ thuộc địa phận huyện Gia Lâm và quận Long Biên, thành phố Hà Nội.
Như trên đã đề cập, sông Nghĩa Trụ là dòng sông cổ, ngoài chức năng/nhiệm vụ tiêu/cấp nước của cư dân nông nghiệp trồng lúa nước thì nó còn là huyết mạch giao thông chính của người Việt cổ nơi đây. Chính hai bên dòng sông này, người Việt cổ đã từng sinh sống, tồn tại và phát triển cho đến ngày nay. Điều này được minh chứng qua kết quả các đợt khai quật khảo cổ học. Địa bàn xã Đa Tốn (Gia Lâm), dấu tích Đông Sơn phát hiện thấy trên một vùng đất khá rộng. Tại di tích “Nghè Cũ” giáp bờ phải sông Nghĩa Trụ, vào năm 1974 đã phát hiện một chiếc thạp đồng thau loại lớn ở độ sâu 30 cm. Khi mới phát hiện, lòng thạp đầy đất; đáy thạp có màu đen của than củi. Thạp còn khá nguyên lành, bề ngoài có màu vàng xám xen nhiều mảng rỉ xanh. Thạp cao 42 cm, đường kính miệng 44 cm, đáy thạp thu vào, đường kính 37 cm. Thạp có đôi quai kiểu mui thuyền. Trang trí trên thạp có 8 băng hoa văn nổi, gồm hai loại vạch: vạch đứng song song và văn tròn có chấm giữa và tiếp tuyến. Đây là hai loại hoa văn trang trí trên trống đồng, thạp đồng, vũ khí và các dụng cụ khác bằng đồng của văn hoá Đông Sơn. Trong khu vực “Nghè Cũ” còn thấy nhiều mảnh gốm thuộc giai đoạn Đường Cồ, Đông Sơn muộn có trang trí hoa văn khắc vạch chéo, song song hoặc in ô vuông... “Tầng văn hoá” ở đây còn thấy nhờ các mặt cắt của thùng lò, có chỗ dày trên dưới 1m. Niên đại của di tích này vào khoảng đầu Công nguyên. Theo dòng Nghĩa Trụ, chạy đến địa phận thôn Lê Xá, ở phía bờ phải chúng ta lại gặp một di chỉ “Nghè ông Hai”. Di chỉ này phát lộ một chiếc rìu đồng lưỡi cong có họng hình chữ nhật. Trên một mặt rìu trang trí nổi hoa văn ô trám lồng và vạch song song. Rìu có chiều dài 9,3 cm; rộng lưỡi 6,4 cm. ở giữa thân rìu có tra chốt hãm, lưỡi rìu có nhiều vết xước lớn, chứng tỏ rìu đã qua thời sử dụng nhiều. Ngoài rìu còn thấy một chiếc dáo đồng kiểu “búp đa”, dài 10 cm nhưng đã hỏng phần họng và mẻ hai rìa lưỡi. Các mảnh gốm cũng phát lộ nơi đây thuộc cùng loại với như ở “Nghè Cũ”.
Khoảng cách giữa di tích “Nghè Cũ” và “Nghè ông Hai”, ở sát bờ trái sông Nghĩa Trụ là di tích “Gốc Đề”. Nơi đây phát lộ hai chiếc dáo “búp đa” còn khá nguyên lành, thường thấy trong các mộ quan tài hình thuyền, niên đại thế kỉ 1-2 sau Công nguyên.
Cũng tại các di tích nêu trên bên dòng sông Nghĩa Trụ còn tìm thấy nhiều di vật của thời văn hoá kiểu Hán – Lục triều - Đường, thuộc 10 thế kỷ đầu Công nguyên. Đó là những di vật như gạch xây mộ kiểu “Hán” có văn hoa trám lồng nổi trên một cạnh, gốm “Hán” in ô trám lồng, đồ bán sứ, bình hũ gốm men rất độc đáo.
Như vậy, đôi bờ sông Nghĩa Trụ dấu tích văn hoá và lịch sử ở 10 thế kỷ đầu Công nguyên còn thấy khá nhiều. Điều đó chứng tỏ trên vùng đất ven sông Nghĩa Trụ có dấu tích hoạt động liên tục của con người. Ở thời đại Hùng Vương đã có nhiều xóm làng quần cư đông đúc. Đó chính là tiềm năng làm nên điểm sáng trong cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng mà bằng cứ là nghĩa quân của ba anh em họ Đào ở Lê Xá (Đa Tốn), rồi danh tướng Khoả Ba Sơn được thờ ở Xuân Đỗ Hạ (Cự Khối). Những bằng chứng vật chất ấy, những chiến công ấy vẫn được nhân dân ca ngợi, ghi lòng tạc dạ trở thành tấm gương soi, là niềm tự hào cho các thế hệ lưu danh, thờ phụng.
Dấu tích vật chất dưới thời Lý và Trần bên bờ sông Nghĩa Trụ cũng chỉ tìm thấy trong lòng đất ở các di chỉ khảo cổ học trải dài từ điểm đầu chi lưu của dòng sông Cái (sông Hồng) với hai bên bờ của địa phận xã Bát Tràng và Kim Lan, qua Kiêu Kỵ đến Đa Tốn. Bằng kết quả 3 đợt khai quật khảo cổ học tại khu vực bãi Hàm Rồng, xã Kim Lan vào năm 2001, 2003 và 2005 cho thấy: Di vật ở bãi Hàm Rồng rất phong phú, bao gồm tiền đồng, gạch ngói, vật liệu kiến trúc trang trí, dấu tích lò gốm, bàn xoay, con kê... Ngoài những di vật có từ thời Đường (thế kỷ 7 đến thế kỷ 10) thì nhiều và phổ biến là gốm thời Trần và Lê. Các nhà khai quật khảo cổ học kết luận nơi đây là nơi sản xuất gốm vào thế kỷ 13 – 14. Đó là một sự mở rộng phạm vi của trung tâm gốm Bát Tràng. Cũng tại các di chỉ khảo cổ học bên dòng Nghĩa Trụ được phát lộ vào những năm 1984 (di tích Nghè ông Hai) là cây tháp cao khoảng 50 cm có trang trí nổi ở khoảng giữa một hình phật bà quan âm ngồi trên toà sen và các hoa văn trang trí khác mang phong cách nghệ thuật Lý; rồi những phát lộ vào năm 1978 và năm 1982 tại di tích Nghè Cũ là những hiện vật gốm có trang trí hoa văn cánh sen với các thể loại gốm men nâu, âu gốm men ngọc, chậu và bát đĩa men ngà và rất nhiều những hiện vật khác, với các chủng loại khác nhau có phong cách nghệ thuật Trần. Như vậy với những phát hiện và kết quả khai quật khảo cổ học bên dòng sông Nghĩa Trụ như một khẳng định về giá trị to lớn của cái “Thuỷ danh” này là “nhịp cầu” giao lưu giữa các tiểu vùng miền ven sông nước của chốn Kinh bắc xưa hay nó là một huyết mạch giao thông rất quan trọng của khu vực nam phần tỉnh Bắc Ninh. Điều đó cũng quan trọng, nhưng vấn đề đặt ra là con sông tiêu/cấp nước này nó gắn liền với nghề nông, nghề buôn bán thương thuyền xuôi ngược để từ đó đưa ra nhận định về cách ứng xử của con người vùng ven sông nước này thông qua một vài di tích, lễ hội và những nghi thức cộng đồng tiêu biểu.

Như chúng ta được biết, cuộc kháng chiến chống quân Minh thắng lợi, triều đình nhà Lê lấy Nho giáo làm hệ tư tưởng chính thống và do vậy vào thế kỷ 15, phật giáo bị chính quyền hạn chế, ngôi chùa không còn điều kiện phát triển. Trước đó, trong cuộc chiến tranh xâm lược, giặc Minh đã tàn phá khá nhiều ngôi chùa. Và như thế, phật giáo bị đẩy lùi xuống hàng thứ yếu, ẩn mình nơi thôn dã. Sang thế kỷ 16, nhà Mạc đã mở đầu cho giai đoạn mới. Trên bình diện mỹ thuật, đó là thời kỳ mở đầu của nền nghệ thuật dân gian phát triển. Sự vươn lên của nền kinh tế, trong đó là sự phát triển của thương mại gắn với thương thuyền, với mặt nào đó, tư tưởng được cởi mở hơn, khiến cho các tôn giáo, tín ngưỡng có điều kiện phục hồi và phát triển. Ngôi chùa và các kiến trúc khác đương thời đã phát triển mạnh mẽ dọc theo các đầu mối giao thông đường sông. Trong những con đường giao thông ấy phải nói đến con sông Hồng cùng các chi lưu của nó mà một trong số các chi lưu ấy cũng không ngoại trừ dòng sông Nghĩa Trụ. Dọc theo bờ dòng sông này phải kể đến những ngôi chùa tiêu biểu như chùa Minh Ngộ (xã Kiêu Kỵ), chùa Đào Xuyên (xã Đa Tốn), chùa Cầu Bây (phường Thạch Bàn), chùa Lệ Mật (phường Việt Hưng) và nhiều ngôi chùa khác.....
...Rõ ràng vào thế kỷ 16, 17 với sự phát triển của thương thuyền buôn bán xuôi ngược từ trung tâm Luy Lâu về Kẻ Chợ/ Kinh đô Thăng Long đã cho ra đời câu ca dao ấy để phản ánh sự tấp nập buôn bán, sự giao lưu thông thương bằng đường thuỷ. Trên con đường từ Thăng Long về Dâu/Luy Lâu ấy thì rõ ràng muốn từ sông Nhị/sông Cái/sông Hồng đến sông Dâu tất phải qua sông Thiên Đức/sông Đuống và cả việc đi qua sông Nghĩa Trụ ra sông Đuống về sông Dâu hoặc qua sông Nghĩa Trụ về thẳng sông Dâu qua khu vực Phú Thị, Dương Xá, Lệ Chi (huyện Gia Lâm). ...
....Trong quá trình khảo sát thực địa trên địa bàn quận Long Biên, chúng tôi thấy rằng sông Nghĩa Trụ còn có các chi lưu nhỏ mà nay chỉ còn là con mương nhỏ hoặc dòng lạch, hoặc chỉ còn tồn tại trong ký ức của người dân địa phương. Những chi lưu nhỏ này tiêu nước từ các khu vực làng quê và những cánh đồng rồi đổ ra sông Nghĩa Trụ. Điều đáng chú ý là bên cạnh các dòng lạch ấy xuất hiện các di tích thờ Linh Lang. Đó là những ngôi đình Ngô, Cầu Bây (phường Thạch Bàn), Thổ Khối (phường Cự Khối), Nha, Trạm (phường Long Biên), Trường Lâm (phường Việt Hưng), Sài Đồng (phường Phúc Đồng)... Và, trong các lễ hội đó còn có những trò diễn, những nghi thức dân gian gắn với việc cầu mưa, cầu mùa của cư dân nông nghiệp ven bờ sông Nghĩa Trụ này. ...
Trích đăng từ cuốn sách "HUYỀN TÍCH ĐỒNG TỈNH XUÂN CẦU" của tác giả Trần Xuân Đat.

" Vùng đất Nghĩa Trụ bắt đầu được nhắc tới trong chính sử cùng sự xuất hiện của vị Kiến Quốc Vương Trần Tự Khánh, khi ông còn là chàng trai trẻ, tài ba của gia đình hào phú phủ Thiên Trường nhờ nghề chài lưới đánh bắt cá mà trở nên giàu có, vị tướng trẻ có tài năng quân sự, tổ chức các trận đánh chiến lược, chiến thuật tìm lập đại bản doanh cát cứ một vùng, mượn cơ hội triều đình nhà Lý lung lay, khủng hoảng trầm trọng đã chọn tướng tuyển quân dưới danh nghĩa giúp Thái tử Lý Hạo (Sảm) khôi phục kinh đô Thăng Long sau cuộc nổi loạn của Phạm Du trong đất Nghệ An khiến triều Lý nghiêng ngả....

Nghĩa Trụ khi ấy là vùng đất vừa được hình thành, khai phá, cải tạo sau công cuộc đại trị thuỷ của nhà Lý tiếp tục quai đắp, nối liền những đoạn đê bên tả ngạn sông Hồng, Nghĩa Trụ với hệ thống kênh ngòi dẫn nước tự nhiên, là cửa khẩu tiêu thoát úng lũ cho vùng đất cổ Tế Giang. Với mạng lưới giao thông thời kỳ đó chủ yếu bằng đường thuỷ lên rất thuận tiện cho việc di chuyển quân lương, thông thương buôn bán giữa dân các châu, lộ như lộ Hồng, lộ Khoái, với kinh thành Long Biên....
...Tháng 7 năm 1352 (Nhâm Thìn) Thiệu Phong thứ 12; Nguyên, năm Chí Chính thứ 12. Mưa lớn liên tục kéo dài nhiều ngày, dòng nước lũ theo sông Nghĩa Trụ dâng trào, các vùng đất trũng mới khai hoá ngập băng trong biển nước đỏ ngầu như máu, lúa má các xã thuộc đất Nghĩa Trụ chìm sâu dưới làn nước lụt. Nước từ thượng nguồn đổ về ngày thêm cuồn cuộn, dòng nước chảy xiết xoáy cuộn xói vào thân đê, lại thêm gió to, sóng lớn nối nhau dồn ép khiến đoạn đê hai xã Đại Bát (Bát Tràng) và xã Thổ Khối vỡ toang, toàn vùng Khoái châu, Hồng châu, đặc biệt ở phủ Thuận An, những gì còn lại trên vùng đất khả dĩ cao lần nữa lại bị cuốn trôi vào trong dòng nước lũ. Người và gia súc chết vì lũ cuốn nhiều vô kể. ...
...Sự kiện lớn đã đem lại lợi ích thiết thực cho cuộc dân sinh tới từng người dân trong xã bắt đầu từ năm 1958, Đảng, Chính phủ Việt Nam đã quyết định khởi công xây dựng công trình đại thuỷ nông Bắc Hưng Hải phục vụ công cuộc trị thuỷ cho một vùng rộng lớn đất đai châu thổ, và Bác Hồ đã dành nhiều tâm huyết cho công trình này trong ngày lễ khởi công 20 tháng 9 năm 1958, Bác Hồ đã phát biểu: "Ngày trước, dưới chế độ thực dân phong kiến, ba tỉnh Bắc Ninh, Hưng Yên và Hải Dương mười năm chín hạn, năm nào cũng đói kém, nhân dân cực khổ nghèo nàn. Từ ngày cách mạng thành công, kháng chiến thắng lợi, miền Bắc được hoàn toàn giả phóng, đời sống nhân dân ba tỉnh được cải thiện ít nhiều, nhưng vẫn còn nhiều ruộng thiếu nước cấy và thu hoạch vẫn bấp bênh. Nay Đảng và Chính phủ quyết tâm cùng nhân dân xây dựng công trình thuỷ lợi Bắc Hưng Hải để đưa nước vào ruộng cho đồng bào..." Theo lời Bác, đồng chí Phạm Văn Đồng, đồng chí Hà Văn Tấn cùng hàng vạn bộ đội, dân công, học sinh, sinh viên, cán bộ Trung ương và địa phương, các đoàn khách quốc tế và nhân dân Nghĩa Trụ cùng nhân dân trong các tỉnh bạn từ Gia Lương, Thuận Thành, Bắc Ninh sang, từ Gia Lộc, Bình Giang, Thanh Miện lên, từ Kim Động, Khoái Châu, Văn Giang đổ về với những công cụ đào đắp thô sơ, chủ yếu dùng sức người đã tiến hành khai thông, đào mới và nạo vét mở rộng dòng chảy hệ thống sông Nghĩa Trụ chỉ sau 7 tháng, đúng ngày 1 tháng 5 năm 1959 công trình được hoàn thành với khối lượng khổng lồ: Xây đúc 7.500 m3 bê tông, xây lát đá 226.000 m3, đào đắp gần 3 triệu m3 đất.., đánh dấu một bước tiến lớn trong công tác cải thiện cuộc sống mới cho nhân dân Nghĩa Trụ và nhân dân các tỉnh bạn có hệ thống Bắc Hưng Hải chảy qua trong công tác thâm canh gieo cấy, chủ động được nguồn nước tưới tiêu, tăng năng suất cây trồng."
Như vậy ta thấy rằng về mặt Phong thủy , con sông Nghĩa Trụ ( Còn gọi là sông Tế Giang ) đã làm nên phát tích một làng Khoa bảng cực kỳ phát triển theo chiều dài của lịch sử.
XEN THEO DÕI TIẾP BÀI 4. dienbatn.

Xem chi tiết…

LƯỢC KHẢO THẦN TÍCH CỦA LÀNG ĐỒNG TỈNH - TỔNG XUÂN CẦU - HUYỆN VĂN GIANG - TỈNH BẮC NINH ( NAY LÀ HƯNG YÊN ). BÀI 2.

2/22/2019 |
LƯỢC KHẢO THẦN TÍCH CỦA LÀNG ĐỒNG TỈNH - TỔNG XUÂN CẦU - HUYỆN VĂN GIANG - TỈNH BẮC NINH ( NAY LÀ HƯNG YÊN ). BÀI 2..


VÀI LỜI DẪN NHẬP : Năm vừa rồi , dienbatn có dịp ghé thăm  LÀNG ĐỒNG TỈNH - TỔNG XUÂN CẦU - HUYỆN VĂN GIANG - TỈNH BẮC NINH ( nay là HƯNG YÊN ). Đây là một vùng quê có nhiều di tích lịch sử rất lâu đời , có một dòng chảy văn hóa cuồn cuộn hàng ngàn năm và còn để lại nhiều chứng tích hiếm có. Trong bài này dienbatn dựa vào các bản dịch của Nguyễn Thị Măng - Viện Hán Nôm , các tư liệu trong cuốn "HUYỀN TÍCH ĐỒNG TỈNH XUÂN CẦU" của tác giả Trần Xuân Đạt cùng một số tư liệu khác trong quá trình điền dã. Xin trân trọng cảm ơn các tác giả. dienbatn.

Để tiếp tục tìm hiểu về vị nhân Thần , được 5 sắc phong ở bài 1, dienbatn xin trích đăng một phần trong cuốn  "HUYỀN TÍCH ĐỒNG TỈNH XUÂN CẦU" của tác giả Trần Xuân Đạt như sau : 
"Ngôi đình làng Đồng Tỉnh được khởi công xây dựng trên nền cung phủ cũ của Trần Tự Khánh, khi ông đóng quân doanh tại đây. Ngôi đình do cháu nội của Trần Trí là Trần Thân đứng ra chiêu mộ các tốp phu, thợ giỏi xây dựng, chạm khắc từ Sơn Nam Hạ về, tiền đình hướng về Đông, nơi dòng sông Nghĩa Trụ cuồn cuộn chảy. Thế đất này gọi thần long ấp noãn, là chốn cát địa, Thời lê thái tổ dụng binh, bên thành Điêu Diêu quân sư của Giang Hạo vẫn thường vượt sông sang đàm đạo cùng cha con Trần Đạo, Trần Trí. Nhân lần Trần Trí cùng cánh quân của Lê Hưng Quốc vây thành Điêu Diêu quyết đánh, vị quân sư này liền vận động Giang Hạo mở cửa thành ra hàng để tránh cho quân sĩ hai bên phải đổ thêm máu oan uổng. Ra hàng được Trần Đạo nể tình nghĩa xưa ra lệnh cho dân trong ấp đối đãi rất hậu với chủ tướng Giang Hạo cùng vị quân sư. Để trả ơn, trước ngày về nước, vị quân sư đã bí mật tìm và chỉ vẽ ra cho Trần Đạo chỗ huyệt đất tốt, tuy không giúp gia đình ông phát đế vương nhưng cũng giúp được dân trong ấp nhiều đời thịnh vượng, no ấm. Trần Đạo một phần do tuổi tác, một phần do hoàn cảnh binh biến chưa thể thực hiện, đành mật truyền lại cho con cháu, tính đến đời Trần Thân là được 4 đời, mới thực hiện được. Khi dựng đình, ông chủ ý cho mặt tiền quay hướng dòng sông, lưng tựa rừng lau sậy, lấy đó làm điểm tựa chính nuôi dưỡng thần mạch chủ (long thần) của làng. Liền ngay trước đình là hệ thống đầm nước liên hoàn xưa là nơi thao diễn, luyện tập thuỷ, bộ binh của Lại Linh. Trong đình phối thờ Phật, Mẫu theo nghi đúng mẫu đình thời Trần, cách bên kia đầm nước, về phía đông bắc của đình là điếm tuần đê của làng.
Năm Ất Mão, Hồng Phúc (1495) thứ nhất, khoảng vài ngày đầu tháng 3, dân trong làng Đồng Tỉnh nháo nhác với sự xuất hiện của vòi rồng trong đêm đến hút nước tại đầm ao trước cửa đình, vòi rồng cuốn theo một số gạch đá, cá tép, và cả những mảng thịt còn ròng ròng máu rơi xuống trước cửa điếm, tình trạng hoang mang, nơm nớp lo sự ôn dịch ập đến khiến mọi nhà trong làng lũ lượt đi mời bằng được thầy cúng về trừ tai hoạ, nhiều người trong làng đều đổ lỗi cho ngôi đình mới dựng vào nơi đất phạm, riêng một số hào phú, chức dịch làng muốn nhân cơ hội dậu đổ bìm leo, tung tin bịa đặt vu khống cho gia đình Trần Thân chôn bùa chú trù ếm dân làng, nhà nhà hợp nhau đòi đi báo quan. Chỉ đến khi nhà sư trụ trì ngôi chùa ven sông gặp nhà chức trách thì thầm chuyện đêm hôm trước mơ thấy thần nhân báo mộng có hổ tướng sắp về làng mọi chuyện mới được thu xếp ổn thoả, ngôi đình lại được quét dọn và mở rộng cửa chờ đón điềm lành sẽ đến. 
Giờ Tí ngày 14 tháng 3 khi mọi nhà đang yên trong giấc ngủ, trời đêm vần vũ từng đám mây hồng. Ánh trăng khuya vằng vặc toả xuống khu đầm như dát vàng, dát bạc trước cửa đình, đám hương binh đi tuần đêm cũng vừa về tới tiền sảnh, đang kháo nhau những chuyện ma quái, rùng rợn xảy ra ở các nơi, như chuyện mưa huyết ở vùng thượng lưu, rồi các chuyện thâm cung bí sử của chốn quan trường v.v... Bỗng nhiên tất cả như bị sét đánh, chết sững người trong giây lát khi một dải chớp sáng loà màu vàng rực rỡ, từ phía dòng sông lao thẳng vào phía điếm tuần như một vì sao sa. Tất cả đám tuần đinh bấy giờ đều hốt hoảng, không còn tin nổi vào bản thân mình nữa, họ cho rằng họ đang trong giấc mơ, vẻ tráng lệ của hiện tượng vừa diễn ra và họ vô tình được chứng kiến khiến họ xúc động thật sự, một vài người không nén nổi bật khóc rưng rức như bị ma ám khiến mọi người trong đình phải rủ nhau lén bỏ ngang phiên gác trốn về đóng kín cửa nằm nhà.
Sáng hôm sau sắc vàng của đám mây đêm trước còn tụ trên nóc điếm chưa tan hết, nhuộm sẫm một vùng sương, các vị thân hào chức dịch trong làng cho là điềm lạ sai gọi đám tuần binh đêm hôm trước đến tra hỏi cặn kẽ. Bán tín, bán nghi, đành bắt đám tuần binh vượt đầm sang dò xét phía điếm canh. Khi đám người này trở về thưa lại trong điếm chẳng có gì khác lạ, ngoài người ăn mày đang nằm ngủ ở đó cùng đứa trẻ mới sinh. Mọi người mới vỡ lẽ, lại nhớ lời dặn dò của sư ông khi trước, đám hào phú trong làng, dẫn đầu là Phan Định, rồi đến đoàn của Lê Thông nối nhau lên thuyền bơi sang sông, thấy tình cảnh hai mẹ người ăn mày như vậy, liền cho người dựng nhà cỏ ở ven sông, ngay cạnh điếm và đưa hai mẹ con họ sang trú ngụ bên đó, lại cấp tiền ăn và cho người thay nhau sang chăm sóc giúp đỡ hai mẹ con những ngày còn trứng nước kiêng khem. 


Đến khi đứa trẻ tròn 13 tuổi ((1508 - Mậu Thìn, [Đoan Khánh] năm thứ 4 [1508], (Minh Chính Đức năm thứ 3) - dienbatn ), vào một ngày tháng 8, vua Lê Uy Mục thả thuyền du ngoạn thăm thú các vùng dân cư quanh kinh thành, tháp tùng chuyến vi hành có hai vị ấu tướng là Thừa Nghiệp và Tử Mô khi ấy mới chừng 15, 16 tuổi được vua yêu chiều hết mức, luôn giữ bên cạnh mình. Thuyền rồng xuôi qua địa phận làng Bát đến Nghĩa Trụ rồi đến địa giới làng Hoa Cầu, Đồng Tỉnh thấy đời sống dân cư hai làng khá sung túc, làng xóm đông đúc, trù mật, liền hạ lệnh neo thuyền lên bộ thưởng ngoạn cảnh đồng quê. Đoàn hộ tống của vua vừa vượt qua triền dốc nhô lên mặt đê, gặp ngay đám trẻ chăn trâu của làng Đồng Tỉnh đang mải chơi đánh trận giả, gươm kiếm là những cành tre, cành trúc bẻ ven đê. Thấy đám người lạ, ăn mặc sang trọng gươm giáo sáng loà, lại có phèng la khua ầm ĩ xuất hiện bất ngờ, lũ trẻ sợ hãi bỏ chạy tán loạn, duy chỉ có thằng bé, mặt mũi lộ dị tướng vẫn đường hoàng đứng lại, gườm mắt ngó đám người lạ vừa thâm nhập vào lãnh địa của nó. Vua mới nhìn đã thấy cảm tình bèn quay qua đám hộ vệ sai triệu vào hỏi chuyện. Thấy đứa bé đối đáp lưu loát, vua liền cho hạ trại lập đồn ở đó rồi dẫn quân vào thẳng trong làng cho tập hợp dân chúng đến hỏi cho rõ đầu đuôi. Đám hào phú trong làng cử Lê Thông, Phan Định vào yết kiến và tâu rõ sự tình. Vua liền truyền lệnh triệu ngài vào đặt tên cho là Hương Chàng lang công. Dự định chờ dịp thử tài sẽ phong tước trọng.
Sau đó ít lâu, khoảng đầu tháng 10, có nạn giặc Hắc La La quấy nhiễu biên giới, vua cùng đoàn hộ giá cho vời ngài đi trận, ngài lấy cớ còn mẹ già nên không đi, vua không nghe, lệnh truyền phong cho ngài làm tiên phong tấn đại tướng quân, dẫn hơn 234 người cùng làng theo quân phá giặc, vua lại thưởng voi chiến cho ngài dẫn đầu đoàn quân. Trận này ngài lập được công lớn giữ yên bờ cõi.
Chiến thắng trở về, vua cho quân về Đồng Tỉnh mở tiệc ăn mừng, vua quan cùng nhau xướng hoạ đối ẩm, đến quá trưa, phần vì đường xá xa xôi vất vả, phần vì còn trẻ tuổi lại uống quá nhiều ban thưởng chúc tụng, ngài say đi nằm trong cung và hoá tại đó.
Vua thương xót sắc lệnh cho dân trong làng tu sửa cung sở làm lăng miếu thờ ngài tại đó, lại ban cho 500 quan tiền làm hương hoả tế tự hai mùa xuân thu, cho nơi đây làm ấp thang mộc, miễn binh lương sưu dịch. Bao phong mĩ tự cho ngài là Thượng đẳng phúc thần, phong là Tiền phong mộ tấu Trung quân, tặng Nguyên soái Đại tướng quân, hoàn liệt, đoan túc, Hương Chàng lang Thượng đẳng phúc thần.
Dân làng Đồng Tỉnh nhớ ơn ngài đã vinh danh và đem nghề trồng thuốc lào về cho bản thôn, nhân dịp đó đã góp công, của tu sửa lại ngôi đình làm nơi dân làng chung thờ ngài, để tưởng nhớ vùng đất quê cha, đất tổ của ngài, dân làng đã tâu xin triều đình được chở những tấm đá xanh do thợ mạn Thanh Hoá chế tác đem về làm bậc tam cấp trước cửa đình.
Chùa làng Đồng Tỉnh xây dựng từ thời Trần, được tu bổ lại trong giai đoạn này nhờ sự việc khi mẹ con vị thần hoàng làng phiêu dạt đến đất Đồng Tỉnh, nhà sư trụ trì có công báo cho dân làng biết việc ngài ứng mộng xuất hiện, dân làng nhớ ơn xin phép nhà chùa cho đúc chuông và sửa sang lại cho ngôi chùa thêm khang trang, ruộng chùa từ đấy thường xuyên được mọi người trong làng chăm sóc, hiến tặng và cầy cấy lấy tiền phục vụ hương hoả thờ phật mẫu. "

..." Năm Kỷ Dậu (1429) đất nước sạch bóng quân giặc, tháng 2, triều đình lập phép chia ruộng và cho thao diễn quân thuỷ bộ ở 5 đạo, mỗi đạo chia 5 phiên, lấy một phiên làm nhiệm vụ đồn thú bảo vệ kinh sư còn 4 phiên cho về quê quán sinh sống sum họp cùng gia đình. Giai đoạn này Vùng đất Nghĩa Trụ được đổi thành Xuân Cầu và làng Hoa Cầu được đổi thành Huê Cầu. 
Ở Nghĩa Trụ, ruộng đất được chia cấp cho các quân giải ngũ trở về lấy từ quỹ đất chung của các hương xã, chủ yếu là ruộng của các quan lại thân vương triều cũ đã bị bỏ hoang hoá và thêm một phần đất mới ở các bãi bồi ven rừng lau sậy. 
Nghề canh cửi ở Huê Cầu trở lại thời kỳ phát triển rầm rộ, các bãi hoang ven sông lần lượt được phủ xanh màu dâu lá, xóm thôn ngày đêm rộn rã tiếng quay tơ suốt chỉ, có thêm lực lượng quân binh giải ngũ về làng góp công sức, xóm thôn thêm trù phú. Thương thuyền các nơi nườm nượp kéo về, bến thuyền Huê Cầu mang dáng dấp của một khu chợ sầm uất với người mua kẻ bán tấp nập, các mặt hàng lâm thổ sản và sản vật địa phương được trao đổi phong phú, đa dạng. Lại thêm lệnh trưng thu vải thâm của Huê Cầu từ triều đình sắc xuống làm lễ vật tiến cống sang Trung Quốc, nghề nhuộm thâm ở đây bắt đầu được phát triển theo diện rộng, không còn là sản phẩm độc quyền của một vài dòng họ nữa, cả làng Huê Cầu cùng bắt tay tham gia vào từng công đoạn nhuộm, phơi, sấy để cho ra đời những tấm vải nâu tươi bền.

Chàng đi trấn chốn phương xa
Nhớ chăng dải đất Cầu Huê quê mình
Bến trăng sóng nước lung linh
Tấm nâu thiếp nhuộm tình riêng Huê Cầu. 

Ở Đồng Tỉnh, năm Mậu Thìn tức năm 1508 đời vua Lê Uy Mục (Lê Uy Mục (chữ Hán: 黎威穆; 5 tháng 5, 1488 – 1 tháng 12, 1509), đôi khi còn gọi là Mẫn Lệ công (愍厲公), là vị hoàng đế thứ tám của nhà Lê sơ trong lịch sử Việt Nam. Ông được xem là một vị Hoàng đế tàn bạo và hoang dâm, nổi tiếng là một bạo chúa, người đời gọi là Quỷ vương (鬼王)- dienbatn ) , với sự góp mặt 635 nhân khẩu của 9 dòng họ lớn, nhờ có giống cây lạ được du nhập vào địa phương theo bước chân đoàn quân 234 người cùng Chàng Lang tướng quân đi đánh nước Hắc La La chiến thắng trở về đem trồng thử trên đất bãi Đồng Tỉnh khi hút có vị đượm, say và thơm hiếm có, rất quyến rũ. Nhờ vào giống thuốc mới, đời sống của dân trong làng thay đổi rõ rệt, sản lượng trồng ra không đủ cung cấp cho khách phương xa đến tìm mua, thuốc lào Đồng Tỉnh theo các thương thuyền toả đi khắp tứ trấn, cây thuốc lào ở Đồng Tỉnh trở thành đặc sản địa phương. "

Tìm trong ĐẠI VIỆT SỬ KÍ TOÀN THƯ , dienbatn thấy những dòng sau có liên quan :  " Đinh Mão, [Thiên Đức] năm thứ 4 [547], (Lương Thái Thanh năm thứ 1).  Mùa xuân, tháng giêng, ngày mồng 1, nhật thực.  Triệu Quang Phục cầm cự với Trần Bá Tiên, chưa phân thắng bại.  Nhưng quân của Bá Tiên rất đông, Quang Phục liệu thế không chống nổi bèn lui về giữ đầm Dạ Trạch .  Đầm này ở huyện Chu Diên, chu vi không biết bao nhiêu dặm, cỏ cây um tùm, bụi rậm che kín, ở giữa có nền đất cao có thể ở được, bốn mặt bùn lầy, người ngựa khó đi, chỉ có thể dùng thuyền độc mộc nhỏ chống sào đi lướt trên cỏ nước mới có thể đến được.  Nhưng nếu không quen biết đường lối thì lạc không biết là đâu, lỡ rơi xuống nước liền bị rắn độc cắn chết.  Quang Phục thuộc rõ đường đi lối lại, đem hơn 2 vạn người vào đóng ở nền đất trong đầm, ban ngày [17b] tuyệt không để khói lửa và dấu người, ban đêm dùng thuyền độc mộc đem quân ra đánh doanh trại của quân Bá Tiên, giết và bắt sống rất nhiều, lấy được lương thực để làm kế cầm cự lâu dài.  Bá Tiên theo hút mà đánh, nhưng không đánh được.  Người trong nước gọi là Dạ Trạch Vương.
Mùa đông, tháng 11, ngày 20, tham tướng nhà Minh là Trần Trí đem quân các vệ Giao Châu cùng ngụy binh, gồm hơn 10 vạn tên đánh sát đến ải Kính (có sách chép là Kình) Lộng , sách Ba Lẫm. Vua họp các tướng bàn rằng: "Quân giặc nhiều, quân ta ít, nhưng quân giặc mệt, quân ta nhàn. Binh pháp có nói được hay thua là ở tướng chứ không phải ở quân nhiều hay ít, nay quân giặc tuy nhiều, nhưng ta đem quân nhàn đợi đánh  quân mệt mỏi, chắc chắn sẽ đánh bại chúng". Đến đêm, vua chia quân đánh úp doanh trại giặc. Quân ta đánh trống reo hò xông tới, phá được bốn doanh trại giặc, chém được hơn ngàn thủ cấp. Sau Trí khinh vua ít quân, lại phá núi mở đường để tiến đánh. Vua ngầm phục kích ở đèo Ống  để đợi giặc. Đến trưa, Trí quả nhiên đem quân đi theo đường núi đến. Quân phục hai bên xông ra, đánh bại giặc. Quân Trí phải rút. Nhưng đúng lúc ấy. Ai Lao đem 3 vạn quân và 100 thớt voi thình lình tới doanh trại của vua phao tin là cùng hợp sức với vua để đánh [8b] giặc. Vua tin lời họ, không phòng bị. Đến nửa đêm, bị họ đánh úp. Vua phải đích thân đốc chiến, suốt từ giờ Tý đến giờ Mão, đánh tan bọn Ai Lao, chém hơn 1 vạn thủ cấp, bắt được 14 con voi, thừa thắng truy kích liền 4 ngày đêm, đuổi đến tận sào huyệt của bọn chúng rồi về."

Như vậy ta thấy trong THẦN TÍCH XÃ ĐỒNG TỈNH , TỔNG XUÂN CẦU, HUYỆN VĂN GIANG , TỈNH BẮC NINH ( Nay là HƯNG YÊN ) do Hàn lâm viện, Đông các đại học sĩ Nguyễn Binh phụng soạn có sự nhầm lẫn như sau:
Năm ấy bỗng có giặc phương Bắc kéo sang ( Tức giặc AiLao ) . Chúng tính chuẩn bị lương , tiếm xưng là ngụy tướng , chiếm giữ địa giới các châu , cướp bóc quấy nhiễu dân cư . Biên giới có tin cấp báo , vua nghe vô cùng lo lắng . "
Thực ra có tới 2 lần  Hương Chàng lang công theo Vua đi đánh giặc : Một lần đánh giặc Tàu ở Vận Đồn và một lần đánh giặc Hắc La La ở AiLao và lần này mang được giống cây thuốc Lào về trồng trên đất Đồng Tỉnh.

PHẦN II.  DI TÍCH LĂNG MỘ CỦA NGUYÊN THÁNH NGHĨA MẪU NGUYỄN THỊ MINH.





Theo như Thần phả viết : " Khi ấy ở trang An Trường , Huyện Lương Giang , Trấn Thanh Hoa có vị tù trưởng họ Lê tên Hồng , lấy người cùng ấp là bà Nguyễn Thị Minh. Vợ chồng kết tóc xe tơ , loan phượng sánh đôi đã được 5,6 năm , cảnh nhà nghèo khó , không biết dựa vào đâu để sống , chỉ biết lên rừng kiếm củi đổi gạo để sống qua ngày . Bấy giờ ông Hồng đã ngoài 50 tuổi , vợ cũng đã 40 tuổi, duy hận nỗi mãi vẫn chưa có con .Từ đó ông bà luôn làm việc thiện , tu nhân tích đức , việc ác dù nhỏ cũng không làm ."
" Bà đi thẳng tới trang Đồng Tỉnh vào nghỉ tại xứ  Điếm trong ấp. Nửa đêm hôm đó ( tức giờ Tý ngày 14/3 ) , khi đã đủ ngày đủ tháng , bà liền sinh hạ một cậu con trai . Lúc ấy trên trời có một đám mây vàng như dải lụa giáng thẳng xuống nơi bà sinh , nơi ấy sáng rực lên như đuốc chiếu, nhân dân trong ấp ai ai cũng đều thấy và cho là chuyện lạ. Ngày hôm sau nhân dân và các cụ phụ lão đến thăm , thấy bà sinh được một cậu con trai , mặt mũi khôi ngô, trán hổ mặt rồng , trên đầu có một đám lông màu đen khác hẳn người thường . Khi ấy ở trang Đồng Tỉnh có 2 nhà hào phú tuổi ngoài 70 ( Một họ Phan tên Định , một họ Lê tên Thông ) , bỏ tiền của cho người dựng một ngôi nhà cỏ ven xứ ấp , xứ ấy nơi bà sinh con và giao cho bà ở , rồi 2 ông cấp tiền nuôi dững . Ngày tháng tho đưa , mẹ con nuôi nhau . Đến năm 3 tuổi ngài thân hình cao lớn , sức khỏe hơn hẳn người thường . Đến khi lên 7 tuổi  trí dũng hơn hẳn người thường , có tài làm tướng . Ngày ngày thường lấy tre , trúc làm kiếm , làm gậy , chơi đánh trận cùng lũ trẻ con làng bên , lũ trẻ con trong ấp cùng thách đấu , bọn chúng sợ ngài không dám đối địch , mọi người cho là Phúc trùng lai , thực là một bực phi thường vậy."

Trích từ Làng Đồng Tỉnh .( https://langxuancau.blogspot.com/2013/03/phan-3-giai-oan-phat-trien-thoi-nha.html)

" Ngôi đình làng Đồng Tỉnh được khởi công xây dựng trên nền cung phủ cũ của Trần Tự Khánh, khi ông đóng quân doanh tại đây. Ngôi đình do cháu nội của Trần Trí là Trần Thân đứng ra chiêu mộ các tốp phu, thợ giỏi xây dựng, chạm khắc từ Sơn Nam Hạ về, tiền đình hướng về Đông, nơi dòng sông Nghĩa Trụ cuồn cuộn chảy. Thế đất này gọi thần long ấp noãn, là chốn cát địa, Thời lê thái tổ dụng binh, bên thành Điêu Diêu quân sư của Giang Hạo vẫn thường vượt sông sang đàm đạo cùng cha con Trần Đạo, Trần Trí. Nhân lần Trần Trí cùng cánh quân của Lê Hưng Quốc vây thành Điêu Diêu quyết đánh, vị quân sư này liền vận động Giang Hạo mở cửa thành ra hàng để tránh cho quân sĩ hai bên phải đổ thêm máu oan uổng. Ra hàng được Trần Đạo nể tình nghĩa xưa ra lệnh cho dân trong ấp đối đãi rất hậu với chủ tướng Giang Hạo cùng vị quân sư. Để trả ơn, trước ngày về nước, vị quân sư đã bí mật tìm và chỉ vẽ ra cho Trần Đạo chỗ huyệt đất tốt, tuy không giúp gia đình ông phát đế vương nhưng cũng giúp được dân trong ấp nhiều đời thịnh vượng, no ấm. Trần Đạo một phần do tuổi tác, một phần do hoàn cảnh binh biến chưa thể thực hiện, đành mật truyền lại cho con cháu, tính đến đời Trần Thân là được 4 đời, mới thực hiện được. Khi dựng đình, ông chủ ý cho mặt tiền quay hướng dòng sông, lưng tựa rừng lau sậy, lấy đó làm điểm tựa chính nuôi dưỡng thần mạch chủ (long thần) của làng. Liền ngay trước đình là hệ thống đầm nước liên hoàn xưa là nơi thao diễn, luyện tập thuỷ, bộ binh của Lại Linh. Trong đình phối thờ Phật, Mẫu theo nghi đúng mẫu đình thời Trần, cách bên kia đầm nước, về phía đông bắc của đình là điếm tuần đê của làng.

Năm Ất Mão, Hồng Phúc (1495) thứ nhất, khoảng vài ngày đầu tháng 3, dân trong làng Đồng Tỉnh nháo nhác với sự xuất hiện của vòi rồng trong đêm đến hút nước tại đầm ao trước cửa đình, vòi rồng cuốn theo một số gạch đá, cá tép, và cả những mảng thịt còn ròng ròng máu rơi xuống trước cửa điếm, tình trạng hoang mang, nơm nớp lo sự ôn dịch ập đến khiến mọi nhà trong làng lũ lượt đi mời bằng được thầy cúng về trừ tai hoạ, nhiều người trong làng đều đổ lỗi cho ngôi đình mới dựng vào nơi đất phạm, riêng một số hào phú, chức dịch làng muốn nhân cơ hội dậu đổ bìm leo, tung tin bịa đặt vu khống cho gia đình Trần Thân chôn bùa chú trù ếm dân làng, nhà nhà hợp nhau đòi đi báo quan. Chỉ đến khi nhà sư trụ trì ngôi chùa ven sông gặp nhà chức trách thì thầm chuyện đêm hôm trước mơ thấy thần nhân báo mộng có hổ tướng sắp về làng mọi chuyện mới được thu xếp ổn thoả, ngôi đình lại được quét dọn và mở rộng cửa chờ đón điềm lành sẽ đến. 
Giờ Tí ngày 14 tháng 3 khi mọi nhà đang yên trong giấc ngủ, trời đêm vần vũ từng đám mây hồng. Ánh trăng khuya vằng vặc toả xuống khu đầm như dát vàng, dát bạc trước cửa đình, đám hương binh đi tuần đêm cũng vừa về tới tiền sảnh, đang kháo nhau những chuyện ma quái, rùng rợn xảy ra ở các nơi, như chuyện mưa huyết ở vùng thượng lưu, rồi các chuyện thâm cung bí sử của chốn quan trường v.v... Bỗng nhiên tất cả như bị sét đánh, chết sững người trong giây lát khi một dải chớp sáng loà màu vàng rực rỡ, từ phía dòng sông lao thẳng vào phía điếm tuần như một vì sao sa. Tất cả đám tuần đinh bấy giờ đều hốt hoảng, không còn tin nổi vào bản thân mình nữa, họ cho rằng họ đang trong giấc mơ, vẻ tráng lệ của hiện tượng vừa diễn ra và họ vô tình được chứng kiến khiến họ xúc động thật sự, một vài người không nén nổi bật khóc rưng rức như bị ma ám khiến mọi người trong đình phải rủ nhau lén bỏ ngang phiên gác trốn về đóng kín cửa nằm nhà.
Sáng hôm sau sắc vàng của đám mây đêm trước còn tụ trên nóc điếm chưa tan hết, nhuộm sẫm một vùng sương, các vị thân hào chức dịch trong làng cho là điềm lạ sai gọi đám tuần binh đêm hôm trước đến tra hỏi cặn kẽ. Bán tín, bán nghi, đành bắt đám tuần binh vượt đầm sang dò xét phía điếm canh. Khi đám người này trở về thưa lại trong điếm chẳng có gì khác lạ, ngoài người ăn mày đang nằm ngủ ở đó cùng đứa trẻ mới sinh. Mọi người mới vỡ lẽ, lại nhớ lời dặn dò của sư ông khi trước, đám hào phú trong làng, dẫn đầu là Phan Định, rồi đến đoàn của Lê Thông nối nhau lên thuyền bơi sang sông, thấy tình cảnh hai mẹ người ăn mày như vậy, liền cho người dựng nhà cỏ ở ven sông, ngay cạnh điếm và đưa hai mẹ con họ sang trú ngụ bên đó, lại cấp tiền ăn và cho người thay nhau sang chăm sóc giúp đỡ hai mẹ con những ngày còn trứng nước kiêng khem. "
" Nằm trong quần thể kiến trúc chung của hệ thống đền, đình xây dựng cùng thời điểm, theo phong thuỷ ở vị trí trung tâm giữa đền hoá và đền sinh. Nơi khi trước gặp ngài (thần Hoàng), vua đã cho hạ kiệu dừng chân và vời dân làng đến hỏi thăm sự tình về ngài, điều trùng lặp là khi mẹ ngài từ Thanh Hoá trở về, cũng ngồi nghỉ tại nơi đây sau một chặng hành trình mỏi mệt và nhận được tin ngài đã mất, bà vật vã khóc than thương tiếc rồi ngay đêm đó bà đã nhảy xuống giếng Xá tuẫn tiết, bên đền này cũng có một cái giếng kè đá tục gọi giếng Bà Cua, dân làng sau khi tu bổ đổi tên gọi là đền Bà Cua, lấy nơi đó làm chỗ thờ bà. Mộ bà được táng ở gò đất nổi giữa đầm nước, phía sau đền thờ ngài tục gọi mả Mẫu. Đền thờ Bà Cua từ đó được dân làng lấy làm nơi đón tiếp thi thể những người làng khi chết ở xứ ngoài đưa trả về bản quán."
Khu Lăng mộ của NGUYÊN THÁNH NGHĨA MẪU NGUYỄN THỊ MINH là mẹ của Thần Hoàng làng Đồng Tỉnh , xưa kia là mộc cái gò nhỏ nhô cao ở bên rìa cánh đồng , xung quanh là ao nước . Sau này người ta dần dần lấp ao và làm nhà tràn ra xung quanh khu Lăng mộ.Có rất nhiều tai họa cho những gia đình lấn chiếm đất của khu Lăng mộ này để làm nhà. dienbatn đã khôi phục những câu đối ở 2 bên cổng và những dòng chữ viết rất xấu trên Lăng mộ của Nguyên Mẫu trên chất liệu đá granít.




Riêng đôi câu đối viết tại cổng khu Lăng mộ khá thú vị.





Viết lại đôi câu đối như sau : 


CÂU ĐỐI TẠI CỔNG MỘ NGUYÊN THÁNH NGHĨA MẪU.
萱花葬此方
椿樹歸何處
huyên hoa táng thử phương
xuân thụ quy hà xứ.
Huyên Hoa biểu thị cho mẹ. 
萱 huyên
Cỏ huyên. Một tên là vong ưu 忘憂, lại gọi là nghi nam 宜男 hoa lá đều ăn được cả.
Kinh Thi 詩經 có câu yên đắc huyên thảo, ngôn thụ chi bối 焉得萱草, 言樹之背 sao được cỏ huyên, ở sau nhà phía bắc, tức là hoa này vậy. Nhà phía bắc là chỗ đàn bà ở, vì thế gọi mẹ là huyên đường 萱堂.
花 hoa
Hoa, hoa của cây cỏ. Như cúc hoa 菊花 hoa cúc.
Tục gọi các vật lang lổ sặc sỡ như vẽ vời thuê thùa là hoa. Như hoa bố 花布 vải hoa.
Danh sắc phiền phức cũng gọi là hoa. Như hoa danh 花名 một bộ có nhiều tên.
Nốt đậu. Trẻ con trồng đậu gọi là chủng hoa 種花, lên đậu mùa gọi là thiên hoa 天花.
Hao phí. Như hoa phí 花費 tiêu phí nhiều.
Nhà trò, con hát.
Năm đồng tiền gọi là một hoa.
Xuân thụ biểu thị cho cha.
椿 xuân, thung
Cây xuân. Ông Trang Tử 莊子 nói đời xưa có cây xuân lớn, lấy tám nghìn năm làm một mùa xuân, tám nghìn năm làm một mùa thu. Vì thế, người ta hay dùng chữ xuân để chúc thọ. Nay ta gọi cha là xuân đình 椿庭 cũng theo ý ấy.
Tục đọc là chữ thung.
樹 thụ
Cây.
Cái bình phong che cửa. Như bang quân thụ tắc môn 邦君樹塞門 vua dựng bình phong che cửa.
Trồng trọt (trồng tỉa).
Thụ lập (dựng nên). Như kiến thụ 建樹 sáng lập hết thảy các cái.
Có một bài văn tế cha 
"Than ôi ! Mây che núi Thái
Gió ngã cây Thung"
" Xuân thụ quy hà xứ " là nói về Cha quy về nơi nào .
萱花葬此方
椿樹歸何處
huyên hoa táng thử phương
xuân thụ quy hà xứ.
MẸ TÁNG Ở CHỖ NÀY.
CHA QUY VỀ XỨ NÀO .
Câu đối nhiều điển tích thật hay.
Có một điều lạ ở đây mà dienbatn chưa trả lời được : Theo văn bản thì bà Nguyễn Thị Minh là mẹ đẻ của Thần Hoàng làng Đồng Tỉnh nhưng theo chữ trên mộ thì 源聖義母- NGUYÊN THÁNH NGHĨA MẪU - Tức là mẹ nuôi của Thần Hoàng làng Đồng Tỉnh ????
dienbatn đang bàn với Công ty TNHH Nông nghiệp Công nghệ Cao Phúc Sơn và Công ty TNHH Đầu tư và Phát triển Hưng Thịnh cùng nhân dân thôn Đồng Tỉnh sẽ đóng góp sửa sang lại khu Lăng mộ này.

XIN THEO DÕI TIẾP BÀI 3. dienbatn.
Xem chi tiết…

THỐNG KÊ TRUY CẬP

LỊCH ÂM DƯƠNG

NHẮN TIN NHANH

Tên

Email *

Thông báo *