CHUYỆN XƯA TÍCH CŨ . BÁU VẬT CHÙA MIÊN . TÁC GIẢ - DAI HONG CAT. PHẦN TIẾP THEO.

5/17/2019 |
CHUYỆN XƯA TÍCH CŨ . BÁU VẬT CHÙA MIÊN TÁC GIẢ - DAI HONG CAT.
PHẦN TIẾP THEO.

LỜI NGỎ dienbatn sẽ đăng lại một số bài viết hay của các ACE thế hệ trước từng làm mưa làm gió trên các diễn đàn Huyền thuật. Việc này nhằm ôn lại những kỷ niệm xưa cũ , và cũng thầm nhớ lại và tri ân những đóng góp của họ vào tri thức Huyền thuật của nước nhà. dienbatn chỉ chỉnh sửa một số lỗi chính tả ,còn để nguyên chất giọng vùng miền của họ.Xin chân thành cảm ơn các tác giả.
GIỚI THIỆU : ĐẠI HỒNG CÁT là một người khá hiểu biết về Huyền môn, nhất là về các chuyện về mộ cổ . Trong trang Thegioibuangai.com ( Sau này là Thegioivo hinh.com ) do anh Hùng Sơn chủ xướng khoảng gần 20 năm trước , thì tác giả ĐẠI HỒNG CÁT có nhiều đóng góp quan trọng về những kiến thức Huyền môn . dienbatn ngày xưa cũng có quan hệ thân thiết với tác giả ĐẠI HỒNG CÁT từ đầu những năm 2000. Thấm thoắt đã gần 20 năm. Xin tri ân những đóng góp trong Huyền môn của tác giả ĐẠI HỒNG CÁT.

Trên núi dài Đại Liên.

Vẻ Đẹp Nước Việt.
Đây là phần tiếp theo của truyện “Báu Vật Chùa Miên” , thân mến tặng các huynh, đệ , tỷ , muội.
Vẻ Đẹp Nước Việt
Có nơi nào làm bạn phải dừng chân ?
Đó là nơi chỉ có biển xanh và mây trắng…

Cái cảm giác thật bềnh bồng khi bạn đi trên con đường dốc cheo leo qua đỉnh đèo, một bên là vách đá dựng đứng, một bên là vực thẳm sâu hun hút, xa xa là biển cả xanh rì, đường núi gập ghềnh và mây mù bao phủ… thật tuyệt vời, lung linh huyền ảo, nơi nào cũng có gió thổi lồng lộng… gió thổi xuyên qua vách đá, gió thổi về từ biển, gió thổi đến tận chân trời, gió từ tâm hồn con người bay khắp nơi nơi… Hơn 6 thế kỷ trước, vùng đất này thuộc vương quốc Chămpa, vua Chămpa là Chế Mân đã cắt 2 châu Ô, Rí làm sính lễ cầu hôn công chúa Huyền Trân… đấy có lẽ là khởi đầu cho sự mất đi của cả một đế chế. Trên từng viên gạch đổ, dưới từng chân tháp vẫn như còn đọng lại những giọt nước mắt của một dân tộc đã tự mình tuyệt diệt.
Từ Thiên Hạ Đệ Nhất Hùng Quan này đi về phía bắc là có thể đến tận ải Nam Quan, còn đi về phía nam sẽ đến tận mũi Cà Mau… dù đi đâu về đâu thì cũng phải có tình em chỉ lối, ngay cả đến đại gia N.K. mà cũng còn phải như vậy nữa là…
Đại gia N.K. sợ đi máy bay, trừ những trường hợp buộc phải đi Âu, đi Mỹ… còn thì ông ta khoái đi bằng chiếc Lancruise hai cầu hơn cả.
Lần đi xuyên Việt ấy ông ta còn dẫn theo một cô bạn thật đặc biệt, da ngăm ngăm, mắt to to, không đẹp lắm nhưng có giọng ca hay tuyệt, và hay nhất là ca “xẩm chợ”. Cái tên cô ta cũng chẳng giống ai, “Tiêu Thu Thu”, một cái tên có vẻ rất Tàu.
Tiêu Thu Thu mặc một cái quần bó, chân đi đôi bốt, cái áo màu đỏ chóe, xẻ cổ thật rộng, để lộ ra một phần đôi gò bồng đảo và cái lạch đào nguyên thơ mộng.
Đôi môi cô ta sơn đỏ còn hơn cái áo, nhìn một hồi ĐHC bất giác thầm nghĩ “ả này mà lên đồng thì hết chỗ chê”.
Tiền chảy về túi đại gia N.K. càng ngày càng nhiều, riêng cả trăm mẫu cao su ở Bình Phước cũng đủ khiến ông ta phải sắm hai cái máy đếm tiền mới xuể. Đó là chưa kể cả trăm căn nhà, biệt thự ở mấy khu dân cư cao cấp mới mở. Họ là những con người vĩ đại đẻ ra những dự án vĩ đại và từ đó hàng tỷ tỷ tiền chảy về như thác đổ. Ông ta lại cho xây hẳn một trang trại nuôi heo mọi để dành ăn thịt, vì “thịt heo bây giờ toàn dùng thuốc tăng trưởng, ăn vào chết lúc nào không biết”.
Muốn ăn thịt bò có khi ông ta ngả cả một con bò.
Sự mơ mộng của ông ta lại càng không còn giới hạn, ông thuê cả KTS thiết kế cho mình một cái lăng thật hoành tráng, thật kỳ vĩ, có lẽ ông muốn ướp xác mình như các vĩ nhân ?

Thiên nhiên dù có tươi đẹp, hùng vĩ tới đâu, núi có cao tới đâu và biển có mênh mông như thế nào thì cũng sẽ chẳng là gì nếu đi bên anh không có người đàn bà, mà nhất là một người đàn bà trên cả tuyệt vời…
Trên đời này có một người như thế…
Khi Tiêu Thu Thu ngồi yên lặng nhìn ra biển, nom cô ta thật gợi cảm, thảo nào mà tuy có biết bao người đẹp vây quanh nhưng Đại gia N.K. lại si mê cô ta hơn cả...
Trên dốc đá này, ai ngồi có lẽ cũng biến thành đá, nhưng Tiêu Thu Thu ngồi thì lại làm “đá biến thành người”.
Nơi đây là bờ biển Bình Thuận, là vùng đất nghìn năm lộng gió, vùng đất của những đồi cát vàng ngút ngàn, chập chùng đến tận chân trời, của những hàng cây sừng sững trong cái nóng khát khô, rực lửa. Vùng đất của những dốc đá trắng đầu kỳ ảo chìm trong làn sóng biển mênh mông, của những con thuyền thúng nhấp nhô trong nắng và những giọt mồ hôi mặn lấp lánh trên bàn tay chai sạn. Ở đây có một thứ mà Tiêu Thu Thu rất thích, đó là xương rồng. Trên những triền cát cháy bỏng từng bụi xương rồng gai góc vươn cao, cao vút, chúng không gục ngã mà lại còn trổ hoa đỏ rực, cô ta có thể ngồi hàng giờ để ngắm những bụi hoa xương rồng như thế.
Chiều từ từ buông xuống, biển chuyển màu tím rịm, bầu trời chuyển màu tím sẫm, không gian đen thẫm và lúc đó gương mặt của Tiêu Thu Thu bỗng bừng sáng lên ngời ngời. Nàng cất tiếng ca :
“…Nhắm mắt ôi sao nửa hồn bỗng thương đau
Ôi sao ngàn trùng mãi xa nhau
Hay ta còn hẹn nhau kiếp nào
…Anh ở đâu?
Có chăng mưa sầu buồn đen mắt sâu…”

Khi chọn Tiêu Thu Thu thì Đại gia N.K. quả là có một con mắt tinh đời, một tầm suy nghĩ hơn người, đâu phải ngẫu nhiên mà ông ta trở nên giàu có như thế?
Nhưng khi ông và ĐHC cùng đứng bên cái giếng, một cái giếng đã được xây lại thật to, thật đẹp, thì miệng của ông ta lầm bầm, chắc đại gia N.K. đang nguyền rủa kẻ nào đã nhanh tay xây trước. Từ khi quá giàu có, no nê thì đại gia N.K. cũng nghĩ đến chuyện phải nôn ra chút ít để làm từ thiện… và hiển nhiên bực nhất là có kẻ lại nhanh tay hơn, làm trước.
“Ông Bác sĩ đã ghé thăm, ông cho sửa sang lại chùa, nạo vét và làm giếng rộng hơn, chắc chắn hơn” – Một nhà sư nói như thế. Cái giếng này cũng lạ, nó không tròn mà lại có hình vuông, nhìn xuống muốn chóng cả mặt.
Bên cạnh ĐHC còn có một người nữa, đó là Đồng Đen.
Y sống khá lâu bên Miên nên nói tiếng bản địa rất rành.
Y tóc quăn tít, đen trùi trũi, cao sừng sững, ngực nở, vai rộng, mặc hờ hững một cái áo đen, quấn một cái xà-rông ngang bụng, cơ bắp cuồn cuộn cứ như là pho tượng đồng vậy. Nếu trên đời này Huyền Hòm có một đối thủ thì người đó chắc chắn phải là Đồng Đen.
Y cũng đứng sát bên thành giếng, mặt lạnh như đồng.

Đây là đất nước của những cánh rừng thốt nốt bao la đến mức bạn đi mãi, đi mãi mà vẫn chỉ thấy phía trước toàn thốt nốt và thốt nốt… có những vùng hoang vu đến mức khi đi trên những con đường mòn nhiều ngày bạn có thể chẳng gặp một bóng người nào… và chắc chắn là khi bạn vừa mệt vừa khát sẽ chỉ mơ thấy những ma rừng, quỷ núi… Bạn sẽ sải từng bước chân qua những thị thành sầm uất, những khu chợ đông người, và qua những vùng đất thật hoang tàn…
Khi Đồng Đen còn là một chú bé y đã đi lang thang nhiều nơi, cuối cùng trụ lại ở chân cầu Chba-OmPau, còn được gọi là “cầu Sài Gòn” bắc ngang sông Basac ở Phnom Penh. Y làm đủ thứ nghề như bán cà-rem, bán kẹo kéo, thợ mộc, thợ hồ,… sau này chuyển qua buôn ghe chở trái Nhàu mang từ VN qua. Đồng Đen kể y có nhà ở Bác Đai, thậm chí còn có một cô vợ nữa. Một gã khổng lồ như Đồng Đen đâu có thể chỉ làm cái nghề “buôn trái nhàu” tầm thường này, hẳn còn làm nhiều việc khác, chính vì thế y mới trở thành “bạn” của ĐHC.
Y là người dẫn đường cho xe của đại gia N.K. qua biên giới, qua những con đường đầy sình lầy với những ổ gà, ổ voi to lớn, qua những cánh đồng xám xịt bạt ngàn lâu lâu mới thấy bóng người, qua những nhà sàn xiêu vẹo để đến được ngôi chùa cô đơn trong một buổi hoàng hôn vàng vọt.
Việc làm giếng và sửa chùa không thành, Đại gia N.K. có vẻ buồn buồn, sau khi cải táng cho nhà sư yểu mạng Chau-Bona-Rutsa, ông ta cùng Tiêu Thu Thu đi Thái Lan… Còn ĐHC và Đồng Đen theo đường tắt từ Tà-keo đến phà Neak-Lueng, qua phà là tới Kandal, một nơi tập trung khá đông người Việt.
Người Việt và người Miên bây giờ sống chan hòa chứ không còn sợ cái nạn “cáp-duồn” như hồi xưa nữa, nhưng nói vậy chứ cũng đừng dại mà mò vào mấy Phum, lỡ gặp đám tà sư có thể bị “thư” chết bất tử hay điên khùng.
Đồng Đen có vẻ được kính trọng ở khu Chợ Mía dưới chân cầu Chba-OmPau này, từ già đến trẻ ai gặp y cũng chào. Y bỗng nói “Ông đã từng nghe Mười Hổ còn có một nữ đệ tử ?” – “tôi cũng nghe đồn như thế, hình như là bà Chín V thì phải.” - “Bà ta ở đây, là trùm của khu chợ này, chủ nhân của những tiệm vàng ở đây, nhưng không phải là bà Chín V, mà còn ghê ghớm hơn nhiều. Tôi không biết có nên dẫn ông đến gặp bà ta không, người đàn ông nào lọt vào mắt của bà ta thì đều sẽ si mê bà ta – trở thành những tên nô lệ”.
Buổi tối hôm đó Đồng Đen dẫn xuống khu Coi-Prekliep bên dòng Tonle-Sap uống rượu với món “Bò-Hóc-Lin”, một đặc sản của người Miên, nôm na là mắm cá trèm xay nhuyễn với thịt heo bằm, cà dòn, cà săn, cà chua, cà tím, gừng tươi, chuối chát …chấm với lá đinh lăng được y ca tụng là bổ dương tuyệt đỉnh. Có khá nhiều người biết y ở đây, hiển nhiên y không thể là “thằng buôn nhàu” tầm thường được. Khu Coi-Prekliep này rất nhiều cô gái làm nghề “tiếp thị rượu”, đủ cả Việt, Miên, Thái, Lào, thậm chí có cả mấy em mặc Kimono của người Nhật tiếp thị rượu Sa-kê… mỗi em đều cố “khoe hàng” một kiểu. Nếu may mắn thì còn được xem mấy em múa điệu “Nâm-thol” và biểu diễn đánh trống Râm-vung rộn rã. Ở nơi này tiền bạc là thượng đế, tiền bạc có thể mua được tất cả, từ một trinh nữ cho đến một Pi-âm. Khi rượu ngà ngà Đồng Đen mới thong thả kể về Mười Hổ và người nữ đệ tử… xem ra y biết hơi bị nhiều…
Theo Đồng Đen thì Mười Hổ có khá nhiều đệ tử, nhưng được biết đến thì có Lâm Dơi, Thạch Holk, Huyền Hòm và Sơn Cẩu… Lâm Dơi là kẻ có sức khỏe vô địch, tàn bạo nhưng dốt đặc, không biết chữ, hùng trấn ở Châu Đốc. Còn Thạch Holk sau này trốn đâu mất, nghe đồn y lên núi tu hành sám hối. Huyền Hòm cao lớn dị thường, trước đây làm thợ rừng, chuyên buôn lậu gỗ từ Miên về VN, sau này phụ trách công trường khai thác đá, là kẻ rất trung thành với Mười Hổ. Sơn Cẩu lúc nào cũng là con chó dữ săn mồi, nghe như em cùng cha khác mẹ với Mười Hổ, chuyên buôn hàng cấm bằng đường thủy, có tài phóng dao như chớp nhưng chỉ là lời đồn thổi chứ chưa ai được thấy tận mắt, nên được đánh giá là kém cỏi nhất. Cuối cùng là một người đàn bà đang ở đây, bà này về bùa ngải nghe nói không thua gì Mười Hổ, ngày mai nếu ĐHC có đủ gan y sẽ dẫn đến diện kiến.
Sáng hôm sau cả hai kéo ra khu chợ ăn món bún mắm Bò-hóc, người Miên gọi là “mum-bò-chóc” ngon đặc biệt. Chủ yếu là từ quán này có thể nhìn thấy tiệm vàng, nơi mà mỗi buổi sáng bà đệ tử của Mười Hổ thường ra ngồi.
Bà ta được mọi người gọi bằng một cái tên rất đẹp “Ngọc Quan Âm”.
Khi ánh nắng vàng bắt đầu chiếu xiên xiên, Đồng Đen đã ăn hết hai tô bún và cả chục chén chè bí, một loại chè làm bằng bí đỏ, rất phổ biến của người Miên. Tuy nhiên, nếu lỡ vào mấy Phum, phải rất cảnh giác với đồ ăn và nước uống, vì ở xứ này có một tháng gọi là tháng “thử thuốc”, người nào xớ rớ ăn phải đồ ăn của mấy thầy bà pháp sư vào tháng này sau vài ngày có thể “đi đứt” như chơi. Thông thường họ hay “thử thuốc” vào tháng bảy âm lịch, nhưng cũng có khi họ đổi qua tháng khác, vì thế nếu là người lạ mặt thì nên cẩn thận.
Chờ mãi, chờ mãi, khi mặt trời đứng bóng thì bà ta cũng xuất hiện.
Không gì có thể diễn tả được vẻ đẹp của Ngọc Quan Âm, một làn da trắng muốt, nuột nà như nhung, như lụa. Gương mặt nom giống phật bà không thể tả, đôi mắt thật là dài, hai hàng lông mày thanh mảnh, đúng là cặp “mắt phượng mày ngài”. Đôi môi đỏ thắm với sống mũi dọc dừa thanh mảnh, hai lỗ tai mới thật là “tai phật”, dái tai dài và thật đẹp, cái cằm lại chẻ đôi nom thật kiêu sa.
Điều đặc biệt nhất ở bà ta là mập, mập kinh hoàng, dễ phải đến hai tạ là ít. Một gương mặt tuyệt đẹp như vậy mà lại cắm lên cái thân hình phì nhiêu như thế thì thật là kinh ngạc.
Bà ta nom không khác gì một con gấu trắng, một con gấu to lớn dịu dàng ngồi trên một cái ghế bành khổng lồ. Bà choàng trên người một chiếc khăn thêu mỏng manh lấp lánh ánh vàng, có thể đó là chiếc khăn “Kà-ma” huyền thoại của những pháp sư Kh’mer, choàng hờ hững vậy nhưng không một thứ bùa phép hay tà thuật nào xâm nhập nổi.
Đồng Đen sừng sững như thế mà bà ta không thèm nhìn đến, lại chăm chú nhìn ĐHC mới thật là kỳ, bất giác nhớ lại lời Đồng Đen nói “người đàn ông nào lọt vào mắt của bà ta thì đều sẽ si mê bà ta – trở thành những tên nô lệ” mà rùng mình kinh sợ. Tối hôm qua y còn kể đã có rất nhiều người vì mê gương mặt đẹp, mê túi tiền mà về sống với bà ta, chỉ sau một thời gian là thân tàn ma dại, thậm chí có người còn lăn ra chết. Thiên hạ đồn rằng bà ta luyện “Hấp tinh đại pháp”, một công phu bí truyền của các vua chúa Trung Hoa thì phải. Sau này nó được lưu truyền ra bên ngoài và những kẻ lắm tiền nhiều của muốn trường sinh bất lão đã luyện nó. Ở miền Tây có nhiều gia đình quá nghèo khổ đã mang con gái mình đi “bán trinh”, vô tình họ bán con mình cho một tay Pháp sư Đài Bắc trong vài tháng để lấy tiền trả nợ. Tên này sau khi phá trinh cô gái để đả thông huyệt đạo, dùng công phu dẫn khí chạy vòng quanh kinh mạch nhâm, đốc, sau đó nhét một trái táo khô (táo Tàu) vào âm đạo cô gái. Trái táo khô có đặc tính hút ẩm rất mãnh liệt, liên tục không ngừng hút tinh khí của cô gái trẻ. Mỗi ngày tên Pháp sư lại lấy trái táo ra ngâm rượu uống, thay trái táo khác vào đồng thời nhiều khi cũng trực tiếp hút tinh khí của cô gái mỗi đêm… Sau vài tháng khi cô gái trở về với gia đình thì đã như một bộ xương khô, một cây đèn đã hết dầu, dù gia đình thuốc thang chạy chữa đến mấy cũng không cứu được và cô gái đã chết không lâu sau đó vì bệnh suy tủy, nhưng không có bằng chứng gì để có thể buộc tội tên pháp sư được. Tên này đã giết khá nhiều cô gái ở miền Tây bằng cái cách như thế để duy trì sự trường thọ “sung mãn, trẻ trung” trên cái chết của đồng loại. Đối với đàn bà thì chuyện này còn dễ dàng hơn vì cơ chế của họ mang tính hấp thụ nhiều hơn, vì thế công phu trở nên đơn giản. Người đàn bà sẽ luyện những bí quyết “Hấp tinh đại pháp”và dùng cái khả năng thiên phú hút tinh lực của đàn ông để trẻ mãi không già. Người đàn ông sẽ được săn sóc tẩm bổ thuốc thang thật mập mạp, to khỏe, nhưng cũng như cây cao su, sau một thời gian bị hút nhựa sẽ mục ruỗng và phải chết.
Trên đời này không ngờ lại có một thứ công phu kinh khủng như vậy.
Nhưng bà ta lại có “bùa yêu”, ai mà bị bà ta chấm rồi thì đố mà thoát được.
Tia mắt của Ngọc Quan Âm mới thật là đáng sợ, đó là tia mắt thu hồn, khi bà ta nhìn ai thì cứ như là con mèo đang nhìn con chuột, làm người đối diện như bị mê hoặc, không còn cái phản xạ kháng cự.
Bà ta nở một nụ cười…
Ngọc Quan Âm cười thì dường như làm cả thời gian nở hoa, hai hàm răng trắng bóng và đều tăm tắp.
Nếu có cái gì trắng hơn cả màu trắng thì đó là làn da của Ngọc Quan Âm.
Nếu có cái gì đen hơn cả màu đen thì đó là mái tóc của Ngọc Quan Âm.
Nếu có cái gì đỏ hơn cả màu đỏ thì đó là đôi môi của Ngọc Quan Âm.
Ngọc Quan Âm còn nói tiếng Việt rất sõi.
Đó là điều hiển nhiên vì bà ta là người gốc Việt.
Đúng ra trong người Ngọc Quan Âm chảy ba dòng máu: Hoa, Việt, Miên và ông trời lại chọn những gì đẹp nhất ở ba dân tộc ấy cho bà ta.
Một mái tóc đen mun, loăn xoăn nhẹ nhàng của người Miên, một làn da trắng muốt của người Hoa và cái vẻ đẹp hoàn hảo của người con gái Việt.
Không biết trên đời này Mười Hổ có bao nhiêu đệ tử, trong đó có bao nhiêu phụ nữ, nhưng ông ta có thể tự hào vì có một đệ tử như Ngọc Quan Âm – nếu ai đã từng lang thang bên Miên những năm chín mươi của thế kỷ 20 ở khu vực này, chắc là đã từng thấy và sẽ còn nhớ tới người đàn bà này… một miếng mồi ngon ngọt nhưng cực độc cho những gã đàn ông háo sắc.
Giọng nói của Ngọc Quan Âm mới thật là dịu dàng, bà ta không hỏi Đồng Đen vì có lẽ ở đây ai mà không biết y?
Bà ta nói “Xốc-sóp-bai, anh muốn mua gì?”
ĐHC không muốn mua gì, nhưng cũng mua thử một cái lắc vàng.
Lúc đó mới phát hiện ra bà ta khác với phật Quan Âm chính là ở chỗ trên người đeo đầy vàng.
Xung quanh bà ta cũng đầy người, ngoài mấy em bán hàng còn có mấy tay người Miên quấn xà-rông, mặc áo rằn ri thuộc dạng "đầu chày, đít thớt, mặt bù-loong".
Bà ta dịu dàng hỏi thêm “anh mới qua bên đây lần đầu?”
Ngọc Quan Âm còn hỏi nhiều câu nữa, ĐHC đều răm rắp trả lời.
Giả sử bà ta có nói “anh hãy ở lại đây” thì có lẽ ĐHC cũng sẽ ở lại.
Nhưng bà ta lại nói “xôm-lia, chuyến này anh về nhớ cẩn trọng nhé!”.
Bà là một pháp sư, có thể đoán trước được tương lai?
Con người nhiều khi suy nghĩ giống nhau, có thể lúc đó Ngọc Quan Âm đã suy nghĩ giống như Lâm Dơi. Mười Hổ là một kẻ tàn bạo nên y có vô số kẻ thù, ngay cả những người thân cận với y nhất cũng muốn y chết.
Tiền bạc đôi khi không mang lại may mắn mà lại là tai họa cho con người.

Cư sĩ Thanh Tùng.

Thời điểm đó có một người tên “Lưu Đại Nhân” bản tính rất hào sảng, hay giúp đỡ người nghèo. Y trán cao, vuông vức, râu rậm, có trong tay năm chiếc xe ben chuyên chở gỗ cung cấp cho một xưởng mộc ở VN nên kinh tế thuộc vào loại khá giả. Lúc này tàn quân Kh’me đỏ vẫn còn nhiều nên vào rừng rất nguy hiểm, bù lại vì thế tha hồ khai thác gỗ quý mà ít bị cạnh tranh. “Lưu Đại Nhân” thường theo áp tải xe, buổi tối năm chiếc xe thường quây lại ở bìa rừng, chủ xe và lái mắc võng dưới gầm xe để ngủ. Khoảng nửa đêm có mấy loạt đạn bắn vào võng nơi “Lưu Đại Nhân” nằm, cái võng bị bắn tan nát nhưng y không chết vì đã chuyển qua nằm chỗ khác. “Lưu Đại Nhân” rất cẩn trọng nên mấy lần bị mai phục mà không sao, nhưng cuối cùng y lại bỏ mạng vì một thứ tưởng chừng rất tầm thường – đó là mìn – sau chiến tranh CPC như một bãi mìn khổng lồ, mìn nằm vất vưởng khắp nơi, họ Lưu và vài cộng sự chỉ bất cẩn một lần là cả bọn bị biến thành những mảnh thịt vụn.
Còn một người nữa chuyên chở dầu DO qua Miên bằng sà-lan, mỗi lần chở hàng thì y đều dư được vài trăm lít, nên có biệt danh là Năm “Dầu”. Năm “Dầu” nuôi một bà người Miên ở Siep-Riep, một bà ở Miền Tây và một ở SG, vì thế ngoài bán dầu y còn kiếm thêm bằng đủ mọi cách. Y nghiện hút cần-sa, nên thích qua bên xứ này vì được hút thoải mái. Nếu hút cần–sa vừa đủ thì làm người ta trở nên mập mạp, hồng hào, khỏe mạnh, không bao giờ cảm cúm lặt vặt, còn về “chuyện ấy” thì vô địch.
Năm “Dầu” vào tận mấy Phum, mua cần-sa về hút và bán lại, ngoài ra y còn mua sỉ một thứ thuốc tể chuyên trị bệnh gầy từ mấy tay tà sư. Thứ thuốc này chỉ gồm bột mì với nước cần–sa, phẩm màu và vài thứ thuốc lặt vặt như xuyên khung, thục địa để cho có mùi “thuốc Bắc”, mang về đến SG Năm “Dầu” phù phép thành thuốc quý “made in Thai Lan”, bán đắt như tôm tươi. Mấy bà, mấy cô ở SG uống thứ thuốc có pha cần-sa này tất nhiên phải ăn được, uống được, ngủ được, chỉ trong một tháng có người lên đến cả chục ký. Mập mạp béo tốt, nhưng gương mặt cứ phì phị, da tuy hồng nhưng bung bủng, uống nhiều đâm ra bị nghiện, còn nếu bỏ thuốc thì người sẽ xẹp xuống, nhìn bệ rạc, gày gò còn hơn lúc chưa uống.
Năm “Dầu” tóc quăn đen, nhưng từ hai bên mai trở đi thì nó lại bạc trắng, râu cũng bạc nên nhìn rất dị tướng. Y có cái nhân tướng kỳ lạ như thế nên cái chết cũng kỳ lạ hơn người… Bán ba cái thứ thuốc tể trị bệnh gầy này kiếm được nhiều tiền nên y chi xài vung vít, thiếu nợ đầm đìa, lần sau cùng vào Phum trở về được mấy ngày thì cái bụng trương to, chở đến bệnh viện thì đã thành cái xác không hồn. Bác sĩ nói y bị bịnh mỏng bao tử, lại ăn mắm bò-hóc nên “lủng bao tử”, tràn máu ổ bụng mà chết. Có người biết chuyện thì nói y bị thầy pháp “thư” để đòi nợ, vẫn không chịu trả nên bị tà vật chết luôn.
Những người này đều rất từng trải, kinh nghiệm dày dạn, nhưng chỉ vì tham vọng quá nhiều mà dẫn đến mất mạng.
Hoàng hôn dần buông xuống trên dòng sông Tông Lê Sáp, tối hôm đó một người bạn mời cả hai về nghỉ tạm trong một căn nhà gỗ nhỏ. Từ đây nhìn xéo qua phía bên kia là một căn nhà chứa đầy những em gái người Việt, những cô gái này chỉ bận một cái áo ngủ mỏng tang trên người, còn bên trong lại không mặc gì nên những gì cần che giấu lại phô ra lồ lộ. Các em gái của một đất nước nghèo khổ, qua đây tìm kế mưu sinh ở một đất nước còn nghèo khổ hơn, nhiều em lại không hề biết chữ thì có thể làm được gì ngoài cái nghề cổ xưa nhất của nhân loại?
Khi Đồng Đen bỏ đi đâu đó thì bỗng có một em lân la qua bên này, cô bé người gày gò chỉ còn da bọc xương, nói giọng Cần Thơ “cho em ngồi chơi với anh nha” – Cô bé này có đôi môi nhìn rất lạ, nó cứ đỏ rừng rực, ĐHC sờ thử tay lên trán cô ta thì thấy nó nóng hầm hập, bàn tay cũng vậy, nóng như lửa đốt, bèn nói “em đang sốt cao như thế sao không nằm nghỉ mà còn đi ra ngoài?” – Cô ta mở to đôi mắt nói nhỏ “em hết sạch tiền rồi, không ra ngoài làm thì mai lấy gì mà ăn?” – Xem ra cô bé này chắc đã bị nhiễm, nên lâu lâu lại bị hành sốt. – “em bao nhiêu tuổi rồi?” – “dạ, sang tháng sau là em đúng mười bảy” – Trong người có sẵn mấy viên thuốc hạ sốt, nên lấy cho cô ta uống tạm, còn một ống thuốc sủi bọt bèn lấy một viên cho vào ly nước đưa cho cô bé uống cho bớt mệt. Cô bé nói thêm “em cũng hay uống mấy ống thuốc bổ máu nhưng hết tiền rồi, anh mua cho em được không ?”. Sợ cô ta lấy tiền để đi chích ma túy nên đành phải dẫn cô ta đi mua... Cô gái khốn khổ này chắc không thể sống qua năm nay, tháng sau chắc là cái sinh nhật cuối cùng trong cuộc đời cô bé…
Mặt trời chìm dần xuống dòng sông bao la, mặt nước lung linh hắt tia nắng chiều ửng đỏ lên cái thân thể nhợt nhạt của cô gái, nhuộm một màu vàng úa…
“Báu vật phi thường” chắc là về tay Mười Hổ, con hổ đã mọc thêm cánh, tốt nhất là nên cao chạy xa bay để bảo tồn sinh mạng chứ hy vọng lấy lại báu vật e là điều không tưởng.
Lần trở về này không có đại gia N.K. nên ĐHC và Đồng Đen không đi theo đường cửa khẩu mà theo ghe buôn của một bạn hàng, ghe có chừng bảy tám người, trên chất đầy đồ điện tử, đường thốt nốt và khô cá Biển Hồ…
Đồng Đen đưa cho ĐHC giữ một cái túi vải, còn y thì ngồi ngủ gục. Bên cạnh còn có một cô gái da trắng tươi, mái tóc thơm thoang thoảng làm đường về như gần lại, dòng sông lững lờ trôi, hai bên bờ um tùm dừa nước…
Ghe chạy gần đến một bến phà thì bị BP chặn lại, tất cả bị áp giải về đồn để kiểm tra giấy tờ và hành lý, phen này có thể bị nhốt vì tội “xuất nhập cảnh trái phép” như chơi. Mấy tay BP này mặt mũi non choẹt, nói giọng của vùng khu bốn nên rất khó nghe. Đến lượt ĐHC, giấy tờ cũng đầy đủ, có hộ chiếu hẳn hòi, nhưng đến khi cái túi vải được mở ra bên trong ngoài mấy bộ đồ thì nằm chình ình một khẩu súng đen sì.
Cái túi là của Đồng Đen, nhưng y biến mất từ hồi nào vậy cà? nãy giờ lính quýnh nên không để ý? Con người to lớn như thế mà thoắt cái biến đâu mất, cứ như là có phép tàng hình vậy? Phen này thì đúng là đổ nợ rồi…
Thế cũng chưa đáng sợ bằng việc cái cô gái đẹp đẹp, trắng trắng, tóc thơm thơm mới gặp lần đầu khi lên thuyền lại khai là đi chung với ĐHC mới là kỳ cục nhất. Trong cái xắc tay của cô ta có một cái hộp đựng khá nhiều viên thuốc màu trắng chưa biết là gì, vì thế nên tay BP nửa già nửa trẻ mang lon thiếu tá mới nói “đúng ra là tôi thả ông rồi, nhưng phải tạm giữ ông và cô gái với những tang vật này lại để xác minh sau”.
Chẳng biết là xác minh cái gì mà nửa khuya hôm đó có một chiếc xe U-oát đỗ xịch, trên xe bước xuống hai người một gầy gầy, một mập mập, mặt lạnh như tiền đi vào, một người đứng trước ĐHC, móc ra tờ giấy, dõng dạc đọc to “tôi trung tá….., ra lệnh bắt khẩn cấp ông ….., tội xuất nhập cảnh trái phép, vận chuyển, tàng trữ vũ khí quân dụng theo điều…. của bộ luật hình sự nước…..”
Cô gái cũng được đọc một cái lệnh tương tự.
Cả hai được ưu tiên dùng chung một con “@” và dẫn giải ra xe ngay trong đêm, chẳng biết là sẽ được đưa đến phương trời nào nữa.
Ai đã từng bị cái cảm giác lạnh lạnh của cái còng số tám bập vào cổ tay thì sẽ không bao giờ quên được, cái lạnh của nó không phải là cái lạnh như nước đá, cái lạnh từ bên ngoài mà là cái lạnh như từ trong tim tỏa ra. Trong cái ánh tối mờ mờ, ĐHC chăm chú nhìn cô gái như muốn đọc những suy nghĩ của cô ta, nhưng cô ta lại quay mặt đi chỗ khác. Không lẽ lại hỏi “tôi với cô mới gặp nhau sao cô lại nhận là cùng đi với tôi, cả hai lại quen nhau từ lâu?” – Giả sử là không có cái chuyện này mà tự nhiên lại được một cô gái nhận như thế thì mừng còn hơn là trúng vé số nữa, nhưng trong trường hợp này thì… Có thể cô ta vì quá hoảng sợ mà nói đại, nhưng cũng phải phòng trường hợp có người gài bẫy. Còn Đồng Đen chẳng biết là đã biến đi đâu? Có thể y trong đường dây mua bán hàng nóng về VN, khi thấy biên phòng đã khéo léo lặn xuống nước mà không ai hay? Suy cho cùng thì y đâu phải là một kẻ tầm thường, một nông dân chất phác đi buôn trái nhàu kiếm tiền nuôi vợ con? Nếu thế thì mọi người đâu có chào y như vậy? Trường hợp xấu hơn là y đã cố tình làm điều này, khi Thạch Holk bỏ trốn thì Mười Hổ phải kiếm một người thay thế, kẻ này phải đồng tài đồng sức với Huyền Hòm, kẻ đó hẳn phải là Đồng Đen chứ còn ai vào đây được nữa?
Giả sử y đúng là đệ tử của Mười Hổ thì quả là mưu cao kế độc, cái kết cục bi thảm “sống dở chết dở” như hiện giờ đã nói lên điều đó, nhân gian có câu “Mười Hổ độc hơn rắn hổ” bây giờ mới thấy.
Tay gầy gầy ngồi đằng trước với lái xe, còn tay mập mập thì ngồi sau, y lầm lỳ không nói gì, giả như đang ngủ, nhưng chắc chắn nhất cử nhất động đều không thể qua khỏi cặp mắt he hé của y được.
Xe chạy một lúc thì dừng lại, tay gầy gầy đi đâu đó hơn nửa tiếng, sau khi y quay lại thì đưa cho ĐHC thêm một tờ giấy, đó là lệnh tạm giam của viện kiểm sát trong ba ngày, phen này thì chính thức được ăn cơm tù rồi.
Xe về đến Trại giam vừa đúng 03 giờ sáng, cảnh sát coi tù đưa ĐHC vào một khu riêng, còn cô gái chắc là đưa vào khu chuyên nhốt tù nữ. Tiếng mở cửa sắt rầm rầm trong đêm nghe thật khủng khiếp, căn phòng số… bật mở, cả đám tù đang ngủ say sực tỉnh để đón một con người mới vào lúc bình minh còn chưa thức giấc.
Bình minh ở đây chắc không bao giờ giống bình minh ở Hạ Long, đó là khi mặt trời le lói trên mặt biển, gió đang thổi nhẹ và làn sóng vẫn còn lăn tăn, lăn tăn… Đàn chim hải âu mới vừa thức giấc tung cánh bay chấp chới. Hàng ngàn hòn đảo như bừng tỉnh qua cơn mê ngủ. Có khi nào, có bao giờ bạn được lắng chìm trong một cái không gian hùng vĩ và mênh mông như thế ? Có khi nào, có bao giờ bạn được chìm đắm trong một cái không gian dường như là của riêng bạn, đầy khát vọng bao la như thế ?
Cả vũ trụ bắt đầu chìm xuống khi bạn bước vào cánh cửa này, một cánh cửa nặng nề, ghỉ sét và lầm lì, chỉ có một lỗ vuông vuông nhìn ra thế giới bên ngoài… Ôi chao, ngày ấy, khi tuổi trẻ còn nồng trong trái tim của bạn, khi từng nhịp đập của cuộc đời còn say trong giấc mơ của bạn, thì bạn sẽ cảm thấy không có một trở lực nào có thể, và có thể làm bạn phải dừng chân, và con đường dù có xa đến mấy thì cũng sẽ chẳng là gì khi con người quyết tâm dấn bước.
Cả đám tù đầu trọc lốc, thậm chí là còn trần truồng choàng tỉnh trong cơn nồng lúc ba giờ rưỡi đêm hè nóng bỏng. Những kẻ phải đi vào cánh cửa này, trong một cái giờ như thế này là rất ít và rất ít, vì thế một người trẻ tuổi trong bọn mới nói nhỏ với ĐHC “cứ bình tĩnh, hãy nằm xuống bên cạnh tôi chờ qua đêm rồi hãy tính”… Cám ơn người bạn bé nhỏ trong cơn tuyệt vọng, cám ơn Thượng Đế đã bỏ qua cho con trong một phút sai lầm, cám ơn người bạn tù lần đầu tiên lỡ bước đã nói ra được một câu mà không bao giờ anh có thể quên khi chìm trong giấc ngủ đầy trằn trọc và mê hoặc ấy…
Sáng hôm sau thức dậy là đã thấy mình sống trong một thế giới hoàn toàn khác,
Đầu tiên là cái màn đứng xếp hàng hai bên cửa để điểm danh, tạm thời phải quên đi cái tên cúng cơm của mình, thay vào đó chỉ là một con số lạnh lùng.
Căn phòng này gồm hai lớp, ngoài là sân, có một cái cửa lớn chừng một mét và một lỗ nhỏ chừng mười lăm cm2 để giao tiếp với bên ngoài, sân sâu vào khoảng bốn mét. Bên trong là một lớp cửa sắt nữa, phòng dài khoảng ba chục mét, rộng khoảng sáu mét, hai bên là hai bệ xi măng rộng chừng hai mét, chạy suốt căn phòng, giữa là một rãnh gọi là “xà lảng” cũng rộng vừa hai mét. Cả phòng chứa hơn sáu chục con người, lại chỉ có hai cái cửa sổ phía trước nên mùi hơi người nồng nặc, chưa quen cảm thấy rất khó thở. Đứng đầu phòng gọi là “trật tự”, một tay gầy gầy, nhỏ con, người này gọi ĐHC lên để kiểm tra túi, cái túi là của Đồng Đen nên quần áo cứ to thùng thình. Y chăm chú đọc cái lệnh tạm giam, đến đoạn chỉ tội danh “lưu hành, tàng trữ vũ khí quân dụng…” thì y gật gù “tội danh của mày cũng được đấy”.
Khi bước vào cánh cửa này, tội danh có một vai trò quan trọng cho cuộc sống của anh về sau. Những tội danh về kinh tế như “hối lộ, lừa đảo…” nếu có nhiều tiền để lo lót thì thường hay được cất nhắc làm những chức vụ chủ chốt trong phòng như trật tự, thư ký, trực sinh… vừa an nhàn, vừa có chỗ ngủ tốt. Họ là những con bò sữa thực sự cho các QG, là cái túi tiền đích thực và vì thế họ phải thường xuyên lo lót, nếu không sẽ bị thay thế ngay lập tức bằng những người khác cũng đang sẵn sàng chung chi để kiếm một chỗ ấm thân và an toàn hơn. Tội hiếp dâm là bị coi rẻ nhất, đặc biệt là những tội thuộc về loạn luân như cưỡng hiếp con gái nuôi hay con gái ruột… những người này hay bị đánh đập và chửi rủa bởi những bạn tù trong phòng.
Bản thân trật tự phòng thường là án KT, có chút đỉnh học thức nên chủ yếu là lo về “đối ngoại”, tức là đối phó với quản giáo, giám thị còn “đối nội” trong phòng luôn luôn phải có một kẻ đứng đầu để duy trì sự bình yên, người này thường là có án về tội “cưỡng đoạt tài sản, buôn ma túy số lượng lớn hay cướp có tổ chức…”, được xem như là Đại Bàng.
Do cuộc sống quá chật chội, tù túng nên việc đánh nhau xảy ra như cơm bữa, khi có việc lộn xộn Đại Bàng sẽ đứng ra dàn xếp. Đây là một xã hội thu nhỏ đến mức tận cùng với đủ loại hạng người, đủ thứ mưu mô lừa lọc hãm hại nhau, đủ loại thành phần tội phạm và những bài học cuộc đời dường như là vô tận.
Thông thường mới vào trừ những tay chuyên nghiệp còn ai cũng bỏ ăn bỏ ngủ cả chục ngày, nhiều đứa còn trẻ thì khóc ròng rã suốt hàng tháng trời.
Hôm đầu có một tay CS điều tra đến để lấy lý lịch, hỏi mấy câu như tên, tuổi, nghề nghiệp, thường trú… Sau đó thì y mất tích luôn, thời gian cứ thế trôi đi, thêm mấy cái lệnh tạm giam nữa, cái cuối cùng kéo dài đến bốn tháng mà cũng chẳng thấy ai hỏi han gì cả ?… Lâu rồi cuộc đời từ từ cũng quen dần, quen với việc đến bữa là được ăn một bo cơm đầy sạn và hạt cỏ dại, những tô mì gói ngâm với nước lạnh. Thịt là một thứ xa xỉ, khoảng ba ngày thì may ra mới được một cục bằng ngón tay… hôm nào tát hầm thì có món cá Vồ kho lạt, còn thì chủ yếu là tương chao. Chao từ ngày này qua tháng khác, đến mức trong mơ cũng thấy toàn chao là chao…
Lần này may mắn rơi vào cái phòng mà Đại Bàng lại là dân SG, vì thế khi nhận ra là đồng hương thì tự nhiên trở nên thân thiết. Y tên BDH, tội buôn ma túy, ở khu biệt giam hơn năm nay, vừa mới được đưa lên phòng lớn. BDH có cái làn da của kẻ bị biệt giam lâu ngày… nó trắng bềnh bệch, bủng bủng như một con cá ươn. Điều nhận thấy đầu tiên ở y là cặp mắt, một cặp mắt sắc lạnh cứ như là mắt quỷ vừa từ địa ngục chui lên… cặp mắt khiến người đối diện phải giật mình, sợ hãi.
Đại Bàng không mấy khi ra tay đánh đập người khác, thông thường những tên lâu la ăn theo gọi là se sẻ hay thể hiện với những người bạn tù mới bằng cách hù dọa “bass, tress” này nọ… và bọn này thường rất nhát, khi có kẻ “bật số” thì hay bỏ chạy.
Một phòng khoảng bốn năm chục người thì thường có khoảng hơn chục em là “mồ côi”, tiền không có, người thân cũng không nốt, sống bằng cơm tù nên rất đói khát… Đại Bàng sẽ đứng ra nuôi bọn này, để nuôi một đám đông đảo như thế tất phải san sẻ đồ ăn và tiền bạc của đám tù KT giàu có. Bọn se sẻ này trở thành tay sai đắc lực cho Đại Bàng, do sống thành bầy đàn nên muốn triệt hạ một Đại Bàng trong phòng không phải là chuyện dễ.
Ngoài ra còn có các mánh lới “xào chẻ”để kiếm tiền thông qua “mua bán đổi chác”, hay đánh bài hoặc hốt me. Một bộ bài khi vào được tận trong này sẽ có giá “1 xị”, thường là do bọn chiếu cố đưa vào. “Chiếu cố” là mấy tên tù sắp hết án, ít còn muốn trốn trại nên được đưa ra ngoài, không phải ở trong phòng… bọn này là tay sai đắc lực cho QG. Ngoài bán bài, bọn này còn bán thuốc lá, một bao thuốc có giá “6 xị”, khi đưa vào trong phòng Đại Bàng sẽ bán ra 2 điếu là “1 xị”, vị chi một gói sẽ bán được “1 chai”, số tiền lời để cờ bạc và bao đám đàn em mồ côi, đám này chuyên quét dọn phòng và “đấm bóp, massage” cho mấy đại gia tù KT giàu có. Mấy đại gia KT hay đám COCC vô tình phạm tội hầu hết đều có sự gửi gắm từ bên ngoài nên được đám cai ngục quan tâm, săn sóc, có tiền để lót hầm, lót ổ nên cũng đỡ khổ hơn chút ít, nhưng cũng phải tỏ ra hết sức “biết điều”, nếu không sẽ bị bọn se sẻ phá phách đủ kiểu.
Vì thuốc lá đắt tiền như thế nên không dám hút nguyên điếu mà cắt nhỏ ra từng khoanh gọi là “bi”, một bi như thế được nhét vào một cái “bỉnh” giống như cái ống điếu và chia nhau kéo. Lửa thì được lấy từ cây “chẹt” hay từ cái bóng đèn điện trong phòng. Việc hút như vậy được phân chia đẳng cấp hẳn hòi, càng “số má” nhiều thì được hút nhiều và hút trước, đám cóc ké thì lâu lâu mới được hưởng ân huệ hút một bi là mừng lắm rồi. Ở đây cư xử phải thật rõ nét, nói một là một, hai là hai, không được lợn cợn, sơ sảy là có chuyện liền. Lần đấy trong phòng có mâu thuẫn giữa Út Khùng và Tư Cá, hai thằng này cãi nhau, chửi nhau suốt nên BDH quyết định “căng dây”, tức là sẽ cho hai thằng đấu với nhau một cách sòng phẳng. Sau bữa cơm chiều là khoảng thời gian mà đám cai tù và bọn chiếu cố lơi lỏng nhất, cuộc so găng bắt đầu.
Cả đám đứng xung quanh phía trên bệ vỗ tay la hét để lấy khí thế và cá độ, xà-lảng sẽ là võ đài cho hai thằng, ĐHC làm trọng tài… Vào cuộc Út Khùng tự nhiên cởi phăng hết quần áo, trần truồng trùi trụi “…tổ bà nó… mặc quần áo vướng víu đánh nhau mất sướng…” – Tư Cá tức quá chửi “cái đồ ăn cám sú đụ heo rừng, tù thì cũng phải có danh dự của … thằng tù chứ ?” – Có điều y cũng say máu cởi phăng luôn cái quần đương mặc để được công bình như Út Khùng. Đây quả là một cuộc giác đấu thời tiền sử, một cuộc chiến đầy nét hoang dại, không một manh giáp và cũng không một thứ vũ khí nào…
Hai thân thể trùi trụi gầm rú lao vào nhau, Út Khùng tung một quả đấm trúng ngay miệng Tư Cá, làm thằng này rách môi, trào máu miệng, bù lại Tư cá cũng đấm một quả ngay mắt Út Khùng làm nó sưng lên tù vù. Có điều do đói ăn thiếu uống nên chỉ vài phút là cả hai thằng chân đứng không vững, tay thì quờ quạng. Út Khùng mệt quá đứng không nổi, ôm chặt lấy Tư Cá, còn thằng này cũng mệt đến mức lăn đùng ra, hai thằng nằm bò dưới xà-lảng, không dậy nổi.
Cái vụ “căng dây đấu võ đài” này có phần hấp dẫn nên hầu như chiều nào cũng được tổ chức. Ban đầu thì là để giải quyết mâu thuẫn lặt vặt, sau trở thành một trò chơi giống như đá gà, đại loại :
- Hôm nay thằng Mọi đấu với thằng Chệt… cá sáu ăn bốn…
- Thằng Méo đấu với Hai Chĩa… cá năm năm…
- Hùng Đinh đấu với Danh Xà… cá ba ăn bảy…
- …..
Cuộc đấu không hề có một sự bảo hộ nào cả, hoàn toàn bằng tay chân trần, được quyền đánh vào bất cứ đâu và chỉ ngưng khi một bên chịu thua nên vô cùng nguy hiểm và tàn bạo. Vì thế chỉ sau một thời gian “song đấu” kẻ thì vêu mỏ, người thì bầm mắt, kẻ thì rách tai, sưng tay, trật chân… một số người già cả trong phòng thì trở nên hoảng loạn như ông Bảy X.
Ông Bảy X vốn là thầy tu trên tuốt đỉnh núi, mười tuổi ông đã đi tu, nay đã hơn năm mươi, nghĩa là ông ăn chay trường cũng hơn bốn mươi năm nay, cuộc đời sẽ bình yên trôi qua và ông sẽ đắc đạo nếu không có một sự thay đổi…
Ngày xưa gia đình ông ở ngay dưới chân núi, có để lại cho ông một mảnh đất rất lớn, khi ông lên núi tu hành thì mảnh đất được cho một người bà con xa trông nom giùm, có thu hoạch hoa màu gì thì chia cho ông Bảy chút ít để ông dùng… Sau này khi vùng đất được quy hoạch thành khu du lịch, bỗng chốc mảnh đất của ông trở nên có giá bạc tỷ, nhưng người bà con xa bỗng nhiên trở mặt muốn chiếm lấy, người này sau lại là CA xã nên ông Bảy X mấy lần làm đơn thưa mà không ai giải quyết. Tranh chấp đâu cả mấy năm, một hôm ông Bảy xách cái búa mai phục trong bếp, khi người bà con đi vào thì ông vận công lực “bốn mươi năm tu hành” đánh một “quả” ngay đầu… cú đánh may là không làm tay CA xã chết, nhưng y sau này trở nên “niêng niểng”, còn ông Bảy X thì khăn gói vô trong này. Khi vô tù thì ông vẫn tiếp tục ăn chay và tụng kinh mỗi tối, phần thịt cá ít ỏi của ông bị đám “cà-khu” xơi mất.
“Cà-khu” cũng là tù mồ côi, thường thuộc nhóm hiếp dâm trẻ em hoặc loạn luân như hiếp con gái nuôi, con gái ruột, hèn và hay ăn cắp vặt… nên không được Đại Bàng trọng dụng, suốt ngày ngồi bó gối sát tường, nhìn thảm não cứ như con Cà-khu ở trong rừng rậm.
Còn chuyện tụng kinh mỗi đêm của ông Bảy thì lâu lâu có thằng dọa “sẽ ra tố cáo với quản giáo” làm ông đâm ra sợ hãi vì trong này ba cái vụ tôn giáo là cấm triệt để, sơ hở là ăn “ba-trắc” ngay.
Tay QG nhìn qua cái lỗ nhỏ, kêu ông Bảy X đến :
- …đm… nghe nói ông truyền bá kinh này nọ hả?...
- dạ thưa cán bộ đâu có…
- Ông coi chừng đó… ở bên ngoài thì không lo tu hành… vô trong này còn bài đặc, hôm nào thử xem lưng ông chịu được mấy cây “ba-trắc”.
Nơi đây còn có một ông già nữa gọi là “Thày Ba”, can tội chứa mại dâm, khoảng trên năm mươi, ốm nhom ốm nhách. Thằng Méo lân la hỏi chuyện “Thày Ba chứa mấy em như thế chắc lâu lâu mấy em phải đãi miễn phí chứ?” – Cả đám cười hô hố, một thằng còn nói “Thày Ba làm nghề nào ăn nghề nấy mà, mấy em nào mới tới là phải cho Thày khám điền thổ trước…”. Thằng Méo sờ nắn bắp tay của ông Bảy, nó nói “ong… ong tu ành… ành trên úi… mấy chục năm, công lực cao thâm như thế mà đánh một búa thằng CA xã không chết thì cũng kỳ thiệt… anh em trong đây ai cũng đấu rồi còn mình ông với Thày Ba, hay là hai ông đấu với nhau giải sầu đi… nhắm sức ông còn đấu nổi không ?” – Ông Bảy X tuy xanh mặt nhưng ráng nói cứng “đấu thì đấu, tao đâu có sợ”.
Chiều hôm ấy là đến lượt “căng dây” cho ông Bảy X đấu với Thày Ba, cả đám tù tỏ ra khoái chí, thằng thì cá cho Thày Ba thắng, thằng thì cá cho ông Bảy sẽ thắng làm không khí trở nên náo loạn.
Bữa cơm chiều đầy sạn xong lúc bốn giờ rưỡi, xà-lảng được quét dọn sạch sẽ, ánh nắng bên ngoài vẫn còn le lói qua khe cửa thì cuộc đấu bắt đầu, Thày Ba đứng một bên, mặt xanh tái như tàu lá, còn ông Bảy X đứng phía bên kia, hai chân hơi run run… Hai ông già được đặc ân cho mặc quần áo trong lúc đấu…
Cả đám la hét ồn ào náo nhiệt, vui còn hơn là Tết nữa, hai ông già còn đang múa máy, thở hồng hộc thì DBH cho dừng lại, y nói “hai ông quá già yếu nên cho miễn, bù lại lát nữa Thày Ba phải hát bù… còn những thằng nào trước giờ vẫn ăn phần thịt của ông Bảy thì hôm nay sẽ đấu thay… thằng Bợm với thằng Trọc đâu? Hai thằng mày ra đấu…”.
Thằng Bợm là một tên trộm chuyên nghiệp, nhưng chỉ là ăn trộm vặt sống qua ngày, gần đến mùa mưa hay dịp Tết Nguyên Đán là thằng Bợm hay trộm linh tinh để được vào tù “vào trong này có chỗ trú mưa trú nắng, tối có chỗ ngủ an toàn, đau bịnh có thuốc uống miễn phí, Tết có món La-gu thịt bò với bánh mì… trong khi ở ngoài nếu không vô mánh thì đói dài cổ, ngủ dưới gầm cầu gặp cơn mưa thì ướt như chuột…” – Vì thế nên CA điều tra nhẵn mặt Bợm từ bao lâu nay, nhưng không thể không bắt giam nó được. Vô đây thằng Bợm cải thiện thêm bằng nghề đấm bóp cho các đại gia có án KT, cứ một “quận” đấm bóp được 5 ngàn hay ba trái chuối – “nghe nói mày hay ăn trộm gà, buổi tối nguyên bầy gà ngủ trên cây làm sao mà bắt được?” – “tôi lấy một cái cây dài, đóng nhánh phía trên, buổi tối con gà đang ngủ say, đưa cây lên chạm nhẹ là nó có phản xạ bước tới trước, khi nó đậu yên trên cái cây thì từ từ hạ xuống, bẻ cổ cho vào bao, cứ thế là mần hết nguyên bầy gà” – “nhiều khi đi buổi tối tôi còn cầm theo cây đèn pin chiếu sáng ngời, đâu ai ngờ là đi ăn trộm mà lại cầm đèn rọi… khi có động thì mình hô to ăn trộm, ăn trộm… rồi cũng chạy rượt bắt như người ta vậy”.
Còn thằng Trọc thì là con nhà giàu, nghiện ma túy nặng, chôm hết đồ nhà xong thì chuyển qua bán lẻ thêm để có tiền hút chích. Có lẽ nó bị nhiễm nên tóc không mọc, cái đầu lúc nào cũng trọc lóc. Hai thằng này ăn ké phần thịt của ông Bảy X hay cãi nhau nên DBH cho đấu để giải quyết, thằng nào thắng thì được ăn tiếp, còn thằng nào thua sẽ phải “canh hầm bô”. “Canh hầm bô” là từ lóng để chỉ chỗ nằm ngay sát tại hầm cầu, là chỗ khó ngủ nhất nên tù mới vào hay phải ngủ chỗ này, nếu có tiền lo lót thì được lên “chiếu trên”, còn đấu thua theo qui ước cũng phải “canh hầm bô” vài ngày.
Ở trong này bị cấm hát vì “ở tù mà tụi mày vui lắm hay sao mà hát hò tối ngày, ông mà bắt được thằng nào hát thì ông vả cho vỡ mồm…”. Có điều tuy cấm thì cấm chứ tù vẫn hát vì đó là cách tốt nhất, hiền lành nhất để giải tỏa nỗi nhớ nhà, nỗi nhớ vợ con, nhớ người yêu, bạn bè… Các bài hát được truyền tay nhau chép lên tờ giấy tạm giam hay gia hạn, bằng thứ mực là “thuốc tím”, một loại thuốc nước trị ghẻ phổ biến nhất ở trong này. Ở nơi đây ghẻ và lác là một thứ bệnh kinh niên, do cuộc sống chung đụng nên không ai là không bị, và thứ thuốc sức duy nhất là thuốc tím nên có nhiều thằng bị ghẻ toàn thân, khi sức thuốc tím vào cả người tím ngắt nhìn cứ như là con quỷ hiện hình.
Thày Ba được miễn đấu nên phải hát bù, y có giọng ca rất hay, nó nhừa nhựa như giọng ca sĩ Duy Khánh, y hay ca bài “Căn nhà màu tím”:
“Chiều nhìn ra đầu ngõ,
dâng dâng niềm thương nhớ,
dáng xinh xinh một người,
Được nghỉ năm ngày phép,
mất hai hôm làm quen,
em mới cho mình biết tên….”

Đến đoạn cuối thì cả đám tù cùng đánh bo, hát theo, tạo một không khí chan hòa ít thấy ở nơi này:
”…Ngày lành hăm sáu, hai mươi chiếc xe màu,
chở đám cưới cô dâu cài hoa trắng trên đầu…ta nhìn nhau…”

Có điều những bài hát như vậy rất hiếm, nơi đây loại nhạc phổ biến là “nhạc chế”, một thứ nhạc truyền khẩu, đại loại:
“………………
Mẹ ơi! Con mẹ nay đã chết rồi
không về nữa đâu mẹ ơi.
Viên đạn đồng đen nằm sâu trong màng óc, giết con mẹ chết rồi
Đến ngày giỗ con...
Mẹ nhìn lên bia ảnh, thấy con mẹ mỉm cười…
Chách, chách, chách bùm chách…
Hôm nay con về, con về sau nhiều năm xa cách
Tấm mền bông xô phủ lên màu trắng, con xa mẹ thật rồi.
Đến ngày giỗ con...
Mẹ nhìn lên bia ảnh,
Nhớ con mẹ thật chết rồi…
Chách chách bùm, chách bùm bùm bum…”

Thông thường thì tù nữ và tù nam nhốt ở những khu riêng, nhưng vẫn có thể liên lạc với nhau thông qua những ô cửa nhỏ ở phía trên cao. Mấy thằng công kênh nhau lên, một thằng “giao lưu” hát cho nữ nghe, bên kia mấy em cũng hát lại, nổi tiếng nhất là một em tên Thảo Bay, khi nào trời mưa là lại nhớ đến giọng ca của em:
“…Nhớ nhớ mưa bong bóng, nhớ dáng em buồn, nhớ lệ em tuôn
Nhớ mưa bong bóng, nhớ khi tan trường em sát vai anh…
…Phải chi hôm ấy đừng mưa
Phải chi hôm ấy đừng đưa em về…”

Đang hát mà nghe hô “xe tăng đến, xe tăng đến” là biết có QG xuống kiểm tra, còn nghe “xe mủ đến, xe mủ đến” là biết đám chiếu cố xuất hiện, đám này không làm gì nhưng hay tâu hót, xuất hiện vào giờ này để thu mấy nồi cơm và “mua bán đổi chác” cho QG.
Nhai cơm tù mãi đến tận tháng thứ bảy tay CS điều tra mới xuất hiện lại, y cùng đám chiếu cố dẫn ĐHC đến nơi hỏi cung. Suốt mấy tháng ròng ở trong phòng, bây giờ mới được nhìn thấy bầu trời xanh, được thở hít cái không khí bên ngoài, sao mà khoan khoái thế.
Tay CS điều tra lịch sự mời hút một điếu thuốc, y cười hì hì, làm như mấy tháng vừa rồi ĐHC ở khách sạn ba sao không bằng. Y lặp lại mấy câu hỏi cũ xì như tên, tuổi, nghề nghiệp, thường trú…
Sau đó y vừa hỏi vừa viết vào biên bản:
- Tôi đã đi xác minh, không hề có ai tên Đồng Đen như anh kể… cũng đã gặp lại tay chủ ghe buôn và một vài người, họ cũng nói chỉ thấy một mình anh…
Phen này thì đúng là tiêu rồi, không lẽ lúc xuống thuyền Đồng Đen chơi bùa ẩn thân, ngoài ĐHC ra thì không ai nhìn thấy y? điều này cũng có thể lắm. Hơn nữa ở xứ này có một đường dây chuyên mang “hàng nóng” từ CPC về VN, nên họ nghi ngờ cũng phải, ngoài ĐHC ra còn mấy tay khác cũng bị dính vì tội danh này.
- Cô gái vẫn khai là đi chung với anh, chúng tôi cũng đang xác minh, có điều cô ta ở bên Miên, không rõ nguồn gốc nên hơi khó…
Cô gái này tên Châu, lai Kh’mer, vào trong này được đặt là “Châu Pha”, cô ta nổi tiếng là “hoa khôi trong tù”, đám chiếu cố bu theo “hoa thơm chia nhau mỗi thằng hít một ít”. Bọn này thường lợi dụng lúc sáng sớm, phải đi quét dọn trước sân, đáp sang phòng nữ “quan hệ”, hoặc lợi dụng lúc bán đồ căn-tin để “mó máy” này nọ. Bên nữ thì khá nhiều em ở ngoài đời vốn dĩ làm gái, chỉ cần có “đồ ăn, tiền, thuốc lá…” cho mấy em là muốn gì cũng chiều. Lâu lâu có em lại nổi hứng leo lên cửa sổ “xô hàng” cho mấy anh xem.
Cô Châu Pha này từng làm gái ở mấy Casino bên Miên, thỉnh thoảng cũng leo lên cửa sổ hát:
“…Anh nghĩ gì khi thấy em
Lặng lẽ từng đêm phấn son nhạt nhoà
Lặng lẽ từng đêm khói bay mịt mờ
Ngồi nơi vũ trường…
…Đừng xem em như cánh chim hoang bay về đêm…”

Sau cô được thả vì xác minh lại mấy viên thuốc trăng trắng là thuốc cảm bình thường, nên chỉ bị cái tội “nhập cảnh trái phép” án xử vừa bằng những ngày tạm giam, có thể cô ta cũng là một đệ tử của Mười Hổ không chừng, chắc là ông ta muốn cho ĐHC nếm mùi tù sương sương để hoảng sợ mà tự biến đi… Ông ta đâu có nghĩ là sau khi thấy cái giếng được sửa rồi thì ĐHC cũng muốn chạy ngay nhưng không kịp.
Sau khi kết thúc điều tra thì mới được gặp mặt người thân, chờ đợi mãi cuối cùng cũng đến lượt…. Hôm ấy đang nằm mốc meo trong phòng thì nghe tin có người đến gặp mặt… phòng gặp được ngăn cách bằng một lớp lưới mắt cáo, tay QG lúc nào cũng kè kè ngồi sau vì sợ đám thân nhân của tù tuồn đồ cấm vào như ma túy, thuốc lá hay vật nhọn, lưỡi cưa… và cũng cấm tù không được kể về những khổ cực ở trong này, nếu nói lung tung khi vào sẽ bị ăn đòn ngay.
Ngồi bên cạnh là một đại gia ma túy án rất nặng. Người này lúc ở ngoài có điền trang rộng lớn, chủ mấy nhà hàng, khách sạn, tiền nhiều còn hơn nước biển. Bây giờ thì người thân đã bỏ hết, chỉ còn một cô con gái nhỏ. Một ông trùm hiển hách ngày nào, cuộc sống vênh vang, nhà lầu xe hơi, cơm bưng nước rót, kẻ bợ người nịnh nay chỉ là cái quá khứ xa xưa, cái còn lại cuối cùng chỉ là một mẩu nhỏ của máu thịt ruột rà.
Cô bé nom rất xinh xắn, chắc còn đang đi học, độ mười lăm mười sáu tuổi, vừa nói chuyện với bố vừa khóc thút thít. Tay đại gia chân thì bị xiềng, tay còn bị còng nhưng nói chuyện rất bình tĩnh và điềm đạm, nhìn kỹ mới thấy hai bàn tay của y hơi run run “…Ở nhà ráng săn sóc bà nội thay bố, nhớ đừng bỏ học nghe con…”. Chắc y biết chuyến đi này phải “lên dĩa” rồi nên cố dặn dò con gái. Trước khi chết sao ai cũng nói những lời chân tình tha thiết như thế? Phải chi bình thường mà con người biết nghĩ, biết nói như thế thì… Để được gặp mặt cha, cô gái nhỏ chắc đã phải vượt một quãng đường rất dài một thân một mình, và chắc chắn biết bao cạm bẫy sẽ còn chờ cô trong cuộc sống côi cút sắp tới.
Bên ngoài còn có một phụ nữ trẻ ẵm một đứa bé chừng hơn một tuổi, chắc là đi thăm chồng nhưng không được cho gặp, cô ta cứ đứng tần ngần, muốn nhắn gì đó nhưng ngay lập tức bị mời ra ngoài, mãi sau này mới biết đó là vợ của BDH.
Ngồi chờ mãi, một lúc sau thì thấy… Tiêu Thu Thu xuất hiện.
Cô ta vẫn như ngày nào, tươi như bông hoa của mùa Xuân.
Tiêu Thu Thu tỏ ra khá xúc động, những bi kịch cuộc đời, sự chia ly mất mát có lẽ còn xa lạ đối với cô, cũng may là cô ta kìm nén không bật khóc, chứ nước mắt đàn bà là thứ dễ làm người đàn ông trở nên mềm yếu. Cô ta hỏi thăm đủ thứ, và kể - “đại gia N.K. tự nhiên thấy anh biến mất, hỏi thăm khắp nơi cũng không ai biết, quay lại bên Miên tìm cái người dẫn đường lúc trước có tên là Đồng Đen thì cũng chẳng có tăm hơi gì, cuối cùng em mới sực nhớ trước đây anh kể có một người quen tên là Tám Ai chạy xe ôm… phải ra bến xe dò tìm mãi mới gặp được. Anh Tám chở em đến công trường khai thác đá gặp ông Huyền Hòm, năn nỉ ổng tìm anh giúp, mãi sau ổng mới nhận lời, cuối cùng dò ra được là anh rớt vào trong này” - Tiêu Thu Thu nói sẽ thuê luật sư để ra tòa bào chữa, cô ta không hiểu rằng mưu kế của Mười Hổ đâu phải là đơn giản, dễ như thế thì cái câu “Mười Hổ độc hơn rắn hổ” còn có cái giá trị gì nữa? – Hơn nữa ĐHC cũng nói cho cô hiểu rằng ba cái tội danh này nếu lỡ có án thì cũng nhẹ hều, thời gian ở tạm giam cũng muốn hết án rồi, đâu có đáng gì mà phải tốn tiền này nọ. Ngẫu nhiên rơi vào trong này đâm ra lại biết được tận cùng của xã hội là như thế nào, có từng sống ở cái “địa ngục trần gian” này thì khi về với cuộc đời bên ngoài mới biết quý trọng cuộc sống của chính mình, của gia đình, vợ con, bè bạn… đó chính là cái “Thiên Đường” có thật, không cần phải mơ mộng tới cái cõi Niết bàn xa xôi nào đó mà làm gì. Đây là một cơ hội để mở rộng tầm mắt tới những vùng cấm địa mà người đời thường ghê sợ… được thấy bao số phận, bao bài học đời người… vì thế nhiều khi về đời có gặp Mười Hổ không chừng lại phải “cảm ơn” ông ta là khác.
Dù sao thì có sự thăm hỏi cũng còn hơn là không có gì, ở trong này lắm kẻ từ lúc vào tù đến lúc ra tù chẳng có ma nào ghé thăm cả. Cá biệt có người ở tù còn nhiều hơn ở ngoài đời như Tư Cá chẳng hạn, y là một tay trộm đường thủy, hầu như suốt mấy chục năm nay chưa hề được ăn cái tết ở ngoài đời, hễ ra tù là y lại làm chuyện rồ dại để trở vào nữa, đó là những người cảm thấy nhà tù giống như là “nhà” của họ.
Nhờ thời gian rảnh rỗi ở trong này mà suy nghĩ được nhiều chuyện, chứ ở ngoài đời lúc nào cũng chăm bẵm ba cái vụ công danh sự nghiệp, không thì chúi mũi kiếm tiền, đâu có rảnh rang mà “suy tư” cái con khỉ gì được? – Hơn nữa môi trường này tiếp xúc rất nhiều, từ một đại gia KT mắc tội trốn thuế GTGT đến một thầy giáo phạm tội hiếp dâm học sinh, đám buôn lậu đường dài, đám đầu trộm đuôi cướp, buôn ma túy, ma cô đủ cả… Mỗi một con người đều có một cuộc đời khác biệt với những tâm tư mà ở trong này họ mới có dịp để phô bày. Có người làm ăn đàng hoàng nhưng lỡ thua lỗ mà phải vào đây, người thì vì tranh chấp đất đai dẫn đến đánh nhau gây ra thương tích… cũng lắm kẻ lưu manh, thủ đoạn, lừa đảo, vào tù ra khám như cơm bữa. Nơi này là cả một kho tàng về đời sống mà đâu phải lúc nào cũng có cơ may gặp được?
Ở đây mà râu nhiều thì phải lấy miểng chai cạo đau rát cả cằm, còn không thì lấy sơi dây “se râu” phựt phựt cứ như là đang sống ở thời tiền sử. Có nhiều thằng nhỏ thuộc dạng khù khờ, thiểu năng, chậm phát triển, thường là phạm tội hiếp dâm trẻ em, trong lúc chờ đưa đi khám tâm thần cũng bị nhốt. Những thằng này hay bị bạn tù ăn hiếp, đổ tội, được xem là “có số hạp với ba-trắc”, lâu lâu lại bị QG lôi ra đánh khơi khơi giải sầu, riết rồi bị nội thương, ho khục khục suốt.
Có nhiều người như thằng Chệt rất khéo tay, nó lấy mấy bịch ni-lon xé nhỏ ra, cuộn lại và kéo dài ra thành từng sợi, đan thành những con tôm cực kỳ đẹp. Ở đây hầu như người tù nào cũng biết đan tôm, đó là một cách giết thời gian hiệu quả nhất, đồng thời lại có một món đồ để làm kỷ niệm. Do không được sử dụng đinh nên tù dùng cái que nhọn khoét vào tường thành một cái lỗ, sau đó đốt một đầu sợi ni-lon nhét vào làm cái móc treo tường, chắc không thể tả.
Khi mâu thuẫn quá gay gắt thì không đấu bằng tay chân nữa mà chuyển qua đấu bằng thứ khác, đó là lần đấu giữa hai thằng khá cộm cán là thằng Nưa và Điền Lâu Đài.
Điền Lâu Đài xăm một cái lâu đài theo kiểu Hồi giáo sau lưng rất đẹp, phía trên là những con dơi quỷ nhỏ nhỏ bay chấp chới, phía dưới có con đường độc đạo đầy rắn rít. Tên cúng cơm của y là Lưu Điền, nghe đồn ở ngoài đời là đàn em thân tín của Lâm Dơi, hai thằng còn là anh em chú bác. Y là trùm một băng chuyên xách giỏ và quái xế, khoảng hơn mười thằng như “Hiếu Ngựa”, “Sơn Chém”, “Tâm Lỳ”… đều mồ côi bố mẹ từ bé, sống lang thang đầu đường xó chợ, cuối cùng xáp với nhau lập thành một băng để cùng kiếm sống. Sở dĩ ĐHC hầu như biết hết vì trong quá trình ở tạm giam cũng luân chuyển qua khá nhiều phòng.
Suy cho cùng thì bọn này khởi đầu đều là nhưng đứa trẻ bất hạnh, bị bố mẹ bỏ rơi, phải tự bươn chải kiếm sống, ăn mày, lượm bịch ni-lon từ cái thời mà những đứa trẻ cùng trang lứa nếu có gia đình đàng hoàng còn đang ngồi coi phim hoạt hình. Trong băng có một đứa con gái tên Rum, phải đi ở đợ từ lúc năm sáu tuổi, sau đó thì bị hiếp dâm, làm gái từ năm mới 12 tuổi, bây giờ trở thành một đàn chị giang hồ. Thuở nhỏ thì là nạn nhân, khi trưởng thành thì trở thành tai họa cho xã hội, cũng là cái vòng luẩn quẩn của cuộc đời mà không ai có thể thoát ra được.
Còn thằng Nưa thì chẳng biết tên gì, nó có cái mũi hỉnh hỉnh như con nưa nên đặt là thằng Nưa. Thằng Nưa phạm tội giết người trong một vụ đá gà, y tuyên bố xanh rờn “kẻ chiến thắng thì mới được vào trong này, còn thua thì đã xanh cỏ rồi”. Hai thằng này bị kỷ luật liên tục, chuyển lòng vòng khắp các phòng, gặp nhau ở đây lại khiêu chiến với nhau nữa, vì đều là dân anh chị nên không đấu như bình thường mà đấu bằng một thứ rất đặc biệt. Bọn tù lấy hai cái lon nhỏ bằng mủ, trét kem đánh răng trong ngoài, sau đó đổ đầy nhựa được nấu chảy từ bịch ni-lon vào, thứ nhựa này nóng không thể tả, hai thằng thách đấu sẽ đứng sát hai đầu phòng, cách nhau khoảng hai chục mét, cầm cái lon cháy phừng phừng trong tay, sau đó phóng thật nhanh đến ụp vào nhau, cách đấu này gọi là “Đấu hỏa tốc”, rất rùng rợn...
Còn nói về chuyện ma trong tù thì có cả một kho vô tận… phòng của ĐHC ở trước đây là khu giam tù nữ, tên của họ còn viết đầy trên vách tường, có cả tên người nước ngoài, tên tiếng Anh, tiếng Tàu, tiếng Miên đủ cả. Thường thì nữ tù rất dễ xao động, nhớ nhà và hay tự tử nên những lời đồn thổi về “Ma Thần Vòng” rất khiếp. Nếu ai có ý muốn tự vận thì “Ma Thần Vòng” sẽ biết ngay và ám ảnh người đó, có dịp là nó sẽ khiến người ta tự tử liền, nhất là dưới khu biệt giam. Trong phòng từng có một cô dùng cái khăn treo cổ dưới xà-lảng, chết rồi biến thành ma quậy phá rất dữ, hay trêu chọc tù. Đó là chưa kể có lần cái tay nằm ngủ cạnh ĐHC tên Liêm Bo buổi tối còn nói chuyện bình thường, đến sáng thì chết còng queo, chẳng hiểu là tại làm sao. Một hôm thằng Méo đang ngủ thì bị ma đè kêu ầm ĩ, còn tay đại gia TH can tội buôn lậu thì nửa đêm liên tục bị một cô gái tóc xõa kéo chân không cho ngủ, sợ quá phải bỏ tiền ra xin QG cho chuyển sang phòng khác.
Có điều mơ thấy ma thì còn không sao, chứ mơ thấy “Chúa Ngục” thì coi như đi đứt. Theo như mô tả của những người từng thấy thì “Chúa Ngục” to khổng lồ, đen sì sì, trên người đeo đầy xiềng xích, cổ thì đeo gông. Trong mơ mà gặp “Chúa Ngục” thì xem như số đã tận, đã được Ngài chấm, trước sau gì cũng phải bỏ thây trong tù.
Buổi tối nơi này không bao giờ được ngủ yên, mấy tay QG và chiếu cố cứ cách một tiếng là đi vòng vòng, dùng ba-trắc đập vào cửa rầm rầm, mấy tên tù trực đêm phải báo cáo quân số, đại loại “Báo cáo cán bộ, phòng… tổng số …, hiện diện….có mặt đủ, báo cáo hết”, cứ ầm ầm suốt đêm như vậy nên ai không quen thì không tài nào ngủ được. Lần đó đến phiên thằng Mọi và thằng Lác trực, nghe tiếng ba-trắc quật vào cửa cái rầm, theo thói quen liền vọt miệng “báo cáo…” không dè từ cái lỗ ngoài cửa có hai con mắt đỏ ké, sáng rực nhìn vào, rồi một cái mặt to bằng cái mâm, lưỡi đỏ thè lè chui vào cái lỗ làm hai thằng hoảng hồn la ầm ĩ, báo hại hôm đó mất ngủ luôn, thằng Lác mấy hôm sau còn chưa hoàn hồn, cứ như là bị ma bắt mất vía vậy.
Thỉnh thoảng đám chiếu cố còn thấy một cái bóng trắng bay phấp phới từ cây xoài này qua cây xoài khác trong những đêm mưa lâm thâm, những lúc như thế bầy chó tru lên nghe nổi ốc đầy mình.
Chó ở đây ban đêm không sủa mà tru nghe rất khủng khiếp, cả bầy chó tru lên từng hồi, có lẽ là do chúng thấy ma nhiều quá?
Do gần gũi nhau lâu ngày nên bạn trong một phòng giam rất dễ trở thành thân thiết, tâm sự với nhau đủ thứ. Đám cảnh sát ĐT cũng biết rõ chuyện này nên lâu lâu lại cho một vài thằng chiếu cố giả làm tù mới vào trong phòng để nghe ngóng tình hình, mấy thằng này gọi là “nhảy xô”, không cẩn thận mà tâm sự lung tung có ngày lãnh đủ. Ở dưới khu biệt giam cũng thế, người tù mới bất kể là nam hay nữ bao giờ cũng có một chiếu cố ở kèm, để canh chừng không cho họ tự tử đồng thời cũng tỉ tê hỏi chuyện chân tình này nọ. Mấy đại gia KT mới vào tù lần đầu tiên, đang chăn êm nệm ấm, xe đưa người rước, ăn toàn cao lương mỹ vị, bỗng dưng rơi vào căn phòng hơn tám mét vuông, kín mít như hũ, suốt ngày nằm bệ xi măng, ăn cơm hẩm, uống nước sống nên tinh thần hoảng loạn, tai lại nghe lời nói ngọt ngào thủ thỉ nên bị “dính đạn” là thường, bọn này được trả tiền hẳn hòi, gọi là tiền “lao tác”. Tuy nhiên với những kẻ từng có tiền án rồi thì cách này không ăn thua, nhiều tay nhảy xô còn bị “đinh” cho một trận, sợ quá đá cửa rầm rầm xin QG cho ra ngoài.
Căng dây đánh nhau suốt cũng đến ngày bị bể chuyện, là do CS điều tra thấy mấy thằng tù được gọi ra để xét hỏi mặt mày sưng húp. Mặc dù cả đám đều nói là do té ngã.v.v.., nhưng cuối cùng rồi cũng có thằng lộ chuyện, kết quả BDH bị đi phòng kỷ luật cùm chân, còn tay trật tự phòng thì bị lôi ra ngoài, ngồi chồm hổm, hai tay bị còng đưa ra trước…
Quản giáo tên W tay cầm ba-trắc đứng khừng khựng, xung quanh y luôn có mấy thằng chiếu cố - “Bình” - Cú đánh vào lưng phát ra tiếng nghe như sấm nổ - “cái tội bao che cho đấu võ đài này… hôm nay cho mày được đấu…”
Tay “trật tự” ăn chẵn chục ba-trắc cả thảy, miệng rối rít “… lạy cán bộ… xin cán bộ tha cho em…”, may là y có chung chi nên vẫn được cho làm trật tự như cũ.
Quản W nổi tiếng khoái đánh tù, ngay cả tù nữ lâu lâu cũng bị lôi ra đánh bầm lưng vì những tội lảng nhách như “leo lên cửa sổ hát giao lưu” hay cãi nhau, ăn cắp, trình chỏ lung tung… Nhưng chính y sau này cũng bị chuyển ra gác chuồng cu vì bị chiếu cố phản, “chỏ” với giám thị là bán thuốc lá cho tù.
Không bán sao được vì chỉ cần bán vài cây thuốc là đủ để sắm xế xịn rồi.
Vì thế người này đi thì có kẻ khác thay liền, tù vẫn luôn có thuốc hút phà phà… Mấy tay này còn có nhiều cách để kiếm thêm như thân nhân của tù lén gửi tiền vào, cứ một triệu thì cắt lại sáu trăm.v.v.. Chứ sống bằng lương coi ngục thì chỉ có nước cho vợ con đi ăn mày. Ở những vụ án lớn, nhất là án KT có đông người tham gia mà nhốt chung vào một trại giam thì chính vì sự tham lam, ham tiền của QG và đám chiếu cố mà luôn có sự “thông cung” dễ dàng. Chỉ cần cho tiền nhiều là có thể thư từ qua lại, liên lạc về nhà ngay trong lúc đang bị biệt giam để xét hỏi.
Nói vậy chứ mấy tay QG coi khu tử hình là cực khổ hơn cả, trách nhiệm vừa nặng mà quyền lợi thì không có gì vì đám này phần lớn đã bị thân nhân từ bỏ, hầu như suốt ngày phải nghe tù chửi, tù khóc. Tuy là “tù tử hình” nhưng vẫn phải canh chừng suốt ngày đêm không cho tù tự tử để đảm bảo việc thi hành án… nên cực khổ trăm bề.

Sau lần đó, ĐHC lên nằm cạnh cửa sổ, thế vào chỗ của BDH, đây là chỗ nằm tương đối mát nhất, nhưng những lúc mưa thì lại hơi bị lạnh. Thế vào chỗ của BDH thì đêm đêm có đàn em đấm bóp, có món mì gói nấu với củ hành ăn đàng hoàng, không phải ăn món “mì nước lạnh” như mọi khi, bù lại tinh thần lúc nào cũng căng thẳng vì phải phân xử mọi chuyện… Nhiều khi cả phòng đang say sưa hát bất ngờ có tay QG đi xuống, phải ra nhận thay cho cả đám, ăn mấy ba-trắc vào lưng hay bàn tay là chuyện thường.
Nơi đây lúc nào điện cũng sáng rực, đố có dám cúp. Kể ra thi thoảng cũng có sự cố hư điện chừng 15 hay 20 phút, những lúc này rất nguy hiểm vì đám tù thù oán nhau lợi dụng trong phòng tối đen ra tay đánh lén, đánh kiểu này gọi là “đánh nguội”, khi đèn sáng lại thì thấy có thằng lăn đùng ra nằm một đống mà chẳng biết là ai đã ra tay cả.
Ngán nhất là đám COCC mới phạm tội lần đầu vì ba cái chuyện đánh nhau vớ vẩn… vì gia đình có nhiều tiền của, thế lực nên lo lót tích cực từ bên ngoài, vào trong này vẫn tiếp tục quậy phá, hành động rất thiếu suy nghĩ. Đám này nếu chỉ có một mình thì rất nhát, nhưng kết thành một bầy thì lại liều lĩnh, nguy hiểm nên phải trấn áp ngay từ khi còn là “tù con so”, chứ để chúng “bật số’ lên dễ dẫn đến bạo động.
Cờ tướng là một môn được yêu thích nhất, có lẽ vì đó là cách giết thời gian tốt nhất. Có khá nhiều cao thủ về cờ ở trong này, chắc là do chơi từ ngày này qua ngày khác nên giỏi không chừng? – Tuy nhiên đánh cờ cũng bị cấm, nếu bị bắt thì hai “cao thủ cờ tướng” lại khăn gói xuống khu kỷ luật ở là bình thường.
Có lẽ đây là một môi trường mà tinh thần con người được rèn luyện một cách mãnh liệt nhất, “chốn lao tù là nơi ta rèn tâm trí, đây cũng là chiến trường mà ta không cần vũ khí…”.
Đặc biệt là khi bị “biệt giam”, khi đó sự cô đơn là đến tột cùng… Đối với nhà tu hành tự nguyện giam mình trong mật thất, cô đơn là con đường để đi đến sự giác ngộ. Còn với một người tù bị biệt giam, sống với một tinh thần căng thẳng, rất nhiều người dễ bị khủng hoảng. Tuy nhiên nếu vượt qua được thì đó là một sự rèn luyện tâm trí hoàn hảo nhất mà con người có thể có được. Thời gian cứ trôi từng giây, từng giây… một ngày có cảm giác dài như hàng thiên thu vậy. Cuối cùng thì cũng đến ngày ra tòa lãnh án, khi có án rồi sẽ được chuyển qua phòng mới dành cho phạm nhân có án, một dạng phòng chờ để đến một ngày chính thức được đưa đến một nơi gọi là “trại cải tạo”, còn ở đây thì chỉ dùng một từ rất đơn giản là “đi trường”.
Phòng mới có tay Đại Bàng là K.Z, cũng tội buôn ma túy. Lúc ở ngoài đời y còn kiêm thêm nghề cho vay nặng lãi và đòi nợ mướn. Y nhìn cứ như con sói, cặp mắt sắc lạnh, điên dại như cặp mắt sói còn khi cười thì… chẳng biết y có cười hay không nhưng chắc con sói mà cười thì nom cũng tương tự.
Vì thế sau lưng bạn tù còn gọi K.Z là “Sói Điên”.
Y là kẻ nửa điên nửa tỉnh, nổi điên ngay khi có kẻ nào động chạm đến quyền lợi của y, và chỉ tỉnh trong lúc… ngủ.
Y lãnh án chung thân vì mấy tội danh, người bình thường mà ăn cái án chung thân thì “té xỉu” liền chứ đại ca Sói Điên lại mừng húm vì “không lên dĩa là may lắm rồi”. Y có giọng hát thật hay và xăm mình thì cực đẹp, y tuyên bố một câu nổi tiếng “TÙ TỘI LÀ AN TOÀN”. Đại ca “Sói Điên” trịnh trọng viết câu này thật to lên vách tường. Câu châm ngôn này có vẻ cũng đúng vì khá nhiều người trốn nợ bằng cách chui vào trong này, vô đây rồi có mấy lớp cửa sắt bảo vệ, xung quanh lính gác dày đặc, đám chủ nợ có tài thánh cũng không dám mò tới.
Thày Tư cũng là một người như vậy, nghe đâu ông ta làm ăn thua lỗ, vay nóng, hốt hụi non, mất khả năng chi trả lên đến cả mấy tỉ bạc…
Thày nom rất “tiên phong đạo cốt”, nên được làm trật tự trong phòng. Có điều Thày Tư lại nhát gan và hơi bị lịch sự, nhiều chuyện đáng lẽ phải kêu thằng tù lên vả cho mấy cái để dằn mặt thì Thày lại nói chuyện nhỏ nhẹ, ráng khảy cái đàn “đạo đức” vào lỗ tai trâu của mấy thằng bợm nên đám tù đâu có sợ, trong phòng sở dĩ bình yên là nhờ ở Đại ca “Sói Điên”.
Một thằng bị tố ăn cắp, Đại ca “Sói Điên” kêu lên, y chẳng thèm nói gì vả luôn một cái thật mạnh, thằng tù bị trúng cái tát trời giáng, chúi nhủi, đập trán xuống ngay cạnh xà-lảng nghe cái cốp. Trong lúc cái trán bị sưng lên tù vù thì miệng nó lắp bắp “… cho em xin lỗi… đại ca… lần sau em không dám nữa…”.
Đại ca “Sói Điên” cũng nuôi mấy thằng “mồ côi”, nhưng y không cho bọn này ở gần… lúc nào y cũng mặc một bộ đồ thật sạch sẽ, ngồi xếp bằng trên cái chiếu. Buổi chiều nào mát trời thì y bắt cả phòng im lặng, đại ca “Sói Điên”quay mặt ra cửa sổ và hát… Y thuộc cả mười bài “không tên” và hát thật hay, thật truyền cảm “… một làn khói trắng, ru đời vào quên lãng, nâng sầu thành hơi ấm, xoa dịu tình đau…”.
Trước đây Đại ca “Sói Điên” từng bị QG lôi ra ngoài đánh vì tội “mua bán đổi chác”, không ngờ y bỗng bật dậy chạy tuốt xuống nhà bếp xách được con dao rượt cai ngục và đám chiếu cố chạy vòng vòng, có điều do bị nhốt lâu ngày nên sức yếu, chạy được mấy vòng thì tự ngã nên đám chiếu cố nhảy vào đè bẹp. Lần ấy y bị “giậm” cho một trận “bò lê bò càng”, sau đó bị tống xuống phòng kỷ luật cả nửa năm trời, mãi sau mới được đưa lên phòng lớn trở lại.
Sau này QG cũng dư biết y chuyên cho vay và “mua bán đổi chác” nhưng họ không lôi y ra đánh nữa, có lẽ họ cho rằng K.Z trước sau gì cũng chết trong tù… đánh y chỉ tổ mỏi tay ?
Đôi mắt của y lúc nào cũng vậy, bất cứ ai đều sẽ phải dừng chân khi đi ngang qua đôi mắt ấy, một đôi mắt rừng rực căm thù…
Để trở thành một “Đại Bàng” không phải là điều dễ dàng, đâu phải là cứ có sức mạnh bắp thịt và liều mạng là được, cái quan trọng là phải biết cách cư xử công bằng và đúng đắn với từng người tù. Phải có cái đầu để đối phó với QG hay giám thị, phải đủ bản lĩnh để trấn áp những kẻ ngu dốt, đói ăn, khát uống, phải thận trọng với mọi âm mưu tạo phản, gài bẫy của đám “nhảy xô” và phải luôn cảnh giác với những kẻ có khả năng “bật số”, phải tiêu diệt ngay từ trong ý tưởng sự phản kháng nếu có. Có nhiều tay hữu dũng vô mưu, cư xử hàm hồ cũng tập tành làm Đại Bàng, kết quả là nhiều khi bị đâm lén bằng một thứ vũ khí cực nguy hiểm là cái bàn chải đánh răng được mài nhọn hoắt vào lỗ tai hay nách trong lúc ngủ, hay vào hõm xương quai sanh từ sau lưng…
Đám giang hồ trong tù nhiều thằng cũng thuộc loại cộm cán, đâu có sợ chết, sở dĩ nó nể mặt là vì “đàn anh” biết cách cư xử công bằng, biết đứng ra đỡ cho cả bọn trong những lúc lâm nguy, ví như khi có chuyện lớn xảy ra trong phòng (xét phòng hay bị chỏ có giấu quẹt ga, kéo nhọn, tiền mặt…) nhiều khi Đại Bàng phải ra nhận thay cả bọn, bị “ăn” ba-trắc đến mức “một đi ba vào”, tức một thằng đi ra nhận đòn nằm chèm bẹp, hai thằng phải khiêng vào.
Đại ca “Sói Điên” xếp ĐHC nằm ngủ ngay bên cạnh để đêm đêm tâm sự về SG, về cái quá khứ huy hoàng của y. K.Z đặc biệt là lúc nào cũng nói năng lịch sự, y không bao giờ chửi thề, và đối xử với Thày Tư rất kính trọng. Ngoài đời y cũng có nhà cửa, vợ con hẳn hòi, có lẽ số trời bắt y phải làm tướng cướp.
Số mệnh là cái gì đó mà con người không thể thay đổi được.
Số mệnh là cái gì đó mà con người ta phải chấp nhận.
Đó cũng là điều mà K.Z đã ngộ ra, đã tâm sự trong những đêm dài… Y kể lần ở phòng kỷ luật, bị cùm chân suốt hàng tháng trời chỉ được ăn cơm không với nước lạnh, tóc bạc hết, mắt mờ dần và chân tay trở nên mập phù… may mà từ cái cửa tò vò nhỏ xíu có một sợi dây bên ngoài dòng vào cho một bịch bột nêm, y nhớ mãi cái “bịch bột nêm” đó và đến tận bây giờ cũng không biết là của ai liều mình cho nữa.
Đại ca “Sói Điên” dành khá nhiều thời gian để xăm cho các bạn tù mà y thích, ở đây có nhiều thằng xăm trổ kín cả người… cũng có nhiều hình xăm rất đẹp, rất nghệ thuật và K.Z chính là tác giả của những hình xăm như vậy.
Việc xăm trong tù cũng khá công phu, đầu tiên là phải chuẩn bị mực, thường là dùng dép Lào đốt để lấy muội đen, cách này nguy hiểm ở lúc đốt có mùi rất khét bay xa nên dễ bị lộ. Muội đen này sẽ pha với nước thành một thứ mực đen như mực Tàu, nhưng khi xăm sẽ có màu hơi xanh xanh nên kẻ có kinh nghiệm nhìn một hình xăm sẽ phân biệt đã đâu là hình xăm ở trong tù hay hình xăm lúc còn ở ngoài đời. Kế đến là bẻ một con dao lam làm đôi, sau đó bẻ tiếp để lấy một góc thật nhọn, kẹp góc này vào một cái bàn chải để rạch nét viền. Con dao này phải mua ở bọn chiếu cố, giá cũng khá đắt. Nét viền phải nhờ một người có hoa tay vẽ trước trên giấy, sau đó mới can lên da, hình xăm đẹp hay xấu là ở công đoạn này, đặc biệt K.Z có khả năng vẽ trực tiếp luôn. Rạch nét viền xong rồi thì đến giai đoạn công phu nhất, tức là dùng một cây kim khâu châm liên tục lên hình vẽ, sau đó thoa mực lên, giai đoạn này kéo dài cả mấy ngày tùy theo hình xăm phức tạp như thế nào. Cây kim này xin ở khâu thêu của những người tù có án, do sợ bị lây HIV nên mỗi người đều phải dùng cây kim riêng.
Nói về hình xăm thì muôn màu muôn vẻ, là tất cả những gì mà người tù có thể tưởng tượng ra được. Nó có thể là rồng bay, cọp gầm, đại bàng xòe cánh, rắn ba đầu, cô gái tóc xõa… Là tên của người yêu, là những chữ viết tắt… Nơi xăm đau nhất là phần bụng dưới, còn chỗ ít đau nhất là phần lưng, chỗ eo lưng hay bả vai, nên mấy em dân chơi hay xăm ở chỗ này. Khi bị phát hiện thì QG sẽ cho chiếu cố lấy một cục đá chà thật mạnh lên chỗ xăm đến khi tróc da, lòi mỡ, chỉ cần nghe tiếng gào của người bị xát to còn hơn tiếng gào thét của mấy bà đang đẻ là đủ hiểu nó đau đến cỡ nào.
Nơi đây còn có một con người cũng rất đặc biệt nữa là Tư Bé, anh ta trước đây từng là bộ đội, sau đó phục viên, chuyển về làm QG trong trại giam. Làm lâu thấy nghề này không khá nên chạy chọt chuyển qua bên tòa án, làm ở Ban thi hành án. Đây là một chỗ có phần khá “ngon ăn” vì được chia hoa hồng cao, nhưng mặt trái của nó là thu tiền về nhiều quá nên cũng dễ làm con người động lòng. Làm một thời gian có nhiều tiền, Tư Bé nuôi thêm một cô vợ bé nữa nên nhu cầu về tiền càng ngày càng trở nên cấp thiết. Cô vợ bé nhan sắc mặn mà, da trắng như bông bưởi, nói chuyện với chồng lúc nào cũng dịu dàng. Hôm nào Tư Bé đi nhậu mệt về cô ta không hề la lối mà còn lấy khăn âu yếm lau mặt, tự tay tháo giày, thay đồ nên y cảm thấy sung sướng lắm, chẳng bù cho bà vợ lớn lúc nào cũng gắt gỏng, nhìn thấy là “thương hổng nổi”.
Sau khi thu hồi một số tiền thi hành án của mấy vụ án KT, thay vì phải nộp về Ban thì Tư Bé mang ra mua đất, xây nhà cho cô vợ mới… Sự việc tất nhiên đến lúc cũng đổ bể nên “anh Tư” oai phong ngày nào phải khăn gói vô trong này.
Vào trong này rồi thì Tư Bé mới thấu hiểu cuộc sống bên trong hàng song sắt, mặc dù trước đây cũng có cả chục năm làm công tác QG nhưng y mấy khi bước vào bên trong nên sự hiểu biết về nó còn rất là sơ sài. Có khá nhiều QG nơi đây vốn là đồng nghiệp cũ nên y thuốc diện được ưu đãi, nhưng lâu lâu còn than thở “vô đây rồi mới thấy sao khắc nghiệt quá, tù đối với tù đã tàn bạo rồi mà QG đối với tù còn tàn bạo hơn nhiều…”. Từ lúc Tư Bé đi tù cô vợ bé cũng thăm được một vài lần cho có, sau đó thì mất tăm luôn, chỉ mấy đồng nghiệp ở cơ quan thương tình gửi tiền quà vào nên y đâm ra hận đàn bà, lâu lâu lại nổi hứng ca vọng cổ bài “Lòng dạ đàn bà”:
“Vua nước Sở một hôm lòng thanh thản
Cởi long bào giả dạng một thường dân
Vác cần câu ra ngồi dựa thạch bàn
Lòng vương giả mơ màng theo sóng nước…”
Gió động ngàn lau khua xào xạc, Sở Vương mới thả hồn theo những chiếc lá rơi tản mạn ở ven …. gành…”
Tằng tăng tăng… tăng tắng tăng tằng…

Đến câu cuối y rống lên thật to:
“ Đàn bà lòng dạ hiểm sâu, đầu môi chót lưỡi nói câu chung tình…”
…………………………….
Ở đời đàn bà cũng như đàn ông, có năm bảy hạng… đâu thể đánh đồng như vậy được? Nếu anh dùng tiền bạc để mua chuộc tình yêu thì đến khi hết tiền tình cũng phải bay theo, đó là điều quá bình thường, đâu cần phải suy nghĩ nhiều mới hiểu?
Còn có một người nữa tự xưng là “Bảo-cao-bồi”, là tài xế xe tải đường dài, trong một lần sảy tay cán chết mấy người nên phải vào trong này. Bảo-cao-bồi ở ngoài khoái đội cái mũ giống như dân Cowboy Texas, ngậm điếu thuốc trễ trễ bên mép, mặc cái quần rằn ri sáu túi của lính. Vào trong này tất nhiên là phải lột mũ ra rồi, còn thuốc thì làm đếch gì có mà hút… nhưng y vẫn luôn luôn tỏ ra là dân anh chị chịu chơi. Một lần Đại ca Sói điên hỏi “thấy mày ngồi ngẩn ngơ suốt ngày, hay mày nhớ vợ?” – “tôi không nhớ vợ” – “thế mày nhớ con?” – “tôi không nhớ con” – “ vậy mày nhớ cái gì?” - Bảo-cao-bồi có tật lắc lắc cái đầu, y trầm ngâm một lúc rồi nói “tôi nhớ bạn bè “trên bốn vùng chiến thuật” – cả đám tù cười rầm rầm, Đại ca Sói điên bèn nói “vậy mày phải hát thật hay, nêu không thì thụt dầu một trăm cái”.
Bảo-cao-bồi lại lắc lắc cái đầu, y cất tiếng ca:
“… Mây mù trên núi cao rừng sương che lối vào, đồng ruộng mông mênh lúa, đêm đêm nằm đường ngăn bước thù áo nhà binh thương lính, lính thương quê vì đời mà đi… Ân tình theo gót chân mòn đi xa đánh trận, gặp gỡ trong cơn lốc, xưng tao gọi mày thương quá gần bốn vùng mang lưu luyến nước bâng khuâng của vạn người thân…”.
Tối hôm ấy nằm ngủ tự nhiên lại mơ thấy dạo bước nơi phố cổ, mơ thấy ăn kem ở ngay Bờ Hồ trong tiết trời se lạnh. Cây dương liễu ngả mình soi bóng, và xa xa từng sóng nước lăn tăn. Mặt hồ phủ một làn sương mờ mờ ảo ảo, làn gió chẳng biết thổi từ phương nào phả lên mặt một luồng mát lạnh. Cái cảm giác bâng khuâng, nhung nhớ khi đi trên con đường này, có lẽ ai rồi cũng có thể trải qua khi đứng dưới cái nắng vàng buồn bã, khi đứng dưới một góc nhà đơn sơ, cổ kính.
Lúc đó Tiêu Thu Thu cũng dừng chân, cô ta quá quen thuộc với nơi này, tuổi thơ đã trôi qua ở nơi này, miệng cô lẩm nhẩm, nhưng không phải là hát mà là đang nói chuyện với những chiếc lá vàng rơi…
Nằm mơ như thế thật là linh ứng, mới sáng sớm hôm sau đã được báo có người tới gặp mặt.
Lần thứ hai gặp lại Tiêu Thu Thu thì được biết đại gia N.K. ở bên ngoài cũng đang bị CA điều tra mời lên mời xuống, hình như mấy dự án lớn gì đó có vấn đề, số tiền thất thoát lên đến nhiều tỷ… Nếu bị dính vào tù tội thì án sẽ rất nặng, còn may mắn thoát được thì cũng phải hao tốn cả nửa gia tài…
Sự lo lắng làm Tiêu Thu Thu nom hơi tiều tụy, và thật là kinh ngạc, lúc này mới thấy cô ta đẹp hơn bao giờ hết, có lẽ gương mặt gầy ốm làm đôi mắt trở nên to hơn, nỗi buồn làm nụ cười trở nên sâu lắng hơn và bi kịch cuộc đời làm cách nói chuyện trở nên sâu sắc hơn chăng?
Lúc này cô ta mà hát thì chắc là hay lắm lắm…
Nhưng Tiêu Thu Thu không hát, cô ta lại nói thì thầm “anh có hay tin gì không? – Mười Hổ bị dính luôn rồi đó, nghe nói vụ này lớn lắm” – thảo nào mấy bữa rày nghe đám chiếu cố đồn dưới khu biệt giam có một ông già nom “oai phong” lắm, có thể là Mười Hổ không chừng ?
Thật vô lý, Mười Hổ đang ở bên Miên, lại có bùa “thiên linh thiên nhãn” làm sao mà bị bắt được? Hiển nhiên trong này còn có nhiều chuyện khúc mắc nữa. Mười Hổ mà vào trong này thì “giang hồ” chắc sẽ có một phen dậy sóng rồi.
Có điều không kịp gặp Mười Hổ ở đây, nửa khuya hôm đó nghe tiếng mở cửa rầm rầm… có tiếng kêu tên ĐHC trong đêm… đã đến lúc phải “đi trường” rồi.
Lại phải ra đi trong đêm lần nữa, bấy giờ không gian tràn hơi lạnh, mặt trời còn chưa mọc và bóng tối thì ngập ngụa. Đến “trường” là đã sáng bảnh mắt rồi, phải ngồi chờ mỏi cả gối mới xong ba cái thủ tục “nhận quân”. Trường này xem ra khác hẳn với các trường học bên ngoài, nhưng nói không ngoa, nó là một thứ “trường đời” ở đẳng cấp đại học, một thứ đại học của dây kẽm gai, của mồ hôi và máu.
Tường ở đâu mà nhiều thế, vòng trong vòng ngoài, cao vòi vọi, dây thép gai thì cuồn cuộn giăng kín, xung quanh dày đặc các chòi gác cao sừng sững giống như những đồn bốt trong thời chiến. Bước vào nơi này xem như tương lai đã tắt lặn, mặt trời có lẽ cũng tắt lặn ở cái chỗ kinh khủng như thế này.
Tay QG mặt hằm hằm, kẻ nào giở áo ra mà thấy có xăm mình đều được y “phạng” cho mấy ba-trắc vào lưng, vào vai để “dằn phèn”. Còn khi xuống khám y tế, vô phúc thằng nào bị phát hiện có “xỏ hầu, lận bi…” thì được “ăn ba-trắc” thêm nữa, có khi còn bị quất ngay chỗ đó, rống lên như bò rống. Tay bác sĩ rít lên the thé “cây hàng của nó to như thế này… đủ làm các bà các cô chết mẹ rồi… nó còn lận thêm cả chục viên bi nữa… này thì ông cho mày lận bi này…”.
Cái vụ “xỏ hầu, lận bi…” này khá phổ biến, đó là chiêu của mấy “dân chơi” dùng để quyến rũ các bà góa sồn sồn, các cô gái làng chơi…
“Xỏ hầu” là lấy một sợi lông ngựa xuyên qua chỗ ấy, có khi còn dùng cả thanh nhựa xỏ xuyên qua, lắp thêm hai cục bi nhựa hai bên gọi là “xỏ tạ”, một thanh thì gọi là “đơn đao phó hội” hai thanh thì là “song kiếm hợp bích”. Còn “Lận bi” là lấy mấy viên nhựa mài thành những viên bi tròn nhỏ rồi mổ chỗ ấy ra lận vào, có thằng lận cả chục viên, khi cương lên nhìn cứ như là đầu con kỳ lân. Những viên bi hay lông ngựa này sẽ xát vào trong âm đạo người đàn bà tạo thành những lằn, những rãnh, mà kẻ khác không lận bi sẽ không bao giờ làm được. Những lằn rãnh này tạo cái ngứa, cái khoái cảm đặc biệt, khi không có nó thì không chịu nổi, vì thế nhiều bà, nhiều cô có nhu cầu tình dục cao bỏ cả gia đình, chồng con si mê đi theo thằng giang hồ không ra gì mà không ai giải thích được. Các bà thì mắc cỡ, đâu có dám nói thật là cái khoái cảm tột đỉnh đó làm mình tơi tả, giống như một trinh nữ lần đầu tiên được nếm trải mùi đời. Gia đình, hàng xóm thì đồn là “bùa yêu” này nọ, rước thầy bà về “giải thư, giải ếm” chỉ tổ tốn tiền mà chẳng được cái tích sự gì. Cái sự thật trần trụi đó chỉ có người trong cuộc mới biết, nhưng giấu kỹ, pháp sư có “ba đầu sáu tay” cũng chẳng làm gì được. Sau này nhiều người còn qua Thái học được chiêu “bắn la-de”, làm cái đó khi cương lên nở to ra như bông “súp-lơ”, dùng cái tuyệt chiêu đó cộng thêm cái bản lãnh trải đời lọc lõi, tài ăn nói, nịnh đầm dẻo quẹo để đi dụ các bà góa sồn sồn đang độ hồi xuân, các bà tiểu thương ngoài chợ, các cô buôn bán đường dài… lắm tiền nhiều của nhưng thiếu thốn tình cảm, mấy ai biết được mà tránh?
Biết bao con người phải chôn vùi tuổi trẻ ở trong này, chôn vùi cuộc đời ở trong này, hẳn là cái nghiệp phải trả của kiếp này hoặc kiếp trước. Cuộc sống ở đây chủ yếu là lao động, một thứ lao động khổ sai thực sự. Có khá nhiều khâu khác nhau như thêu, mộc, xây dựng, làm đồng, làm vườn, trồng rừng, làm bếp, làm điều.v.v.. Năm giờ sáng là nghe tiếng kẻng bao thức, đầu tiên là ba tiếng thật to:
- Keng… Keng… Keng …
Sau đó là một tràng cực dài… keng, keng, keng, keng, keng, keng… keng….
Nó là một cái điệp khúc ám ảnh ghê gớm, nếu không nói là suốt cuộc đời. Nghe tiếng kẻng lập tức phải bật dậy tranh thủ súc miệng, rửa mặt bằng cái thứ nước phèn chát chát, sau đó là xếp hàng điểm danh, bắt đầu cho một ngày làm việc nhọc nhằn.
Khổ nhất là vào mùa nước nổi, ruộng đồng nước ngập mênh mông, trời lạnh ngăn ngắt, răng va cầm cập, môi thâm sì sì mà phải lặn xuông dòng nước sâu để móc từng khối đất sét to tổ bố lên để đắp bờ. Vô phúc thằng nào mà móc cục đất nhỏ đưa lên thì ngay lập tức bị tay đội trưởng đứng bên trên cầm thanh cừ tràm dài vụt vào lưng thẳng cánh. Để làm gương, tay QG.Z đen thùi lùi như hòn than cũng phóng xuống nước, lặn sâu xuống móc từng khối đất sét cỡ năm chục ký đưa lên. Quản tù mà còn “quần quật” như vậy huống hồ là thằng tù, không phải làm như trâu như bò ?
Đám chuyên “làm ruộng” sợ nhất cái lúc phải ban đất để cấy mạ, mỗi thằng phải đeo một cây gỗ hay cây chuối thật to, chạy phom phom trên đồng, đúng là cái cảnh “kéo cày thay trâu” thực sự, thằng nào mà chạy chậm lập tức bị “bố” QG ngồi trong lều chửi um sùm, nhiều khi kêu lại quất cho mấy hèo. Cũng may là mấy tay này ra đến ngoài đồng thường là xỉn rồi, chỉ mắc võng nằm ngủ, giao việc lại cho đám đội trưởng quản lý.
Xung quanh QG luôn có mấy thằng tù gọi là “Ba-vớ” chuyên điếu đóm, nấu nướng, giặt giũ, đấm bóp, hầu hạ như đám nô lệ - nhưng bọn này không phải lao động khổ sai và được “xào chẻ” kiếm thêm tiền – thông thường người tù, kể cả đám đại gia KT mới nhập trại muốn tiếp xúc với QG để lo lót cũng phải thông qua bọn này – Mấy tay QG chưa dám gặp trực tiếp tù lạ ngay, sợ bị “cài” nên cho bọn “ba-vớ” tiếp xúc trước để dò hỏi, xem ý định muốn được xếp làm khâu gì, khả năng chung chi đến đâu, gia đình như thế nào… bọn này nhiều khi còn dám ăn chặn, lâu lâu bị “chỏ”, tay QG tức quá lôi ra đập cho một trận “lên bờ xuống ruộng” bò lê bò càng ngay ngoài đồng.
Trong đám “ba-vớ” có thằng Ếch nổi tiếng với tài bắt chuột đồng, bắt lươn và bắt ếch, hôm nào bắt được nhiều thì thằng Ếch mang đi bán bớt, lấy tiền về cho QG, thu nhập mỗi ngày như thế lên đến cả mấy “xị”, bù vào cái tiền lương coi tù còm cõi. Hầu như các ở tất cả các khâu, được coi khâu nào cũng đều phải “xào chẻ” thì mới đủ sống, có tiền sắm ti vi, xe máy cho vợ con nó mừng. Vì là cuộc sống lâu dài nên QG và tù liên kết với nhau rất chặt chẽ để tồn tại, đó là một sự “cộng sinh” kỳ lạ. Mọi thứ đều phải mua bằng tiền, từ chức đội trưởng cho đến trực sinh, thư ký… muốn nghỉ ốm, nghỉ làm cũng đều phải tốn tiến cả. Môi trường rộng lớn này có những thế lực đen ngầm chi phối mà không ai dám nói ra.
Nơi đây quyền cao nhất hiển nhiên là Giám Thị Trưởng rồi, có điều ông ta chẳng mấy khi vào trong này. Giám thị chủ yếu là để quản lý, giám sát QG thông qua một đội ngũ gọi là Trinh sát, vì thế đám Trinh sát và QG ghét nhau ra mặt. Còn đứng đầu một khu gọi là Trưởng ca, nhưng sát sườn với đám tù nhất thì phải là Trực Trại.
Trực trại là đáng sợ nhất, có quyền sinh quyền sát.
Vì thế nếu cần lo lót thì người đầu tiên mà đám tù phải lo chính là Trực trại.
Ở trong này đánh bạc, cá độ rất phổ biến mặc dù bị nghiêm cấm. Có lần nội gián “chỏ” cho tay trực trại bắt được một đám đánh bạc, tang vật thu hơn “hai chục chai”, tay này ém luôn, mấy thằng cờ bạc thì sợ lập biên bản, bị kỷ luật, không được giảm án nên cũng im luôn. Không ngờ sau này sự việc bị lộ đến tai giám thị, tay trực trại sau đó nghe nói bị đưa ra khỏi ngành, tước cả quân tịch.
Bên tù nữ cũng có trực trại riêng, thường thì cũng là nữ. Bà Trực trại này rất nghiêm khắc, thỉnh thoảng cũng hay lôi tù vi phạm kỷ luật ra xử - Bà ta có thói quen hay “sút”, mà lại “sút” ngay chỗ ấy, vì thế đám nữ tù rất sợ.
Sau này bà ta có gia đình, sinh ra mấy đứa con thì có một đứa con gái bị bệnh gì đó ngay “chỗ ấy”, nghe nói sẽ không sinh đẻ được, từ đó bà ta trở nên tu hẳn, ít còn đánh tù nữa. Suy cho cùng thì “ở tù” là một sự trả nghiệp, nhưng “coi tù” cũng là một sự trả nghiệp không hơn.
Lần ấy có một người mới vào, nhưng chỉ mới đối với ĐHC thôi chứ trong này ai cũng quen y, bởi vì y cũng đang ở đây, được đi ra ngoài làm cái công việc gọi là “lao tác”. Thật tình cờ y lại vào cùng phòng, thật tình cờ y lại đi “nhảy xô” một người quan trọng, người đó chính là Mười Hổ.
Y ở chung với Mười Hổ mấy tháng trời nên biết rất nhiều, thì ra Mười Hổ dính vào một vụ buôn vàng lên đến hàng chục tấn… đụng độ với cả hoàng tộc của một nước nào đó, vì thế y phải trốn về, tìm cách chui luôn vào tù, “TÙ TỘI LÀ AN TOÀN” mà. Tay “nhảy xô” này còn kể lần đó còn có một người nước ngoài nữa, người này sang trọng như quý tộc, tù mà ở phòng riêng, có một người hầu nấu nướng ăn riêng, được mấy ngày thì có xe mẹc qua rước đi đâu mất.
Đụng phải hoàng tộc của một nước thì đụng phải ổ kiến lửa rồi, ngoài súng đạn, quân đội e rằng họ cũng có những chiêm tinh gia, những pháp sư cao tay đâu kém gì Mười Hổ. Chui vào trong này lẩn trốn thì bùa phép bất khả xâm nhập. Hơn nữa khi mang cái “Báu vật phi thường” về biết đâu y lại bất cẩn để cặp bùa “Thiên Linh Thiên Nhãn” bị đốt cháy tiêu – còn bản thân lại bị nội thương vì luyện cái bùa “vô địch thiên hạ”gì đó không chừng, vì thế y phải tính đường trốn vào đây?
Nếu quả thế thì đó đúng là một sự trừng phạt của Thượng Đế đối với những gì còn lại của Bảy Hổ và Mười Hổ, gieo nhân nào ắt gặp quả nấy, trên đời này có ai mà tránh được?
Cuối cùng thì cũng nhìn thấy Mười Hổ, nom rất mạnh mẽ, cặp mắt sáng quắc, tinh anh. Mấy ngày đầu ông ta còn phải đi vác nước đá, cây nước đá to đùng, nặng cầu sáu chục ký lô mà vác nhệ tênh…
Sau mấy tuần thì Mười Hổ đã được đưa lên chức Đội trưởng một đội, hiển nhiên tiền bạc còn nhiều lắm… khả năng sắp tới ông ta còn lên đến chức “Tổng đại diện” không chừng, đó là chức lớn nhất trong đám tù, được ở vòng ngoài, được xài tiền mặt, được hùn bán căn-tin v.v.., và được cả Giám thị tín nhiệm, đúng là “Con hổ ở đâu thì vẫn là con hổ”.
Nhưng Mười Hổ vào đây thì có một kẻ cũng bò theo vào, đó là Lâm Dơi.
Dù pháp sư bùa phép có cao siêu đến mấy thì khi vào đây cũng tự nhiên mất hết, đó là vì ở nơi này thuộc quyền cai quản của một vị thần tối cao gọi là “Chúa Ngục”, “Ngài to khổng lồ, đen sì sì, trên người đeo đầy xiềng xích, cổ thì đeo gông” những người nằm mơ thấy họ đều kể như vậy. Nếu muốn tiêu diệt một kẻ có pháp thuật ghê gớm như Mười Hổ thì đây là một cơ hội, và có lẽ một kẻ “dốt đặc” như Lâm Dơi cũng nghĩ như thế.
Hôm Lâm Dơi vào làm cả trại chấn động bởi vì y to lớn quá, tay trực trại chỉ đứng đến ngang bụng. Khi Lâm Dơi dang hai tay ra thì cứ như là con dơi dang cánh, che khuất cả một vùng. Danh tiếng của đàn anh Lưu Đại Lâm thì hầu như ai cũng biết, còn án của y cũng chỉ là cái án tào lao, nên y sẽ sớm trở về. Hơn nữa cái việc “đi tù” đối với họ Lâm cũng chỉ như chuyện bên ngoài mấy sinh viên đi du học lấy bằng “cao học” vậy, cứ sau một khóa tù thì “số má” càng được tăng thêm. Nhiều thằng giang hồ trẻ tuổi tìm cách đánh nhau, gây rối để được vào tù, vừa để tăng số má, vừa để học hỏi thêm nhiều kinh nghiệm, kết bè kết đảng. Ngay cả tay trực trại cũng tỏ ra dễ dãi với Lâm Dơi, họ đâu muốn có thù oán với một đại ca có tiếng bên ngoài, hơn nữa Lâm Dơi luôn sẵn sàng chung chi đầy đủ mà? Đám chiếu cố thì lại còn xun xoe hơn nữa – con “Ma dơi ở đâu thì vẫn là ma dơi”, đám tiểu yêu vẫn theo mà nịnh bợ.
Mấy hôm sau lại có thêm tù mới vào nữa, ĐHC từ trong hàng rào kẽm gai nhìn ra thì thấy bọn này quá quen mặt – Sơn Cẩu, Thạch Thôi và một thằng có tên Thành “Thép” cũng mò vào trong này, ở cuối hàng bất ngờ còn thấy bóng dáng của Điền Lâu Đài, kẻ từng chiến thắng trong cuộc “đấu hỏa tốc”.
Hiển nhiên Sơn Cẩu thấy Lâm Dơi vào thì cũng lo sợ cho Mười Hổ nên cùng đàn em theo vào.
Nơi đây sắp nổ ra một cuộc chiến kinh hồn rồi.
Cuộc sống nói chung là khổ, mùa mưa là còn đỡ, sang đến mùa khô nắng cháy mới thật là kinh khủng, đồng ruộng khô khát, dòng kinh ngập lụt ngày nào bây giờ không còn một giọt nước - Ở ngoài đồng mà không có nước uống thì… vì thế nhiều khi mấy thằng phải giành nhau để uống một vũng nước “chân trâu” còn sót lại.
Ở cái môi trường nóng bỏng này luôn có những con người kỳ lạ, một trong số đó là Bò Con.
Mặt người nào bèo nhèo và vằn vện nhất – hẳn đó phải là mặt của Bò Con.
Mặt người nào sần sùi và đen đủi nhất – hẳn đó phải là mặt của Bò Con.
Chắc đó là gương mặt tả tơi và rách nát nhất….mà ta có thể gặp được, mà ta có thể tưởng tượng ra được.
Bò Con đang đứng…, y đang đứng trên cánh đồng nắng cháy, trong một buổi trưa hè. Cánh đồng như bốc khói… người cũng như đang bốc khói, và Bò Con nhìn cảnh vật rất lung linh, ai đứng giữa cánh đồng vào lúc này cũng phải nhìn cảnh vật rất lung linh vì say nắng.
Nhưng Bò Con không say nắng, cũng không đội nón… y không cần phải đội nón giữa cái nắng chết người như vậy, y đã quen như thế từ bao lâu rồi.
Y đang chăn bò, một công việc phải nói là “tốt nhất” ở môi trường này.
Những con bò cũng như hắn, gày gò và đen đủi… đít con bò là hai cục xương nhô cao, hõm vào – đít Bò Con cũng vậy.
Những con bò lòi xương sườn ra và đếm được, Bò Con cũng vậy, xương sườn y cũng lòi ra và đếm được, nhưng chỉ đếm được có sáu cái… bởi vì ba cái còn lại đã bị gãy. Bò Con cũng muốn thử đánh gãy xương mấy con bò nhưng không dám, nhiệm vụ của y không phải là đánh bò mà là chăn bò.
Y chăn bò cũng lâu lắm rồi, có lẽ là cả đời cũng không chừng…
Bò Con đứng đấy, bóng của y nằm ở dưới chân của y, còn mặt trời thì ở trên đỉnh đầu. Nhưng Bò Con không nhìn mặt trời, y đang nhìn xuống đất… Mặt đất khô cằn và nứt nẻ, dòng kinh đã không còn nước, những gốc rạ đang cháy khô. Những con bò cũng đang khát khô và Bò Con thấy chúng lung linh trong nắng…
Có hai thằng đang đứng van xin y, chúng đang làm đồng, chúng mò sang đây có lẽ vì quá khát.
“Cho tụi tao miếng nước, khát quá” - Bò Con nhăn nhở “tao không có nước, thằng nào có chuột tao sẽ đổi” - “tụi tao không có chuột” - Y gầm gừ “không có chuột thì không có nước” - Thằng kia cười đểu “cho tao uống trước sẽ đưa chuột sau”. Bò Con thở khì, bài của mấy thằng này làm sao qua mặt y được. Y không thèm trả lời, thằng nhỏ con lại nói “lát nữa về trại tụi tao trả tiền cho mày” - “Hai đứa tụi mày lấy gì mà có tiền” - Thằng lớn tức thì nói “mày không cho thì thôi, việc đếch gì mà làm dữ vậy” - hai thằng nó chia ra làm hai phía đứng chếch chếch, Bò Con tức thì cầm chặt lấy cây gậy chăn bò “hai thằng mày mà láo tao đập cho chết luôn”. Thấy khó có thể làm tới được, hai thằng kia bỏ đi. Bò con lẩm bẩm “Tao còn không có nước để uống huống hồ gì cho tụi mày”.
Đã lâu lắm rồi tên Bò con đã trở thành một giai thoại, không ai là không biết. Nếu tính tuổi đời và tuổi tù của Bò Con thì sẽ không chênh lệch lắm, bởi vì hầu như cả đời y ở trong tù.
Có mười bốn con bò cả thảy, mỗi lần đi ra khỏi trại đều phải đếm từng con, tay trực ban ghi vào sổ đàng hoàng. Nhưng lần ấy trong đàn bò có một con bò cái có bầu, trong sổ lại không hề ghi điều đó. Rồi đến lúc con bò cũng đẻ, vào cái thời ngăn sông cấm chợ đó bên ngoài còn không có thịt ăn, huống hồ ở trong này, cả mấy năm nay Bò Con chưa được ăn miếng thịt nào chứ đừng nói là thịt bò.
Mà con bò con này chưa được điểm danh.
Vì thế y làm thịt con bò mới đẻ, một phần ăn liền, một phần luộc chín rồi giấu vào trong mấy góc kẹt ở bờ kinh, bờ ruộng.
Buổi chiều khi về trại tay trực ban vẫn đếm : một… hai… ba… mười ba… mười bốn… đủ cả.
Cả tháng liền Bò Con sung sướng, cả trại không ai được ăn thịt, chỉ duy nhất y được ăn, mà lại là món thịt bê non hảo hạng.
Nhưng có gì lọt qua được đám chiếu cố, đám ba-vớ? Cuối cùng thì việc cũng đến tai Trực trại, tay này kêu trực ban lên, tay trực ban mới nhớ lại quả là có một con bò cái có bầu thiệt, mà sao không thấy nó đẻ mới là kỳ? đám ba-vớ trổ tài lùng sục khắp ngoài ruộng, cuối cùng cũng tìm được mấy mẩu xương còn sót lại.
Đúng là đáng căm thiệt “trong lúc mọi người đói nhăn răng thì thằng khốn lại được ăn thịt bò…”
Buổi chiều khi Bò Con chăn bò về thì y đã thấy một bộ sậu chờ sẵn, Trực trại đưa cho “đao phủ thủ” cây ba-trắc, y gằn giọng “nó nuốt vào bao nhiêu miếng thịt thì đập cho nó nôn ra bấy nhiêu…”.
Cái tên Bò Con có từ lúc đó.
Bây giờ thì Bò Con đã già lắm rồi, ông ta vẫn ở tù, án sau nặng hơn án trước, ông vẫn được cho đi chăn bò – có lẽ giám thị cũng cảm thương cái con người mà cả đời chỉ toàn ăn cơm tù này. Do chẳng còn thân nhân nào thăm nuôi nên Bò Con phải tự thân vận động, thông qua con đường chăn bò ngoài đồng, ông ta là tay tổ mang đồ cấm vào bán như “bài cào, rượu, hình sex, thuốc ngủ…”. Bài cào để gây sòng sát phạt, rượu để dành cho các đàn anh nhậu, hình sex để thủ dâm còn thuốc ngủ nếu uống nhiều thì cũng phê như ma túy vậy. Môi trường “Lao cải” này hầu như không “cải tạo” được con người ta gì cả, thậm chí sau một khóa tù, nhiều thằng từ hiền lành, vô tình phạm tội còn trở nên lỳ lợm hơn, quen biết nhau và về đời lập băng đảng dữ dằn hơn. Mấy thằng có án ‘hiếp dâm” thường mang mặc cảm về cái án của mình nên cố gắng thể hiện bản lãnh bằng cách đánh lộn, cờ bạc, băng đảng xăm mình. Vào trong này có cơ hội được các đàn anh dạy dỗ thêm về các mánh lới trộm cắp, cướp giật, cờ bạc, lừa đảo, bọn này sau khi về đời thường thất nghiệp, dễ trở thành trộm cướp. Trong này thậm chí có cả bác sĩ, chuyên cai nghiện ma túy cho các con nghiện rồi đâm ra nghiện luôn, thâm lạm vào thuốc chuyên trị của bệnh viện như mooc-phin, giáo sư đại học, kỹ sư điện tử, thầy tu, thầy chùa, quan chức cấp cao, công an… đều có cả… mỗi người đều có những lý do để vào trong này “bóc lịch” không ai giống ai, tạo nên một bức tranh vô vàn màu sắc.
Nhiều khi Bò Con còn tuồn cả ma túy vào được, những lúc đó trong tù rất sôi sục, nhưng điều này rất hiếm vì nếu bị bắt sẽ phải “chồng án” lên rất nặng.
Những lúc rảnh rỗi, ĐHC hay qua nói chuyện với Bò Con, cùng “trầm” với ông để nghe ông kể về các mánh lới xào chẻ trong tù, các thủ thuật kiếm tiền và lo lót…
“Trầm” là một từ để chỉ những người tù trong ngày nghỉ quây quần ngồi uống nước trà, nói chuyện đời và thả hồn mơ mộng ra thế giới bên ngoài. Những giờ phút như vậy có thể xem như là “thiêng liêng” nhất.
Ngoài chức Tổng đại diện, tù còn có một chức không tên không tuổi nữa là “đao phủ thủ”, bởi vì QG nhiều khi không muốn trực tiếp đánh người, họ không muốn trả nghiệp và thực ra trong luật là cấm đánh tù nên họ sử dụng một tên tù cộm cán, có sức mạnh chuyên làm cái việc này. Bò Con nói “cá mười ăn một là Lâm Dơi sẽ được chọn”.
Hiển nhiên Lâm Dơi tỏ ra phù hợp hơn cả, y to lớn, cực khỏe, tàn ác, ngu dốt nhưng lại rất biết “thượng đội, hạ đạp”. Làm chỗ này thì có nhiều quyền lợi như được đi tới đi lui trong trại mà không bị xét hỏi, dễ “xào chẻ” kiếm chác, bù lại là phải tìm cách khai thác, bóc lột tù tối đa để nộp về cho QG. Những lần như thế y đều ăn chặn lại một phần, và đó là nguồn gốc của mọi oán thù. Vì thế tên “đao phủ thủ” lúc nào cũng phải cảnh giác, luôn đề phòng mọi ám toán bất ngờ. Hôm đó đang mùa gặt lúa, có một nơi mang lúa về để trữ gọi là “lẫm lúa”, nơi đây rất rộng lớn, khá khuất để cai tù không nhìn thấy.
Có kẻ hẹn Lâm Dơi ở đây.
Lâm Dơi lừng lững đi vào, nhìn thấy kẻ đó thì y cười nhạt – phía bên kia Thạch Thôi đứng sững, tay cầm cái cào xúc lúa. Thạch Thôi là người Kh’mer, y khỏe như trâu, trên người xăm đủ thứ hình bùa nhăng nhít, y liều mạng và trung thành với Sơn Cẩu như con chó.
Nhìn vào ba cái hình xăm thì Thạch Thôi chắc cũng có chút đỉnh bùa phép gì đó, nhưng vô trong hũ rồi thì đâu còn gì nữa. Cái đầu củ chuối ỷ mình có sức mạnh, cũng từng đánh nhiều trận, kinh nghiệm chiến đấu có thừa, nhưng có lẽ y không biết tự lượng.
Cái cào xúc lúa bổ xuống với khí thế mãnh liệt, Lâm Dơi không thèm né tránh, y vươn tay ra chụp cái cào, bóp chặt như bóp cái nĩa xúc đồ ăn vậy. Thạch Thôi chưa kịp phản ứng thì đã thấy nổ đom đóm mắt, tiếp theo là một cú đánh như trời giáng bay tuốt ra phía sau, bất tỉnh luôn.
Lâm Dơi nhổ một bãi nước bọt, y thong thả quay ra… nhưng trước cửa lại có thêm một bóng người nữa. Lâm Dơi nhíu mày khi nhìn thấy kẻ này, đâu phải ngẫu nhiên mà giang hồ đặt cho kẻ này một cái biệt danh rất cộm.
Kẻ này có bản lĩnh thật sự chứ không phải phường bịp bợm tầm thường.
Đó là Thành “Thép” – Một kẻ gan lỳ và dũng mãnh như sắt thép.
Thành “Thép” đứng đối diện với Lâm Dơi.
Lâm Dơi đứng đối diện với Thành “Thép”.
Hai thằng đứng im lìm căng thẳng, Thành “Thép” tỏ ra cực kỳ kiên nhẫn.
Y ngực nở, bụng thon, cả người hầu như không có một tí mỡ nào, chỉ toàn là bắp thịt nổi cuồn cuộn, đúng là một con mãnh thú chiến đấu.
Có một thời y từng theo đoàn “Sơn Đông Mãi Võ” khắp cả lục tỉnh, nhưng bản tính côn đồ nên bị Sư phụ đuổi ra khỏi đoàn, lang thang các nơi không khá, cuối cùng y tìm đến đầu quân cho Sơn Cẩu. Từng theo ghe hải tặc dùng mã tấu trấn áp để cướp của, Thành “Thép” nổi danh võ nghệ cao cường và tàn bạo. Lần này y muốn đấu với Lâm Dơi, muốn thế vào chỗ của Lâm Dơi để kiếm chút lợi lộc.
Cũng như họ Lâm, Thành “Thép” chiến đấu chỉ bằng hai tay không, bàn tay của y nhìn rất gồ ghề, bàn tay của một cao thủ chuyên luyện “ngạnh công”, vì thế y chiến đấu rất sòng phẳng, rất tự tin, rất trần trụi…
Thành “Thép” tung thử vài cú đá thăm dò, những cú đá của một cao thủ nghe phần phật, nhưng đá như vậy thì không qua nổi hai bàn tay quỷ của Lâm Dơi được. Vì thế y chọn lối đánh cận chiến, áp sát, lối đánh này có thể phát huy tối đa sức mạnh của “thiết sa chưởng”.
Bàn tay sắt thép của y đã từng bẻ cong cả nhíp xe hàng, và bây giờ đang bẻ cổ Lâm Dơi.
Cổ Lâm Dơi chắc là còn cứng hơn cả nhíp xe hàng nữa, bởi vì Thành “Thép” bẻ mãi mà không gãy, còn đến khi Lâm Dơi bẻ thì “thép” lại gãy rời.
Sau lần đó danh tiếng của Lưu Đại Lâm trở nên như một thành trì bất khả xâm phạm. Trong này có hàng mấy ngàn con người, biết bao tên tù cộm cán nhưng đều cảm thấy ớn lạnh khi đối diện Lâm Dơi. Y trở nên khinh địch, càng kiếm chác thậm tệ, nhưng y chưa đụng đến được Mười Hổ vì tiếp cận ông ta rất khó. Ngoài ra ông ta lại tỏ ra thân với Trực trại và tay “Tổng đại diện”, vì thế họ Lâm cũng còn phải dè chừng, y chưa chắc thắng…
Hơn nữa vẫn còn Sơn Cẩu.
Sơn Cẩu đang phải dẫn quân đi đồng, y cũng lên làm đội trưởng một đội.
Trước sau gì thì giữa Lâm Dơi và Mười Hổ cũng phải có người sống kẻ chết – đối với Lâm Dơi thì đây là cơ hội duy nhất, vì Mười Hổ mà trở về đời thì y tất sẽ phải chết - Nếu cả hai cùng chết thì kẻ được lợi nhất lại chính là Sơn Cẩu. Vì thế Sơn Cẩu rất thong thả, đâu có gì mà phải vội vàng?
Thỉnh thoảng vào dịp lễ cũng được nghỉ vài ba ngày, được ăn uống tươm tất hơn chút ít, những dịp đó tha hồ nằm ngủ bù cho những lúc phải làm quần quật. Bên ngoài cửa sổ chỗ ĐHC nằm là cả một dãy chuồng chim câu, nên suốt ngày nghe tiếng chim bồ câu “gù gù”, có khi nhìn thấy chim trống âu yếm chim mái, thấy chúng cùng nhau săn sóc chim con. Nhiều khi cả đàn bồ câu cùng tung cánh bay trên bầu trời, chìm vào trong áng mây cao vút.
“…Từng đôi chim bay đi tiếng ca rộn ràng
Cánh chim xao xuyến gió mùa xuân
Gửi lời chim yêu thương tới Miền Nam quê hương
Nhắn ràng ta ngày đêm mong nhớ…”

Tối tối nghe tiếng chim câu “gù” lại càng thấy nhớ cuộc sống ngoài đời, nhớ những ngày cất bước tự do trên đường xa vạn dặm.
“…Trời quê hương trong xanh như lời hát
Biển quê hương ru êm êm bờ cát
Đưa chúng ta cùng đi
Ra Bắc hay về Nam
Là thương nhau em bắc cầu cho tàu anh tới
Là yêu nhau… mấy suối em cũng lội
Là yêu nhau… mấy núi anh cũng trèo…”
Tới mùa gặt lúa là cả trại trở nên rộn ràng, tất cả quân trong trại được huy động để làm cho kịp mùa gặt. Những lúc ấy gương mặt người nào cũng hớn hở vì ra đồng mùa này có thể cải thiện được thêm rất nhiều.
Cả một cánh đồng mênh mông tít tắp đến tận chân trời, những ô mà lúa đã chín đều rạp xuống, còn những ô gần chín thì lúa còn vươn cao, mùi lúa chín thơm lừng trong gió. Từng cơn gió thổi mơn man, mát rượi, gió xào xạc, gió ngất ngây, gió thổi từng đàn chim én bay ào ạt, thổi bay những cánh cò chấp chới và hàng đàn chim mỏ nhác sà xuống cánh đồng vàng rực mênh mông uốn lượn như sóng biển. Tất cả mọi người cùng để chân trần lội qua những bờ ruộng nứt nẻ, đạp lên từng bờ đất khô cằn, lâu lâu lại có những vũng nước sâu ngập đến ngang ngực, hay phải lội qua dòng kinh ngang bảy tám mét, nước ngập lút đầu.
Hiếm khi có một không khí vui tươi và tự do như thế.
Bắt đầu vào cuộc gặt thì đám “ba-vớ” sẽ chạy tuốt lên phía đầu kia của đám ruộng để phủ lưới, hai người cắt giỏi nhất sẽ cắt theo đường xéo từ hai bờ tả hữu đến lưới để ngăn không cho chuột chạy ra ngoài, lối cắt này gọi là “cắt cừu”. Nhiều lúc một “cừu” như vậy bắt được cả trăm con chuột đồng mập ú, QG quân đồng thu về tất cả, một phần để biếu xén cho thượng cấp, một phần để buổi chiều nhậu với các chiến hữu, một phần mang ra chợ bán, phần ít ỏi còn lại cho mấy thằng “ba-vớ” để chúng cải thiện thêm. Còn đám tù thì vừa cắt lúa vừa săn chuột, thằng nào hên gặp được hang lươn coi như trúng mánh, nhưng chuyện này cũng rất hiếm vì QG quân đồng có một đội ngũ chuyên đi đào lươn bắt rắn riêng. Lâm Dơi trong lúc rảnh cũng đi bắt lươn, bắt cá, bắt chuột cống nhum về nộp, đó là một nguồn thu nhập không nhỏ cho cán bộ.
Cắt lúa theo kiểu “cuốn chiếu” như thế này vừa không mệt nhọc và ít hao tổn công sức. Nhưng phải làm theo kịp thời gian đã định, luôn đề phòng thời tiết thay đổi đột ngột sẽ làm hư hao những ô ruộng còn chưa kịp chín tới hay quá chín.
Vui nhất là trong lúc cắt lúa được mấy ổ trứng chim mỏ nhác hay chim cốc, nhiều khi có cả chim non. Nhiều người mang về phòng nuôi, lấy tre đan thành những cái lồng chim rất đẹp. Có thằng quí chim, suốt ngày coi sóc, nâng niu cứ như là dân chơi chim chính hiệu. Nhiều người lại nuôi chuột cống nhum, con chuột to như con mèo, nặng cả ký lô, rất khôn, nhiều khi dạy làm xiếc cho cả phòng xem rất nhộn.
Sau mấy tuần đi gặt thì bất ngờ có tù mới nhập trại, lần này chỉ duy nhất một người. Kẻ mới vào thật to lớn kinh khủng, giả sử nếu Đồng Đen và Huyền Hòm đứng gần kẻ này thì chắc cũng trở thành bé xíu.
Chiều hôm đó y vào phòng của ĐHC, cả tám chục con người trong phòng dường như đều trở thành tý hon cả. Y ngồi sừng sững như một quả núi, bộ mặt to như cái mâm, nom rất kẻ cả : “giang hồ gọi ta là Đồng Đỏ”.
Đồng Đỏ, cái tên này cũng nghe quen lắm, bây giờ mới được diện kiến.
Gương mặt này không thể là của người Việt được, nó bè bè, phèn phẹt, mũi kỳ lân, mắt lại một mí, nó đích thực là một gương mặt của người Tàu.
Qua khỏi sông Dương Tử đi sâu về phía bắc của Trung Quốc, có một số vùng quanh năm tuyết phủ, người dân đặc biệt to lớn dị thường, to còn hơn cả người Châu Âu hay Mỹ đen nữa. Sau thất bại của Thái Bình Thiên Quốc, một số chạy thoát dùng thuyền vượt biển và họ đến tận mũi Cà Mau lập nghiệp, hẳn Đồng Đỏ là hậu duệ của những người này, vì thế mà y mới có cái vóc dáng khổng lồ như thế. Người Đồng Đỏ lại đầy những lông, ngực lông lá rậm rạp, hai tay và hai chân cũng vậy, rậm rịt như con đười ươi, đích thực là người của vùng Hoa Bắc, của Đại Hán.
Đồng Đỏ chỉ cần vỗ nhẹ tay là cái bệ xi măng mẻ một miếng lớn, kình lực thật là kinh khủng.
Những môn công phu thuộc về “ngạnh công” nếu tự luyện sẽ cực kỳ nguy hiểm, có thể dẫn đến nội thương chết bất cứ lúc nào. Để hỗ trợ khí lực, bồi bổ nội tạng, người Hoa thường dùng “Huyết Lình”, “Nấm Ngựa”.
Trên các đỉnh núi đá cao, các bờ đá, họ để những tờ giấy “xuyến chỉ” cực mỏng, những con khỉ cái tới kì kinh khi lê lết qua những chỗ đó vô tình dây những giọt máu lên những tờ giấy. Sau một thời gian, những tờ giấy thẫm đỏ đó được mang về làm thuốc uống, trị lao lực, nội thương,…
Ở những đồng cỏ có những bầy ngựa hoang, khi ngựa đực và ngựa cái giao phối, tinh trùng ngựa rớt xuống những khúc gỗ mục sẽ mọc lên một loại nấm trắng, dài chừng một tấc. Thứ nấm này có tác dụng tăng cường khí lực khi tập những công phu đòi hỏi những va chạm mạnh.
Tương truyền huyết lình là thuộc âm, còn nấm ngựa là thuộc dương.
Còn một vị nữa là “Thiên niên tuyết sâm”, nhưng mấy khi có được?
Ở những vùng núi cao, suối chảy xiết, có một loài cá giống như cá chép chuyên bơi ngược dòng. Loài cá này thịt chắc và có vị đắng chứ không ngọt, dùng cá này nấu cháo có vị ngai ngái như ngải cứu, là một thứ cháo đại bổ cho người luyện các môn thuộc về “ngạnh công”, phòng trị nội thương lục phủ ngũ tạng.
Nếu không có mấy vị thuốc quý này thì uống máu rùa vàng, máu rắn hổ mang, mật gấu rừng, cao hổ cốt, thịt rắn biển, yến sào, bào ngư, mèo mun, gà ác, chuối chát… cũng tạm được. Tuyệt đối không được lạm dụng tân dược như thuốc giảm đau, tăng lực, trợ tim… sẽ dẫn đến cái chết bất cứ lúc nào.
Đồng Đỏ tỏ ra là một đại cao thủ về môn Kung-fu, nom y rất tự tin. Hẳn là có kẻ mướn y vào trong này…
Trời đã cho Mười Hổ một bầy tôi hùng mạnh như Lâm Dơi, nhưng khi họ Lâm trở nên giàu có thì y đã bắt đầu suy nghĩ khác, y muốn độc chiếm tất cả, và Mười Hổ bỗng nhiên có một kẻ thù nguy hiểm vì kẻ này vốn từng là một đệ tử ruột được tin cẩn, được giao trọng trách…
Bây giờ thì tòi ra một Đồng Đỏ chẳng biết từ đâu tới, một cao thủ Kung-Fu, một cao thủ của Đại Hán?
Chưa biết thế lực nào đứng sau lưng Đồng Đỏ, đủ cái bản lãnh đưa người vào tận cái nơi tuyệt địa này, có được một cao thủ vô địch như thế?
Mấy hôm sau ở ngoài đồng không khí trở nên khẩn trương hơn hẳn, dường như ai cũng biết sẽ có một cuộc đấu sắp xảy ra… rơm được gom thành từng đống cao, che khuất các tầm nhìn, tay QG nằm trong lều cũng khó mà thấy được, hơn nữa y đã say rượu ngủ từ lâu. Lúc đó là buổi trưa, hơi nắng hầm hập làm không khí càng trở nên oi bức, cả trăm người tù tập hợp về nơi này để chứng kiến, cả trăm cái liềm được giơ lên sáng loáng cổ vũ cho cuộc đấu, trong đó có nhiều kẻ theo Lâm Dơi, nhưng cũng có nhiều kẻ chống lại y – Giả sử những cái liềm này mà xông vào nhau thì máu sẽ chảy tràn mặt ruộng.
Tiền mặt đã được truyền tay nhau, không khí cá độ đã âm ỉ mấy ngày nay, đám tù đâu bỏ lỡ cái cơ hội ngàn năm một thuở như thế này. Một độ đánh lớn hơn bình thường rất nhiều, báo hiệu một cuộc chiến sẽ nổ ra không lâu sắp tới.
Đồng Đỏ vững vàng như núi, y cởi trần, làn da đỏ au, bộ ngực rộng lớn, nở nang hùng mạnh với đám lông rậm rịt. Đầu y cạo trọc lốc nên bộ mặt mâm nom càng dữ dội. Phía bên kia Lâm Dơi cũng to lớn lắm mà hôm nay nom nhỏ hơn hẳn, nhưng tia mắt của y vẫn lạnh lùng, chỉ có vằn mắt là trở nên đỏ rực, y đứng im lìm như đá.
Chưa có cuộc đấu nào kinh hồn như thế, Lâm Dơi quả là cứng còn hơn sắt thép, những quả đấm của Đồng Đỏ tung ra có thể làm tan bia vỡ đá mà không mảy may làm y suy chuyển.
So với Thành “Thép” thì quyền thuật lẫn cước pháp của Đồng Đỏ không linh hoạt bằng, bù lại lực đánh rất mạnh, tấn bộ trầm ổn, nhưng địa hình mặt ruộng nứt nẻ, đầy gốc rạ vướng víu có phần làm hạn chế ít nhiều đến lối đánh thiên về “đòn trường” của Đồng Đỏ.
Thấy đánh không gục nổi Lâm Dơi, thoắt một cái trong tay Đồng Đỏ không biết từ đâu bỗng có một cái liềm sáng loáng, cái liềm cắt lúa bén ngót này mà dùng để cắt cổ thì ai mà chịu nổi ?
Lúc đó cặp mắt của Lâm Dơi bỗng trở nên khác hẳn, nó giống hệt như cặp mắt trong màn đêm hôm nào, một cặp mắt của ma quỷ, của con dơi hút máu…
Khi Đồng Đỏ lao vào với khí thế như bão táp thì y bỗng thấy Lâm Dơi biến đâu mất, y định xoay người lại thì không còn kịp nữa, bàn tay quỷ của Lâm Dơi đã vỗ mạnh vào lưng y, tiếp theo là một cú đánh mãnh liệt vào bụng, Đồng Đỏ cong gập người lại, không còn đứng nổi nữa. Mỗi cái vả của Lâm Dơi lại bóc đi từng mảng lông của Đồng Đỏ, y không thèm đánh gục, y chỉ vặt lông Đồng Đỏ như người ta vặt lông gà vậy, khi bị vặt trụi lông rồi thì Đồng Đỏ nằm một đống như con gà luộc.
Tất cả những cái liềm cũng đã hạ xuống, không khí như lắng lại, trên đỉnh đầu ánh mặt trời càng thêm chói lọi – lần đầu tiên mới nghe Lâm Dơi cười, tiếng cười rin rít như tiếng ma về từ cõi chết.
Chiều xuống dần, từng đoàn người lũ lượt đội lúa về ghe và về kho, tiếng nói cười rôm rả, dường như ai cũng cố quên đi cái cảnh tù đày. Nhất là khi có thêm mấy đội nữ ra làm chung, đó là cơ hội bằng vàng để gặp gỡ…
Ở trong này nghiêm cấm mọi mối quan hệ nam nữ, nhưng ở đời cái gì càng cấm thì càng làm con người bức xúc, vượt phá. Đây là mảnh đất màu mỡ cho các mối quan hệ đồng tính, cả phía bên nam lẫn phía bên nữ. Khá nhiều người đồng tính ở trong này, phần lớn họ là dân chơi ngoài đời, vào đây họ lại càng có điều kiện phát huy tối đa cái sở thích đó và lôi kéo thêm những người bình thường khác tham gia vào. Đồng tính cũng bị nghiêm cấm, nhưng nó xảy ra thường xuyên, có thể khẳng định, hầu hết những án tù lâu dài ở môi trường này đều trở thành dân lưỡng tính cả. Trong này có một “em” tên Nhiên – Cao Thụy Nhiên – là bóng, có một cái nhan sắc “chim sa cá lặn”, giả sử em này mà qua Thái bảo đảm đậu “hoa hậu bóng” là cái chắc. Làn da em trắng muốt, má hồng hồng, sức nước hoa Chanel thơm phức – Tù lâu án nặng nên cái chuyện đó nhiều tay rất “vã”, em Nhiên lại quá đẹp nên được các anh lo cho đủ thứ, em ăn xài thoải mái, cờ bạc, cá độ lung tung nên nợ nần chồng chất mới thành cái tên “Nhiên Lún”. Ngoài em này ra, nơi đây còn có vô số các em khác nên các mối quan hệ trong này rất phúc tạp.
Kể ra thì cũng có “căn phòng hạnh phúc” nơi đây để vợ chồng có hôn thú đàng hoàng gặp nhau tháng một lần theo luật, nhưng hầu hết những người tù cao án nặng, nam cũng như nữ, đều đã bị bạn đời bỏ cả thì lấy đâu ra mà gặp? Hơn nữa sống trong môi trường khác nhau lâu ngày, dẫn đến những suy tư khác hẳn nhau, sau một thời gian thì vợ chồng trở nên xa cách, không hiểu nhau nữa và người tù có xu hướng tìm sự chia sẻ ở những người cùng cảnh ngộ.
Họ tìm mọi cách để có thể quan hệ với nhau, xa quá thì “đánh tay” như người câm, rồi hẹn nhau xuống trạm xá hay căn-tin. Thông thường thì nhờ đám chiếu cố gửi thư, “xe hàng” qua lại. Đám nhà bếp, gánh cơm, trực y tế là có lợi thế hơn hẳn nên thường xuyên vi phạm chuyện này, mỗi lần như vậy là phải lo lót cho trực trại. Bên nữ có mấy em đẹp khá nổi như “Thảo Bay”, “Huệ Nhí”, “Thủy Trắng”, “Phượng sầu”… Làm biết bao người mê mệt, gửi hàng qua nườm nượp.
Có lần Huệ Nhí bị bắt quả tang quan hệ ở trạm xá, bị tay bác sĩ “kẹp ven” ngay mỏ, sưng lên tù vù. Còn ra ngoài đồng thì “ổ rơm”, “lẫm lúa” là nơi tốt nhất, ví như khách sạn năm sao vậy…
Chiều hôm đó khi ĐHC trở về phòng thì toàn bộ số cá lóc bắt được của đội trong mấy tuần đi đồng rộng trong mấy cái xô đều bị đâm chết sạch bằng những cái bàn chải xuyên từ miệng qua đến tận mang.
Lâm Dơi đã ngửa quân bài rồi…
Nhưng Lâm Dơi vẫn chưa phải là mạnh nhất ở nơi này, đầu não của tù là nằm ở khâu thêu. Nơi mà có rất nhiều người chịu án rất nặng, họ hoàn toàn không bao giờ được ra khỏi vòng trong của nhà tù, ra chứ đừng nói là được ra bên ngoài, được ra đồng… Có nhiều người thêu cả mười mấy năm ròng rã, những tay giang hồ cộm cán, đâm thuê chém mướn ngày nào bây giờ ngồi bên bàn thêu, tạo ra những tác phẩm đẹp cực kỳ. Mũi Nam, mũi Bắc vô cùng lả lướt… đủ các kỹ thuật thêu phức tạp, có nhiều cặp áo gối rồng phượng cầu kỳ không thể tả, nhiều QG còn đặt hàng riêng để làm quà tặng lúc về quê, hay tặng người yêu những cái khăn thêu hoa hồng đẹp tuyệt.
Vì ở lâu như vậy nên họ thiết lập một cái trật tự như kiểu “xã hội đen”, một thế lực ngầm. Đó là cái ổ của cá độ, của cờ bạc và cho vay nặng lãi, ở đây mức độ cho vay là bạc 60, tiền cá độ bóng đá y như bên ngoài lên đến hàng chục triệu, có đủ các loại hàng cấm như phim sex, ma túy, tân dược, rượu… thậm chí còn dẫn cả gái vô nếu mua đứt được vài tay cơ động hay QG nào đó. Đó là chưa kể đến ba cái vụ giảm án , đặc xá, ân xá… là dịp để đám tù và thân nhân của họ bên ngoài tích cực lo lót hầu mong được về sớm. Có nơi quy định rất rõ “một năm là năm chai”, nên đám lắm tiền nhiều của tích cực chung chi, tạo ra sự bất bình đẳng và mâu thuẫn trầm trọng trong tù, nhất là ở cái khâu thêu này.
Bản thân Lâm Dơi cũng phải chịu sự chi phối của nơi này nếu muốn tồn tại, nhưng y cũng không phải tay vừa, y cài Điền Lâu Đài vào bộ sậu đầu não, kết thân mật thiết, cùng ăn chia với hai tay có thế lực nhất lúc đó là Chiến Lỳ, Minh Nẫu.
Chiến Lỳ bên ngoài từng là trùm buôn ma túy, chủ nhiều nhà hàng khách sạn, có công ty chuyên vận chuyển, bốc vác ở bến cảng, hiện y là kẻ thầu cá độ cho tất cả đám tù nên uy lực rất lớn. Còn Minh Nẫu là giang hồ xứ “ăn rau má, phá đường tàu”, rớt ở trong này cũng vì tội ma túy, cũng còn tiền của và đàn em nhiều… Dưới bọn này còn có một loạt những tay tù cao án nặng khác như Lân Sói, Sóc Nhám, Tý Ngọng, Dương Mổ… họ thiết lập được một đường dây cá độ bóng đá và đánh đề ra tận bên ngoài, bọn này thậm chí xài ĐT thoải mái y như là QG vậy…
Buổi tối hôm ấy trời khá oi bức, tay trực trại đã ra ngoài, chìa khóa các phòng trao lại cho “Tổng đại diện”, lúc đó có một cuộc hẹn bí mật dưới trạm xá. Khi tay “Tổng đại diện” và ĐHC đến thì đã thấy Mười Hổ đang ngồi bên bàn, xung quanh có Lân Sói, Sóc Nhám, Dương Mổ và mấy tay đội trưởng các đội.
Khi vào trong này thì Mười Hổ bị mất hết phép thuật, ông ta chỉ còn cái tài “khoán”… nhiều người bị “giời leo”, sốt mãn tính đều tìm tới ông ta. Vì không có nhang nên Mười Hổ dùng ba điếu thuốc lá, vừa đọc chú vừa vẽ vòng vòng xung quanh chỗ bị giời leo, sau đó thổi vài lần, vậy mà mấy ngày sau là khỏi. Còn bị sốt ông ta khoán vào ly nước, sau đó cho uống, mười phút sau là mát liền.
Còn tay “Tổng đại diện” tên Cao “cầu”, y nguyên là TGĐ một công ty cầu đường, phà phọt gì đó, do mê cá độ bóng đá và đề đóm nên “lút” mất của nhà nước một số tỷ, y rất khôn khéo nên khi vô đây lại nhậm được cái chức béo bở nhất. Cái chức này là tai mắt, môi giới lo lót cho QG, Trực trại nên thường xuyên có quà và tiền biếu xén… Lân Sói cũng chịu án KT, bên ngoài cũng từng quyền cao chức trọng, số tiền mà y tham ô, làm thất thoát lên đến cả trăm tỷ nên án nặng như cái núi. Nhưng y còn giấu được tiền và có người nào đó gửi gắm với giám thị nên ở trong này sướng như tiên ông, ở tù mà như ở khách sạn, lâu lâu còn mò được ra ngoài nhậu bia ôm. Cái đầu y sói sọi nên mới có cái hiệu là Lân Sói, sau này y mám gái quá có bao nhiêu tiền “cúng mấy em” sạch sẽ, nên đang đổ nợ. Còn Sóc Nhám thì nổi tiếng là nhanh như sóc, chuyên làm cò bóng đá ăn lai, thắng thua gì y cũng đều có tiền nên dần dần trở thành chủ nợ của mấy thằng cờ bạc. Cán bộ đi học, đi về quê, đi đám cưới, đám giỗ… đều được Sóc Nhám lo tiền đầy đủ nên y rất có uy tín. Còn Dương Mổ thì từng làm theo kiểu Samurai, tức là mổ bụng tự tử, nhưng may không chết, y là tay chân của Lân Sói.
Mấy độ vừa rồi Lân Sói, Sóc Nhám thua cháy túi, sắp bị bọn Lâm Dơi, Chiến Lỳ tròng cái thòng lọng vào cổ nên phải muối mặt nhờ vả Mười Hổ, ông ta nhân cơ hội này tính đường triệt luôn đối thủ nguy hiểm...
Mười Hổ đi thẳng vào vấn đề “ Có kẻ ngày càng thỏa hiệp, bán rẻ anh em, đã đến lúc phải kết thúc rồi…”.
Dạo này trong tù chết rất nhiều nên ĐHC và vài người nữa được phân công làm bia mộ - đúc bằng bê tông hẳn hòi. Công việc cũng đơn giản, dùng ba thanh gỗ thẳng và một thanh đã được uốn cong làm khuôn, sau đó đổ xi măng pha cát vào, chờ vài ngày cho thật khô rồi tráng một lớp xi măng trần lên, viết tên, tuổi, ngày tháng chết… của người tù, tất nhiên phải cố viết sao cho thật đẹp. Có điều vì chết nhiều quá nên phải làm hầu như liên tục, làm xong thì dùng ghe chở ra ngoài nghĩa địa dành riêng cho tù, một nơi có khá nhiều cây mai nên còn gọi bằng một cái tên rất đẹp là “Nghĩa địa vườn mai”.
Có làm bia mộ mới biết tù trẻ chết rất nhiều, có đứa mới mười tám, mười chín tuổi… phần lớn đều chết vì vướng HIV ngoài đời, vào trong này do điều kiện thiếu thốn, tinh thần suy sụp nên phát SIDA rất nhanh, từ lúc phát bệnh cho đến lúc chết chỉ hơn hai mươi ngày.
Một số lớn tuổi thường chết vì nhồi máu cơ tim, xuất huyết bao tử, xuất huyết não… những bệnh này nếu ở bên ngoài thì còn có cơ cứu, ở trong này bị đột phát, chờ đến khi có được cái lệnh của giám thị cho ra ngoài cấp cứu thì linh hồn đã chui xuống tuốt địa ngục từ tám hoánh rồi. Số tự tử chết cũng nhiều, nữ thường uống thuốc ngủ quá liều, thuốc được mua dễ dàng từ đám chiếu cố chuyên làm vòng ngoài hay dưới trạm xá. Nam thì tự tử bằng cách nhảy lầu, dùng dao lam cắt mạch máu ở cổ tay, có kẻ gan lỳ thì tự mổ bụng hay cắt cổ họng… nói chung là muôn kiểu chết. Có ngày ba bốn cái hòm để chình ình trong trại khiến tù mới vào vãi cả linh hồn, bỏ cả cơm luôn.
Người bạn làm chung với ĐHC còn rất trẻ, chú ta nom gầy nhỏ nhưng bắp thịt rất săn chắc, tấm mộ bia sau khi đúc xong nặng hơn năm sáu chục ký mà chú cắp một tay, nhảy qua nhảy lại từ ghe lên bờ thoăn thoắt.
Chú bé này tên Danh Ky, tỏ ra rất can đảm.
Khu vực này rất gần nhà dân, thỉnh thoảng có vài con chó từ bên đó chạy qua bên này kiếm ăn, muốn sang bọn chó phải bơi qua dòng kinh. Có một con chó đen rất to, khi kêu lại thì nó tỏ ra mừng rỡ, con chó tỏ ra rất tin tưởng vào con người… Khi nó bơi đến vừa tầm thì Danh Ky vung chiếc len lên 180 độ, quất thẳng xuống đầu con chó – Sọ con chó vỡ toác ra, nó chết không kịp kêu lên một tiếng.
Con chó được thui trong đống rơm, chờ đến chiều mới mang về, hôm đó trong phòng liên hoan món thịt chó luộc, nhựa mận và xào lăn ngon tuyệt.
Lâm Dơi cũng hay ra đến tận đây, những lúc rảnh rỗi y cũng thích đi bắt lươn, đó là một cách để rèn thể lực và ý chí, điều tối cần thiết cho cuộc sống trong này. Lươn ở đây to bằng cổ tay, vàng ươm, nấu món “lươn um”, “lươn xào lăn”, “canh chua bắp chuối” thì ngon cực. Có một thằng đệ tử chuyên nấu cho Lâm Dơi ăn.
Đại ca Lâm Dơi đâu coi Danh Ky ra cái gì, nó chỉ là một thằng nhóc miệng còn hôi sữa, nên y đứng ngập cả người dưới sình, hai tay thọc sâu xuống, mò sắp trúng một con lươn thật to… chính vì thế mà khi y nhìn thấy cái len của Danh Ky vung lên 180 độ thì không thể phản ứng kịp.
-“Búp” - cái len quất thẳng xuống đầu Lâm Dơi làm y chúi nhủi xuống vũng sình, Lâm Dơi đúng là khỏe hơn con chó thật, trúng một cú trời giáng như vậy mà y ráng vùng lên, chồm tới, nhưng Danh Ky đã nhanh nhẹn nhảy ra, quất thêm một phát len 180 độ nữa nghe “Bụp” một tiếng, lần này thì Lâm Dơi mới chịu xuôi tay, nằm nổi lều phều trên mặt nước...
Khi ĐHC đến khâu thêu, giả vờ đi vào lấy đồ, Sóc Nhám đi ra nói khẽ “lát nữa đứng ngay cửa lớn, chặn không cho đám chiếu cố bên ngoài ào vào và đám bên trong chạy ra”. Sơn Cẩu cũng vừa đến, hẳn là y cũng có nhiệm vụ đánh chặn, cái đầu của Mười Hổ sắp xếp thật chu đáo.
Diễn biến xảy ra thật nhanh, Sóc Nhám tiến thẳng đến Điền Lâu Đài, tên đệ tử còn sót lại của Lâm Dơi đâu có ngờ tới, đang rung đùi nghe nhạc…
-“rầm” – Sóc Nhám cầm luôn con ngựa thêu quật Điền Lâu Đài một phát nghe chấn động cả khâu, thằng này gục ngay tại chỗ. Đúng như hiệu lệnh, cả đám tù lao vào nhau quần thảo bằng đủ mọi vũ khí có được, nhưng chủ yếu vẫn là ngựa thêu và kéo cắt chỉ.
Quá bất ngờ nên tay QG trực khâu vùng bỏ chạy, đám chiếu cố cũng bỏ chạy tán loạn, mấy thằng cả gan chạy vào tính lập công ngay lậo tức bị đánh gục. ĐHC và Sơn Cẩu liên thủ, cố gắng chặn không cho đám tù tràn ra ngoài. Bên trong Sóc Nhám cũng bị dính một ván ngựa, bật văng qua bàn thêu, nằm vắt vẻo. Bọn Chiến Lỳ, Sơn Chém bị đánh tơi tả… Hoàng Nhóc chui tuốt xuống gầm máy may, Minh Nẫu bị Lân Sói, Thành “mắt ma” và Dương “mổ” dồn vào góc tường không cụ cựa gì được, xin đầu hàng, Tý Ngọng phóng ra tính thoát thân bị Sơn Cẩu quất một ván ngựa nằm chỏng gọng. Cuộc chiến diễn ra trong nhấp nháy, cả khâu thêu bỗng chốc tan hoang cả, thắng lợi hoàn toàn thuộc về phe Lân Sói, đám tù bị đánh ngã nằm la liệt… Đến lúc này thì hàng trăm CS cơ động đã tràn vào dày đặc, bao vây vòng trong vòng ngoài. Hai quả lựu đạn cay được quăng vào quật ngã nốt những người tù còn đứng vững.
Cuộc lật đổ trong khâu thêu, đầu não của đám tù kết thúc thật ngoạn mục nhưng thê thảm, hầu như tất cả đều bị kỷ luật biệt giam 15 ngày. Vài thằng phải đi đập đá, hai giò bị cùm, còng tay, ngồi ngay giữa sân, có một cái búa nhỏ bằng ngón tay út và một cục đá thật to, phải đập cho cục đá xanh tròn vo lại. Mưa cũng như nắng, phải suốt ngày ngồi đập như vậy hàng tháng trời. Tuy nhiên không ai bị nặng hơn vì đánh bằng ngựa thêu tuy bầm dập nhưng lại không chết người,.. Còn tay QG trực khâu thêu do bỏ chạy nên bị lột lon, cách chức, đưa đi gác chuồng cu ngoài đồng.
Mỗi buổi sáng khoảng vài chục người được ra ngoài làm cho Trưởng trại, cái này gọi là “mượn quân”, một sự tận dụng sức tù miễn phí. Đúng ra theo điều luật thì mượn quân như vậy là phải trả tiền cho trại, nhưng điều này hiếm khi có, tất cả đều phải “nương nhau mà sống” chứ ? Vì thế đám ra ngoài phải mặc đồ như thường dân, không mặc bộ đồ “Julveltut” như lúc ở trong để không ai biết đó là tù. Nhờ thế cán bộ được người làm không công, tù thì ra ngoài ăn uống khá hơn chút ít nhưng cái chính là nếu ăn cánh với tay vũ trang dẫn giải là có thể mua hàng mang vào bán lại kiếm lời. Công việc thì đủ thứ như làm vườn, xây nhà, nuôi heo, tát hầm cá… Có lần hầm nuôi cá sấu bị sổng mấy con, chúng lọt ra ngoài xuống mấy ao cá, lần đó tù phải dàn hàng ngang lội xuống ao để bắt, may không có ai bị sấu cắn, có lẽ cá sấu nó cũng sợ tù y như người bên ngoài vậy?
Theo luật thì cấm phân biệt đối xử với người bị nhiễm HIV nên họ được sống chung trong phòng, khi họ bắt đầu phát, người gầy rộc đi, sọ thì như trái dừa khô, xương sườn đếm được từng cái, hai chân khẳng khiu nhìn thấy cả xương bánh chè… họ đi tới đi lui trong phòng nhìn cứ như những bộ xương di động. Có một người tên T, còn rất trẻ, sau khi bị phát SIDA thì chuyển xuống trạm xá, thỉnh thoảng anh ta lại lên phòng chơi “ở dưới đó buồn quá, em nhớ mọi người nên lén lên đây” – “càng ngày nom chú càng giống bộ xương quá” – “em ráng ăn nhiều lắm, uống cả sữa, bác sĩ còn truyền nước biển cho em nữa…”. T cười rất hiền lành, những ngày cuối cùng của những người biết mình sắp chết hầu như đều thế cả, dường như lúc đó con người mới trở về với cái bản ngã chân thật của mình, không còn tham, sân, si nữa… vì có lẽ đối với họ mọi thứ vật chất đã trở nên vô nghĩa.
Một buổi tối, bỗng tay “Tổng đại diện” mở cửa dẫn ĐHC đi xuống khu trạm xá, có thêm vài ba người nữa, trời đêm hôm ấy sao lạnh lẽo, có tiếng chim heo kêu thảng thốt… trong phòng Mười Hổ nằm đó, người gầy rộc và mái tóc bạc phơ, nhưng đôi mắt của ông ta vẫn thế, vẫn cố gắng tỏa sáng đến giây phút cuối cùng. Ở đời nhiều khi thấy vậy mà không phải vậy, “Báu vật phi thường” có lẽ là một khắc tinh của đám tà sư, đâu phải ngẫu nhiên mà đám thầy bà bên Miên nghe hơi là chạy xa. Mười Hổ chủ quan và quá tự tin, bây giờ đã đến lúc phải trả giá. Ông ta cố gắng tỏ ra mạnh mẽ, nhưng bên trong gân cốt đã mục ruỗng, máu huyết đã đến hồi cạn kiệt. Có lẽ ông ta biết mình khó lòng qua được đêm nay, nhưng vẫn tỏ ra hết sức bình tĩnh, “con hổ tuy sắp chết nhưng vẫn là con hổ”.
Ông không nhìn ai cả, ánh mắt của ông đã nhìn vào hư vô “… hãy cố gắng…”, một tiếng nói khẽ không biết là do ông nói hay từ đâu vọng lại – Dường như ông ta đã quên hết quá khứ và hiện tại? – Ông còn muốn nói gì đó nữa, môi khẽ mấp máy nhưng không còn nghe rõ…
Đêm thật là im lìm, không gian như chìm xuống, Mười Hổ nằm trong lặng lẽ và cô đơn, ông ta đã trả xong nghiệp của kiếp này…
Tết đã đến rồi… Tết đến với người tù thì buồn nhiều hơn vui, nhất là những người có gia đình vợ con. Trong trại cũng tổ chức ca nhạc, nhảy đầm, chơi thể thao, nam nữ có dịp nói chuyện với nhau thoải mái.
Nhảy đẹp nhất phải nói là “Thảo Bay” và “Phượng Sầu”, cô Phượng này là con nhà giàu, thuộc đẳng cấp thượng lưu hẳn hòi, vì dính vào ma túy nên mới ra nông nỗi. Cô ta nhún nhảy thật duyên dáng, hát nhiều bài như “Forget me not”, “unchained melody”, “Woman in love”… bằng một chất giọng cao vút:
“…I am a woman in love
and I'd do anything
to get you into my world,
and hold you within.
It's a right I defend
over and over again.
What do I do?...”
Trước hôm tết mấy ngày, ĐHC ra bên ngoài bất ngờ gặp Sơn Cẩu, y đứng một mình, mặc cái áo sơ mi phẳng phiu, cái quần bốn túi nom rất oách.
- “đến ngày đẻ rồi hả ?”- Sơn Cẩu gật đầu, y bắt tay ĐHC thật chặt. Sơn Cẩu bây giờ không còn mặt trắng môi đỏ như ngày nào, thay vào đó là một gương mặt sạm vì nắng gió, khá nhiều lằn ranh đã xuất hiện, đôi mắt của y đã trở thành “mắt Đại Bàng” thật sự. Y không còn cần đến bầy đàn nữa - Sơn Cẩu đã biến thành Sơn Hổ - đã có thể chiến đấu một mình – Mười Hổ cuối cùng cũng đã có người kế thừa.
Sơn Hổ đi từng bước vững chắc ra khỏi trại, không điều gì trên đời này có thể cản trở y được nữa…
Một Con Hổ đã trở về.
Qua tết thì công việc lại bắt đầu như cũ, mấy ngày ở không làm những người tù đâm ra lười biếng, cả đám làm việc ì ạch, trời tối sẫm rồi mà vẫn còn hơn nửa cánh đồng chưa cắt hết. Đám vũ trang gác chuồng cu yêu cầu tay QG phải rút quân về để đảm bảo an toàn. Nói chung mấy tay QG chẳng cần quan tâm đến già trẻ, lớn bé, tội nặng, tội nhẹ… Họ dùng người như dùng cục gạch, được thì xài, không được thì vất bỏ, đập bỏ… Khi về đến trại, tay QG ra nói gì đó với Trực trại, tay này mặt giận hầm hầm, chỉ mặt đội trưởng chửi “cho chúng mày ăn no rồi chúng mày làm như thế hả… cho mỗi thằng ăn ba cây cừ tràm thử xem mai chúng mày còn dám câu giờ nữa không ?”
Tay trực trại này mới về quê ăn tết, khi vào y vừa mới xuống bến xe, còn đang mệt mỏi, chưa kịp hoàn hồn thì bị ba bốn thằng ở đâu tấn công tới tấp. Mấy thằng này chắc trước ở trong này, bị đì nên còn ấm ức, tình cờ thấy y liền xúm lại đánh hội đồng, làm tay trực trại hôm đó bầm mắt, phù mỏ mà không kịp nhận ra thằng nào. Hôm nay sẵn dịp này xử cho bõ tức, y cười gằn, cầm lấy cây cừ tràm to bằng cổ chân lên đưa cho ĐHC - Khi ĐHC cầm lấy cây tràm thì đột nhiên hiểu một điều… Y đã được chọn, Lâm Dơi đã “xong” rồi, Mười Hổ đã “đi” rồi, Sơn Cẩu đã “về” rồi và y đâu có ngờ đến một lúc nào đó lại phải làm cái việc này? - Y chợt nhớ “Mặc Thế Nhân” đã từng nói “Đây là nơi tận cùng của thế giới, ở chốn này nếu không bị người đánh thì đến một lúc nào đó cũng bị phải đánh người…”. Khi đánh đến người tù cuối cùng cũng là lúc cây cừ tràm to bằng cổ chân gãy rời, ĐHC cảm thấy rất mỏi mệt, xem ra đánh người đâu phải là chuyện dễ… Tay trực trại chẳng thèm nói gì, cũng chẳng thèm nhìn đến đám tù thất thểu và bầm dập đang lũ lượt đi vào…
ĐHC ngày càng cảm thấy dường như đã dần biến thành con người khác, y càng trở nên giống Lâm Dơi trong từng cử chỉ, cặp mắt của y lại càng giống như cặp mắt đại ca “Sói Điên” ngày nào, một thứ mắt sói lạnh lẽo và tàn bạo – bây giờ thì y đã hiểu thế nào là “điên trong lúc tỉnh” và “tỉnh trong lúc ngủ”…
Một hôm ĐHC ghé vào khu…, trong phòng giờ này chỉ còn một người trực sinh già chừng hơn sáu mươi tuổi, người này được anh em trong tù rất kính trọng, đặt là Mặc Thế Nhân.
Mặc Thế Nhân là người có chính kiến và tôn giáo riêng, vì thế khi ông ta tập họp đệ tử đông đảo thì bị bắt và kết vào tội “tụ tập gây rối trật tự công cộng”, có một cái án “dây thun”. Ở trong này ông ta sống rất điềm tĩnh và bình thản, chưa bao giờ làm phật lòng ai.
Mặc Thế Nhân mời uống chung trà, cả hai cùng “trầm” một lúc, ĐHC phá tan cái không khí yên lặng “ở trong này ông có nhớ nhà không ?” – “tôi đâu còn gia đình mà nhớ, hơn nữa nhớ mà làm gì ? trong này có khác gì ngoài đời, nơi đây là một nhà tù nhỏ, bên ngoài là một nhà tù lớn, hơn nữa mỗi con người chúng ta đều tự giam mình trong cái “nhà tù” của chính chúng ta. Tự do là điều mà mọi người luôn tự huyễn hoặc mình, tự ru ngủ mình bằng những cái gọi là thành công này nọ, tài sản, thừa kế, danh vọng, sự ca tụng, sự đố kỵ, ganh ghét… khi nào ta chết đi mới thật sự tự do, đó là sự giải thoát” – “tôi cảm thấy sao nặng nề quá, dường như không còn là chính mình nữa…ông có pháp thuật gì có thể giúp không ?”.
Mặc Thế Nhân không nói gì, mãi sau ông ta mới thở dài “Cái mà con người mơ ước là một cuộc sống mạnh khỏe, tự do và hạnh phúc, một tâm hồn thanh thản và yêu đời… Có thứ tiền bạc của cải, danh vọng địa vị nào làm được điều đó sao? có thứ pháp thuật nào làm được điều đó sao?...” Ông suy nghĩ một lúc rồi nói tiếp “Cuối cùng của một con đường biết đâu lại là sự khởi đầu cho một con đường mới… Tôi biết một bài kinh rất ngắn, chỉ có 260 từ, trong đó bao hàm tất cả triết lý về cuộc sống, về vũ trụ, nếu tụng hằng đêm và suy nghĩ về nó có thể giúp chú tự “giải thoát” khỏi những mặc cảm, những sân si đời thường – Ở trong này cấm truyền bá tôn giáo nên tôi sẽ không chép ra mà đọc từ từ để chú học thuộc, nhớ là phải giữ kín, nếu lộ thì cả hai sẽ bị đi kỷ luật ngay”.
Từ hôm đó, khi nào rảnh ĐHC thường ghé qua khu của Mặc Thế Nhân, ông ta chậm rãi đọc từ từ bài kinh, giảng giải cặn kẽ. Bài kinh này Mặc Thế Nhân gọi là “Bát nhã Ba la mật đa tâm kinh” , lần đầu tiên trong cuộc đời ĐHC bắt đầu học một bài kinh Phật “Quán Tự Tại Bồ Tát hành thâm Bát nhã Ba la mật đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhứt thiết khổ ách…”.
-“hành tâm hay là hành thâm vậy ông?” – “hành thâm, Thâm ở đây là thâm sâu, là siêu việt…”
- Quán Tự Tại Bồ Tát là ai vậy ?
- Đó không phải là một người, mà là Tự tánh của tất cả mọi người, là tự bản thân chúng ta…
- Bài kinh này thật ngắn gọn súc tích, và cũng thật khó hiểu.
- Nhưng khi hiểu được rồi thì thấy nó thật là hay, hay hơn tất cả những gì mà tôi đã từng được biết.
Tối nào cũng vậy, sau khi giăng mùng, ĐHC đều tự nghiền ngẫm về những lời kinh “Xá Lợi Tử, sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc, thọ tưởng hành thức diệc phục như thị… Xá Lợi Tử, thị chư pháp không tướng, bất sanh bất diệt, bất cấu bất tịnh, bất tăng bất giảm…”
Y cứ suy nghĩ mãi, mặc kệ cho đám lâu la xung quanh lấy làm kinh ngạc.
”Thị cố không trung vô sắc, vô thọ tưởng hành thức.
Vô nhãn nhĩ tỷ thiệt thân ý, vô sắc thanh hương vị xúc pháp, vô nhãn giới nãi chí vô ý thức giới…”

- Tôi thích cái câu “viễn ly điên đảo mộng tưởng, cứu kính Niết bàn…”
- Phải quét cho hết, quét cho sạch cái điên đảo mộng tưởng, quét cho sạch cái cứu kính Niết Bàn, thì may ra mới chứng nhập được Niết Bàn…
Suốt mấy tháng ròng như vậy, cuối cùng thì ĐHC cũng học thuộc lòng được bài kinh, mặc dù không thể hiểu hết ý nghĩa của nó, nhưng y cảm thấy tinh thần yên tĩnh được phần nào.
Trong một buổi tối trời, sau khi cơm nước xong, y ngồi nói chuyện với một người tù trẻ “anh thấy em mấy bữa rày hình như khó ngủ?” – “em suy nghĩ đủ thứ, trằn trọc không ngủ được, cảm thấy tinh thần mệt mỏi quá” – “Vậy thì hãy thử hát một bài để giải tỏa tâm trí và cho mọi người cùng nghe…”
Người tù trẻ tuổi lấy cái xô nhựa làm cái trống, vừa gõ vừa cất tiếng ca một bài nhạc trữ tình, vài người khác cũng đến ngồi, tất cả bọn họ đều lắng chìm trong những giai điệu du dương. “…Mình thương, thương nhau trong đời, thương nhau trong lời yêu nước Việt mà thôi… Xin nhớ anh ơi!”
ĐHC cảm thấy như đang sống trong cơn mộng du, y cứ sống như vậy thật lâu, lâu lắm… y xếp cho người bạn trẻ tuổi nằm cạnh để tối tối tâm sự về mọi điều, về quá khứ và tương lai, về mọi buồn vui trong cuộc sống… đôi lúc y cũng cảm thấy mệt mỏi, như có cái chết rình rập xung quanh, nhưng ĐHC không còn sợ hãi nữa và một ngày kia đến lượt y lại dạy bài kinh “Bát Nhã” cho người bạn trẻ - “Đây là một bài kinh tuyệt vời, chỉ gồm có 260 từ, em hãy cố gắng học thuộc nó và tụng mỗi tối, tâm hồn em sẽ được yên tĩnh…”
Y biết rằng đã đến lúc kết thúc, và đó là “…sự giải thoát…”, là “… hãy cố gắng…” nên kể cho người tù trẻ nghe tất cả, tất cả những gì đã trải qua trong cuộc đời của y và bè bạn “đến một lúc nào đó có thể, biết đâu em sẽ ghi lại…”.
Buổi tối hôm ấy thật là dài, ĐHC không ngủ được, y thức dậy và ngồi yên lặng trong màn đêm yên tĩnh. Gió bên ngoài thổi vào thật lạnh, văng vẳng nghe như có tiếng vạc kêu… Trời từ từ sáng dần, bình minh đã đến, phía đông đã bắt đầu ửng đỏ, vài ánh nắng lấp lánh trên từng hàng song sắt, người tù trẻ tuổi quay mình trằn trọc, trong cơn mê cất tiếng lảm nhảm đọc những lời kinh “Vô vô minh, diệc vô vô minh tận, nãi chí vô lão tử, diệc vô lão tử tận… VÔ KHỔ, TẬP, DIỆT, ĐẠO…”…/.

dienbatn giới thiệu.

Xem chi tiết…

THỐNG KÊ TRUY CẬP

LỊCH ÂM DƯƠNG

NHẮN TIN NHANH

Tên

Email *

Thông báo *