NHÂN VẬT VÀ ĐIỂN TỊCH PHONG THỦY.

9/07/2019 |
NHÂN VẬT VÀ ĐIỂN TỊCH PHONG THỦY.

Dương Quân Tùng.

CÁC NHÀ PHONG THỦY TRUNG QUỐC.


Sủ Lý Tử: (300 trước CN). Sư Lý Tật (chữ Hán: 摢裏疾, ?-300 TCN), tên thật là Doanh Tật (嬴疾), gọi theo thụy là Nghiêm quân (嚴君), là đại thần nước Tần thời Chiến Quốc trong lịch sử Trung Quốc. Ông có công lớn trong việc đưa mở rộng lãnh thổ, khuếch trương thế lực làm cho nước Tần trở thành nước lớn nhất trong số Thất hùng, mở đường cho việc thống nhất Trung Quốc của Tần Thủy Hoàng sau này.Tên là Tật, em trai của Tân Huệ Vương, từng nhiều lần đem quân Tần đi chinh phạt các nước Triệu Ngụy, Sở; được phong tước Nghiêm Quân. Khi Tần Vũ Vương lên ngôi ông làm Tả thừa tướng.
Là một người túc trí đa mưu, biệt hiệu “Trí Nang" (túi khôn). Sắp chết đa chọn trước cho mình mộ huyệt ở phía nam Vị Thuỷ và nói : “Trăm năm sau, sẽ có cung tiến từ bên mộ của ta”. Đến đời Hán hưng thịnh, ngươi ta đã xây dựng cung Trường Lạc ở phía đông ngôi mộ và cung Vị Ương ở phía tây ngôi mộ, kho vũ khí thì ở ngay chỗ ngôi mộ. Việc này không đáng tin lắm, nhưng các nhà phong thủy dựa vào đó coi Sù Lí Tử là nhà địa lý nổi danh đầu tiên.

Thanh Ô tiên sinh : Tức Thanh Ô Tử, người đời Hán. Tả Từ (?-?, chữ Hán: 左慈, bính âm: Zuǒ Cí) là một nhân vật huyền thoại sống vào cuối thời Nhà Hán và kỷ nguyên Tam quốc trong lịch sử Trung Quốc. Mặc dù ông được biết lưu trú tại Lư Giang, nhưng năm sinh năm mất không rõ. Người ta tin rằng ông đã sống trước khi Nhà Hán sụp đổ và khẳng định rằng ông thọ đến 300 tuổi.
Tả Từ học phép thuật đạo Lão để được trường sinh bất tử, từ vị đạo sĩ tên Phong Hành (封衡), và sau đó truyền lại đạo thuật cho Cát Huyền (葛玄).
Tả Từ là một đạo sĩ Lão giáo, tự là Nguyên Phóng (元放), đạo hiệu là Ô Giác Tiên sinh (烏角先生), người quận Lư Giang, nay là Tiềm Sơn, tỉnh An Huy.
Tả Từ tu trên đỉnh núi Thiên Trụ, luyện tập nội đan thuật và nuôi dưỡng tinh khí bằng khí công và tập luyện Phòng trung thuật, một phương pháp luyện khí công tình dục của Đạo giáo. Nhiều người nói rằng ông có thể sống trong nhiều thời kỳ mà không cần ăn. Tả Từ cũng học Tứ thư Ngũ kinh và Chiêm tinh học.
 Có thuyết nói ông là người thời Hoàng đế. Tương truyền tinh thông Thuật Phong thủy. Hiện có Thanh Ô tiên sinh táng kinh, 1 quyển, nghi là do người thời Tấn - Đường mạo danh viết ra. Lại có Cựu đường thư Kinh tịch chí chép Thanh Ô Tử, 3 quyển, đã thất lạc.

Quản Lộ : ( năm 207 - 256 ), tự Công Minh, người nước Ngụy, ở Bình Nguyên (nay là tây nam huyện Bình Nguyên, tỉnh Sơn đông). Nổi tiếng thần đồng. Từng được thái thú Thanh Hà tên là Hoa khen có tài văn chương, lại được thứ sử Ký châu cho giữ chức Văn học tòng sự, sau đỗ tú tài, làm quan đến chức Thiếu phủ thừa. Quản Lộ tinh thông Chu Dịch, bói toán, Phong thủy, đoán gì đúng nấy. Từng qua chỗ mộ Vô Khưu Kiệm, tựa gốc cây buồn bã nói "Cây cối rậm rạp như rừng, nhưng vô hình chẳng thể sống lâu; bia mộ tuy đẹp, nhưng không có mặt sau để giữ. Huyền vũ rụt đầu, Thương long không chân, Bạch hổ ngậm xác, Chu tước than khóc, 4 cái nguy đều có cả, đó là cái họa giết cả họ" (Tam quốc chí, quyển 29. Đây là thuyết Tứ linh của Thuật Phong thủy được thể hiện lần đầu bằng văn tự.
Hiện còn sách Quán thị địa lý chí mông, 1 quyển, thực ra là của người đời sau mạo danh. Xem thêm mục Quán thị đều lý chi mông).

Quách Phác : ( năm 276 - 324), tự Cảnh Thuần, người cuối thời Tây Tấn, huyện Văn Hỷ, Hà Đông (nay là huyện Văn Hỷ, tỉnh Sơn Tây), tránh loạn đến Giang Đông, lúc đầu được Thái thú thành Tuyên cho làm Tham quân, sau làm Trước tác tá lang, rồi mượn cớ mẹ mất mà từ chức. Sau lại được Vương Đôn ban chức Ký thết tham quân, nhưng vì không theo Đôn mưu phản nên bị Đôn giết. Quách Phác thuở nhỏ yêu thích kinh thuật thơ phú nổi danh một thời, sau theo Quách Công học Dịch lý, địa lý, thiên văn, bói toán , được Quách Công tặng Thanh nang thư. Từng chọn đất mai táng cho mẹ ở bãi sông, người ta báo sao lại chôn dưới nước, ông nói rồi nơi đây sẽ thành đất khô. Quả nhiên về sau nơi đó được cát bồi thành nương dâu. Lại từng chọn mộ cho người khác. Tấn Minh đế từng tới xem, hỏi chủ nhân vì sao chôn ở đất “Long giác", dễ thành tai họa cả họ bị giết. Chủ nhân đáp rằng Quách Phác bảo táng ở tai rồng thì sẽ được nhà vua hỏi tới. Huyền thoại này e của người đời Đường, khó tin. Hiện có sách Táng thư còn gọi là Táng kinh. 1 quyển, đề của Quách Phác, có lẽ do người đời Đường mạo danh viết nên.

Tiêu Cát : Tự Văn Hưu, người Lan Lăng (nay là tây bắc thành phố Thường Châu, tỉnh Giang Tô), cháu của Lương Vũ Đế. Nhà Lương diệt vong, ông vào Bắc Ngụy làm Nghi đồng. Sau khi nhà Tùy thống nhất, ông làm quan đến chức Thượng nghi đồng, Thái thường; Tùy Dạng Đế lên ngôi, phong ông chức Phủ thiếu khanh. Chết khi đang làm quan. Tiêu Cát là người uyên bác, tinh thông âm dương, thuật đoán mệnh , Thuật Phong thủy. Nhân Thái tử ở Đông cung hay thấy ma quỉ, ông đã lập đàn thần trấn yểm. Lại chọn mộ cho Văn Đế hoàng hậu. Trước tác về phong thủy có Trạch kinh, ý quyển, Táng kinh 6 quyển ; nay đều thất truyền. Song trong trước tác của các nhà phong thuỷ đời sau thường dẫn lời của Tiêu Cát.

Thư Xước : Người Đông Dương (nay thuộc tỉnh Chiết Giang), đời nhà Tùy. Giỏi thuật số địa lý. Tể tướng Dương Cung Nhân muốn dời mộ tổ, bèn mời năm sáu ông thày nổi tiếng trong nước tới, lấy đất ở 4 góc ngôi mộ, mỗi góc 1 đấu, vẽ địa hình ngôi mộ rồi bỏ vào phong bì dán kín lại, đoạn đưa đất ra cho các thày phán. Duy chỉ có Thư Xước nói rằng đất ấy có phúc và miêu tả hình thế giống hệt như thực địa. Thiên hạ nhân đó tôn ông là thánh phong thủy. Đây là một ví dụ điển hình về phép nhìn đạt biết phong thủy thời cổ .

Lã Tài : ( 665 ), ngươi đời Đường, ở Thanh Bình, Bác Châu ( nay là huyện Liêu, tỉnh Sơn Đông). Giỏi âm dương, thiên văn, phương thuật, địa lý, âm luật học. Thời Trinh Quán vào cung Huyền Văn, làm Lụy thiên thái thường bác sĩ, Thái thường thừa. Từng được triều vào triều san định sách âm dương để ban hành cho thiên hạ. Còn làm “Phương vực đồ”. Các trước tác phần lớn nay đã thất truyền. Hiện còn Tự trạch kinh , Tự táng thư, Tự trạch kinh chuyện bàn về cách phối ngũ tính với ngũ hành để xác định cát hung của nhà ở và huyệt mộ. Táng táng thư thì nói đại ý rằng Táng thư có đến 120 nhà, với đủ thứ thuyết cát hung, cấm kỵ. Song thời thượng cổ chôn cất có ai chọn lựa gì năm tháng ngày giờ chẳng ai tin chuyện lành dữ, cũng không phân biệt họ tên, tước vị, quan chức. Như vậy táng thư chỉ làm bại hoại phong tục, làm những chuyện vô bổ. Lã Tây là người đầu tiên thời cổ đi sâu vào Thuật Phong thủy mà phê phán các yếu tố mê tín.

Lý Thuần Phong : ( năm 602 - 670), người đời Đường ở đất Ung, Kỳ châu ( nay là phía nam huyện Phụng Tường tỉnh Thiểm tây). Lý Thuần Phong (Trung văn giản thể: 李淳Chữ Hán phồn thể: 李淳風 - sinh năm 602 mất năm 670) là người đời Đường. Ông là người học rộng tài cao tinh thông thiên văn, địa lý và có tài lập luận phá án. Ông là một Gia Cát Lượng thứ 2, là nhà thiên văn học, nhà chính trị cũng như nhà số học.
 Đầu thời Trinh Quăn, từ chức Tướng sĩ lang vào thẳng Thái sử cục, chế ra máy Hỗn thiên nghi, dần dần được thăng đến chức Thái sử lệnh. Trước tác phong thuỷ có Trạch kinh, Âm dương chính yếu, nay không rõ bao nhiêu quyển, ngờ rằng do người đời sau mượn tên soạn nên.

Khâu Diên Hàn : Tự Dực Chỉ, người đời Đường, ở đất Văn Hỷ ( nay là huyện Văn Hỷ, tỉnh Sơn Tây ). Thuở nhỏ nổi tiếng về văn thơ. Truyền thuyết kể rằng Khâu từng du ngoạn Thái Sơn, gặp thần trong hang đá. nhận “Hải giác kinh", nhờ đó thông hiếu âm dương, phong thủy.
Khoảng năm Khai Nguyên ( 7 1 8 - 714 ) có chọn mộ cho viên tri huyện, có khí thiên tử bốc lên trên mộ. Triều đình kỵ điều đó, sai phá bỏ mộ, đồng thời hạ chiếu bắt giữ Khâu Diên Hàn, nhưng ông trốn được. Sau triều đình tha tội, Khâu đem dâng Thiên cơ thư. Đường Huyền Tông phong làm Á đại phu và cất sách kia vào hộp ngọc. Cuối đời Đường thì sách ấy bị Dương Quân Tùng, Tăng Cầu Kỷ lấy trộm. Trước tác có Ngọc hàm kinh , 1 quyển, Hoàng nang đại quái quyết 1 quyển, Nội truyện thiên hoàng biết cực trấn thế thần thư 3 quyển. Theo Địa lý chính tông, Khâu Diên Hàn là đệ tử của Phạm Việt Phụng, mà Phạm Việt Phụng là cao túc của Dương Quân Tùng. Dương là người thời Hi Tông, Khâu là người thời Cao Tông, như vậy là lẫn lộn về thời gian, chứng tỏ truyền thuyết về sự việc và trước tác không đáng tin, là do người đời sau tạo ra.

Dương Quân Tùng : Vốn tên là ích, tự Thúc Mậu, hiệu Cứu Bần, người Đậu châu ( nay là phía nam huyện Tín Nghi tỉnh Quảng Đông ) đời Đường. Thời Hi Tông, ông làm Quốc sư, làm quan đến chức Kim tứ quang lộc đại phu, phụ trách công việc địa lý của Linh Đài. Năm Quảng Minh ( năm 880 ), khi nghĩa quân Hoàng Sào tiến đánh kinh đô, Dương Quân Tùng thửa cơ rối ren đã lấy trộm sách Thiên cơ thư cất trong hộp ngọc của hoàng thất rồi trốn đến núi Côn Luân, sau đến Kiền châu hành nghề địa lý phong thủy, sáng lập nên phai Giang Tây, được đời sau tôn là tổ sư chính tông của Thuật Phong thủy. Học thuyết của ông lấy hình pháp làm chính, chú trọng hình thế sông núi, phối hợp Long – Huyệt – Sa – Thủy, chú trọng bám sát thực địa , mà ít dung phép suy lý. Về sau do học thuyết này lấy hình pháp làm chỗ dựa, bởi vậy chủ yếu được áp dụng cho Phong thủy âm trạch, mà ít cho phong thủy dương trạch. Trước tác có Hám Long Kinh 1 quyển , Nghi long kinh 1 quyển, Táng pháp chế trượng còn gọi là Thập nhị trượng pháp 1 quyển, Thanh nang áo ngữ 1 quyển, Thên ngọc kinh 1 quyển, Hắc nanh kinh, Tam thập lục long. Nhưng việc và sách của ông không thấy chép trong sử truyện; duy Trực trai thư lục giải đề của Trần Chấn Tôn và Tống sử. Nghệ văn chí có chép 12 trước tác đề là của Dương Cứu Bần soạn. Các chuyện về ông phần lớn la do các nhà phong thủy lưu truyền.

Tăng Văn Siêm : Có khi viết la Tăng Văn Thuyên hoặc viết lầm thành Tăng văn Địch . Người Ninh Đô (nay là tỉnh Giang tây) đời Đường. Cha là Tăng cầu Kỷ đã cùng Dương Quân Tung lấy trộm Thiên cơ thư trong hộp ngọc của hoàng thất mà chạy đến Giang Nam. Ông là đệ tử giỏi nhất của Dương Quân Tùng, nổi tiếng không kém gì thầy; sau đem thuật học được truyền cho Trần Đoàn. Những điều đó lẫn lộn về thời gian, không đáng tin. Trước tác có Thanh nang tự 1 quyển.

Hà Phổ: Tự là Lệnh Thông, người thời Ngũ Đại, Nam Dường; quê quán, lai lịch không rõ. Có Linh thành tinh nghĩa, 2 quyển, thực ra la của người đời Minh mượn tên soạn nên. Xem mục Linh thành tinh nghĩa.

Ngô Cảnh Loan : ( 1068 ). Tự Trọng Tường, người Đức Hưng (nay là tỉnh Giang Tây ) đời Tống. Tương truyền cha ông là Ngô Khắc Thành từng theo học Trần Đoàn, được thầy truyền hết nghề. Loan từ bé thông minh đĩnh ngộ, được cha truyền lại cái học của Trần Đoàn. Năm Khánh Lịch thứ nhất ( năm 1041), triều đình hạ chiếu tuyển dụng các nhà âm dương. Ngô Cảnh Loan được tiến cử vào kinh đô, ứng đối trôi chảy được giữ chức Tư thiên giám chính. Sau do trái ý Tống Nhân Tông, bị hạ ngục. Nhân Tông chết,
ông được phóng thích, bèn gọt tóc giả điên, đi ẩn cư. Mất năm Trị Bình thứ nhất (l068 ). Cái học của ông được truyền cho con gái, sau truyền cho Liêu Vũ. Trước tác có Lý khí tâm ấn, Ngô Công giải nghĩa. Tiếp tục viết xong 2 cuốn sách cha mình viết dở là Thiên ngọc kinh ngoại truyện, Tứ khố toàn cục đồ.

Liêu Vũ : Tự Nghiêu Thuần, lại có tự là Vạn Bang, người Vu Đô ( nay là huyện Vu Đô, tỉnh Giang Tây ) đời Tống. Có thuyết nói lầm ông là người đời Đường. Thuở nhỏ thông minh, 15 tuổi thông thuộc ngũ kinh, dân làng nhân đó đặt cho biệt hiệu “Liêu Ngũ kinh". Khoảng năm Kiến Viêm ( 1127 - 1 130 ) đi thi không đỗ. Ông được truyền thụ cái học từ con gái của Ngô Cảnh Loan, tinh thông Thuật Phong thuỷ. Sau ẩn cư ở núi Kim Tinh, do vậy có biệt hiệu “Kim Tinh sơn nhân". Trong giới phong thủy, nổi tiếng ngang với Dương Quân Tùng, Liêu Văn Xiêm, Lại Văn Tuấn thành tên gọi gộp “Dương, Tăng, Liêu, Lại". Trước tác có Cửu tinh huyệt pháp, 4 quyển, Biết cực kim kinh (không rõ mấy quyển, nghi là do người đời sau mạo danh ).

Thái Nguyên Định : (năm 1135 – 1198) Tự Quý Thông, người Kiến Dương ( nay là tỉnh Phúc Kiến ). Cha vốn là nhà Lý học, thuở nhó ông theo học cha mình, sau thành học trò của Chu Hy, cùng Chu Hy biện luận ý nghĩa các kinh đến tận đêm khuya. Học trò bốn phương đến học, nếu hỏi gì thì Chu Hy bao giờ cũng trao đổi trước với Thái Nguyên Định . Khi Hàn Thái Trụ nêu việc “Cấm ngụy học” ông bị đày đi Đạo châu. Đến Xuân Lăng, học trò theo học càng đông. Ông chết ở đó, sau khi chết được truy tặng thụy hiệu Địch công lang, Văn Tiết. Trước tác rất nhiều, về phong thủy có Phát vi luận 1 quyển, dùng học thuyết Nho gia giải thích lý luận phong thủy. Xem thêm mục Phát vi luận.

Vương Cấp : Tự Triệu Khanh, còn có tự là Khổng Chương, người thời Nam Tống. Tổ tiên vốn ở Biện Châu (nay là thành phố Khai Phong, tỉnh Hà Nam ), sau di cư đến Cán châu (nay là tỉnh Giang Tây). Vương Cấp chịu khó học hành, nhưng đi thi hai lần không đỗ, bèn bỏ nhà đi ngao du sơn thủy. Sau ông yêu thích phong cảnh núi Long Tuyền mà định cư tại Tùng Nguyên ( nay là huyện Tùng Khê, tỉnh Phúc Kiến ). Ông đọc các sách phong thủy của Quản Lộ, Quách Phác, nắm vững và vận dụng vào việc chọn huyệt mộ cho người ta, sao cho con cháu họ quí hiển, thường thường linh nghiệm. Lập luận của ông coi trọng lý pháp và các nguyên lý thuật số để định cát hung của phương vị tọa hướng, mà coi nhẹ hình thế sông núi, nên ông trở thành nhân vật tiêu biểu cho trường phái Phúc Kiến ( thiên về Lý pháp). Trước tác có Tam kinh và các ghi chép vấn đáp, được môn nhân là Diệp Thúc Lượng biên soạn thành sách.

Lại Văn Tuấn : Tự Thái Tố, hiệu Bố Y Tử, nên còn có tên Lãn Bố Y, người Xử châu (nay là huyện Lệ Thủy tỉnh Chiết Giang) đời Tống. Có thuyết nói ông người Ninh Đô ( nay là tỉnh Giang Tây) đời Đường là nhầm. Theo truyền ngôn của các nhà phong thủy, Lại Văn Tuấn là con rể Tăng Văn Siêm, đệ tử đời thứ ba của Dương Quân Tùng. Làm quan đến chức Kiến Dương lệnh, sau mê thuật phong thủy nên từ quan mà hành nghề địa lý. Hiện nay một dải đất Quảng Đông có rất nhiều truyền thuyết về ông. Trước tác có Thiệu Hưng đại địa bát kiềm, đã thất truyền. Chỉ còn Thôi quan thiên, 2 quyển.

Lưu Binh Trung : (năm 1216 - 1274). Thoạt đầu tên là Khản, tự Trọng Hối. Tổ tiên vốn là người Thụy châu (nay ]à thành phố Hình Đài tỉnh Hà Bắc ). Năm 17 tuổi làm Tiết độ sứ phủ lệnh sử Hình Đài, sau bỏ quan vào rừng đi tu, đổi tên thành Tư Thông. Hốt Tất Liệt (Nguyên Thế tổ) triệu vào dinh cùng bàn việc cơ mật, nên người ta gọi ông là “Thông thư ký". Sau khi Hốt Tất Liệt lên ngôi , liền phong cho ông chức Quang lộc đại phu, Thái bảo, Tham dự trung thư tỉnh sự và ban cho cái tên Bỉnh Trung. Ông tham gia bàn tính nhiều kế sách lớn trong thiên hạ. Ông tinh thông cái học âm dương địa lý, từng giám sát việc xây dựng Thượng Đô (hiện ở Nội Mông) và Đại Đô (nay là thành Bắc Kinh ), dùng Thuật Phong thuỷ để xác định qui mô hai Đô ấy. Cuối đời lại có hiệu Tàng Xuân Tản Nhân, khi chết được truy phong tước Thường son vương, thụy Văn Chinh. Trước tác có Ngọc Xích kinh 4 quyển, thực ra là của người đời sau mạo danh soạn nên.

Lưu Cơ : (năm 1311 – 1875) Tự Bá ôn, người Thanh Điền ( nay là tỉnh Chiết Giang ) đời Minh. Đỗ tiến sĩ cuối đời Nguyên, bỏ quan đi ẩn cư. Sau phò tá Chu Nguyên Chương dựng nước, giữ chức Khanh sử trung thừa, Thái sử lệnh, tước Thanh Yù bá. Khi mất được phong thụy Văn Thành. Lưu Cơ tinh thông âm dương, thiên văn, thuật số; người đời sau tạo các đồ thư thường mượn tên ông. Hiện còn Phệ can lộ đởm kinh. Kham dư mạn hung cùng nhiều bản chú.

CAO BIỀN :
Cao Biền (giản thể: 高骈; phồn thể: 高駢; bính âm: Gāo Pián; 821 - 24 tháng 9, năm 887), tên tự Thiên Lý (千里), là một tướng lĩnh triều Đường, một nhân vật chính trị, người đầu tiên trở thành Tiết độ sứ của trị sở Tĩnh Hải quân trong lịch sử Việt Nam.
Thoạt đầu, ông trở thành danh tướng khi đánh bại các cuộc xâm nhập của Nam Chiếu, song sau đó ông đã thất bại trong việc đẩy lui cuộc nổi dậy của Hoàng Sào, quản lý yếu kém Hoài Nam quân. Năm 887, một cuộc nổi dậy chống lại ông đã dẫn đến cảnh giao chiến khốc liệt tại Hoài Nam quân, kết quả là ông bị Tần Ngạn giam cầm rồi sát hại.
Truyền thuyết dân gian kể rằng khi sang Giao Châu, Cao Biền thấy long mạch rất vượng, nên muốn phá đi, thường mặc áo phù thủy, cưỡi diều giấy đi khắp nơi để xem địa thế, hoặc giả tảng lập đàn cúng tế để lừa thần bản địa đến rồi dùng kiếm báu chém đầu, xong đào hào, chôn kim khí để triệt long mạch. Cao Biền có lần đến núi Tản, định dùng chước này, nhưng Tản Viên sơn thánh biết được, liền mắng Cao Biền rồi đi.
Các sách của Cao Biền :

CAO BIỀN TẤU THƯ ĐỊA LÝ KIỂU TỰ .
Về khoa địa lý có những tài liệu quí giá cho việc khảo cứu, nhưng không thực rộng nên chưa in thành sách. Lần này chúng tôi khởi giới thiệu tài liệu “Cao Biền tấu thư địa lý kiều tự” là tập tài liệu nói về các kiểu đất kết bên Việt nam mà Cao Biền trình về vua Đường Trung Tông. Những đất nói trong tập này có ngàn kiểu mà Cao Biền mới yểm được một số ít đất Đế vương quí địa còn cả ngàn đất Công hầu, Khanh tướng vẫn còn nguyên vẹn. Các cụ xưa giữ sách này làm gia bảo và theo nó tìm cho ra đất kết dành cho họ hàng mình dùng khi cần đến.
Xuất xứ sách
Xưa kia về đời Vua Đường Trung Tông bên Tàu có Cao Biền được phong là “An nam tiết độ sứ” sang đô hộ nước ta, là người rất giỏi địa lý được vua Tàu uỷ cho sứ mạng trình về vua biết các kiểu đất bên Việt nam và yểm phá các đất kết lớn nào khả dĩ có ảnh hưởng cho Trung Quốc.
Sau khi nhận chức và khảo sát địa lý bên Việt nam, Cao Biền thấy nước ta có nhiều đất phát rất lớn có thể tạo nên những bậc tài giái mà sự nghiệp khả dị ảnh hưởng cho Trung Quốc trong vấn đề Nam tiến biên soạn tập “Cao Biền tấu thư địa lý kiều tự” này trình về vua Đường đồng thời dùng phép yểm phá một số Long mạch có đất kết lớn. Truyền thuyết có nói trước khi yểm một kiểu đất nào Cao Biền thường phô đồng để kều các vị thần cai quản khu vực đó nhập vào đồng Nam, đồng Nữ rồi trừ đi sau đó mới ra yểm đất. Cũng theo truyền thuyết Cao Biền có yểm được một số ít đất lớn song cũng bị thất bại trước nhiều vị thần linh trong đó đáng kể nhất là “Tản viên sơn Thần” và “Tô lịch giang Thần” (núi Tản viên thuộc huyện Bất Bạt tỉnh Sơn tây và sông Tô lịch chảy qua Hà nội ở Ô Cầu Giấy (gần làng Láng). Đền Bạch Mã ở Hàng Lược Hà Nội là đền thờ thần Tô Lịch.
Trải qua Đường Tống đến đời nhà Minh có Trương Phô, Mộc Thạch và Hoàng Phúc là ba danh tướng Trung Hoa được Minh đế cho kéo quân sang Việt nam bề ngoài với danh nghĩa phò hậu Trần diệt Hồ nhưng bên trong có mang một kế hoạch diệt chủng người Việt và đổi nước ta thành quận huyện của Trung Quốc. Kế hoạch này tỉ mỉ và thâm độc hơn những kế hoạch tương tự mà người Hán đã làm từ xưa đến giờ.Trong số 3 danh tướng Trung Hoa này thì Hoàng Phúc là người rất giỏi địa lý có mang theo “Cao Biền tấu thư địa lý kiều tự” sang duyệt xét lại và yểm nốt những đất kết lớn nào còn sót lại cho Việt nam không thể còn có những thế hệ thịnh trị sản sinh ra được những nhân tài xuất chúng như Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo đã làm khó khăn cho Trung Quốc như trong thời đại Lý và Trần vừa qua. May thay Lê Lợi và Nguyễn Trãi đã khôn khéo và kiên trì lãnh đạo cuộc kháng Minh đến thành công sau 10 năm gian khổ. Khi bắt sống được Hoàng Phúc ta thu được toàn bộ tài liệu của kế hoạch nêu trên trong đó có cả tập “Cao Biền tấu thư địa lý kiều tự”.
Bây giờ tập sách này trở nên một tài liệu vô cùng quý giá cho ta trên nhiều phương diện: Sử liệu, chính trị, địa lý.
1. Trên phương diện sử liệu nó là một sử liệu cổ xưa có giá trị. Tài liệu này soạn thảo từ ngàn năm trước.
2. Trên phương diện chính trị: Nó là tài liệu chứng minh một cách cụ thể chính sách người Hán và tham vọng của họ với dân tộc Việt nam.
3. Trên phương diện địa lý: Nó là một áng văn tuyệt tác về phép mô tả các kiểu đất kết mà các cụ xưa kia thường dùng để soi sáng cho việc học “Tầm Long”. Chúng tôi đã thấy và có nghe nói nhiều đến các cụ địa lý, hơn nữa cả bọn thanh niên để cả chôc năm liên tiếp với chiếc ô (dù) và tay nải đi hết làng nọ sang làng kia, tỉnh này sang tỉnh khác nghiên cứu thực hành “Tầm Long mạch” qua sự chỉ dẫn địa danh và thế đất mô tả trong “Cao Biền địa lý tấu thư kiều tự”. Quyển địa đạo diễn ca của cụ TẢ AO mà chúng tôi biên nơi đây chú trọng đến việc tầm Long tróc mạch nên chúng tôi xin cống hiến quý bạn một phần đầu quyển “Cao Biền tấu thư địa lý kiều tự”.
Cao Biền đề cập đến 632 huyệt chính và 1517 huyệt bàng của các tỉnh.
-         CAO VƯƠNG CHÂN TRUYỀN ĐỊA LÝ ĐỒ CHÂM CHÂN HUYỆT .

-      
CAO BIỀN TẤU THƯ CỬU LONG KINH.

-     CAO BIỀN DI CẢO.


CÁC SÁCH PHONG THỦY CÒN TRUYỀN LẠI.

Cung trạch địa hình : Tên sách. Không rõ tác giả. 20 quyển, đã thất truyền. Hán thư. Nghệ văn chí xếp vào phái Hình pháp. Sửù ký khảo chứng nói sách này bàn về phương vị phong thủy". Hán chí viết : “Thuộc loại Hình pháp, bàn về hình thế 9 châu đề xây dựng nhà cửa thành quách". Đủ biết sách này là trước tác phong thủy sớm nhất chuyên bàn về phong thủy dương trạch.

Kham dư kim quí : Tên sách. Không rõ tác giả, 14 quyển, đã thất truyền. Hán thư. Nghệ văn chí xếp vào loại ngũ hành. Sử ký khảo chứng nói sách này bàn về “phương vị phong thủy". Theo Sử ký. Nhập giả liệt truyện, các nhà Kham dư (địa lý) từng tham khảo phần bàn về ngày lành cho việc cưới vợ, thuộc về “Chiêm gia” (thày bói), đủ biết đây không chỉ là sách phong thủy. Lai theo Luận hoành, Chu Lễ chú, Hoài Nam Tử, Thuyết văn giải tự, thì hai chữ Kham dư là tên vị thần, có thuyết nói la tên gọi chung trời đất, không phù hợp hoàn toàn với những gì phong thủy đề cập. Cho nên nghĩ rằng sách nay là sách bói toán, trong đó có phần bàn về phong thủy.

Thanh Ô tiên sinh táng kinh : Tên sách. Trước đề là do Thanh Ô tiên sinh (Thanh Ô Tử) đời Thanh soạn Kim thừa tướng Ngột Khâm Trắc chú, 1 quyển. Trong lời tựa viết: “Táng thư của họ Quách thường dẫn "Kinh viết” chính là sách này vậy”. Khảo cứu văn của Kinh viết trong Táng thư với Thanh ô tiên sinh táng thư, thì thấy có nhiều điểm giống nhau, song cũng có chỗ khác nhau. Tứ khố toàn thư tổng mục viết : “Văn sách này thiển cận, kinh với chú như của cùng một người viết ra, hẳn là người đời sau mạo danh kinh vậy”. Khảo cứu các sách như Văn tuyển, Sơ học ký, Thái bình ngự lãm có Sách Tướng chủng thư ( sách xem mộ) của Thanh Ô Tử thì nghi là sách này. Sách Táng thư ~ của Quách Phác đời Đường thì mãi về sau này (mấy trăm năm sau) mới xuất hiện, trong khi Tướng chủng thư thì đã sớm thất truyền cho nên nghi là người đời sau mạo danh viết ra. Nội dung Táng kinh khá tỉ mỉ, chuyên bàn về cát hung của hình thế sơn thủy, lại đưa ra những qui tắc thế nào là đất công hầu, đất tể tướng, đất phú quí, đất văn sĩ mà không có lý luận kèm theo.

Đồ trạch thuật : Tên sách. Tác giả là người thời Đông Hán, khuyết danh. Sách này nay đã thất truyền, chỉ còn hai đoạn văn nói sơ qua về lành dữ trong cách phối hợp ngũ tính ngũ hành nhà ở, thuộc loại văn tự sớm nhất về phong thủy còn giữ được đến ngày nay.
Quán thị địa lý chỉ mông : Tên sách. Trước đề là của Quản Lộ đời Tam Quốc nước Ngụy Soạn. Tổng cộng 100 thiên. Thực ra là sách của ngưđời đời Minh viết ra. Chuyên ban về hình pháp âm trạch là chính, văn từ thanh nhã, chú giải rõ ràng. Thuyết hình pháp đến đây đã hầu như hình thành quá nửa. Duy sách trình bày thành 100 thiên là gò ép miễn cưỡng, rắc rối khó đọc.

Táng thư : Tên sách. Còn gọi là Quách Phác táng thư, 1 quyển. Trước đề là do Quách Phác đời Tấn soạn; nhưng sách này xuất hiện lần đầu trong Tống sử. Nghệ văn chí khảo sát nội dung, thì sách này hẳn do người đời Đường viết, mạo danh Quách Phác. Sau khi sách ra đời các nhà phong thủy thêm thắt vào, thành ra hơn 20 thiên. Thái Nguyên Định đời Tống mới san định lại còn 8 thiên; Ngô Trứng san đinh lại còn 2 thiên nội, ngoại tức bản hiện hành. Sách này nêu các thuyết, như thuyết Sinh khí, thuyết Tam cát lục hung, thuyết Hình thế, thuyết Ngũ bất táng phát triển hoàn thiện thuyết Tứ linh; đồng thời đề xuất định nghĩa Phong thủy, tôn định hệ thống lý luận của Thuật Phong thủy, là tiêu chí hoàn toàn chín muồi của phong thủy âm trạch, trở thành một trước tác lý luận rất quan trọng của học thuyết phong thủy. Đời sau tôn sùng gọi là “Táng kinh". Trong Táng thư có nhiều chỗ viết hai chữ “Kinh nói”, đủ hiểu trước sách này từng có một bộ Táng kinh, sách nay chi la tiếp tục phát triển học thuyết kia mà thôi.

Thanh nang Hải giác kinh : Tên sách. Tên đầy đủ là Cửu thiên Huyền nữ thanh nang hải giác kinh, trước đề do Quách Phác đời Tấn tu chỉnh, đòng thời có lời tựa của Trương Sĩ Nguyên đời Tống và Ngô Thiên Tước đời Minh, 4 quyển. Sách này nửa đầu nói về Lý khi, nửa sau về Hình pháp, chuyên luận âm trạch, nội dung cực kỳ rắc rối. Tam ban đại quái, Long huyệt sa thủy, nào ngũ tinh cửu tinh, chính thể biến thể, đều tập hợp ở sách này. Có thiên chuyên bàn về huyệt pháp, lại được nhắc lại phía sau, văn từ lúc nhã lúc thô, dưới chính văn có chú văn, không rõ của ai. Ngờ rằng sách này là do người từ đời Minh trở đi mạo danh Quách Phác mà soạn nên.

Trạch kinh : Tên sách. Thời Tùy Đường có rất nhiều sách Trạch kinh lưu truyền, không dưới vài ba chục loại; theo người đời sau chép lại, thì có Hoàng đế nhị trạch kinh, Địa điển trạch kinh, Tam nguyên trạch kinh, Văn vương trạch kinh, Khổng tử trạch kinh, Thiên lão trạch kinh, Lưu căn trạch kinh, Huyền nữ trạch kinh, Tư Mã Thiên sư trạch kinh, Hòai nam Tử trạch kinh, Vương Vĩ trạch kinh, Tư tối trạch kinh, Lưu Tấn Bình trạch kinh, Lục thập tứ quái trạch kinh. Hữu bàn long trạch kinh, Tả bàn long trạch kinh, Lý Thuần Phong trạch kinh, Ngũ kinh trạch kinh, Lã Tài trạch kinh, Phi âm loạn phục trạch kinh, Tử Hạ trạch kinh, Điêu Đàm trạch kinh, Huyền Ngộ trạch kinh, Ngũ Phi trạch kinh, Bát Quái trạch kinh, Tiêu Cát trạch kinh .v.v… trong đó có một số là cùng một sách mà đề tên khác nhau, nay đã không thể khảo cứu, vì hiện chỉ còn Hoàng đế nhị trạch kinh, các sách khác đã thất truyền. Sự xuất hiện nhiều trạch kinh như vậy chứng tỏ trước tác phong thủy rất thịnh hành vào đời Tùy đường.

Hoàng đế trạch kinh : Tên sách. Còn gọi là Hoàng đế Nhị trạch kinh. Không rõ người soạn. 2 quyển. Nhị trạch tức là dương trạch và âm trạch. Sách chia ra 24 phương vị, khu biệt âm dương, qui định cát hung, xác định hưu cữu. Điều cơ bản là âm dương tương đắc, phương vị không loạn. Không khảo sát hình dạng cụ thể và địa hình xung quanh nhà ở, cho nên có học giả coi đây là trước tác đại biểu cho trường phái Lý pháp trong phong thủy. Sách bàn nhiều về việc chọn ngày có ảnh hưởng lớn tới việc chọn lựa ngày giờ của Thuật Phong thủy đời sau. Tứ khố toàn thư cho rằng sách này “rất có nghĩa lý” lại viết rằng trong Tổng sử có chép Tướng trạch kinh 1 quyển, chính quyển sách này. Nhưng khảo sát văn hiến Đôn Hoàng, thấy đã có văn bản Hoàng đế trạch kinh đủ giết sạch đã được lưu hành rộng rãi từ đời Đường, và hoàn toàn không phải là bản Tướng trạch kinh chép trong Tống sứ. Nghệ văn chí.

Thập nhị trượng pháp : Tên sách. Trước đề là do Dương Quân Tùng soạn, 1 quyển. Sách này chuyên bàn về phép điểm huyệt căn cứ hình thể bối hướng của Lai long, sự thuận nghịch mạnh yếu của khí mạch mà chia ra 12 loại huyệt pháp là : thuận trượng, nghịch trượng, túc trượng, xuyết trượng, khai trượng, xuyên trượng, cao trượng, một trượng, đối trượng, tài trượng, phạm trượng, đốn trượng. Tiếp đó lại phân ra 17 loại trượng kiêm như: thuận trượng kiêm nghịch, thuận trượng kiêm túc, thuận trượng kiêm xuyết, thuận trượng kiêm xuyên, thuận trượng kiêm cao, thuận trượng kiêm đốn, thuận trượng kiêm một, thuận trượng kiêm đối, thuận trượng kiêm tài, thuận trượng kiêm phạm, nghịch trượng kiêm túc, nghịch trượng kiêm xuyết, nghịch trượng kiêm khai, nghịch trượng kiêm xuyên, nghịch trượng kiêm cao.. Mỗi loại đều có đồ hình, mỗi đồ hình có thuyết minh, căn cứ trượng pháp định huyệt có thể tránh hung đón cát. Nguyên tắc chung là phân liệt từng li từng tấc để thụ khí. Dương Quân Tùng lại có Táng pháp đảo trượng, thực ra là Thập nhị trượng pháp, mà cuối sách kèm theo 1 thiên “24 sa táng pháp"' Thập nhị trượng pháp là trước tác quan trọng của trường phái Hình pháp của Thuật phong thùy, có ảnh hưởng rất lớn.

Nghi long kinh : Tên sách. Trước đề là do Dương Quân Tùng soạn, 1 quyển. Lý Quốc Mộc đời Minh chú. Sách này gồm 3 thiên thượng, trung, hạ. Thiên thượng bàn về Can long tìm chi, lấy “thủy khẩu quan cục" làm chính; thiên trung bàn về phép tìm phần tận cùng của long, phép nhìn triều ứng trước sau, thiên hạ bàn về hình thế kết huyệt. Cuối sách kèm theo “Nghi long thập vấn" đề giải thích những chỗ khó. Là trước tác lý luận quan trọng, được lưu hành rộng rãi , của trường phái Hình pháp trong Thuật Phong thủy. Sách Trưc trai thư lục giải đề của Trần Chấn Tôn đời Tống co chép sách này, nhưng không nói ai là tác giả, nên Tứ khố tòan thư tống mục viết : “Bản này không biết của ai".

Hám long kinh : Tên sách. Trước đề là do Dương Quân Tùng soạn, 1 quyển. Lý Quốc Mộc đời Minh chú. Sách này chuyên luận về hình thế của sơn long mạch lạc, chia ra 9 sao : Cự môn, Tham lang, Lộc tồn, Văn khúc, Vũ khúc, Liêm trinh, Phá quân, Hữu Bật để nhận biết hình dạng sơn và phân biệt cát hung. Là trước tác tiêu biểu của trường phái Hình pháp trong Thuật Phong thủy.

Thanh nang áo ngữ : Tên sách. Trước đề là do Dương Quân Tùng soạn, 1 quyển. Lưu Cơ đời Minh chú. Sách này chuyên bàn về hình thế sông núi phân ra âm dương thuận nghịch, cửu tinh thất diệu để phân biệt cát hung quí tiện. Khảo sát sách Quận trai độc thư chí của Triệu Hy Biền đời Tống có chép Thanh nang bản chỉ, 1 quyển, không đề người soạn sách Trực trai thư lục giải đề có chép Diệu kim ca, Tam thập đồ tượng của Dương Quân Tùng, 1 quyển; sách Thông chí. Nghệ văn lọc của Trịnh Tiêu lại có chép Thanh nang kinh của Dương Quân Tùng, Tăng Văn Xiêm, 1 quyển không biết có phải là sách này chăng. Bản này được lưu hành đồng thời với Thanh nang tự của Tăng Văn Siêm.

Kim cương toàn bản hình pháp táng đồ quyết : Tên sách. Tên đấy đủ là Dương Tái Thương tiên nhân Dương công Kim cương tòan bản hình pháp táng đồ quyết, 1 quyển. Đầu sách có lời tựa, nói là của Dương Quân Tùng, rằng “Long hung mà huyệt cát, vô tình mà có tình vậy, tuy có phúc nhưng không lâu bền; còn long cát mà huyệt hung, có tình mà là vô tình vậy, tuy hung nhưng lại có phúc", cho nên sách bàn về cách dùng sức người cải tạo địa hình Long cát mà huyệt hung, để tránh hung đón cát. Sách có 24 bản hình, 24 pháp táng, kèm theo thuyết minh. Phàm Lai Long mà có tình, thì dù thuỷ thế nào, mạch ra sao, Minh đường rộng hay hẹp, đều có thể dùng nhân công cải tạo làm cho huyệt trở nên cát (lành ).

Thanh nang tự : Tên sách. Trước đề là do Tăng Văn Siêm soạn, 1 quyển. Lưu Cơ đời Minh chú. Sách này lưu hành đồng thời với Thanh nang áo ngữ của Dương Quân Tùng. Sách lấy ngũ hành phối hợp với 8 Can, khởi tính Tràng sinh theo từng hành. Tiếp đó lấy hợi mão mùi làm mộc cục, dần ngọ tuất làm hỏa cục, tỵ dậu sửu làm kim cục, thân tý thìn làm thủy cục, cứ thế diễn dinh, cộng thành 48 cục, dương nghịch âm thuận, dùng để phán đoán cát hung của phương vị thủy lưu toạ hướng. Thực ra là “Song sơn ngũ hành" đón sau. Tứ khố toàn thư tổng mục cho rằng các sách đời sau như Ngô Công giáo tử thư, Ngọc xích kinh, Trục chí nguyên chân đều là sự tiếp tục phát triển thuyết này mà thành, cho nên Thanh nang tự là trước tác quan trọng của trường phái Lý pháp trong Thuật Phong thủy là khởi đầu của sáng lập pháp . Song Tứ khố toàn thư tổng ngục lại nói Tăng Văn Siêm là đệ tử của Dương Quân Tùng, nhân vật trung kiên tiêu biểu cho trường phái Hình pháp, chứ không phải cho trường phái Lý pháp. Khảo cứu sách Thông chí. Nghệ văn lược của Trịnh Tiêu thấy có chép Thanh nang tử ca, 1 quyển, của Tăng Văn Xiêm và Thanh nang kinh của Dương Quân Tùng, Tăng Văn Siêm, 1 quyển: không có Thanh nang tự nên sách này có lẽ do người đời sau soạn ra, mạo danh Tăng Văn Siêm cho thêm vẻ kỳ bí.

Linh thành tinh nghĩa: Tên sách. Trước đề do Hà Phố đời Nam đường soạn Lưu Cơ đời Minh chú. 2 quyển. Quyển thượng nói về hình thế sơn thủy, biện Long định huyệt chủ theo thuyết Hình pháp. Quyển hạ bàn về thiên tinh quái lệ, cát hung sinh khắc, để định huyệt lập hướng, lại theo thuyết Lý pháp pha tạp hai phái Hình và Lý. Thuyết “nguyên vận" dùng trong sách nay vốn xuất hiện từ đầu đời Minh nên chắc bằng sách nay hẳn phải do người đời Minh soạn mới đúng.

Cửu tinh huyệt pháp : Tên sách. Trước đề do Liệu Vũ đời Tống soạn, 4 quyển. Sách này chuyên nói lấy Cửu tinh phân biệt hình dạng huyệt. Cửu tinh là Thái dương, Thái âm, Kim thủy, Tử khí, Thiên tài, Ao não, Thiên Canh, Bình não, Song não; mỗi sao lại phân 9 thể : Chính thể (ngay ngắn), Khai khẩu (há miệng), Huyền nhũ (treo vú), Cung cước (cong chân), Song tí (hai cánh tay), Đơn cổ (một đùi), Trắc não (đầu), Một cốt (khung xương), Bình diện (bằng phẳng). Mỗi thứ đều có đồ hình và thuyết minh. Là trước tác quan trọng cua thuyết Hình pháp liên quan đến việc định huyệt. Sách còn nói nếu hình sơn không đẹp có thể dùng sức người san lấp tăng giảm.

Phát vi luận : Tên sách. Thái Nguyên Định đời Tống soạn. Nội dung chủ yếu nói về Địa đạo một âm một dương, một cương một nhu, phàm sự động tĩnh, tụ tán, hợp phân, hướng bối, thư hùng (đực cái), thuận nghịch, mạnh yếu, sinh tử, vi trước (nhỏ, rõ), phù trầm (chìm nổi), sâu nông .. .của sơn thủy đều có thể từ đó mà phân biệt rõ ràng, nghĩa là theo trường phái Hình pháp. Cuối sách có kèm một thiên nhan đề “Nguyên cảm ứng” muốn dùng học thuyết Nho gia mà nghiên cứu và đề cao địa vị phong thủy. Thái Nguyên Định là học trò Chu Hy, quan điểm của ông phản ánh thái độ Lý học tán dương Thuật Phong thủy. Có thuyết nói sách này do Thái Thu Đường soạn. Thái Thu Đường tức Thái Phát, hiệu Thu đường lão nhân, là cha của Thái Nguyên Định, cũng tinh thông địa lý.

Thôi quan thiên : Tên sách. Lại văn Tuấn đời Tống soạn. 2 quyển. Gồm 4 thiên Long, Huyệt, Sa, Thủy, mỗi thiên có ca quyết và chú giải. Long thì lấy 24 sơn chia âm dương, lại phân ra tam cát lục tú, mà thay đổi thụ huyệt. Huyệt thì lấy Long làm chủ, nhưng tùy theo khí mạch mà phân tả hữu. Sa, Thủy thì lấy phương vị phán đoán cát hung theo cái lý sinh khắc chế hóa của âm dương ngũ hành. Tuy nhiên có nhiều điều vô căn cứ ví dụ cho rằng Đoài Long Thìn thủy chủ đời con có sẽ bị bệnh sâu răng, hư răng, bởi lẽ Thìn có kim sát, Đoài là miệng lưỡi, răng lợi bị kim sát thì răng gãy, răng hư.

Ngọc xích kinh : Tên sách. Trước đề Lưu Bỉnh Trung đời Nguyên soạn, Lưu Cơ đời Minh chú. 4 quyển. Thực ra người soạn và người chú đều là cuối đời nhà Minh. Sách nói về các mạch núi lớn trong thiên hạ, Côn Luân là tổ của vạn ngọn núi. Ngũ nhạc cùng Trương Giang, Hoàng Hà phối với 24 sơn. Nói rằng toạ hướng Long, Huyệt cát hung lấy thủy làm chính, không hề tính đến hình thế của sơn, cường điệu cát hung của thủy khẩu, coi Giang Nam là địa hình chính tông. Tưởng Bình Giai nói rằng sách này "sao chép cách phân chia Long thành thuận nghịch và Sa thành quí tiện của hai nhà Dương, Lại; lập luận theo kiểu ức thuyết, nông cạn" (Địa lý biện chính).

Kham dư mạn hưng : Tên sách. Trước đề do Lưu Cơ đời Minh soạn. 1 quyển. Sách toàn dùng ca quyết thất ngôn tứ cú, tổng cộng 150 đề, luận Long, Huyệt, Sa, Thủy lấy Hình pháp làm chính. Lời văn ý tứ sáng sủa, tuy trước sau hay lặp lại, rất ít ví dụ.

Địa lý đại toàn : Tên sách. Lý Quốc Mộc đời Minh soạn. 2 tập, 55 quyển. Tập hợp rất nhiều trước tác phong thủy của Quách Phác, Khâu Diên Hàn, Dương Quân Tùng, Liêu Vũ, Thái Nguyên Định, Lưu cơ, Tăng Văn Siêm, Lưu Bỉnh Trung, Lại Văn Tuấn, Ngô Khắc Thành, có đến hơn 10 loại Kèm theo phụ đồ, phụ thuyết của Lý Quốc Mộc, chiêm đến một nửa bộ sách Tập chuyên luận về Hình pháp, tập 2 luận về Lý pháp. Tuy việc tuyển chọn không tinh, nhưng phải nói là dày công.

Táng kinh dực : Tên sách. Mậu Hy Ung đời Minh soạn. 1 quyển. Nửa sách này nói về Táng thư của Quách Phác, phần giữa giải thích “Thập nhị trượng pháp" của Dương Quân Tùng; phần cuối tạp giải Tam hợp, Bát tự, kèm theo “Nan giải 24 thiên". Lấy Hình pháp làm chính. Lời văn rõ ràng, tinh tế.

Thuỷ long kinh : Tên sách. Không rõ soạn giả, 5 quyển. Đầu sách có lời Tựa của Tưởng Bình Giai là người ở buổi giao thời Minh - Thanh, viết năm "Hạ nguyên Quý Mão" (tức năm 1663), người Tùng Giang, Giang Tô, một người tinh thông Thuật Phong thủy. Quyển 1 nói về đại thể Hành long kết huyệt, chi long can long tương thửa; quyển 2 nói về chính thể và biến thể ngũ tinh, thẩm biện cát hung; quyển 3 nói về cách cục của thủy - long; quyển 4 nói về tượng thủy - long thác vật tỉ loại; quyển 5 nhan đề "Thân ngôn". Trước sau tuy có mâu thuẫn, nhưng thể lệ về cơ bản như của một tác giả, nên ngờ rằng sách này là do Tưởng Bình Giai tham khảo các trước thuật liên quan mà soạn ra, chứ không chỉ viết lời Tựa. Nội dung sách là vấn đề làm nhà xây mộ ở vùng đồng bằng sông nước, nhiều hình vẽ mà ít lời văn, căn cứ hình dạng để định cát hung. Lại kèm theo thuyết Sơn long, lấy Can thủy làm Hành long, Chi thủy làm Chi long, Can Chi tương phối, nội ngoại hợp khí. Lại tạo Ngũ tinh thủy hình, Tinh tú thủy hình, nhưng dựa vào hình để nhận biết cách, không nói đến Lý pháp; ca quyết thì thô kệch vụng về.

Dương trạch thập thư : Tên sách. Không rõ soạn giả. 10 quyển. Cuối sách có lời Bạt, với câu “Vương Tử đã soạn xong Dương trạch thập thư” chứng tỏ soạn giả họ Vương. Nội dung rất phức tạp, bao gồm những gì liên quan đến lý luận, phương pháp của Phong thủy dương trạch. Sách có 10 thiên là : Luận trạch ngoại hình, Luận phúc nguyên, Luận đại du niên, Luận xuyên cung cửu tinh, luận huyền không trang quái quyết, Luận khai môn tu tạo môn, Luận phóng thủy, Luận trạch nội hình, Luận tuyển trạch, Luận phù trấn. Do vậy có tên Dương trạch thập thư.

Sơn pháp toàn thư : Tên sách. Diệp Thái đời Thanh soạn. 19 quyển. Chép lại các sách địa lý của tiền nhân, nhất là của Dương Quân Tùng .

Sơn pháp toàn thư : Tên sách. Diệp Thái đời Thanh soạn. 19 quyển. Chép lại các sách địa lý của tiền nhân, nhất là của Dương Quân Tùng và Ngô Cảnh Loan, kèm với lời bình chú của soạn giả.

CÁC NHÀ PHONG THỦY VIỆT.

Tả Ao hay Tả Ao tiên sinh, là nhân vật làm nghề địa lý phong thuỷ nổi tiếng ở Việt Nam. Ông được cho là tác giả của một số cuốn sách Hán Nôm cổ truyền bá thuật phong thủy của Việt Nam. Trong dân gian tương truyền nhiều giai thoại cổ về hành trạng thuật phong thủy của ông ở các làng xã Việt Nam thời xưa [1]. Tả Ao có quê ở làng Tả Ao, phủ Đức Quang, trấn Nghệ An (nay thuộc xã Xuân Giang, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh).
Cái tên Tả Ao không phải là tên thật của nhân vật này, mà là tên làng quê của ông, được ông lấy làm tên hiệu và gắn với tác phẩm của mình. Cũng tương truyền, tên ông được người xưa lấy tên làng, nơi ông sinh ra để gọi, mà không gọi tên thật. Tên thật của ông thì không rõ ràng. Bách khoa toàn thư Việt Nam viết rằng: Tả Ao, trong sách Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú, có tên là Hoàng Chiêm hay Hoàng Chỉ. Còn trong dân gian, xuất phát từ quê hương ông, lưu truyền tên gọi thật là Vũ Đức Huyền. Cũng có nguồn nói rằng ông có tên là Nguyễn Đức Huyền. Tả Ao sinh vào khoảng năm Nhâm Tuất (1442), sống thời Lê sơ (Lê Thánh Tông, Lê Hiến Tông và Lê Uy Mục, tức là khoảng những năm 1442-1509) [cần dẫn nguồn]. Có tài liệu cho rằng Tả Ao sinh sống trong khoảng đời vua Lê Hy Tông (1676-1704). Ngoài ra, có các sách Địa lý phong thủy Tả Ao và Địa lý Tả Ao chính tông của tác giả Vương Thị Nhị Mười; Nghiên cứu Phong thủy và Phong thủy Việt Nam của Ngô Nguyên Phi... đều nói sơ lược về lai lịch Tả Ao.
Các sử gia thời Lê Nguyễn đều không chép về ông nên cuộc đời ông chỉ được chép tản mát trong một số truyện, sách đại lý phong thủy thời nhà Nguyễn và sau này. Sách Hán Nôm được cho là do Tả Ao truyền lại gồm:
Tả Ao chân truyền di thư ( ),
Tả Ao chân truyền tập ( ),
Tả Ao chân truyền địa lý (5 tập- ),
Tả Ao tiên sinh bí truyền gia bảo trân tàng ( ),
 Tả Ao tiên sinh địa lý ( ),
Tả Ao xã tiên sư thư truyền bí mật các lục ( 宓各 ).
ĐỊA LÝ TẢ AO DI THƯ CHÂN CHÍNH PHÁP.
TẢ AO CHÂN TRUYỀN DI THƯ.
BẢN QUỐC TẢ AO TIÊN SINH ĐỊA LÝ LẬP THÀNH CA.
Các tác phẩm này hiện lưu trữ ở Viện Nghiên cứu Hán Nôm. Tuy nhiên Viện Hán Nôm cũng chú thích rằng: Tả Ao là tên hiệu của Hoàng Chiêm.
Tả Ao còn để lại hai bộ sách, đó là:
Địa đạo Diễn ca (120 câu văn vần),
Dã đàm hay Tầm Long gia truyền Bảo đàm (văn xuôi) và một số dị bản khác: "Phong thủy Địa lý Tả Ao Địa lý vi sư pháp",
"Phong thủy Địa lý Tả Ao Bảo ngọc thư" (của Vương Thị Nhị Mười-Nhà xuất bản Mũi Cà Mau-2005)
"Dã đàm Tả Ao" (của Cao Trung xuất bản tại Sài Gòn năm 1974)"...
Các sách vở cũng như truyền thuyết đều coi ông là Thánh Địa lý Tả Ao, trạng Tả Ao, là thuỷ tổ khai môn, đệ nhất về địa lý phong thuỷ Việt Nam, giỏi địa lý phong thủy như Cao Biền của Trung Quốc. Người đời xưa còn truyền lại bài thơ ca ngợi ông [cần dẫn nguồn]:
Tả Ao phong thuỷ nhất trên đời
Hoạ phúc cầm cân định chẳng sai
Mắt Thánh trông xuyên ba thước đất
Tay Thần xoay chuyển bốn phương Trời
Chân đi Long Hổ luồn qua gót
Miệng gọi trâu dê ứng trả lời
Ai muốn cầu sao cho được vậy
Mấy ai địa lý được như ngài.

Cụ VIỆT HẢI : Cụ năm nay đã ngoài 70 tuổi, học địa lý từ năm trên 20 tuổi. Cuộc đời cụ chìm nổi lênh đênh vào sinh ra tử không biết bao nhiêu lần, song nhờ cụ là người có đạo tâm, có bản lãnh, có một ý chí cương quyết và nhất là có một tấm lòng chí thành, nên tài học địa lý của cụ ngày nay đã đạt đến một trình độ rất cao, nếu không muốn nói là quán triệt. Cụ lại được có rất nhiều sách địa lý rất quý báu; suốt 30 năm trời cụ đã khổ công sưu tập tất cả các sách về địa lý của Trung Hoa, rồi cộng thêm với những kinh nghiệm sống khi đi làm đất và phúc các ngôi cổ mộ, cụ đã biên soạn được một bộ sách địa lý hoàn toàn bằng tiếng Việt Nam, gồm ba cuốn dày cả ngàn trang. Đó là các bộ: Tầm long – Điểm huyệt và Lập hướng.
Có được cụ trực tiếp truyền thụ và có được đọc các tài liệu quý báu về địa lý này của cụ, chúng ta mới thấy được cái công trình sưu khảo của cụ, không phải là câu chuyện của một sớm một chiều; quan trọng nhất là những chỗ dụng tâm to lớn của cụ đã làm cho chúng tôi càng thêm kính mến cụ.
1. – Cụ đã cố gắng đem hết tâm lực của cả một đời người để tập đại thành cả một khoa cổ học của người Trung Hoa ( vẫn được coi là bí truyền), Việt hóa nó để dành cho người Việt Nam dùng.
2. – Song song với việc soạn sách cụ còn mở các khóa học về địa lý để truyền thụ cho môn sinh tất cả những bí quyết về địa đạo, với dụng ý nhờ các môn sinh tiếp nối cái ý chí của cụ, là làm sao, qua sự ứng dụng của môn địa lý, sẽ tạo dựng một nước Việt Nam hùng mạnh với những nhân tài lỗi lạc có thể làm rạng rỡ cho núi sông sau này.

TÁC PHẨM : BẢO NGỌC THƯ.
Bảo Ngọc Thư Tập Trung (Điểm Huyệt Bộ).
Bảo Ngọc Thư Tập Thượng (Tầm Long Bộ).
Bảo Ngọc Thư Tập Hạ (Lập Hướng Bộ).

Cụ HÒA CHÍNH.
Là một danh gia Phong thủy thời chúa Trịnh , sang Trung hoa học thày là Cao Kị là hậu duệ đời thứ 25 của Cao Biền về Địa lý – Phong thủy. Cụ Hòa Chính quê tại Trấn Sơn Nam – Huyện Sơn Minh – Xã Thanh Cương .
Cụ Hòa Chính truyền lại sở học cho cụ Lê Hữu Trác – Tức Hải thượng lãn ông . hậu duệ của cụ Lê Hữu Trác đã nhiều đời làm Địa lý.
Tác phẩm : Hòa Chính Địa lý bí truyền.
Về các Địa mạch tại Việt nam còn có một số cuốn có giá trị như:
* VẤN ĐÁP SẢN THỦY PHỤ AN NAM CỬU LONG KINH CA.
* AN NAM PHONG THỦY.
* AN NAM ĐỊA CẢO.
* AN NAM CỬU LONG CA.
* THIÊN NAM ĐỊA THẾ CHÍNH ĐỊA LÝ QUỐC NGỮ.
* THIÊN NAM ĐỊA THẾ CHÍNH PHÁP. 
 Thân ái. dienbatn.
Xem chi tiết…

10 ĐIỀU CẤM KỊ CỦA PHONG THỦY SƯ.

8/31/2019 |
10 ĐIỀU CẤM KỊ CỦA PHONG THỦY SƯ.


10 ĐIỀU CẤM KỊ CỦA PHONG THỦY SƯ.

Ngày xưa những Địa Sư nổi tiếng đều là hiền nhân, tài cao đức trọng , mang hàm ý “ Thế Thiên hành Đạo “. Vì Địa Lý Phong thủy là điều bí mật của Trời Đất, phước địa chỉ dành cho phước nhân , ai thiếu phước thì khó mưu cầu; cho dẫu người quyền cao , chức lớn , hay kẻ vàng ngọc đầy nhà.
Bởi vậy người xưa đặt ra 10 điều cấm kị cho đệ tử và làm khuôn phép để nhắc nhở các Địa sư Phong thủy sau này , theo đó sẽ không bị lầm lẫn , sai trái .
Nên người làm Phong thủy phải luôn nhớ nằm lòng 10 điều này , thời nào nó cũng là khuôn vàng thước ngọc, theo đó để tránh họa cho mình và bớt học cho người khác .
10 ĐIỀU CẤM KỊ.
1/Không làm đất cho những gia đình có con cái ngỗ ngược bất hiếu , bất trung.
( Vì nhà này thiếu phước , gia đạo không kỷ cương , nhân quả hiện thời không tốt , khó cầu mong phú quý ngày mai ).
2/Không làm cho những nhà cậy quyền thế làm chuyện bất chính, cũng không để lợi danh , sắc đẹp mua chuộc .
( Vì người này đã hưởng hết phước , thì không thể táng vào nơi phước địa. Đó là lý nhân quả tự nhiên , không thể cưỡng cầu mà làm sai Thiên lý ).
3/Không làm đất cho những nhà dùng quyền lực hay tiền bạc , chiếm đoạt đất của người , như vậy không đúng Thiên lý , thì Địa lý không ứng .
( Xưa rằng : Có phước mới có lộc , có lộc phải làm phước , hết phước lộc không còn . Nên các nhà quan quyền , nhà phú quý là đang được hưởng phước lộc . Khi hết phước khó mong cầu gì thêm được , vậy chớ làm cho những người giầu có mà không có tâm lương thiện ).
4/Không làm đất cho những người “ Thân vi bất thiện “. Là làm cho những người làm những nghề nghiệp phi pháp hay không lành.
( Ví như làm cho những người đồ tể hay trộm cướp, cho vay nặng lãi , buôn bán cân non giạ thiếu , các nghề nghiệp sát sinh , cờ bạc , các nghề sống lươn lẹo , trái trở …).
5/ Không làm cho những người có tâm địa bất trắc , có nghĩa là không đo lường được , nay thế này , mai thế khác , nói chung là kẻ gian ác , thiếu đức tín.
( Bởi vì tâm địa dĩ hoại , âm địa hà khả đáo lai . là kẻ tâm địa xấu xa , bại hoại lẽ nào được âm địa tốt ).
6/ Không làm cho những người xuất thân là hạ tiện , người có tâm địa hẹp hòi , bất chính , gian ác.
( Xuất thân là hạ tiện như đĩa điếm , con hầu …vì những người này kém phước . Tâm địa bất chính là tuy giầu sang hay có chức quyền nhưng làm những việc bỉ ổi mà xã hội chê trách , vào luồn ra cúi , ban nước buôn dân . Tuy họ đưa nhiều tiền , mà đồng tiền bất chính , thì phải gánh nghiệp cho người đó . Đạo pháp gọi là “ Tịnh tài tịnh vật “ thì chớ nên lấy.)
7/ Không nên động đến cựu phần cổ mộ của người khác .
( Mộ người như mộ mình , làm như vậy sẽ bị âm trách , thì họa đến trong 1 sớm 1 chiều ).
8/ Không làm đất ở những nơi có nguồn gốc đất đai không rõ ràng , cũng không làm theo ý của người khác .
( Tức là đất đang tranh chấp, đất chuẩn bị làm quy hoạch cho những việc công cộng , táng xuống sẽ không an. ).
9/ Không làm cho những người không có đức tin theo Thày, tức là không tôn Sư trọng Đạo.
( Không tôn Sư trọng Đạo , đối xử thiếu tôn kính với Địa Sư , nay theo Thày này , mai theo Thày khác hoặc tâm lý đa đoan , tráo trở ).
10/ Không viết sách truyền đời , khi bản thân chưa học đến nơi đến chốn , nói chung tu học chưa đắc Pháp thì chớ viết hay truyền cho người khác.
( Vì đúng sai chưa rõ , hư thực chưa phân , nếu viết sai , truyền sai , sẽ gây họa lớn cho thế nhân )
NĂM LỜI KHUYÊN.


1/ Phàm học Địa lý trước tiên quý việc đọc sách , chẳng đọc sách thời không thể hiểu tận cùng sự lý. Nếu lý lẽ chưa hiểu tường tận , thì tri thức chẳng có bao nhiêu . Cho nên lấy sự đọc sách làm lời khuyên thứ nhất .
2/Học Địa lý tất nhiên quý ở việc đọc sách , vậy mà các sách Địa lý tuy nhiều mà chân thư thì ít . Các sách của các vị chân Sư như Quách Cảnh Thuần , Dương Quân Tùng , Tăng Văn Địch , Liêu Vũ , thì một nửa là do người đời ngụy tạo nên . Trừ những Táng Kinh , Nghi Long Kinh , Hám Long Kinh , Địa lý biện chính trực giải , Thiên nguyên ngũ ca, Tứ thư… thì phần nhiều là giả thư. Kẻ có chí cầu học đạo Địa lý nên tìm đọc những chân thư , đó là lời khuyên thứ 2 .
( Ở Việt Nam nên cầu học các sách của cụ Tả Ao , Hòa Chính là trên hết ).
3/ Học Địa lý quý là được Minh Sư truyền thụ. Sách rằng : “ Ngày xưa học tất phải có Thày , bậc Thày ấy sở dĩ truyền Đạo thụ nghiệp , hóa giải những cái nghi hoặc “. Chẳng được như vậy thì như bắt gió nắm ảnh , sẽ hoang mang phạm sai lầm . Cho nên được Minh Sư truyền thụ chỉ giáo là lời khuyên thứ 3.
4/ Học Địa lý quý là được Minh Sư , và rất quý nữa là có bạn lành ( Thiện tri thức ). Người xưa rằng : “ Học Thày không tày học bạn “ . Học một mình không bạn , thì cô đơn , thủ lậu , hẹp hòi . Thước tấc có ngắn có dài , mỗi người có một sở trường riêng , cùng nhau học hỏi những điều khó , điều hay ở bạn , thì Đạo lớn sẽ sáng tỏ . Cho nên được bạn lành học hỏi lẫn nhau là lời khuyên thứ 4.
5/ Học Địa lý quý là ở bền tâm chuyên cần , một phần siêng năng mà 10 phần giãi đãi thì cái được không bằng cái mất . Ngày tháng như nước trôi qua không trở lại . “ Vạn sự khởi đầu nan “ , lúc đầu không thành công , theo đó buồn rầu , thất vọng , về sau tuy có hối hận cũng không tìm lại được , than tiếc ngày tháng đã qua đi . Như biết dụng sức lâu dài , chuyên tâm , cần mẫn học hành sẽ có một ngày quán thông. Cho nên lấy sự tự lực , chuyên cần làm lời khuyên thứ 5.
Quyết địa tinh thư - VÕ VĂN BA.

Xem chi tiết…

HÌNH THỂ VẬT ỨNG TRONG HUYỆT.

8/27/2019 |

HÌNH THỂ VẬT ỨNG TRONG HUYỆT.


Phàm kết Huyệt , đất hình thành như phi cầm tẩu thú, hoặc là hình thể người vật , thì trong Huyệt có vật tương ứng. Cho nên khi khai Huyệt thấy đất đá có hình thù quái dị , đó là chuyện bình thường , không có gì đáng kinh sợ và nghi ngờ cả.
1/ Khi Long hình kết Huyệt : Có đá như long châu tinh quang hồng nhuận, hoặc lộ ra màu ngũ sắc rực rỡ , sáng lạn . Nếu không đất đá tất có ngũ sắc thành những viên tròn , ném mạnh thì bể tan. Hoặc trong đất có đá mũi nhọn Phá toái tựa hình Hỏa, gọi là “ Hỏa Diễm Thạch “ ( Đá hình ngọn lửa ). Cũng thuộc đất Long hình thường có.
Được đất Long hình ấy , Địa sư hoặc hiếu tử tất có trước điềm báo mộng. Như Hàn lâm Hà Tử Trinh có Tổ táng tại Đạo châu . Địa sư lúc đầu muốn lấy đất cho gia đình mình, thường nằm nơi cát địa , một hôm mộng thấy một lão nhân cầm trượng đi đến và bảo rằng “ Đất này để cho hiếu tử táng mẹ, mày há chiếm hay sao?”.Vậy mưu cầu đại địa phải biết rõ đạo lý này. “ Phước địa chỉ dành cho phước nhân “.
2/ Hổ hình kết Huyệt : Có đá như trứng chim sẻ, màu sắc như mã não lấp lánh , hoặc có đá hình tròn , đều đủ nghiệm chứng đúng Huyệt vậy. Duy sách Địa mỗi nhà đều nói đất Long , Hổ , cùng Ngô công , mọi hình là Thần vật. Nếu được chân hình , chân Huyệtmà hạ táng , chủ sẽ sát Địa sư ( Đất sát Sư ) , nên lập Huyệt , định Hướng ở trước chế đó, đề phòng mọi việc xảy ra ngoài ý muốn. Theo khẩu truyền rằng “ Đa phần những Đại địa đều Sát Sư , chỉ có Thiên táng mới thành “. Vì đất lớn có đại Thần hộ trì ( thủ Huyệt ), người ít phước khó mưu cầu.
3/Phụng hình kết Huyệt : Cũng có như hạt châu sắc đỏ, hoặc đá tròn ngũ sắc , hoặc đất đá đều có sắc đỏ như gan gà, hoặc toàn như châu sa gạo nát , màu hồng đỏ rất chân. Đá Vân mẫu , đá son , đều Phụng hình kết Huyệt , nếu đá đó màu trắng , đen thì không phải.
4/Sư tử hình kết Huyệt : Có đá hình trái cầu , hoặc có đá tròn ngũ sắc hoặc hồng đỏ. Hình Voi cũng có đá tròn , chỉ sắc trắng mà lớn , cũng có khi đá hình gan gà , cùng đá hoàn màu đen chẳng đều.
5/ Ngưu hình kết Huyệt : ( Trâu )- Thời đá như hình lưỡi hoặc sắc màu tro , hoặc đất mang sắc đen . Nếu đất hồng vàng , hoặc mang màu chu sa rực rỡ, tất chủ đại phú.
6/ Cẩu hình kết Huyệt : ( Chó )- Có đá đầu tròn hoặc hình dài , hoặc hình như răng xương các loại , hoặc có hình như rễ cây kỳ hình quái dạng.
7/ Ưng Diêu kết Huyệt : ( Hình chim ưng , chim cắt ) – Có đá như gan gà , đất sắc vàng hoặc tía hồng , nhưng hạt nhỏ mang sắc sáng thanh kiết rất chân.
8/ Xà Miết kết Huyệt : ( Rắn , ba ba ) – Có đá trắng nhỏ mà dài , hoặc hình tròn như trứng , hoặc đất mang màu sắc phấn trắng . Xà hình phân nhiều hình đá như con cóc , sắc vàng tía điểm hồng , hoặc có đá đỏ, hoặc hình tròn mà sáng , cũng có những đá loang lổ , sắc tựa hạt cau đều là chân Huyệt vậy.
9/ Trước Sa có : Kiếm , ấn , cờ trống , ngọc hốt , báo tiệp kì ấy là nam hình . Nam hình trong Huyệt có đá tròn sắc sáng , sắc trắng tinh khiết , hoặc có đá thạch anh tía, như trứng gà lớn hoặc nhỏ.Đất này chẳng luận văn hay võ , trong Huyệt chứa đá đều là hình tròn . Hoặc địa cục hình tăng , thì trong Huyệt tất có đá như “ Xá lợi Tử “.
10/ Trước Sa có : Trang đài ( Bàn trang điểm ) , trâm cài , lược , kính ngọc , các loại ấy là Nữ hình . Nữ hình trong Huyệt có thạch nhũ rực rỡ , ngoài trắng trong vàng , phàm khai Huyệt hơn 1 m , thấy có các loại vật như vậy , thì chỉ định không nên đào thêm . Hoặc sâu hoặc cạn , tức an táng vào khoảng sâu đó . Huyệt sâu cạn đều nên ước lượng Khí Mạch dày mỏng . Nếu Huyệt trường cao lớn , hoặc cục Nhũ , Đột thì táng nên đào sâu. Huyệt trường thấp nhỏ hoặc Oa , Kiềm thì nên an táng nông.
Phàm khai Huyệt nên bỏ lớp đất cây cỏ ở trên mặt đất , tới lớp thực Thổ . Khi đào lớp thực Thổ này thấy có đất đá khác lạ , thì ứng đến chỗ nên dừng lại , không đào thêm nữa, kẻo đào bỏ mất lớp đất có Linh Khí. 
CẮT XÉN VÀ BỒI BỔ.
Phàm Long kết Huyệt có cái chẳng được hoàn hảo, tất nên dùng nhân công bồi bổ thêm cái thiếu , cắt xén bớt cái thừa .
1/ Như Dương lai Âm thụ, Dương lai ấy khai thành Oa lớn , lõm lớn ( Dương ) ; Trong Oa Quật ( lõm , lỗ hổng ) cần có Nhũ đột, bởi vì Nhũ đột là Âm vậy. Nếu không có Nhũ đột túc khai Huyệt mà táng , ấy là Âm Dương chẳng phối hợp, nói là “ Cô Dương bất sinh “.
Chỉ nhân Long , Sa , Thủy pháp đều được tú mĩ mà chẳng muốn bỏ đất này , thì nên trên mặt đất đào bỏ lớp đất phân hóa , chọn chỗ lập Huyệt , sau đó đắp đất ngoài vào cao lên mà tạo táng ( Tạo thành Nhũ đột ) , Khí theo dưới đất mà đi lên . Nếu có tiểu bào , đột nhỏ , thì khai sâu cho tương hợp , đặt quan tài đắp đất mà táng. Hoặc Oa Đột quá no đầy , thì cũng nên bỏ bớt mà lập Huyệt.
2/ Như Âm lai tất Dương thọ. Nếu Âm lai chưa khai Oa Kiềm ( Dương ) ấy là thuần Âm, nói là “ Cô Âm bất dục “. Nếu Sa nhiễu Thủy bao , thì nên khai Oa hoặc Kiềm nhỏ, hình thành hiển nhiên là Dương kết , để được Âm Dương giao hợp mà sinh vậy.
Trời đất cấu thành chân Huyệt , phần nhiều là chỗ chung Linh tú, luôn có sự che lấp , giữ gìn. Hoặc nhân 4 mùa mây mù che phủ đại thế , kiến cho người ta chẳng trông thấy được. Hoặc nhân đầy núi là đất , một nơi có đá lại sinh Huyệt. Hoặc dãy núi toàn đá , mà cũng có chỗ chung Linh dục Tú , lưu giữ một mảnh đất nhỏ vừa lọt quan tài . Hoặc có đột đầy , hoặc chỗ lõm thiếu , khiến cho người ta kinh sợ , e ngại , chẳng lưu tâm đến . Tất cả do Trời Đất tự nhiên bưng bít, che lấp nơi Bảo địa.
Cho nên đòi hỏi Địa sư phải có tuệ nhãn trác tuyệt mới hay biết mà thôi. Hoặc những người đầy đủ Phúc đức mới gặp cơ duyên.
Tuy thế những người tinh tường Long , Huyệt , Sa , Thủy cát hung , rõ được chân lý Âm Dương ; Tuy có kết thành “ Kỳ Long Quái Huyệt “, hoặc Trời đất che dấu tự nhiên , cũng chẳng qua khỏi tầm nhìn của Minh sư.
Lại như Sa đến nước trong đa phần hợp cách , chỉ chỗ kết Huyệt bên tả nghiêng , thấy chỗ Thủy lai chẳng cát , thì nên bên Tả dùng đất đắp bồi thêm vào cho tương xứng . Nếu bên Hữu phía trước thấy phương hợp cát Thủy , cũng nên đào đất bỏ đi vài thước , khiến cho chỗ hẹp được mở rộng . Chỗ lập Huyệt dùng La kinh hiệu đính , thấy phương cát là tốt . Được như vậy nhà nhà đinh tài đều vượng.
Đơn cử thêm một hướng Long nghịch Thủy kết Huyệt . Phàm Lai Long từ tả lại , sau đó hồi chuyển nghịch kết , Thủy tất từ phương trước mà đến , hướng về phương tả mà lưu khứ. Nghịch triều tất cần có Sa thấp ngăn ngang , lai Thủy tuy bình thản chảy đi . Tuy chậm chạp không có Sa ngăn , thì trước Huyệt phải có Chiên Thần , nhân nhục ( Chăn đệm ), đó là dư Khí của mạch Huyệt duỗi dài ra , bồi rộng ra vài trượng , khiến cho Thủy xuất cao trước Huyệt lấy đó bổ cứu . Hồi Long nghịch kết hạ Sa tất ngắn.
Tục rằng : “ Hồi Long nghịch Thế có trương triều , chẳng sợ gió 8 phương diêu động. Ấy là nói Long có lực lớn vậy . Chỉ hạ Sa tuy ngắn , cần thiết không được thấp , khuyết , nếu thấp huyết Huyệt bị gió thổi vào làm tán Khí , Thủy cũng bị bay xiên vậy.Cho nên những chỗ thấp khuyết , dùng nhân công bồi cao duỗi dài ra , cao thấp cho hợp pháp độ, thì thấy cả Sa và Thủy , phương vị được tốt đẹp mà định vậy.
Tóm lại : Huyệt cũng cần cắt xén hay bồi đắp , chỉ không nên đào đắp thái quá , sợ tổn thương Long mạch thì phước chưa đến mà họa đã đến vậy.
VÍ DỤ : Tần Chánh năm Quý Dậu , nhân lúc làm khách xứ người có thân mẫu họ Thái là Thái phu nhân , con cháu đều bị bệnh khạc ra huyết mà chết . Đã lâu trong đám anh em có ý muốn xem mộ Tổ. Mộ lập Nhâm Sơn – Bính Hướng , trước Huyệt có hồ nước vào chữ Ngọ sâu rộng. Biết là ngành lớn bị hại , chứng thổ huyết rất nặng ( vì Ly Cấn phạm Liêm Trinh ) , bèn cho tại phương Ngọ đắp gò đất vài thước , lấy những cây lớn che trấn yểm , khiến cho Thủy phương Ngọ chẳng thể xạ Huyệt . Từ đó về sau bệnh thổ huyết hết dần. Đó là pháp bồi bổ , che yểm , phàm che chặn chỗ hung thì hung được hóa giải . Che chặn chỗ cát thì chỗ cát cũng chậm chạp , chừng vài chục năm sau , thử nhiều lần đều ứng nghiệm.
 NƯỚC , KIẾN VÀO MỘ.
Đời thượng cổ Thánh hiền chẳng nỡ để hài cốt cha mẹ phơi ra nơi đồng dã, chim chóc va thú vật ăn và tàn hại bèn giấu thi hài vào dưới đất . Sau thấy trong đất cũng có kiến , có nước , mối xâm hại . Hoàng đế ra lệnh Đại Nạo làm quan tài bằng sành mà táng.
Quan sành về lâu nước cũng thấm ngâm đầy , kiến mối cũng chui vào . Sau Tiền hiền chọn lấy chỗ đất tránh gió, không kiến mối , nơi tụ Khí , không nước , từ đó dần dần thành thuật Phong thủy vậy.
Xưa rằng : “ Hiếu ân chẳng thiếu “. Á Đông vài nghìn năm trước coi trọng luân lý đạo đức . Cho nên người xưa rất coi trọng việc coi trong Huyệt có hay không kiến , nước , có bị nghiêng quan đảo quách hay không ?Việc này thuật Kham Dư ( Phong thủy ) lúc đầu đã nhận định minh bạch . Lấy những bài học thông dụng tiền hiền thủa trước , cùng với kinh nghiệm vài mươi năm trở lại đây , lược thuật như sau để mọi người cùng tham khảo.
·        Chỗ kiến sinh tất ở một mặt chịu gió thổi , hoặc có ở chỗ hồi phong. Cho nên Thanh Long khuyết hãm , chẳng thể hộ vệ được Huyệt, thời có Ao phong từ tả thổi lại , gió làm Bạch Hổ Sa ngăn cản lại nên hồi phong đến Huyệt, khiến cho kiến sinh nhiều ở bên hữu vậy.
·        Bạch Hổ khuyết hãm thì chẳng thể hộ Huyệt , gió theo chỗ khuyết hãm thổi lại , bên tả Thanh Long thu nhặt , nên kiến sinh bên tả của Huyệt . Mà Càn , Tuất , Dần Giáp , Tốn Tị các gió phương này rất kị.
·        Phàm không có lai Long , lại chưa kết Huyệt , mà Sơn lớn Thủy nhỏ tất sinh ra mối . Trái lại Sơn nhỏ Thủy lớn mà không có Long Huyệt tất có suối nước . Hoặc 4 bên Sa cao mà hình thành Oa trống , trong không có Nhũ Đột , Huyệt tại bình dương bình cương , khai Huyệt hơn 1 thước đã thấy nước , táng xuống nước tất đầy quan tài . Hoặc Âm mạch thô cứng mà lại , chưa có khai dương , khai diện , ấy là Âm Dương chưa phân , đa phần sinh nhiều mối.
Cho nên lai Long thuy chân , mà táng không đúng đích Huyệt , thì chẳng tránh khỏi mối kiến hay nước vào quan tài ăn thây.
·        Chung quanh mộ phần sinh cây cỏ lớn dài , mà trên nấm mộ độc không có cây cỏ tức là mối đã đầy quan . Trên nấm mộ có rêu xanh mà bốn bên mộ không có rêu thì đó là quan tài đầy nước.
Phàm Huyệt trường Âm Dương tuy phân mà táng Huyệt quá cao , các Sa không hộ được Huyệt sinh mối . Táng Huyệt quá thấp thì Khí không tụ . Khí bị tiết lậu làm chỗ chứa góp ẩm tất có nước trong quan.
Lại như trên nấm mộ có cỏ trắng , hoặc lá cây có sắc trắng , đều là điềm báo trong Huyệt có nước. Phàm đào Huyệt an táng , thấy kiến hai loại đen trắng đều không nên táng , vì địa mạch đã bị kiến phát tiết rồi. Nếu khai Kim tĩnh , thấy trong đó có lỗ hang , trong lỗ hang đó có gió , ấy là Phong Nhãn vậy , vạn nhất không nên táng . Nếu do rễ cây mục nát mà thành lỗ , hoặc là khí hang động , nếu đem đèn vào đèn không tắt thì có thể táng được.
·        Từ hai vai Long Hổ thẳng dài mà đi ra phía trước , không có án sơn ngăn ngang , gió đến trước mặt , tả hữu không có chỗ tiêu nạp , thì hài cốt bị gió thổi vào đầu .
·        Những Huyệt Hoành Long ( quay ngang ), phía sau thấp như miếng ngói ngửa , không có Quỷ sơn , Lạc sơn hộ Huyệt , gió thổi đằng sau lại , hài cốt bị gió thổi vào chân.
·        Không Thanh Long , thủy hướng tả phương chảy ra , thì bên tả bị Ao phong thổi lại , làm hài cốt bị nghiêng về bên hữu.
·        Không Bạch Hổ , thủy hướng bên hữu lưu xuất, thì bên hữu bị Ao phong thổi lại , hài cốt bị nghiêng về bên tả.
TÓM LẠI : Ao phong xạ Huyệt tất có nghiêng quan lật quách , việc này rất nghiệm . Tả hữu không che ôm tất chủ sinh mối đầy quan . Cho nên “ Táng thừa sinh khí “ hợp xem gió và nước đến . Không có Sa che chở thì gió thổi vào , gió làm cho Khí tán , sinh Khí tán thì Huyệt cô hàn , làm cho con cháu khốn cùng.
Nếu thủy đến thì gió đi , gió đi thì tụ Khí . Sinh Khí tụ thì Huyệt ấm tất làm đinh tài đều vượng.
Bởi vì Thủy theo Sơn chuyển , Thủy mà triển bão , đều nhân địa thế sơn sa khiến nên vậy . lại có Địa Sư nói : “ Cao Sơn bất luận Thủy , Bình địa chẳng sợ Phong “. Thuyết này có khi lầm .
Cao sơn kết Huyệt tất có Long Hổ Sa tầng tầng hoàn bão , trước có Án sơn ngăn che, trong thì hình thành Minh đường . Minh đường là chỗ các dòng chảy hội tụ lại há không phải Thủy để nuôi dưỡng Huyệt sao ?Ở đất bình dương , chung quanh địa thế đều thấp , trong khởi một Đột , lại há hay tránh gió , hay có hố dài , khe nhỏ , tức gió thổi vào Huyệt , cũng rất cấm kị vậy.
( Quyết địa tinh thư - VÕ VĂN BA ).

Xem chi tiết…

LẠM BÀN MỘT CHÚT VỀ PHONG THỦY HONGKONG. BÀI 7.

8/11/2019 |
LẠM BÀN MỘT CHÚT VỀ PHONG THỦY HONGKONG. BÀI 7.


VÀO ĐỀ : Trong tháng vừa qua, dienbatn được một thân chủ ở TP.Sài Gòn mời qua HongKong du lịch. Trong thời gian này Hong Kong đang sôi sục biểu tình chống lại luật dẫn độ .Nhiều người bạn khuyên không nên du lịch Hong Kong trong thời gian này . Nhưng cho đến lúc ngồi yên vị tại Hà Nội , dienbatn cảm thấy thật may mắn được có mặt tại Hong Kong trong giai đoạn đó .Nay nhân ngày mưa gió , có thời gian rảnh nên xin có một chút lạm bàn về Phong thủy của HongKong. Vì cũng là lần đầu tiên đến đây , chưa đủ thời gian để tìm hiểu kỹ lưỡng nên chỉ xin lạm bàn theo thiển ý của riêng mình.dienbatn cũng không đi sâu vào những chuyện chính trị của Hong Kong mà để lạm bàn đến chuyên môn của mình qua góc độ Phong Thủy .Mong có gì chưa đúng xin các bạn đại xá cho lão già này nhé.Trong bài viết có sử dụng một số tư liệu sưu tầm trên internet.

CÁC MỤC ĐÃ ĐI.
PHẦN II. NHẬN XÉT VỀ PHONG THỦY CỦA HONG KONG.
ĐÁNH GIÁ CỦA DIENBATN VỀ KHÍ MẠCH CỦA HONG KONG.

Phong thủy đánh giá một vùng đất tốt về Phong thủy theo các tiêu chí : Thiên Khí – Địa Khí – Và Nhân Khí.
1/ Về Địa Khí : Đã trình bày.
2/ Về Thiên Khí và Nhân Khí.

BÀN VỀ THIÊN KHÍ VÀ NHÂN KHÍ. ( Tiếp theo bài 6 ).
2/ CÂU HỎI HONG KONG PHÁT TRIỂN NHƯ NGÀY NAY VÌ LẼ GÌ ?

Như đã viết trong những bài trước , Hong Kong chỉ thực sự phát triển kể từ  Phải cho đến ngày 29 tháng 8 năm 1842, hòn đảo mới chính thức bị nhượng lại vĩnh viễn cho nước Anh theo Điều ước Nam Kinh. Người Anh đã thiết lập nên một thuộc địa vương lĩnh bằng việc xây dựng Victoria City vào năm sau.

Dưới sự cai trị của người Anh, dân số đảo Hồng Kông tăng từ 7.450 cư dân người Hán (chủ yếu là ngư dân) vào năm 1841 lên 115.000 người Hán và 8.754 người Âu tại Hồng Kông (bao gồm Cửu Long) vào năm 1870.

Năm 1860, sau khi Nhà Thanh thất bại trong Chiến tranh nha phiến lần thứ hai, bán đảo Cửu Long và đảo Ngang Thuyền Châu bị nhượng lại vĩnh viễn cho nước Anh theo Điều ước Bắc Kinh.”
Trước năm 1842, Hong Kong chỉ là một vùng đất chuyên sản xuất muối ,rất nghèo nàn , lạc hậu. Thế mạnh duy nhất lúc này chỉ nhờ có cảng nước sâu sau này thành cảng Victorya. Ta tự hỏi : Nếu như không có sự kiện ngày 29 tháng 8 năm 1842 thì ngày nay Hong Kong có là Hong Kong nữa hay không ? Và câu hỏi tiếp theo sẽ là : Sau ngày 1 tháng 7 năm 2047 Hong Kong có còn là Hong Kong nữa hay không ?
Xin trả lời câu hỏi đầu tiên : Nếu như không có sự kiện ngày 29 tháng 8 năm 1842 thì ngày nay Hong Kong có là Hong Kong nữa hay không ?
Xin thưa rằng : KHÔNG. Nếu không có sự kiện như trên thì Hong Kong bây giờ cũng như rất nhiều vùng đất khác của Trung Hoa đại lục vẫn chỉ là một cảng nước sâu không tên tuổi .


Nhìn trên bản đồ đường bờ biển Trung Quốc ta thấy vô số những vịnh nước sâu có địa thế đắc địa hơn Hong Kong nhiều – Tuy thế những vị trí đó không bao giờ trở thành Hong Kong được. Như vậy ta có thể kết luận : Hong Kong phát triển như ngày nay hoàn toàn không do Địa Khí , Địa mạch mà hoàn toàn do Thiên Khí và Nhân Khí.

TRƯỚC HẾT TA NÓI VỀ NHÂN KHÍ.
Theo sử sách còn truyền lại,từ khi Phục Hy lập ra Bát quái định Thiên đồ,xa thì trông Thiên văn,đại Địa,gần thì trông ở người,vật,toàn đồ Vũ trụ quan bao gồm Thiên -Địa -Nhân.
THIÊN :Tinh ba là Nhật -Nguyệt -Tinh.
ĐỊA :Tinh ba là Thủy -Phong -Hỏa.
NHÂN :Tinh ba là Tinh -Khí -Thần.
Tất cả các thành phần trên gọi chung là Đại đạo,mỗi thành phần đều sống động.
THIÊN ĐẠO :Là sự vận hành các phần tử Thiên hà,Thiên hệ,Tinh tú châu lưu an toàn trong khoảng không theo một trật tự nhất định.
ĐỊA ĐẠO :Thủy -Hỏa-Phong châu lưu khắp nơi nhằm sinh hóa và nuôi dưỡng vạn vật.
NHÂN ĐẠO :Là cái đức lớn của Thiên -Địa,Tinh khí tươi nhuận thì Thần mới minh.
Vũ trụ toàn đồ luôn sống động,nếu ngưng ,nghỉ tức là hoại ,là diệt.
VỀ NHÂN : Tinh ba là Tinh -Khí -Thần.
Sách THÔI QUAN THIÊN viết :"Trong nhà có người đức hạnh cao thượng thì đất đá trên núi gần đó nhất định có Linh khí ".Qua câu nói trên tức là con người làm chủ Linh khí vạn vật do phần Tâm khí của chính mình.
Tuy nhiên nếu không có sự kiện ngày 29 tháng 8 năm 1842 thì ngày nay dân Hong Kong cũng như hàng tỷ người của Trung Hoa đại lục mà thôi.
Trong thời gian trở thành thuộc địa của Anh, Hồng Kông phát triển vượt bậc về nhiều mặt như kinh tế, văn hóa, xã hội.Sau khi đánh thắng Đế quốc Nhật, Hồng Kông tiếp tục nằm dưới quyền kiểm soát của Anh. Anh đã biến Hồng Kông từ một thuộc địa nhỏ trở thành một trong bốn "Con rồng Châu Á". Kinh tế Hồng Kông tăng trưởng rất cao trong những năm kế tiêp.Trong nửa đầu thế kỷ XX, Hồng Kông là một cảng tự do, có chức năng như một trung tâm xuất nhập khẩu (entrepôt) của Đế quốc Anh. Người Anh đã đưa đến Hồng Kông một hệ thống giáo dục dựa trên mô hình của họ, trong khi đó, những cư dân người Hán bản địa ít tiếp xúc với cộng đồng người Âu "đại ban" giàu sang định cư gần đỉnh Victorịa .
Theo Điều 63 của Luật Cơ bản Hồng Kông, Cục Tư pháp kiểm soát việc truy tố hình sự và không chịu bất kỳ sự can thiệp nào. Đây là thể chế pháp lý lớn nhất Hồng Kông và có trách nhiệm liên quan đến pháp chế, quản lý xét xử, truy tố, đại diện dân sự, soạn thảo và cải cách pháp lý và nghề pháp lý. Ngoài việc khởi tố các vụ án hình sự tại Hồng Kông, các quan chức của Cục Tư pháp cũng có mặt tại tòa với tư cách đại diện cho chính quyền trong tất cả vụ kiện dân sự kiện chính quyền. Là một cơ quan bảo vệ quyền lợi công chúng, cơ quan này có thể áp dụng và ấn định đại diện pháp lý thay mặt cho quyền lợi công chúng để tham gia vào việc xét xử các vụ án liên quan đến lợi ích công chúng về vật chất .
Trong hơn 150 năm cai trị Hồng Kông , Anh đã biến Hương Cảng từ một vùng đất hoang sơ trở thành một đô thị phồn thịnh với mức sống cao hàng đầu thế giới. Tìm hiểu về lịch sử Hong Kong có thể gây ấn tượng mạnh rằng nơi đây thường xuyên thay đổi. Tuy nhiên, mặc dù trải qua nhiều cuộc cải tổ, Hong Kong vẫn giữ nguyên được bản chất. Thực tế là, sự nhiệt huyết, năng động đã biến các làng chài đìu hiu thành trung tâm thương mại thế giới và chuyển mình tiến vào thế kỷ 21.Theo một cuộc khảo sát hồi tháng 6/2017 của Đại học Hồng Kông, có khoảng 94% người dân Hồng Kông trong độ tuổi từ 18 tới 29 nói rằng họ là “Hong Kongers” (người Hồng Kông) chứ không phải là “Chinese” (người Trung Quốc), trong khi đó khi mới trở về với Đại Lục thì số người nhận mình là người Hồng Kông chỉ là 68%. Điều đó cho thấy sự thất vọng của người dân đảo đối với Bắc Kinh.
VỀ NHÂN : Tinh ba là Tinh -Khí -Thần của Hong Kong được biểu thị qua Những câu phát biểu ấn tượng của cậu sinh viên 23 tuổi Joshua Wong ( Hoàng Chí Phong ).
" Chúng tôi muốn sống đúng với lương tri và phẩm chất của mình , vì thế chúng tôi không thể sống cùng Cộng sản Trung Quốc.
Chúng tôi không muốn nói dối để được phần nhiều hơn.
Chúng tôi không muốn phải ăn cắp , tham nhũng để được nhà cao cửa rộng.
Chúng tôi không muốn phải đóng thuế để nuôi một đoàn người chỉ biết làm lợi cho một nhóm người giàu có để bóc lột lại chúng tôi.
Chúng tôi không muốn những bằng cấp và tài năng thực sự của chúng tôi phải bỏ vào thùng rác vì những tên rác rưởi con ông cháu cha .
Chúng tôi không muốn con em của chúng tôi phải học những thứ giáo điều rỗng tuyếch mà chẳng có lợi gì cho sự phát triển cũng như tăng khả năng sáng tạo của của chúng.
 Chúng tôi không quên cội nguồn và cũng không quên những gì mà Đảng Cộng sản Trung quốc đã gây ra cho cha ông chúng tôi."
Đó chính là Tinh -Khí -Thần của Hong Kong.

Hoàng Chi Phong đáng được ngưỡng mộ, điều này không có gì phải bàn. Tinh thần của người Hong Kong đáng được tôn vinh, điều này cũng quá rõ ràng. Và chúng ta cứ thế mà ca ngợi tuổi trẻ Hong Kong rồi quay sang trách móc tuổi trẻ Việt Nam là thờ ơ, ham chơi, vô cảm. Điều này dễ thôi. Điều khó là làm sao để tuổi trẻ Việt Nam có được nhận thức như tuổi trẻ Hong Kong. Người Anh có câu: “Heroes are made, not born” (không có người nào khi vừa mới sinh ra đã trở thành anh hùng cả.) Tôi tin Joshua Wong cũng vậy, không phải mới sinh ra thì số mệnh đã định sẵn cậu ta sẽ là một người như bây giờ. Những gì tạo nên một Joshua Wong cũng như hàng triệu bạn trẻ Hong Kong ngày hôm nay là cả một quá trình giáo dục từ nhà đến trường. Một đứa trẻ cũng như một hạt mầm, khi gieo vào mảnh đất màu mỡ và được vun tưới cẩn thận thì nó sẽ mọc nên một cái cây tươi tốt. Còn hạt mầm đó nếu gieo vào mảnh đất khô cằn bạc màu thì khó tránh khỏi cái cây mọc lên èo uộc khô héo. Muốn tạo nên những Joshua Wong của Việt Nam, cha mẹ Việt Nam có thể quyết tâm làm được những điều này hay không?”( Giấc mơ Hoàng Chi Phong (Joshua Wong)-Huỳnh Chí Viễn.).
TB: Có lẽ chỉ nên viết đến đây thôi nhỉ - Vì viết tiếp sẽ động chạm vào vấn đề tế nhị là chuyện Chính trị. dienbatn xin dừng tại đây vậy.
Trong bài viết , tài liệu được thu thập từ nhiều nguồn và tổng hợp lại . Xin lỗi các tác giả nếu không ghi rõ được nguồn .Thân ái . dienbatn. 

Xem chi tiết…

THỐNG KÊ TRUY CẬP

LỊCH ÂM DƯƠNG

NHẮN TIN NHANH

Tên

Email *

Thông báo *