VÕ TÁNH , NGÔ TÙNG CHÂU VÀ LỊCH SỬ OAI HÙNG CỦA ĐỀN HIỂN TRUNG. BÀI 2.

9/06/2020 |
VÕ TÁNH , NGÔ TÙNG CHÂU VÀ LỊCH SỬ OAI HÙNG CỦA ĐỀN HIỂN TRUNG. BÀI 2.
GIỚI THIỆU.
Trong đợt khảo sát , điền dã Quy Nhơn - Bình Định vừa qua, dienbatn đã đặt chân tới thành Đồ Bàn và thắp nhang tại đền thờ Hiển Trung thờ Võ Tánh , Ngô Tùng Châu và các tướng sĩ giữ thành ngày trước. Tuy đã đến được tận đây nhưng vì thiếu những tư liệu cụ thể nên chưa viết được về Thành Đồ Bàn này và nhất là về lịch sử oai hùng trong trận chiến bảo vệ thành của Võ Tánh , Ngô Tùng Châu và các tướng sĩ giữ thành . Nay nhân buổi thư nhàn đọc sách , may mắn thay dienbatn đã tìm được những tư liệu cụ thể và rất chi tiết về trận chiến đó trong cuốn Những người bạn cố đô Huế B.A.V.H Tập XXVI - 1939. ( Nhà xuất bản Thuận Hóa ) - Trong cuốn này từ trang 265 - 284 có bài viết của Bửu Trung là Bố chánh Tỉnh Quảng Bình được Hà Xuân Liêm dịch lại từ bản tiếng Pháp. Xin trân trọng giới thiệu cùng các bạn bản anh hùng ca đó. dienbatn.
TIỂU SỬ NGÔ TÙNG CHÂU ( QUẬN CÔNG ).
Trên án thờ ở gian giữa có đặt 2 bài vị của Võ Tánh và Ngô Tùng Châu, và một bài vị khắc nhiều tên của một số trung thần và dũng tướng của Hoàng Đế.

Ngô Tùng Châu , Ninh Hòa Quận công , người nguyên quán tại Huyện Phù Cát ( Bình Định ) đã đến Gia Định với Võ Trường Toản để theo học tại đây . Ông là một con người thông minh dĩnh dị và có tính chất ngay thẳng.Ông giữ nhiệm vụ trấn giữ đồn Kỳ Lục , một đồn ở biên giới, rồi được gọi về Kinh với hàm Tham tri, lãnh chức quan Thái sư dạy Thái tử kế Vương nghiệp học. tính trung thực và tài năng của ông đã lôi kéo sự ngưỡng mộ của người học trò vương giả của ông.

Vào năm Kỷ Vị ( 1799 ) , ông được mệnh ở lại giữ thành Bình Định với Võ Tánh , ông trợ thũ một cách xuất sắc cho vị Đại tướng quân trong suốt thời gian dài bị vây hãm ở thành Bình Định này.


Nằm kề bên mộ tướng Võ Tánh là mộ Ngô Tùng Châu hình chữ nhật. Hài cốt của ngôi mộ này đã được cải táng về Phù Cát, Bình Định.




Bia tưởng niệm do các quan tỉnh thần Bình Định cung soạn dâng cúng để tưởng nhớ hai trung thần Võ Tánh và Ngô Tùng Châu.
Vào năm Tân Dậu ( 1801 ), trước sự khó lòng giữ được thành , ông đã bàn luận với Võ Tánh về các biện pháp phải làm. Võ Tánh chỉ dàn củi cho ông thấy và nói với ông : “ Đó là sự quyết định của tôi . Tôi không thể đầu hàng , không thể để cho mình bị bắt sống bởi kẻ địch ! Nhưng ngài là một quan văn , tôi chắc rằng kẻ địch sẽ để cho ngài yên . Vậy ngài nên tìm cách bảo toàn sự bình yên vô sự “. Ngô Tùng Châu bật cười trả lời : “Võ hay văn , chúng ta đều là bày tôi của Hoàng thượng . Ngài muốn chết vì nước , lẽ nào tôi không biết làm thế hay sao , tôi cũng vậy ngài ạ , tôi cũng chu toàn bổn phận cho đến tận cùng chứ ?”. Và trở về dinh của ông . Ông mặc quần áo đại triều phục và uống thuốc độc tự tử .
Ngô Tùng Châu cũng đã có công với nước nhà . Hoàng đế Gia Long không thể tách rời ông khỏi Võ Tánh  trong các lời ban khen.
Vào năm Gia Long nguyên niên ( 1802 ) , một đạo dụ của nhà Vua đã truy thăng ông lên tước hiệu là Tán trị Công thần , Kim tử Vĩnh lộc Đại phu  Trụ Quốc , Thái tử - Thái sư – Quận công , thụy Trung ý . Sự thờ tự , cúng quảy ông cũng được trong đền Hiển Trung , bởi người con trai thừa nhận của ông . Triều đình có ban cấp cho người này một số ruộng kị và những người lính đứng gác lăng mộ ông.
Vào năm Minh Mạng thứ 2 ( 1831 ) , ông được truy phong ngoại lệ chức Tá vận công thần , Vĩnh lộc Đại phu , Hiệp tá Đại học sĩ , Thiếu sư kiêm Thái tử Ninh hòa Quận công Trung mẫn .
Bình phú Tổng đốc Nguyễn Phiên
Bố chánh , Bửu Trưng.
Án sát sứ Lê Văn Định.
XEM THÊM TƯ LIỆU BỔ XUNG.
THÀNH ĐỒ BÀN QUY NHƠN - BÌNH ĐỊNH.

Vị trí Thành Đồ Bàn.
Thành Đồ Bàn hay Vijaya (tiếng Phạn विजय, nghĩa Việt: Thắng lợi) còn gọi là thành cổ Chà Bàn (Trà Bàn) hoặc thành Hoàng Đế, nay thuộc địa phận xã Nhơn Hậu, Thị xã An Nhơn và cách thành phố Quy Nhơn (tỉnh Bình Định, Việt Nam) 27 km về hướng tây bắc, là tên kinh đô của Chăm Pa trong thời kỳ Chăm Pa có quốc hiệu là Chiêm Thành. Vijaya đồng thời cũng là tên gọi của một trong tiểu quốc của Chăm Pa, tiểu quốc Vijaya.
Sau khi kinh đô cũ Indrapura bị quân đội Lê Hoàn của Đại Cồ Việt tấn công và phá hủy năm 982. Triều đình Chăm Pa lánh nạn vào phương Nam. Lưu Kế Tông, một vị tướng của Lê Hoàn đã ở lại và cai trị khu vực bắc Chăm từ Quảng Bình vào Quảng Nam ngày nay.
Ở phía Nam, người Chăm đã tôn một vị lãnh đạo của mình lên ngôi với tên hiệu là Harivarman II vào năm 988. Ông đã cho xây dựng Vijaya là quốc đô của mình. Sau cái chết của Lưu Kế Tông, người Việt rút lui khỏi vùng đất phía bắc, Harivarman II đã lấy lại và dời đô và kinh đô cũ Indrapura, tuy nhiên tới khoảng năm 999 vị vua kế tiếp là Sri Vijaya Yangkupu đã vĩnh viễn dời đô về Vijaya. Việc dời đô về Vijaya được Tống sử ghi lại khi đoàn sứ thần của Chăm Pa tới nhà Tống (Trung Quốc) vào năm 1005.
Trong 5 năm thế kỷ là kinh đô, Vijaya phải chịu nhiều cuộc tấn công từ Đại Việt, Chân Lạp, Xiêm, Nguyên Mông. Người Khmer đã tấn công vào rất nhiều lần, có những thời gian Vijaya chịu sự cai trị của Chân Lạp từ 1145-1149 và 1190-1192. Xiêm La dưới thời vương triều Sukhothai cũng góp phần vào trận chiến năm 1313 nhưng sau đó đã rút lui bởi sự can thiệp của nhà Trần (Đại Việt), Nguyên Mông tấn công Vijaya và năm 1283. Nhưng nhiều nhất vẫn là các cuộc tấn công từ các vương triều Đại Việt, các thống kê cho thấy Vijaya bị tấn công từ Đại Việt vào các năm 1044, 1069, 1074 (nhà Lý), 1252, 1312, 1377 (nhà Trần), 1403 (nhà Hồ), 1446, 1471 (nhà Lê). Trận chiến tại thành Vijaya vào năm 1471 với quân đội nhà Lê (Đại Việt) cũng chấm dứt sự tồn tại sau 5 thế kỷ là quốc đô của Vijaya, Chăm Pa mất hoàn toàn miền bắc vào Đại Việt và lui về vùng phía nam đèo Cù Mông.
Năm 982 triều đại vua Yangpuku Vijaya (tiếng Hán Việt là Ngô Nhật Hoan ?) thành Đồ Bàn được xây dựng. Đây là kinh đô cuối cùng của vương quốc Chăm Pa và các vua Chăm đã đóng ở đây từ thế kỷ 11 đến thế kỷ 15.




Đền thờ, bia và cặp voi phía trước Thành Đồ Bàn.
Năm 1376, trong trận Đồ Bàn, vua Trần Duệ Tông đem 120.000 quân bộ, thủy đánh thành Đồ Bàn bị Chế Bồng Nga đánh bại, Trần Duệ Tông tử trận.
Năm 1403, Hồ Hán Thương sai tướng đem 200.000 lính vây đánh thành Đồ Bàn ngót hai tháng trời, nhưng bị quân Chiêm Thành phản công quyết liệt, phải rút quân về nước.
Năm 1471, vua Lê Thánh Tông đem một đoàn lục, thủy quân hùng mạnh sang đánh Chăm Pa. Sau khi chiếm được, Lê Thánh Tông ra lệnh phá hủy thành Đồ Bàn.
Năm 1778, Nguyễn Nhạc tự xưng là Trung ương Hoàng Đế nhà Tây Sơn, đóng đô ở đây, nên còn gọi là thành Hoàng Đế, ông cho mở rộng về phía Đông, xây dựng nhiều công trình lớn.
Năm 1799, thành bị quân Nguyễn Ánh chiếm, đổi gọi là thành Bình Định.
Ngày nay, thành Hoàng Đế là một trong những di tích giá trị, quan trọng trong nghiên cứu lịch sử quân sự và khảo cổ học.
Vijaya nằm tại vị trí mà hiện nay là xã Nhơn Hậu, Thị xã An Nhơn, tỉnh Bình Định. Cách quốc lộ 1A khoảng 2 km, toàn thể kinh thành nằm trên một vùng đất cao so với các cánh đồng xung quanh
Theo ghi chép trong Doanh Nhai Thắng Lãm của Mã Đoan, viên thông ngôn của Trịnh Hòa (người nhà Minh, Trung Quốc) đến Vijaya khoảng năm 1413 thì kinh đô Chăm Pa thời kỳ này được miêu tả như sau:
Đi theo hướng tây nam một trăm lý thì sẽ tới kinh thành nơi nhà vua ngự, người ngoại quốc gọi là "Chiêm Thành". Kinh thành có lũy bằng đá bao quanh, ra vào qua bốn cổng, có lính canh gác. Điện vua thì cao và rộng, phần mái ở trên lợp ngói nhỏ hình thuẫn; bốn bức tường bao quanh có đắp trang trí công phu bằng gạch và hồ, rất gọn ghẽ. Các cánh cửa được làm bằng gỗ cứng, chạm trổ hình thù dã thú và cầm súc. Nhà cửa dân cư trong thành lợp mái tranh, chiều cao mái hiên (tính từ mặt đất) không quá ba "thước", ra vào phải khom lưng cúi đầu, ai cao quá thì thật là bực mình
Vijaya là kinh đô của Chăm Pa trong 5 thế kỷ, từ năm 999 đến năm 1471. Trong khoảng thời gian này, các triều vua Chăm cho xây dựng rất nhiều công trình ở kinh đô, nay còn lại là tám ngôi tháp.
Qua các cuộc xung đột với Đại Việt, Champa mất dần các trấn phía bắc: Indrapura, Amaravati rồi đến năm 1471 thì chính Vijaya bị quân của vua Lê Thánh Tông vây hãm. Quân nhà Lê hạ được sau khi giao tranh đẫm máu. Theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư thì quân Việt bắt sống hơn 30.000 người Chiêm, trong đó có vua Trà Toàn còn 40.000 lính Chiêm tử trận. Đồ Bàn từ đó bị bỏ hoang.
Mãi đến cuối thế kỷ 18, vua Tây Sơn là Nguyễn Nhạc mới ra lệnh xây dựng Thành Hoàng Đế trên nền cũ thành Vijaya cũ để làm kinh đô. Năm 1799 quân chúa Nguyễn Phúc Ánh tái chiếm thành Hoàng Đế và đổi tên là Thành Bình Định. Sang triều Gia Long năm 1816, nhà vua cho phá bỏ thành Bình Định và chuyển thủ phủ về Quy Nhơn.
Hiện nay dấu tích của vương triều Chăm Pa tại Vijaya còn lại là đôi sư tử bằng đá, chạm trổ theo phong cách nghệ thuật Bình Định vào thế kỷ 12-14. Ngoài ra có ngôi Tháp Cánh Tiên, một trong các phong cách nghệ thuật các tháp Chăm.
Di tích Đồ Bàn hiện nay không còn mấy ngoài tường lũy bằng đá ong, ngoài là hào cạn. Trong thành vẫn còn lối đi lát đá hoa cương, một thửa giếng vuông, tượng voi đá, và bên cửa hậu là gò Thập Tháp.
Đặc biệt có ngôi tháp Cánh Tiên cao gần 20 mét, góc tháp có tượng rắn làm bằng đá trắng, voi đá và nhiều tượng quái vật. Kiến trúc tháp này được coi là tiêu biểu cho phong cách Bình Định có niên đại nửa sau thế kỷ 11 sang đầu thế kỷ 12, thuộc triều vua Harivarman IV (1074-1081) và Harivarman V (1113-1139).

Tháp Cánh Tiên - Bình Định.
Phía Bắc thành có Chùa Thập Tháp Di Đà (được xây trên nền của mười tháp Chăm cổ); phía Nam thành có chùa Nhạn Tháp, đều là những ngôi chùa cổ. Khu vực Đồ Bàn nói chung còn giữ được nhiều di tíchliên quan đến văn hóa Chăm Pa và phong trào Tây Sơn như lăng Võ Tánh, lăng Ngô Tùng Châu, cổng thành cũ.
Trong lăng còn chiếc lầu bát giác cổ kính, trong lầu còn tấm bia đá khắc công tích của Ngô Tùng Châu và Võ Tánh (năm 1800). Bia bằng đá trắng, chịu nhiều gió bụi thời gian đến nay đã mòn cả những chữ Hán khắc trên đó.
Hiện nay Phường Đập Đá nằm ngay bên ngoài thành.https://vi.wikipedia.org/
Nằm ở xã Nhơn Hậu, thị xã An Nhơn, tỉnh Bình Định, thành Hoàng Đế có tiền thân là thành Đồ Bàn của người Chăm, sau này trở thành kinh đô của triều Tây Sơn rồi được triều Nguyễn tiếp quản. Tòa thành này cùng là nơi an nghỉ của tướng Võ Tánh, một vị tướng nổi tiếng của nhà Nguyễn.Khu lăng mộ tướng Võ Tánh nằm giữa thành, có khuôn viên rộng với tường bao quanh. Bờ tường mặt trước có bình phong dạng cuốn thư ở chính giữa, hai bên có hai lối vào.Tòa lầu bát giác này là nơi thờ tướng Võ Tánh và Ngô Tùng Châu, vị công thần đã tử thủ ở Bình Định cùng tướng Võ Tánh năm xưa.Sau hương án là mộ phần tướng Võ Tánh. Mộ có hình tròn nằm trên ba bậc nền chữ nhật. Trên mộ có đắp biểu tượng một con dơi.
Vợ Võ Tánh là công chúa Ngọc Du, khóc ông bằng bài thơ: Những tưởng ra tay giúp nước nhà Ai dè bình địa nổi phong ba. Xót người vị quốc liều thân ngọc, Khiến thiếp cô phòng ủ mặt hoa. Gối mộng mơ màng duyên nợ cũ, Đài mây xiêu lạc phách hồn xa. Lửa trung đốt đỏ gương hào kiệt, Nóng ruột thuyền quyên giọt lệ sa!


Biết không thể cứu thánh, ông cho người trao cho Trần Quang Diệu một bức thư xin tha chết cho quân sĩ trong thành. Sau đó ông tự thiêu để giữ khí tiết. Ngô Tùng Châu cũng dùng thuốc độc tự vẫn theo chủ tướng. Đó là ngày 7/7/1801.Sau khi chiếm thành Bình Định, tướng Trần Quang Diệu đã chấp thuận lời thỉnh cầu của tướng Võ Tánh, không giết hại các bại binh nhà Nguyễn. Nhiều người trong đội quân này đã ở lại Bình Định để xây dựng cuộc sống mới.Nghĩa khí của Võ Tánh động lòng người, nên nhân dân trong vùng đã xây lăng mộ và thờ phụng trong thành Hoàng Đế. Lễ cúng tướng Võ Tánh diễn ra vào ngày ông mất (26/5 Âm lịch) hàng năm. Vào ngày này, mâm cơm cúng không có món thịt nướng vì gợi nhớ tới cái chết do tự thiêu của ông.Người dân Bình Định cũng đã lưu truyền câu ca về cái chết của tướng Võ Tánh như sau:“Ngó lên ngọn tháp Cánh Tiên/ Cảm thương quan Hậu thủ thiềng (thành) ba năm”. Sau này, để tưởng nhớ tướng Võ Tánh, vua Gia Long sai lập một mộ nữa cho ông ở Phú Nhuận (nay là hẻm số 19 đường Hồ Văn Huê, quận Phú Nhuận, TP HCM) và chôn hình nhân bằng sáp.
Nằm kề bên mộ tướng Võ Tánh là mộ Ngô Tùng Châu hình chữ nhật. Hài cốt của ngôi mộ này đã được cải táng về Phù Cát, Bình Định.Bên ngoài khu mộ có đặt một số tượng sư tử có nguồn gốc từ thành Đồ Bàn xưa.Theo sử sách, Võ Tánh (1768 - 1801) là vị tướng có công giúp chúa Nguyễn Ánh chống nhà Tây Sơn, được xếp cùng với Đỗ Thanh Nhơn và Châu Văn Tiếp là "Gia Định tam hùng". Ông tử trận trong cuộc chiến với quân Tây Sơn trước khi nhà Nguyễn chính thức thành lập.Quanh cái chết của tướng Võ Tánh, có một câu chuyện cảm động vẫn còn được lưu truyền tới nay.Theo giai thoại, vào năm 1801, tướng Võ Tánh cùng quân sĩ bị tướng Trần Quang Diệu của triều Tây Sơn vây hãm ở thành Bình Định. Trong thành binh sĩ lâu ngày thiếu lương thực, có người khuyên Võ Tánh nên vượt vòng vây trốn thoát, nhưng ông cương quyết ở lại.Tướng Võ Tánh đã nói: "Không thể được. Ta phụng mạng giữ thành này, nên thề với thành cùng sống chết. Nếu bỏ thành mà hèn nhát trốn lấy một mình, thì sau này còn mặt mũi nào trông thấy chúa thượng?".
Người xưa qua thư tịch: Đệ nhất môn sinh của thầy Võ Trường Toản. Cụ Thuật (hậu duệ đời thứ 7 của Ngô Tùng Châu) là người trực tiếp chăm sóc mộ, lo việc tế lễ Ngô Tùng Châu và bà Võ Thị Lội (1754 - 1838), vợ Ngô Tùng Châu. Gia đình cụ đang lưu giữ hai bản dịch sắc phong của Ngô Tùng Châu (bản chính đã bị mất), bài vị của bà Lội và các cặp đối liễn của Thượng thư Bộ binh Phạm Liệu, Đào Tấn, Đào Phan Duân, Hồ Sĩ Tạo, Lâm Tăng Sum, Đốc học Ngô Lê Tố... và một bản chép tay bài Văn tế phò mã Chưởng hậu quân Võ Tánh và Lễ bộ thượng thư Ngô Tùng Châu do Thượng thư Bộ lễ thời Gia Long là Đặng Đức Siêu (1751 - 1810) biên soạn. Gia phả của dòng tộc chép rằng Ngô Tùng Châu là con ông Ngô Tùng Trang, giữ chức Thơ lại phủ Phù Ly (nay là các huyện Phù Cát, Phù Mỹ của tỉnh Bình Định). Năm 1764, ông Trang được phong chức Tri điền tuấn sự, theo lệnh chúa Nguyễn vào Gò Công, mang theo 100 dân đinh đi khai khẩn ruộng hoang, quy dân lập ấp. Ngô Tùng Châu cùng vào nam với cha. Tại đây, ông theo học một nhà nho nổi tiếng đương thời là Võ Trường Toản. Trong một văn bia viết về tiểu sử của thầy Võ Trường Toản do đại thần của triều Nguyễn là Phan Thanh Giản soạn năm 1867 có đoạn: “Xảy hồi loạn Tây Sơn, tiên sinh ở ẩn mở trường dạy học, thường học trò đến mấy trăm. Ông Ngô Tùng Châu là môn sinh cao đệ nhất. Thứ đến là các ông Trịnh Hoài Đức, Phạm Ngọc Uẩn, Lê Quang Định, Lê Bá Phẩm, Ngô Nhơn Tịnh...”. Năm 1770, Ngô Tùng Châu gặp Võ Tánh kết nghĩa anh em. Hai năm sau, Ngô Tùng Châu cưới em gái của Võ Tánh là Võ Thị Lội, hôn lễ được tổ chức tại tư gia Võ Tánh (ở xã Bảo Can, Gò Công). Từ đó, ông Châu được chúa Nguyễn Ánh trọng dụng, giữ các trọng trách quan trọng của triều đình. Tháng 6 năm Giáp Thìn (1784), trong lúc chiến tranh giữa nhà Tây Sơn và nhà Nguyễn, ông Ngô Tùng Trang hồi hương cùng với vợ và 2 con của Ngô Tùng Châu là Ngô Tùng Quang và Ngô Tùng Hòa. Năm Kỷ Dậu (1789), cháu nội trưởng Ngô Tùng Quang bị bệnh mất, thứ tôn Ngô Tùng Hòa phụng tự ông bà, sanh con cháu nối nghiệp đến các đời sau. Lúc sinh thời, Ngô Tùng Châu nhiều lần can gián thẳng và được chúa Nguyễn Ánh khen và nghe theo. Theo Đại Nam thực lục (của Quốc sử quán triều Nguyễn), năm 1798, Nguyễn Ánh sai Lễ bộ Ngô Tùng Châu cùng nguyên Lễ bộ kiêm Đốc học Nguyễn Thái Nguyên phụ đạo Đông cung (thái tử Nguyễn Phúc Cảnh, con cả của Nguyễn Ánh). Khi Ngô Tùng Châu khiêm tốn từ chối, vua nói: “Đông cung là ngôi trừ nhị của nhà nước, kén người sư phó, không phải khanh thì không được, đừng nên từ chối”. Tùng Châu vâng mệnh, hết lòng nói thẳng, không giấu giếm nên Đông cung rất kính trọng. Cũng trong năm này, Nguyễn Ánh cho Tham tri Nguyễn Văn Mỹ được dự thờ ở đền Hiển Trung. Ngô Tùng Châu tâu rằng: “Mỹ làm quan chỉ ham vơ vét, nhiều người oán. Đặt đền Hiển Trung là để khuyên người trung. Mỹ là tiểu nhân như thế lấy gì để làm gương, xin đình việc ấy”. Chúa Nguyễn Ánh nói lời Ngô Tùng Châu “nghị luật rất đúng” nhưng vì thương ông Mỹ “có công theo hầu bên ngựa” nên không nghe theo. Năm 1799, sau khi chiếm được thành Hoàng Đế của quân Tây Sơn, Nguyễn Ánh giao cho Khâm sai Chưởng hậu quân Võ Tánh và Lễ bộ Ngô Tùng Châu trấn giữ. Thiếu phó Trần Quang Diệu và Đại tư đồ Võ Văn Dũng của nhà Tây Sơn đem quân thủy, bộ đến vây hãm thành để chiếm lại. Năm 1801, quân Nguyễn hết lương thực, khi Ngô Tùng Châu hỏi mưu kế, Võ Tánh chỉ vào lầu Bát Giác: đấy là kế của ta. Võ Tánh nói mình làm tướng nên không thể sống với giặc rồi khuyên Ngô Tùng Châu là văn thần nên sẽ không bị giặc giết, tìm cánh bảo toàn tính mệnh. Ngô Tùng Châu nói: “Trung ái là một, văn, vũ có kể gì. Tướng quân có thể vì nước chết về nạn, Tùng Châu này lại không thể làm bề tôi chết về trung ư?”. Ông về mặc triều phục, hướng về phía vua Nguyễn Ánh lạy rồi uống thuốc độc tự vẫn. Nghe tin Võ Tánh vô cùng nể phục, đến trông coi việc khâm liệm, đó là vào ngày 5.7.1801. Võ Tánh sai người gửi thư cho Trần Quang Diệu xin dâng thành, khuyên không nên giết hại quân lính vô tội và sau đó lên lầu Bát Giác tự thiêu vào ngày 7.7.1801. Theo cụ Thuật thì năm 1802, Ngô Tùng Châu được vua Gia Long phong tặng Tán trị công thần, Đặc tiến kim tử vinh lộc Đại phu, Trụ quốc, Thái tử Thái sư, Quận công, tên thụy là Trung Ý. Năm 1831, Ngô Tùng Châu được vua Minh Mạng truy tặng Tá vận Công thần, Đặc tiến kim tử vinh lộc Đại phu, Hiệp biện Đại học sĩ, Thiếu sư kiêm Thái tử Thái sư, đổi tên thụy là Trung Mẫn, phong là Ninh Hòa Quận công. Năm 1804, con cháu và triều Nguyễn cải táng mộ Ngô Tùng Châu từ thành Bình Định (thành Hoàng Đế cũ) về Gò Tháp (xã Cát Tài, H.Phù Cát, Bình Định) xây lăng và xây mộ bằng vôi khá khang trang. Hiện lăng và mộ của Ngô Tùng Châu đã bị hư hỏng nhiều do lâu ngày không được tu bổ, nằm lẩn khuất giữa rừng bạch đàn hoang vắng. Theo https://thanhnien.vn/
" Năm Bảo Đại thứ 13 (1938), sau khi trùng tu khu lăng mộ Võ Tánh, Phó bảng Biểu Xuyên Đào Phan Duân (người ở huyện Tuy Phước) viết một bài ký để ghi lại thịnh sự hiếm có này. Bài ký có đoạn: “...Ôi! Ai người chẳng chết? Chết mà có ích cho nước nhà, có lợi cho phong hóa tức là chẳng chết … Nay việc trùng tu đã xong, rửa tay đốt hương kính cẩn viết những nét đại cương, ngụ ý bày tỏ lòng kính ngưỡng bậc có công đức vĩ đại như núi cao đường lớn…”. Năm 1947, đền Chiêu Trung bị tháo dỡ cùng lúc với thành Bình Định bởi kế hoạch “Tiêu thổ kháng chiến”. Buổi lễ cuối cùng được tổ chức tại đền Chiêu Trung thật cảm động. Khi chính quyền kháng chiến thông báo cho cụ Phó bảng Biểu Xuyên Đào Phan Duân biết chủ trương tiêu thổ, cụ liền triệu tập thân hào nhân sĩ trong tỉnh về Song Trung miếu để dự lễ cáo miếu. Tại chánh điện, sau ba hồi chuông trống, cụ Biểu Xuyên dâng hương lên bàn thờ Song Trung, xin phép Song Trung được phá miếu để đánh giặc Pháp xâm lược. Cáo xong, cụ đi trước bưng bát hương đang cháy, Tú tài Trần Trọng Giải bưng thần vị Võ Công, Tú tài Thái Lập Kính bưng thần vị Ngô công, cả ba người đều khăn áo chỉnh tề, vẻ mặt nghiêm trang mà nước mắt ràn rụa, họ bước chậm từ cửa miếu theo dải hành lang hẹp ra lầu Bát Giác. Tại đây, sau bia kỷ công, người ta đã thiết một bàn thờ, hai ông Tú bưng hai thần vị vào đặt chính giữa án, cụ Biểu Xuyên đặt bát hương lên bàn thờ rồi làm lễ an thần vị. Hai ông Tú vào lạy tạ rồi lui ra. Đến lượt hai ông Huỳnh Yến và Phạm Phú Tiết, nguyên là hai quan đầu tỉnh Bình Định vừa mới bàn giao ấn tín cho chính quyền cách mạng, vào làm lễ. Sau đó, đến lượt thân hào nhân sĩ. Họ vừa lạy, vừa khóc. Tất cả thân hào nhân sĩ lễ xong thì ra về, không ai ở lại “hầu tàn” mặc dù cỗ cúng có “tam sanh”, và nhất là không ai có đủ can đảm nhìn cảnh thanh niên cầm búa, xà beng phá dỡ đền. Vẫn biết, vì đại nghĩa cần phải hy sinh, nhưng chạm tới lòng tôn kính danh nhân, phá hủy nơi mà họ vừa chung công góp của trùng tu mới được 9 năm, họ không buồn sao được! Đền Chiêu Trung bị tháo dỡ, nhưng Bát Giác lầu, mộ Hậu Quân, cổng Tam quan, thành đá ong bao bọc vẫn còn, nhân dân Bình Định vẫn thường xuyên hương khói và tế lễ. Năm 1968, chính quyền Sài Gòn cho tu sửa các hạng mục hiện còn. Năm 2004, Bảo tàng Bình Định tu bổ cổng Tam quan, phục hồi liễn chữ Hán ở các trụ biểu. Năm 2012, Ban Quản lý di tích tỉnh Bình Định trùng tu các hạng mục của Lăng mộ Võ Tánh và thành đá ong bao quanh lăng."http://baobinhdinh.com.vn/

dienbatn và anh Hòa là người coi giữ Đền Hiển Trung.
Vị thủ khoa đầu tiên ở Tiền Giang hồi cuối thế kỷ XVIỊI. Đó là Ngô Tùng Châu. Ông sinh năm 1752 tại thôn Thái Định, huyện Phù Ly, phủ Quy Nhơn (nay là thôn Thái Thuận, xã Cát Tài, huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định). Năm 1764, cha của ông là Ngô Tùng Trang đang giữ chức Thủ lại phủ Quy Nhơn được thăng chức Tri điền tuấn sự, được lệnh của chúa Nguyễn dẫn theo 100 dân đinh vào khai khẩn Gò Công (1). Lúc này, ông mới 12 tuổi cũng được theo cha vào vùng đất mới. Sau đó, ông được gởi lên Gia Định để học tập. Tại đây, ông theo học nhà giáo nổi tiếng nhất đất Gia Định là Sùng Đức tiên sinh Võ Trường Toản. Trong quá trình theo nghiệp bút nghiên, ông luôn cần mẫn dùi mài kinh sử và là học trò xuất sắc nhất của cụ Võ Trường Toản. Năm 1770, ông gặp gỡ và kết nghĩa anh em với Võ Tánh, một hào kiệt đất Gò Công. Năm 1772, ông kết hôn với em gái của Võ Tánh là Võ Thị Lội (2) tại Gò Tre (nay thuộc xã Long Thuận, thị xã Gò Công). Năm 1783, ông tham gia cuộc khởi binh của Võ Tánh tại Gò Tre. Năm 1788, ông cùng với đạo quân Kiến Hòa của Võ Tánh theo phục vụ chúa Nguyễn Ánh. Do là một nhà Nho học kiệt xuất, nên ông được Nguyễn Ánh tin dùng, lần lượt giữ các chức Chế cáo Viện Hàn lâm năm 1788, Điền tuấn sứ năm 1789 (quan trông coi việc khai khẩn, canh tác nông nghiệp, xác định điền thổ và quân lương). Năm 1790, ông cùng với Bộ Tham mưu của chúa Nguyễn Phúc Ánh tiến quân ra miền Trung. Năm 1791, ông trở về Gia Định và thi đậu thủ khoa khoa thi năm Tân Hợi. Đây là khoa thi đầu tiên mà chúa Nguyễn Ánh cho tổ chức ở Nam bộ. Ngay sau đó, ông được thăng làm Tham tri bộ Lễ kiêm Phụ đạo Đông cung (thầy dạy học Đông cung hoàng tử Nguyễn Phúc Cảnh). Về việc này, trong quyển Địa chí TP Hồ Chí Minh (tập 1: Lịch sử), Nguyễn Đình Đầu viết: “Nổi tiếng nhất đương thời là nhóm Gia Định tam gia, gồm ba nhân vật lỗi lạc là Trịnh Hoài Đức, Lê Quang Định và Ngô Nhơn Tịnh. Sự thực, Ngô Tùng Châu cũng là tay văn học kiệt xuất, tiếc rằng chết sớm, nên đời sau ít nói tới. Là học trò đầu hạng của Võ Trường Toản, ông rất được Nguyễn Phúc Ánh phục tài và tin dùng. Bởi vậy, sau khi được thăng chức Tham tri bộ Lễ, ông còn được cử làm phụ đạo dạy Đông cung Cảnh (Nguyễn Phúc Cảnh) mà lâu nay do thầy Bá Đa Lộc (Pigneau de Béhaine) kèm dạy, Ngô Tùng Châu đã nhận lấy và làm tròn một việc khó khăn tế nhị. Ngô Tùng Châu học hành thuần chánh, “hết lòng can răn, Đông cung nể trọng lắm”. Năm 1799, sau khi đánh tan quân Tây Sơn tại thành Quy Nhơn, chúa Nguyễn Phúc Ánh đổi cho tên thành này ra thành Bình Định và cử ông cùng với Võ Tánh trấn giữ. Tháng 2/1800, hai tướng Tây Sơn là Trần Quang Diệu và Võ Văn Dũng mang quân từ Phú Xuân (Huế) vào tấn công thành Bình Định. Ông cùng với Võ Tánh chỉ huy quân cố thủ. Quyết không để mất thành, chúa Nguyễn Phúc Ánh đã hai lần mang quân tới giải vây thành Bình Định vào tháng 4/1800 và tháng 2/1801; nhưng đều bị quân Tây Sơn chặn đứng. Thành Bình Định vẫn bị quân Tây Sơn bao vây chặt chẽ. Trước tình hình đó, ông và Võ Tánh sai người lén đem mật thư ra cho Nguyễn Phúc Ánh; khuyên vị chúa Nguyễn nên kéo quân ra đánh Phú Xuân, và khi đó, sẽ dễ dàng giành được thắng lợi, vì đại bộ phận quân Tây Sơn đang bị thu hút ở mặt trận Bình Định; lực lượng ở Phú Xuân rất yếu. Đồng thời, bức mật thư cũng nói rõ, ông và Võ Tánh sẽ cố giữ thành nhằm cầm chân quân Tây Sơn. Nghe theo lời khuyên hợp lý của ông và Võ Tánh, Nguyễn Phúc Ánh cho quân tấn công và chiếm được Phú Xuân vào tháng 6/1801. Hai tướng Trần Quang Diệu và Võ Văn Dũng nghe tin Phú Xuân mất về tay Nguyễn Phúc Ánh, liền chia quân ra cứu. Quân cứu viện Tây Sơn ra tới Quảng Nam thì bị quân chúa Nguyễn chặn đánh nên phải quay trở lại Bình Định. Không có cách nào khác, Trần Quang Diệu ra lệnh quân lính ráo riết công kích thành Bình Định. Trước nguy cơ thành bị thất thủ, có người khuyên ông và Võ Tánh nên lẻn trốn ra ngoài; nhưng hai ông đã cự tuyệt, cương quyết ở lại với thành. Tình thế ngày càng khốn quẫn, thấy không thể giữ thành lâu hơn được nữa, Võ Tánh viết thư cho Trần Quang Diệu đề nghị sau khi chiếm được thành thì quân Tây Sơn không giết hại binh lính của ông. Để không bị quân Tây Sơn bắt, ngày 5/7/1801 (nhằm này 25 tháng 5 năm Tân Dậu), ông uống thuốc độc tự tử. Ngày 7/7/1801 (nhằm ngày 27 tháng 5 năm Tân Dậu), Võ Tánh tiếp nối ông, tự thiêu mà chết tại lầu bát giác. Trần Quang Diệu dẫn quân vào thành, rất xúc động trước cái chết trung dũng, đầy khí phách của ông và Võ Tánh, nên cho quân lính mai táng tử tế thi hài của hai ông. Đồng thời, vị tướng Tây Sơn này cũng không giết hại bất cứ người lính nào trong thành. Năm 1802, sau khi đánh thắng nhà Tây Sơn, chúa Nguyễn Phúc Ánh lên ngôi vua, lấy niên hiệu là Gia Long. Ông được nhà vua truy tặng Tán trị công thần, Đặc tiến kim tử vinh lộc đại phu, Trụ quốc, Thái tử thái sư, Quận công, tên thụy là Trung Ý. Năm 1831, vua Minh Mạng truy tặng ông là Tá vận công thần, Đặc tiến kim tử vinh lộc đại phu, Hiệp biện đại học sĩ, Thiếu sư kiêm Thái tử thái sư, Ninh Hòa quận công, đổi tên thụy là Trung Mẫn. Bản thân ông có cuộc sống thanh bạch. Một vị quan đồng liêu với ông là Trịnh Hoài Đức có bài thơ viết về ông như sau: Bốc trạch đắc kỳ sở Siêu nhiên dĩ bảo chân Trúc ly tham khúc kính Thôn xá nhất nhàn nhân Thảo kết đinh tiền thụ Thư tàng tịch thượng trân Bất tham kim khí địa Nhàn mịch hạnh hoa xuân. (Đề Ngô Tùng Châu u cư) Nhà thơ Hoài Anh dịch thơ như sau: Chọn được nơi tốt làm nhà, Đứng ngoài cuộc giữ cái “ta” vẹn toàn. Giậu trơ ba luống cúc vàng, Một người nhàn ở trong làng vui sao. Trước sân, cỏ bện dây thao, Sách là món quý tiệc nào bằng đây. Đất có hơi vàng, chẳng dây Xuân trong hoa hạnh, nhàn hay kiếm tìm. (Đề chỗ ở ẩn của Ngô Tùng Châu) Sau khi tuẫn tiết, thi hài ông được quân Tây Sơn an táng trong thành Bình Định. Năm 1804, mộ của ông được nhà Nguyễn cải táng về quê và xây thành lăng, tọa lạc tại Gò Tháp (Gò Lăng), dưới chân dãy núi Bà thuộc thôn Thái Định, xã Cát Tài, huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định. Năm 1932, lăng bị một cơn bão tàn phá; sau đó, được các nhân sĩ Bình Định tu sửa. Tuy nhiên, không lâu sau đó, do chiến tranh, lăng trở nên tiêu điều, chỉ còn lại hai trụ cổng, bức bình phong và nền móng điện thờ. Năm 1969, chi phái Cao đài tiên thiên tỉnh Bình Định cùng với dòng họ Ngô xây dựng lăng “Ninh Hòa quận công tự” tại địa điểm mới: Cầu Hiệu, thôn Thái Định, xã Cát Tài. Sau năm 1975, khu lăng được trưng dụng làm trụ sở Ủy ban nhân dân xã Cát Tài cho đến hiện nay. Đồng thời, ông còn được thờ ở Đình Trung tọa lạc tại trung tâm thị xã Gò Công. Hiện nay, thị xã Gò Công có một con đường mang tên ông.
Mộ Ngô Tùng Châu (Phù Cát, Bình Định)
(1) Theo dân gian, khu vực mà ông Ngô Tùng Trang khai khẩn nay thuộc xã Yên Luông, huyện Gò Công Tây, tỉnh Tiền Giang. Tại đây, còn địa danh Xóm Thủ với nghĩa là xóm có ông thủ khoa Ngô Tùng Châu đã từng sinh sống ở đó. (2) Theo tác giả Nguyễn Thanh Quang trong bài “Tư liệu về Quận công Ngô Tùng Châu” đăng trên tạp chí Xưa và Nay số 429 (tháng 6/2013): Ngô Tùng Châu và bà Võ Thị Lội có hai người con là Ngô Tùng Quang và Ngô Tùng Hòa. Năm 1784, do Ngô Tùng Châu đầu quân dưới trướng của Nguyễn Ánh, nên cha của Ngô Tùng Châu là Ngô Tùng Trang cùng với con dâu và hai cháu nội trở về quê sinh sống. Năm 1789, Ngô Tùng Quang chết; chỉ còn Ngô Tùng Hòa sống, phụng tự tổ tiên, sinh con cháu nối dõi cho đến ngày nay. Riêng bà Võ Thị Lội, sau khi Ngô Tùng Châu tuẫn tiết, bà thủ tiết thờ chồng và sinh sống tại quê chồng. Mỗi năm một lần, bà theo ghe bầu trở về Gò Công thăm bà con. Năm 1821, vua Minh Mạng ra lệnh cho quan Trấn thủ Bình Định cấp cho bà mỗi năm 50 quan tiền và 50 phương gạo. Năm 1838, bà mất, thọ 85 tuổi. Bài vị của bà đang được dòng họ Ngô thờ cúng có ghi: “Võ húy Thị Lội, sinh năm Giáp Tuất (1754), hưởng linh 85 tuổi, mất năm Mậu Tuất (1838), giờ Tuất, ngày 24 tháng 6. Mộ xây hướng Càn Tốn kiêm Thìn Tuất”.Song Lan - (Theo Văn nghệ Tiền Giang số 64).
dienbatn giới thiệu.
Xem chi tiết…

VÕ TÁNH , NGÔ TÙNG CHÂU VÀ LỊCH SỬ OAI HÙNG CỦA ĐỀN HIỂN TRUNG. BÀI 1.

9/05/2020 |
 VÕ TÁNH , NGÔ TÙNG CHÂU VÀ LỊCH SỬ OAI HÙNG CỦA ĐỀN HIỂN TRUNG. BÀI 1.
GIỚI THIỆU.
Trong đợt khảo sát , điền dã Quy Nhơn - Bình Định vừa qua, dienbatn đã đặt chân tới thành Đồ Bàn và thắp nhang tại đền thờ Hiển Trung thờ Võ Tánh , Ngô Tùng Châu và các tướng sĩ giữ thành ngày trước. Tuy đã đến được tận đây nhưng vì thiếu những tư liệu cụ thể nên chưa viết được về Thành Đồ Bàn này và nhất là về lịch sử oai hùng trong trận chiến bảo vệ thành của Võ Tánh , Ngô Tùng Châu và các tướng sĩ giữ thành . Nay nhân buổi thư nhàn đọc sách , may mắn thay dienbatn đã tìm được những tư liệu cụ thể và rất chi tiết về trận chiến đó trong cuốn Những người bạn cố đô Huế B.A.V.H Tập XXVI - 1939. ( Nhà xuất bản Thuận Hóa ) - Trong cuốn này từ trang 265 - 284 có bài viết của Bửu Trung là Bố chánh Tỉnh Quảng Bình được Hà Xuân Liêm dịch lại từ bản tiếng Pháp. Xin trân trọng giới thiệu cùng các bạn bản anh hùng ca đó. dienbatn.
LỄ LẠC THÀNH ĐỀN HIỂN TRUNG.
Bửu Trung - Bố chánh tỉnh Bình Định.
Phần mộ của Võ Tánh.
Ngày 17/7 nhuận ( 20/9/1938 ) đền Hiểu Trung đã được khánh thành rất long trọng.
Đền này nằm cách Thành Bình Định 4 km, để thờ 2 danh Thần của triều nhà Nguyễn : Hậu quân Đô thống Chưởng phủ sự Võ Tánh và Lễ bộ Thượng thư Ngô Tùng Châu, mà sự tưởng nghĩ đến  2 vị còn rất sinh động trong ký ức của tất cả hàng văn nho An Nam.
Được xây dựng dưới triều Vua Gia Long , ở địa điểm được gọi là Đồ Bàn Thành- Một vị trí trọng yếu đã bị Tây Sơn chiếm đóng trong 3 năm – Được trùng tu dưới triều Minh Mạng , bộ sườn của đền đã bị mối mọt , lại bị hư hại nặng bởi các trận bão trong 2 năm 1932 – 1933.  Tình trạng đổ nát quá trầm trọng của ngôi đền đã gợi nên một tình cảm chán nản buồn sâu xa cho khách đi ngang qua đấy .
Thành Đồ Bàn sau ngày là Thành Bình Định.
Tuy nhiên , vì lý do là tình trạng bấp bênh của các nguồn tài chánh công cộng , nên những đơn xin kinh phí đã được các quan tỉnh thần đương nhiệm gửi đi nhiều lần để xin kinh phí  tái thiết ngôi đền , đều chưa thể được duyệt y .
Tổng đốc Nguyễn Phiên , ông Bố chánh Bửu Trưng và ông Án sát Lê Văn Định đã cùng nhau xin phép mở một cuộc lạc quyên trong tỉnh nhà , mà số tiền lạc quyên được sẽ dùng để trùng tu ngôi đền Hiển Trung , đồng thời cũng trùng tu luôn ngôi đền Vạn Thành ( Văn Miếu ).
Chính sự ân cần lớn nhất mà dân chúng đã đáp ứng lời kêu gọi của ngài Tổng đốc . Một tổng số tiền hơn 4000 đồng được thu góp một cách nhanh chóng . Một nghìn đồng bạc được dành cho công trình trùng tu Văn Miếu , và số còn lại , có thể hơn ba nghìn đồng dành cho đền Hiển Trung . Khởi sự vào tháng 8 âm lịch năm ngoái ( 1937 ), dưới sự kiểm soát và giám thị của một ban trùng tu đền gồm có các quan Tỉnh thần đang tại chức và các thân hào nhân sĩ An Nam trong tỉnh . Công việc trùng tu đền Hiển Trung đã hoàn tất vào đầu tháng 7 nhuận âm lịch ( Septembre 1838 ). Toàn bộ đồ án việc xây dựng này đã tạo nên một tuyệt tác về kiến trúc , đã sắp nó vào số những đền đài kỷ niệm lịch sử đẹp nhất và tạo cảnh ngôi đền thành một cảnh quan đẹp nhất trong tỉnh nhà .( PB XXXVI, trên ).


Ngôi đền được bao quanh bằng một vòng thành xây vôi gạch . Người ta đi vào đền bằng một cổng tam quan có 3 lối vào , chắc chắn , oai nghiêm , diễn đạt có nghệ thuật mà những du khách đến thăm viếng , đã ngắm với sự thán phục trầm trồ và kính trọng . Ở bên trong , thoạt tiên , người ta thấy một nền cột cờ , bên trên nền có một cây cột rất cao , rồi đến một cái sân chầu rộng. Hai bên tả hữu sân này có 2 ngôi miếu nhỏ , một miếu để thờ Thổ Thần , miếu kia để giành thờ người con gái Đô thống Huyên ; người con gái này từng được giao nhiệm vụ mang một thông tin mật từ chỗ bị bao vây tới báo cho Hoàng đế Gia Long biết . Sân này lại cho một lối vào một vòng thành xây lộng thứ 2 , ở chính giữa lại có một bức bình phong lớn . Sau bình phong là ngôi đền Hiển Trung vươn lên uy nghi , lộng lẫy ( Pb XXXVI, dưới ).

Cột cờ.


Một miếu để thờ Thổ Thần 

Sân chầu.
Bên trong đền có vẻ thoáng mát dịu dàng và không diêm dúa , lấp lánh màu sơn son thiếp vàng .Trên án thờ ở gian giữa có đặt 2 bài vị của Võ Tánh và Ngô Tùng Châu, và một bài vị khắc nhiều tên của một số trung thần và dũng tướng của Hoàng Đế.Bên phải và bên trái là 2 án thờ để thờ linh hồn các tướng sĩ đã bỏ mình trên các trận đánh . Xung quanh các bức tường treo vô số các câu đối tán dương công trạng của 2 vị công thần lớn lao ấy và được các nhân vật cao cấp trong triều đình tiến cúng.
Ngôi đền đi thông tới một ngôi tháp hành bát giác có tầng ( Pb XXXVII) , bằng một hành lang dài có mái lợp bên trên và có kèm hai bên lối đi bằng tường thấp. Trong bát giác này có dựng bia tưởng niệm do các quan tỉnh thần Bình Định cung soạn dâng cúng để tưởng nhớ hai trung thần Võ Tánh và Ngô Tùng Châu.
Lầu Bát giác.






Cách nhà bát giác độ 4 m , người ta thấy có ngôi mộ Võ Tánh ( Pb XXXVIII, trên ) . Chính nơi đây Võ Tánh , bởi lòng trung đối với Hoàng Đế , và để những toán quân khỏi chết , đã tự đốt lầu bát giác để thiêu mình và ngôi mộ của ông có hình chữ nhật và có mẫu trang trí nhã , bên trên được trang trí một mô típ phúng dụ ( un motif allégorique ) : “ Một trái tim tỏa hào quang “, mô típ đó muốn chỉ quả tim Võ Tánh , một bề tôi trung dũng vẹn toàn .



Mộ Võ Tánh
Nằm kề bên mộ tướng Võ Tánh là mộ Ngô Tùng Châu hình chữ nhật. Hài cốt của ngôi mộ này đã được cải táng về Phù Cát, Bình Định.
Bên phải ngôi mộ Võ Tánh , có ngôi mộ Đô thống Nguyễn Tấn Huyên , ông này cũng tìm một cái chết vinh quang  bên cạnh chủ tướng của mình . Đó chính là một khối hình chữ nhật bằng xi măng tô (Pb XXXVIII, dưới ) cũng khiêm nhường như cuộc sống của Nguyễn Tấn Huyền đã từng sống.
Đó là sự miêu tả tóm lược ngôi đền Hiển Trung , vừa được trùng tu bởi các quan tỉnh thần tỉnh Bình Định , và lễ lạc thành ngôi đền đã được tổ chức vào ngày 10 Septembre ( Tháng 9 ) năm 1938 .
Buổi lễ lạc thành này được khởi đầu bằng một lễ tôn giáo gồm có tất cả những nghi thức tốt lành . Đến tham dự có nhiều người như quan Tham tri Tôn Thất Ngân , đại diện của triều đình Huế , cựu Tôn nhơn của Phủ Tôn nhơn , làm đại diện là bà Hoàng Thái hậu , các nhà đương cục của tỉnh nhà, các thân hào nhân sĩ trong tỉnh , cũng như con cháu trực hệ của Võ Tánh và của Ngô Tùng Châu ( Pb XXXIX, trên và dưới ) +(Pb XL).
Phần lễ theo Tôn giáo được chủ trì bởi hòa thượng trụ trì chùa Thập Tháp ( XLI, trên ).
Những tín đồ Phật giáo , những khách hành hương đến từ khắp mọi miền trong tỉnh để dâng của cúng và cầu nguyện trước án thờ được dựng lên để thờ đức Phật.
Buổi lễ lạc thành nói chung mọi điểm đều thành công , đã chấm dứt bằng lời tuyên đọc tiểu sử của Võ Tánh và của Ngô Tùng Châu , do ông Lê Văn Định , Án sát tỉnh nhà soạn đọc  ( XLI , dưới ).
CÁC CÂU ĐỐI.
Xưa chiến lũy bị vây này , quyết giữ lòng trung cùng Vua , nước ; hai quan văn võ tranh nhau tìm cái chết.
Nay còn gì lưu dấu lại , ngoài cây đa gợi nỗi u sầu ; một nấm mồ chung truyền mãi dấu anh hùng.
Triều Bảo Đại năm thứ 8 ( 1933 ) được cung tiến bởi ngài Phạm Quỳnh – Chánh ngự tiền Văn phòng , Thượng thư Bộ Quốc gia giáo dục.
 Các ngài là những vĩ nhân , do chết vinh quang , anh hồn bày mãi lên cao tới tận màu xanh lồng lộng giữa bầu Thiên đỉnh.
Còn lại nơi chiến lũy này , tấm bia tưởng niệm , điện thờ uy nghi giữa ruộng đồng bát ngát b, nhắc tên Nước , Tổ dịu dàng thay!
Triều Bảo Đại năm thứ 8 ( 1933 ) – Tiến cúng bởi các quan tỉnh thần tỉnh Bình Định . Tổng đốc Nguyễn Phiên , Bố chánh Nguyễn Hữu Lữ , Án sát Tôn thất Chiêm Thiết , Lãnh binh Hồ Văn Thùy.
Đền thờ nhị vị anh hùng nhắc nhở tinh thần dũng trung cao vợi;
Tháp lầu bát giác nơi đây còn lưu chứng tích sống mãi dài lâu.
Triều Bảo Đại năm thứ 13 ( 1938 ) được cung tiến bởi ngài Phụ chánh Đại thần Tôn Thất Hân.
Đức Cao Hoàng đế đã có bề tôi dũng cảm trấn giữ và duy trì chốn Kinh đô vững chắc , đó là nhờ một tin đưa bí mật mà Ngài có thể lấy lại Sơn hà xã tắc;
Chỗ xưa kia là chiến lũy , nay hóa thành một đền thờ muôn thuở với tháp hình bát giác , từ nơi đó mà danh thơm của 2 vị anh hùng lan mãi ra tận thế giới mênh mông .
Triều Bảo Đại năm thứ 13 ( 1938 ) được cung tiến bởi các ông Đào Phân Duẩn , Nguyễn Văn Hoành và Cao Đăng Đệ.
Những ghi chú tiểu sử khắc trên bia tưởng niệm do các quan tỉnh thần tỉnh Bình Định cung tiến để tưởng nhớ Võ Tánh và Ngô Tùng Châu .
“ LỜI NGƯỜI DỊCH : Không có nguyên văn bằng chữ Hán , chúng tôi chỉ y theo nguyên bản Pháp văn để dịch lại , không giữ hình thức đối.”
TIỂU SỬ VÕ TÁNH , HOÀI QUỐC CÔNG.
Võ Tánh , Hoài quốc công , người nguyên quán Phước Yên, Tỉnh Biên Hòa . Hiền Tổ khảo của ông tên là Xã, đã được truy tặng hàm Cai cơ ( tức Đại úy ) , Hiền khảo của ông tên là Toán đã được truy tặng hàm Chưởng cơ ( tức Đại tá ) . Em ông tên là Nhàn , cũng giữ chức Cai cơ. Vào năm Giáp Thìn ( 1783 ) , khi quân Tây Sơn tiến về Gia Định , Hoàng đế Gia Long bôn đáo ở Băng Cốc . Trong thời gian đó ở Phù Viên ( Gia Định ) , Võ Tánh tự hoạt động, mộ người tài năng hiến mình vì nhà Nguyễn , và tổ chức lại những đạo quân tình nguyện của ông Nhàn anh em ông.
Các lãnh tụ Tây Sơn nói với nhau rằng : ở Gia Định có 3 người anh hùng ,mà Võ Tánh là một,và họ khuyên bảo người của họ không nên tấn công vào 3 người này.
Hoàng đế sau khi đã thăm dò những ý hướng thật tình , đã cho gọi ông đến trước nhà Vua , chỉ định ông làm Tiên phong dinh Khâm sai Tổng nhung , Chưởng cơ , để cầm quân đi đánh lại quân Tây Sơn . Lại cho ông kết hôn với người con gái cả của Vua là Công chúa Ngọc Du.
Võ Tánh là người rất có thiên bẩm , thành thạo với nghề cầm võ khí . Những hoạt động hiển hách của ông đã lôi cuốn được sự ngưỡng mộ của Hoàng đế Gia Long . Ngài đã không ngớt lời ban khen ông : “ Một Chưởng cơ có tài như khanh là khá sánh với các vị anh hùng huyền thoại. Thật là một phúc lớn cho nước nhà “.Khi đóng quân ở Diên Khánh ( Nha Trang ), mà ông là người bảo vệ thành , chống lại quân Tây Sơn , Hoàng đế đã ban lời dụ cho ông : “ Trước sự hiện diện của một tên loạn tặc ( un rebelle) mạnh và độc ác như tên Tây Sơn Diệu , thì khanh có thể giữ được trọn vẹn thành mà khanh trấn giữ . Một cách chắc chắn là người ta chỉ có thể nhận thấy một sự đối kháng của cái cây khi có gió bão “. Và để khích lệ ông , nhà Vua đã thăng ông lên chức Khâm sai Hậu quân Bình tây Nguyên soái Đại tướng quân .
Vào năm Kỷ Vị ( 1799), Hoàng đế Gia Long , tự thân chỉ huy hạm đội và các toán thủy quân của mình , tấn công Quy Nhơn , và đã giáng cho quân Tây Sơn một đòn bại trận tan nát. Thành Bình Định rơi vào tay quân đội của nhà Vua , quân nhà Vua bắt được hơn 6000 tù binh. Đấy là một trận đại thắng. Ngây ngất bởi sự thành công này , nhiều võ tướng muốn tiếp tục tiến về Phú Xuân ( Huế ) ; Nhưng theo lời khuyên của Võ Tánh , ông cho rằng sự mạo hiểm này là quá liều lĩnh , vì duyên cớ là tình trạng mệt mỏi của quân đội . Hoàng đế đã lui về Gia Định , và giao sự thủ thành Bình Định cho Võ Tánh , bằng cách lưu lại với ông , để trợ thủ cho ông quan Tham tri Bộ Lễ Ngô Tùng Châu.
Nghe được tin này , các tướng Tây Sơn như Thiếu phó Trần Quang Diệu và Võ Văn Dũng bàn tính với nhau để mở một cuộc tấn công kết hợp cả trên bộ lẫn trên biển , để đánh thành Bình Định. Tất cả bằng cách nắm lấy những biện pháp cần thiết để cắt đứt con đường của đạo quân nhà Vua có thể đến tăng viện . Võ Tánh phái Lê Chất vào Gia Định để báo cho Hoàng đế hay tình thế. Trong thời gian đó thành Bình Định đã bị quân Tây Sơn bao vây. Hoàng đế Gia Long , đặt tất cả niềm tin tưởng vào Võ Tánh và vào các đạo quân của nhà Vua .Ngoài ra quân nhà Vua lại cho rằng trong thành vẫn có đủ lương thực , để sống mà giữ thành trong 1 năm , nên Vua không phải vội vàng phái những toán quân trù bị ra tiếp ứng . Ngài muốn đợi đến mùa Xuân , sau trận gió mùa thổi mạnh , đem lại khả năng và không quá liều lĩnh để vận chuyển quân đi đường biển.
Vào năm Canh Thân ( 1800 ) , khi nghe được tin những đạo quân tăng viện đã kéo đến hải cảng Cù Mông , Võ Tánh đã bất ngờ liều một trận đánh , và giáng một đòn thất bại nặng nề cho quân địch đang bao vậy . Mặc dầu thế , ông đã không đạt được việc đánh bật quân bao vây ra khỏi vị trí chắc chắn của họ được . Những toán quân dự bị , mặt khác , đã không thể nào đến tận thành được , nên cũng không đem lại một lợi ích nào cho quân lính bị bao vây.
Vào năm Tân Dậu ( 1801 ) , Hoàng đế quyết định hy sinh thành Bình Định , để cứu lấy vị Đại tướng quân và các toán lính của Ngài. Nhà Vua đã gửi cho Võ Tánh một thông điệp để ra lệnh cho ông bỏ thành và rút lui. Nhưng nghĩ rằng tất cả mọi lối thoát đều bị chận kín , và phương sách cuối cùng để thoát ra ngoài là liều mạng mở một trận đánh lớn , nghĩa là phó thác cho quân lính của ông cho một sự chém giết loạn xạ , không thể nào tránh đực . Võ Tánh đã dâng biểu tấu lên Hoàng đế bằng những lời lẽ như sau : “ Hiện tại , đại quân Tây Sơn đều ở cả Bình Định , thành Phú Xuân ( Huế ) bị bỏ trống. Cơ hội thực tốt , vậy thần kính cẩn dâng lên Hoàng đế cho dong buồm tiến về Phú Xuân , và cho đánh chiếm thành ấy . nếu cái chết của thần có thể để đổi lấy thành Phú Xuân , thì thần rất hài lòng , và thần tin rằng kế này sẽ hảo diệu hơn là nỗ lực tìm cách cứu thần “.
Hoàng đế thật vô cùng xúc động  khi đọc lời biểu tấu cao cả ấy . Vì Ngài không thể quyết định hy sinh vị Đại tướng quân của Ngài được . Nhưng quần thần quanh nhà Vua , đã tâu bày với Vua sự nghe theo và sự chống lại ý trên , đã thuyết phục được sự do dự của nhà Vua.
Lúc đó , Hoàng đế để lại một toán quân nhỏ ở Thị Dã, dưới quyền chỉ huy của Nguyễn Văn Thành , để bắt nộp những kẻ cướp bóc cho các toán quân địch , và để trong trường hợp cần , tăng viện cho các toán quân của Võ Tánh . Rồi Ngài ra lệnh cho hạm đội đi về hướng Phú Xuân , và cho các toán quân bộ kéo theo đi về cùng mục tiêu ấy.
Để báo cho các toán quân bị bao vây biết sự lên đường của các đạo quân nhà Vua ; như điều ước đã định , người ta đốt một ngọn lửa trên đỉnh một ngọn núi cao . Lúc thấy hiệu lửa , Võ Tánh mở một cuộc đánh ra để lôi kéo tất cả sự chú ý của kẻ địch về phía ông.
Vừa lúc thành Phú Xuân bị chiếm , thì Hoàng đế liền phái nhiều toán quân trừ bị vào Bình Định . Nhưng khi những toán quân này , dưới sự chỉ huy của Chưởng Thái giám Lê Văn Duyệt và của Tống Viết Phúc , vừa đến ngang Quảng Ngãi thì họ đã được tin thành Bình Định thất thủ.
Sau một thời gian bị bao vây dài , tất cả lương thực để sống đều cạn kiệt , quân lính đã chịu đựng đói khát  và chịu đủ mọi loại thiếu thốn . Trước tình trạng đau khổ này , Võ Tánh quyết định gửi cho Diệu , tướng cầm quân của Tây Sơn , bản văn thông tin như sau : “ Chúng tôi không thể nào thủ thành lâu hơn được , tất cả nguồn sống của chúng tôi đã cạn kiệt . Bổn phận tôi làm chủ tướng và làm kẻ trung thần là phải chết và tôi sẽ chết do tự nguyện . Nhưng quân sĩ dưới tay tôi đều là những người vô tội , tôi cầu xin ông không nên tàn sát họ một cách vô ích “. Và gửi lời lại cho quân sĩ , ông nói : “ Ta sẽ chết , nhưng để cho kẻ thù không thể nào nhận được ta , ta muốn tự thiêu mình.”
Nói xong ông cho xếp một dàn củi theo hình cây tháp , và vài ngày sau , ông bận triều phục , leo lên dàn hỏa . Trước khi ra lệnh châm lửa vào dàn hỏa , ông cảm ơn ba quân dưới tay ông bằng những lời vô cùng cảm động.” Từ hai năm nay , chính là nhờ sự hy sinh gian khổ và sự dũng cảm vô biên của chư quân sĩ , mà ta có thể giữ được thành này để chống lại một kẻ thù rất mạnh. Nhưng nay , lương thực đã cạn kiệt , và chính các người , thì các ngươi cũng đã tận lực rồi , ta khó lòng có thể tiếp tục đánh nhau được. Chỉ vô ích thôi. Vậy để tránh cho các ngươi những nỗi chịu đựng gian khổ và tránh mọi hy sinh cuộc sống vô ích , ta thích chọn cái chết là hơn vậy. “
Sau khi nghe những lời thương tâm , nhức nhối ấy , toàn bộ tướng tá và binh lính đều quỳ lậy ông . Đưa bàn tay lên , ông ra hiệu cho họ rút lui , và trao cây súng hỏa mai ( arquebuse ) của ông cho Nguyễn Văn Thành , ông nói với Nguyễn Văn Thành : “Hãy trao cây súng hỏa mai này cho Diệu , và nói với ông ta : rằng ta tin tưởng trao phó vào tay ông ta cuộc sống của binh lính ta . Đoạn quay về phía Nguyễn Văn Biên , mời ông Biên châm lửa. Ông Biên bật khóc với những dòng nước mắt nóng hổi , và để khỏi bị trói buộc phải thực hành trọn vẹn cử chỉ nặng nề đó , ông đã chạy tránh ra xa. Võ Tánh vô cùng bình thản , đã chính tay châm lửa đốt dàn thiêu.
Ngay lúc đó , Quan Tổng binh Nguyễn Tấn Huyên chạy đến và nhẩy vào dàn thiêu đang cháy rực trời, vừa la to lên : “ Quan tướng , tôi muốn theo ngài “.
Hai ngày trước cái chết của ông , Võ Tánh đã chính tự tay mình chôn cất Tham tri Ngô Tùng Châu . Ông Ngô Tùng Châu đã đoán biết được ý nghĩa của tháp củi chất cao mà quan Khâm sai Hậu quân Bình Tây Đại tướng quân đã chỉ cho ông thấy , khi ông đến xin mệnh lệnh của Đại tướng quân, và để không còn phải sống sót một mình , ông Châu đã uống thuốc độc khi về dinh của mình.
Võ Tánh mất , các toán quân của Diệu được lệnh tiến vào thành một cách thắng lợi . Quân sĩ Tây Sơn đều cúi đầu thành kính trước dàn thiêu đang còn bốc khói . Để tôn trọng những ý muốn cuối cùng của một kẻ địch dũng cảm mà ông đã từng ngưỡng mộ , Diệu đã đối xử rộng lượng , tha mạng sống cho quân của Võ Tánh.
Võ Tánh đã tự hy sinh để cứu mạng quân lính của ông và tạo cơ hội cho Hoàng đế lấy lại thành Phú Xuân . Thái độ hành vi anh hùng của ông như vậy đã không vô ích , và ông đã có công với nước nhà vậy.
Hoàng đế quá xúc động bởi cái chết của Võ Tánh . Vua nói với quần thần : “Tánh là ngang với những bậc anh hùng nổi tiếng như Trương Tuân , Hứa Viện vv…Ta đã ra lệnh cho Khâm sai Đổng nhung Quân vụ Đại thần ở thành Gia Định lo chăm sóc gia đình Võ Tánh , và ta truy phong tặng cho Tánh tước hiệu Dực vận Công thần , Phụ Quốc Thượng tướng quân – Thượng trụ Quốc , Thái úy Quận công Thiếu trung liệt . Sự thờ cúng khanh sẽ do triều đình đảm nhiệm , và một đền thờ sẽ được dựng lên để tưởng niệm khanh đã tự hy sinh để đền nợ nước “.
Ngôi đền ấy ngày nay gọi là Đền Hiến Trung.
Vào năm Minh Mạng thứ 2 ( 1831 ), một Đạo dụ của nhà Vua , đặc cách truy phong tặng ông lên tước hiệu Tá vận Công thần – Tráng vũ Đại tướng quân – Hậu quân Đô thống phủ - Chưởng phủ sư Thái sư – Thụy Trung liệt Hoài Quốc công “.








TIỂU SỬ NGÔ TÙNG CHÂU ( QUẬN CÔNG ).
 ( Xin theo dõi tiếp bài 2 ) dienbatn.
Xem chi tiết…

TÌM HIỂU CHÂN LÝ,NGHIÊN CỨU VÀ THIỀN - HỒ VĂN EM. BÀI 4.

9/03/2020 |
TÌM HIỂU CHÂN LÝ,NGHIÊN CỨU VÀ THIỀN - HỒ VĂN EM. BÀI 4.
GIỚI THIỆU Trong 10 tập sách cuối đời của GS. NGUYỄN HOÀNG PHƯƠNG - Bộ SỨ MỆNH ĐỨC DI LẮC ( 10 tập - Hơn 1000 trang .Công trình của thầy Phương là sự tổng kết cho những nghìn năm trước và tiên đoán và đề xuất chiến lược cho nghìn năm nay và những nghìn năm sau.) thường có nhắc đến cụ HỒ VĂN EM , và GS. NGUYỄN HOÀNG PHƯƠNG coi đó là người có thể kế tiếp những công trình mà Thày còn đang dang dở. Bữa nay dienbatn xin giới thiệu về một Pháp Lý Vô Vi Khoa Học Huyền Bí Phật Pháp mà cụ HỒ VĂN EM viết lại. Tùy theo từng sở kiến của từng người có thể tin hay không tin , nhưng nếu chịu khó đọc , chúng ta cũng có thể vỡ lẽ ra khá nhiều. Xin trân trọng giới thiệu. dienbatn.
BÚT TÍCH CỦA GS. NGUYỄN HOÀNG PHƯƠNG.
( Kính tặng anh Hồ Văn Em - Những người như anh đều được những người chân chính kính trọng - Hồ gia trang 19/3/4 - NGUYỄN HOÀNG PHƯƠNG.)
( Ta đã hoàn thành trách nhiệm đưa Phật Di Lặc trao cho tôi. Đây là sự bàn giao trách nhiệm của ta cho anh Hồ Văn Em trước khi tôi trở về - NGUYỄN HOÀNG PHƯƠNG.)

Ông Hồ Văn Em.
BÀN VỀ THIỀN
 Thiền giúp cho máu chạy điều hòa, hơi thở nhẹ nhàng và chậm lại. Trong khi đó, con người dần dần mất hết ý thức về cảnh vật bên ngoài, và nhờ đó mới có thể gom cái tâm mình lại về bên trong, để có thể hoà hợp với tâm thức siêu đẳng của vũ trụ.
 Có những chất bợn nhơ, những chất độc ẩn tàng trong bộ thần kinh, trong gân máu, thì người ta không dùng thuốc gì mà tẩy nó ra được. Bởi đó mới cần đến phương pháp kiểm soát hơi thở, để tinh luyện những gân máu làm cho chúng hết bợn nhơ.
 Phương pháp chế ngự hơi thở có thể chuẩn bị một trạng thái là kềm chế được tư tưởng, được mọi cơ tạng trong châu thân, được những giác quan. Đó là phần quan trọng hành giả cần tập luyện: bởi vì do nơi giác quan mà ta cảm xúc được mọi vật. Khi kềm chế được giác quan thì tất nhiên ngoại cảnh, những sự cám dỗ bên ngoài, không thể lay động tâm ta được nữa...
 Đức Thích Ca nhờ tham thiền nhập định sáu năm dưới cội bồ đề mới được chứng quả “Lậu Tận Minh” thấu đặng máy huyền vi của Tạo Hóa. (Trích tập san “Tìm Hiểu Thông Thiên Học” số 25.)
 “Tham thiền là để dòng tâm thức thiêng liêng cứ mãi cuồn cuộn chảy xuống không ngừng... Trong lúc tham thiền, những tư tưởng phàm tục, những dục tình đều phải tắt hẳn.” (Nhà tu đại đức Swami Sivananda Sarasvati.)
 “Tham thiền là làm cho thần định lại để thông hiểu và đạt lý, hầu diệt những điều xấu xa, ô trược của lòng mình.” (Na Tiên Tỳ Kheo.)
 “Tham thiền là cái chí nguyện nồng nàn khó tả của tâm hồn hướng về với vô cùng, vô tận.” (Bà Blavatsky, chân sư bên Thông Thiên Học.)
 “Tham thiền là một động cơ rất mạnh cho sự tiến bộ về đường tinh thần, trí thức và đạo lý.” (Ông Pythagore.)
 “Nên ghi vào chương trình nhà trường để dạy nam nữ học sinh lớn nhỏ sự tham thiền luận lý và ứng dụng. Tôi thấy nó là một cái sức mạnh dở nổi hoàn cầu.” (Bác sĩ Isnard.) (120)
  Các vị tổ sư như Lão Tử, Liệt Tử và Quang Tử...đều lấy sự tham thiền làm nền tảng cho sự tu thân của mình.
 “Tham thiền là con đường duy nhất đưa đến cõi trường tồn, đến sự phúc lạc miên tràng. Kẻ nào không định trí, tham thiền là những kẻ sát hại thần hồn...”(Ông Sivananda.)
120 Bác sĩ là một nhà tu Phật đã chết tại Hà Tiên.
 Tham thiền đem vật thực cho linh hồn, và đưa đến trực giác cho phàm nhơn hiệp nhứt với Chơn nhơn. Nó ví như cái thang thần bí, cái cầu linh vô giá nối liền trần gian với Tiên cảnh.
 Tham thiền sẽ đưa tâm con người lên đến cái Chơn lý duy nhất. Nhờ tham thiền ta tập nghe, tập thấy và tập cảm những cõi mà xác thịt không trực tiếp đặng.
 Cảnh trần là cảnh đau thương. Nếu ta muốn tránh sự khổ não của bánh xe luân hồi thì phải gắng sức tham thiền. Ấy là con đường duy nhất đưa ta từ cõi giả đến cõi chơn, từ cõi vô minh đến nơi sáng suốt, từ cõi tử đến cõi trường sanh.
 Cái mãnh lực tham thiền ví như lửa tam muội, nó đốt tan những sự ô trược của lòng dục vọng và đưa đến cảnh minh triết thiêng liêng.
 Tham thiền là một linh dược cho tinh thần và xác thịt, luồng điển thiêng liêng chảy xuống thấm nhuần sớ thịt, có thể trị nhiều chứng bệnh như thần kinh, đau tim, bao tử v.v...
 Sự suy rộng thanh cao của người tham thiền sẽ túa rải ra muôn dặm như sự rung động âm thinh chuyển đi trong làn không khí đem lại cho vạn ức người sự an tịnh và chí quật cường.
 Nếu người tham thiền mà nhập định được (nghĩa là cái trí hết hoạt động) thì điển lực bay bổng tận chín từng mây thấm nhuần vũ trụ.
 Ta chỉ có đặng sự Vĩnh Phúc hoàn toàn là khi ta yên tịnh tham thiền.
  Tham thiền là làm cho phát triển những tư tưởng mạnh mẽ và trong sạch.
 Cũng như mùi hương của cây hương trầm, từ xa bay lại, người biết tham thiền toả ra một luồng từ điển sưởi ấm lòng ai đau khổ.
 Những vật hữu hình đều thuộc về giả. Mà tất cả sự giả đều phải tiêu tan trước sự hiểu biết. Những cái gì đem đến sự hiểu biết? Ấy là sự tham thiền.
 “Thiền đứng riêng một chân trời cùng tuyệt, chủ trương chỉ thẳng vào nơi tánh, thấy thẳng tự nơi tâm để tức khắc thành PHẬT khỏi phải khổ tu nhiều kiếp.”  (Mahamaitri)
 Với tu sĩ Bạch Liên Phạm Ngọc Đa (Huynh trưởng bên Thông Thiên Học) thì thiền như sau đây:(121)  Thắng phục cái trí và rèn luyện nó thành một khí cụ tốt cho Chơn Nhơn.  Giúp cho Phàm Nhơn (đương hoạt động ở cõi trần) và Chơn Nhơn từ cõi niết bàn xuống Thượng Thiên thấy và hiểu rõ nhiều phương diện khác của Chơn Lý.
121 Trích "Đạo Lý Thực Hành" trang 50.
 nhất là mỗi ngày một lần, con người nhớ đến những việc thanh khiết, cao siêu và tư tưởng vượt qua cuộc đời phù hoa mộng ảo lên đến cõi tinh thần siêu việt.
 Nó là phương pháp tập thể thao cái Vía và cái Trí,nhờ vậy hai thể này trở nên mạnh mẽ và sáng suốt, thần lực lưu thông dễ dàng.
 Lợi dụng nó đặng mở mang những tánh tốt.Đem tâm con người lên mấy cảnh cao, nhờ vậy khi trở về nhập xác con người sẽ sáng suốt hơn. Nó là bước đầu tiên giúp cho con người có thần nhãn, huệ nhãn và hiểu được sự bí mật của Tạo Công. Người tham thiền mỗi ngày có một sức mạnh lạ lùng không ai biết mà cũng không ai tưởng tượng được.
THIỀN VỚI TÂY PHƯƠNG (ÂU MỸ) (122)
 Sự phát triển của thiền tại Tây phương đã mạnh đến nỗi thiền đã trở thành một yếu tố quan trọng trong cuộc sống trí thức và nghệ thuật của người Tây phương (Alan W. Watts, nhà văn Anh Quốc, hội viên hội nghiên cứu Á Châu của Mỹ Quốc).
 Sự xuất hiện của tư tưởng thiền tại thế giới Tây phương là một sự kiện quan trọng cũng như sự xuất hiện của tư tưởng, lý luận Descartes (nhà văn Paulhan, Hàn Lâm Viện Pháp).
 Những ý tưởng xúc tích mới của thiền có thể đem áp dụng vào khoa Nhân tâm học và khoa Tâm lý học tân tiến (nhà Tâm lý học nổi tiếng Mỹ, bác sĩ Fromm và H. Kelman).
122 Trích báo “Khoa Học Huyền Bí”.
 Tiếp đây, xin hiến quý bạn một bài nói về thiền rất đặc sắc của Đại Đức G. Hodson:(123)
 Tôi sẽ nói một cách giản dị. Tôi lấy ví dụ không phải thuộc về vô tuyến điện mà thuộc về điện thoại.
Nói theo danh từ điện thoại, thì chẳng khác nào mình gọi Chơn Nhơn bằng điện thoại vậy. Mình quay số điện thoại làm sao cho đúng để gọi Chơn Nhơn mình trả lời.Muốn vậy ta cần phải biết số điện thoại và phải biết ngôn ngữ của Chơn Nhơn nói với mình.  Thí dụ, ta muốn gọi Chơn Nhơn của ta bằng điện thoại thì phải làm thế nào? Ta phải biết số mấy, rồi quay cho đúng mấy số đó và đặt ống nghe nơi lỗ tai.Bây giờ Chơn Nhơn trả lời bằng cách nào? Tôi xin đóng vai phàm nhơn dùng điện thoại để kêu gọi và tôi cũng xin đóng vai Chơn Nhơn để trả lời. Chư huynh đệ sẽ có dịp nghe câu đối đáp giữa hai đàng như vầy:
 – Alô, Chơn Nhơn có đó không?
 – Lẽ tự nhiên là tôi có ở đây từ hồi nào đến giờ.
 – Anh nói ở đây có nghĩa gì? Ở đây là ở đâu?
 – Lẽ tất nhiên là trong người anh chớ ở đâu.
 – Ủa nói vậy anh ở gần như vậy sao?
 – Tự nhiên là tôi ở gần.
 – Vậy tại sao mà anh không có điện thoại tôi hằng ngày?
 – Có khi tôi cũng ráng kêu anh, nhưng anh để ống nói ở đâu?
123 Trích “Tìm Hiểu Thông Thiên Học” số 67, 68
– Tư tưởng anh đưa đến cho tôi là ống nói đó chớ gì. Cái đó không phải là vật cụ thể, nó thuộc về vô hình.
 – Mà anh có khi nào nghe được tôi hay không Chơn Nhơn?
 – Có khi tôi nghe được anh bằng lương tri của anh,bằng cách làm cho anh luôn luôn cố gắng để trở nên người tốt và sửa đổi luôn. Anh biết rằng: “Mỗi khi anh có ý sửa mình muốn trở nên người tốt, đó là tiếng nói của tôi đó. Nếu tôi để anh riêng một mình, thì chắc anh không phải là con người.
 – Cảm ơn anh nhiều lắm, nhưng xin lỗi anh có thể  cho tôi biết được anh là ai? Sự thực anh là ai?
 – Lẽ tất nhiên, tôi là con người thật của anh chớ ai?
 – Bây giờ mỗi khi tôi muốn nói chuyện với anh, tôi phải làm thế nào?
 – Anh hãy luôn luôn tưởng nhớ tới tôi. Điều đó sẽ khích động đến tôi. Bây giờ, anh sẽ giữ yên lặng cho đến khi nào anh nghe được tiếng nói của tôi.
 – Điều đó rất tốt. Tôi xin cám ơn Chơn Nhơn. Mỗi ngày tôi sẽ tưởng nhớ đến anh và sẽ làm khích động tới anh phải không?
 – Phải rồi, nhưng anh còn phải khích động tới tôi đều đều và hằng ngày mới được.
 – Như thế thì được. Nhưng chừng đó anh có thể làm gì cho tôi?
 – Tôi có thể hoàn toàn thay đổi anh nếu anh để cho tôi làm. Tôi có thể đem đến cho anh sự hiểu biết sáng suốt nếu anh muốn. Tôi có thể làm cho Chơn Lý chói rạng trong lòng của anh, nếu anh muốn. Tôi có thể làm cho những sợ sệt buồn rầu của anh trở thành yên lặng tự tại. Tôi có thể làm cho anh dứt bỏ được lòng tham vọng, giàu sang, địa vị và làm cho lòng tham vọng của anh trở thành điều khát vọng Chơn Lý.
 – Tôi xin cám ơn Chơn Nhơn đã cho tôi biết điều đó là điều mà tôi sở vọng hằng ngày. Chơn Nhơn còn có thể làm được điều gì đó cho tôi?
 – Tôi có thể làm cho sự giả dối của anh trở nên mạnh mẽ để anh có thể thắng đoạt được sự thiếu sót của mình. Tôi có thể làm cho cơn giông tố bão bùng trong lòng anh trở nên im lặng và đem tới cho anh sự yên tĩnh trong tâm hồn.
 – Tôi xin cám ơn anh là Chơn Nhơn của tôi.
 – Vậy thì bây giờ anh hãy bắt đầu đi, tôi sẵn lòng làm những điều đó cho anh, nhưng mà anh cần phải nhớ khích động đến tôi hằng ngày và đều đều để không khi nào quên. Anh phải nhớ luôn luôn khích động đến tôi và làm sao hợp nhứt được với tôi, thì tôi mới có thể giúp anh được.
 – Tôi xin cám ơn Chơn Nhơn và từ nay tôi sẽ cố gắng để làm theo. Những điều anh nói có vẻ giản dị vô cùng, vậy xin anh lập lại một lần nữa: làm cách nào tôi có thể khích động đến anh?
 – Anh có lý. Điều đó rất giản dị vô cùng. Đây là những điều anh cần phải làm nếu anh muốn biết thật Chơn Nhơn của anh. Nếu anh muốn biết tôi và phần thiêng liêng của anh, đó là điều khó khăn nhứt mà anh phải làm, tức là anh sẽ nạp cái con người của anh cho ý chí thiêng liêng. Hãy cố gắng làm được điều đó và hãy giữ im lặng hoàn toàn. Anh hãy nghe tiếng nói của tôi. Hãy nghe tiếng nói của cõi lòng anh tức là của Chơn Nhơn anh. Chừng đó anh sẽ nghe được tiếng nói của tôi. Anh sẽ nhận được quyền năng của tôi và anh sẽ không khi nào cảm thấy yếu hèn. Anh cũng không cảm thấy bị cô độc, bị khổ sở hay bị điêu đứng bất cứ lúc nào.
 – Tôi xin cám ơn anh và tôi sẽ kêu gọi đến anh bắt  đầu từ ngày mai.
 Thưa quý bạn, trên đây là một câu chuyện nói đùa,nhưng sự thật nó diễn tả được cách làm khích động Chơn Nhơn bằng phương pháp tham thiền.





dienbatn giới thiệu.
Xem chi tiết…

THỐNG KÊ TRUY CẬP

LỊCH ÂM DƯƠNG

NHẮN TIN NHANH

Tên

Email *

Thông báo *