PHÁC THẢO PHONG THỦY HÀ TĨNH. BÀI 17.

9/13/2021 |

 PHÁC THẢO PHONG THỦY HÀ TĨNH. BÀI 17.


Mở đầu : Sau hơn 20 năm điền dã, lăn lộn khắp nơi trong đất Hà Tĩnh( chút xíu nữa làm rể Đức Thọ), dienbatn đã tạm gọi là hiểu biết một chút về một vùng Địa Linh – Nhân Kiệt này.Cái hiểu biết tuy còn thô lậu, song kết hợp với những tư liệu sưu tầm được qua thực tế và qua đọc sách , dienbatn muốn viết lại một chút làm tư liệu , ngõ hầu như muốn có chút nào đó  đền ơn những người dân thật thà, chất phác và rất tình cảm ở đây đã giúp đỡ dienbatn trong những lần điền dã. Cũng một lần nhận lỗi với một số vị quan chức mà dienbatn đã có dịp phục vụ là dienbatn đã sử dụng tiền các vị đưa cho , sử dụng cho những người nghèo khổ thì nhiều mà thực ra sử dụng cho các vị đó thì ít. May mà những vị đó ngày nay đều thành công ,thành danh. Vậy thì mọi chuyện coi như xí xóa nhé.Chỉ mong những người con Hà Tĩnh khi thành công ,thành danh thì luôn đoàn kết thương yêu nhau , quan tâm giúp đỡ những người dân quê hương mình và làm được nhiều việc tốt cho đất Mẹ Việt Nam. Xin cảm ơn nhiều lắm thay. Dienbatn.


PHẦN I. PHÁC HỌA CHÂN DUNG MỘT VÙNG ĐẤT.

PHẦN II. LONG MẠCH CỦA HÀ TĨNH. 

PHẦN III . HỌ NGUYỄN TIÊN ĐIỀN.

I. ĐI TÌM LAI LỊCH DÒNG HỌ NGUYỄN DU.

II. CÁC PHẦN MỘ CỦA DÒNG HỌ NGUYỄN TIÊN ĐIỀN – NGHI XUÂN – HÀ TĨNH.

3/ LA SƠN PHU TỬ.

3. ĐỀN THỜ NGUYỄN THIẾP – LA SƠN PHU TỬ.

Đền thờ La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp (ở xã Kim Lộc, Huyện Can Lộc – HÀ TĨNH).


Tý Sơn – Ngọ Hướng

Phân kim theo Chính châm Địa bàn.

Kiêm Nhâm Bính : Tọa Bính Tý – Hướng Bính Ngọ. ( 177,5 độ )

Phân kim theo Trung châm Nhân bàn :

Kiêm Nhâm Bính : Tọa Canh Tý – Hướng Canh Ngọ.







Đền thờ La Sơn Phu Tử ở làng Mật Thiết-Kim Lộc- Can lộc _ Hà Tĩnh đã được Bộ Văn Hóa Thông Tin công nhận là Di Tích LS cấp quốc gia.

“ Cảm kích trước tài năng, đức độ của Nguyễn Thiếp, khi ông mất nhân dân đã lập đền thờ ông ở xã Kim Lộc (Can Lộc, Hà Tĩnh), hằng năm người dân địa phương và vùng lân cận đều về đây để dâng nén hương tưởng nhớ tới danh sĩ. Năm 1994, đền thờ vinh dự được công nhận là Di tích lịch sử quốc gia. Trước đây đền thu hút được rất nhiều du khách thập phương, nhất là giới trí thức khắp cả nước viếng thăm, có nhiều người đã làm câu đối để ca ngợi công lao của Nguyễn Thiếp. Tuy nhiên, với sự phong hóa của thời gian ngôi đền bây giờ giống như một ngôi nhà hoang…

Theo quan sát của chúng tôi, ngôi đền trú ngụ trên một khuôn viên nhỏ hẹp với cỏ cây mọc rậm rạp xung quanh. Cả thượng điện, trung điện, hạ điện đều được xây dựng giản đơn, gạch ở nền nhà và sân đã bật lên lỗ chỗ, tường thì bị rong rêu phủ kín, nứt toác, vôi vữa bong tróc, nhiều chi tiết bằng gỗ thì mục nát, mái ngói thủng dột…

Ông Nguyễn Vy, hậu duệ La Sơn Phu Tử trước đền

Ông Nguyễn Văn Giai – hậu duệ đích tôn của La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp, người trông coi đền chia sẻ: “Lâu lắm rồi đền không được tu sửa, tôn tạo nên giờ xuống cấp trầm trọng, nương hoang cỏ rậm, mối mọt khắp nơi, nếu không kịp thời sửa chữa thì sẽ sập xuống bất cứ lúc nào. Tôi là tộc trưởng nhưng đồng thời trông coi ở đây, hằng ngày thắp hương cho cụ Nguyễn Thiếp mà tôi thấy lo lắm, nhưng với sức lực của họ chúng tôi thì không thể làm gì được”.

Trao đổi với chúng tôi, ông Trần Văn Hữu, Phó chủ tịch UBND xã Kim Lộc cho biết: “Từ khi được công nhận là Di tích lịch sử quốc gia đến nay đền chỉ được tôn tạo 1 lần vào năm 1997 và năm 2010 thì xây tường rào, đổ đất phía sau đền. Nhân dân cũng như chính quyền xã đã nhiều lần kiến nghị lên các cơ quan chức năng tôn tạo lại đền nhưng đến nay vẫn chưa có câu trả lời. Địa phương không đủ nguồn lực để xây dựng hay tu sửa, tôn tạo lại, vì vậy rất mong nhận được sự quan tâm giúp đỡ của các doanh nghiệp, cơ quan, đoàn thể”. (HẠNH NGUYÊN).

Đền thờ La Sơn Phu Tử bị “rút ruột”?

La Sơn Phu Tử là một danh nhân văn hóa, uyên bác, đã có những quốc sách giúp Nguyễn Huệ đánh thắng quân xâm lược nhà Thanh. Ngài là người không màng danh lợi, phú quí, từng lên núi ở ẩn, dạy học, trồng trọt tự túc lương thực. Học trò La Sơn Phu Tử có nhiều người đỗ đạt cao.

Sau đó Ngân hàng TMCP đầu tư và phát triển Việt Nam (BIDV) và một số tổ chức đã tài trợ 9,6 tỉ đồng để xây dựng, tôn tạo lại đền thờ. Nhưng giờ đây, khi chúng tôi về thăm thì hoàn toàn thất vọng. Hai nhà từ đường chỉ dựng bằng cột bê-tông, lợp ngói, không có cánh cửa, giống như nhà kho, hết sức thô, sân lát gạch tàu loại rẻ tiền, ngôi nhà thờ chính cũng dựng sơ sài, bên trong chẳng bày biện gì.

Ngoài ra, ba bức tường bao quanh dựng lên trông rất trơ. Đáng tiếc nhất là hai bên cổng đắp tượng hai ông mặc áo giáp, đội mũ sắt, cầm giáo mác, hình thù giống hình tượng người nước nào đó, không được đẹp mắt. Hỏi mọi người chẳng biết hình ai, đắp để làm gì. Chẳng lẽ người thiết kế, xây dựng không biết rằng La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp là nhà văn hóa? Trước cổng đền cũng chẳng có bảng ghi tên đền.

Nhân dân, đặc biệt là hậu duệ La Sơn Phu Tử như cụ Nguyễn Vỵ, nhà ở đối diện cổng đền; cụ Nguyễn Văn Giai, tộc trưởng, tỏ ra không hài lòng, nếu không nói là bất bình về việc xây dựng đền thờ La Sơn Phu Tử với kinh phí lớn như vậy, nhưng kết quả quá sơ sài. Theo đánh giá của nhiều người hành nghề xây dựng, khoảng 3 - 4 tỉ cũng xây dựng đẹp hơn thế. Đã vậy, trong quá trình xây dựng không có đại diện chính quyền cấp cơ sở, người dân, trong đó có người trong họ Nguyễn tham gia giám sát.

Tôn tạo, xây dựng lại đền thờ La Sơn Phu Tử là việc rất đáng hoan nghênh. Nhưng với gần 10 tỉ đồng mà kết quả lại sơ sài, cẩu thả như thế đã đặt ra nhiều câu hỏi. Rất mong cơ quan có trách nhiệm điều tra làm rõ.” (Nguyễn Tĩnh Nguyện)




Khu đền thờ sau khi trùng tu.

2. MỘ  NGUYỄN THIẾP – LA SƠN PHU TỬ.

Ngày nay, chúng ta hãy trèo qua núi Thiên Nhận, từ làng Văn Giang sang xã Nam Kim. Lúc ra khỏi cửa thành Lục Niên, ta sẽ thấy trước mặt, về phía Đông Bắc, một ngôi đền cỏn con trên chóp núi không cây. Đó là nhà thờ mà xã Nam Kim đã dựng lên để thờ La Sơn phu tử . Bên cạnh đền, về phía Tây, cỏ mọc gần che lấp ngôi mộ có thành xây gạch vây bọc. Đó là hai ngôi mộ La Sơn Phu tử và bà chánh thất Đặng Thị Nghi.









Đền và mộ rất đơn sơ. Thượng đường đền, thì ngoài ba bức tường, mười cây cột bé, chỉ có cái bệ xây bằng gạch trước cái ngai thờ. Trên treo một cái biển đề Bùi phong cao (nghĩa là: nhõn Bùi cao), của người mộc ân đệ tử người xã Thống Lãng mới cúng. Hạ đường còn bé hơn nữa, cũng có biển như trên. Ngoài có hai cột hiên xây gạch và cái bình phong có chữ thọ, xây thủng. Trong có bia đá đặt phía tay trái khi ta nhìn vào.

Bia ấy, ông Thám hoa người Trung Cần (xưa ở huyện Thanh Chương) là Nguyễn Văn Giao' dựng lên năm Tự Đức Kỷ Mão (1879). Mặt ngoài có dòng chữ Hán to, nghĩa là: “Đây là chỗ ông Nguyễn Hạnh Am người La Sơn ẩn cư”. Mặt trong có chép vắn tắt rằng (dịch):

“Nguyễn Hạnh Am, tự Quang Thiếp, người huyện La Sơn, xã Nguyệt Ao. Thời Lê mạt, từ quan về ẩn chốn này. Gần đây có quan huyện Thanh Chương là Lương Kim Huyễn, tới thăm dẫu cũ. Vì đó dựng đình. Ta khen ý hiếu cổ ấy, nhân ghi khắc vào đá vậy”.

Một đời La Sơn phu tử mà ghi chép chỉ có mấy câu văn lạt lẽo ấy. Ta không khỏi ngậm ngùi và lấy làm lạ rằng vị thám hoa kia không có cảm tình hơn như thế.

Chú thích :

1. Nguyễn Văn Giao: thường gọi là quan Thám Trung Cần, hoặc quan Thám Nhì. Đậu cử nhân khoa Minh Mạng Giáp Ngọ (1834). Vì quan trường chữa chữ phê bài thi của ông, nên ông bị truất và phạt suốt đời không được đi thi. Mười sáu năm sau là năm Tự Đức Canh Thân (1850), vì có tiếng hay chữ, cho nên được đi thi lại. Tục truyền, lúc vào thi, cùng vị với cháu đường điệt là Nguyễn Văn Lập. Cháu đọc bài chú, thấy phú bị xuất vận, nhưng không mách. Lúc ra trường, cháu mới mách và bảo rằng: “Nếu mách chú trước thì chú đậu giải nguyên mất. Để cháu giải nguyên khoa này, kẻo khoa sau chỉ chú mới giật giải nguyên được”.

Sau quả như vậy, khoa ấy, ông Văn Lập đậu giải nguyên, ông Văn Giao hỏng. Khoa sau (1852) Văn Giao quả đậu giải nguyên. Năm sau nữa, đậu hội nguyên. Vua Tự Đức muốn lấy đình nguyên. Những bài thi đình kém ông Nguyễn Đức Đạt, người cùng tổng. Vua lại sai điện thí, ông Đạt lại hơn. Nên Vua lấy cả hai ông đậu Thám hoa: ông Đạt là Thám nhất, ông Giao thám nhì. Còn ông Văn Lập thì chín năm sau (1862) cũng đậu Hoàng giáp, đình nguyên.

Lương Kim Huyễn người làng Nhân Mục, thuộc huyện Hoàn Long bây giờ, đậu giải nguyên năm 1828 trường Nam Định.( Trích từ LA SƠN PHU TỬ - Hoàng Xuân Hãn ).

Dienbatn thử kiểm tra phân kim khu mộ.




NGỌ LONG NHẬP THỦ.

NGỌ LONG : Ngọ long thuộc Hỏa là Dương long . Hay sinh ra người tóc vàng da đỏ , phát nhất vào các năm Ngọ - Mùi . Ngọ long là long xấu , phát đấy lại suy đấy . Lúc phát như sấm dậy , lúc bại như tro tàn . Ngọ long phân kim thừa Bính Ngọ , Canh Ngọ nhập Huyệt cũng phát lớn 2 đời . Nếu thừa Mậu Ngọ là Không vong ,thừa Giáp Ngọ , Nhâm Ngọ là cô hư sát , chỉ phát 1 đời rồi bại tuyệt . Như Ngọ long mà phương Dần , phương Tuất có Sơn hay Thủy chứng ứng là Tam Hỏa cục ( Dần – Ngọ - Tuất ) có thể phát 1 đời Trạng nguyên.

BÍNH SƠN – NHÂM HƯỚNG : Đây là hướng đem lại tiếng tăm , tên tuổi , cũng là hướng có linh khí rất mạnh , tượng trưng cho chữ quý làm đầu , là cao sang , danh tiếng , chỉ những người công hầu , bá tước bên cạnh Hoàng đế , nắm quyền chính trị cao . Nó tạo ra những người nghị vện , quốc hội , những chính trị gia , được quý nhân phò trợ .

BÍNH SƠN KHAI MÔN PHÓNG THỦY.

•        Hoàng tuyền tại Càn , không nên có đường nước từ hướng đó chẩy đến chủ về sát nhân.

•        Kiếp sát tại Tân , hướng đó không nên có gò núi , cây cối , lâu đài cao chiếu đến chủ bệnh tật triền miên .

•        Giáp - Ất – Mão – Tuất - Càn  hướng có nước chảy về chủ đem tài lộc đến cát lợi.

•        Nhâm – Quý – Cấn - Tân hướng phóng nước đi đại cát .

•        Trường sinh tại Dần , Đế vượng tại Ngọ . Quan tại Quý . Ân tại Ất.

•        Khai môn hướng Canh – Giáp – Tân – Quý – Nhâm   đại cát.

•        Hợp người tuổi mạng Thổ .

Tọa Bính – Hướng Nhâm.

Ly ( Ngọ ) long nhập thủ , lạc mạch về bên Tả. Lập Huyệt Tọa Bính – Hướng Nhâm , nên nhích quan về Bạch hổ gia Đinh nửa phân. Lấy Bính Ngọ làm chính Khí , mạch xuyên suốt vào tai Tả.

Thôi quan Thiên có thơ .

Thôi quan đệ thập , Huyệt Thiên quý.

Ly cung Tả nhĩ khí tòng trú.

Vi gia Nam cực cục chu hồi.

Sa Thủy hợp củ công hầu khởi.

Nghĩa : Thôi quan thứ 10 , Huyệt tọa Bính ( Thiên quý ). Khí cung Ngọ theo vai Tả và trú ngụ lại .Gia chút ít vào Đinh ( Nam cực ) cục hồi hoàn vây bọc. Sa Thủy hợp phép sẽ xuất sinh công hầu phú quý.

•        Phân kim theo Chính châm Địa bàn.

-        Kiêm Tị Hợi : Tọa Đinh Tị - Hướng Đinh Hợi. ( 342,5 độ ).

-        Kiêm Ngọ - Tý : Tọa Tân Tị - Hướng Tân Hợi. ( 347,5 độ )

•        Phân kim theo Trung châm Nhân bàn :

-        Kiêm Tị Hợi : Tọa Tân Tị - Hướng Tân Hợi.

-        Kiêm Ngọ - Tý : Tọa Bính Ngọ - Hướng Bính Tý.

KIM CỤC.

Thủy ra 6 chữ : Quý – Sửu, Cấn – Dần, Giáp – Mão. Tức các phương Đinh – Mùi , Khôn – Thân , Canh – Dậu đất cao. Nên là Kim cục . Khởi trường sinh tại Tị đi thuận.

THỦY RA QUÝ – SỬU.

Là Kim cục , Thủy ra Mộ phương. Lập được 4 Hướng : Trường sinh – Đế vượng – Tử - Tuyệt.

Tả Thủy đảo Hữu. Lập hướng Tử.

Tọa Bính – Hướng Nhâm.

Ấy là Tá khố tiêu thủy, Hóa tử vi Vượng, Hiệp Dương công cứu bần, tiến Thần Thủy pháp. Nam thanh nữ tú , đinh tài phú quý, lộc vị đắc vượng.

NHÂM SƠN – BÍNH HƯỚNG

Thủy ra Quý Sửu. Kim cục.

Thủy ra Mộ - Lập Hướng Tử. Tả Thủy đảo Hữu ra Mộ khố, là cách : Hóa Tử vi Vượng, Tự Vương hướng hợp Dương công cứu bần, tiến Thần Thủy pháp. Sách rằng : Duy hữu Suy phương khả khứ lưu, phát phú quý , thọ cao, nhân đinh đại vượng.


BÍNH SƠN – NHÂM HƯỚNG.

•        Bính Sơn – Nhâm Hướng , Gia Hợi .

Dùng Tọa Đinh Tị - Hướng Đinh Hợi phân kim. Tọa sao Dực 3 độ , bình phân Canh Thân , ngành 2 đại phát phú quý, ngành cả ngành út đều vượng. Nếu qua 5-6 độ lại chẳng lành .

•        Bính Sơn – Nhâm Hướng , Gia Tý.

Dùng  Tọa Tân Tị - Hướng Tân Hợi phân kim. Tọa sao Trương 14 độ , ấy là Giáp Ngọ Thủy độ , bình phân Nhâm Ngọ. Chủ mọi ngành đều phát phú quýtừ 3-5 đời . Đến đời thứ 6 , ngành trưởng nhiều sản ách , phong tật , chết non. Phân kim 8 hay 16 độ , phạm Mộc Thổ quan sát rất hung hiểm , ngành trưởng và ngành út đàn bà bị bệnh mắt . Phạm Hỏa Khanh là tuyệt ngành trưởng trước .

•        Bính Sơn – Nhâm Hướng , chính châm.

Dùng Tọa Tân Tị - Hướng Tân Hợi phân kim. Tọa sao Trường 17 độ - Hướng sao Nguy 15 độ , làm Thủy cục .Nếu là Thủy cục mà Thân phương có núi cao lớn, trưởng nam tam thê tứ thiếp , sinh nữ nhiều hơn nam. Cấn phương có núi cao lớn, ngành 3 tài đinh đều vượng . Càn phương có núi cao lớn, trưởng nam lanh lợi . Tốn phương có núi cao lớn , ngành 3 đại vượng. Mùi phương có núi cao lớn, ngành 4 được vợ quý , chồng sang . Sửu phương có núi cao lớn, ngành 3 gia nghiệp hung thịnh . Thìn phương có núi cao lớn, vượng ngành 6 , Tuất phương có núi cao lớn, ngành trưởng vượng tài . Canh Dậu , Giáp Mão phương có núi cao lớn, giao thiệp bằng hữu rộng . Nhâm Tý ( Vượng ) phương Thủy đến Minh đường , nhân đinh vượng , chỉ hiềm tham sắc tham hoa.

Tả Thủy đảo Hữu ra Ất Thìn , là phương chính Khố của Thủy Cục , chủ đại phú quý . Tả Thủy lưu đảo Hữu xuất ra Quý Sửu là phương chính Khố Kim cục – Hướng Hóa Tử vi Vượng – Tự vượng Hướng , phát quý , phát đinh , tuổi thọ cao.

Phản cục : Hợi Sơn triều về xuất tội nhân lưu đày, nếu có nham thạch , nam có bệnh về mắt . Tị Sơn cao lớn , tổn ngành 2 , hoán thê đổi thiếp rồi tuyệt tự . Thân Sơn cao lớn, ngành 3 khốn khổ. Tân Sơn cao lớn , ngành trưởng bần khổ khó giúp . Quý Sơn cao lớn, ngành 3 bại tài . Ất Sơn cao lớn, ngành trưởng đổi vợ , tuyệt tự. Đinh Sơn cao lớn, tử cường , phụ nhược , anh em không hòa thuận.

Nếu Hữu Thủy đảo Tả ra Canh phương là Mộc dục tiêu Thủy , phú quý , vượng nhân đinh , nếu phạm qua Thân phương chỉ hung không cát .

Nếu Thủy lưu xuất Càn Hợi , là xung phá hướng thượng , sát nhân Hoàng tuyền , lắm bệnh nhiều tật, tổn con hại của . Thủy xuất Tân Tuất phương phạm thoái thần , tổn thương nam nữ thiếu niên . Thủy xuất Giáp mão , Cấn Dần , là Kim cục Tử Hướng – Giao như bất cập , đoản mạng Thủy , chủ đoản thọ , yểu vong .

•        Bính Sơn – Nhâm Hướng , kiêm Tị Hợi .

Dùng Tọa Đinh Tị - Hướng Đinh Hợi phân kim. Tọa sao Dực 3 độ - Hướng sao Thất 2,5 độ , làm Âm Hỏa Cục . Cục này phu thê chính phối – Tọa Lộc , nghinh Lộc – Lộc – Mã triều nguyên chi cách . Nếu táng được đích Huyệt , đinh tài đều vượng . Nếu tọa Bính là Thiên môn Sinh khí Tử vi trình tọa cung , Lộc . Mã quý tinh đồng lâm. Quý Sửu phương được văn bút trình vị thuộc Tham Lang , lại được Bính phương phong loan núi cao , đại phát đinh tài , phát quan rất nhanh , khoa cử , học hành hanh thông.

Như không có sơn phong mà Văn bút nhọn đẹp cũng được tiểu quý . Quý Sửu Thủy lai triều ra theo hướng Tân Tuất , lúc đầu đinh tài có vượng , quan chức thăng tiến , hiềm vì phân kim gặp Bát sát Văn Khúc tinh , ngành 3 và ngành trưởng bất lợi .Cục này hợp phóng Thủy chính Nhâm phương , là Thai Hướng – Thai phương , hoặc Quý Sửu chính là Mộ hướng đại cát .

Phản cục : Giáp Canh phương có núi cao lớn, xuất bệnh tật . Dậu Tân phương có núi cao lớn, cùng Thủy lai , trộm cắp , phá gia . Nhâm Tý phương Thủy chảy lại , chủ đàn bà trụy thai , nam nhân lưu lạc tha phương . Ất Mão phương Thủy lai , là Mộc dục Thủy , xuất hậu dâm loạn . Tân Tuất , càn Hợi Thủy đến , qua Cần Dần xuất Khứ , là xung phá Trường sinh , xuất dâmloạn , bệnh tật, tổn nhân đinh trẻ , giáng quan , cắt chức , tổn phá tài sản.

•        Bính Sơn – Nhâm Hướng , kiêm Tý Ngọ.

Dùng Tọa Tân Tị - Hướng Tân Hợi phân kim. Tọa sao Trương 14,5 độ - Hướng sao Nguy 12 độ , làm Hỏa cục . Cục này năm Thân – Tý – Thìn đinh tài đại vượng , lại mừng Thủy – Hỏa bất tương xạ , chóng được công danh . Nhâm là cứu bần Thủy , Ngọ là Ly hương địa , tất người sau thông minh hiển đạt , nam thông minh , nữ tú lại chóng phát tài . Nhâm Thủy lai , lập Nhâm Tý Hướng là Cát . Chủ người ra đi làm nên sự nghiệp.

BÍNH SƠN – NHÂM HƯỚNG.

Kiêm Ngọ Tý 3 phân.

Vòng địa bàn chính châm 120 phân kim : Tọa  Tân Tị  – Hướng Tân Hợi.( 347,5 độ ).

Vòng Thiên bàn Phùng châm 120 phân kim : Tọa  Đinh Tị  – Hướng Đinh Hợi.

Tú độ : Tọa sao Trương 14  độ - Hướng sao Nguy 11 độ.

Xuyên sơn 72 Long : Tọa  Canh Ngọ  – Hướng Giáp Tý.

Thấu địa 60 Long : Tọa Nhâm  Ngọ - Hướng Bính Tý ,  nạp âm thuộc Thổ.

Độ tọa Huyệt : Nhâm Ngọ Bình phân , Mộc độ.

Quẻ : Long thấu địa thuộc quẻ Bát thuần Ly. .

Dùng Cục : Hợi – Mão – Mùi , Mộc cục –  Ấn cục Cát.

Cục : Dần – Ngọ - Tuất ( Hỏa cục ) : Vượng cục Cát.

Cục :Thân – Tý – Thìn : Thủy cục , Tọa Tam sát hung.

Cục : Tị - Dậu – Sửu , Kim cục , Tài cục , thứ cát.

2/ Chân lịch số .

•        Tiết Xử Thủ , Thái Dương đến Bính. Hội 2 phương Cấn , Tân  đều cát .

•        Tiết Vũ Thủy , Thái Dương đến Nhâm chiếu bính tốt.

•        Tiết Mang Chủng : Thiên Đế đến Bính  tốt.

Khai môn : Nên Hợi hợp chất khố tốt.Trên Nhâm Xích Y  tốt.

Phóng Thủy : Nên dùng Tân Tuất phương  tốt. Tả Thủy đảo hữu Hung , Hữu Thủy đảo tả tốt.

Hoàng Tuyền : Sát tại Càn , Quý phương .Không nên khai môn phóng Thủy.

Tạo táng : Bính sơn – Nhâm Hướng, Không nên dùng năm tháng ngày giờ Thân – Tý – Thìn ( Thủy cục ) là phạm Tam sát hung.

Nên dùng Quý Tị , Đinh Tị, Canh Ngọ, Mậu dần là Tam hợp Vượng cục , kiêm được Lâm Quan , văn võ đều phát.

3/ Chọn năm tháng ngày giờ cho cục Tọa Bính – Hướng Nhâm.

Tháng Giêng ( Dần ) : Bính , Nhâm – Ngọ, các ngày Mão. Đinh , Tân , Quý – Dậu tốt.

Tháng 2 ( Mão ) : Bính , Canh ,Nhâm –Dần tốt ,Mão bình.

Tháng 3 ( Thìn ) : Tam sát hung không dùng.

 Tháng 4 ( Tị ) : Kiếm phong sát, an táng bất lợi.

Tháng 5 ( Ngọ ) : Canh ,Mậu ,Nhâm –Dần, Thân tốt

Tháng 6 ( Mùi ) : Bính , Canh ,Nhâm –Dần tốt. các ngày Ngọ tốt. Đinh , Quý- Mão.Đinh , Quý , Tân – Dậu thứ.

Tháng 7 ( Thân ) : Tam sát hung không dùng.

Tháng 8 ( Dậu ) : Bính , Canh ,Mậu ,Nhâm –Dần tốt. Quý , Đinh – Dậu , Sửu tốt.

Tháng 9 ( Tuất ) : Bính , Canh , Nhâm –Ngọ, Dần tốt. Đinh , Tân ,Quý – Dậu tốt. các ngày Mão bình.

Tháng 10 ( Hợi ) : Kiếm phong sát, an táng bất lợi.

Tháng 11 : Tam sát hung không dùng.

Tháng 12 ( Sửu ) : Bính , Canh ,Nhâm –Dần tốt. Tân , Đinh , Quý – Dậu . Bính , Canh ,Nhâm –Ngọ  tốt.

4/ Khảo chính giờ cát hung định cục .

Tý – Hung, Sửu – Bình , Dần –Cát , Mão – Cát. Thìn – Hung , Tị - Bình, Ngọ - Cát. Mùi – Cát . Thân – Hung, Dậu – Bình . Tuất – Cát , Hợi – Cát.

NHẬN XÉT CỦA DIENBATN.

La Sơn Phu Tử là một người rất tinh thông Lý số. Tính từ Thủy Tổ khởi phát : Đến đời Nguyễn Thiếp đã hơn 300 năm, có thể liệt vào hàng cự Tộc trong xứ. Ông tự biết đến sau đời mình vận số đã bạc . Tới các con của ông thì : “Cụ sinh được năm trai, bốn gái. Con trai là: Mạnh Thuyên, Trọng Khách Thúc Khải, Quý Ngộ, Thúc Hằng . Các con gái là Đoàn, Khoản, Vi và Vu. Đoàn lấy Nguyễn Duy Hàn, nho sinh ở làng Bình Hồ (La Sơn). Khoản lấy Hoàng Đình Chính, sinh đồ ở xã Cát Ngạn (Thanh Chương). Vi lấy Hồ Trí Sự, người xã Phúc Đường Hương Sơn). Và Vu lấy Ta Lương Đông, người làng Hoành Sơn (Thanh Chương).

Các con trai gặp thời loạn lạc, gia kế túng bần, nên không thấy ai thi đậu, làm quan. Không những thế, sau lại bị suy đồi lắm. Người con cả không có con trai. Con thứ hai là Trọng Khác lấy con gái ông Huyện Thanh Ba họ Hồ người Phù Lưu, cũng không con. Con thứ ba, Thúc Khải, lúc ít tuổi bị chết đuối. Con thứ tư, Thúc Hằng, theo cụ lên ở núi Thiên Nhận tại núi Khê Sơn, cũng bị chết đuối, ông có một con trai. Con trai út là Quý Ngộ, cũng lên ở núi Thiên Nhận, có một con trai. Sau lúc hai người con cụ ở núi mất rồi, hai cháu đưa nhau về làng. Bấy giờ dòng dõi cụ vẫn còn. Nhưng càng năm càng túng quẫn. ( Trích từ LA SƠN PHU TỬ - Hoàng Xuân Hãn ).

Chính vì vậy, khi đặt vị trí mộ mình Núi Bùi thuộc xã Nam Kim dưới chân dãy Thiên Nhẫn ông đã chọn vị trí như vậy .Trước mộ ông là hồ nước Nam Kim trong xanh, phẳng lặng. Theo LA SƠN PHU TỬ - Hoàng Xuân Hãn thì : “Cụ lại còn rất tinh về phong thủy. Hồi bấy giờ ai ai cũng xin cụ đặt ngôi mộ, chọn hướng nhà. Cụ đã chọn hướng từ đường họ Nguyễn | thôn Yên Phúc, làng Yên Hồ và đặt ngôi mộ ông thân sinh người con rể cụ là Nguyễn Duy Hàn ở họ ấy.

Theo Gia phố, mộ ông, bà và cha, mẹ cụ đều cải táng lên làng Nam Hoa, bà táng ở đỉnh núi Lư Sơn, cha, mẹ đều táng ở đỉnh núi Thần. Sơn. Bà vợ táng ở Vĩnh Sơn. Chắc đều là theo thuật phong thủy của cụ cả.”


“Núi Thiên Nhận là một dãy núi ở giáp giới hai huyện Hương Sơn và Thanh Chương. Bây giờ, nửa đông nam giáp địa giới mới của huyện Nam Đàn . Từ Tây Bắc xuống tới ngã ba tuần Tam Soa chỗ hai sông Ngàn Sâu và Ngàn Phối hợp dòng, thì hết. Mạch núi ngăn sông Phố và sông Cả. Hình núi khác thường. Núi trống như núi đất, ít cây cối. Có vô số đỉnh đầu tròn. Những đỉnh ấy rời nhau như những nấm mồ lớn mà lại chắp nối nhau thành cả dãy. Trèo lên cao trông, thấy hình thế như là từng đoàn ngựa chạy. Ai đã qua đây, đều để ý đến sự đó. Trong thơ “Nhớ núi xưa”, cụ đã có hai câu:

Chiu chít liền những núi,

Trông như ngựa chạy vòng.

Ốc Lậu Bùi Dương Lịch có thơ vịnh rằng:

“Đất giáp ba sông hiểm,

Núi hình vạn ngựa phi.

Chương, Hương chia hai ngả,

Lam, Phố hợp ba chi.

Núi có hình ngựa chạy là vì nhiều nhõn (đỉnh núi con có một đầu cao, một đầu thấp. Đầu cao như cổ ngựa cất lên, đầu thấp thì dài lại bầu, trông như hậu bộ ngựa. Nhiều nhõn như vậy xếp xếp thành lớp: hình như đàn ngựa cất cổ, có vó mà chạy đua. Theo tục thường truyền thì núi có chín trăm chín mươi chín nhõn Ở giữa có ba nhõn cao gọi là Tam Thai: nhõn trung ương tên là Động Chủ. Trên nhõn ấy có thành Lục Niên.” ( Trích từ LA SƠN PHU TỬ - Hoàng Xuân Hãn ).

Địa thế nơi đây rất đẹp và Phân kim khu mộ của 2 vợ chồng ông rất chính xác. Nhưng có lẽ vì biết mình hết phước nên thay vì đặt mộ phía dưới chân núi, gần sát hồ nước Nam Kim là nơi kết Huyệt, ông lại mang lên đỉnh núi , nơi mà chỉ có tầm nhìn đẹp nhưng theo (LA SƠN PHU TỬ - Hoàng Xuân Hãn) : “Ngày nay, chúng ta hãy trèo qua núi Thiên Nhận, từ làng Văn Giang sang xã Nam Kim. Lúc ra khỏi cửa thành Lục Niên, ta sẽ thấy trước mặt, về phía Đông Bắc, một ngôi đền cỏn con trên chóp núi không cây. Đó là nhà thờ mà xã Nam Kim đã dựng lên để thờ La Sơn phu tử . Bên cạnh đền, về phía Tây, cỏ mọc gần che lấp ngôi mộ có thành xây gạch vây bọc. Đó là hai ngôi mộ Phu tử và bà chánh thất .”

Mặt khác đây là một quả núi trọc, đất đá khô cằn không Sinh Khí như hình dưới.




Ta cũng chỉ biết vậy mà chưa hiểu được ý của Tiên Nhân. Dienbatn.

Người đời có nhận xét rằng : ” Ta chỉ tiếc rằng một người có đạo đức, có mưu trí, có thực học như Phu tử, mà lúc trẻ thì lỗi thời trẻ, lúc già thì lỗi thời già; cho đến đỗi, ly sông hơn tám mươi năm, mà không gặp một vận hội nào hợp với vì ta nên trách phu tử để lỡ thời cơ, nhưng đứng về phương diện đạo nh tình để thi thố tài trí. Theo thuyết chuộng hành động ngày nay, Tho, thì phu tử đã nêu cao một gương sáng láng.

Sự đặc biệt trong đời phu tử là chỉ lấy đạo làm đèn soi đường tiến nái. Kẻ thì vì nghĩa khí mà tử tiết hay ẩn cư như Lê Huy Trạc, Phạm Quý Thích. Kẻ thì tùy thời mà theo ngay Tây Sơn như Ngô Thì Nhậm, han Huy Ích. Còn phu tử thì ẩn không ẩn hẳn; ra không ra hẳn. Làm gian thì làm quan trên núi trại; nhận chức thì chỉ nhận chức giáo dục quốc dân. Lúc thấy đạo khó đạt thì thôi, không sợ uy quyền, không tổn danh giá.” ( Trích từ LA SƠN PHU TỬ - Hoàng Xuân Hãn ).

3. TỪ ĐƯỜNG.

Nhà thờ ở làng, tuy các người trong họ thuộc các chi khác có giúp đỡ tu bổ, nhưng vẫn sơ sài. Từ đời Duy Tân, mới có sắc Thần. Người họ kể chuyện sau. Lúc được Sắc về, phải nộp hai đồng bạc để lĩnh Sắc. Người tộc trưởng, nghèo quá, chưa kiếm được số tiền ấy, mà phủ quan giục phải lĩnh liền, cho nên lính mang Sắc về và ra đồng xiết cả cái cày của người Tộc trưởng. Người này về nhà, tìm vật gì bán để lấy cày về. Chỉ có cái điêu đẩu, tức cái chuông con bằng gang treo ở nhà thờ là vật đưa đi bán được, bèn đem bán cho một người đàn bà giàu.

Đổi điêu đẩu lấy sắc thần cấp cho cụ! Lúc bình sinh cụ từ cả chức trúng tế, từ cả trăm lạng vàng. Mà sau khi mất lại xảy ra chuyện trên, cụ ở cõi tiên chắc cũng phải buồn cười cho thế tục! Lại nghe nói rằng người đàn bà giàu kia lúc trước lượm được một cục vàng nên mới trở nên giàu có. Cụ từng có làm bài tán “Quản Âu An bừa được vàng không thèm nhìn” (A. 25). Nay có chuyện này, thực là chua chát! Tạo hóa thực hay gây ra những việc oái oăm khôn xiết. Nhưng có vậy mới tỏ được tiết tháo của người quân tử.

(Bây giờ ở làng Yên Phúc, Duy Hàn đậu tam trường là tằng tổ bà nội ký giả.)

 ( Trích từ LA SƠN PHU TỬ - Hoàng Xuân Hãn )

Xin theo dõi tiếp BÀI 18. Thân ái. dienbatn. 

Xem chi tiết…

PHÁC THẢO PHONG THỦY HÀ TĨNH. BÀI 16.

9/12/2021 |

 PHÁC THẢO PHONG THỦY HÀ TĨNH. BÀI 16.


Mở đầu : Sau hơn 20 năm điền dã, lăn lộn khắp nơi trong đất Hà Tĩnh( chút xíu nữa làm rể Đức Thọ), dienbatn đã tạm gọi là hiểu biết một chút về một vùng Địa Linh – Nhân Kiệt này.Cái hiểu biết tuy còn thô lậu, song kết hợp với những tư liệu sưu tầm được qua thực tế và qua đọc sách , dienbatn muốn viết lại một chút làm tư liệu , ngõ hầu như muốn có chút nào đó  đền ơn những người dân thật thà, chất phác và rất tình cảm ở đây đã giúp đỡ dienbatn trong những lần điền dã. Cũng một lần nhận lỗi với một số vị quan chức mà dienbatn đã có dịp phục vụ là dienbatn đã sử dụng tiền các vị đưa cho , sử dụng cho những người nghèo khổ thì nhiều mà thực ra sử dụng cho các vị đó thì ít. May mà những vị đó ngày nay đều thành công ,thành danh. Vậy thì mọi chuyện coi như xí xóa nhé.Chỉ mong những người con Hà Tĩnh khi thành công ,thành danh thì luôn đoàn kết thương yêu nhau , quan tâm giúp đỡ những người dân quê hương mình và làm được nhiều việc tốt cho đất Mẹ Việt Nam. Xin cảm ơn nhiều lắm thay. Dienbatn.


PHẦN I. PHÁC HỌA CHÂN DUNG MỘT VÙNG ĐẤT.

PHẦN II. LONG MẠCH CỦA HÀ TĨNH. 

PHẦN III . HỌ NGUYỄN TIÊN ĐIỀN.

I. ĐI TÌM LAI LỊCH DÒNG HỌ NGUYỄN DU.

II. CÁC PHẦN MỘ CỦA DÒNG HỌ NGUYỄN TIÊN ĐIỀN – NGHI XUÂN – HÀ TĨNH.

3/ LA SƠN PHU TỬ.

1.TÓM TẮT VỀ LA SƠN PHU TỬ - NGUYỄN THIẾP.


Nguyễn Thiếp (chữ Hán: 阮浹, 1723 - 1804) tự Khải Xuyên, là danh sĩ cuối đời Hậu Lê và Tây Sơn trong lịch sử Việt Nam. Ông là người xây dựng Phượng Hoàng Trung Đô, thủ đô mới của Vương triều Tây Sơn.

Ông vốn có tên húy là Minh, tự là Quang Thiếp, sau vì kiêng húy vua chúa nên đổi là Thiếp. Ngoài ra, ông còn có rất nhiều tên tự hay tên hiệu, do ông tự đặt hoặc do người đương thời xưng tặng, chẳng hạn như: Khải Xuyên (có sách chép là Khải Chuyên), Hạnh Am, Điên ẩn, Cuồng ẩn, Lạp Phong cư sĩ, Hầu Lục Niên, Lam Hồng dị nhân, Lục Niên tiên sinh, La Giang phu tử... Riêng Nguyễn Huệ (tức vua Quang Trung) gọi ông là La Sơn phu tử, La Sơn tiên sinh.

Thủy tổ của ông là Nguyễn Hợp, quê ở Cương Gián, Nghi Xuân, trấn Nghệ An. Cụ Nguyễn Hợp có hai người con trai: con trai cả Nguyễn Khai và con trai thứ Nguyễn Hội. Con trai cả Nguyễn Khai lấy vợ lẽ ở làng Nguyệt Ao, tổng Lai Thạch, sinh con cháu rồi lập chi họ Nguyễn ở xã Nguyệt Ao (hay Áo, còn gọi là Nguyệt Úc), tổng Lai Thạch, huyện La Sơn, phủ Đức Quang (nay là xã Kim Lộc, huyện Can Lộc, Hà Tĩnh). Đến đời bố ông là Quản lĩnh Nguyễn Quang Trạch, mẹ là người họ Nguyễn cùng làng, Nguyễn Thiếp ra đời tại làng này.

Ngày 25 tháng 8 năm Quý Mão (1723), Nguyễn Thiếp ra đời và được hấp thu vốn văn hóa đầu tiên từ mẹ. Ông ham học từ nhỏ. Lúc nhỏ, ông và ba anh em trai nhờ mẹ chăm sóc và chú là Tiến sĩ Nguyễn Hành rèn dạy nên đều học giỏi. Ông là người ham đọc sách từ nhỏ.

Năm 19 tuổi (khi ấy Nguyễn Hành đang làm Hiến sát sứ Thái Nguyên), ông ra đó học, rồi được chú gửi cho bạn thân là Hoàng giáp Nguyễn Nghiễm (cha của thi hào Nguyễn Du) dạy dỗ thêm.

Tuy nhiên, chưa được một năm thì Nguyễn Hành đột ngột mất ở lỵ sở, Nguyễn Thiếp phải tự tìm đường về Hà Nội. Đến Đông Anh thì ông ốm nặng, may có người giúp đỡ nên thoát chết nhưng lại mắc di chứng tâm thần. Khi bệnh phát, đầu óc ông hoang mang, không biết làm gì cả. Dù bị chứng tâm thần, Nguyễn Thiếp vẫn tự đấu tranh tư tưởng, kiềm chế được bệnh và chủ động trong vấn đề học tập.

Năm 1743, ông dự thi Hương ở Nghệ An đỗ thủ khoa, nhưng không ở lại dự thi Hội mà đi ở ẩn.

Năm Mậu Thìn (1748), ông ra Bắc dự thi Hội nhưng chỉ vào đến tam trường (kỳ 3). Sau đó ông vào Bố Chính dạy học.

Năm Bính Tuất (1756), lúc này đã 33 tuổi, Nguyễn Thiếp được triều đình mời ra làm chức Huấn đạo (chức quan trông coi việc học trong một huyện) ở Anh Đô (phủ Anh Sơn, tỉnh Nghệ An). Ở đó 6 năm, ông được đổi làm Tri huyện Thanh Giang (nay là Thanh Chương, Nghệ An).

Năm Mậu Tý (1768), Nguyễn Thiếp từ chức, trở về lập trại Bùi Phong dưới chân núi Thiên Nhẫn (Nam Đàn, Nghệ An) để dạy học.


Năm 1775, quân Trịnh chiếm Phú Xuân, Trần Văn Kỷ ra Thăng Long để thi Hội. Khi Trần hỏi Nguyễn Nghiễm, một bậc nguyên lão khả kính về nhân tài của Hoan châu thì được trả lời: "Đạo học sâu xa thì Lạp Phong Cư Sỹ, văn phong phép tắc thì Thám hoa Nguyễn Huy Oánh, còn thiếu niên đa tài đa nghệ chỉ có Nguyễn Huy Tự". Nhân vật mà "đạo học sâu xa", có danh hiệu Lạp Phong Cư Sỹ chính là Nguyễn Thiếp.

Năm 1780, chúa Trịnh Sâm mời ông ra Thăng Long. Gia phả họ Nguyễn ghi rõ ý định của Trịnh Sâm bấy giờ là lật đổ nhà Lê, nhưng ông cương quyết can ngăn. Nhưng chúa Trịnh không nghe. Nguyễn Thiếp chán nản xin cáo từ mà không nhận bất cứ chức tước hay bổng lộc nào. Lúc này Nguyễn Thiếp đã 60 tuổi, trở về trường cũ trong núi sâu và tiếp tục dạy học, nghiên cứu học thuật.

Năm Bính Ngọ (1786), Nguyễn Huệ kéo quân ra Bắc diệt họ Trịnh. Khi về đến Phú Xuân, Nguyễn Huệ viết thư cùng lễ vật ra Nghệ An mời Nguyễn Thiếp về Phú Xuân giúp mình. Nguyễn Thiếp đã khéo léo từ chối. Ông đưa ra 3 lý do để trả lời Nguyễn Huệ, tự nhận mình là một thần tử nhà Lê, tuổi cao, tài hèn sức mọn, không thể giúp gì được.

Tháng 8 năm 1787, Nguyễn Huệ lại cử quan Lưu thủ là Nguyễn Văn Phương và Binh bộ Thị lang Lê Tài ra Nghệ An dâng thư mời Nguyễn Thiếp. Lần này Nguyễn Thiếp cũng khiêm nhường từ chối.

Lần thứ 3, ngày 13 tháng 9 năm 1787, Nguyễn Huệ sai quan Thượng thư Bộ hình Hồ Công Thuyên dâng thư mời Nguyễn Thiếp. Nguyễn Thiếp vẫn thoái thác không đi.

Tháng 4 năm Mậu Thân (1788), trên đường ra Thăng Long trừ Vũ Văn Nhậm, khi đến đất Nghệ An, Nguyễn Huệ đã cử Cẩn Tín hầu Nguyễn Quang Đại mang thư đến mời Nguyễn Thiếp đến hội kiến. Lời thư rất tha thiết, nên ông đành xuống núi nhưng vẫn chưa chịu ra giúp. Hai người rất tâm đầu ý hợp, bàn luận sôi nổi. Cuộc hội kiến tưởng chừng như không dứt.

Cuối năm 1788, sau khi lên ngôi Hoàng đế tại núi Bân (Huế), vua Quang Trung (tức Nguyễn Huệ) kéo quân ra Bắc, đến Nghệ An nghỉ binh, nhà vua lại triệu Nguyễn Thiếp đến hỏi kế sách đánh đuổi quân Thanh xâm lược.

Trong buổi hội kiến lần này, vua Quang Trung hỏi Nguyễn Thiếp: "Hay tin vua Lê Chiêu Thống sang nhà Thanh cầu lụy, vua Thanh cho quân sang đánh, trẫm sắp đem quân ra chống cự, mưu đánh và giữ nước được hay thua, Phu tử nghĩ thế nào?".

Nguyễn Thiếp trả lời: "Bây giờ trong nước trống không, lòng người tan rã, quân Thanh thì ở xa tới mà lòng bọn tướng soái thì huênh hoang tự đắc, chúng không cần biết tình hình quân ta yếu hay mạnh, binh lương và trận chiến sẽ xảy ra như thế nào, còn quân lính thì phân vân không biết là sang đánh hay đến giữ theo sự khẩn khoản của vua Lê... Số quân của Hoàng đế kéo từ miền trong ra chưa đủ để chống đối với quân giặc, mà trở lại chiêu mộ thêm binh thì thời gian không cho phép. Vậy Hoàng đế phải tuyển mộ ngay quân lính ở đất Thanh Nghệ, vì nơi đây là đất thượng võ xưa nay, anh hùng nhiều, mà hào kiệt cũng nhiều".


Khi vua Quang Trung hỏi chiến thuật đánh quân Thanh, Nguyễn Thiếp trả lời: "Người Thanh ở xa tới mệt nhọc không biết tình hình khó dễ thế nào. Nó có bụng khinh địch. Nếu đánh gấp thì không ngoài mười ngày sẽ phá tan. Nếu trì hoãn một chút thì khó lòng mà được".

Diễn biến của trận quyết chiến với quân Thanh quả đúng như dự kiến thiên tài của vua Quang Trung cũng như nhận định chính xác của Nguyễn Thiếp.

Sau đại thắng vào đầu xuân Kỷ Dậu (1789), vua Quang Trung về đến Nghệ An lại mời Nguyễn Thiếp đến bàn quốc sự. Trong bức thư gửi Nguyễn Thiếp, vua Quang Trung thổ lộ: "Trẫm ba lần xa giá Bắc thành, Phu tử đã chịu ra bàn chuyện thiên hạ. Người xưa bảo rằng: Một lời nói mà dấy nổi cơ đồ. Lời Phu tử hẳn có thế thật".

Sau khi Quang Trung đánh đuổi giặc Thanh, Nguyễn Thiếp trở thành một trong những vị học giả được vua tin cậy nhất. Vua biết ông không thích tham gia chính sự nên chỉ nhờ giải quyết những việc có tính chất học thuật và đặc biệt giao hẳn cho ông việc tổ chức nền giáo dục mới.

Ngay tại khoa thi Hương đầu tiên dưới triều đại Quang Trung được tổ chức ở Nghệ An vào năm 1789, Nguyễn Thiếp được cử làm Đề điệu kiêm Chánh Chủ khảo. Ông khuyên nhà vua hòa hoãn với nhà Thanh để tập trung xây dựng đất nước trở thành một quốc gia cường thịnh. Tuy nhiên sau khi giúp vua Quang Trung, Nguyễn Thiếp lại về núi Thiên Nhẫn mà không chịu ở Phú Xuân.

Năm 1791, vua Quang Trung lại cho mời ông vào Phú Xuân để bàn việc nước. Vì cảm thái độ chân tình ấy, nên lần này ông đã nhận lời (trước đó ông đã từ chối 3 lần). Đến gặp, ông đã dâng lên vua Quang Trung một bản tấu bàn về 3 vấn đề: Một là "Quân đức" (đại ý khuyên vua nên theo đạo Thánh hiền để trị nước); hai là "Dân tâm" (đại ý khuyên vua nên dùng nhân chính để thu phục lòng người), và ba là "Học pháp" (đại ý khuyên vua chăm lo việc giáo dục). Tuy là ba, nhưng chúng có quan hệ mật thiết với nhau và đều lấy quan niệm "dân là gốc nước" làm cơ sở. Nguyễn Thiếp viết: "Dân là gốc nước, gốc vững nước mới yên".

Những lời tấu ấy được nhà vua nghe theo. Ngày 20 tháng 8 (1791), nhà vua ban chiếu lập "Sùng chính Thư viện" ở nơi ông ở ẩn và mời ông làm Viện trưởng. Kể từ đó, ông hết lòng chăm lo việc dịch sách chữ Hán ra chữ Nôm để dạy học và phổ biến trong dân. Chỉ trong hai năm, ông đã tổ chức dịch xong các sách: Tiểu học, Tứ thư, Kinh Thi, và chủ trì biên soạn xong hai bộ sách là Thi kinh giải âm và Ngũ kinh toát yếu diễn nghĩa.

Tháng 9 năm Nhâm Tý (1792), vua Quang Trung đột ngột băng hà, sự nghiệp của Nguyễn Thiếp đành dở dang.

Năm Tân Dậu (1801), vua Cảnh Thịnh (con vua Quang Trung) có mời ông vào Phú Xuân để hỏi việc nước. Đang ở nơi ấy, thì kinh thành mất vào tay chúa Nguyễn Phúc Ánh (sau là vua Gia Long). Nghe vị chúa này tỏ ý muốn trọng dụng, ông lấy cớ già yếu để từ chối, rồi xin về trại Bùi Phong.

Ngày 6 tháng 2 năm 1804 (Quý Hợi), danh sĩ Nguyễn Thiếp không bệnh mà mất, thọ 81 tuổi, và được an táng tại nơi ông ở ẩn.


Lăng mộ của cụ Nguyễn Thiếp đến nay còn được bảo vệ nguyên vẹn và là một trong số những ngôi mộ có phong thủy đẹp nhất Xứ Nghệ, được Bộ Văn hoá xếp hạng là Di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia năm 1994.

Tác phẩm của Nguyễn Thiếp gồm có:

La Sơn tiên sinh thi tập: có hơn 100 bài, có tựa của tác giả (theo Phan Huy Chú). Trần Văn Giáp cho biết bản này hiện đã không còn tìm thấy, và theo ông thì nó còn có tên là Hạnh Am thi cảo. Trong cuốn La Sơn phu tử của GS. Hoàng Xuân Hãn có công bố quyển này (gồm 84 bài thơ chữ Hán, có phụ chép một số câu đối, thơ Nôm và các chiếu biểu, do một người vô danh sưu tầm được), và theo như giáo sư nói là "không chắc còn nguyên bản".

Hạnh Am di văn: gồm một số bài văn của Nguyễn Thiếp phúc đáp, cáo từ, trần tình, tạ ơn, v.v...gửi vua Quang Trung. Hiện bản này có trong Thư viện Khoa học xã hội, ký hiệu VHb. 212.

Ngoài ra, theo GS. Nguyễn Lộc trong Từ điển văn học (bộ mới), thì ông còn có: Hạnh Am ký (Ghi chép của Hạnh Am, 1782), Thích Hiên ký (Ghi chép ở Thích Hiên, 1786), bài viết đề ở gia phả, và đề tựa Thạch Động thi tập của Phạm Nguyễn Du...

Nhà nghèo, mẹ già, con đông  nhưng ông không muốn ra làm quan để kiếm chút bổng lộc mà chỉ thích ở ẩn. Tuy nhiên, đọc Hạnh Am thi thảo, bên cạnh những bài ca ngợi thú ẩn dật, vẫn thấy tấm lòng của ông gắn bó với đời, với quê hương, và than thở cho cảnh suy vi của thế thái nhân tình...Nhìn chung, thơ ông giản dị, mộc mạc, được Phan Huy Chú khen là "thơ đều tao nhã thanh thoát, lý thú thung dung, thực là lời nói của người có đức, các tao nhân ngâm khách (khác) không thể sánh được" (Văn tịch chí)

Nền nhà Sùng chính Thư viện hiện còn lưu tại núi Bùi Phong với ngổn ngang gạch xây, đá ong... Di tích còn lại duy nhất là bức tường gạch có khoét hình nguyệt. Ở đó, có thể nhìn ngắm Lục Niên thành (tòa thành của Lê Lợi trong cuộc khởi nghĩa chống Minh) và đập Lục Niên xanh trong. Bên cạnh phế tích, là khu mộ của Nguyễn Thiếp và bà chính thất họ Đặng (song táng) đã được xếp hạng là "di tích cấp Quốc gia".

Sau ngày đỗ đại khoa (Tiến sĩ - 1898) Nguyễn Văn Trình có đến nhà thờ Nguyễn Thiếp (ở xã Kim Lộc, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh) cúng tặng câu đối:

phiên âm:

Lục Niên phu tử hưng trung quốc

Tam thế tằng tôn bái ngoại gia

Phỏng dịch:

Phu tử sáu năm chấn hưng đất nước

Cháu chắt ba đời kính bái ngoại gia

Tên ông được đặt cho con đường tại TPHCM và Hà Nội, nhưng hiện nay đang bị viết sai thành Nguyễn Thiệp. ( Wikipedia ).


1. Sinh, quán.

Cụ sinh năm Quý Mão (1723) đời Lê Bảo Thái thứ 4, vào giờ Thìn, ngày 25 tháng Tám, tại làng Mật Thôn. Làng này thuộc xã Nguyệt Áo, tổng Lai Thạch, huyện La Sơn, xứ Nghệ An (nay là Phủ Đức Thọ, Tỉnh Hà Tĩnh). Đến đời Khải Định, làng này lại đổi thuộc huyện Can Lộc.

Xã Nguyệt Áo ở giữa một cánh đồng bằng, thuộc triền sông Lam, cách về phương Nam chừng mười cây số. Tuy đã gần các chi núi từ dãy Khai Trướng phát ra, nhưng đất đây còn tốt, ruộng nhiều, dân đông (xem bản đồ 1).

Đứng ở làng trông xa, thì tứ phương đều có núi bao bọc. Gần nhất là núi Nhạc Sạc, ở phía Đông Nam, chỉ cách làng chừng một cây số. Nhạc Sạc là con phượng con. Đứng xa từ phía Bắc trông tới, thấy núi hình hai cánh chim đang bay. Vì vậy mà đã đặt tên là núi Phượng. Nhưng, núi thấp, chỉ cao chừng 70 mét, phượng hoàng này chỉ là phượng con. Tên Nhạc Sạc có vì lẽ ấy. Núi Nhạc Sạc tiêu biểu cho làng cụ. Trong, thi văn, cụ thường nhắc đến luôn.

Phía Đông Bắc xã, có núi Hồng Lĩnh, cách đó chừng sáu cây số . Núi này không những là một dãy núi cao, mà còn tiêu biểu cho cả vùng Hoan Châu. Trên núi có nhiều nơi danh thắng. Cũng như các tao nhân thi khách khác, cụ đã từng nhiều lần lên thăm núi ấy.

Xa về phía Bắc, ta trông thấy núi Nghĩa Liệt, mà cụ gọi là núi Liệt Sơn. Núi này là Bắc ngạn sông Rum (Lam Giang), cho nên cũng có tên là rú Rum, hay là Lam Thành sơn, vì trên núi có thành quân Minh đắp. Núi không cao lắm, và ở cách làng chừng mười hai cây số. Trông lên thấy một dãy xinh xinh, như một con vật dài, đầu cao, đuôi nhọn. Núi Liệt Sơn này sẽ có liên quan đến đời сụ nhiều lần.

Núi có duyên khăng khít với cụ hơn hết là dãy núi Thiên Nhận, ở xế về phương Tây Bắc, cách xã Nguyệt Áo chừng hai mươi cây số. Đứng làng cụ trông lên, ta còn thấy một dãy nhấp nhô những đỉnh đầu tròn, màu vàng buổi sáng, khi ánh mặt trời soi thẳng tới, màu tím lúc ban chiều, khi mặt trời gần khuất sau dãy núi Giăng Màn. Núi Giăng Màn này, tức là núi Khai Trướng, chia ngăn đất Hoan Châu và xứ Lào. Núi cao, án sau dãy núi Thiên Nhận, chạy dọc theo chân trời từ Nam chí Bắc. Lúc nào sắc cũng xanh, như một bức màn xanh, trương ra để làm nổi màu vàng hay tím của núi Thiên Nhận. Ngày sau, cụ bỏ quan về ở ẩn trên núi Thiên Nhận trong hơn bốn mươi năm. Biết bao phen cụ đã trông về góc trời Nam, nhìn mây vàng trên núi Nhạc Sạc, mà nhớ đến mẹ già, làng cũ.

Gần làng cụ, cũng có những dãy núi rừng, cây cối um tùm. Ấy là Trà Sơn và Bột Sơn, lớp trong lớp ngoài, trông như hai bức bình phong án ngự phía Tây Nam. Bột Sơn thấp ở trước, Trà Sơn cao ở sau. Trà Sơn có đỉnh bằng ngang, trông như hình chữ nhất. Ngày sau, khi La Sơn phu tử phải xa nhà ở phía Nam dãy núi Hoành Sơn, cụ sẽ nhắc đến hai núi Trà, Bột ấy.

Với con mắt người ưa cảnh, thì cảnh trí vùng này đủ làm vừa ý. Nhưng đối với các nhà phong thủy, thì các núi Phượng, núi Hồng, núi Trà, núi Bột đều là những yếu tố thiêng liêng làm cho nhân vật các làng ở đây như Vĩnh Gia, Trường Lưu, Nguyệt Ao, Kiệt Thạch đều rất thịnh.

1. Ở bản đồ sở Địa dư Đông Dương, tên núi này đều là núi Sơn Huy, vì có làng Sơn Huy ở cạnh núi. (*) tức núi Thiên Nhẫn, âm người Nghệ Tĩnh vẫn thường đọc ra Nhận (dấu ngã ra nặng) - BT.

2. Gia thế.

Quả thật vậy, họ Nguyễn ở Mật Thôn, trong suốt ba trăm năm ở triều Lê, đã có thể liệt vào hàng cự tộc trong xứ.

Nhưng họ ấy nguyên không ở làng này. Trước đời Lê Thánh Tông, làng Cương Gián, thuộc huyện Nghi Xuân, về phương Đông Bắc xã Nguyệt Áo, bên kia núi Hồng Lĩnh, và kề bể Đông Hải.

Trong đời Lê Thánh Tông, họ Nguyễn có một người theo nghề võ. Vì lập công trong cuộc đánh Chiêm Thành (1472), người ấy được phong tước. Sau đó, Vua sai đi bắt voi trắng trong núi Trà Sơn. Cho nên ông có nhịp qua làng Mật Thôn, trú binh ở đó. Ông chọn con gái họ Võ ở sở tại làm hầu. Bà sinh được một con trai, và cùng con ở lại Mật Thôn. Vì thế mới có chi họ Nguyễn ở đó. Gia phổ họ Nguyễn chép ông võ tướng kia làm Thủy tổ. Sau khi ông mất, được tặng tước.

quận công, và ban huy hiệu Lưu Luận Công.

(*) tức dịp - BT.

Tại làng, Mật Thôn, họ Nguyên phát đạt chóng  . Cháu nội Lưu quận công, là Bật Lăng, đậu Hoàng giáp ở triều Lê, khí Lê chống Mạc, đóng đô ở Thanh Hóa, Từ đời Bật Lăng về sau, họ Nguyễn trở nên một họ vừa có văn học, vừa giàu có, Nhiều kể trong họ thi đậu tam trường, tứ trường hoặc nạp thóc vào Công khố để lấy phầm hàm.

Đến đời thứ chín, vào khoảng đầu thế kỷ thứ XVIII, lại có nhiều kể nối danh Chú La Sơn phu tử, là Hành, đậu tiến sĩ khoa Quý Sửu (1733), Chính ông đã đỡ đầu cho cụ trong thời kỳ còn bé.

Con như thân phụ cụ thì không có gì đặc sắc. Nhờ mẹ làm nên giàu có, nộp thóc vào kho, cho nên ông chỉ được một hư hàm nhỏ mà thôi. Trái lại, thân mẫu cụ là con gái họ Nguyễn Huy ở xã Trường Lưu, là một họ rất lớn, có văn học nổi tiếng đương thì . Chắc rằng ảnh hưởng bà đối với cụ là to. Bà sinh được bốn trai, ba gái. Phu tử là con trai thứ ba. Các anh em đều học hành giỏi. Ấy là nhờ mẹ chăm nom. Trong thơ văn, cụ thường nhắc đến mẹ,

Nói tóm lại, Nguyễn Thiếp sinh trưởng trong một đại gia đình có học, có của. Lại được có thầy, có bạn trong nhà. Với tư chất thông minh, cụ có đủ những điều kiện để trở nên một người hay chữ, và có lễ một người hiển đạt về sau. Nhưng như ta sẽ thấy, cụ sẽ vượt ra khỏi khuôn sáo thường, mà trở nên một nhà hiền triết.


3. Mất.

Lần này, cụ được ở yên trên núi. Bấy giờ là cuối năm Tân Dậu (1801). Cụ 79 tuổi. Hai năm sau, ngày 25 tháng Chạp năm Quý Hợi (đầu năm 1804), cụ không bệnh mà mất. Bấy giờ vào giờ Hợi. Cụ thọ 81 tuổi. Trong hai năm ấy, ta không thấy đâu chép đến cụ nữa. Tập HATC không có một bài thơ nào làm cho ta biết tâm tình cụ trước lúc mất.

Các con đưa táng cụ ở chỗ nhà thường ở, trên núi Bùi Phong.

4. Con cháu.

Cụ sinh được năm trai, bốn gái. Con trai là: Mạnh Thuyên, Trọng Khách Thúc Khải, Quý Ngộ, Thúc Hằng (xem bảng thế hệ, trang 50). Các con gái là Đoàn, Khoản, Vi và Vu. Đoàn lấy Nguyễn Duy Hàn, nho sinh ở làng Bình Hồ (La Sơn). Khoản lấy Hoàng Đình Chính, sinh đồ ở xã Cát Ngạn (Thanh Chương). Vi lấy Hồ Trí Sự, người xã Phúc Đường Hương Sơn). Và Vu lấy Ta Lương Đông, người làng Hoành Sơn (Thanh Chương).

Các con trai gặp thời loạn lạc, gia kế túng bần, nên không thấy ai thi đậu, làm quan. Không những thế, sau lại bị suy đồi lắm. Người con cả không có con trai. Con thứ hai là Trọng Khác lấy con gái ông Huyện Thanh Ba họ Hồ người Phù Lưu, cũng không con. Con thứ ba, Thúc Khải, lúc ít tuổi bị chết đuối. Con thứ tư, Thúc Hằng, theo cụ lên ở núi Thiên Nhận tại núi Khê Sơn, cũng bị chết đuối, ông có một con trai. Con trai út là Quý Ngộ, cũng lên ở núi Thiên Nhận, có một con trai. Sau lúc hai người con cụ ở núi mất rồi, hai cháu đưa nhau về làng. Bấy giờ dòng dõi cụ vẫn còn. Nhưng càng năm càng túng quẫn.

2. TỔ TIÊN GIA THẾ LA SƠN PHU TỬ NGUYỄN THIẾP.

1. Lưu quận công.

Gia phổ họ Nguyễn chép:

“Xưa truyền lại rằng ở huyện Nghi Xuân, làng Cương Gián, thôn Tiền, ông Nguyễn Lưu, tiểu húy không rõ, có tài lực hơn người, tinh thông võ nghệ. Khoảng đời vua Hồng Đức, ông thi đấu võ cử, rồi thăng chức vụ lâm quân chỉ huy sứ. Lúc ông theo Vua vào đánh miền Nam, có công phá giặc núi Thần Đầu *. Lúc khải hoàn, Vua ban thưởng, ông được phong tước hầu. Khoảng đời Vua Cảnh Thống, tại châu Nghệ An, huyện La Giang, trang Lai Hữu, có voi trắng. La Giang tức là La Sơn, Lai Hữu tức là Lai Thạch. Tục truyền rằng voi trắng núi Trà Sơn. Quan ở Nghệ An bắt không được, tâu về triều. Vua sai ông về bắt được. Lúc đưa quân về qua làng Nguyệt Ao, thôn Nguyễn Xá, ông thiết tiệc, đặt nhạc. Lúc bấy giờ gặp con gái họ Võ có tư sắc, ông hỏi lấy, rồi sinh ra ông Tú Lâm. Lúc ông Tú Lâm đã thành đồng ( 19 tuổi ), ông mất. Vì trước ông có công nên được gia tăng tước công. Vì vậy sau thế truyền gọi ông là Lưu quận công”.

Xem thế thì ông Thủy tổ La Sơn phu tử là một bậc danh tướng chức làm đến Chỉ huy sứ, tước tặng quận công. Quê không phải ở làng Nguyệt Ao là làng của họ Nguyễn bây giờ, mà là làng Cương Gián ở huyện Nghi Xuân, bên kia núi Hồng Lĩnh.

Núi Hồng Lĩnh “chín mươi chín nhõn” thật là một thắng cảnh ở Hoan Châu, vùng quanh chân núi đã sản xuất biết bao nhiêu danh nho, danh tướng. Huyện Nghi Xuân ở phía Đông Bắc núi, một bên có núi, một bên có bể Đông Hải. Phía Bắc, sông Lam làm giới hạn. Cửa sông Lam là cửa Hội (Hội Thống). Trước cửa có hai hòn đảo, trông xa như hình hai con cá dỡn sóng, nên gọi là Song Ngư. Các nhà địa lý ở Hoan Châu đã để mắt tới Song Ngư, và Hồng Lĩnh. Từ xưa đã có câu hát (dịch):

Hồng Lĩnh chon von, Song Ngư bát ngát.

 Nếu gặp thời minh, Nhân tài đua phát”.

Chú thích : 1. Nghi Xuân bây giờ thuộc Hà Tĩnh, quê cụ Nguyễn Du. 2. Vũ lâm quân (xem CM 20/60, 33a, 3a); gia phổ chép chữ Uũ là lông ra võ, đội quân đặt ra đời Lê Thái tổ (LTHC). Đời Hồng Đức thứ 7 (1476) dùng làm thân tùy (CM 27/3a). 3. Năm Hồng Đức thứ 2 (1472), vua thân chinh đánh Chiêm Thành. 4. Núi Thần Đầu ở huyện Kỳ Hoa, nay Kỳ Anh, gần bể (Hà Tĩnh).

2. Ở làng quê Nguyễn Thiếp.

3. Tên một viện ở đời Hồng Đức. Con các quan vào đó để học (xem CM 23/6a). Gọi tên là Tú Lâm, vì dùng tên ấy mà gọi học trò của viện ấy, như đời sau gọi các giám sinh là ông Giám. Có lẽ Tú Uyên trong chuyện Bích câu kỳ ngô là một tú lâm, chứ không phải tú tài.

3. Đồng là dưới 19 tuổi.

4. Tục truyền: Núi Hồng Lĩnh có 99 nhón: có 100 con phượng hoàng bay tới đậu. Thiếu mất một chỗ, nên tất cả đều bay mất! Thật ra, Hồng chỉ là lớn. Xem bản đồ số 3.

6. Xem chú thích bài Hoan Châu.

Làng Cương Gián này, Đông trông ra bể, tay tựa vào quả núi Cầm Sơn (thuộc Hồng Lĩnh), lại là một thắng địa trong miền. Chỉ vì sự tình cờ mới có chi họ Nguyễn Sang ở Nguyệt Ao.

Con ông Lưu quận công là ông Tú Lâm. Tú Lâm là con bà họ Võ đã nói trên kia. Chắc ông chỉ huy sứ lúc đi qua làng, thấy cô gái đẹp thì lấy làm hầu, nên con mới ở quê mẹ. Gia phổ chép:

“Sau lúc ông Tú Lâm khôn lớn, lại lấy vợ họ Võ ở thôn Nguyễn Xá. Có kẻ nói họ Tô. Nhân thế ở đó”.

Từ đời ông Tú Lâm, họ Nguyễn thành người làng Nguyệt Ao, thôn Nguyễn Xá , tổng Lai Thạch, huyện La Giang, thừa tuyên Nghệ An.

2. Nguyễn Bật Lãng.

Ông Tú Lâm sinh được sáu con. Trong số đó có ông Nguyễn Bật Lãng (xem bảng thế hệ, trang 50), đậu Hoàng giáp chế khoa.

Gia phổ chép:

“Ông thiên tính minh đạt, thấy rộng, biết nhiều. Lúc lớn lên, vì văn học mà nổi tiếng trong châu quận.

Đang lúc vì ông Tú Lâm mất, ông đóng cửa chịu tang, thì Mạc chiếm Đông Kinh. Vua chạy vào Thanh Hóa. Mở chế khoa chọn sĩ. Vì tổ tiên thờ Lê, nên ông bèn ứng thí.

Chú thích :

1. Có lẽ vì họ Nguyễn này mà sau mới có tên Nguyễn Xá chăng?

2. Nay là huyện La Sơn, tỉnh Hà Tĩnh, tên xã và tổng không đổi. Đời Khải Định, lại cho tổng này vào huyện Can Lộc.

3. Năm Đinh Hợi (1527), Đăng Dung giết vua Chiêu Tông và Hoàng đế Thung rồi xung Đế. Nguyễn Kim tụ tập binh sĩ ở Sầm Châu (Ai Lao). Rồi năm Quý Tỵ (1533) tôn con Vua Chiêu Tông là Hoàng tử Ninh lên làm Vua, lấy hiệu Trang Tông. Đến năm Bính Ngọ (1546), mới lập hành điện ở Vạn Lại, ở phủ Thiệu Hóa, huyện Thụy Nguyên, tỉnh Thanh Hóa (CM 27/42a). Năm Quý Sửu (1553), dời sang Yên Trường này thuộc phủ Thọ Xuân (Thanh Hóa).

Năm Gia Thái thứ 5, khoa Đinh Sửu, ông đậu chế khoa. Xét khoa ấy, trung cách có năm người, ông đậu thứ hai. Những người kia: Lê Trực Tủ người huyện Lôi Dương, Lê Phúc Nhạc người huyện Kỳ Hoa, Hồ Binh Quốc người huyện Thiên Lộc, Nguyễn Hoàng Từ người huyện Thạch Hà, đều là bạn đồng khoa của ông vậy. Ngày vinh quy, ông dựng nhà ở Mật Thôn. Ông lần lượt nhậm chức Tản trị thừa chính sứ ở hai lộ Thuận Hóa và Quảng Nam, và có nhiều chính tích.

Khoảng năm Quang Hưng, Thái úy Nguyễn Hoàng cùng cháu là Trịnh Tùng hội binh chư hầu đánh Mạc, rước Vua về kinh. Vua bèn triệu ông về, cho ông làm chức Thái thường tự tự khanh, chức này giữ việc tế lễ. Chưa được bao lâu, Nguyễn Hoàng lấy cớ già xin về. Vua cho con Nguyễn Hoàng là Nguyễn Phúc Nguyên thay lĩnh tướng sĩ. Phúc Nguyên với Trịnh Tùng vốn ghét nhau, bèn ra giữ miền Nam, tức là đất Quảng Hóa, Thuận Hóa, Định Viễn. Nhân thể các phiên thần chống cự Trịnh kịch liệt. Phiên thần bấy giờ, ở tây có họ Vũ, ở bắc, họ Trần, họ Sầm và họ Xà. Vua bảo chẳng được, thế mỗi ngày một phân tranh.

Chú thích :

1. 1576.

2, Lôi Dương ở Thanh Hóa; còn Kỳ Hoa, nay là Kỳ Anh; Thiên Lộc nay là Can Lộc và Thạch Hà đều ở Hà Tĩnh bây giờ. Theo Nghệ An chí của Bùi Dương Lịch thì Lê Phúc Nhạc ở làng Dư Lạc, đậu chế khoa làm quan đến Lễ bộ tả thị lang, tước Hầu; Hồ Binh Quốc ở làng Bình Lãng đậu đồng chế khoa, làm quan đến Lại bộ tả thị lang, tước Nam; Nguyễn Hoàng Từ ở làng Phật Não, đậu chế khoa, làm quan đến Lại bộ hữu thị lang.

3. Mật Thôn là làng họ Nguyễn bây giờ.

4. Thuận Hóa bấy giờ là kiêm cả miền Nam Quảng Bình, Quảng Trị và Huế bây giờ. Quảng Nam kiêm Quảng Nam, Quảng Nghĩa, một phần Bình Định bây giờ (xem Phương Đình địa dư, 23 và 12).

5. Năm Quý Tỵ (1593).

6. Có lẽ đây là nói chuyện Nguyễn Hoàng về Thuận Hóa, năm Canh Tý 1600. Nhưng theo CM thì Nguyễn Hoàng ở Thuận Hóa ra Thăng Long năm Quý Tỵ (1593). Đến năm Canh Tý (1600), nhân có bọn Phan Ngạn nổi loạn, ông đưa quân về Thuận Hóa. Kỳ thật, thì ông thấy Trịnh Tùng chuyên quyền, nên ông không muốn ở lại.

Ông dâng sớ xin về. Vua xuống chiếu ưng thuận. Ngày về, triều đình biếu vàng bạc, ông từ không nhận. Ở nhà mấy năm, vui với thư cầm. Lấy kinh truyền dạy con cháu, đưa việc cày dệt dạy nổ tỳ,ngày ngày cùng các điền ông da lão bàn chuyện cày ruộng, chân tằm; chỗ nào chưa biết thì ông giúp bày vẽ.

Ông thường nói với con cháu rằng: “Nhà Lê suy yếu, bọn tôi mạnh tranh nhau cầm đầu. Sự loạn sinh ra chẳng phải chỉ một ngày. Họ Nguyễn tuy hèn, nhưng là bầy tôi cũ. Còn họ Trịnh, tiếng làm tướng Lê, thật là cừu địch Lê vậy. Chúng mày, hoặc đứa có tài, có thể làm quan được thì nên theo họ Nguyễn. Đời trước, chúa Nguyễn đều người trung nghĩa”, con cháu sau này ắt có lúc nổi khá. Nếu không có tài, thì chăm việc ruộng vườn, để đủ ăn mặc. Nếu văn tự khá thông, thì ứng thi để khỏi đi lính, đi phu: cốt là may chi khỏi thẹn với tiếng con cháu nhà quan thanh bạch mà thôi. Nếu tham phú quý, a phụ kẻ quyền gian, để mang tiếng hậu thế chê bai, thì không phải nòi ta vậy.

Vì thế, cho nên sau lúc ông mất rồi, cháu đích tôn là Bật Khang theo chúa Nguyễn vào Nam, không trở về nữa...”. Nguyễn Bật Lãng được phong tước Nam, và đến đời Duy Tân và năm Khải Định thứ 9 được phong trung đẳng tôn thần”.

Chú thích :

1. Họ Nguyễn là chúa Nguyễn.

2. Đời Đinh Có Nguyễn Bặc là một công thần, được ban quốc tính nên cũng có tên là Đinh Bắc. Đời Lê Thánh tông, con gái họ Nguyễn được phong làm Trường Lạc hoàng hậu, sinh Lê Hiến tông, đời Lê Tương Dực em bà là Thừa tướng Nguyễn Văn Lang được phong Vương và được vua đúc tượng vàng để tặng sau khi mất. Nguyễn Hoằng Du là Con Văn Lang, Nguyễn Kim là cháu và Nguyễn Hoàng là chắt.

Tổ tiên La Sơn phu tử đều ăn lộc nhà Lê. Võ tướng, văn thần đều chịu ơn Lê. Lúc Nguyên - Trịnh mới bắt đầu phân tranh, mà ông Bật Lãng đã hiểu rõ thời thể, dặn con cháu kỹ càng như vậy. Chả trách gì về sau, Nguyễn Thiếp không chịu giúp chúa Trịnh.

Kể từ đời Lưu quận công đến Bật Lãng, có ba đời. Đời thứ tư, không có ai hiển đạt. Nhưng trong nhà vẫn phong phú. Đời Lê, năm nào mất mùa đói kém, có lệ cho nhà giàu nộp thóc để lấy chức quan; thường hay cấp chức Huyện thằng là chức Phó tri huyện chuyên việc tuần phòng. Gia phổ trích rằng : Chức Huyền thằng là chức lấy tiền mua được, cũng như chức Bá hộ ở Nguyễn triều.

Chú thích :

1. Đoạn này ở Gia phổ là do người đường đế La Sơn phu tử tên là Nguyễn Danh Dương, năm Cảnh Hưng Giáp Tuất (1754) chép lại theo những lời của bố là ông tiến sĩ Nguyễn Hành. Nguyễn Danh Dương nói thêm rằng: “Sợ lâu ngày rách cũ mà người sau không được biết, tiêu ta kể lại”. Vậy lời chép này có thật, chứ không phải về sau vì nhà Nguyễn được làm vua mà mới bịa đặt ra. 2. Theo NAC của Bùi Dương Lịch.

3. Theo Gia phổ và sắc thần.

4. LTHC nói rằng: việc này bên Tàu có từ đời Tây Hán. Ở nước ta đời Trần Du tông Đại Trị thứ 5 (1362) mới có. Đời Lê Thánh tông Quang Thuận nguyên niên (1460), định từ 200 thạch trở lên được thưởng hàm Chánh thất, từ 150 hộc được thưởng Tùng thất; từ 100 thạch được thưởng Tùng bát và các con khỏi đi lính. Năm Cảnh Thống thứ hai (1499), Bảo Thái thứ hai (1721), Vĩnh Hữu thứ 5 (1739), nhiều lần sửa đổi lệ ấy (xem LTHC và CM). Từ đời Dự tông, Bảo Thái lại thêm lệ nộp tiền. Năm Vinh Hữu thứ 5 định lệ nộp tiền rất rõ ràng (LTHC), người làm quan nộp 500 quan được thăng một trật, người chưa làm quan nộp 2.500 quan được chức phụ quan vân vân...

5. Huyện thằng chứ không phải Huyền thừa. Khang Hy tự điển thích: đọc lái: Thi lăng. Có lẽ vì xưa cho rằng gọi ông thắng tướng là vô lễ mà gọi Thừa tướng chăng? Tục truyền rằng ở Hoan Châu đời trước có một quan huyện thằng ra cho một cô bé con, có tiếng thông minh, câu đối rằng: “Học trò là học trò con tóc bỏ lon xon là con lọc trò”. Cô bé đối lại rằng: “Quan huyện là quan Huyện thằng, từ kiện nhung nhăng là thằng quan luyện”. Xem đó đủ biết phải đọc là huyện thằng mới đúng.

Chính trong họ Nguyễn, nhiều người có chức Huyện thẳng. Đó chứng rằng con cháu Bật Lãng bấy giờ trong nhà có của. Con trưởng ông là Đình Giản có chức Huyện thằng, con thứ hai làm Chánh tổng tên là Bật Thư (xem bảng thế hệ, trang 50).

Đời thứ năm, có ba người nho sinh trúng thức (con nhà quan đậu tam trường), hay hiệu sinh trúng thức (con dân đậu tam trường)”. Riêng ông Bật Phụ làm đến Huấn đạo ở phủ Thuận An (ngày nay là Thuận Thành, thuộc Bắc Ninh).

Đời thứ sáu có ba hiệu sinh trúng thức. Đời thứ bảy có một hiệu sinh trúng thức. Đời thứ tám cũng có một hiệu sinh trúng thức.

Vậy từ đời ông Thái thường tự tự khanh Bật Lãng đến đời thứ tám, trong khoảng một trăm ba mươi năm, đời nào cũng có người đậu đạt. Chỉ trừ đời con ông Bật Lãng mà thôi.

Đời thứ chín là đời thân sinh Nguyễn Thiếp, lại là đời rất thịnh. Ông Hiển Phát đậu hương giải, nghĩa là như cử nhân ở Nguyễn triều, làm quan đến Tri phủ, và chú ruột cụ là Nguyễn Hành đầu tiến sĩ khoa Quý Mùi đời Long Đức (1733).

Đời thứ mười là đời Nguyễn Thiếp. Tuy không có ai đậu đại khoa, nhưng có tới mười người đậu tam trường và cụ đậu hương giải. Trong số đó, hai người anh em ruột của cụ, ba người đường để con ông tiến sĩ Nguyễn Hành, và hai em họ con ông Tri phủ Hiển Phát,

Nay nói về hai chú La Sơn phu tử là ông hương giải Hiển Phát và ông nghề Hành.

Chú thích :

1. LTHC chép: Lê Thánh tông Quang Thuận đổi chức Vận chuyển ra Tri huyện và chức Tuần sát ra Huyện thằng.

2. Gia phổ cũng có chú thích như vậy (xem CM 2A/21a và 19/27a).


3. Nguyễn Hiến Phát.

Gia phổ chép:

“Ông Hiển Phát đậu năm Canh Ngọ (1750), tuổi bốn chục. Ông sung chức Quốc tử tư nghị. Thời bấy giờ có Nguyễn Phi Thức người Việt Yên, huyện Lạ Giang, Võ Đăng Đài người huyện Thiên Lộc, Trần Danh Tố người phủ Thạch Hà, cùng ông kết bạn. Văn học nổi tiếng. Người bấy giờ gọi là “Nghệ An tứ hổ”. Năm Kỷ Mão (1759), đổi làm nho học huấn đạo ở phủ Trường Khánh. Hai khoa Giáp Tuất (1754) và Quý Vị (1763), hai lần được trúng xuân vi, năm Ất Dậu (1765), nhận chức Tri huyện Yên Khang. Năm Tân Mão (1771) thăng Tri phủ Anh Đô°. Đến tuổi bèn về hưu. Ông tính thật thà giản dị... Giữ mình liêm và tinh; làm quan, thanh và cần. Trị gia thì nghiêm, tiếp vật thì hòa. Lúc làm chính thức, vì có tiếng làm quan tốt, các quan viên châu huyện nhiều lần xin lưu lại, nên thăng trục không nhiều. Ông mất năm Giáp Thìn (1784), thọ 74 tuổi”.

4. Nguyễn Hành.

Chú ruột La Sơn phu tử là ông nghè Nguyễn Hành. Gia phổ chép: “Ông sinh năm Canh Thìn (1700). Tính người ôn hòa, thuần cẩn, chăm học, giỏi nổi tiếng. Năm 24 tuổi, đời Bảo Thái thứ 4, khoa Quý Mão (1723), ông đậu hương giải. Đến năm Long Đức thứ 2, khoa Quý Sửu (1733), đậu đồng tiến sĩ.

Chú thích :

1. Không biết chức này vào hàng nào, có lẽ là quan nhỏ ở Quốc tử giám. 2. Đậu tiến sĩ khoa Bính Dần Cảnh Hưng thứ 7 (1746). 3. Thuộc Lạng Sơn (PĐĐD,5/48b). 4. Thi hội.

5. Huyện Yên Khánh bây giờ, thuộc Ninh Bình (PĐDD 5/6a). 6, Anh Sơn ở Nghệ An bây giờ (PĐĐD 3/21a).

Bấy giờ ông 34 tuổi . Lúc vinh quy về, làm nhà ở Mật Thôn. Ông làm quan đến chức Hàn lâm, Đông các hiệu thư. Tuy vậy, tự vui với sách vở, ông không theo uy quyền. Bổng ít, việc nhàn, đến nỗi ông phải đem của nhà đi ăn. Đến lúc Trịnh Doanh tôn vua Cảnh Hưng lên ngôi (1740), chúa bèn tâu cho ông làm Hiến sát sứ ở Thái Nguyên. Ông làm quan thì ngày ngày sân ít việc quan, việc kiện, nhà nhiều bạn sách, bạn thơ, đối với khi ở hàn lâm, chẳng khác gì. Chưa được hai năm, ông mất ở nhậm sở, vào ngày mồng 2 tháng Năm năm Nhâm Tuất (1742). Ông hưởng thọ 43 tuổi...

Hiệu ông là Nguyệt Khê tiên sinh. Ông có con gái tên Đoạn lấy ông lại khoa cấp sự Nguyễn Huy Kiên người Trường Lưu, xã Lai Thạch”.

5. Nguyễn Danh Dương.

Hàng bày vai với Nguyễn Thiếp có mười người đậu tam trường. Trong số đó, có con đầu ông nghè Đông các là xuất sắc và tính thích hợp với cụ hơn cả. Ấy là Nguyễn Danh Dương, hiệu Kiều Dương cư sĩ. Gia phổ chép:

“Ông lấy con gái út ông Thái bảo Nguyễn Đức Nhuận ở Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, cũng là em gái ông Tướng quốc Nguyễn Nghiễm. Ông thiên tự mẫn tuệ, văn từ thanh hào. Sớm đậu nho sinh trúng thức, nên tiếng nổi khắp vùng bàng

châu. Lúc bấy giờ, nhà Lê suy vị; quyền thần chuyên chính, Ông biết rằng ra đời cũng chẳng làm gì được, bèn không lấy công danh làm để ý.

Chú thích :

1. Chánh lục phẩm. Chức Đông các giữ những việc làm chế biểu, thi ca, văn và nhuận sắc thi văn của vua, hoặc tiến thi văn để vua xem (LTHC 14).

2. Hiến sát sứ, coi việc hình ở các thừa tuyên. Đời Hồng Đức thứ 2 (1471) đặt ra, vào hàm chánh lục phẩm (LTHC 14).

3. Kiên là em ruột thám hoa Nguyễn Huy Oánh. Năm 1747, mới có 13 tuổi đậu tam trường, năm 25 tuổi đậu tứ trường. Năm 1774 trúng ngự đề. (Lai Thạch tân khoa ký và Gia phổ họ Nguyễn Huy).

Lúc bấy giờ có Nguyễn Hữu Cầu, vì thua trận bí đường, phải chạy vào xứ ta. Vì châu quận bị việc binh khổ sở, nên ông tới yết kiến tướng Trịnh là Phạm Đình Trọng để bày kế bắt Hữu Cầu. Đình Trọng muốn cất nhắc cho, nhưng ông cố từ để tránh sự làm quan. Từ đó, trong chậu huyện ai ai cũng trọng. Ông ở nhà cày ruộng, đọc sách, sớm tối vui nhàn. Thường ống nói với bà vợ rằng:

Tôi ở đời bốn mươi năm ắt là sẽ trông Đồng sơn mà khuất. Bà thì bị việc đời bận rộn còn lâu. Tôi thật lấy làm thương lắm”. Kịp đến năm 40 tuổi, ông bị chứng đau bụng rồi mất. Ông sinh năm Giáp Thìn (1724), sau Nguyễn Thiếp một năm, và mất năm Quý Vị (1763).

Chính ông Nguyễn Danh Dương chép lại một đoạn gia phổ họ Nguyễn. Nguyễn Thiếp còn để lại một bài thơ (A. 6) gửi cho ông, khi cụ ở Bố Chính (Quảng Bình).

Chú thích :

6. Nguyễn Bật Xuân.

Tổ phụ La Sơn phu tử là Bật Xuân. Lúc ít tuổi ông ham văn học,

1. Quận He.

2. Người Hải Dương, đậu tiến sĩ. Vì Cầu đào mộ mẹ mình, nên Plạnh Đình Trọng quyết rửa thù cho được. Đánh nhiều trận làm Cầu thua. Sách CM (41/5b) chép rằng Cầu trốn vào Nghệ An. Đình Trọng kéo quân tới, chúng thua chạy tan. Cầu toan vượt bể về. Bị bão. Lên bộ và trốn ở núi Hoàng Mai, bị tướng Đình Trọng là Phạm Đình Sĩ bắt (1751). Cầu bị bắt ở Bào Giang (Quỳnh Lưu phong thổ ký).

Đình Trọng sau sung chức Nghệ An đốc suất (1751-1753). Có lẽ trong thời kỳ này, ông muốn dùng Danh Dương.

6/ Nguyễn Bật Xuân.

Tổ Phụ La Sơn Phu Tử  là Bật Xuân. Lúc ít tuổi ông ham văn học ,thi mãi không đậu. Nhà vốn giàu. Trong làng bắt ông ra lính. Bà mẹ thương con yếu, thuê người trong họ là Bật Ngạn thay cho. Năm Chính Hòa Quý Vị (1703), mùa mất, dân sự đói lắm. Triều đình ra lệnh cho dân nộp lúa để được bổ làm quan. Ông bèn nhận chức Kính tiết tướng quân Hổ bồn vệ phó quản lĩnh. Chưa được một năm thì mất. Lúc bấy giờ, ông 36 tuổi.

Ông sinh được ba trai, trong đó có thân phụ La Sơn phu tử và ông nghè Nguyễn Hành (xem bảng thế hệ, trang 50).

Bà vợ trẻ tuổi ở góa nuôi con, ăn ở rất có đức. Cho nên ông Nguyễn Nghiễm là bạn ông nghè Nguyễn Hành và là anh vợ ông Danh Dương có làm bài bia; nay còn bia ở nhà thờ lớn họ Nguyễn. Bia ấy chép rằng:

“Thần vu bị ký (bài ký ở bia đặt tại nhà thờ).

Xưa, ông Kính tiết tướng quân Hổ bồn vệ phó quản lĩnh họ Nguyễn, húy Dữ, tự Bật Xuân, tên thụy Cung Chất phủ quân. Sinh năm Kỷ Dậu (1669), mất năm Ất Dậu, ngày 12 tháng Tám. Tổ tiên ở làng Cương Gián, huyện Nghi Xuân. Tổ sáu đời là Nguyễn*..., đậu tiến sĩ, làm đến chức Thái thường tự tự khanh, dời nhà tới ở huyện La Sơn, làng Nguyệt Ao, ấp Mật Thôn. Ông là huyền tôn vậy. Lúc ít tuổi, ông hào phóng tự cường, không theo thế tục. Vợ họ Nguyễn, ở ấp bên cạnh là thôn Nguyễn Xá. Trong định vị, bà cất án ngang mày, rất cùng chồng nghiêm kính. Phu nhân thật là người hiền phụ, đáng sánh cùng tiên sinh! Nhờ nhà khá dư dật, ông thường xuất của riêng giúp việc binh khí. Đời Chính Hòa, ông được trao Vệ chức'. Sau khi ông mất, phu nhân thủ tiết nuôi nấng ba trai, một gái, cho đến trưởng thành. Chăm việc xa cửi để cấp sách đèn; dạy sự canh độc, lo việc hôn nhân. Gia nghiệp cũng gọi là khá dư dật. Trong làng hễ có việc gì nguy cấp, phu nhân đều đưa tiền dành dụm giúp cho. Người nào bà thương lắm, thì có khế khoản vay nợ bán ruộng gì, bà cũng đốt đi cho. Như thế hơn ba mươi năm. Lòng bà thương xót láng giềng lớn lao biết chừng nào! Bà thường bảo các con rằng: “Trữ của nhiều không bố thí, người xưa lấy thế làm khinh. Nhà ta của cải không thiếu. Sao chẳng giảm bớt tội mình để cho đạt ý ta!” Bà liền lấy hăm một mẫu, chín sào, chia cho ba ấp: Mật, Nguyệt và thôn Nguyễn, để làm nghĩa điền. Lại cho bảy trăm mười hai quan tiền kẽm để đãi người làng ăn uống cho vui. Thật vậy, Thịnh đức rất lớn ấy, người ta không thể quên được. Vậy nên bảo thợ khắc đá để truyền lại lâu đời. Cần người viết một bài để làm tựa.

Ta cùng con út ngài là hầu Đông các Thư quý hầu” có nghĩa đồng song. Không nề quê kịch, ta đánh bạo làm bài tựa để mà ghi lại, nói đại khái tóm tắt, chứ không cầu đẹp lời văn. Thời Cảnh Hưng Bính Dần Cúc Nguyệt vọng việt các đán”.

Đậu nhị gián tiến sĩ, khoa Tân Hợi. Đặc tiến Kim tử vinh lộc đại phu. Phụng sai tới xứ Nghệ An, kiếm việc Bố Chính châu thị tham tri quân thủ. Hiệu tinh trấn Cơ cai, Công bố hữu thị lang, Xuân Lĩnh hầu Nguyễn Hi Tư, bái soạn”. Xem bia trên, biết rằng đời tổ phụ cụ Nguyễn Thiếp, nhà rất giàu có, mà tổ mẫu lại rất là đức hậu.

Chú thích.

1. CM chép về năm ấy: Hạn, cơ (đại hạn, đói) sai quan khám, tha thuế má cho Thanh Hoa, lại nạp tiền vào kho để giúp dân đói.

1. CM chép về năm ấy: Hạn, cơ (đại hạn, đói) sai quan khám, tha thuế má cho Thanh Hoa, lại nạp tiền vào kho để giúp dân đói.

2. Chức phó quản thuộc một vệ.

3. Ất Dậu là năm 1705. Gia phổ chép năm Giáp Thân (1704) đúng hơn, vì lúc ấy ông 36 tuổi như gia phổ chép. Bia này làm 42 hoặc 43 năm sau, nên có lẽ chép sai. 4. Nguyễn Bật Lãng (xem trên).

5. Dời từ Nguyễn Xá sang.

6. Lấy tích bà Lương Hồng kính trọng chồng, nên mỗi lúc bưng ăn cơm cho chồng thì nâng án cao đến ngang mày.

Chú thích :

1. Chức quan võ coi một vệ.

 2. Tội trữ của.

3. Bấy giờ là thôn Trù.

 4. Nguyễn Xá.

 5. Ông nghè Nguyễn Hành.

6. Bạn học Nguyễn Nghiễm lại là anh vợ con trai đầu lòng ông Đông các. 7. Tháng Chín năm 1746.

7. Nguyễn Quang Trạch.

Thân phụ La Sơn phu tử là con thứ ông quản lĩnh. Tự là Quang Trạch; cũng có tự là Quang Nhuận. Năm Quý Tỵ (1713), nhờ nộp lúa nên được lĩnh chức Điển mục sở phó sứ. Tờ văn bằng, nay còn giữ được, tuy đã rách mất ít nhiều, nhưng còn đọc được như sau (dịch): “Lại bộ, việc thí quan.Năm Vĩnh Thịnh thứ 10, tháng Hai, ngày 19, các quan ở nha môn tư lệ giám, vâng Sắc chỉ theo bản bộ, bổ ông Nguyễn Nhuận vào chức tướng sĩ lang Lý nhân Điển mục sở phó sứ... Khâm thử!

Ngày 11, tháng Hai năm nay, quan ở bản bộ tại cửa Kinh thiên vâng chép thí sự số hiệu 1176. Đóng bán ấn... cho bản quan...”.

Quang Trạch lấy vợ làng Trường Lưu họ Nguyễn Huy, tức là họ ông thám hoa Nguyễn Huy Oánh. Ông sinh được bốn trai, ba gái. La Sơn phu tử là trai thứ ba. Anh là Quang Thục và em út là Quang Dật đều đậu tam trường.

Chú thích:

1.     Bán ấn là đóng dấu vào hai bảng bằng, ghép kề nhau, một nửa ấn ở bản này, một nửa ở bản kia. Một nửa giao cho người được cấp, một bản để lại làm chứng. Phép bán chỉ này có từ đời Trần Thái tông, Đinh Hợi (1227) (TT 5/4a).

( Trích từ LA SƠN PHU TỬ của HOÀNG XUÂN HÃN ).

Xin theo dõi tiếp BÀI 17. Thân ái. dienbatn.
Xem chi tiết…

THỐNG KÊ TRUY CẬP

LỊCH ÂM DƯƠNG

NHẮN TIN NHANH

Tên

Email *

Thông báo *