Trước hết ta tìm hiểu thêm về con đường từ một người tầm thường , đã nhanh chóng tiến lên ngôi vị tối thượng : Vua .
Theo VIỆT SỬ TOÀN THƯ thì con đường công danh của HỒ QUÝ LY như sau :
Hồ Quý Ly xuất thân chỉ là Chỉ Hậu Chánh Trưởng, một chức quan hầu trong cung điện, tháng 5 năm Tân Hợi (Thiệu Khánh thứ hai - 1371) dưới đời Nghệ Tông. Bước tiến trên hoạn lộ của họ Hồ đã nhanh như gió, chẳng bao lâu Quý Ly được thăng tới chức Đại Sứ Khu Mật và được kết duyên với em gái vua là Huy Ninh Công Chúa, vợ góa của tông thất Trần Nhân Vinh.
Tháng chín năm ấy Quý Ly được cử đi vỗ yên dân Nghệ An và được gia phong Trung Tuyên Quốc Thượng Hầu.
Tháng giêng năm Ất Mão (Long Khánh thứ ba - 1375) Duệ Tông cử Quý Ly kiêm chức Tham Mưu quân sự được toàn quyền định đoạt các việc quân và xếp đặt các thứ vị về võ, chỉ huy từ các tông thất trở xuống.
Năm Bính Thìn (1376) tháng chạp, cùng Duệ Tông đi đánh Chiêm, Quý Ly đảm nhận việc đôn đốc lộ Nghệ An, phủ Tân Bình, các châu Thuận, Hóa, vận lương thực cho quân đội đến cửa bể Di Luân (thuộc Quảng Bình).
Tháng giêng năm Kỷ Mùi (năm Xương Phù thứ ba - 1379) dưới đời vua Đế Nghiễn (Hiễn) Quý Ly thăng chức Tư Không kiêm Khu Mật Đại Sứ.
Tháng hai năm Canh Thân (1380) Chiêm Thành cướp phá mấy tỉnh đường trong, Quý Ly lĩnh thủy quân, Đổ Tử Bình lĩnh lục quân đi dẹp. Quý Ly đại thắng quân Chiêm ở Ngu Giang (phân lưu sông Mã nay thuộc phủ Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa). Đỗ Tử Bình cáo ốm trả binh quyền. Quý Ly giữ luôn cả lục quân với danh hiệu Đô Thống Chế đạo
Hải Tây.
Tháng ba năm Đinh Mão (1387), Quý Ly thăng chức Đồng Bình Chương Sự (tể tướng) được Nghệ Tông ban cho cờ kiếm đề hai câu: "Văn võ toàn tài, quân thần đồng đức".
Tháng hai năm Giáp Tuất (năm Quang Thái thứ bảy - 1394) dưới đời vua Thuận Tông, Thượng Hoàng Nghệ Tông cho vẽ tranh Tứ Phụ ca tụng Quý Ly (Tranh Tứ Phụ vẽ bốn người hiền đời xưa có tài đức giúp vua giúp nước là Chu Công giúp vua Thành
Vương nhà Chu, Hoắc Quang giúp vua Chiêu Đế nhà Hán, Gia Cát Lượng giúp vua Hậu Chúa nhà Thục Hán, và Tô Hiến Thành giúp vua Cao Tông nhà Lý).
Tháng hai năm Ất Hợi (Quang Thái thứ tám - 1395) đời Thuận Tông, Quý Ly lên chức cao hơn hết trong triều đình là Nhập Nội Phụ Chính Thái Sư Bình Chương Quân Quốc Trọng Sự, tước Tuyên Trung Vệ Quốc Đại Vương.
Tháng ba năm Mậu Dần (Quang Thái thứ mười một - 1398) Quý Ly tự xưng là Khâm Đức Hưng Liệt Đại Vương Quốc Tổ Nhiếp Chính.
Xét cái niên biểu trên đây, Quý Ly tiến nhanh không thể nói được và cũng không hề bao giờ bị giáng trong 27 năm, được Nghệ Tông và các vua nhà Trần trọng dụng mặc dầu gặp nhiều lực lượng phản động rất mạnh mấy phen định lật nhào họ Hồ trên cái thang danh vọng.
Nguyên Nhân Thất Bại Của Hồ Quý Ly
Hồ Quý Ly bước chân vào trường chính trị từ năm Tân Hợi (1371), đến năm Đinh Mão (1387), giữ chức Đồng bình chương sự nắm hết quyền chính trong tay. Đến năm Canh Thìn (1400) Quý Ly phế bỏ Thiếu Đế và lên làm vua. Từ cuối năm Bính Tuất qua năm Đinh Hợi, Quý Ly phải đương đầu với quân xâm lăng, sau 9 tháng chiến tranh, họ Hồ thất bại một cách đau đớn, thảm thương.
Vì đâu họ Hồ đã đi tới cái kết quả bi đát đó? Các vua chúa mất ngai vàng, nghiệp bá, các nhà chính trị ngã gục trên nẻo đường danh vọng xưa nay không ngoài lý do thất nhân tâm. Ta hiểu câu thất nhân tâm là mất lòng dân và trí thức trong nước là hai thành phần quan hệ của nền tảng quốc gia. Đây là một lẽ chung. Họ Hồ cũng không thoát khỏi công lệ đó trong khi đổ sụp.
Những hành động nào đã làm họ Hồ thất nhân tâm?
1) Họ Hồ đã tiến quá nhanh trên con đường danh vọng, quyền thế lẫy lừng, dẫu không va chạm vào quyền lợi của ai cũng dễ khiến nhiều kẻ ghét ghen, huống chi họ Hồ đã thi hành nhiều việc cách mạng xã hội nghịch với quyền lợi của nhiều giai cấp. Tỉ dụ: hạn chế quyền tư hữu tài sản do việc cải cách điền địa có lợi cho dân nhưng có hại cho quý tộc. Việc cách mạng hết sức táo bạo này lại kèm thêm việc hạn chế gia đồng đã kìm hãm và giảm hẳn thế lực của đẳng cấp phong kiến khiến họ phải tìm cách chống lại họ Hồ để bảo vệ tương lai của họ.
2) Việc cải cách tăng đạo cũng có tính cách hạn chế ảnh hưởng của một giai cấp rất gần dân chúng. Sự chống trả của giai cấp này không phải là không nguy hiểm, nhất là về mặt tuyên truyền.
3) Việc cải cách tiền tệ, tuy có thuận tiện cho việc mua bán của dân chúng nhưng quá mới nên dân chúng chưa hiểu được lợi ích. Thấy tiền bạc của mình bắt buộc phải đổi lấy tiền giấy, dân chúng sao khỏi được sự hoang mang, hờn giận.
4) Việc giết hại con cháu nhà Trần, nhất là vua Thuận Thông, con rể của Quý Ly, và việc hạ sát trên 370 vương hầu, tướng lĩnh, đại thần trong vụ âm mưu ngày hội thề ở Đốn Sơn xúc động dân chúng rất mạnh không kể các giai cấp quyền quý đang bị họ Hồ uy hiếp. Ngay từ khi Quý Ly thi hành các việc cải cách, Quý Ly đã bị những cuộc phản tuyên truyền rất dữ dội, việc thẳng tay đàn áp đối phương và lưu huyết sau này lại càng gia tăng hiệu lực cho cuộc phản tuyên tryền của phe đối lập. Nhân dân vào đời Lý, Trần lại đang được hun đúc trong cái lò Phật giáo và Khổng giáo, thấy việc giết vua triệt hạ đại thần không khỏi có sự công phẫn và nghi ngờ. Trước vấn đề này, nhà chính trị đại tài đó đã thiếu xót một cách tai hại một kỹ thuật trọng yếu là vận động nhân dân, lấy nhân dân làm hậu thuẫn. Việc làm càng bạo động càng phải sửa soạn dư luận, họ Hồ quả đã rất khinh xuất, kể từ các việc cải cách quốc gia có lợi cho nhân dân đến
việc bước lên ngôi cửu ngũ. Họ Hồ đã không hấp thụ được bài học thân dân và dân vận của Trần triều thuở trước, có lẽ vì không để ý đến nhân dân, có lẽ ông cho rằng chỉ cần hướng mọi công cuộc cải cách quốc gia về quyền lợi đại chúng là đủ. Bởi sự thiếu sót này người ta đã nghĩ rằng việc làm của ông không vì công ích, trái lại có mục đích, có cứu cánh hoàn toàn tư lợi.
Bàn về việc đàn áp phong kiến đời bấy giờ, ta nghĩ thế nào về Hồ Quý Ly? Họ Hồ tàn nhẫn lắm chăng?
Xét các việc đã xảy ra, quả họ Hồ đã tàn nhẫn thật nhưng bình tĩnh và khách quan
mà nói nhà làm chính trị như họ Hồ giữa một thời vua hèn, tôi đốn, đẳng cấp phong kiến lại quá ngoan cố, tham tàn, chống lại mọi việc cải cách cấp tiến vì nghịch với quyền lợi của họ thì nhà làm chính trị đó nếu muốn thành công hay đứng vững không thể không có những cử chỉ quyết liệt mạnh bạo.
Nói một cách khác, xã hội Việt Nam bấy giờ đang bị một bạo bệnh, Hồ Quý Ly đã phải dùng bạo phương vì không còn thể trì hoãn được với tình thế. Họ Hồ ngồi trên lưng cọp, lên đã khó xuống còn khó gấp bội, có ở vào hoàn cảnh của họ Hồ mới biết, ngoài ra đứng trên quan điểm nhân dân và cách mạng, ta còn lý gì để thương tiếc đám
vua quan bất lực, mục nát đời Trần? Thương tiếc bọn này để mất nước với ngoại địch, để dân hao mòn vì đói khổ, ý niệm này vào thời nào cũng phải coi là một sự phản bội quốc gia và phản tiến hóa!
Hồ Quý Ly Có Làm Mất Nước Không?
Bình luận về Hồ Quý Ly, Trần Trọng Kim trong Việt Nam Sử Lược trang 120 nói:
"Xem công việc của Hồ Quý Ly làm thì không phải là một người tầm thường, nhưng tiếc thay, một người kinh tế như thế mà giả sử cứ giúp nhà Trần cho có thủy chung thì dầu giặc Minh có mạnh thế đến đâu đi nữa cũng chưa hầu dễ đã ăn cướp được nước Nam mà mình lại được tiếng thơm để lại ngàn thu. Nhưng vì cái lòng tham xui khiến, hễ
đã có thế lực thì sinh ra bụng muốn tranh quyền cướp nước. Bởi thế, Hồ Quý Ly mới làm sự thoán đoạt, và nhà Minh mới có cái cớ mà sang đánh lấy nước An Nam. Mà cũng vì cái cớ ấy cho nên lòng người mới bỏ họ Hồ mà theo giặc để đến nỗi cha con họ Hồ thua chạy bị bắt, phải đem thân đi chịu nhục nước người!
Nhưng đấy là một cái tội làm hại riêng cho một họ Hồ mà thôi, còn cái tội làm mất nước Nam, thì ai gánh vác cho Hồ Quý Ly? ..."
Không riêng sử gia họ Trần, ... nhiều nhà viết sử từ trước đến nay thường quy tội làm mất nước về tay nhà Minh cho Hồ Quý Ly và cũng viện cớ một cách giản dị rằng Hồ Quý Ly đã giết vua cướp nước nên người trong nước mới đi cầu cứu Minh triều. Trước vấn đề này, để tìm ra lẽ phải, ta cần đặt hai câu hỏi dưới đây:
1) Tình trạng bang giao giữa nước ta và nhà Minh thuở đó thế nào? Nếu Hồ Quý Ly không "thí quân thoán quốc" nạn xâm lăng liệu có thể tránh được không?
2) Bọn Trần Thiêm Bình và Bùi Bá Kỳ sang cầu quân "điếu phạt" của nhà Minh có ảnh hưởng gì đến sự suy vong của quốc gia thuở đó không?
Câu hỏi trên nhắc ta rằng khi nhà Hồ ra đời, Minh Thành Tổ đã có ý nhòm ngó nước ta rồi, sau đó lại thêm sự tố cáo của bọn hoạn giả Nguyễn Toán giỏi nghề nấu bếp mà triều Trần đem tiến Minh Đế trước đây, Thiêm Bình và Bùi Bá Kỳ chỉ là những kẻ đến sau để thúc đẩy cuộc xâm lăng cho thêm phần nhanh chóng.
Bảo rằng việc đảo chính của Hồ Quý Ly đã giúp cho nhà Minh cái cớ xuất binh qua đất Việt cũng không đúng. Nhà Minh muốn chiếm nước ta không thiếu cơ hội, cũng không thiếu duyên cớ nữa. Đây chỉ là chuyện con chó sói với con cừu non của Lã Phụng Tiên (La Fontaine) mà thôi. Một việc xâm lăng bao giờ cũng phải tính toán đầy đủ điều
kiện thực tế. Đó là việc ta cần phải suy xét kỹ lưỡng. Nhà Minh trước khi mang quân sang nước ta phải hiểu rõ dân ta đã suy yếu từ bao giờ, vua quan của chúng ta như thế nào. Như vậy mọi việc bại hoại của mấy triều đại cuối cùng của dòng họ Đông A đều đã ghi trong cuốn sổ tay của họ. Cuộc xâm lăng bấy giờ đâu có phải căn cứ vào cái nguyên nhân gần gũi nhất là vụ đảo chính của Hồ Quý Ly, nhất là cuộc đảo chính ấy đã thành công, một cách êm thắm. Có thể nhà Minh hiểu thực lực nước ta bị suy giảm từ lâu, lòng dân Việt Nam chia rẽ, Hồ Quý Ly tuy có cải cách nhiều việc trong nước nhưng vẫn chưa phục hồi được nguyên khí quốc gia. Đó là duyên cớ mất nước của dân ta cũng như duyên cớ xâm lăng của quân Minh.
Tóm lại đời Trần Mạt do đám vua quan bạc nhược, ham ăn chơi đàng điếm đã tạo cho Bắc phương một hoàn cảnh tốt đẹp để xâm chiếm đất đai của chúng ta. Cái nguyên nhân xã hội này mới là nguyên nhân chính. Các nhà làm sử hay các người đọc sử xưa nay thường chỉ nhìn vào việc trước mắt mà buông lời phê phán chẳng khỏi có sự quá
đáng và thiếu công bình với người xưa.
Nhưng nhà đọc sử và viết sử ngày nay hiểu Quý Ly một cách công bằng và thực tế hơn. Trong Nam Sử Liệt Truyện khảo cứu ở Tạp chí Nam Phong số 100, ông Lê Thúc Thông viết: "Xem Quý Ly đương buổi Tây Lịch 1411, khi ấy các nước Âu Châu chưa đến trình độ bán khai mà nước ta đã có Quý Ly bầy đặt các việc trước đã khêu đèn văn
minh, phỏng Bá Kỳ chẳng đưa quân Minh về trở ngạnh để cho Quý Ly hết sức kinh lý giang sơn, trùng tân nhật nguyệt, nước ta hẳn kéo cờ văn minh, thủ xuất trước các nước ở Á Châu ..."
Trong Việt Nam Cổ Văn Học Sử (do nhà Hàn Thuyên Hà Nội xuất bản năm 1942) ông Nguyễn Đổng Chi cũng viết:
"Tư tưởng và hành vi của nhà độc tài ấy có thể sánh với Vương An Thạch (1021- 1086) đời Tống bên Tàu. Vương cũng có một độ bài xích những lối học huấn hỗ và chú sở của tiên nho cùng là chủ trương những vấn đề cải lương Trung Quốc. Họ Hồ đã chịu
mạnh cái tinh thần đó nên quyết tâm mở một lối thực học đi đôi với nền tảng quốc gia xã hội mong làm cường thịnh nước nhà. Người sau này còn hơn người trước về chỗ chiếm lấy chiếc ngai vàng cho tiện bề hành động.
"Nhưng đáng tiếc cho chiếc ngai vàng ấy không bao lâu bị sụp đổ và lôi cuốn mọi thứ đi mất. Bàn tay phá hoại ấy chính là người Minh, nhưng một số đông người Việt Nam lấy cớ phục hồi nhà Trần mở đường đón giặc, họ phải chịu một phần trách nhiệm."
Tin Mới số 1406 ra ngày 31-10-1944, trong bài Đọc Sử ông T.N. cũng viết:
"Đọc Nam Sử, những cuộc cải tạo về chính trị, xã hội, học thuật không phải là ít, nhưng điều khiến cho chúng ta phải ngạc nhiên và nhớ tiếc hơn cả là chính sách táo bạo có thể coi như một cuộc cách mạng của họ Hồ và cuối thập tứ và đầu thập ngũ thế kỷ.
"Đem đối chiếu những chính sách của Hồ Quý Ly với lịch sử quốc tế hồi bấy giờ và nhất là đem đối chiếu với hoàn cảnh Á Đông lúc ấy cuộc cải cách kia thực là lớn lao về cả tinh thần lẫn phạm vi của nó.
"Cuộc cải cách ấy nếu được tiếp tục trong một thời gian khá lâu, tất phải đem dân tộc Việt Nam, một dân tộc lúc ấy thiếu tổ chức, đến một mức phú cường.
"Nhưng đem reo rắc vào một đám dân chúng chưa giác ngộ, những chủ trương không gặp được một sức hậu thuẫn đầy đủ cho nên trước cuộc âm mưu của bọn Việt gian làm bung sung cho quân đội nhà Minh, sự nghiệp của họ Hồ đã tan tác sau một cuộc thất bại đau đớn".
( VIỆT SỬ TOÀN THƯ )
THAM KHẢO THÊM VỀ HUYỀN KHÔNG :
HÀ NỘI: là thành phố nằm gần như ngay tại trung tâm của đồng bằng Bắc Việt, trên dải đất hẹp giữa con sông Hồng ở phía Ðông và sông Tô Lịch ở phía Tây. Ðối với Phong thủy, dải đất này chính là chân long, là nơi kết tụ được nhiều nguyên khí của địa hình sông, núi ở chung quanh. Nhờ vậy, Hà Nội sẽ luôn luôn nắm được những vai trò quan trọng về chính trị và kinh tế đối với đất nước, chẳng những thế, trong các thời kỳ hưng vượng còn sản sinh ra những lãnh tụ tài ba, những anh hùng kiệt xuất. Nếu nhìn lên bản đồ miền Bắc, ta sẽ thấy những con sông lớn như sông Cầu, sông Gầm, sông Lô ở phía Bắc; sông Ðà, ở phía Tây, sau khi chảy qua nhiều nơi cuối cùng đều nhập vào sông Nhị Hà chảy về Hà Nội. Xa xa, dọc theo biên giới Việt-Hoa, những dãy núi trùng trùng, điệp điệp xuất phát từ miền Nam Trung Hoa đâm thẳng xuống dọc theo các phía Tây Bắc, Bắc và Ðông Bắc, tất cả cũng đều như muốn hướng về. Ðây chính là thế "núi sông chầu phục" của Hà Nội, một địa thế Phong thủy tuyệt đẹp đến nỗi không một thủ đô nào của các nước trong vùng Ðông Nam Á Châu, (kể cả thành Bắc Kinh của Trung Hoa) có thể so sánh được. Không những thế, ngoài xa nơi phía Ðông và Ðông Nam, Hà Nội còn được đại thủy của vịnh Bắc Việt và Thái Bình Dương chiếu tới nên thần lực rất lớn, xứng đáng là thủ đô muôn đời của một quốc gia văn hiến hùng mạnh.
Nếu đem địa thế núi, sông, biển cả vừa kể trên đối chiếu với Lạc Thư, ta sẽ thấyVận 1 chỉ là giai đoạn trung bình của Hà Nội. Vì mặc dù khu vực phía Bắc có nhiều sông ngòi tức là phạm phải cách "Phục Ngâm", bị sát khí xâm phạm, nên sẽ đem đến nhiều tai ương, loạn lạc. Nhưng tại đây cũng có nhiều dãy núi đâm thẳng xuống đem theo nhiều vượng khí nên chưa đến nỗi, vẫn còn nhân tài có khả năng ổn định, xoay chuyển được thời cuộc. Bước sang Vận 2, tình thế mỗi lúc một suy thoái hơn, vì khu vực phía Tây Nam của Hà Nội tuy chỉ có sông Mã tức là bị "Phục Ngâm" trong trường hợp nhẹ. Nhưng phía đối diện (Ðông Bắc) lại có núi đồi trùng điệp tức là bị "Phản Ngâm", sát khí từ nơi đó sẽ tràn tới, khiến cho đất nước ngày càng trở nên hỗn loạn. May mà tại đây (khu vực phía Ðông Bắc) cũng có nhiều sông ngòi chằng chịt tức là đắc "Chính thủy", vượng khí vẫn còn đến với Hà Nội nên chưa đến nỗi bị suy vong. Qua các Vận 3, 4, đại thủy của vịnh Bắc bộ và Thái bình Dương nơi phía Ðông và Ðông Nam sẽ tạo ra cách "Phục Ngâm", sát khí quá nặng nề, nên sẽ đưa đất nước ta vào tình trạng yếu kém, tàn tạ hơn bao giờ hết. Phải đến khi bước vào Vận 5, nhờ địa thế "núi sông chầu phục", vượng khí của Hà Nội mới bắt đầu bùng lên mãnh liệt, và cùng với nó là sức mạnh và tinh thần quật khởi của dân tộc. Qua Vận 6, Hà Nội sẽ phải đương đầu với những cuộc chiến tranh cực kỳ ác liệt, do các sông lớn như Nhị Hà, sông Ðà đều bắt nguồn từ phía Tây Bắc, nguồn nước lại rất lớn nên phạm phải cách "Phục Ngâm" rất nặng. May là cũng tại phía Tây Bắc lại có những mạch núi rất dài, rất cao tiến xuống, cuốn theo vượng khí ngút trời, đủ sức để trấn áp sát khí nên Hà Nội sẽ vượt qua được mọi thử thách để đi đến chiến thắng. Nói chung là trong Vận 6, ngay cả những thế lực hùng mạnh bậc nhất trên thế giới mà đụng đến Hà Nội cũng đều sẽ rước lấy những thất bại thảm hại, ê chề. Ðến Vận 7, những con sông Ðà, sông Mã ở phía Tây Hà Nội sẽ tạo ra nhiều sát khí (bị "Phục Ngâm"). Nhưng ngoài xa nơi phía Ðông lại có vượng khí của đại thủy mênh mông chiếu tới, lấn át được sát khí, nên tuy hay bị những biến động về chính trị, nhưng là một giai đoạn tương đối yên lành, sung túc. Sang Vận 8, Hà Nội sẽ bước vào giai đoạn cực thịnh, sản sinh ra những lãnh tụ tài ba đem lại thanh bình và vinh quang cho đất nước.?Trong giai đoạn này tuy cũng có chiến tranh xảy ra, do khu vực phiá Ðông Bắc có rất nhiều sông ngòi chằng chịt. Nhưng cảnh thái bình, thịnh trị, sẽ nhanh chóng được tái lập vì vượng khí của các dãy núi trong khu vực Ðông Triều-Cẩm Phả sẽ đem đến cho Hà Nội rất nhiều may mắn, thuận lợi. Sang tới Vận 9, thời kỳ hưng vượng vẫn tiếp tục được duy trì, cho tới khi bước sang Vận 1 thì những mầm mống loạn lạc mới bắt đầu tái diễn trở lại.
.......
Khi Hồ quý Ly lên ngôi, việc đầu tiên của ông là cho dời thủ đô về Tây Ðô ở Thanh Hóa, rồi cho tiến hành nhiều cải cách táo bạo về chính trị, kinh tế, văn hóa-xã hội và quân sự. Nhưng vào năm 1407, đầu Vận 5, khi nhà Minh mượn tiếng "phù Trần diệt Hồ" đem quân sang xâm lăng nước ta thì nhà Hồ bị tan rã và sụp đổ nhanh chóng. Một lần nữa, dân tộc ta lại nằm dưới ách cai trị của người Tàu.
Nếu xét về phương diện Phong thủy và vận khí thì sự sụp đổ của nhà Hồ là do 2 nguyên nhân chính. Thứ nhất là khi Hồ quý Ly cướp ngôi nhà Trần, vận khí của thủ đô Thăng Long đang ở trong giai đoạn tàn tạ, suy yếu đến tột độ (Vận 4). Nên dù ông có cố công canh tân, cải cách thế nào đi nữa, nước ta yếu vẫn hoàn yếu, mà lòng người dân lại càng không phục, bất mãn. Thứ hai là việc ông lập Tây Ðô (thuộc huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa bây giờ) làm thủ đô mới của nước ta. Ðây là một vùng đất chật hẹp, lại bị long mạch của dãy Hoàng liên Sơn tiến tới đâm sát vào. Ðối với Phong thủy, địa thế như vậy không được coi là có Long (núi) chầu phục, mà chính là thế bị Long tiến tới bức bách, áp chế, khiến cho vượng khí bị thất tán, còn sát khí thì tràn ngập cả kinh đô. Bởi thế nên ngay từ khi lên ngôi, Hồ quý Ly đã gặp phải những áp lực nặng nề từ trong và ngoài nước, để rồi đến khi quân Minh sang đánh nước ta thì nhà Hồ liền bị sụp đổ nhanh chóng. Mặt khác, vào lúc đó, vận khí của Bắc Kinh đang ở trong giai đoạn cực kỳ hưng vượng (thành Bắc Kinh chủ phát vào các Vận 5, 6, và 7). Do đó, nếu đem vận khí của Tây Ðô đối chọi với vận khí của Bắc Kinh lúc đó thì làm sao nhà Hồ không lãnh lấy cái hậu quả diệt vong, mất nước được. Nếu như Hồ quý Ly không dời đô, thì tuy ông sẽ gặp nhiều khó khăn trong những năm đầu, nhưng khi bước vào Vận 5 (1404) vượng khí sẽ trở lại với Thăng Long. Lúc đó, sức mạnh và tinh thần quật khởi của dân tộc lại trào dâng mạnh mẽ thì thử hỏi nhà Minh làm sao có thể đánh chiếm và đô hộ nước ta ngót 20 năm được?
Nhưng cũng may dân tộc ta, khi quân Minh thiết lập nền đô hộ, chúng lại lấy Thăng Long (lúc đó đã đổi tên là Ðông Ðô) làm trung tâm điều hành việc cai trị, trực tiếp nhận lệnh điều khiển từ Bắc Kinh. Nhưng chúng không biết rằng trong các Vận 5, 6, 8, nếu là một trung tâm quyền lực chính trị thì Thăng Long sẽ không bao giờ là chư hầu của bất cứ một thành phố nào trên thế giới. Do đó, những phong trào kháng chiến bùng nổ khắp nơi, cho đến khi Lê Lợi tụ tập được anh hùng hào kiệt, phất cờ khởi nghĩa ở Lam Sơn thì nền độ hộ của quân Minh đã bước vào thời kỳ tàn cuộc. Vào năm 1426, đầu Vận 6, nhà Minh sai Vương Thông đem 5 vạn quân sang nước ta để đối phó với phong trào kháng chiến của Lê Lợi, nhưng đạo quân này bị ta đánh tan ở Tuy Ðộng. Năm sau, cũng trong Vận 6, nhà Minh lại phái Liễu Thăng và Mộc Thạnh đem 15 vạn quân sang nước ta hòng cứu vãn tình thế. Nhưng khi 10 vạn quân của Liễu Thăng bị quân ta tiêu diệt hoàn toàn trong các trận đánh Chi Lăng, Tốt Ðộng-Chúc Ðộng, nhà Minh không còn cách gì khác hơn là rút hết quân về nước và thừa nhận nền độc lập của dân tộc ta.
Nguồn : Địa thế Phong thủy của dân tộc VN- TUVILYSO )
MỘT SỐ HÌNH ẢNH THÀNH NHÀ HỒ DO DIENBATN CHỤP.
chẳng hiểu sao nữa ,đang viết về âm trạch lại nhảy nhằng sang thành với quách . Mất hết cả hứng thú . Đúng là ông hùng bụi này ham chơi thật .
Trả lờiXóaMà mấy bài âm trạch đang viết dở đâu hết rồi ,bộ có ai dọa hay sao mà gỡ hết xuống rồi ha . Tìm mãi chẳng thấy đâu nên chán quá . Bộ còn viết ở diễn đàn nào nữa không hả ?
BÀI 1 :
Trả lờiXóahttp://www.blogger.com/blogger.g?blogID=7280330204358162375#editor/target=post;postID=7559949889744538755;onPublishedMenu=overview;onClosedMenu=overview;postNum=102;src=postname
BÀI 2 :
http://www.blogger.com/blogger.g?blogID=7280330204358162375#editor/target=post;postID=6227238716186448165;onPublishedMenu=overview;onClosedMenu=overview;postNum=40;src=postname
BÀI 3:
http://www.blogger.com/blogger.g?blogID=7280330204358162375#editor/target=post;postID=6677367847991570053;onPublishedMenu=overview;onClosedMenu=overview;postNum=39;src=postname
BÀI 4:
http://www.blogger.com/blogger.g?blogID=7280330204358162375#editor/target=post;postID=826330073784688744;onPublishedMenu=overview;onClosedMenu=overview;postNum=38;src=postname
BÀI 5:
http://www.blogger.com/blogger.g?blogID=7280330204358162375#editor/target=post;postID=8791831505459942461;onPublishedMenu=overview;onClosedMenu=overview;postNum=37;src=postname
BÀI 6 :
http://www.blogger.com/blogger.g?blogID=7280330204358162375#editor/target=post;postID=7445921633941948975;onPublishedMenu=allposts;onClosedMenu=allposts;postNum=36;src=postname
BÀI 7 :
http://www.blogger.com/blogger.g?blogID=7280330204358162375#editor/target=post;postID=2074961491151344520;onPublishedMenu=allposts;onClosedMenu=allposts;postNum=25;src=postname
BÀI 8 :
http://www.blogger.com/blogger.g?blogID=7280330204358162375#editor/target=post;postID=1891700126443896356;onPublishedMenu=allposts;onClosedMenu=allposts;postNum=24;src=postname
BÀI 9 :
http://www.blogger.com/blogger.g?blogID=7280330204358162375#editor/target=post;postID=2563067189906219278;onPublishedMenu=allposts;onClosedMenu=allposts;postNum=23;src=postname
BÀI 10 :
http://www.blogger.com/blogger.g?blogID=7280330204358162375#editor/target=post;postID=184600846144561205;onPublishedMenu=allposts;onClosedMenu=allposts;postNum=22;src=postname
BÀI 11 :
http://www.blogger.com/blogger.g?blogID=7280330204358162375#editor/target=post;postID=6068538062285681993;onPublishedMenu=allposts;onClosedMenu=allposts;postNum=21;src=postname
Đâu có mở được đâu ? tiền bối có thể sắp xếp các đề tài trên bờ lốc này theo khoa mục như kiểu diễn đàn cho dễ đọc được không ?
Trả lờiXóaVD : Mục phonh thủy rồi chia ra : Âm trạch - Dương trạch .....
Sao cho khi mở bờ lốc của ông ra người đọc thấy luôn mục cần tìm thì rất tiện .... chớ đây vào cứ thấy bài cũ hơn ... rồi bấm mãi chẳng thấy đâu . vào mục nghiên cứu phong thủy để tìm các bài viết về ấm trạch cũng cứ phải bấm mãi mà chẳng tấy ....
nói chung là mến nguười nhưng rất chám sản phẩm .
THANK, ĐÃ CHỈNH SỬA. dienbatn.
Trả lờiXóa