Ví dù cho họ Vương có tử tế, rộng lượng đến đâu, trước mặt Trần thị, thầy lang cũng chỉ là người ngoại chủng, ngôn ngữ bất đồng, mà theo quan niệm hôn nhân của thời đại phong kiến thì con gái những gia đình nền nếp không bao giờ chịu lấy chồng Tàu, chồng Chệt !
Đấy là chưa nói đến số tuổi quá chênh lệch, giữa đôi bên : họ Vương đã ngoại tứ tuần, trong lúc cô gái họ Trần mới có 19 cái xuân xanh, khiến cho sau hôn lễ, mỗi khi có dịp phải đi sóng đôi với chồng ra ngoài đường những trẻ con quanh vùng, thường vỗ tay reo hò, chế diễu, hát nheo nhéo câu ca dao :
" Tiếc thay con ngựa bạch lại thắng giây cương bằng thừng,
" Tiếc cho con người thế ấy lại nâng lưng ông cụ già !
" Lạy chú, chú bỏ con ra,
" Ra đường ai biết rằng cha hay chồng,
" Nói ra đau đớn trong lòng,
" Ấy cái nợ truyền kiếp, há phải là chồng em đâu ? "
Lúc đầu tiên, cô gái họ Trần, từ địa vị một thiếu nữ bần hàn, quần nâu, áo vải, chân lấm tay bùn, quanh năm vật lộn với luống cày, đổi bát mồ hôi mới kiếm nổi miếng cơm, nên khi được họ Vương cưới về làm vợ, nàng rất thỏa mản, vì ngoài sự sung sướng về vật chất, nàng còn báo hiếu được cho cha mẹ, nhờ số tiền dẫn cưới khá quan trọng của ông chủ tiệm thuốc Bắc để cha mẹ nàng có thể thanh tóan hết các món nợ nần, bê bối từ mấy năm nay.
Nhưng sau lể vu quy chỉ chừng một tháng, mỗi khi ra ngồi ngoài quầy tủ thuốc, nhất là những dịp có việc phải đi với chồng ra đường, thiên hạ hiếu kỳ, tệ hơn hết là những trẻ con trong làng, đã vỗ tay reo hò, chạy theo chế riễu nàng thậm tệ, khiến cho nàng tủi thẹn vô cùng.
Lòng tủi thẹn mỗi ngày một nặng nề đưa dần đến sự chán ghét người bạn gối chăn khác dòng giống.
Do đấy, cô gái họ Trần thường chỉ thích chuyện trò với anh quản gia Vũ Hồn mà nàng tin rằng dù sao, cũng vẫn là người đồng hương, cùng chung một tiếng nói với nàng, thì hẳn là phải biết kính trọng nàng hơn hẳn là chú Chệt, lúc nào cũng ngô nghê như Chú Tàu nghe kèn, chẳng xứng đáng một chút nào với áng nhan sắc diểm kiều, duyên dáng của nàng, từ xưa tới nay, vẫn nổi tiếng là một thôn nữ xinh đẹp nhất phủ Bình Giang !
Trước Vũ Hồn còn sợ hải, dè dặt, không dám suồng sả, đùa cợt với cô chủ trẻ tuổi, mặc dầu cô chủ cứ luôn luôn tỏ ra vô cùng dể dãi.
Nhưng chỉ ít lâu sau đấy, nhằm một buổi tối, nhân cơ hội họ Vương phải đi coi mạch cho một bệnh nhân ở trên Sặt, đường xá xa xôi, bắt buộc thầy lang phải ngủ lại nhà con bệnh đến sáng hôm sau mới có thể về được, nên cô chủ trẻ tuổi đã sai Vũ Hồn đóng kín cổng ngỏ, ngay từ lúc sẩm tối, viện cớ là nhà vắng người, bà chủ cần phải đề phòng những sự bất trắc bất ngờ.
Bề ngoài thì thế, nhưng sự thực bên trong lại khác hẳn !
Đó là một điều tính toán rất kỷ, chín chắn của một thiếu phụ, trời cho nhan sắc mặn mà, khôn ngoan tháo vát, nhưng trớ trêu, lại sinh trưởng nhằm cảnh gia đình nghèo khổ, túng thiếu, đến nổi một đoá hoa mơn mởn sắc hương, phải lọt vào tay một chú Chệt đáng tuổi cha, ông, khiến cho cô gái hẩm hiu duyên số ấy, dù được sống trong nhung gấm, vàng son, tha hồ ăn ngon, mặc đẹp, kẻ hạ người hầu, cũng cảm thấy tủi buồn, đau khổ, suốt ngày đêm rầu rỉ, thở vắn, than dài.
Không những thế, họ Vương thường viện cớ bận rộn, săn sóc bệnh nhân, để có khi vắng mặt đến ba, bốn ngày đêm liên tiếp, làm cho tình gối chăn lạnh nhạt, so với vẻ quyến luyến keo sơn của những cặp vợ chồng mới cưới khác, thì quả thực là cách biệt nhau một vực, một trời.
Tính tình chú Chệt chủ tiệm thuốc lại mỗi lúc một thêm khó khăn, khắc khổ. Đối với cô gái họ Trần chú không mấy khi cười nói, tỏ vẽ yêu thương, đi vắng thì không sao, êm thắm cửa nhà, mà cứ về đến tiệm là thế nào chú Chệt cũng la lối om sòm, phiền trách vợ, rày mắng người giúp việc, chẳng lúc nào ngớt tiếng.
Sức chịu đựng của thiếu phụ họ Trần chỉ có chừng !
Nàng không thể chôn vùi mãi tuổi xuân tràn trề nhựa sống của những ngày mới vu quy vào chốn sầu thành vô tận, bên cạnh một người chồng ngoại chủng, khắc khổ như một nhà truyền đạo, lạnh nhạt như một kẻ tu hành.
Đã đến lúc nàng phải đi tìm một nguồn an ủi khác, kẻo nay lần mai lữa, năm tháng cứ vùn vụt trôi qua, chôn vùi một kiếp hồng nhan đang tha thiết yêu đời, dưới hố sâu hờn tủi của kẻ vị vong, có chồng mang tiếng phòng không trọn đời. !
L.T.G. (Lời tác giả) Trước khi viết về ngôi mả táng treo, chúng tôi đã cố gắng đi dò hỏi những vị bô lão nguyên quán ở vùng Hải Dương Bắc Việt để mong tìm hiểu rõ ràng hơn, chính xác hơn những chi tiết bao quanh ngôi mả, có thể gọi được là kỳ lạ, độc nhất vô nhị ở Việt Nam, mà sự kết phát chẳng những đã lâu dài, lại còn hiển hách, bất cứ dưới thời đại nào !
Nhưng qua những lời truyền tụng hay chiếu theo một vài tài liệu đã sưu tầm được, thì chúng tôi chỉ thấy hoang mang không biết đâu là sư thực, vì có người nói thế này, lại có người bảo thế khác, tam sao thất bản, khiến cho chúng tôi, càng cảm thấy thất vọng, đành chỉ còn biết : lựa chọn những giả thuyết gần sự thực hơn hết, có lý hơn hết, để nêu ra, với hy vọng ấy, mong chờ sự chỉ giáo của qúy vị cao minh, nhất là những bậc lão thành ở tỉnh Đông.
Thì sự mong chờ của chúng tôi quả đã không đến nổi thất vọng ! Mới đây chúng tôi có tiếp được bức thơ của một vị lão thành, tự nhận là dòng họ Vũ ( rất tiếc là Vũ Lão tiên sinh lại không muốn cho chúng tôi nêu rõ quý tính cao danh và địa chỉ, nên ở đây chúng tôi phải chiều ý Vũ lão tiên sinh, mong bạn đọc thân mến, lượng tình thông cảm) đã cho chúng tôi biết thêm nhiều chi tiết quý giá, mạc dù chúng tôi vẫn còn một vài nghi vấn, muốn được hầu truyên cùng Vũ Lão tiên sinh trong một kỳ sau.
Trước khi thuật lại đầy đủ những chi tiết bổ ích ấy để cống hiến quý vị độc giả thân mến, chúng tôi xin chân thành cảm tạ thịnh tình chiếu cố của Vũ Lão tiên sinh, đã không quản công phu, sốt sắng giúp đở cho chúng tôi, có những tài liệu dồi dào để hoàn thành công cuộc biên khảo này.
Một lần nữa xin Vũ Lão tiên sinh nhận cho ở đây lời cảm tạ thành thực của chúng tôi.
Trong một bài trước, chúng tôi có nói đến làng Lương Đường, sau được đổi thành Lương Ngọc.
Nay được biết đó chỉ là tên hợp nhất của hai làng Lương Đường và Ngọc Cục, cũng thuộc địa phận phủ Bình Giang, tỉnh Hải Dương Bắc Việt.
Còn ngôi mả táng treo thì thuộc phạm vi làng Vạn Nhuế, huyện Nam Sách, cũng trong địa giới tỉnh Hải Dương.
Theo gia phả của họ Vũ, được đặt ở ngôi thờ tại đình làng Vạn Nhuế, thì lai lịch của ông tổ được ghi chép như sau : " Vũ Hồn , An Nam Đô Hộ Sứ ", và cũng chính Vũ Hồn đã tự tìm lấy được kiểu đất : " Cửu Thập Bát tú triều dương" lúc đang đảm nhiệm trọng trách An nam Đô Hộ Sứ (chúng tôi sẽ có dịp thảo luận về nghi vấn này trong một số báo sau ).
Kiểu đất có ngôi mả treo gồm tới 98 (cửu thập bát tú) cái gò nhỏ nằm rải rác bao quanh một cái gò lớn, ở chính giữa (gò thứ 99) mà trên đỉnh gò là mả Vũ Hồn.
Điểm đặc biệt là phong cảnh quang đảng của khu vực " Cửu thập bát tú triều dương", vì ngoài 99 cái gò, tuyệt nhiên không còn có cây cối chi khác.
Vẫn theo gia phả của họ Vũ đã ghi chép, thì sau khi khám phá được kiểu đất tuyệt đẹp, cực kỳ quý báu đó, Vũ Hồn liền trở về Trung Quốc, xin triều đình cho phép mình được đem họ hàng con cháu, di cư sang An Nam lập nghiệp.Chính do đấy, mà hài cốt của Vũ Hồn, sau lúc ông từ trần, mới được an táng tại làng Vạn Nhuế.
Trước khi tìm được kiểu đất để dành cho việc mai hậu, Vũ Hồn còn tìm được một khu đất khác, dùng làm nơi sinh cư lập nghiệp cho bà con trong họ, theo mình từ Trung Quốc qua. Nơi đó là làng Khả Mộ, sau được cải lại là Mộ Trạch, thuộc tổng Tuyền Cử, huyện Năng An, phủ Bình Giang, tỉnh Hải Dương.
Địa hình địa thế làng Mộ Trạch cũng đặc biệt vô cùng, thu gọn trong một khu vực vuông vắn như được cắt sén, gọn gàng, không hề có chỗ nào lồi lõm hay khúc khuỷu.
Dân làng hết thảy đều là họ Vũ, con cháu của Vũ Hồn.
Ngoài ra không có một dòng họ nào khác tới cư ngụ hay tá túc cả. Ngay tại hai bên cổng ngôi đình thờ ông tổ Vũ Hồn vẫn còn có đôi câu đối :
" Vi tử tôn lập vạn thế cơ, Khanh, Tướng, Công vô trị loạn."
" Dữ Thiên Địa dồng nhất, nguyên khí, Hoàng, Vương, Đế, Bá hữu Long ô "
dịch nôm là : Vì con cháu, lập nên cơ sở vạn năm Khanh, Tướng, Công Hầu vì thời bình hay thời loạn cũng đều có; Cùng với nguyên khí của Trời Đất, Hoàng, Vương, Đế, Bá ở thời thịnh hay suy cũng vẫn có.
Đồng thời, gia phả cũng còn ghi lại : lúc Cao Biền đuổi quân Nam Chiêu, khi đi ngang qua làng Mộ Trạch, họ Cao vốn là tay thông kim bác cổ, có chân tài, thực học về môn phong thủy, lúc ấy cũng phải ngẩn ngơ trước kiểu đất quý báu, hiếm có kia, rồi gò cương ngựa, rơ roi mà khen ngợi rằng : " Tiến Sĩ sào ! " (Cái tổ của các vị Tiến Sĩ).
Vì vậy tại cổng Đông làng Mộ Trạch, người ta mới thấy có tấm bia, khắc ba chữ " Tiến Sĩ sào" để kỷ niệm lời ca ngợi một kiểu đất văn học tuyệt vời do chính một người thông hiểu địa lý như Cao Biền đã phải thốt ra.
Có lẽ cũng vì địa hình địa thế đẹp đẻ tuyệt vời của làng Mộ Trạch, và căn cứ vào lời khen ngợi "Tiến Sĩ sào" do tự miệng một nhà phong thủy kỳ tài như Cao Biền thốt ra mà số người thành đạt ở làng Mộ Trạch lại có rất nhiều, chứ không phải " Thập Bát Tiến Sĩ, tam Tể Tướng" như chúng tôi từng đề cập đến trong một kỳ trước.
Ngoài một số đông sĩ tử thi đậu cao khoa, làng Mộ Trạch còn có nhiều người làm đến Công Hầu, Khanh Tướng.
Vì thế trong gia phả, mới thấy ghi chú " Thập Bát Quận Công, tam Tể Tướng". Nhưng danh tính các vị quận công hiển đạt trong dòng họ Vũ cho đến bây giờ, vẫn chưa ai tra cứu được, mặc dầu tại Văn Miếu Hà Nội còn có những danh bia Tiến Sĩ ghi danh tính những Ông Nghè ở dưới triều Lê, Nguyễn.
Muốn minh chứng sự khác biệt giữa hai làng Luơng Đường và Mộ Trạch chỉ cách nhau co trên dưới ba cây số ngàn, Vũ Lão Tiên Sinh đã cho chúng tôi biết thêm : trong gia phả của dòng họ Vũ còn thấy ghi rằng :
" Mộ Trạch quan, thiên hạ an,
" Lương Đường quan, thiên hạ loạn ..."
Như thế đủ rõ hai làng không liên hệ chi với nhau hết.
Về ngôi mả táng treo, Vũ Lão Tiên Sinh cũng không cho là lạ lùng chi hết, mà đó chỉ là một cái huyệt, được đào rộng ra, bốn góc trồng bốn cây cột, đầu cột có giây xích liên lạc với nhau, hài cốt đặt trong tiểu và để trên các giây xích ấy, xong rồi cho đổ đất lấp kín như các ngôi mộ khác.
VẪN CÒN NHIỀU NGHI VẤN
Với mục đích tôn trọng dư luận, chúng tôi đã trích đăng tất cả những tài liệu liên quan đến ngôi mả táng treo, do chính một bậc lão thành trong dòng họ Vũ, hiện diện ở miền Nam, nay đích thân viết cho chúng tôi, để đính chính những chi tiết chúng tôi từng đưa ra từ mấy số trước, mà Vũ Lão Tiên Sinh cho là quá hoang đường !
Sự thực, tài liệu sưu tầm của chúng tôi nếu có bị sai lạc, lầm lẩn, thì đó cũng không phải là lổi sơ sót của chúng tôi, vì chúng tôi cũng chỉ làm công việc của một người tường thuật lại những lời truyền tụng trong dân gian về ngôi mả táng treo, mà qua sự kết phát hiển hách lâu dài đã thành một giai thoại rất phô thông của quảng đại quần chúng.
Sự suy luận của chúng tôi không phải là vô căn cứ, vỉ đồng bào Bắc Việt nào, trước đây, không đã có hơn một lần, được nghe "thiên hạ đồn" về ngôi mả táng treo, cùng sự lựa chọn đứa con bé sinh đôi, nặng đồng cân hơn đứa con lớn, để đem về Trung Quốc của thầy địa lý Tàu, sau khi nhường kiểu đất quý cho Vũ Hồn - vì tự biết nhà mình bạc phước vân vân và vân vân.
Sau khi đăng tải đầy đủ những chi tiết về ngôi mả táng treo, do chính một vị lão thành, trong dòng họ Vũ đưa ra, chúng tôi xin nêu ra đây những nghi vấn đã khiến cho chúng tôi phải thắc mắc khá nhiều qua những tài liệu nói trên.
Căn cứ vào tài liệu ghi trong gia phả của họ Vũ thì Vũ Hồn là một vị đại thần Trung Quốc, không biết rõ đời nào, được bổ nhiệm làm An nam Đô Hộ Sứ, qua đây tìm được kiểu đất "Cửu Thập Bát Tú Triều Dương", có thể phát được tới "Thập Bát Quận Công, tam Tể Tướng, nên đã về Tàu, xin Triều đình cho phép mình được đem họ hàng qua lập nghiệp tại Mộ Trạch, một địa điểm cũng vô cùng đặc biệt về phong thủy, đến nổi nhà phong thủy chính tông cừ khôi là Cao Biền từ đời nhà Đường, được cử qua An nam làm Đô Hộ Sứ khi đuổi giặc Nam Chiếu, về qua làng Mộ trạch, thấy phong cảnh kỳ tú, địa thế vuông vắn, đã phải nghi ngờ trước kiểu đất Văn Học, tuyệt vời, mà gò cương chỉ roi ngựa, khen là "Tiến Sĩ sào" !
Theo những lời ghi chú trên, thì ta có thể tin tưởng được rằng : Vũ Hồn sanh vào đời nhà Đường bên Tàu, vì sau khi chinh phục được nước ta, năm Kỷ mảo, vua Cao Tôn nhà Đường, mới chia xứ Giao Châu thành 12 Châu, 59 huyện và thiết lập An Nam Đô Hộ Phủ.
Nước ta được gọi là An Nam, bắt đầu từ đây.
Trong gia phả của họ Vũ, có ghi " Vũ Hồn An Nam Đô Hộ Sứ." thì lời phỏng đoán của chúng tôi trên đây, hẳn không quá xa sự thực ?
Tuy nhiên, chúng tôi vẫn còn thắc mắc, vì qua những tài liệu lịch sử còn sót lại, chúng tôi đã cố sức dò kiếm, mà trong số quan lại nhà Đường được phái sang An Nam, tuyệt nhiên không có vị nào là họ Vũ hết !
Kể từ đời Lý Uyên, vị vua dựng lên nghiệp nhà Đường xưng hiệu là Cao Tổ Hoàng Đế, trong sử cũng chỉ thấy chép : vị quan được nhà vua cử sang cai trị Giao Châu là Đại Tổng Quản Khâu Hoa.
Sau đấy là Quang Sở Khách, Dương Tư Húc, Trương Bá Nghi, Cao Chánh Biện, Triệu Vương, Cao Biền v...v...
Không có một viên quan tàu nào họ Vũ, nhất là chức Đô Hộ Sứ cả !
Ngoài nghi vấn trên, chúng tôi còn không khỏi ngạc nhiên, về đoạn nói về Cao Biền.
Như ai nấy đều biết, không những qua lời nhân dân truyền tụng từ cửa miệng người này qua cửa miệng người khác, mà còn được ghi chép trên nhiều tài liệu giấy trắng, mực đen khác về Cao Biền thì nhà chính trị kiêm quân sự Trung Hoa này, còn có biệt tài về môn phong thủy, học được dị thuật hú gió, gọi mưa, mới nghe cứ như chuyện phong thần vậy !
Về tài năng và sự nghiệp của Cao Biền thì chính sử gia, kiêm học giả Trần Trọng Kim, đã viết trong cuốn V.N. sử Lược như dưới đây :
Mùa thu năm Giáp Thân (864) Vua nhà Đường sai tướng Cao Biền sang đánh quân Nam Chiếu ở Giao Châu.
Cao Biền vốn là danh tướng của nhà Đường văn vỏ toàn tài, rất được quân sĩ mến phục. Năm Ất Dậu (865) Cao Biền cùng quan Giám quân Lý Duy Chu đem quân sang đóng ở Hải Môn. Nhưng họ Lý không ưa Cao Biền, thường tìm mưu hãm hại.
Hai người bàn định tiến binh, Cao Biền dẫn 500 quân đi trước hẹn họ Lý đi sau tiếp ứng. Nhưng họ Lý không chịu xuất binh, Cao Biền vẫn thắng được quân giặc trong lúc chúng đang gặt lúa không kịp đề phòng.
Sau đấy nhờ có tướng Vi Trọng Tề vâng mệnh vua Đường, đem 7000 quân sang tiếp viện cho Cao Biền, nên Cao Biền lại thắng luôn mấy trận nữa, khiến cho quân Nam Chiếu hoảng sợ, chỉ lo giữ gìn thế thủ, chư không dám tấn công như trước nữa.
Cao Biền thấy thế liền viết biểu gửi vể Tàu báo tin. Nhưng sứ giả về đến Hải Môn, lại bị Lý Duy Chu bắt giữ, không cho họ Cao Biền liên lạc với Triều Đình.
Vua Đường trông đợi mải, không thấy tin tức gì của Cao Biền, phải sai sứ giả sang hỏi, thì Lý Duy Chu lại tâu dối rằng : Cao Biền án binh ở Phong Châu không chịu giao binh cùng quân giặc.
Vua Đường nghe tin ấy, nổi giận lập tức, hạ chiếu sai Vương An Quyền sang làm tướng đánh Cao Biền và triệu họ Cao về triều hỏi tội.
Ngay tháng ấy, Cao Biền phá tan được quân Nam Chiếu rồi lại tiến binh vây hãm La Thành, đã được hơn mười ngày, sắp hạ thành, bỗng nhận được tin Vương An Quyền và Lý Duy Chu sẽ sang thay mình thì biết ngay mưu kế hiểm độc của bọn gian thần, liền trao phó binh quyền cho Vi Trọng Tề rồi cùng mấy tên gia nhân thân hành đi suốt đêm về triều.
Nhưng trước đó, Cao Biền cũng đã sai người bí mật lén về kinh đô dâng biểu, trần tấu về tình trạng ở phương Nam, và nhân mạnh luôn cả sự đố kỵ của họ Lý để xin nhà vua minh xét...
Vua Đường xem biểu, biết rõ sự tình cả mừng, vội xuống chiếu thăng chức cho Cao Biền và sai họ Cao trở lại phương Nam, tiếp tục cầm binh chinh phạt Nam Chiếu.
Chẳng bao lâu binh Đường đã dẹp yên quân giặc.
Đất Giao Châu lại bị nội thuộc nhà Đường, sau 10 năm bị quân Nam Chiếu phá lại.
Vua Đường phong cho Cao Biền làm Tiết Độ sứ và đổi đất An Nam làm Tỉnh Hải...
Cao Biền trị dân có phép tắc nên ai cũng kính trọng mến phục.
Vì vậy, nhiều người tôn là Cao Vương, Cao Biền đắp lại thành Đại La ở bờ sông Tô Lịch...
Sử chép rằng Cao Biền thường dùng phép phù thủy, khiến thiên lôi phá hủy những thác gềnh ở các sông ngòi trong xứ, để cho thuyền bè đi lại dể dàng.
Tục truyền rằng : Cao Biền thấy ở bên Giao Châu ta lắm đất đế vương thường cứ cưỡi diều giấy đi yểm đất, phá hủy những chỗ sơn thủy đẹp và triệt hạ mất nhiều long mạch...
Ngoài tài liệu của Trần tiên sinh, trong dân gian còn đồn đải rằng : họ Cao thường đi khắp núi cao rừng rậm, ngõ hẽm, hang cùng, thấy nơi nào địa thế kỳ khu, phong cảnh xinh đẹp, khả dỉ nghi được là chỗ quy tụ những long mạch kết phát, là tìm cách trấn yểm, phá hủy cho kỳ được.
Đó không phải là ý riêng của Cao Biền, mà chính là y đã vâng mật chiếu của triều đình : dùng mọi phương pháp yểm trừ những huyệt đế vương, cũng như những kiểu đất kết phát khác, để mong cũng cố nền móng đô hộ lâu dài trên đất nước này.
Với trọng trách ấy, một người có căn bản vững chắc về môn phong thủy như Cao Biền, một danh tướng kiêm chính trị gia lổi lạc, đã từng xây được thành Đại La lại đào cả sông Tô Lịch để cắt đứt long mạch của chốn cố đô, thì bao giờ y lại chịu bỏ qua kiểu đất " Cửu Thập Bát Tú triều dương" và luông cả khu quý địa làng Mộ Trạch ?
Bảo rằng Vũ Hồn đã tìm thấy được ngôi đất đặc biệt đó, từ trước ngày Cao Biền được vua Đường cử sang nhậm chức Đô Hộ Sứ ở An Nam, chúng tôi e rằng giả thuyết đó cũng không được vững lắm, vì ngoài lý do không có một viên quan nhà Đường nào họ Vũ, ta còn phải kể đến những sự phiền toái, phức tạp của công cuộc di cư những con cháu trong dòng họ Vũ qua lập nghiệp ở làng Mộ Trạch, mà sau khi tìm được địa diểm hợp ý, Vũ Hồn đã về Tàu, xin phép triều đình cho đem họ hàng qua đây, lập riêng thành một kiểu giang sơn quy tụ toàn người trong họ Vũ.
Sự kiện đó có đúng không ? Nếu đúng, thì thời gian Vũ Hồn được cử làm Đô Hộ Sứ ở An Nam là năm nào, mà vị đại thần Trung Quốc ấy lại có thể tìm được đất, di cư đem con cháu qua lập nghiệp, phát đạt hiển hách làm được cả đền thờ, viết được cả câu đối, ghi nhớ công ơn người khai sáng, để khi Cao Biền có dịp đi qua, chỉ còn biết ngẫn ngơ, trước kiểu đất văn học tuyệt vời đó !
Nếu bảo rằng Vũ Hồn sang An Nam sau Cao Biền, thì giả thuyết ấy e rằng không đúng !
Vì cái chức An Nam Đô Hộ Sứ chỉ được đặt ra về đời Vua Cao Tôn nhà Đường, đồng thời với danh từ An Nam Đo Hộ Phủ.
Nhưng đến khi Cao Biền đánh thắng được quân Nam Chiếu, nước ta trở lại nội thuộc nhà Đường, thì vua Đường lại đổi An Nam làm Tỉnh Hải và phong cho Cao Biền làm Tiết Độ Sứ.
Do đấy mà chúng tôi tin rằng ngôi Mả Táng Treo chỉ có thể được an táng từ trước ngày Cao Biền qua nước ta, căn cứ vào số quan Trung Quốc "Thiên Triều" phải qua đây, trong những thời kỳ nước ta bị Bắc thuộc, không đời nào còn thấy có chức An Nam Đô Hộ Sứ nữa !
Tóm lại chúng tôi không tin rằng : ngôi mả táng treo, được táng sau thời Cao Biền đem binh sang đánh quân Nam Chiếu, vì một lẽ dể hiểu : nếu được thấy kiểu đất ấy thì một người tinh thông phong thủy như họ Cao, có đâu lại chịu bỏ qua, nhường chốn cát địa cho người khác hưởng thụ.
Nhưng ngôi mộ nếu đã không được táng trong thời kỳ Cao Biền sang bình định nước ta, thì mả ấy được táng từ đời nào ? trước đấy hay sau đấy.
Điều đáng cho ta thắc mắc nhiều hơn hết là cái chức An Nam Đô Hộ Sứ của Vũ Hồn, vì như chúng tôi đã trình bày trong kỳ trước : Xứ Giao Châu chỉ được đổi tên là An Nam từ đời Vua Cao Tôn Nhà Đường cũng như chức vị Đô Hộ Sứ, chỉ được đặt trong thời gian ít năm gần đây, cho đến khi Cao Biền dẹp tan quân Nam Chiếu, dâng biểu về triều báo tiệp, thì vua Đường lập tức đổi An Nam là Tỉnh Hải, và đặt ra chức Tiết Độ Sứ để cai trị nước ta.
Nếu bảo khu đất "Cửu Thập bát Tú triều dương" và làng Mộ Trạch, còn là những vùng hoang địa cho đến khi Cao Biền đi qua thì thật là vô lý !
Một nhà phong thủy kỳ tài lỗi lạc như Cao Biền, lại mang nặng chiếu mạng của vua Đường : phải triệt hạ trấn yểm cho kỳ hết, những kiểu đất trong những miền sơn thủy kỳ khu, quy tụ long mạch đế vương, hay công hầu, khanh tướng, thì có bao giờ lại chịu bỏ qua một kiểu đất văn học tuyệt vời như nơi có ngôi mả táng treo của Vũ Hồn và nơi quy tụ con cháu dòng họ Vũ tức là làng Khả Mộ, mà theo tài liệu ghi chú trong gia phả họ Vũ, sau được đổi tên là làng Mộ Trạch. Nhất định Cao Biền không thể nào giữ thái độ thản nhiên, bất động như thế được.
Một là nhà địa lý tài ba ấy phải chiếm đoạt lấy, để an táng hài cốt tổ phụ, nhất là vào hoàn cảnh của họ Cao lúc đó, đang bị kẻ thù âm mưu hãm hại, tìm đủ cách sàm tấu với triều đình thì một nhân vật lổi lạc văn võ song toàn, trí mưu gồm đủ như Cao Biền, rất có thể xưng hùng một cõi bằng cách tạo lập riêng biệt cho mình một sự nghiệp, bắt đầu bằng ngôi mả "Cửu Thập bát Tú", và sau đó, dùng làng Mộ Trạch để quy tụ con cháu làm vây cánh, há không phải là mưu kế vạn toàn sao ?
Hai là, nếu Cao Biền không muốn hoạt động cho sự tư lợi của mình, thì chiếu theo chiếu mạng của nhà vua, nhà phong thủy đó cũng phải phá huỷ kiểu đất, triệt hạ long mạch, để không cho một ai, lợi dụng khu cát địa ấy, ngóc đầu lên được ?
Vậy mà cả hai giải pháp trên, đều không được Cao Biền xử dụng, thì đủ hiểu vùng đất đai kỳ tú đó đã có chủ từ lâu, hoặc giả Cao Biền không hề được đặt chân đến vùng Lương Đường, Ngọc Cục một lần nào hết !
Đặt giả thuyết là ngôi mả táng treo được an táng từ khi bắt đầu có chức Đô Hộ Sứ và xứ Giao Châu được mang tên là xứ An Nam, nghĩa là vào đời vua Cao Tôn nhà Đường bên Tàu.
Đồng thời ta cũng cứ tạm tin Vũ Hồn là quan Đô Hộ Sứ đầu tiên do nhà Đường bổ nhiệm sang cai trị đất An Nam, theo như lời ghi chú trong gia phả họ Vũ mà tài liệu còn được đặt thờ trên ngai, mặc dầu trong sử sách, chúng tôi đã tốn công tra cứu, không hề thấy một viên quan văn võ, lớn nhỏ nào của nhà Đường, được phái qua đất An nam, mang họ Vũ, chứ đừng nói là chức Đô Hộ Sứ, một chức vụ nếu chúng tôi không lầm, không thua kém gì chức Thái Thú về trước, hay chức Tiết Độ sứ sau này, cũng do nhà Đường đặt ra.
Nếu tạm tin là có quan Đô Hộ Sứ Vũ Hồn, từ bên Tàu qua cai trị đất này, rồi đặt thêm một câu hỏi phụ : họ Vũ đóng doanh trại ở đâu mà lại có thể tìm được kiểu đất " Cửu Thập bát Tú triều dương" và làng Mộ Trạch để có thể sau đấy, về triều đình xin phép nhà vua cho di cư con cháu qua An nam lập nghiệp ?
Thời gian tìm kiếm được đất, trở về Tàu, rồi lại qua An Nam, theo sự chuyển vận ngày xưa, đường lối giao thông không thuận tiện, nào qua suối băng rừng, nào trèo non, vượt bể liệu mất bao nhiêu ngày tháng ?
Đó là chưa kể đến những sự trở ngại khác, rất có thể xãy ra, về phương diện chính trị, cho một viên quan nhận mệnh vua đi trấn nhậm phương xa chưa làm được điều gì đặc biệt đã lại về triều xin đem con cháu qua lập nghiệp ở nơi mình đang cai trị, thì há không sợ nhà vua nghi ngờ, và các bạn đồng liêu dị nghị rồi tìm cách ngăn cản sao ?
Ai cũng biết rằng cái nghề làm quan ỡ bên Tàu, một khi được bổ đi trấn nhậm các vùng bị nội thuộc là có một cơ hội làm giàu chắc chắn, tha hồ mà vơ vét, đục khoét, làm mưa, làm gió với đám dân đen bản xứ !
Vậy thì trước miếng mồi ngon béo bở ấy, các triều thần văn vỏ nhà Đường, đâu có dại gì mà để cho Vũ Hồn được độc quyền hưởng thụ ?
Mà không những chỉ hưởng thụ một mình, Vũ Hồn lại còn về đem con cháu, họ hàng qua An nam lập nghiệp, một cách quá dể dàng, khiến cho giờ đây, khi đọc đến đoạn này, người ta đã phải bâng khuâng tự hỏi : Trong thời đại phong kiến cực thịnh, vấn đề di dân lại thực hiện nhanh chóng đến thế sao ?
Nếu tính cộng tất cả thời gian từ lúc Vũ Hồn sang An Nam làm Đô Hộ Sứ, cho đến khi tìm được đất về Tàu, xin nhà vua đem con cháu qua thành lập làng Mộ Trạch, rồi lại tiếp tục cai trị dân An Nam, cho đến lúc chết để được mai táng trong kiểu đất Cửu Thập Bát Tú triều dương, thì thời gian tổng cộng đó là mấy năm ?, mà đến khi Cao Biền qua đấy, mọi việc đã đâu vào đấy cả rồi, nghĩa là đã có ngôi mả táng treo và làng Mộ Trạch đàng hoàng rồi, khiến cho Cao Biền đành chỉ còn nhìn kiểu đất mà tỏ ý tiếc hận.
Qua mấy kỳ vừa rồi, chúng tôi đã trình bày những nghi vấn về thời gian chính xác, của ngôi mả táng treo, và tin rằng, nếu Vũ Hồn có quả là người Trung Hoa thật sự, được làm quan tới chức Đô Hộ Sứ, thì ngôi mả ấy phải được táng trong khoảng thời gian từ năm quan Đô Hộ Sứ Khâu Hòa được bổ qua đấy đến năm quan Đô Hộ Sứ (sau là Tiết Độ Sứ) Cao Biền đem quân sang đánh quân Nam Chiếu, mặc dầu trong số các quan lại nhà Đường (xin nhắc lại thêm một lần nữa) đặt chân lên đất An nam , không hề có một ai mang họ Vũ hết, kể cả các quan lớn, nhỏ văn, võ !
Vị quy tam xích thổ nan bảo bách niên thân
Trả lờiXóaKý quy tam xích thổ nan bảo bách niên phần. Có gì là tồn tại vinh viễn đậu họa chăng là lục tự hồng danh của nhà Phật!