( Mến tặng người bạn thời thơ ấu ở phố NHÀ CHUNG - HÀ NỘI .)
2/ KIỂM TRA NGÀY BỐC VÀ DI DỜI MỘ .
A/ Trước hết cần lưu ý trong việc chọn ngày : Theo lịch Âm , tháng đủ có 30 ngày , tháng thiếu có 29 ngày . Tuy lịch xếp là vậy , xong , trong việc chọn ngày không phải cứ giở lịch ra thấy ngày 29 hoặc 30 đã là hết tháng . Ta cần phải căn cứ vào 24 tiết khí hay chỗ nào hòa trực ( Tức là hai trực giống nhau nằm kề ngày nhau ) , lúc đó mới sang tháng khác . Bởi vậy , nhiều khi đã leo qua tháng mới theo lịch 5-7 ngày mà vẫn phải tính theo tháng cũ . Nên để ý là đầu tiết bao giờ cũng đi liền 2 trực giống nhau , một trực là ngày cuối tháng , một trực là ngày đầu tháng . 12 trực KIẾN - TRỪ - MÃN - BÌNH - ĐỊNH - CHẤP - PHÁ - NGUY - THÀNH - THÂU - KHAI - BẾ , mỗi ngày là một trực . Các trực tốt nên sử dụng như sau : Trực Thành , trực Mãn đa phú quý .
Trực Khai , trực Thâu họa không vong ( Họa không tới ) .
Trực Bình , trực Định hưng nhân khẩu .B/ Một lưu ý nữa là khi coi ngày : Coi đám cưới phải theo tuổi chú rể ; Coi làm nhà phải coi theo tuổi người chồng , vợ hay cô dâu là phụ thuộc nên không bị ảnh hưởng gì ; Coi ngày giờ tẩm liệm , chôn cất , bốc mộ thì phải coi theo tuổi của người chết .
C/ Tuổi và ngày nên chọn theo Tam hợp , Lục hợp , Chi đức hợp , Tứ kiểm hợp . Tránh các ngày Lục xung , Lục Hình , Lục hại . Về Ngũ hành nên chọn ngày tương sinh hay tỷ hòa , tránh chọn ngày tương khắc .
D/ Tùy theo tháng mà khi bốc hay di dời mộ , cần phải tránh thêm các ngày Trùng tang , trùng phục , Tam tang , Thọ tử Sát chủ , Nguyệt phá , Thiên tặc Hà khôi ...
Thông thường , khi bốc hay di dời mộ , người ta tránh làm vào các tháng hè nóng nực mà thường chọn vào các tiết từ cuối thu ( Thu phân - Hàn lộ ..) cho tới trước tiết Đông Chí . Sau đó qua năm thường chọn từ Kinh chập , Xuân phân tới tiết Thanh Minh .
E/ MỘT SỐ NGÀY CẦN QUAN TÂM :
1/ NGÀY ÁC SÁT : Các ngày Giáp , Canh Tý - Giáp Tuất - Quý Mùi - Mậu Thìn - Ất Hợi - Mậu Dần . Không kể tháng nếu gặp các ngày này là Ác Sát .
2/ NGÀY THẬP ÁC ĐẠI BẠI : Giáp , Canh Thìn - Ất , Tân Tỵ - Bính , Nhâm Thân - Đinh Dậu - Mậu Tuất - Kỷ Sửu , Hợi .
3/ NGÀY BẠCH HỔ ĐẠI SÁT :
Tuần Giáp Tý : Ngày Thìn , Tuất . Tuần Giáp Tuất : Ngày Đinh Sửu . Tuần Giáp Thân : Ngày Bính Tuất . Tuần Giáp Ngọ : Ngày Ất Mùi . Tuần Giáp Thìn : Ngày Quý Sửu . Tuần Giáp Dần : Ngày Nhâm Tuất .
4/GIỜ THIÊN LÔI :
Ngày Giáp , Ất giờ Ngọ . Ngày Bính , Đinh giờ Tuất . Ngày Canh , Tân giờ Sửu . Ngày Nhâm , Quý giờ Mão .
5/ THIÊN SƯ SÁT THEO GIỜ :
Ngày Dần , Thân , Tỵ , Hợi giờ Thìn , giờ Hợi .
Ngày Tý , Ngọ , Mão , Dậu giờ Thìn , Dậu .
Ngày Thìn , Tuất , Sửu , Mùi giờ Thìn , Mùi .
6/ GIỜ KHÔNG VONG :
Ngày Giáp Thân giờ Kỷ Dậu .
Ngày Ất Mùi giờ Canh Ngọ .
Ngày Bính Thìn giờ Tân Tỵ .
Ngày Đinh Mão giờ Nhâm dần .
Ngày Mậu Tý giờ Quý Sửu .
7/ GIỜ NHẬP QUAN KIÊNG HỒN NGƯỜI SỐNG :Ngày Giáp , Ất giờ Mão .
Ngày Bính , Đinh kiêng giờ Sửu .
Ngày Mậu , Kỷ kiêng giờ Hợi .
Ngày Canh , Tân kiêng giờ Sửu .
Ngày Nhâm , Quý kiêng giờ Thìn .
8/ NGÀY SÁT SƯ : Ngày Giáp Tý , Canh Ngọ : xấu với người nhà .
Ngày Bính Tý , Ất Mùi : Sát người Thày .
Ngày Nhâm Tý : Không lợi cho tất cả .
9/ NGÀY THẬP ÁC ĐẠI BẠI KIÊNG VIỆC HUNG :- Năm Giáp Kỷ - Tháng 3 - Ngày mậu Tuất .Tháng 7 - Ngày Quý Hợi . Tháng 10 ngày Bính Thân . Tháng 11 ngày Đinh Hợi .
Năm Ất , Canh - Tháng 4 ngày Nhâm Thân . Tháng 9 ngày Ất Tỵ .
Năm Mậu , Quý : Tháng 6 ngày Kỷ Sửu .
Năm Bính , Tân : Tháng 3 ngày Tân Tỵ . Tháng 9 ngày Canh Thìn . Tháng 10 ngày Giáp Thìn .
Năm Đinh , Nhâm không phải kiêng .
10/ GIỜ LIỆM KIÊNG MỘC VÂY QUANH QUAN TÀI :Ngày Tý giờ Dậu .
Ngày Sửu giờ Ngọ .
Ngày Dần giờ Dần .
Ngày Mão giờ Sửu .
Ngày Thìn giờ Tuất .
Ngày Tỵ giờ Tỵ.
Ngày Ngọ giờ Thìn .
Ngày Mùi giờ Hợi .
Ngày Thân giờ Thân .
Ngày Dậu giờ Mùi .
Ngày Tuất giờ Mão .
Ngày Hợi giờ Tý .
dienbatn đã post cuốn ĐỔNG CÔNG TUYỂN TRẠCH NHẬT YẾU LÃN trong Blog này , các bạn theo sách mà dùng là an tâm không cần phải đi Thày xem ngày .
3/ CÔNG VIỆC CẦN CHUẨN BỊ TRONG NGÀY BỐC HAY DI DỜI MỘ .Thông thường sau khi chọn được ngày bốc mộ , người Thày cũng cần phải xem giờ bốc mộ cho thân chủ . Tùy theo giờ tốt mà bốc , nhưng tất cả cùng phải chung một điều là bốc mộ phải làm vào ban đêm . Việc này nhằm tránh cho xương cốt gặp ánh sáng sẽ bị đen đi . Khi bốc mộ , người ta thường đào trước phần lớp đất ở phía trên trước , sau đó đúng giờ tốt mới bắt đầu mở tấm ván Thiên lên ( Tấm ván Thiên là tấm ván trên nóc quan tài ) .
Trước khi tiến hành bốc mộ , người nhà phải có làm một cái lễ tại Gia tiên để trình báo Tổ tiên . Tại nơi bốc hài cốt ngoài nghĩa trang cũng phải có một cái lễ trình Quan Thần Linh sở tại . Thông thường là một bộ đồ Quan Thần Linh ( Áo , mũ , ủng ) , ngựa và 1000 vàng hoa màu đỏ , giấy tiền vàng bạc , trầu cau , rượu , thuốc , đèn nến , gạo muối . Nhiều nhà còn cúng thên Tam sên ( trứng vịt luộc + Thịt lơn luộc và một nhúm tôm khô bóc vỏ ) , xôi , gà trống luộc nguyên con ....
Vật dụng cần thiết cho quá trình bốc mộ là một cái tiểu sành , một cái quách đặt làm sẵn , một miếng vải đỏ , một tấm ni lông , vài chai rượu nặng và nước Vang ( Còn gọi là nước ngũ vị hương - Đừng nhầm với gói ngũ vị hương để nấu Ca ri - Gói Vang có bán sẵn ở tiệm thuốc Bắc ) . Một vài cái xô , chậu nhựa để rửa xương .
Phần lớn việc bốc mộ diễn ra vào lúc nửa đêm, tuy nhiên tốp thợ thường phải thức trọn đêm cùng gia chủ làm công việc chuẩn bị như cúng bái và chuyển hài cốt sang mộ mới. Trung bình để bốc xong một ngôi mộ, mỗi tốp thợ phải làm việc quần quật suốt hơn một tiếng đồng hồ. Trước khi đào, họ phải xác định vị trí huyệt thật chính xác, nhiều ngôi mộ do chôn thời gian lâu, quá trình tu sửa bị sai lệch vị trí so với ban đầu, nếu không biết cách sẽ phải đào rất vất vả, có khi đào nhầm sang mộ bên cạnh. Công việc bốc mộ thường là do những người chuyên môn bốc mộ đảm nhiệm . Khi ván Thiên được cậy ra , người ta phải đổ vài chai rượu có nồng độ cao vào quan tài để tảy rửa âm Khí . Sau đó mới tiến hành lấy cốt . Nhiều khi gặp trường hợp hài cốt chưa phân hủy hết , người ta phải dùng xăng đổ vào mộ và đốt cháy thịt còn sót , sau đó phải dùng dao dóc những mảnh thịt còn lại và đem rửa bằng nước vang . Sau khi nhặt hết cốt , rửa sạch , người ta trải tấm ni lông ở dưới , tấm vải đỏ ở trên và lần lượt xếp xương theo thứ tự của người . Riêng cái sọ phải dùng trà hoặc vải kê để cho mặt hướng lên trên . Mọi thứ xương phải kiểm tra cho đủ , không được phép thiếu .Có một cách mà dân gian thường sử dụng để kiểm tra đó là: sau khi “đãi cốt” xong, người ta thường cắm một bó hương to giữa lòng đáy huyệt, nếu làn khói quyện lại, bay thẳng lên có nghĩa đã hết cốt, nếu làn khói tỏa xuống, lởn vởn trong lòng huyệt có nghĩa là xương cốt của người chết chưa hết, cần phải kiểm tra lại.
Sau khi hoàn tất , người ta đóng nắp tiểu lại .
Phần 2 :
1/ VỀ TRẬN ĐỒ BÁT QUÁI :
Đã có nhiều lần người viết đề cập đến Trận đồ Bát quái này. Tên đầy đủ là BÁT QUÁI THIÊN ĐỒ TRẬN. Tục truyền rằng trận đồ này do hậu duệ của Khổng Minh Gia Cát Lượng lưu truyền lại từ xưa qua bao thăng trầm của dòng họ. Trận pháp này chỉ truyền lại cho đời sau, mỗi đời một người nắm giữ. Sau này vì một lý do nào đó lọt ra đến ngoài, nhưng số người nắm giữ được bí mật này cũng rất ít. Sư phụ của người viết là một trong số những người được truyền lại và tiếp tục truyền lại cho người viết trận đồ Bát quái này. Vì không được phép phổ biến nên người viết chỉ có thể nói sơ qua một chút để các bạn hình dung. Đây là một trận pháp áp dụng theo Bát môn có các cửa : Hưu - Sinh - Thương - Đỗ - Cảnh - Tử - Kinh - Khai. Trận đồ này áp dụng theo thuật số của Hà đồ - Lạc thư với hai vòng quay thuận - nghịch theo Thời gian. Trận đồ này bao gồm tổng hợp những thủ thuật dùng trong Phong thủy, Dịch lý, Thái ất.... với rất nhiều loại Linh phù, Chú của Tiên gia...Thường khi thực hiện, Pháp sư dùng 9 hũ bằng gốm, đặt theo 9 phương vị của Trời đất. Trong 9 hũ đó chứa đựng 5 thứ kim loại : Vàng - Bạc - Đồng - Chì - Sắt và rất nhiều loại Linh phù Trấn trạch ( Âm hoặc Dương trạch ). Trận đồ này chỉ được phép thực hiện trong một số ngày nhất định mà thôi. Người ta có thể dùng đèn cầy , nhang , đá hay bản thân người để thực hiện Trận đồ này tùy theo mục đích công việc. Công dụng của Trận đồ này qua hàng ngàn năm đã chứng tỏ uy lực mạnh mẽ của nó : Dùng trấn Âm , Dương trạch ( kể cả Chùa chiền, nhà cửa, Kinh thành, hoá giải được những Trấn yểm...). Người viết chưa đủ Năng lượng để thực hiện những Trận đồ với quy mô lớn, nhưng có dùng để Trấn trạch và hoá giải những cuộc đất xấu, những ngôi mộ bị Trùng tang liên táng hoặc phát sinh những việc xấu sau khi tang... đều thấy hiệu quả rõ rệt. Đã từng có hai lần, trong hai căn nhà có thực hiện Trận đồ Trấn trạch, khi bị kẻ trộm viếng thăm, do tác dụng của Trận đồ xoay chuyển , kẻ trộm vào được trong nhà, nhưng như bị u mê, không biết được đường ra, mặc dù một nhà thì chìa khóa cửa còn cắm ở trong ổ, một nhà thì để cửa trống. Hai tên trộm, một tên bị hàng rào đè giữ lại và bị bắt ( Tại Nghệ an ), một tên khi sực tỉnh phải nhẩy từ tầng hai xuống bị què chân (Tại Hà Nội ). Đây là hai chuyện có thật 100 %, nếu bạn nào quan tâm , người viết sẽ cung cấp địa chỉ để tìm hiểu. Trận đồ Bát môn này quay đủ 360 độ theo thời gian theo hai vòng thuận nghịch nên có thể hóa giải được Cửu tinh của Huyền không . Lý thuyết về Trận đồ rất phức tạp , người viết không nêu ra ở đây.
Có lần người viết kết hợp với một bậc thầy phong thuỷ khác đi làm mộ cho một Gia đình hậu duệ 9 đời của Mạc Thiên Tích. Ngôi mộ này, không hiểu lý do gì, cứ mỗi lần đắp lên , xây xi măng cẩn thận , nhưng chỉ ít ngày sau lại bị sụp và chỉ sụp ở một góc đầu mộ. Sự sụp mộ này kéo theo tình trạng thê thảm của người con trai lớn trong gia đình. Người viết cùng Thiên sứ khảo sát thấy rằng ngôi mộ nằm bên cạnh một dòng nước chẩy ngầm phía dưới và chính hiện tượng này gây sụp phần mộ. Hai anh em không biết tính làm sao để có thể ngăn cản dòng nước ngầm đi ngang qua đầu mộ. Bàn đi , tính lại mãi , cuối cùng người viết quyết định dùng BÁT QUÁI THIÊN ĐỒ TRẬN để hóa giải. Lúc này , người viết mới được Ân Sư truyền dạy môn này , thật tình cũng không được tin tưởng cho lắm. Nhưng vì không thể có cách nào khả dĩ hơn nên hai anh em quyết định thực hiện BÁT QUAI THIÊN ĐỒ TRẬN này để cứu nguy cho thân chủ của mình. Sau khi chọn được ngày tháng kỹ lưỡng , hai anh em cùng Gia đình họ Mạc bắt tay trấn yểm ngôi mộ. Thiên sứ có bấm một quẻ : Nếu Trận đồ thành công thì sau khi Trận đồ Trấn yểm được thực hiện , khoảng 30 phút sau , tại địa điểm bố trí Trận đồ sẽ có mưa to. Tất cả mọi người đều không tin vì lúc đó đang mùa khô thì làm sao mà có mưa cho được???
Sau khi bố trí xong mọi việc , người viết bắt đầu thực hiện việc trấn yểm theo đúng bài bản mà Ân Sư đã truyền dạy. Công việc được tiến hành tốt đẹp trong khoảng hơn một tiếng đồng hồ. Sau đó về một quán bia gần bên cạnh đợi Trời mưa. Sau 25 phút Trời vẫn cứ nắng chang chang , người viết và Thiên sứ tưởng chừng không phải uống bia Heineken nữa mà là đang uống những viên Kí ninh. 26, 27 , 28 phút trôi qua trong lo âu , hồi hộp. Tới phút thứ 29 , bỗng trên đầu bắt đầu vần vũ một đám mây đen và sang phút thứ 30 , Trời đổ mưa ầm ầm. Điều kỳ lạ là đám mưa chỉ xẩy ra trong vòng bán kính 500 m , xung quanh Trận đồ Trấn yểm. Có lẽ trong cuộc đời của người viết và của cả Thiên sứ , chưa bao giờ có được một trận mưa đáng ghi nhớ như thế. Trời đã không phụ lòng người , lời cầu xin đã thấu tới tai Ngọc Hoàng Thượng Đế. Rồi từ đó về sau này , ngôi mộ của dòng họ Mạc không còn bị sụp nữa , con cháu bắt đầu làm ăn khá dần. Đây cũng là một kỷ niệm đẹp của người viết về một Trận đồ Trấn yểm.
Resized to 97% (was 768 x 576) - Bấm vào hình dể xem theo kích thước thật
2/ VÍ DỤ CHỨNG NGHIỆM THỨ NHẤT:
T
Tại Huyện Đức Thọ có một khu vực khác nữa kết phát Long Huyệt với tình thể rất lớn. Đây là một khu vực ven bờ sông La ( Ở phía ngoài đê chính - Ở ngoài có một con đê phụ ) . Con sông La và một nhánh của nó ôm vòng lấy một cánh đồng rất rộng - Trong đó có khu địa Huyệt . Con sông La và nhánh của nó chảy tới đây lững lờ như quyến luyến không muốn đi . Nhánh của sông La chảy nghịch Thủy , tạo thêm sinh khí rất mạnh cho toàn khu vực . Tại khu vực này là một vùng có Long khí rất mạnh , nơi phát tích nhiều đời Vua , Quan thuộc loại Tứ trụ Triều đình . Trở lại vùng Địa Huyệt đang xét , ta nhận thấy đây là một bày Long rất lớn có dạng như một bày Quy ( Rùa ) . Cách bờ sông chừng 500 m là cả một bày Quy có dáng như vừa bò từ dưới sông lên . Tại khu vực Địa Huyệt là một con Quy rất lớn đang đẻ trứng , đầu Quy hướng về phía cung Khôn , đuôi Quy về cung Cấn . Ổ Trứng Quy nằm trong cung Quý . Toàn bộ 4 ngôi mộ Tổ dòng họ Hà được đặt trong ổ trứng này . Chỉ tiếc là tại hướng Chấn - Phía Đông có mấy lò gạch đã đào đất làm gạch rất sâu , phá mất Long mạch tại chi Thứ ( Thường là những vùng có Long mạch , đất kết thành loại đất sét rất tốt cho làm gạch ) . Do vậy Long mạch này chỉ phát được chi Trưởng , làm đến chức Tam công mà chi Thứ lại vẫn yếu hèn . Đằng trước Long Huyệt có những gò đất nổi lên hình cái Trống , cái Bảng , lá cờ. Do vậy mà con cháu những người táng tại khu vực này học rất giỏi và thành tài ở khắp nơi trong và ngoài nước. Khu vực Long Huyệt này nằm tại làng Vĩnh Đại - Xã Đức vinh - Huyện Đức Thọ - Tỉnh HÀ TĨNH . ( Trích trong BÍ MẬT ĐẰNG SAU NHỮNG THÀNH ĐẠT CỦA CON NGƯỜI TẠI MỘT VÙNG QUÊ HÀ TĨNH . )
dienbatn đã về khảo sát và nghiên cứu rất kỹ hình thế tại khu vực này do lời mời của con cháu dòng họ Hà ( Trong đó có anh Hà Thạch - Hiện là Phó Chủ tịch tỉnh Hà Tĩnh ) . Để có thể hóa giải việc những cái Lò gạch phá nát Long mạch tại cung Chấn , làm toàn bộ các chi thứ của dòng họ không phát lên được , không thể dùng phương pháp Hoàn Long như bình thường được . Qua khảo sát , dienbatn biết rằng , trong nghĩa trang còn có mộ của cụ Hà Văn Đô là cụ đời thứ 5 của dòng họ , chưa được xây mộ , hiện tại chỉ có một nấm mộ đất thấp tè . Những người trong họ cho biết tên , năm sinh , năm mất của cụ Hà Văn Đô để dienbatn làm lễ . Trong suốt 3 ngày liền làm lễ , vong hồn của cụ Đô không có một ấn chứng và biểu hiện gì cả . Tức quá , dienbatn điện về hỏi chị Mai tại Thái Bình . Qua điện thoại , chị Mai cho biết là người nhà đã cung cấp sai năm sinh , năm mất của cụ , nên cụ tự ái không về . dienbatn liền nhờ các cụ lớn tuổi trong dòng họ Hà xem lại và quả đúng như chị Mai nói , các số liệu về năm sinh của cụ Đô lần trước là không chính xác . Lần thứ tư làm lễ , thỉnh vong của cụ Đô về là cụ về liền . Lần này cụ còn hăng hái chỉ vẽ cho cách làm , kiểu dáng của mộ cụ như thế nào . Khi dienbatn ngồi tịnh trong Đàn tràng , hình thế mộ của cụ Đô thấy thật rõ nét và cứ như là một hình ảnh 3D vậy . Ngày hôm sau , cứ nguyên mẫu mộ do cụ Đô chỉ , dienbatn vẽ kiểu cho thợ làm . Kết quả là nấm mộ của cụ Hà văn Đô như hình các bạn thấy ở trên . Cũng trong lần làm mộ cụ Đô , dienbatn tiến hành lập BÁT QUÁI THIÊN ĐỒ TRẬN , di chuyển cung Chấn về phương vị khác . Kết quả thật khả quan , chỉ 100 ngày sau , các chi thứ đã bắt đầu có những tiến bộ đáng kể trong quan trường . Đây cũng là một kỷ niệm khó quên tại Hà Tĩnh của dienbatn .dienbatn và anh Hà Thạch -( PCT tỉnh Hà Tĩnh ) .
MỘT CHÚT KIẾN THỨC ĐỘN GIÁP TRONG BÁT QUÁI THIÊN ĐỒ TRẬN .
Như dienbatn đã viết ở phần đầu : " Theo sử sách còn truyền lại,từ khi Phục Hy lập ra Bát quái định Thiên đồ,xa thì trông Thiên văn,đại Địa,gần thì trông ở người,vật,toàn đồ Vũ trụ quan bao gồm Thiên -Địa -Nhân.
THIÊN :Tinh ba là Nhật -Nguyệt -Tinh.
ĐỊA :Tinh ba là Thủy -Phong -Hỏa.
NHÂN :Tinh ba là Tinh -Khí -Thần.
Tất cả các thành phần trên gọi chung là Đại đạo,mỗi thành phần đều sống động.
THIÊN ĐẠO :Là sự vận hành các phần tử Thiên hà,Thiên hệ,Tinh tú châu lưu an toàn trong khoảng không theo một trật tự nhất định.
ĐỊA ĐẠO :Thủy -Hỏa-Phong châu lưu khắp nơi nhằm sinh hóa và nuôi dưỡng vạn vật.
NHÂN ĐẠO :Là cái đức lớn của Thiên -Địa,Tinh khí tươi nhuận thì Thần mới minh.
Vũ trụ toàn đồ luôn sống động,nếu ngưng ,nghỉ tức là hoại ,là diệt.
Một Cảnh giới hài hòa tạo được sự an lạc,hạnh phúc cho mọi người tức là cả ba thành phần phải tốt tương ứng thể hiện đủ đức tính của Đại đạo.Vì thế ,các bậc Tiền nhân luôn có ước muốn tạo cho mình và cộng đồng một Cảnh giới Chân -Thiện -Mỹ,họ chiêm nghiệm ,học hỏi từ Thiên nhiên địa vật,tạo nên nền tảng Kiến trúc .Nhân giới luôn hài hòa với Tam tài (Thiên văn,Địa thế,Nhân sinh ),nên gọi là thuật Phong thủy.Phong thủy cũng dựa vào trên nền tảng Quái đồ,Hà Lạc. "
1/ TRONG HỆ TỌA ĐỘ THỜI GIAN CỦA THẾ GIỚI LOÀI NGƯỜI:
Vạn vật và loài người trên Trái Đất khi vận động và sinh tồn đều phải chịu ảnh hưởng của ba yếu tố Nhật - Nguyệt - Tinh . Đây chính là những năng lượng cực kỳ hùng hậu tác động vào môi trường sống của con người và muôn loài trên TRÁI ĐẤT ( Ở đây ta cần phải mở ngoặc nói rõ là trên Trái Đất chứ chưa phải là trên mọi chiếu không gian khác nhau ) . Vạn vật trên Trái đất chịu sự chi phối , tác động của Nhật - Nguyệt - Tinh theo từng vị trí không gian tức thời , tức là theo từng lát cắt của Thời gian . Theo từng tọa độ tức thời của Thời gian ( hay lát cắt ) , mà mọi vật có những thù hình khác nhau về tính nết , sức khỏe , tuổi thọ , sự thành đạt . .. Trong Tử vi , Bát tự Hà - lạc , Tử Bình , Tứ trụ , người ta đều dựa trên đặc tính , tính chất của Nhật- Nguyệt - Tinh tại từng thời điểm đó mà tính toán vận mệnh của con người .
Từ xưa , các nhà nghiên cứu về Dịch học cho rằng : nếu Thiên can là Ất - thì chu kỳ vận động của nó là Ất kỳ , tương ứng với sự ảnh hưởng vận động của Mặt Trời ; Nếu Thiên can là Bính - thì chu kỳ vận động của nó là Bính kỳ , tương ứng với sự ảnh hưởng vận động của Mặt trăng ; nếu Thiên can là Đinh - thì chu kỳ vận động của nó là Đinh kỳ , tương ứng với sự ảnh hưởng vận động của các Tinh tú . Chu kỳ vận động của Tam Kỳ ( Ất kỳ , Bính kỳ , Đinh kỳ ) và sáu nhóm Thiên can : Mậu , Kỷ , Canh , Tân, Nhâm , Quý phản ánh tác động của Nhật- Nguyệt - Tinh lên vạn vật trên Trái Đất , tạo ra những tính chất cá biệt của số phận vạn vật và con người . Trong Thập thiên can , vị trí Giáp bị ẩn đi ( nên gọi là ĐỘN GIÁP ) . Có lẽ ngày xưa các nha nghiên cứu đã nhận xét sự tác động của 9 hành tinh trong hệ Mặt trời nên đã tính toán tác động của 9 hành tinh này qua 9 vận hạn của con người ( Thái Dương , Thái Âm , La Hầu , Thổ Tú , Thủy Diệu , Thái bạch , Kế Đô , Vân Hớn ) và 9 hạn ( Huỳnh Tuyền , Tam kheo , Ngũ Mộ , Thiên Tinh , Toán Tận ,Thiên La , Địa Võng , Diêm Vương ) .
Độn Giáp còn có một tên khác nữa là Thái Ất ( Thái tức là quá ). Trong vòng vận động các vị trí không gian , lần lượt tính chất âm dương được biểu thị qua Thập Thiên can . Giáp - Dương , Ất - Âm ...Trong trường hợp này , khi Giáp đã ẩn đi , can Ất lại đứng đầu trong chu kỳ vận động của Nhật- Nguyệt - Tinh , phần nào Ất bị thái quá nên các nhà Dịch học gọi là Thái Ất . Để có thể tính toán từng vị trí tức thời các tác động của Nhật- Nguyệt - Tinh lên Trái đất , người ta đã định lượng về Âm - Dương ( Tỷ lệ ) tại từng Tiết Khí ( Một năm có 24 Tiết Khí - Đây là đơn vị Thời gian của Độn Giáp ) , tỷ lệ đó người ta gọi là CỤC . Như vậy , người ta đã xây dựng được Hệ thức lượng Độn Giáp ( Tức là tỷ lệ ÂM - DƯƠNG theo đơn vị Thời gian là Tiết Khí ) và qua đó người ta có thể dự đoán về sự diễn biến các sự vật , con người được sinh ra tại lát cắt Thời gian đó .
2/ TRONG MỌI CHIỀU KHÔNG GIAN TÍNH THEO HỒNG BÀNG DỊCH :
Việc tính toán này không chỉ áp dụng cho con người trên Trái đất , mà có thể tính toán cho tất cả các Thế giới vô hình khác ở các chiều Không gian khác nhau , dienbatn xin không nêu ra ở đây vì tính chất cực kỳ phức tạp của nó . Riêng Thế giới loài người trên Trái Đất , ở hệ Tọa độ Đề các là không gian 3 chiều , kết hợp chiều của Thời Gian , người ta chia ra làm 4 Kỷ Nguyên của Nhân loại ( Điều này Dịch học bình thường chưa hề có khái niệm ) . Bốn Kỷ nguyên đó là :
1/ KHẢM - THÁI ÂM TẠI HƯỚNG BẮC - Kỷ Nguyên THÁI ÂM ( HỦY ) - HẬU THIÊN LÀ CHỦ ĐẠO .
2/ CHẤN MỘC HƯỚNG VỀ BẮC - KỶ NGUYÊN THIẾU DƯƠNG ( THÀNH ) - TIÊN THIÊN LÀ CHỦ ĐẠO .
3/ LY - THÁI DƯƠNG HƯỚNG VỀ BẮC - KỶ NGUYÊN THÁI DƯƠNG ( THỊNH ) - TIÊN THIÊN CHỦ ĐẠO .
4/ ĐOÀI - THIẾU ÂM HƯỚNG VỀ BẮC - KỶ NGUYÊN THIẾU ÂM ( SUY ) - HẬU THIÊN CHỦ ĐẠO .
Đó là 4 pha quan trọng nhất trong quá trình tiến hóa nhân loại .
Trong BÁT QUÁI THIÊN ĐỒ TRẬN , người ta dùng thuật toán Thái Ất để tính được vòng sao BÁT TƯỚNG LÂM MÔN , từ đó có thể biết được những thăng trầm của ngôi mộ , từ đó có cách xử lý thích hợp khi thời gian thay đổi . Trong việc dùng BÁT QUÁI THIÊN ĐỒ TRẬN để hóa giải những điều bất lợi cho khu mộ dòng họ Hà , dienbatn đã thực hiện việc xử lý một ngôi mộ Tổ của dòng họ theo Thái Ất và kết quả là có một ngôi mộ như hình sau . Thời gian qua đã chứng minh cách xử lý đó hoàn toàn chính xác .
Kính Thầy và chào chú Dienbatn,
Theo như VinhL được biết thì Thái Ất và Kỳ Môn là 2 môn khác nhau, tuy có thể xuất từ một nguồn. Thái Ất có 72 cục dương và 72 cục âm. Lấy Ngũ Tý làm 1 Nguyên có 72 năm, 1 Kỷ 360 năm có 5 Nguyên. Kỳ Môn có 9 cục dương và 9 cục âm. Lấy Lục Giáp làm 1 Nguyên. Tam Nguyên Thượng Trung Hạ là 180 năm.
Kỳ Môn trong Thái Ất thì gọi là 9 Sao Phép Tôn, phương pháp tính toán có chút khác hơn Kỳ Môn Độn Giáp.
Thái Ât theo như “Thái Ất Thần Kinh” thì là một sao, không phải là Thiên Can Ất, 3 năm, tháng, ngày, hoặc giờ thì dời 1 cung tùy theo tứ Kể Năm Tháng Ngày Giờ, 24 số đi hết một vòng 8 cung.
Nhìn qua hình chụp của Chú thì VinhL thấy vòng dưới ngoài là Tiên Thiên Bát Quái, vòng trên trong là Hậu Thiên Bát Quái Văn Vương, lấy số 1 của Tiên Thiên và Hậu Thiên làm mốc, Tiên Thiên đi nghịch mà Hậu Thiên đi thuận.
Tiên Thiên Vòng Ngoài:
|:: Cấn, ::: Khôn, ::| Chấn
:|: Khảm, ____, |:| Ly
||: Tốn, ||| Càn, :|| Đoài
Hậu Thiên Vòng Trong:
||: Tốn, |:| Ly, ::: Khôn
::| Chấn, ___, :|| Đoài
|:: Cấn, :|: Khãm, ||| Càn
Hợp Tiên Thiên và Hậu Thiên lại:
|:: ||: Sơn Phong Cổ, ::: |:| Địa Hỏa Minh Di, ::| ::: Lôi Địa Dự
:|: ::| Thủy Lôi Truân, _______________ , |:| :|| Hỏa Trạch Khuê
||: |:: Phong Sơn Tiệm, ||| :|: Thiên Thủy Tụng, :|| ||| Trạch Thiên Quải
Nhìn vào hình thì không thấy Bát Môn, Tám Tướng hoặc các phù Lục Đinh, Lục Giáp, như vậy chắc không phải là theo Kỳ Môn Độn Giáp.
Không biết chú có thể bật mí một chú về cách an hai vòng Tiên Thiên và Hậu Thiên để hậu học như VinhL có thể tự nghiên cứu mà khám phá cái lý lẻ bên trong.
Chân Thành Cám Ơn
Kính.Thân gửi VinhL.
Phải công nhận kiến thức về Thái Ất và Kỳ môn độn giáp của bạn rất vững , chỉ nhìn nhận hình chụp mà luận ra được như vậy cũng đáng nể phục . Tuy nhiên dienbatn thực hiện làm mộ vừa theo những điều đã viết ra để mọi người đọc theo những kiến thức thông thường , mặt khác vừa sử dụng Huyền môn theo Vô vi nên bạn không nhận ra được trên hình là điều tất nhiên. Nếu có duyên , dienbatn sẽ chỉ cho bạn thêm một chút về HỒNG BÀNG DỊCH thì chắc rằng bạn sẽ tiến rất xa . Thật vui vì vì dienbatn thấy mình không bị đơn độc hay khùng điên vì cứ chúi mũi vào những cái " mê tín di đoan " này . Thân ái . dienbatn .
Theo tài liệu của VinhL có thì, Thiên Phúc Trận phía Bắc, Địa Tải Trận phía Nam, Phong Dương Trận phía Tây, Vân Thùy Trận phiá Đông, Long Phi Trận Đông Nam, Hổ Dực Trận Tây Bắc, Điểu Tường Trận Đông Bắc, Xà Bàn Trận Tây Nam.
Phong Hậu (Thái Bạch Âm Kinh) Bát Trận gọi là Ác Kỳ Đồ, Thiên Trận Càn Tây Bắc, Địa Trận Khôn Tây Nam, Điểu Tường Trận Ly Nam, Vân Trận Khảm Bắc, Phong Trận Tốn Đông Nam, Phi Long Trận Chấn Đông, Xà Bàn Trận Cấn Đông Bắc. Càn Khôn Tốn Khảm là Cửa đóng, Chấn Đoài Ly Cấn cửa mở.VinhL
Biết tên trận thì rất nhiều người biết, nhưng hiểu được trận thì không có bao nhiêu. Tuy chưa nghiên cứu sâu vào trận pháp nhưng rất muốn trao đồi kiến thức học thuật về trận pháp với bạn nên VinhL lập trận này mời bạn vào phá trận!!!
VinhL dùng 12 Vạn âm binh, chia làm Lưỡng Nghi, Thiên và Địa (Nội Ngoại), mồi Nghi được 6 Vạn hay 60000. Mồi nghi lại chia theo 10 Can mỗi can được 6000. Mồi Can ghép với 6 chi, mồi can chi có 1000. Tất cả có , 6 Giáp Thiên Địa, 6 Ất Thiên Địa, 6 Bính Thiên Địa, vv......
Có 9 Đạo Phù, 6 Phù Lục Giáp, 3 Phù Tam Kỳ. Phù án theo Cục.
Trận có 8 Trận, Thiên trận quẻ Càn, Địa trận quẻ Khôn, Long trận quẻ Chấn, Phong trận quẻ Tốn, Vân trận quẻ Khảm, Điểu trận quẻ Ly, Xà trận quẻ Cấn, Hổ trận quẻ Đoài. Mồi cung tùy theo 9 tinh (Bồng Nhậm Xung Phụ Anh Nhuế Trụ Tâm) gia lâm mà bày trận.
Cửa có 8 cửa, Hưu Sinh Thương Đổ Cảnh Tử Kinh Khai. Môn theo 9 tinh gia thời 1 đóng 1 mởi. Tinh gia thời can dương thì mở, thời can âm thì đóng. Đóng thì không phá trận được.
Thần có 8 Thần, Trực Phù, Đằng Xà, Thái Âm, Lục Hợp, Câu Trần, Chu Tước, Cửu Địa, Cửu Thiên, phân bố theo Chi của Tuần Giáp mà có Bát Thần Lâm Môn trấn giữ 8 cửa.
Tướng có 12 Thiên Tướng Thần Hậu, Đại Cát, Công Tào, Thái Xung, Thiên Cương, Thái Ất, Thắng Quang, Tiểu Cát Truyền Tòng, Hà Khôi, và Đăng Minh, phân bố theo Nguyệt Tướng, 4 tướng cư tứ chính, 4 tướng cư tứ duy, 4 tướng giữ 4 góc trung cung.
Cục 5 ngày đổi 1 cục, sau Đông Chí cục Dương, sau Hạ Chí cục Âm.
9 Tinh 10 giờ (giờ âm bằng 2 tiếng) đỗi một lần (tức theo lục giáp tuần)
8 Môn mồi giờ mỗi xoay, đóng mở tuỳ theo Tinh gia thời can.
Phương Thức Phá Trận:
Trước hết phải biết Cửa ở đâu đóng, cửa ở đâu mở. Chỉ có cửa mở mới phá được. Muốn vào được cửa thì phải cửa nào ở đâu Thần gì lâm môn. Qua cửa thì phải Sát Thần (phải biết Ngũ hành của Thần là gì mà ứng phó).
Qua được cửa thì phải biết trận đang diễn là trận gì? Quân nào thuộc Can Thiên Địa nào (6 Giáp Thiên Địa, 6 Mậu Thiên Địa, vv...) đang diễn và tướng nào trong 12 Thiên Tướng đang chỉ quy. Biết được trận đang diền là trận gì thì phá được. Biết được Tướng đang giữ là tướng nào trong 12 tướng thì bắt được, giết được. Phải phá hết 8 trận thì mới bắt được Chủ Soái. Lâm Môn Sát Thần, Phá Trận Chém Tướng thì phải ứng dụng Ngũ hành Sinh Khắc.
Nhớ là Trận mỗi giờ mỗi đổi. Sau đây là Trận lập trong giờ Kỷ Mùi.Ngày 7 Tháng 6, 2009 Dương Lịch, Âm lịch tức ngày 15 Quí Mùi Tháng 5 Canh Ngọ Năm Kỷ Sửu Giờ Kỷ Mùi. Tiết Mang Chủng Dương Độn 6 Cục. Nguyệt Tướng Truyền Tòng.
Anh VinhL mến,
Hình vẽ đẹp lắm. Có đầy đủ Hậu Thiên Bát Quái, tứ tượng, lưỡng nghi, bát môn, can, chi, vv... Bé không rành Bát Quái Trận Đồ nên không dám "đăng đàn phá trận".
Thôi anh đã bỏ thì giờ bày trận thì bé phải ít nhất bỏ chúc thời gian để suy nghiệm trận pháp của anh. Sau đây là những gì bé thấy
1. Vòng ngoài bát trận dùng 2 vòng Hậu Thiên Bát Quái Văn Vương.
- 3 hào trên đi theo chiều thuận là càn khảm cấn chấn tốn ly khôn đoài.
- 3 hào dưới đi theo chiều thuận là ly khôn đoài càn khảm cấn chấn tốn
2. Trong thập chu thiên, anh dàng trận vòng tròn thì đây cho là quân án giữ là đồng bằng nội rộng (bé cho anh là người tướng giỏi, cho nên mới kết trận tròn, hihihi)
3. Nói về bát môn: phiá nam có trận đổ.
- Cái nầy bé không hiểu tại sao anh lại cho trận đổ đống tại hướng Nam.
- (nếu bé bày trận thì sẽ dùng trận tại phiá Nam bé cho trận cảnh đi theo chiều thuận là cảnh đổ thương sinh hữu khai kinh tử , hihihi )
4. Phương pháp phá trận
- Các cửa Sinh, Cảnh, Khai mà vào trận thì tốt lành. Các cửa Thương, Kinh, Hưu mà vào thì thương tổn. Các cửa Đỗ, Tử mà vào thì tử vong. Qua giờ dương, tám cửa được xếp đặt chỉnh tề, chỉ có trung gian còn thiếu người trấn giữ. Như theo góc Đông Nam, cửa thượng Sanh, mà kích nhập, đánh thẳng qua cửa Cảnh ở chánh Tây mà xông ra ắt trận thế phải loạn.
5 - Phàm phép phá trận
- Phá trận thì phải có phương lược. Bé sẽ phất cờ Càn Khôn để thống lãnh trận Thiên của bé và trận địa đánh vào cửa Sanh. Khi 2 trận vừa vào tới cửa thì bé sẽ phất cờ Tốn Cấn để sai trận Phong và trận Vân giáp đánh. Còn 4 trận của bé còn lại: trận Long Hổ Xà Điều phân đôi ra thành 8 trận. Sau một canh giờ bé sẽ phất cờ Chấn Đoài để cho 2 trận Long Hổ dùng Tiểu Chu thiên đệ thấn biến tiến vào 2 cửa Cảnh và Khai. 2 trận còn lại, trận Xà Điểu bé sẽ phất cờ vàng ba cái và chiêng trống đánh 3 hồi để biến hoá ra trận cong hay dùng phép chính kỳ xen nhau.
Bảo đảm sẽ phá được trận bát quái của anh.
hihihi
Bé LinhNhi
Chào bạn LinhNhi,Kể như bạn củng có nghiên cứu qua trận pháp, nhưng bí quyết Bát Trận của Khổng Minh, theo VinhL nghỉ là ở trong Kỳ Môn Độn Giáp. Phá trận quan trọng nhất là chử Thời, bạn không nói đến chử thời thì làm sao biết trận nào đóng trận nào mở, đã đóng thì khó mà phá nỗi. Phá trận phải ứng dụng Ngũ Hành.
LinhNhi thống lảnh Thiên Địa đánh vào cửa Sanh, nhưng của Sanh nằm ở trận nào?, mồi giờ mồi xoay chuyển thì phải biết phép Kỳ Môn Độn Giáp mới tính được cửa Sinh ở đâu.
Muốn phá trận này, thì bạn LinhNhi phải nghiên cứu Kỳ Môn Độp Giáp rồi.
Theo truyền thuyết thì ông Khổng Minh chỉ cần dùng mấy hòn đá củng có thể lập trận. Đây chính là trận Kỳ Môn dùng Âm Phù (Huyền Thuật) để diễn. Kỳ Môn có Phù Chú Tam Kỳ, Lục Giáp, Lục Đinh, Lục Mậu, vv....
dùng để sai khiến âm binh bố trận.
( Còn tiếp - dienbatn ) .
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét