42.LỮ ĐỒNG TÂN.
(Phù Hữu Đế Quân)
孚佑帝君
呂洞賓,俗名呂巖,民間一般稱他為「孚佑帝君」、「呂純陽」、「純陽夫子」、「恩主公」、「仙公」、「呂祖」等,道家則稱他為「妙道天尊」,佛家又稱之為「文尼真佛」,為民間傳說的八仙之一。呂洞賓也是「五文昌」之一,常與關公、朱衣夫子、魁星及文昌帝君合祀。元時封為:「純陽演正警化孚佑帝君」,是為「孚佑帝君」之由來。而他的香火跨越儒、道、佛三界。
呂洞賓姓李,是唐朝山西省浦州永樂縣人,唐德宗貞元十四年(798)四月十四生,傳說異香滿室,有白鶴飛入帳中不見,自幼聰穎,十歲便能文,十五歲就能武,精通百家經籍,唐文宗開成二年舉進士第,出任江州德化縣令一職。不久因宰相李德裕結黨營私,呂祖不願偕同,於是棄官隱居於盧山的深林山洞中,因該洞有兩個出「口」,於是便改姓為「呂」,並自稱為是洞中的賓客,改名為「洞賓」。後來遇到火龍真人,並得其真傳,學得天遁劍法。又於長安遇古仙人鍾離權結為知交,旅邸中鍾吟詩一首曰「坐臥常攜酒一壺、不教雙眼識皇都、乾坤許大無名姓、疏散人間一丈夫」。以試探呂之心願,呂遂以詩答曰「生在儒家遇太平、殘簪纓重帶布衣輕、雖能世上爭名利、臣事玉皇朝上清」。鍾聞後知其可渡之人,仍再以術相試,使呂昏睏入睡,夢己中第,舉進士外放知縣,旋升府道而翰林,娶嬌妻美妾子嗣昌盛而皆顯貴,己則身居宰相,一人之下萬人之上,享盡榮華富貴,十載已過,忽獲罪,摘官抄族,妻離子散,榮華富貴盡成過眼雲煙,己身軀佝僂,踽踽風雪中孤苦無依之流浪老人。黃梁一夢,人生五十寒暑已易,轉側醒來見鐘獨坐榻旁笑曰:「你在夢中一浮一沉,變化萬端,眨眼間人生五十寒暑,得之固則以喜,失之又何足以悲,白雲蒼狗,過眼雲煙,所要者仍在徹悟,人生何似南柯一場」。呂頓悟鐘乃神仙前來渡化於己,遂決意隨鐘遁入終南鶴嶺,修鍊成真,得道時立誓言:「不渡盡蒼生、不欲仙而去」。得到真傳的呂祖遍遊民間,歷江、淮、湘、潭、鄂、岳及兩浙等地,濟世化人。五代以後,時局大亂,人民飽受流徙之苦,他經常現身於世,拯救貧苦百姓。他的劍朮一斷煩惱,二斷色欲,三斷貪嗔,對北宋教理的發展,有一定影響。道教全真教奉其為北五祖之一,世稱「呂祖」、「純陽祖師」。
傳說,福建省泉州府有座清源山,處在危岩之下,有個洞穴,幽深而巨大。洞穴的入口,地勢頗為平坦,僅可騎馬,長驅直入洞里。穴頂鐘乳紛垂,進洞越深,寒氣越重。洞里的深處,有間石室,排列著石床、石桌、石凳,還有一個被薰得黑漆漆的石灶。因為這個洞穴,通稱純陽洞,所以也有人說:呂洞賓是福建人,在那個洞穴里修道成仙的。
另說,呂洞寶,名叫純陽,是唐朝懿宗時代的人,考中進士,咸通年間,歷任兩縣縣官,后因僖宗無能,黃巢作亂,呂洞寶痛感人生盛衰無常,遁人當時國都附近的終南山,修身養性。以后如問,無法可知。
呂洞賓著有《聖德篇》、《指玄篇》、《忠孝課》等大作,藉以拯救世道人心。宋徽宗封他為「妙道真人」、元朝初封其為「純道演正警化真君」,元武宗時加封為「孚佑帝君」。北宋真宗時,據說在一次鎮壓益州民眾叛亂時,呂祖曾顯化相助,後被加封為「英顯武烈王」。宋徽宗崇信道教,宣和元年(1119),詔封呂洞賓為「妙通真人」。元世祖至元年(1269)封「純陽演正警化真君」。元武宗至大三年(1310)加封為「純陽演化孚佑帝君」。
《宋史‧陳塼傳》記載:「呂洞賓有劍術,百餘歲而童顏,步履輕快,傾刻數百里,以為神仙,皆數來塼齋中,人咸異之。」呂洞賓興趣廣泛,虛心好學,廣參賢達,博覽群書,融匯貫通,勤於筆耕,留下豐富的著作。他不僅是道教祖師,而且是個詩人,所以受到後人廣泛的敬仰。
呂洞賓由仙而入神道,亦仙亦神,是集道教大成的得道高人,與少陽帝君、正陽帝君、大道帝君、輔極帝君同列道教五祖之一。
呂洞賓在民間被視為理髮業的祖師爺。相傳臭頭皇帝朱元璋,每次理髮都因理髮師不小心碰到他頭上的瘡而痛苦不堪,大發雷霆,接連砍殺了數位理髮師。呂洞賓獲悉此事後,乃下凡扮成理髮師,前去為明太祖理髮,結果不但沒有碰到瘡,並治好了太祖的惡瘡。太祖龍心大悅,要賞他金銀財寶,他卻不要,只要求明太祖賜他一面紅旗,插在理髮店門口,從此便被尊為理髮業的守護神。
民間傳說呂洞賓曾情場失意,因此妒嫉天下情侶,如果熱戀中的愛侶前去祭拜,必會被拆散,這雖是個無稽的傳說,許多人卻信以為真。
呂洞賓是民間傳說中的八仙之一,另七仙是漢鍾離、藍采和、韓湘子、曹國舅、張果老、李鐵拐和何仙姑。呂洞賓在八仙排行中雖不是“老大”,但是其影響卻是其他七仙無法相匹的,漢鐘離等七仙的專廟寥寥無幾,而奉祀呂洞賓的呂祖廟、呂祖閣卻成千上萬遍布各地。而歷史最悠久的呂祖仙師廟,是建於元朝時山西芮城永樂宮的純陽殿。永樂宮原名大純陽成壽宮,在山西芮城縣城北三公里的龍泉村東側。據道書記載,這里是呂洞賓的誕生地。呂洞賓死后,鄉里人將其故居改為呂公祠。到了金末,隨著呂洞賓神話故事的傳流,信奉者越來越眾,祠堂增修門廡,擴充成道觀。到了元代,道教極受朝廷寵信,祖師呂洞賓也身價陡增,于是升觀為宮,從此成為四海聞名的道教聖地。
在民間傳說之中,呂洞賓集「劍仙」、「酒仙」、「詩仙」和「色仙」於一身,是個放浪形骸的神仙。呂洞寶棄儒學道,仗劍云游,到處扶弱濟貧,鋤暴安良,他好酒貿杯,三醉岳陽樓,使他「醉」名遠揚。呂洞賓還是位詩人,有几百首詩啟傳世。同時,他又是個有名的「花神仙」,傳說最多的是呂純陽三戲白牡丹(名妓)。在人們心目中,是個最有人情味的神仙。有些道觀還假托其名,配了一些「呂祖藥方」給人治病。呂洞賓在民間有廣泛的信仰,他與觀世音菩薩、關聖帝君是對杜會影響最大的三位神明。
農曆四月十四日為呂祖先師誕辰。
LỮ ĐỒNG TÂN
(Phù Hữu Đế Quân).
*Lữ Đồng (Động, Đỗng) Tân, tục danh Lữ Nham, trong dân gian tôn xưng là 「Phù Hữu Đế Quân 」、「Lữ Thuần Dương 」、「Thuần Dương Phu Tử 」、「Ân Chủ Công 」、「Tiên Công 」、「Lữ Tổ 」v.v…
(*Phù hữu 孚佑 :- phù hộ giúp đỡ)
Trong Đạo Gia tôn Ngài làm “Diệu Đạo Thiên Tôn”. Phật Gia thì tôn Ngài làm “Văn Ni Chân Phật” .
*Theo truyền thuyết dân gian thì Ngài là một trong “Bát Tiên”. Cũng là một vị trong “Ngũ Văn Xương” (xem bài Văn Xương Đế Quân) tức là hợp với các vị :- Quan Công, Khổng Phu Tử, Khôi Tinh, Văn Xương Đế Quân thành tên gọi. Thời nhà Nguyên phong làm “Thuần Dương Diễn Chính Cảnh Hoá Phù Hữu Đế Quân” . Đó là xuất xứ của danh hiệu Phù Hữu Đế Quân. Còn việc thờ cúng Ngài thì cả ba tôn giáo Nho, Lão, Phật đều có.
*Lữ Đồng Tân họ Lý, người ở huyện Vĩnh Lạc, châu Phố, tỉnh Sơn Tây, đời nhà Đường. Sinh vào năm Trinh Nguyên thứ 14 đời vua Đường Đức Tông (798) . Theo truyền thuyết khi Ngài sinh ra thì có mùi hương lạ đầy nhà, lại có con chim Bạch Hạc bay vào màn rồi biến mất. Ngài thông minh từ nhỏ, mười tuổi đã biết làm văn, mười lăm tuổi biết rành võ nghệ, tinh thông sách vở trăm nhà. Năm Khai Thành thứ hai đời Đường Văn Tông đậu Tiến Sĩ, được bổ làm Huyện Lệnh ở huyện Đức Hóa thuộc châu Giang. Chẳng bao lâu, vì Tể Tướng Lý Đức Dụ kết phe đảng làm việc riêng tư, Lữ Tổ không chịu nghe theo, liền từ quan vào ở ẩn trong động của rừng sâu núi Lư Sơn. Nguyên vì chữ “Đồng / Động / Đỗng --洞” có hình dạng hai chữ “khẩu--口” , nên cải thành họ “ Lữ --呂” , tự xưng Ngài là tân khách của “trong động” nên đổi tên thành “Đồng / Động Tân--洞賓 ” (*Chữ Tân 賓:- nghĩa là người khách). Sau gặp được Hỏa Long Chân Nhân, được chân truyền “Thiên Độn Kiếm Pháp” (kiếm pháp ẩn trốn trên trời). Sau đến Trường An lại gặp vị cổ tiên Chung Ly Quyền kết làm bạn tri giao. Ngài Chung Ly đưa cho họ Lữ bài thơ :- “Lữ Để Trung Chung Ngâm” (tiếng chuông ngân trong nhà trọ) viết:-
“Toạ ngoạ thường huề tửu nhất hồ 、
Bất giao song nhãn thức hoàng đô 、
Càn khôn hứa đại vô danh tính 、
Sơ tán nhân gian nhất trượng phu”
*Dịch:-
“Nằm ngồi bình rượu bên mình,
Chẳng cho đôi mắt ngắm nhìn hoàng đô.
Đất trời rộng rãi bao la,
Họ tên chẳng có, riêng ta thanh nhàn.
Ra ngoài cuộc thế trần gian,
Ai hay có kẻ dặm ngàn trượng phu”.
để thử nghiệm xem tâm nguyện của Đồng Tân ra sao .
-Họ Lữ hiểu ý, đọc bài thơ đáp lại:-
“Sinh tại Nho gia ngộ thái bình 、
Trâm anh trọng đái bố y khinh 、
Tuy năng thế thượng tranh danh lợi 、
Thần sự Ngọc Hoàng triều Thượng Thanh”
*Dịch:-
“Nho gia gặp cảnh thái bình,
Trâm anh dòng dõi nhưng khinh công hầu.
Lợi danh đời chẳng bao lâu,
Ngọc Hoàng nguyện sẽ về chầu tương lai”.
*Chung Ly nghe xong, biết đây là người có thể độ. Nhưng để kiểm tra kỹ, Ngài dùng pháp thuật làm cho họ Lữ đi vào giấc ngủ. Trong mộng thấy thi đậu Tiến Sĩ, được bổ làm Tri Huyện, sau thăng dần qua các phủ đạo rồi vào Viện Hàn Lâm, cưới vợ đẹp hầu xinh, có con cái thành đạt. Sau thăng đến chức Tể Tướng, dưới một người mà trên muôn người, hưởng vinh hoa phú quí rất sung sướng. Trải qua mười năm, bổng bị tội, tước bỏ hết quan chức, vợ con ly tán, vinh hoa phú quí trở thành khói mây qua mắt. Bản thân thì nghèo đói cơ cực, dầm sương đội tuyết tha phương cầu thực, trở thành “ông già phiêu dạt”. Giấc mộng hoàng lương suốt năm mươi năm xãy ra chỉ trong một giấc ngủ ngắn ngủi !
*Sau khi đánh thức họ Lữ, tiên Chung Ly gọi đến ngồi cạnh bên tháp cười hỏi:- “ Nhà ngươi trải qua cảnh lên voi xuống chó trong mộng khi nảy, trăm biến vạn hóa trong suốt năm mươi năm. Lúc được thì biết bao sung sướng, khi mất thì đau khổ dẫy đầy, toàn là những cảnh chó xanh mây trắng, qua mắt khói mây. Cảnh đó đã giúp cho nhà người triệt ngộ câu :- “Đời chỉ là giấc mộng Nam Kha mà thôi !”.
*Họ Lữ biết vị thần tiên Chung Ly nầy muốn độ cho mình, bèn bái làm thầy. Sau hai thầy trò vào ở trong núi sâu Chung Nam. Họ Lữ tu luyện đạt thành chánh quả. Khi đắc đạo, họ Lữ phát nguyện lớn như sau :- “Nếu chẳng độ hết chúng sinh, thề không thành Tiên”.
*Sau khi đắc đạo, Ngài Lữ Tổ đi khắp trong dân gian, từ sông Lịch đến các xứ Hoài, Tương, Đàm, Ngạc, Nhạc và vùng đất Lưỡng Chiết… cứu đời độ người.
Sau đời Ngũ Đại, thời cuộc quá loạn lạc, nhân dân sống trong cảnh lầm than cùng cực, Ngài thường hiện thân trong thế gian, cứu giúp bá tánh nghèo khổ. Kiếm thuật của Ngài là tiên pháp , nên :- “một chiêu thì đoạn phiền não,hai chiêu thì đoạn sắc dục, ba chiêu thì đoạn tham sân”. Ngài có ảnh hưởng rất lớn đến Đạo Giáo thời Bắc Tống.
*Giáo phái “Toàn Chân” của Đạo Giáo thờ phụng Ngài làm vị Tổ thứ nhất trong năm Tổ phương Bắc, tôn xưng là “Lữ Tổ” hay “Lữ Thuần Dương Tổ Sư”.
*Theo truyền thuyết,ở phủ Tuyền Châu tỉnh Phước Kiến có núi Thanh Nguyên. Dưới chân núi có một huyệt động, rất thâm u mà to lớn vô cùng. Đường vào hang động rất bằng phẳng, có thể cỡi ngựa đi đến một khu rộng mà tiến vào trong. Vách động phía trên có nhiều thạch nhũ tỏa xuống. Động nầy rất sâu, khí lạnh bốc lên dầy đặc. Ở cuối động có một thạch thất , bày ra nào là giường đá, bàn đá, đèn đá, lại có cả một bếp bằng đá có dấu vết đun nấu nám đen nữa. Người đời gọi đó là “Động Thuần Dương”, cho nên có người nói rằng Lữ Đồng Tân là người Phước Kiến, tu thành tiên nơi động nầy.
*Có thuyết lại nói, xưa có nhân vật tên Lữ Động Bảo, tự là Thuần Dương, là người sống vào thời đại vua Đường Ý Tông, thi đậu Tiến Sĩ, vào năm Hàn Thông được bổ nhiệm làm Tri Huyện cả hai huyện. Về sau, vì vua Hy Tông kém cỏi, có loạn Hoàng Sào nổi lên. Lữ Động Bảo xúc cảm việc vô thường của cuộc đời, nên trốn ẩn vào vùng phụ cận kinh đô lúc bấy giờ ở Núi Chung Nam để tu thân dưỡng tánh. Đoạn sau thế nào thì không nghe nói tới.
*Ngài Lữ Đồng Tân có trước tác những đại tác phẩm như “Thánh Đức Thiên”, “Chỉ Huyền Thiên”, “Trung Hiếu Khóa” mục đích để cứu thế độ người.
-Tống Huy Tông phong Ngài làm “Diệu Đạo Chân Nhân”.
-Triều đại nhà Nguyên lúc đầu phong làm “Thuần Đạo Diễn Chính Cảnh Hoá Chân Quân”. Đến thời Nguyên Vũ Tông lại gia phong làm “Phù Hữu Đế Quân”.
-Đời Bắc Tống vua Chân Tông , theo truyền thuyết có lần Ngài đã hiển linh tương trợ cho vua trừ khử đám giặc loạn ở Ích Châu, nên được phong làm “Anh Hiển Vũ Liệt Vương”. Tống Huy Tông rất tôn sùng Đạo Giáo, năm Tuyên Hòa thứ nhất (1119) chiếu phong Ngài làm “Diệu Thông Chân Nhân”.
-Đời Nguyên Thế Tổ niên hiệu Chí Nguyên (1269) phong Ngài làm “Thuần Dương Diễn Chính Cảnh Hoá Chân Quân”. Năm Chí Đại thứ ba đời Nguyên Vũ Tông (1310) gia phong Ngài làm “Thuần Dương Diễn Hoá Phù Hữu Đế Quân”.
*Trong “Trần Chuyên truyện của Tống Sử” có chép :- “Lữ Đồng Tân biết kiếm thuật, hơn trăm tuổi mà sắc mặt vẫn như trẻ. Ngài có cước bộ rất nhẹ nhàng nhanh chóng, chỉ khoảnh khắc đã đi vài trăm dậm. Nhiều lần đến xứ Chuyên nước Trần rất xa xôi để thụ trai, người đời cảm phục chuyện lạ lùng ấy”.
(*Trần Chuyên truyện:- truyện nói về xứ Chuyên của nước Trần)
*Lữ Đồng Tân là một vị tiên có sinh hoạt rất phóng khoáng, lại rất hiếu học, tham khảo nghiên cứu nhiều sách vở , đặc biệt là sách Thánh Hiền, tổng hợp lại mà thông suốt. Cho nên, đã hạ bút sáng tác nhiều sách hay, lưu lại cho đời sau. Ngài không phải là một vị Tổ Sư thời gần đây của Đạo Giáo, nhưng vị Tiên thi sĩ nầy rất được quần chúng hết sức rộng rãi ngưỡng mộ.
*Lữ Đồng Tân do cửa Tiên mà vào Thần Đạo, nên vừa tiên vừa thần, là một cao nhân học tập theo Đạo Giáo mà chứng đắc lớn lao. Ngài đã cùng Thiếu Dương Đế Quân, Chính Dương Đế Quân, Đại Đạo Đế Quân, Phụ Cực Đế Quân được tôn làm năm vị Tổ của Đạo Giáo, trong đó Ngài đứng đầu.
*Trong dân gian, Lữ Đồng Tân lại còn được các thợ hớt tóc (cạo tóc thuở xưa) tôn làm “Tổ Sư”. Tương truyền, hồi vua Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương, có chứng lạ là “mọc mục ghẻ trên đầu”, lâu ngày danh y cũng bó tay. Do đó, mỗi khi cạo tóc, người thợ nào mà vô ý, cạo trúng “mục ghẻ ” khiến ông bị đau đớn , thì lập tức bị chém đầu. Số người bị chém cũng khá nhiều rồi.
Lữ Đồng Tân nghe chuyện ấy, liền hạ phàm cải trang thành một người thợ cạo tóc, xin được vào cạo tóc cho nhà vua. Kết quả là chẳng những Ngài cạo không đụng đến mục ghẻ, mà còn cho thuốc tiên chữa lành nữa. Do đó, nhà vua rất mừng rỡ phấn khởi, ban tặng rất nhiều vàng bạc trân bảo, nhưng Ngài chối từ hết, chỉ xin Thái Tổ ban cho một lá cờ đỏ để treo trước cửa tiệm cạo tóc, quan quân thấy lá cờ thì không được khó dễ đám thợ. Từ đó, Ngài được những người hành nghề cạo tóc tôn làm “Tổ Sư Thủ Hộ Thần”.
*Có một chi tiết khá thú vị là, ngày xưa Lữ Đồng Tân vốn là người không được may mắn trong tình trường, nên Ngài rất ghét chuyện tình tứ trong thiên hạ. Hễ đôi trai gái nào đang yêu thương nhau tha thiết mà đến “lễ bái” Ngài, thì sau đó về nhà sớm muộn gì cặp đó cũng tan rã. Chuyện nầy không ai trưng bằng cớ, nhưng trong dân gian, rất nhiều người vẫn tin là sự thật.
*Trong truyền thuyết dân gian cũng cho rằng Lữ Đồng tân là một trong tám vị tiên (Bát Tiên). Đó là những vị:- Lý Thiết Quài, Hán Chung Ly, Lữ Đồng Tân, Lam Thái (Thể) Hòa, Hàn Tương Tử, Tào Quốc Cựu, Trương Quả Lão và Hà Tiên Cô. Trong Bát Tiên, mặc dù Lữ Đồng Tân không được tôn là “Lão Đại” (anh cả) , nhưng ảnh hưởng của Ngài trong dân gian rất lớn. Miếu Thờ của bảy vị tiên khác thì chỉ thưa thớt ở vài nơi, trong khi đó, Miếu Thờ của Ngài Lữ Đồng Tân thì hầu như địa phương nào cũng có, gọi là “Lữ Tổ Miếu”.
Trong số những Miếu Thờ ấy, riêng có Miếu Thờ xưa nhất là Thuần Dương Điện ở Vĩnh Lạc Cung , thành Nhuế, tỉnh Sơn tây được xây dựng từ thời nhà Nguyên. Vĩnh Lạc Cung nguyên có tên là “Đại Thuần Dương Thành Thọ Cung”, năm ở phía Đông thôn Long Tuyền, cách thành Nhuế tỉnh Sơn Tây khoảng chừng ba cây số (km). Theo trong sách của Đạo Gia, đây là nơi Lữ Tổ đã hạ sanh ngày xưa. Khi Ngài đăng tiên, các bô lão ở đó xây “Lữ Công Từ” (nhà thờ ông họ Lữ) để nhang khói cho ông. Đến cuối đời nhà Đường , thì truyền thuyết về sự linh ứng của Ngài cùng các trước tác danh tiếng nổi rộ lên, khiến cho tín chúng ngày càng đến cúng bái nườm nợp. Những vị quản lí nhà thờ mới quyên góp tiền bạc xây dựng lại miếu với qui mô lớn, trở thành Đạo Quán. Triều đại nhà Nguyên rất sùng bái Đạo Giáo nên sự tin tưởng vào Ngài càng lớn, xây dựng thành “Cung”. Từ đó, Vĩnh Lạc Cung—Thuần Dương Điện trở thành thánh địa, bốn phương đều nghe tiếng, của Đạo Giáo.
*Trong truyền thuyết dân gian, có rất nhiều giai thoại. cổ tích về Ngài, tôn xưng là “Kiếm Tiên”, “Tửu Tiên”, “Thi Tiên” và “Sắc Tiên” trong cùng một con người của Ngài, đã đề cao đặc tính ngao du, phóng khoáng, nhàn hạ, tài giỏi của thần tiên.
Ngày xưa, Ngài đã từ bỏ Nho học để đi theo con đường Tiên đạo, mang kiếm báu đi khắp nơi để trừ gian phạt ác, cứu giúp người nghèo khổ. Bình sanh Ngài rất thích uống rượu, nổi tiếng về giai thoại “ba lần say” ở lầu Nhạc Dương, thành ra nổi tiếng về chữ “SAY”. Lữ Đồng tân lại còn là một thi nhân, tương truyền để lại mấy trăm bài thơ hay trong dân gian. Đồng thời, Ngài cũng có một danh xưng đặc biệt khác là “Hoa Thần Tiên” (thần tiên thích hái hoa ở lầu xanh) với truyền thuyết nổi tiếng “Tam Hí Bạch Mẫu Đơn” (ba lần đùa giỡn với một danh kỹ tên Bạch Mẫu Đơn).
*Nói chung, trong con mắt của thế gian, Ngài là “Một vị Thần Tiên có tình người nhiều nhất”. Cho nên, có một số Đạo Quán đã giả mượn lời Ngài về cơ bút ban cho một tập sách thuốc có tên là “Lữ Tổ Dược Phương” (toa thuốc của Lữ Tổ) để phát hành cho người trị bệnh.
*Tóm lại, Lữ Đồng Tân được dân gian tín ngưỡng hết sức rộng rãi, tác động vào nhiều tầng lớp, nhiều ngành nghề của người dân.
Ngài cùng với Bồ Tát Quan Thế Âm, Quan Thánh Đế Quân trở thành ba vị “Thần Minh” ảnh hưởng sâu đậm trong xã hội Trung Quốc.
*Ngày đản sanh của Lữ Tổ là ngày mười bốn tháng tư âm lịch.
*NHƯỢC THỦY dịch
(từ http://www.fushantang.com)
43. CHÚ SANH NƯƠNG NƯƠNG .
(BÀ CHÚA THAI SANH)
注生娘娘
註生娘娘又稱「授子神」,主司掌懷孕、生產,為婚後不孕及孕而保胎之婦女所奉祀神明之一,為養育之神。
註生娘娘俗稱「註生媽」,其來歷是出自《封神傳》。據說姜子牙奉玉皇大帝之命,封三仙島之雲霄、瓊霄、碧霄職掌混元金斗(產盆之意),專擅先後之天,舉凡諸侯天子、貴賤愚賢,落地先從金斗轉劫。雲霄、瓊霄、碧霄在封神傳中合稱三姑,又稱三仙童子,乃龜靈聖母的門徒,今人稱為註生娘娘其實就是三合一的稱法。
民間婦女深信註生娘娘操縱生命的開始、成長與凋零,為懷孕、生產、婚而不孕及孕而保胎之婦女所奉祀的對象。因此無論孕婦、產婦或初為人母者,皆虔誠祭拜註生娘娘,以祈求生育的順利平安。
在過去,女人結婚、生子育女,以傳宗接代為重要的職責。多子多孫被認為是人丁旺盛,家道興隆的象徵,所以婦女對自己之產育莫不寄以極大的關懷,未生育者期盼早生貴子;有子者祈望保護子女無恙;有病時,期盼早日康復,這種關懷與寄望,自然產生了一種超乎人力的神,來保佑協助婦女的產育之事。
所謖「不孝有三,無后為大」,中國人自古以來,傳宗接代的觀念就根深蒂固,所以「注生娘娘」的香火旺盛,乃必然的事,但以注生娘娘為主神的廟宇并不多見,但是几乎各廟宇都以她作附祀。一般有供奉註生娘娘的廟宇,都將註生娘娘置於主神旁的廂房,大都是「附設」在奉祀觀音、媽祖、大道公等廟的兩廟或偏殿。註生娘娘的神像前,常附祀「十二婆姐」或「十二延女」,各抱一嬰兒,六好六壞以示生男育女,賢與不肖,均憑積善積德之厚薄而定。「不孝有三,無後為大」,是中國人固有的觀念,自古以來,中國人也會特別注意傳宗接代的問題。對於婦女來說,是否能生孩子,或是否能生個男孩子,對其在家族的地位,以及自己的幸福來說,都是非常重要,因此註生娘娘也就應運而生了,並且成為許多婦女崇拜的神明。歷代對於註生娘娘的崇祀,不因時代及環境的改變,而有所差異。
「注生娘娘」的香火旺盛,乃必然的事,古時候的人生愿望是「財、福、壽」三全,故常把「注生娘娘、土地公、天官賜福神」并列祭祀。
註生娘娘的神像為左手拿生育簿,右手執筆,表示每一位婦女該生幾個子女,她的生育簿上都有記載。所以只要她一查,就知道該婦女生男或育女,或者接受祈願予以刪改,難怪那麼多婦女要來燒香跪拜了,而祈求有幾種:
求子者,擲茭許願,若獲註生娘娘允準,可將壇上所供奉的花簪插在髮上載回家,祈求早日懷孕得子。
祈求註生娘娘保佑孩子平安者,自備用紅紗線串上古錢的項鍊,於祭拜完後將之套在小孩的脖子上,祈求萬事平安。或以鎖牌、銅線在香煙上燻焚後貫以紅線懸於小孩的胸前,以拔病魔,稱為綰絭。
小孩生病時帶孩童到註生娘娘跟前,上香許願擲茭,獲得允諾後,即可將神前所供奉的小繡鞋,用紅紗線串上掛在病童頸上帶回家,痊癒後則於次年此日另製新繡鞋獻還。
家中如有年齡16歲的子女,也要向註生娘娘禱告,感謝註生娘娘保佑子女順利成年,並供奉紅龜粿。
關於註生娘娘的由來,可謂是眾說紛云,有人所供奉的是佛教的觀士音、九子母,有人則是信奉道教的碧霞元君、西王母。在民間的信仰中,則相信註生娘娘是臨水夫人、金花娘娘或是媽祖。另外,民間有人供奉「天仙」、「送生神」、「送神娘娘」、「送子娘娘」、「催生娘娘」和「送生娘娘」等。這些和生育有關的神,有的是從媽祖和觀音演變而來的,有的則是從巫女而來。
送子觀音:
「白衣觀音」,觀音造型中的一種,眉如繞月,面目和靄可親、著素袍,手中抱有一子,面目白淨、可愛,這就是在民間所流行的觀音送子圖。是傳說中掌管生育負責送子的神明,因此民眾相信於這天向白衣觀音祈求生子生女最為靈驗。若第二年果真喜獲麟兒,這個孩子就必須給觀世音菩薩做「楔子」,如此孩子將可長命富貴。民間的婦女相信,常訟「觀音經」,或是經常瞻仰觀音的佛像,就可以使不孕的婦子得子。在一些民間故事也描寫到,如果有一婦女在夜晚夢到觀音送子,那麼不久之後,這婦女就可得子嗣。此外,民間不但認為觀音可以送子,而且也可以操縱其性別。
九子母:
九子母,或稱九子鬼母,是佛教的「諸天」之一「歡喜佛」,是性和兒童的保護神,也是西藏佛教密的神佛。而歷代皇宮中,皇妃也多半會供奉九子鬼母,以祈求皇帝常來臨幸,自己早日得子。
碧霞元君:
傳說為東岳大帝的女兒,宋真宗時被封為「天仙玉女碧霞元君」。道教認為其是受玉帝之命,管理天兵天將,察照人間的是非善惡,並主宰生育,是道教最大的生育神明。
王母娘娘:
又稱「西王母」、「金母」、「西姥」或「西天王母娘娘」。王母娘娘本來是掌管驅疫、刑罰的神明,但是自從《漢武帝內傳》的王母賜蟠桃後,民間就流傳著在蟠桃會時求子的習俗。
臨水夫人:
本名陳靖姑(進姑)或陳夫人,福建古田縣臨水鄉人,故稱為臨水夫人。是閩南及台灣地區民間最為普遍被信奉的生育神明。而臨水夫人和注生娘娘這兩尊神明可能系同一神,因為她們都是管生育和安產的神,而注生娘娘沒有較清楚文獻可查。也有學者考証,民間有奉祀的「臨水夫人」和「注生娘娘」,并非同一尊神,但都是主司生育之神。
有人說,臨水夫人在宋淳佑年間封「崇福昭惠慈濟夫人」,明萬歷加封「天仙聖母青靈普化碧霞元君」,清咸丰改謚「順天聖母」,而「注生娘娘」的娘娘兩字,是「后妃」的稱呼,兩者在神號或尊稱有所一致,所以把臨水夫人視為注生娘娘。
《台灣縣志》說:「臨水夫人,神名進姑,福州人陳昌的女兒,生于唐朝大歷二年。少時秉露通幻。嫁劉,而懷孕數月。陸適逢大旱災,因脫胎祈雨而卒,年僅廿四。她臨死時說:我死后一定要做神,救人產難。果然,福建建寧府陳清叟有一個媳發,懷孕十七個月,還不能生產,死后變神的進姑看見這情形,下手施救,產下蛇數斗,而產婦獲得平安。」
《建寧府志》說:宋代埔城徐清叟,有一個媳婦懷孕,經過十七個月,還不能生產,家里的人,正在優慮,忽然有一個婦人,進門而來,自稱姓陳,專醫生產。吩咐徐清叟另找一所樓房,樓房中間,挖了一個洞,把孕婦安頓在樓上,再令仆人拿著棍子,在樓下看守。不久,孕婦生下一只白蛇,有一丈多長,從洞中溜下樓來,仆人舉起棍子把巨蛇打死,孕婦獲得平安。徐清叟大喜,拿了很多珍貴的禮物,要贈送那個陳姓婦人,她不肯接受,只向徐清叟索取一條手帕,請他下款寫「徐清叟贈救產陳氏」等字,并說她住在福州古田縣某地,辭別跨出門口,就不見蹤跡了。不久,徐清叟調任福州,派人找尋那位姓陳的婦人,都找不到,只聽得鄉下的人說,該地有一座陳夫人廟,鄉下的婦女難產,該廟的主神,常常化做人形,去救治孕婦,徐清叟打轎到那個廟一看,看到神像挂著一條手帕,正是他贈送那個陳姓婦人的,徐清叟就修表請朝廷封贈神號。
該志又說:該地婦女都很崇信該廟主神。生產之時,都要供奉夫人的畫像,等到平安生下嬰兒,在洗兒日,才向該畫拜謝,把它焚化,可見就是這樣,昔時的人,才把陳夫人看做專司「生產」的神,而稱她為「注生娘娘」。所謂注生就是執掌「生育」的事,「娘娘」是「后妃」稱呼。
天后娘娘:
就是海神,另一種則是司生育的神明。媽祖的崇拜,在台灣及閩南一帶,可算是非常的普遍,其又是女神,自然而然成為掌管生育的神明。
金花夫人:
又名金花娘娘,是廣東地區婦女和嬰兒的保護神,其廟宇稱之為金花廟,而其祭祀的活動,稱之為金花會。廣東地區的金花廟非常多。
七娘媽、天仙:
天仙也是中國民間較常被供奉的生育女神。
七娘媽,又稱七星娘、七姑等,是在閩南地區特別流行的生育神明。
張仙:
一般神育神大多是女性,但近代則出現了男性的生育神明,名為張仙,而民間也流傳著張仙送子圖。有人說張仙本來是家庭所供奉的貴神,後來有一位皇妃將其圖帶回宮中祀奉,因而成為了送子的神明。
保生大帝:
名吳本,字華基,是福建同安縣人,只吃素,並且行醫救人無數,而且不分貴賤,不論多難醫治的病,都可以被他治好。死後稱為花橋公,後來又封為忠顯侯、英惠侯等。到了明代永樂年間,才正式被稱為保生大帝。
農曆三月二十日為注生娘娘誕辰。
婆祖:
注生娘娘旁邊都配祀婆祖,又稱保姆、延女,有些稱為「鳥母」。其數目各有不同,小廟僅供奉兩尊,六尊,大廟則供奉十二尊、三十六尊。所以俗稱十二婆祖、三十六婆祖。她們各抱一個嬰兒,有好有壞,以示生男育女,賢興不肖,皆馮積善積德而論。
三十六婆祖,又稱三十六鳥母,亦是輔助生育的神,一說鳥母是依助生娘娘的旨意,賜予民婦不同的孩子,有的成為商販,有的成為農人,各行各業均有。
另一說「婆祖」就是注生娘娘身邊的宮女,專門照顧小孩出生后到十六歲這段期間的成長,使他們免于驚嚇、溺斃、灼燒、出麻疹等,保佑小孩的身心正常發育。即使再頑劣調皮或笨頭笨腦的小孩,婆祖都會使他們變得聰明活潑。
CHÚ SANH NƯƠNG NƯƠNG
Chú Sanh Nương Nương còn được xưng là “Thần ban con cho người”, là vị Ty Chủ coi về việc mang thai, sanh sản, việc có hay không có thai sau khi kết hôn, bảo dưỡng cho cái thai. Đây là vị thần được người nũ tôn trọng và thờ phụng nhiều nhất, gọi là “Thần Dưỡng Dục” (nuôi cho lớn).
*Chú Sanh Nương Nương còn được gọi là “Chú Sanh Mụ” (mẹ sanh). Xuất xứ từ truyện Phong Thần. Theo truyện nầy nói rằng , Khương Tử Nha vâng lệnh Ngọc Hoàng Thượng Đế phong cho ba vị tiên ở Đảo là Vân Tiêu, Quỳnh Tiêu và Bích Tiêu chức “Hỗn Nguyên Kim Đẩu” (ý nói về sanh sản), coi về “các vị trời trước sau, cử các vị thiên tử xuống phàm, quản lý về con người hiền, ngu, tôn quí, hèn hạ, các vị Tiên hết phước phải xuống trần…”. Tất cả đều phải đến Sở Chuyển Kiếp của Kim Đẩu mà thọ sanh. Trong truyện, ba vị Vân Tiêu, Quỳnh Tiêu và Bích Tiêu hợp lại xưng là Tam Cô hay Tam Tiên Đồng Tử, là đệ tử của Quy Linh Thánh Mẫu. Ngày nay chỉ gọi Chú Sanh Nương Nương nhưng thực ra là một tên gọi chung cho cả ba người. (Xem :- Phụ lục—Trích Tuyện Phong Thần)
*Trong dân gian, người phụ nữ tin rằng, Chú Sanh Nương Nương có quyền quyết định hoàn toàn về con người, từ lúc mới có thai, sanh ra, lớn lên… bao gồm cả việc có hay không có thai, thai có an toàn hay hư hỏng v.v…Cho nên, người phụ nữ dù là thai phụ, sản phụ , mới bắt đầu làm mẹ hay đã nhiều lần sanh nở … đều luôn luôn thành tâm lễ bái Chú sanh Nương Nương để cầu được “mẹ tròn con vuông”.
*Ngày xưa, khi người nữ kết hôn, việc sanh con gái hay con trai để nối dòng là một chức trách hết sức hệ trọng cho gia đình. Quan niệm “đa tử đa tôn đa phú quí” (nhiều con nhiều cháu nhiều phú quí) , nghĩa là nhiều con tượng trưng cho gia đình thịnh vượng hưng long. Việc sanh nở được người phụ nữ hết sức quan tâm :- từ muốn sớm có con trai đến việc có rồi phải nuôi nấng chăm sóc bệnh hoạn đau ốm …cho đến khi con trưởng thành. Gánh nặng ấy thật to lớn quá sức người, rất cần một lực lượng siêu nhiên hỗ trợ, cho nên tất yếu phải có Chú Sanh Nương Nương phù hộ mới được.
*Từ xưa, người Trung Quốc đã khắc sâu quan niệm “Bất hiếu hữu tam, vô hậu vi đại” (Có ba điều bất hiếu, mà không con nối dòng là lớn nhất). Quan niệm ấy đã trải qua thời gian lâu dài, ăn gốc mọc rễ sâu trong tâm lý con người, khiến cho việc thờ phụng Chú Sanh Nương Nương ngày càng hưng thịnh thêm lên. Nhưng có điều là, ít thấy xây dựng Miếu Thờ riêng biệt cho Chú Sanh Nương Nương, mà chỉ là một gian phụ để thờ ở cạnh một ngôi Miếu chính nào mà thôi. Gian thờ Chú Sanh Nương Nương chỉ là ở “cái chái bên hông” Miếu. Phần lớn thì ăn theo các Miếu Thờ Quan Âm, Miếu thờ Mụ Tổ, Miếu Đại Đạo Công v.v…
Thần tượng thờ Chú Sanh Nương Nương còn kèm theo “Thập nhị Bà thư” (12 bà chị hoặc “Thập nhị Diên Nữ” (12 nàng tăng thọ) để chung lo việc gìn giữ và phát triển hài nhi đến lúc trưởng thành. Những kết quả tốt xấu, giàu nghèo , thọ yểu …đều do theo sự tích chứa công đức của mỗi nhà mà quyết định. Một điều cần nhấn mạnh nữa là , mãi cho đến nay, xã hội văn minh phát triển cao, nhưng quan niệm và tâm lý “Vô hậu vi đại” vẫn không thể xóa nhòa trong tâm khảm mọi người, mọi gia đình. Con trai vẫn mãi mãi là “Quí Tử” (cậu ấm) dù là thành thị hay thôn quê. Như vậy, dù xã hội có tiến lên thêm nữa thì cũng không thể nào dập xóa được thần tượng Chú Sanh Nương Nương , mà chỉ biến thái chút ít nào thôi !
*Ngoài ra, quan niệm xưa cũng đề cao hạnh phúc con người ở ba yếu tố “Phúc, Lộc, Thọ” nên đã phát huy tối đa việc thờ phụng ba vị :- Chú Sanh Nương Nương , Thổ Địa Công và Thiên Quan Tứ Phước lên hàng đầu phổ biến rộng rãi và thân cận với mọi người nhất.
* Hình tượng tạc để thờ Chú Sanh Nương Nương là “tay trái cầm bộ phận sinh dục của người nữ, tay phải cầm bút” Hình ảnh nầy ý nói là , cứ mỗi lần người nữ sanh con trai hay con gái đều phải được “Đánh dấu”, để sau nầy xét lời cầu xin của họ có đúng sự thật hay không .
*Khi một phụ nữ đến thắp hương khấn nguyện, làm những động tác sau:-
-Cúng tế vái lạy khấn nguyện xin được đứa con trai, xin keo xem có được không. Nếu được keo, dâng lên cúng Chú Sanh Nương Nương một “cái hoa trâm” (trâm cài tóc hình cái hoa) . Trở về nhà sẽ sớm có thai sanh ra quí tử.
*Nếu muốn cầu xin bình an cho đứa trẻ , chuẩn bị trước một sợi dây bằng lụa đỏ se lại, xỏ vào đó một đồng tiền xưa. Đến Miếu cúng bái , trong mâm có phẩm vật và sợi dây xỏ đồng tiền đó. Khấn nguyện xong, lấy sợi dây đeo vào cổ cho đứa nhỏ, về nhà nó sẽ được khỏe mạnh, hay ăn chóng lớn.
*Hoặc đem sợi dây chuyền hay chiếc vòng kiềng bằng đồng đến Miếu cúng bái, đem sợi dây chuyền hay vòng kiềng đó xông hơ trên khói nhang nhiều lần, rồi đeo vào cổ hay chân của đứa trẻ, sẽ tiêu trừ hết các thứ bệnh hoạn đau ốm cho nó. Phép đó gọi là “Quan Khoán”.
*Khi đứa trẻ bị bệnh, mang nó đến trước bàn thờ Chú Sanh Nương Nương , dâng phẩm vật cúng tế, vái nguyện , xin keo. Nếu được keo, cúng dâng lên một đôi hài thêu nhỏ, đeo sợi dây đỏ có xỏ đồng tiền xưa vào cổ đứa bé, về nhà nó sẽ hết bệnh.
Khi đứa trẻ lành mạnh, phải đến cúng trả lễ lần nữa, trong đó cũng có một đôi hài thêu khác nữa.
*Còn khi trong nhà có đứa con trai hay gái được 16 tuổi, mang phẩm vật đến cúng tạ ơn Chú Sanh Nương Nương đã phù hộ độ trì cho đứa con được khỏe mạnh đến tuổi nầy. Sau đó, cúng tạ một thùng “nếp móng rùa đỏ” (tên một loại loại gạo nếp ngon).
*Về phần xuất xứ của Chú Sanh Nương Nương thì có nhiều thuyết khác nhau. Có người thì nói rằng, đó chính là Bồ Tát Quan Thế Âm của Phật Giáo hóa hiện để cứu con độ mẹ, Còn theo Đạo Giáo thì có người nói đó là Bích Hà Nguyên Quân, người thì cho là Tây Vương Mẫu. Trong tín ngưỡng dân gian lại nói Chú Sanh Nương Nương là “Lâm Thủy Phu Nhân”, “Kim Hoa Nương Nương” hoặc “Mụ Tổ”.
*Ngoài việc thờ Chú Sanh Nương Nương , dân gian còn thờ cúng thêm Thiên Tiên, Tống Sanh Thần, Tống Thần Nương Nương, Tống Tử Nương Nương v.v… Những vị nầy, số thì có liên quan đến những Thần có chức năng sanh hóa dưỡng dục, hoặc liên quan đến Mụ Tổ, Phật Quan Âm … mà ra. Nói chung, tất cả đều do lòng tin của người phụ nữ các thời đại xuất phát ra.
*Tống Tử Quan Âm:-
Đó là tượng Bạch Y Quan Thế Âm, là một dạng hình tượng đức Quan Âm đặc biệt, hình dạng nổi bật là đôi my cong vút như mặt trăng, gương mặt hiền hậu từ ái, mặc chiếc áo lụa trắng, tay bồng một đứa hài nhi trai, bụ bẫm dễ thương.
Dân gian gọi đó là hình tượng “Đức Quan Âm ban cho con trai”. Xuất xứ từ trong Kinh Phổ Môn có nói, niệm danh hiệu và cầu khẩn với Đức Quan Âm, muốn sanh con trai thì được con trai, muốn sanh gái thì được con gái. Khi người cầu xin đã được toại nguyện, thì đến lúc đầy năm (thôi nôi) của đứa bé, cha mẹ nó phải mang nó đến cúng tạ đức Quan Âm, gọi là “Lễ Tiết Tử” (gìn giữ ban ơn cho đứa con). Cũng theo kinh nói, muốn cho đứa trẻ sau nầy thông minh học giỏi nên người thì cha mẹ siêng năng làm thiện, niệm tụng danh hiệu đức Quan Thế Âm hay tụng Kinh Phổ Môn hàng ngày.
Dân gian tin rằng, phụ nữ muốn có thai thì thường xuyên quán tưởng hình tượng Quan Âm Tống Tử nầy, chẳng bao lâu sẽ được như nguyện, không những có con, mà trai gái tùy sự mong cầu nữa. Hoặc giả, khi người phụ nữ nào nằm mộng thấy Đức Quan Âm bồng đứa trẻ đem cho, cũng sẽ có thai sanh ra quí tử.
*Cửu Tử Mẫu :-
Cửu Tử Mẫu hoặc Cửu Tử Quỉ Mẫu, theo Phật Giáo thì chính là hóa thân một vị chư thiên hộ pháp có tên là “Hoan Hỉ Phật”, là vị Thần Bảo Hộ về tâm tính của đứa trẻ. Đó cũng là một vị Phật trong Mật Giáo Tây tạng. Nhiều triều đại trước đây, trong hoàng cung các bà cung tần phi nữ hay cúng tế tượng Cửu Tử Quỉ Mẫu nầy để mong cho nhà vua thường hay đến “lâm hạnh” và sanh ra được hoàng tử.
* Bích Hà Nguyên Quân :-
Theo truyền thuyết thì đây là con gái của Thần Đông Nhạc, đời Tống Chân Tông phong làm 「Thiên Tiên Ngọc Nữ Bích Hà Nguyên Quân 」.
Trong Đạo Giáo cho rằng, vị nầy có chức năng vâng mệnh NGỌC HOÀNG ĐẠI ĐẾ để cai quản thiên binh thiên tướng, giám sát những việc thiện ác của nhân gian, đồng thời có nhiệm vụ quan trong cho việc sanh sản nuôi dưỡng con người. Đây chính là vị Thần Minh lớn nhất chủ tể việc sanh trưởng theo Đạo Giáo.
* Vương Mẫu Nương Nương :-
Còn xưng là Tây Vương Mẫu, Kim Mẫu, Tây Lão Mẫu hay Tây Thiên Vương Mẫu Nương Nương . Chức năng chính của Ngài xưa nay là chưởng quản về các bệnh ôn dịch và các hình phạt nhân gian, nhưng từ khi phổ biến truyện “Hán Vũ Đế Nội Truyện” ban cho nhà vua “quả đào tiên” thì Ngài lại có thêm chức năng là , dân gian có thêm tập tục cầu xin Ngài ban cho con cái vào ngày “Hội Bàn Đào” của Tây Vương Mẫu.
* Lâm Thuỷ Phu Nhân :-
Tên gốc là Trần Tịnh Cô (hay Tiến Cô) hoặc Trần Phu Nhân, người làng Lâm Thủy, huyện Cổ Điền, tỉnh Phước Kiến, cho nên xưng là Lâm Thủy Phu Nhân.
Bà là vị nữ thần được dân gian ở vùng Mân Nam và Đài Loan tôn sùng nhiều nhất về chức năng sanh sản và nuôi lớn con trẻ. Như vậy, có người cho rằng, Lâm Thủy Phu Nhân và Chú Sanh Nương Nương có thể chỉ là một vị thần đồng nhất, vì chức năng hai vị giống nhau ở chỗ coi sóc về sanh sản và nuôi dưỡng. Thực tế thì Chú Sanh Nương Nương không có tài liệu chính thức nào nói về lý lịch rõ như Lâm Thủy Phu Nhân, vả lại , trong dân gian cùng một địa phương, có hai nơi thờ hai vị riêng ra, như vậy thì không thể đồng nhất được.
*Có người nói, Lâm Thủy Phu Nhân đã được phong làm 「Sùng Phước Chiêu Huệ Từ Tế Phu Nhân 」vào năm Thuần Hựu đời Tống, rồi đến năm Vạn Lịch đời Minh phong làm 「Thiên Tiên Thánh Mẫu Thanh Linh Phổ Hoá Bích Hà Nguyên Quân 」. Năm Hàm Phong đời Thanh lại cải thụy là 「Thuận Thiên Thánh Mẫu 」.
*Xét về từ ngữ, hai chữ Nương Nương trong Chú Sanh Nương Nương là để dùng trong việc xưng hô một vị “Hậu Phi” (vợ của vua), cũng có thể xưng Phu Nhân, vì chỗ giống nhau đó mà người ta mới có ý cho rằng hai người là một.
*Trong sách “Đài Loan Huyện Chí” có nói :- “Lâm Thủy Phu Nhân, tên là Tiến Cô, là con gái của Trần Xương ở Phước Châu, sanh vào năm Đại Lịch thứ hai nhà Đường, từ thuở nhỏ đã tinh thông huyễn thuật.Lớn lên kết hôn với họ Lưu, đã có thai được vài tháng. Lúc ấy, vùng Lục Thích (chỗ ở của bà) lâm vào đại hạn lâu ngày không có mưa, Bà làm phép “đảo vũ” để cầu mưa được, cứu cho bá tánh. Nhưng vì quá tập trung tinh thần vào việc đảo vũ nầy, bà bị sẩy thai và chết vào năm 24 tuổi. Lúc sắp chết, Bà nói :- “Sau khi chết, ta nhất định làm Thần để cứu giúp những người nữ khi sanh sản”. Quả nhiên, về sau , ông Trần Thanh Tẩu người ở Phủ Kiến Ninh tỉnh Phước Kiến, có người con dâu mang thai đã mười bảy tháng mà không sanh được. Gia đình đã van vái bà thì quả nhiên con dâu sanh ra được mấy lít “rắn con”, nhờ vậy thoát nạn.
*Trong “Kiến Ninh Phủ Chí” viết :- “Đời Tống, có vị quan nhỏ tên Từ Thanh Tẩu ở thành Đại Phố, ông ta có đứa con dâu đã mang thai suốt mười bảy tháng mà không sanh được. Cả nhà đang lo âu khổ sở vô kể. Bổng nhiên, một hôm có người phụ nữ đi vào nhà, tự xưng họ Trần, là “bà đở đẻ” đến giúp cho gia đình. Bà mụ bảo ông Từ cất một cái lầu bằng gỗ ở xa nhà, bên dưới nền lầu đào một cái hang động, cho sản phụ lên lầu và cử người nhà cầm gậy gộc đứng canh ở hang. Lát sau, sản phụ sanh ra một con rắn trắng dài cả trượng, chạy trốn vào hang. Gia nhân xúm lại đập chết con rắn, nhờ đó sản phụ được bình an thoát tử. Họ Từ đem rất nhiều vàng bạc châu báu đến tăng bà mụ, nhưng bà từ chối không nhận thứ gì, chỉ xin họ Từ viết vào mảnh lụa câu “Từ Thanh Tẩu kính tặng cho bà họ Trần đã cứu sản phụ” đưa cho bà mà thôi. Lại nói bà là người ở huyện Cổ Điền , châu Phước . Khi tiễn bà ra khỏi cửa, bổng nhiên không thấy tăm dạng đâu nữa.
Thời gian sau, Từ Thanh Tẩu được thăng chức, thuyên bổ đến trấn nhậm châu Phước, cho người đi tìm bà mụ họ Trần ở Cổ Điền. Nhưng tìm mãi không thấy, sau nghe người địa phương bảo là chỉ có Miếu Thờ Trần Phu Nhân mà thôi. Lại cho biết là vị thần thờ ở đây thường biến hóa thành người nữ đi khắp nơi để cứu giúp những phụ nữ sanh đẻ khó khăn. Họ Từ mừng rỡ, lên kiệu đến Miếu Thờ, quả nhiên thấy có treo tấm lụa ghi lại bút tích xưa của mình. Họ Từ liền làm biểu tấu trình về triều đình sự linh ứng như thế, nhà vua phong tặng thần hiệu cho bà.
*Trong “Địa Phương Chí” (của Cổ Điền) có ghi :- “Những phụ nữ ở đây rất sùng bái vị thần thờ ở Miếu nầy. Khi có thai, thường họa hình vị thần trong Miếu để thờ ở nhà, đến ngày sanh, tất cả đều được bình an cả con lẫn mẹ. Ngày làm lễ “Tẩy nhi” (tắm rửa em bé) , sau khi cúng bái hình tượng xong, đem đốt thì thấy có hình dạng bà bay lên trời. Cho nên, từ xưa đến giờ, ở đây tôn thờ Trần Phu Nhân làm “Thần Bảo Hộ Sanh Sản” và tôn xưng là “Chú Sanh Nương Nương”.
Vậy “Chú sanh” là chuyên về việc sanh sản. “Nương nương” là chỉ cho “bà phi vợ vua”.
* Thiên Hậu Nương Nương :- Nguyên là vị Thần Biển, nhưng lại có thêm biệt hiệu là “Thần hộ trợ sanh sản” . Sự sùng bái Mụ Tổ nầy rất phổ biến ở vùng Đài Loan và một dãi Mân Nam, cho nên Bà đương nhiên trở thành có thêm nhiệm vụ là thần phù hộ sản phụ được bình an.
* Kim Hoa Phu Nhân :- Còn gọi là “Kim Hoa Nương Nương”, là vị thần bảo hộ cho phụ nữ và trẻ sơ sanh vùng đất Quảng Đông. Miếu thờ Ngài gọi là “Kim Hoa Miếu”, việc cúng tế Bà gọi là “Hội Kim Hoa”. Miếu Thờ Bà có rất nhiều ở vùng Quảng Đông.
*Thất Nương Mụ--Thiên Tiên :-
- Nữ Thần Thiên Tiên thường được nhân dân Trung Quốc tôn làm Thần chủ về việc sanh sản.
-Thất Nương Mụ , còn gọi là Thất Tinh Nương, Thất Cô v.v…được nhân dân vùng Mân Nam đặc biệt xem là Thần chủ về việc sanh sản.
* Trương Tiên :- Đa số Thần chủ về sanh sản là Nữ Thần, riêng gần đây mới xuất hiện một vị Thần chủ về sanh sản mà lại là Nam Thần. Ngài tên là Trương Tiên, trong dân gian rất phổ biến bức họa “Trương Tiên Tống Tử Đồ”. Có người nói, Trương Tiên nguyên là quí thần thờ riêng của gia đình, sau được một vị Hoàng Phi đem bức họa ấy vào thờ trong cung, nhân đó trở thành vị thần “Tống Tử”.
*Bảo Sanh Đại Đế :- (xem bài Bảo Sanh Đại Đế )
Ngài tên là Ngô Bản, tự Hoa Cơ, người huyện Đồng Nhân tỉnh Phước Kiến, chỉ ăn chay mà làm nghề y cứu nhân độ thế vô số. Ngài giúp người không phân biệt quí tiện, giàu nghèo, bất luận là bệnh nan y nào, Ngài cũng chữa lành. Khi mất, được tôn xưng là “Hoa Kiều Công” (quan có cây cầu đẹp như hoa). Về sau được phong làm Trung Hiển Hầu, Anh Duệ Hầu v.v…Năm Vĩnh Lạc đời Minh mới được chính thức phong làm Bảo sanh Đại Đế .
Ngày đản sanh của Chú Sanh Nương Nương là ngày hai mươi tháng ba âm lịch.
*Phần phụ thêm :-
BÀ TỔ
Bên cạnh bàn thờ của Chú Sanh Nương Nương có thờ thêm một số Bà Tổ, còn gọi là “Bảo Mẫu” hay “Diên Nữ”, có vài nơi lại xưng là “Điểu Mẫu”(mẹ chim). Số lượng Bà Tổ không giống nhau, có nơi thì thờ hai vị, có nơi thì sáu vị. Miếu lớn thì thờ 12 vị hay 36 vị. Vì vậy nên thường gọi là “Thập nhị Bà Tổ” hay “Tam Thập Lục Bà Tổ” (Việt Nam gọi là 12 Mụ Bà—ND) . Những vị ấy đều là những thần dạy dỗ cho bé sơ sanh, có vị tốt mà cũng có vị xấu, cho nên tùy theo phước đức của mỗi gia đình mà có con cái tốt hay xấu, do những vị Bà Tổ nầy dạy dỗ thành.
*Có thuyết nói, ba mươi sáu vị Bà Tổ nầy, còn gọi là “Ba mươi sáu Điểu mẫu” , mỗi vị một ngành nghề, phụ trách việc sanh sản và dạy dổ trẻ theo lệnh của Chú Sanh Nương Nương , tùy theo phước nghiệp của mỗi người. Về sau, có đứa trở thành người buôn bán, có đứa thành nông dân v.v…nhiều ngành nhiều nghề khác nhau.
*Lại có thuyết nói, Bà Tổ nầy là những cung nũ của Chú Sanh Nương Nương , có trách nhiệm bảo vệ trẻ từ lúc sanh cho đến khi được 16 tuổi, gìn giữ cho trẻ khỏi bị giựt mình, bị té xuống nước, bị phỏng lửa, giữ cho trẻ không bị lên ban trái v.v… Nói chung là gìn giữ cho thân tâm của đứa trẻ phát triển lớn lên một cách bình thường. Đứa nào ngoan ngoãn chịu học thì dù là đứa bé có bề ngoài sù sì cục mịch , bộ óc ngu dốt, cũng được Bà Tổ dạy dỗ trở thành thông minh hoạt bát.
*NHƯỢC THỦY dịch
(từ http://www.fushantang.com)
*PHỤ LỤC:-
-Trích Truyện Phong Thần :-
“Tử Nha truyền dẫn vợ chồng Dư Hóa Long lên, rồi đọc sắc:
Cha con Dư Hóa Long thờ chúa hết lòng, đáng tôi lương đống, liều thân trọn tiết, nên hưởng lửa hương. Nay phong Dư Hóa Long làm chức Chủ Đậu Bích Hà Nguyên Quân. Vợ là Kim thị phong chức: Vệ Phòng Thánh Mẫu.
Chồng coi việc bông, trái; vợ cứu việc sanh thai.
Còn năm người con phong chức sau đây:
Ngũ phương chủ đậu thánh thần
1- Đông phương chủ đậu thánh thần: Dư Đạt
2- Tây phương chủ đậu thánh thần: Dư Triệu
3- Nam phương chủ đậu thánh thần: Dư Quang
4- Bắc phương chủ đậu thánh thần: Dư Tiên
5- Trung ương chủ đậu thánh thần: Dư Đức
Vợ chồng, con cái Dư Hóa Long tạ ơn xuống đài.
Tử Nha truyền đòi Tam Cô lên, tuyên đọc.
Thái Thượng Nguyên Thỉ truyền sắc:
Ba chị em Vân Tiêu tuy học đạo lớp Thiên hoàng mà chưa chứng quả vì nóng báo cừu huynh trưởng lập trận Huỳnh Hà hại người đại đức nên phải lụy thân. Nay phong ba người làm Cảm Ứng Tùy Thế Tiên Cô.
Tuy làm vị nương nương. Song phải coi việc sinh sản mà đền tội hại tiên ra phàm.
Cảm Ứng Tùy Thế Tiên Cô gồm có:
1- Vân Tiêu nương nương
2- Quỳnh Tiêu nương nương
3- Bích Tiêu nương nương
Cả ba vị tiên cô đều tạ ơn lui gót.”
Nhân mùa Trung Thu , tôi xin gởi tặng quí huynh đệ 4RHTT, hai bài viết có liên quan đến "TRĂNG" và thưởng thức "Trung Thu Nguyệt Bỉnh" ngon lành.
Chúc tất cả được thân an tâm lạc.
*Nhược Thủy
(Mùa Trung Thu--Mậu Tí--2008) .
Xin theo dõi tiếp BÀI 9 .dienbatn giới thiệu.
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét