Tham khảo tài liệu , dienbatn thấy có những tư liệu sau :
"Lê Thị Lan - Tướng quân: Khởi nghĩa ở Đường Lâm - Sơn Tây. Được Trưng Vương phong là Nhu Mẫn công chúa, lĩnh ấn Trấn tây tướng quân, phó thống lĩnh đạo binh Hán trung. Hiện ở Hạ Hoà, Vĩnh Phúc có miếu thờ. "
" Đền thờ nữ tướng Lê Ngọc Lan (thờ hai Bà Trưng) um xùm cây cối. Cây ôm đền trong lòng, từ xa chỉ nhìn thấy một vòm xanh nối giữa một vùng đỏ đất. Có những gốc đa to 3- 4 người ôm, rễ thả to như cuốn bắp bám thẳng vào lòng đất. Biết bao bộ phim đã được quay tại đây, đã chọn nơi này để dựng lại lịch sử."
" Đền Nghè - Đình Đông được xây dựng theo kiến trúc cổ tự nhiều đời nay tại khu vực bãi nghè thuộc khu 3 thôn Đông Thành xã Văn Lang nằm sát quốc lộ 32.
Về vị trí đất đai: Dải đất xã Văn Lang nói riêng và Hạ Hòa nói chung qua sử sách ghi lại thì miền đất này thuộc bộ Văn Lang, thời Hán, thế kỷ thứ 2 trước công nguyên đến thế kỷ thứ 3, thuộc huyện Mê Linh - quận Giao Chỉ, đến thế kỷ thứ 10 thuộc huyện Đức Hòa - Phong Châu. Đến dời Lê - Lý - Trần thuộc miền đất Hạ Hòa, đạo Châu Giang, lộ Tam Giang. Thời Hậu Lê, đầu Nguyễn thuộc Hạ Hòa, phủ Thao Giang, trấn Sơn Tây, và từ cuối thế kỷ 19 có tên gọi là xã Văn Lang, huyện Hạ Hòa, tỉnh Phú Thọ
Sự kiện nhân vật lịch sử của di tích: Đền Nghè là nơi thờ 2 vị tướng tài thời Hai Bà Trưng đã có công đánh giặc cứu nước. Tương truyền thời Tây Hán (Trung Quốc) ở xứ Đường Lâm thuộc Sơn Tây có 2 vợ chồng ông Lê Tuân và Đặng Thị Thẹ thuộc dòng dõi Thế Phật Châm Anh, ông làm nghề dạy học và làm thuốc, bà thì lao động cần cù sống lương thiện không làm gì hại ai nên nhân dân xa gần ai cũng tôn trọng. Khi hai ông bà tuổi đã cao nhưng chưa có con đã đem của cải đi phân phát cho người nghèo đồng thời đi lễ các đền miếu để cầu con. Có lần đi du ngoạn đến Văn Lang thấy có một ngôi miếu linh thiêng (nay là miếu Nam Sang) liền sửa lễ cầu con...và kết quả đến ngày 12 tháng Giêng năm Giáp Dần ông bà sinh được một bọc gồm một trai, một gái. Người con gái ra trước nên được gọi là chị. Ba năm sau các con đã lớn ông bà đặt tên cho con gái là Ả Lan, con trai là Anh Tuấn. Ít sau cha mẹ qua đời, 2 chị em làm lễ an táng cho cha mẹ. Sau 3 năm đoạn tang, hai chị em đã khôn lớn cũng là lúc đất nước có nhà Đông Hán Trung Quốc.
Tô Định là thái thú quận Thao Giang cai trị rất tàn ác đã giết hại Thi Sách là chồng của bà Trưng Trắc cùng bao dân lành khác. Với nợ nước, thù nhà Trưng Trắc và Trưng Nhị đã đứng dậy phất cờ khởi nghĩa đánh giặc được nhân dân đi theo rất đông.
Ở xã Đường Lâm 2 chị em Lê Ả Lan và Lê Anh Tuấn đã kết nghĩa với nhiều người nay nghe theo lời linh của hai bà Trưng đã chiêu mộ được hơn hai nghìn binh sỹ về Mê Linh yết kiến hai bà. Lê Ả Lan được phong là Nội Thị Tướng Quân, Lê Anh Tuấn được phong là Chỉ Huy Xứ Đại Tướng Quân và cử hai chị em Tuấn phòng chấn thủ miền Thao Giang kiêm Truy Bộ Điển phòng thủ đánh giặc, qua nhiều ngày đêm hành quân hai chị em kéo quân đến đất Văn Lang thấy nơi đây có địa thổ đẹp bèn đóng trại lập ấp làm căn cứ đánh giặc và nuôi quân sỹ, đồng thời mổ trâu ngựa để yết cáo với trời đất sơn thủy bách thần, khao thưởng quân sỹ và ban phát cho dân làng (vào ngày 13 tháng 3 âm lịch).
Vào một ngày có lệnh của Hai Bà Trưng hai chị em về yết kiến để bàn mưu đánh giặc. Khi các chủ tướng và binh sỹ đã tề tựu đông đủ, lệnh hai bà truyền: nam tướng nam binh, nữ tướng nữ binh thẳng hướng đánh thành Hà Bắc, là thủ phủ của thái thú Tô Định. Quân giặc thua to phải chạy về Đông Hán. Quân hai bà Trưng thắng lớn thu hồi 6 tỉnh thành trì cùng toàn cõi đất nước.
Từ đó nhân dân tôn Trưng Trắc làm vua và trị vì thiên hạ. Nói về hai vị tướng quân: bà Lê Ả Lan và ông Lê Anh Tuấn trong trận đánh do hai người chiến đấu dũng cảm, giết được nhiều giặc... hai chị em được Trưng vương ban thưởng đạo Tây Sơn, thực ấp địa đầu Thao Giang, luyện sỹ an dân. Văn Lang ngày càng được mở rộng và củng cố vững chắc. Cuối cùng hai chị em cùng từ trần ở Văn Lang.
Dân gian truyền lại rằng: hai chị em đều hóa (tức chết) tại cánh đồng Sang, dưới chân núi Am Thuộc xã Văn Lang vào ngày 25/8 âm lịch.
Sau khi hai vị mất, dân trong khu đã báo về kinh đô Trưng nữ vô cùng thương tiếc và xuống chiếu cho Văn Lang trang lập miếu thờ và ra sắc phong cho hai vị:
- Nhất phong Ả Lan Nương Đức Hạnh Đoan Trang Công Chúa và tặng phong "Hằng Nga Uyển Mỵ Trinh Phụ Phu Nhân"
- Phong thần hiệu cho Lê Anh Tuấn : Lê Anh Tuấn Hiển Vinh Uy Dũng Đại Vương và tặng phong: "Tế Thế Hộ Quốc An Dân, Phu Vạn Quảng Đại Cao Minh, hiệu Hựu Hùng Chấn Đại Vương Thượng Đẳng Thần"
Từ đó về sau các đời triều gia phong như sau :
Đời Trần Nhân Tông có sắc phong: "Đức Vua Bà Ả Lan Nương Ngọc Phận Hằng Nga Công Chúa"
"Đức Vua Ông Hiển Hựu Trợ Thuận An Uy Hùng Tuấn Đại Vương Thượng Đẳng Thần"
Đời Lê Thái Tổ có sắc phong: "Ả Lan Nương Huê Hòa Đức Hạnh Trinh Thục Công Chúa"
" Phả Kế Cương Nghị Hùng Kiệt Tuấn Khanh Đại Vương"
Từ đó về sau để tỏ lòng tôn kính hai vị tướng quân nên nhân xã Văn Lang có ban khánh tiết giúp địa phương quản lý, bảo vệ trông coi và tổ chức tế lễ hương khói các ngày tuần ngày tiết. "Lễ tiệc và hèm tục" cụ thể như sau :
1. Ngày mùng 10 tháng Giêng: "Lễ cầu phúc rước nước" lễ lấy nước để phục vụ cho việc thờ cúng quanh năm. Trong Rước nước có gắn hèm tục là đánh trận giả để diễn lại tình trò quân Hai Bà Trưng đánh giặc
2. Lễ tiệc ngày sinh hai vị: vào ngày 12 tháng Giêng (âm lịch)
hèm tục cúng lợn đen múa hát 3 ngày liền
3. Lễ tiệc khao quân: vào ngày 12 tháng 3 (âm lịch)
Hèm tục: là mổ trâu đen "gọi là bì oa trữ nhục" tức là lấy da trâu căng làm nồi nấu thịt
4. Ngày hoá 25/8: Tục truyền hai vị thần đi thăm doanh trại các tướng lĩnh tại khu núi Am, bất chợt gặp một cơn đại phong, ác vũ, mưa bão, sấm sét dữ dội ai ở đâu chỉ biết có đó... chỉ trong khoảnh khắc cơn mưa đã tan các tướng sỹ đi tìm thủ lĩnh ở chân núi Am chỉ thấy hỡ vạt áo và hình tích của hai vị. Sau khi nhận tin hai vị đã mất vua đã phong: "sinh vi tướng, tử vi thần" và chỉ sắc cho Văn Lang trang lập hai vị thành hoàng từ đó. Như vậy: Đền Nghè là nơi thờ tưởng niệm, lưu niệm sự kiện nhân vật lịch sử có thật, là hai vị tướng giỏi thời hai bà Trưng đã có công với dân với nước. Sự nghiệp đấu tranh dựng và giữ nước của tổ tiên ông cha ta qua hàng ngàn năm lịch sử đã hun đúc nên đức tính cao đẹp, bản lĩnh và năng lực sáng tạo của dân tộc Việt Nam. " ( http://hahoa.phutho.gov.vn/ )
* 4 chữ Triện trên là NGUYÊN - HANH - LỢI - TRINH. ( 元 亨 利 貞 ).
Nguyên, Hanh, Lợi, Trinh là 4 đức của Trời. Thể theo tính lý này mà Thánh-nhân đặt ra 4 đức của người là Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí.
Thời thượng-cổ Thánh-nhân bắt đầu vạch ra tám quẻ, đạo của ba tài đủ rồi, nhân đó lại trùng điệp lên cho đủ hết các sự biến đổi của trời đất. Thế nên sáu vạch thành một quẻ kép. Hai quẻ Kiền đơn họp lại thành Bát-thuần Kiền. Kiền tức là Trời: chữ “Trời” chỉ về hình thể của trời, chữ “kiền” chỉ về tính-tình của trời. Kiền nghĩa là mạnh, mạnh mà không nghỉ gọi là Kiền.
Nguyên, Hanh, Lợi,Trinh là 4 đức tính củaTrời:
- Nguyên là muôn vật bắt đầu.
- Hanh là muôn vật lớn lên.
- Lợi là muôn vật được thoả.
- Trinh là muôn vật đã thành.
* Bức ảnh thứ 2 ghi : " Thời tại Bính dần niên , Quý Xuân Nhâm Tý nhật , Mão khắc động thổ bình cơ , Ất Mão nhật , Dậu thời kiên trụ thượng lương cát."
( Chu Xuân Giao dịch hộ dienbatn.).
Dịch nghĩa ra là Giờ Mão, ngày Nhâm Tý ( Quý Xuân : Tháng 3 - 三月:Quý xuân - 季春 ), năm Bính Dần động thổ , san nền ( Bình cơ 平 基) . Giờ Dậu ngày Ất Mão thượng lương cát.
Cũng theo Chu Xuân Giao , 2 bản khắc trên có niên đại tương đối gần , chỉ khoảng vài chục năm. Tra lại lịch ta có năm Bính Dần là các năm : 1926 , 1986 . Tháng 3 Thìn năm Bính dần 1926 không có ngày Nhâm Tý, chỉ có tháng 3 ( Nhâm Thìn ) 1986 Bính Dần có ngày 30 là ngày Nhâm Tý .
Như vậy thời gian xây hay trùng tu Đền này rất có khả năng vào tháng 3 năm Bính Dần 1986.
Long mạch khu vực Giếng Sữa và Đền mẫu Ả Lan.
Xin theo dõi tiếp bài 8. dienbatn.
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét