Ngày ấy giải đầu ghìm tay cương
Từ giã thiên trường không luyến tiếc
Nhường cuộc đất trời kẻ khác đương
Nào ngờ thiên địa không đồng lý
Mười mấy thu qua khảo trăm đường
Rẽ lối phong sương về chốn cũ
Gõ cửa thiên trường nỗi vấn vương.
(Thượng Nguyên nhất vận thi)
PHÁP HOA HỘI !
(Kỳ II: Nhị Nguyên…)
Bước vào thiên trường cửa nhị nguyên.
Trời đất khai hội Pháp Hoa Liên…
Quả thật thuở xưa từng nghĩ đến
Nẻo cao nguyện vọng, lấp đầy truân chuyên
Đa đề căn sâu in dị mộc
Quái thạch lãnh thiên dọn bàn thiền
Long gáy kỳ thư hồn hỗn độn
Hưng đạo sách nào bình giặc Nguyên?...
-----------
CỬU LONG GIANG DẬY SÓNG BẠCH ĐẰNG.
(Nối Nhị Vận...)
Vườn không nhà trống, phục dạ trống
Vô tự sách trời hạn khải mông…
Truy dấu rồng tranh mồi lữ điếu
Nã kỳ lân đoạt bẫy đồ nam
Quyền tinh mã tước vị thổ trĩ
Ngựa tiêu sương tuần mông hạn ảnh…
Độn hư tinh sau lưng huyền vũ
Trú dạ kê mão đợi…huyền vi…
(Trung Nguyên nhị vận thi.)
THIÊN HOA HỘI !
KỳIII ; Tam nguyên
Lạc giữa muôn trùng Hội Hoa Đăng
Mỗi mùa một vẻ hàm phong hằng
Mai lan cúc lựu phong ngôi hậu
Cầm kỳ thi họa đủ gió trăng
Sắc hương hư ảo, phục hoa thuốc
Một mai góp người buổi không chăn
Hướng dương hoa quỳnh kiền thược dược
Phân ly khôn sầu khảm hoa ngâu
(Hạ nguyên nhất vận thi)
Hốt ngộ dược vương hoa sen trắng!
Vô sắc Phật phong tiệm trong đầm
Phúc âm hoa huệ ngoài đồng vắng…
Mầu nhiệm Chúa hằng ví sao sâm
Bảy phép thất diệu ai phân đặng?
Đồng nhân tùy tụng kẻ công bình
Bĩ thái thanh minh nguyên trinh thắng
Trắng dạ bạc đầu bình tống, chiêm…
(nối nhị vận…)
VẠN HẠNH THỜI LÝ CÒN TÔ HIẾN
TANG HẢI THƯƠNG ĐIỀN CUỘC XẺ ĐÔI
---------------
Hoa đèn hoa râm đêm khách lữ (trổ)
Sông nước sao cười ngạo gió trăng!?
Trở dạ biển chào muôn hoa sóng
Trên ngọn ba đào nở tinh hoa
Hoa lau phất ngọn mười hai xứ
Sấm theo trống đồng trổ hoa văn
Ký vị theo dòng tế hoa thị
Lục cõi hoa mừng Hội Hoa Đăng!!!
( Hạ nguyên tam vận thi)
----------
ĐỘ MÔNG HẠN ẢNH…
Ngựa tiêu sương tuần mông hạn ảnh…
Đêm dịch trạm trông gà điểm canh…
Ngày hư ẩn tránh quán huyền
Nhạc phân đại tráng long tuyền điểm danh.
Thái cực tượng đồ nước Việt Nam trong thiên thư của kỷ nguyên mới.
THÁI CỰC TƯỢNG ĐỒ CỦA NƯỚC VIỆT NAM
TRONG KỶ NGUYÊN MỚI
(Diễn Giải Theo Câu Hỏi Bạn Đọc)
Lưu Ý:
Theo tư duy nơi đỉnh cao của nền khoa học đương đại. Để khai thác, giải thích toàn diện một mô hình thực tại của vũ trụ tự nhiên. Bắt buộc chúng ta phải hội đủ 3 công cụ:
1. Công cụ ngôn ngữ đơn thuần.
2. Công cụ ngôn ngữ hình học.
3. Công cụ ngôn ngữ toán học.
Vì thế, với đồ hình ở trên. Ta có đủ cả 3 yếu tố khai thác đó:
1. Hệ thống ngôn ngữ trình bày, với quan điểm của tư duy phương đông ta thường gọi là: "LÝ".
2. Hệ thống ngôn ngữ đồ hình minh họa, ta quen nghe gọi xưa nay là: "TƯỢNG".
3. Hệ thống ngôn ngữ số biểu thị, vốn là toán học của thuở ban đầu thường được gọi là nguyên nhân: "SỐ".
Quy tắc thứ hai; Phàm những loại sách được liệt vào hàng Kinh Điển nói chung. Nó vốn vượt lên trên tầm tư duy suy luận thông thường của chúng ta, rất khó để theo kịp mà nắm bắt cho được. Ở vào cấp độ này thì thường là sách kén độc giả chứ không còn là độc giả kén sách nữa rồi. Và những dạng Kinh Điển nói chung, vốn đều được viết bằng loại văn "U Mặc"!
Muốn hiểu rõ: Nhất thiết ta phải biết được điều đó trước đã. Sau mới có thể tìm hiểu dần được. Đó chính là cách đọc chỗ "không chữ" mà ta từng nghe Nhà Phật mô tả là "ngôn vô ngôn" vậy.
Tất cả sách có dạng liên quan đến đồ hình như trên. Xưa nay đều lấy Phương Nam quay lên phía trên. Bởi do theo luật lệ mà xưa kia Hoàng Đế tạo ra Chỉ Nam Xa (kim chỉ nam) để tìm Xi Vưu mà ra. Thế nhưng hiện nay thì la bàn đã chỉ Phương Bắc làm mẫu mực. Mọi đồ hình nói chung; Toàn cầu cũng thống nhất lấy hướng phía trên biểu đồ là Phương Bắc. Vì thế tôi cũng đã xoay lại và quy định theo sự thống nhất đó.
Đó là quy tắc, chúng ta cùng bước vào tour tham khảo chung.
Theo như mọi sách cùng sự lý giải xưa nay đều có một sự bất đồng là: Không thống nhất năm bắt đầu khởi nguyên là năm nào trong: ... 62, ...63, ... 64 !?. Đó chẳng qua là do lý tại hệ thống Tam Tài mà ra cả thôi. Ví như; Trời sinh ở Tý, Đất sinh ở Sửu, Nhân sinh ở Dần. Từ đó cho nên; Khi tham khảo sách nào mà ta thấy ... 62 là đang diễn lý ở Thiên. ... 63 thì trình bày ở lý Địa. Dĩ nhiên ...64 ắt mô tả là lý Nhân rồi vậy. Và đại đa số trong chúng ta đều biết cuộc này thuộc Hạ Nguyên, thuộc Lý Nhân. Đó phải theo hệ vận hành từ 1864 làm khởi nguyên chẳng hạn (tính theo đại - tiểu nguyên).
Với đồ hình ở trên, sở dĩ tôi lấy theo 1863 là bởi:
Thứ nhất; Do rất khó tính được chi tiết, nên xưa nay hay tính di dịch ở 3 năm, 3 tháng, 3 ngày, 3 giờ v.v..., là được.
Thứ hai; Là khi tính chi tiết thì không thể cố định cho được. Bởi cứ 4 năm là xảy ra một năm nhuận. Khí, Tiết sẽ bị sai lạc đi, do phải chen vào 2 Tiết. Lúc đó buộc phải tính tới quy pháp Siêu Thần, Tiếp Khí mới chuẩn được. Nếu không sẽ sai lạc hết. Ta sẽ không biết quy luật lúc đó đang vận hành theo lý của nguyên lý nào trong Tam Lý (Thiên - Địa - Nhân) để mà xử lý được. Điều này đã xảy ra đối với sự kiện của trận Xích Bích năm xưa giữa cách tính của Khổng Minh và Chu Du chẳng hạn.
Thứ ba; Thế cuộc lẫn thời vận hiện nay là "Thiên Nhân Hợp Phát". Từ đó cho nên tôi dụng 1863 làm khởi nguyên là vậy.
Về vấn đề nhận định thời vận là rất khó. Tuy nhiên tôi vẫn cố gắng trình bày một cách đơn giản nhất có thể. Mong rằng qua đó, chúng ta phần nào nắm được thời thế mà khai thác xử lý. Hầu có giúp ích được ít nhiều gì cho xã hội hiện nay không. Bằng không, ta vẫn tích lũy được một phần nào đó ý thức về học thuật này của Dịch Học.
Xem xét và nhận định:
Trong Âm Phù Kinh có câu;
"Thiên phát sát cơ, di tinh dịch tú.
Địa phát sát cơ, long xà khởi lục.
Nhân phát sát cơ, thiên địa phản phúc.
Thiên Nhân hợp phát, vạn biến định cơ".
Dịch nghĩa:
"Trời mở cơ giết, dời sao lớn đổi sao nhỏ.
Đất mở cơ giết, rồng rắn phát sinh trên cạn.
Người mở cơ giết, đất trời tráo trở.
Trời và người cùng mở, là báo hiệu một cuộc thay đổi để lập lại cuộc mới".
Dựa trên quan điểm đó để xem xét và nhận định thời cuộc thì ta thấy:
Trong khoảng chừng 10 năm trở lại đây. Mô hình của vũ trụ tự nhiên phản ảnh: Các thiên thể, thiên thạch ngoài vũ trụ cứ lạc quỹ đạo mà lao vào trái đất ngày càng nhiều hơn thêm! Điều đó nói lên cái gọi là "dời sao lớn, đổi sao nhỏ". Qua đó ta nhận định đó là dấu hiệu thuộc Lý Thiên. Là cơ trời.
Cũng như thế, cùng một khoảng thời gian xem xét như trên. Long Xà Khởi Lục ở đây không có nghĩa là con rồng và rắn. Mà ta phải suy ra như: Châu chấu, sâu bọ, côn trùng không thấy phá hoại mùa màng chi cả. Do đó ta loại trừ Cơ Địa.
Và trên bình diện địa cầu trong khoảng một thập niên hiện nay: Hiện tượng bão lụt, sóng thần, nina, nino, vân vân... nổi lên với một mật độ không thể tưởng tượng được. Điều này phản ảnh câu "thiên địa tráo trở". Chắn chắn ta không ngần ngại khẳng định điều đó là Nhân Cơ.
Vậy tổng hợp những hiện tượng đó trong giai đoạn này thì ta có được kết luận: Thời vận này thuộc thế cuộc của "Thiên Nhân Hợp Phát". Mà Thiên Nhân hợp phát thì... Như ở trên tôi đã trình bày qua rồi. Không nhất thiết phải lập lại nữa.
Xưa nay, trải qua bao cuộc bể dâu. Tùy theo thế cuộc thuộc thời vận nào mà ta nhất định phải nương theo để đắc chí hành sự. Ví như thời của Nhà Chu thuộc vận Thổ. Đến Nhà Tần thuộc vận Thủy chẳng hạn. Ở đây tôi lấy thời mạt Hán (Đông Hán) làm dẫn giải như:
Ta thấy Tào Tháo đắc Thiên Thời. Tôn Quyền đắc Địa Lợi, và Lưu Bị thì đắc Nhân Hòa. Qua đó mới có thế chân kiềng, khi đã đắc một trong 3 tiêu chí đã nêu như thế. Ta xét thấy do đắc Thiên Thời nên Tào Tháo cuối cùng gồm thâu thiên hạ về một mối là vậy. Tuy nhiên, đó là quan điểm của người Trung Hoa mà trải qua các quá trình lịch sử đã minh chứng. Riêng quan điểm tại Việt Nam thì lại xem Nhân Hòa là quan trọng hơn hết. Chẳng hạn như câu phát biểu gần của Phan Bội Châu: "Thiên thời không bằng Địa lợi, Địa lợi không bằng Nhân hòa".
Trên đây là tôi đưa ra những quan điểm của từng giai đoạn làm dẫn chứng về thế cuộc và thời vận mà thôi. Tuy nhiên, quan điểm của một giai đoạn, không đủ so sánh với phản ảnh trong suốt quá trình của lịch sử được. Tóm lại; Từ đó sẽ cho chúng ta nhận định được nền tảng của cái gọi là thời thế mà mong xuất xử, nếu được.
Cho nên cuộc này thuộc "Kim Cuộc". Phàm hễ Kim cuộc thì luôn luôn là cuộc cuối. Là Tàn Cuộc, là chiến cuộc. Ta thường gọi chung với tên: "Kim Môn Đại Cuộc". Thời vận thì nhất định phải là "Thiên Nhân Hợp Phát". Bởi tính của đại cuộc thì riêng một Thiên thời, Địa lợi hoặc Nhân hòa cũng đều không đủ để độc diễn một phương rồi. Nếu ta xét và thường nghe câu "Vương Thổ", thì Kim lại là "Hoàng Kim". Nếu đã xem mệnh Thổ là Vương thì mệnh Kim thuộc Đế rồi vậy.
Tôi đưa ra một vài điển hình sau:
Hiện nay, ta thường nói câu cửa miệng một cách mặc định rằng thời đại Hoàng Kim! (Hoàng = Đế). Mà hễ đa kim ngân thì phá luật lệ. Cái lý của Kim thể hiện ở: ... Vì thiên hạ theo đuổi giá trị của nó mà gây ra biết bao cảnh; Bạn bè quay lưng, anh em trở mặt, chồng vợ ly tán, cha mẹ con cái chia rẽ v.v... Ta có thể nhận ra sự phản ảnh đó trên bình diện xã hội đương đại, tôi không nhất thiết phải trình bày. Lại nữa; Cái tính của Kim vốn là chiến cuộc... Cho nên "Đệ Tam Thế Chiến" ắt không tránh khỏi rồi vậy.
Vấn đề là ta nhất thiết phải nhận định cho được vận thế để xử lý thời cuộc. Và đồ hình ở trên không ngoài mục đích ấy. Tôi trình bày, diễn giải sơ lược về đồ hình, ta cùng nhận định chung:
Theo như mẫu đồ hình này là trình bày trong phạm vi của một Vận bao gồm 360 năm. Một Vận lại chia làm 2 Thế, mỗi Thế có 180 năm. Mốc tính, lấy từ giai đoạn của 1763 là giai đoạn mà Quang Trung và Nguyễn Ánh đang tranh hùng để định hình nước Việt Nam hiện nay. Từ đó ta tính tới trong 360 năm thế cuộc trong phạm vi đồ hình. Dĩ nhiên nguyên lý của khởi nguyên chuyển vận thì mốc tại 1863. Cho nên ta thấy từ 1863 tính đi 60 năm (một Chu), đến 1913 là thuộc Thượng Nguyên (một ô kẻ ngang là 10 năm), là Lý Thiên. Từ 1923 tiếp 60 năm nữa là đến 1973 thuộc Trung Nguyên là lý Địa. Và 1983 đến 2033 là dứt thời Hạ Nguyên, nay là lý Nhân. Ta xét thấy năm 2017 thuộc đời Hạ Nguyên. Lại nằm trong vạch bôi màu hồng thuộc mùa thu là Kim Vận. Thời thì thuộc Tiết Xử Thử trong cung Khôn. Vốn là Cửa Tử. Hội thì thuộc Hội Ngọ của đất trời.
Vạch màu hồng là tôi thể hiện "Cái Khí" của Thời, Vận, Hội của trời đất đang chuyển vận đến và tụ tại vị trí đó. Hiện nay tương quan với khu vực Tây Nguyên của đất nước. Và đang vận vào tới giới hạn cuối của khu vực Tây Nguyên là Lâm Đồng. Lưu ý là vòng chuyển vận này phải hết 360 năm mới lập lại một vận khác như thế. Điều này có nghĩa là cái vạch màu hồng, nếu chuyển vận ra khỏi khu vực Tây Nguyên, thì phải 360 năm sau mối tụ lại được như thế nữa.
Sở dĩ cách bố trí của đồ hình tính từ phía trên, bên trái (theo vị trí của người quan sát) là Cung khảm và Tiết Đông Chí là nguyên do: Trong Cửu cung thì Khảm thuộc Thủy là số 1. Điều này cũng có nghĩa là cái sự khởi thủy ban đầu. Cho nên Khảm tất phải ở vị trí đó. Tiếp đến, dĩ nhiên mỗi cung Quái sẽ kiêm 3 Tiết trong 24 Tiết trong năm. Mà cung Khảm khởi Thủy vốn tại Tiết Đông Chí. Hơn nữa, hàng năm thì khí của trời đất cũng bắt đầu vận hành từ Tiết Đông Chí, bất di bất dịch từ ngày tạo dựng vũ trụ cho tới nay. Và đồ hình trên mới có sự bố trí như thế.
Kết luận như sau:
Qua trình bày đồ hình như trên. Ta có được ý thức về một cuộc thế "Tàn Cuộc", có thể kiễng chân nhìn thấy trong một tương lai gần ngay trước mắt. Tôi nhắc lại: Quy luật của sự tiến hóa chỉ thuộc về sinh vật nào ưu tú nhất.
Phàm; Hễ không Tiến Hóa ắt Thoái Hóa vậy...
Thiên Nhân Hợp Phát? Có nghĩa là quy luật của vũ trụ, sẽ thay đổi toàn bộ vũ trụ để thiết lập lại một nền móng khác...
.
KHÔNG GIAN CHIỀU THỨ 5!
(Ký Sự Ngục Thứ 12)
Tôi tự nhủ và xác quyết một cách vững vàng rằng; Trước mặt tôi đích thị là sông Nại Hà trong truyền thuyết!
Mặc dù cảnh giới xung quanh, không mô phỏng giống như những gì tôi đã được biết qua sách sử, từng mô tả về dòng sông này. Tôi ý thức một cách rất rõ ràng là mình vừa bước qua cánh cổng của không - thời gian 4 chiều. Bởi thế giới mà tôi đang lạc bước vào, vốn là miền địa phương của "Ty Xứ". Một nơi mà Nhà Phật gọi là chốn "tưởng xứ địa phương", đối với ngôn ngữ cũng như tư duy nhân loại của chúng ta.
Giữa đêm hoang lạnh. Sương đêm mờ ảo che phủ dày đặc. Trước mắt tôi chập chờn hiện ra là một cảnh giới rất dị thường! Trong nhất thời lúc đó, tôi không hề biết rằng mình vừa bước vào không gian chiều thứ 5. Do cảnh vật đầy ảo mị đó, có vẻ như thôi miên ý thức tôi mà sự hiếu kỳ cứ thúc giục tôi dấn bước tới.
Trong thế giới của không gian chiều thứ 5 năm này. Mật độ vật chất dày đặc đến nỗi; Không gian xóa nhòa mọi ranh giới cảnh vật thành một màu đen mờ đặc. Hơi thở quyện đầy không khí nặng. Thời gian cũng bị che khuất mọi thông tin về nó. Thậm chí khái niệm thời gian dường như không hiện hữu nữa rồi. Tôi chỉ có thể mô tả là không biết đã bao lâu, tôi dò dẫm đi chập chờn một cách nặng nề như thế...
... Và rồi trước mắt tôi, trong không gian mờ đục, thấp thoáng hiện ra một dòng sông chắn ngang! Tôi định thần nhìn kỹ thì thấy đó là một dòng sông cạn trơ đáy! Bất giác, tôi cố gắng nhìn quanh... Và thấy chiếc cầu bắc ngang sông ở ngay phía trước mặt.
Như tôi đã diễn tả ở những dòng mở đầu; Khi nhìn thấy chiếc cầu bắc ngang sông. Tôi biết mình đang đứng trước dòng sông huyền thoại đầy ám mị của không gian chiều thứ 5. Đó là dòng sông chắn ngang ranh giới của miền "Ty Xứ". Theo truyền thuyết thì trên trời dường như có sông Ngân Hà. Dưới đất thì hiện diện sông Hằng Hà. Và Âm Phủ cũng tàng ẩn sông Nại Hà!
Trong cội nguồn văn hóa của người Việt, có đôi chút khác biệt với người Hoa, khi mô tả về dòng sông này. Ví như cây cầu bắc qua sông Nại Hà chỉ đơn độc mỗi một cây cầu bằng tre mà thôi. Nó không phải là cây cầu bằng đá. Cây cầu dẫn vào âm phủ, chính xác phải được cấu tạo chỉ là một cây tre đơn độc. Được bắc dập dềnh ngang sông Nại dài mịt mù. Không hề có lan can, tay vịn hoặc cây chống gì cả! Mọi linh hồn khi nhập âm ty, nhất định phải đi qua trên cây cầu tre ấy. Phía bên dưới là một dòng sông mà nước là máu tanh hôi đen thẳm. Dòng sông máu đấy vốn là kết huyết tinh từ những kẻ chết oan khốc bị lạc hồn, lạc phách. Trong dòng sông thì đầy rẫy những thuồng luồng, rắt rít. Chực chờ những linh hồn nào đi ngang qua mà tranh nhau nhảy lên, hòng đớp lấy mà lôi xuống dưới.
(...Nhấn đoạn bổ sung...:
... Có một nguyên lý để hình thành dòng sông đầy máu oan hồn này. Tôi cũng nhất định phải mô tả cho chúng ta hiểu thêm. Thường thì con người có đủ 3 hồn và 7 phách (vía) đối với Nam. Riêng người Nữ thì có đến 9 phách. Hồn thì ngụ trong máu huyết, Phách thì lại trú trong dịch tinh (tuỷ...). Do hồn ngụ ở trong máu nên ta thấy máu chảy nhiều, khi nhìn vào đấy, ta thường có cảm giác ớn lạnh hay khiếp đảm. Lúc chết, máu cạn đông lại hoàn toàn thì linh hồn cũng theo đó mà thoát ra hết. Riêng thể phách rất dễ tán, nên rất khó ra hết được một lượt. Nếu linh hồn ra đủ 3 và thể phách cũng ra đủ 7 thì người đó nhất định chuyển kiếp (đầu thai) rất nhanh. Nếu như chưa đủ phách thì linh hồn còn phải vất vưởng mà chờ hội tụ cho đủ phách mới có thể chuyển kiếp được. Vì nguyên do đó cho nên ta thấy khi chết; Nhất định phải quàng thi thể lại 3 ngày. Mời các vị lại với tiếng kèn trống, đọc kinh, gõ mõ... với mục đích là để nhanh siêu thoát. Tuy các vị ấy cũng không thể hiểu nguyên do từ đâu, chỉ một mực tin như thế là đủ. Bởi những điều này nằm ngoài khả năng tư duy của họ.
Ví dụ: Do bản tính nhẹ và hay tán. Nên khi chết, thể phách tán ra bởi những chấn động kể cả âm thanh xung quanh và tiềm ẩn trong thi thể mà không thoát ra được. Mục đích của tiếng kinh, mõ, trống, kèn nói chung. Cốt là làm bão hòa mọi âm thanh bất chợt khác. Từ đó thể phách mới dần tụ lại và thoát ra bên ngoài để hội cùng linh hồn được. Chứ thỉnh thoảng lại có một tiếng động (nhất là giữa đêm khuya vắng lặng) thì thể phách đang tụ, lại thình lình tán ra mất, không thoát ra được. Ta có thể nhận được điều này qua những biểu hiện:
Khi ta nhìn vào một cái xác nào, mà ta cảm thấy rất yên bình, thì đó là hồn và phách đã ra hết. Khi phách còn thì ta cảm thấy có điều bất an, gợn sợ khi nhìn vào xác. Và thường thì những xác này hay bị xì hơi, gây mùi rất khó chịu cho mọi người xung quanh.
Về phần linh hồn nếu những ai chết bởi tai nạn nói chung. Máu của họ nếu chảy ra nhiều và bị thấm vào đất. Linh hồn sẽ bị vương ở đó không tan được. Rất khó để chuyển kiếp. Lạc phách đã khó chuyển kiếp rồi, lạc hồn thì lại càng khó hơn. Và máu của những người này thấm qua đất, hòa cùng máu của muông thú mà tụ lại thành dòng sông Nại Hà này, chảy qua trước cửa âm phủ đó vậy).
Qua vài dòng lưu ý chung như thế. Sau đây ta lại tiếp tục trở lại đề tài dở dang do nhấn đoạn vừa rồi:
... Chỉ lạ mãi một điều, vì trước mắt tôi chỉ là một dòng sông đã khô cạn, trơ đáy?! Tuy thoáng ngạc nhiên, tôi cũng sang sông theo cách: Đi bộ một cách chậm rãi trên những hòn đá dưới lòng sông cạn mà qua sông. Bởi sông cạn trơ, không nhất thiết phải đi trên cây cầu tre để vào Ty Phủ mà làm gì.
Cảnh giới bên kia âm phủ càng khiến tôi càng lạ lùng và ngạc nhiên hơn nữa. Bởi trước cửa âm ty không hề thấy bất kỳ một Đầu Trâu, Mặt Ngựa nào ra đón hoặc chặn lại cả! Thậm chí hoàn toàn vắng lặng, bất kể bộ dạng của bất kỳ Quỷ Xứ bao gồm Viễn Quỷ hoặc Cận Quỷ nào lai vãng trong xứ quỷ !?
Đã thế, Tôi chẳng màng nện trống ngục trước trước Ty Động làm gì. Cứ thế mà nhập Sở Ty... Cảnh giới bên trong vẫn hoàn toàn khác xa và rất khác như những gì mà tôi đã từng được biết qua sách sử đã mô tả lại. Các cửa ngục mà tôi đã đi qua, tuyệt nhiên không hề thấy bất kể một ma nào lảng vảng cả!? Quanh vách của mỗi ngục, vẫn còn treo lủng lẳng đầy những dây xích sắt, âm vào vách tường đá, thả bông thỏng xuống mà không có một ai bị giam giữ!
Khi tôi vào tới cửa ngục cuối cùng. Ngục thứ 12. Thật bất ngờ khi ngục này vẫn còn mở, so với 11 cửa ngục trước đó. Và tôi chợt nhìn thấy linh hồn kẻ tội đày không thể siêu thoát trong cửa ngục cuối cùng này lại là Thanh Đề!
Tôi nhớ lại theo như kinh sách của Nhà Phật có ghi chép lại quá khứ tội lỗi của bà Thanh Đề đã gây ra. Do tội đó quá nặng, cho nên hiện vẫn chưa có cách nào thoát khỏi gông cùm cũng như hình phạt, nơi cửa ngục cuối cùng này được.
Ngẫm lại chuyện quá khứ mà bà Thanh Đề từng gây ra. Xem xét sâu xa hơn nguyên nhân nào mà khiến bà phải hành động như thế? Chẳng qua vì bà không muốn để cho con của mình đi tu. Bởi với suy nghĩ của riêng bà thì đó là cả một sự khổ hạnh mà con bà phải chịu thiệt thòi trong tương lai gần. Từ đó khiến bà phải bằng mọi giá ngăn cản con mình nên khiến có hành động như thế. Để rồi tận hôm nay bà vẫn chưa trả hết tội.
Kinh sử còn ghi lại khi Mục Kiền Liên đã đắc đạo. Lúc xuống âm phủ thăm mẹ. Vẫn không có cách nào cứu thoát tội cho mẹ của mình được. Sau đó, như chúng ta đã biết: Lễ Vu Lan báo hiếu hiện nay cũng chính là cứu cánh duy nhất mà bà Thanh Đề lẫn Mục Kiền Liên mong mỏi hằng năm và... hằng năm, hằng năm nữa...
Khi đã tận mắt đứng trước đọa cảnh mà bà Thanh Đề đang phải chịu nơi ngục cuối cùng này. Tôi xét lại chuyện xưa của Mục Liên và Thanh Đề.
Nếu xét theo Đạo thì như thế nhân đã từng xét xưa nay rồi. Và mọi người đều chấp nhận vào cái kết thúc như hiện nay đang diễn ra.
Thế nhưng không một ai có thể dám tư duy ngược lại vấn đề này cả!? Điều này có nghĩa là nếu ta xét ở góc độ của Đời so với Đạo thì sao? Bởi bà Thanh Đề vì thương con với tất cả tấm lòng của một người mẹ. Bà không muốn nhìn thấy con mình chịu khổ hạnh trên con đường tìm Đạo. Bà sẵn sàng làm tất cả để hy vọng ngăn cản con của mình, bằng bất kỳ giá nào, cho dù phải trả đắt. Tóm lại: Bà chấp nhận hy sinh, cốt để con mình không phải chịu khổ hạnh. Với tấm lòng của một bà mẹ yêu thương con đến vô hạn như thế. Với tư duy nông cạn, bà không hề đo lường cũng như biết được hậu quả mà bà phải gặt ở tương lai từ nguyên nhân mình đã gieo. Vì cho dù có tư duy với một tư duy sáng suốt nhất. Thế nhân chúng ta cũng không thể nào hình dung tới những gì phải trả như Thanh Đề đã và đang phải trả cho được.
Xét riêng về Mục Liên thì sao? Chúng ta không đủ đại trí, đại hùng để suy xét rằng: Khi Mục Liên đã đắc quả. Có xuống thăm và mãi tận hôm nay vẫn chưa có thể tự cứu mẹ của mình được!
Về vấn đề này thì tôi đã gợi ý đến đây là quá đủ rồi. Chúng ta hãy tự xét xem sao?
Riêng cá nhân tôi lúc đó. Khi tận sở thị bà Thanh Đề bị hành phạt đã thấy bất nhẫn vô cùng. Tôi không miêu tả cảm xúc hay những gì thuộc tư duy của tôi diễn ra lúc ở đây. Tôi chỉ có thể mô tả rằng mình đã cảm thấy bất nhẫn vô cùng. Cho nên khi thấy bà Thanh Đề cầm ly nước uống, ly nước hóa thành lửa. Tôi liền giật lấy và uống thay, để chia vơi cho tấm lòng của một người mẹ như bà. Lúc bà bưng chén cơm ăn, chén cơm biến ra dòi. Tôi không ngần ngại giành lại và ăn giúp... Thoảng qua tư duy với ý nghĩ... Sao cái đạo lại xử sự hà khắc làm vậy?
Lạ thay! Ngay lập tức, những xích xiềng trên tay của bà Thanh Đề rơi tuột ra tất cả!... Tất cả các Quỷ xứ cũng tan biến đi đâu mất hết !?
Cũng trong sát na, tôi chợt hốt ngộ; Hóa ra tất cả đạo lý tiềm ẩn ở đây là như thế! Nếu ngày trước Mục Liên làm việc này (tôi đã bất chợt làm) cho mẹ. Ắt cứu được mẹ của mình rồi vậy. Đằng này thì Mục Liên đã lấy tay áo cà sa che mắt mà khóc, không dám nhìn cảnh tượng khi mẹ mình ăn dòi và uống lửa khi ấy. Trong khi nguyên nhân mẹ bị đọa đày như vậy là do xuất phát chính từ lòng mẹ đã thương chính mình.
Nếu ngày ấy, Mục Liên chịu hình phạt thay bằng cách ăn, uống thay cho mẹ mình. Ắt đã cứu được mẹ của mình rồi. Bởi Thanh Đề chịu đọa là cũng từ Mục liên mà ra. Như thế, tôi chỉ là người dưng, khác họ lạc qua đường. Cám cảnh nên mới có hành động như thế đối với Thanh Đề. Dĩ nhiên mọi xích xiềng lẫn bất kỳ hình phạt nào cũng đều bị vô hiệu ngay tức thời.
Đó là Đạo.
Hồi ký này là tôi chép lại về sự kiện đã xảy ra trong không gian chiều thứ 5 mà tôi từng trải qua như thế đó. Tôi biết, và tôi ghi lại lại một cách chắc chắn rằng: Bà Thanh Đề đã hoàn toàn được xá tội kể từ thời điểm đó.
Sau khi đã thấy cửa ngục cuối cùng cũng không còn ai. Tôi liền quay trở ra. Ánh trăng muộn giống như con thuyền lơ lững cập bờ phía bên này dòng Ngân Hà. Ánh sáng bàng bạc trải xuống lòng Nại Hà như soi bước cho tôi. Có tiếng gà gáy giục sáng vang lên phía bên kia Nại Hà... Tôi vội bước...
.
dienbatn giới thiệu. Xin theo dõi tiếp bài 3.
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét