BÙA NGẢI - LÊ HƯƠNG.
( Tác phẩm in trong Tạp chí bách Khoa ngày 1/8/1969 ).
BÙA NGẢI
Người Việt gốc Miên rất tin tưởng Bùa, Ngải. Họ cho rằng Bùa, Ngải trị được sự phá rối của Tà Thần Ác Thần, của Ma , quỷ và những vị Pháp sư có ác tâm hại người bằng số tiền thuê, sự dối trá của Ma lai, loại người Thm-up chuyên trù, ếm, thư đồ vật vào bụng. Càng tin ở Thần linh họ càng tin uy lực của Bùa Ngải mà ngay từ thuở bé, họ đã nghĩ đến những vấn đề dùng Bùa, Ngải trong đời sống của mình.
Ngoài sự tự vệ, tránh đỡ kẻ vô hình hoặc người xấu bụng hại mình, người ta còn nhờ Bùa Ngải giúp cho nhiều việc mà sức người không làm được.
Người làm ăn thua lỗ, thất vọng, muốn vay tiền làm vốn, học sinh hạn đội sổ đi thi vấn đáp, đều nhờ Bùa, Ngải để đạt nguyện vọng. Đi làm ăn xa hay định khuyếch trương một công nghiệp gì, người ta nhờ Bùa đeo trong mình để thâu được nhiều lợi. Gia đạo không yên, sinh hoạt bẩn chật, người ta cho rằng ma, quỷ ẩn trong nhà hoặc oan hồn yểu tử theo khuấy rối, phải nhờ bùa trấn áp. Người không toại chí trên đường tình ái, bị ý trung nhân phụ rẫy thì nhờ Bùa Ngải làm cho họ thương. Có người dùng bùa để cứu người bị nạn, ví dụ: Con gái bị bỏ bùa theo trai, đàn bà bị bùa bỏ chồng, đàn ông bị bùa mê vợ bé. Có người dùng bùa để trục thân nhân đi xa lâu về, hay không biết tin tức. Có người dùng bùa để ếm đối trong nhà trừ tà ma, rước hạnh phúc. Có người dùng bùa để vô Tổ trong mình khi bị đánh không biết đau, chém không đứt, ta thường gọi là gồng. Trong thời chiến tranh đại đa số binh sĩ Việt gốc Miên nhờ bùa tránh súng đạn.
Kẻ có tà tâm dùng bùa đoạt vợ người, dụ dỗ gái tơ, gái góa, dành tình nhân kẻ khác. Có người dùng bùa hại người đau ốm, điên cuồng hay bọ mạng âm thầm mà pháp luật không biết đến như lối " thư " đồ vật vào bụng. Có người dùng bùa hại người không ở trong nhà được, suốt ngày bứt rứt bực bội, rầy la quát mắng thân nhơn, coi gia đình như địa ngục, luôn luôn muốn đi ra khỏi nhà tuy không biết đi đâu và làm gì? Có người dùng bùa để luyện thai nhi đẻ non hoặc chết trong bụng mẹ, gọi là Thiên-linh-cái đề cờ bạc gian lận hoặc trộm cướp.
Người ta dùng bùa để trị kẻ dùng bùa hại mình y như lối so tài bằng phép tiên, hai địch thủ hai vị pháp-sư giúp mình đạt mục-đích. Nhưng sự thành bại do tài của pháp-sư bên này hoặc bên kia và nhất là ở việc làm có hợp với lẽ Trời hay không?
Những vị Pháp-sư .
Người có thần lực huyền bí để cho bùa là những vị pháp-sư dày công tu luyện, người Việt gốc Miên gọi là KROU. Những vị này sống lẫn lộn với đồng bào, hoặc lấy nghề cho bùa, gỡ bùa, bỏ bùa làm kế sanh nhai hoặc dùng làm nghề phụ. Có vị ở trên núi sống theo hàng đạo sĩ , ít khi tiếp xúc với người đời, chỉ thỉnh thoảng giúp một vài người gọi là có duyên với nhau. Có vị lợi dụng địa thế hiểm trở thu nhận một số đệ-tử truyền nghề. Xưa kia, trong giới người Việt gốc Miên có rất nhiều KROU chuyên môn hành nghề ăn tiền công. Người nào muốn hại ai có thể thuê pháp-sư cho bùa để bỏ. Kết quả thường khi được như ý muốn nên các ông sống rất dễ dàng, có vị làm giàu lớn tậu ruộng, cất nhà như bậc phú gia. Nhưng vì cậy tài làm bậy cho mình hưởng lợi, hoặc ăn tiền công giúp kẻ khác hại người nên các ông bị quả báo phải đau ốm nhiều năm, bị bùa hành điên cuồng, bị tàng tật suốt đời nên con cháu không dám nối chí ông cha tiếp tục nghiệp nhà nữa. Hiện thời (1968) dòng dõi các Pháp-sư dưới thời Pháp thuộc có người giải nghệ, có người làm nghề khác mà còn giữ nghề của cha để giúp đời chứ không dám tác oai tác phúc nữa. Ngay các bậc đạo sĩ ở núi cũng ít khi nghĩ đến việc hại người dù có ai chịu một số tiền lớn. Ngoài ra còn một hạng pháp-sư đặc biệt nữa là quý vị sư sãi ở chùa. Hễ nói đến Bùa, Ngải thì người Việt gốc Miên nghĩ ngay đến ông Sãi Cả chùa A, ông sư chùa B nổi tiếng thế nào. Thì giờ rảnh dỗi ở cửa Thiền giúp quý vị học và luyện bùa có kết quả rất tốt.
Người Việt học bùa của người Tàu do ông Lỗ-Ban đặt ra tên gọi là Bùa Lỗ Ban. Người Việt gốc Miên, cao Miên, Thái, Miên, Nam-Dương, Mã-Lai học bùa của đạo Bà-la-môn. Đó là điều oái oăm nhất của quý vị Sư Sãi tu theo Phật mà lại thích luyện bùa của Bà-la-môn giáo. Nhiều vị đạo đức cao thâm, chịu khổ cực năm này qua năm khác để học thành tài hầu giúp đỡ đồng bào. Nhờ quý vị là người xuất gia, không màng danh lợi, nên quý vị toàn cho những loài bùa cứu người, giúp người qua cơn khốn khổ, giữ gìn tánh mạng, trừ tà, ếm quỷ, tuyệt nhiên trong giới người Việt gốc Miên không có vị Sãi nào ăn tiền mướn dùng bùa hại người. Ở Cao-Miên trong giới bùa ngải có nhiều vị pháp-sư là người ngoài đời, trong giới Việt-kiều, và ngay ở Việt-Nam cũng có nhiều thầy bùa làm bậy, hoặc để hưởng lợi, hoặc vì một số tiền. Khi có người bị bỏ bùa, nạn nhơn thường tìm nhờ quý vị Sư Sãi cứu giúp. Nhờ uy lực của quý-vị, nhất là nhờ tấm lòng trong sạch, ngay thẳng mà kẻ tà mị không thể hại người dễ dàng.
Tuy nhiên, thỉnh thoảng có người giữ bùa của các vị Sư Sãi và nhân đó, cậy thế làm càn. Những người làm như thế là phạm vào lời cấm kỵ của Sư, tức khắc gặp phản-ứng và Sư biết ngay, thân hành đến thu bùa lại. Sự kiện này là một luật lệ nghiêm khắc trong giới bùa ngải mà không ai dám ngoan cố không tuân theo.
Các loại bùa .
Áp dụng theo nguồn gốc Bà-la-môn các vị sư sãi và pháp-sư Việt gốc Miên cho bùa với nhiều hình thức khác nhau và khác hẳn người Việt theo nguồn gốc Trung-Hoa như: sáp, tượng Phật, tóc đanh, bùa khắc trên miếng chì cột vào dây Katha, bùa vẽ trên khăn tay, vẽ trên vải, xâm trên thân thể, vô hột xoàn, vô kim trong mình, nước thuốc để uống gọi là luyện rồng.
Sáp bùa .
Sáp bùa làm bằng sáp ong có để mùi thơm đựng trong hộp gỗ tròn như trái quýt hai đầu hơi bẹo xuống chia làm hai phần bằng nhau, phía dưới đựng sáp, phía trên làm nắp đậy xoay theo trôn ổ. Hộp sáp gọi là ĐÂNG LẠP. Sáp bùa có bốn thứ dùng trong 4 trường hợp :
- Sáp rô-biên: để trị bệnh thông thường như nhức đầu, mỏi tay chân, trật gân, sưng mình mẩy, tức ngực, đau lưng.
- Sáp rup mê mốt : để trị các chứng bệnh do tà ma, quỷ quái gây nên.
- Sáp sơ ne là bùa yêu của phụ nữ, giữ tình thương của chồng, khiến cho chồng yêu mến mình hơn.
- Sáp mon akum thoa vào thì bị đánh không đau, súng bắn không trúng.
Hộp đựng sáp có nhiều cỡ, lớn nhất là đường kính sáu phân, thường thường người ta dùng cỡ đường kính ba phân. Hộp làm bằng loại cây Nhào gọi là NHO rất dễ tiện và không có mùi hôi, sáp đựng vào như đựng trong hũ bằng thủy tinh.
Khi muốn xin sáp bùa, người ta phải mua hộp gỗ này đem đến vị Sư, hoặc ông pháp-sư trình bày ý muốn. Sư hỏi tuổi đương sự, lật sách xem ngày tốt để làm lễ “ tom” bùa và sáp gọi là bonn prasethi dâng lạp. Đúng ngày đã định, người xin bùa đem lễ vật vào chùa hoặc nhà pháp-sư gồm có 5 xấp vải trắng, một số tiền tùy theo thỏa thuận trước với Sư, một cái nồi đất mới, một bao đèn cầy và một bao nhang. Trong góc phòng, Sư đã dọn một cái bàn thờ gọi là tóc bây sây. Trên một cái bàn bên cạnh, Sư để trái dừa có cắm nhang, hai đoạn thân cây chuối non gọi là Salatho và một lư hương . Lễ vật để trên bàn thờ. Sư bắt đầu lấy sáp ong có mùi thơm gọi là Kramoun Koốp cho vào đầy hộp gỗ, đoạn để ngửa trên cái đĩa lớn có thân gỗ hay bằng bạc gọi là chong srop hay là chong piên, đem lên bàn thờ. Sư ngồi xếp bằng trước bàn thờ bảo người xin bùa đứng sau lưng, rồi đọc kinh. Thỉnh thoảng sư cầm hộp sáp thổi vào. Sau ba lần thổi như thế, Sư lấy nắp hộp đậy lại để trên mâm, tiếp tục đọc kinh, rồi cầm hộp bằng tay trái, tay mặt xoa qua, xoa lại vừa đọc không ngừng miệng, chốc chốc lại xoay ra sau thổi vào đầu người xin nhiều lần. Mỗi lần Sư thổi người ấy chắp hai tay xá Sư một cách kính cẩn. Sư dở nắp hộp dùng hai ngón tay cái và tay trỏ lấy một ít sáp, vừa đọc kinh vừa thổi vào và thoa lên chân mày người xin. Bấy giờ sáp bùa đã linh thiêng. Cuộc lễ chấm dứt. Người xin nhận hộp gỗ để vào túi trên từ giã Sư. Về nhà, y phải để hộp sáp trên bàn thờ, thắp nhang khấn vái mỗi ngày. Công dụng của Sáp: Loại trị bệnh, đau đâu thoa đó, có người lấy cây tăm vít một tí uống “cho mau hết” nữa, loại trị bệnh tà cũng dùng như trên, loại sáp có bùa yêu thì thoa vào môi khi nói chuyện, thoa trên chân mày, hai bàn tay để xoa vuốt, loại đỡ đòn, đỡ đạn thì thoa khắp mình nhất là trên đầu, trước ngực, sau lưng. Người ta thích dùng nhất là loại sáp có bùa làm cho người khác có cảm tình với mình như khi vay tiền, xin việc làm, học sinh thi vấn đáp!
Hình tượng .
Thứ đến là tượng Phật nhỏ để trong hộp gỗ đựng sáp hoặc treo trên cổ gọi là Prẹt. Tượng làm bằng ngà voi, nha voi, ngà voi cụt, răng voi, nanh heo rừng độc chiếc, răng của vị Sãi Cả trong chùa còn sống hoặc viên tịch, răng của ông bà, cha mẹ. Làm tượng bằng ngà voi là những miếng ngà làm đồ vật lớn còn dư không có gì đặc sắc, răng voi cũng vậy, nhưng hơi đắt tiền vì cứng chắc khó tiện hơn.
Nha voi là ngà voi mới mọc lần đầu thường làm voi ngứa ngáy khó chịu, voi phải thọc vào thân cây cho đỡ. Đôi khi voi thọc quá mạnh, nha bị gãy dính vào thân cây. Người ta bắt gặp đem về trẻ ra từng miếng nhỏ. Nha voi khác ngà voi vì dày đặc không phải bộng và có tính chất kỵ lửa. Vật gì để gần nha voi thì lửa không xâm phạm đến.
Ngà voi cụ là ngà voi chỉ mọc có hơn hai tấc mà thôi. Giống voi này rất hiếm có. Ngà mọc một thời gian thì voi bị ngứa ngáy khó chịu, phải bẻ gãy để ngà khác mọc ra. Voi hay thọc ngà vào những thân cây to cạnh đầm nước sau khi đã giải khát và tắm rửa. Tượng Phật bằng ngà voi là PRẸT PHLUK.
Nanh heo rừng độc chiếc là nanh của loại heo sống một mình gọi là heo lăn chai, lớn gần bằng con bò, da dầy vô cùng rất hung dữ, cọp phải sợ. Nanh heo này tròn và đặc khác hẳn nanh loại heo rừng thường có ba góc và bộng. Nanh có tính kị hỏa như nha voi. Heo có nanh đặc ít khi bị người sát hại, chỉ chết già gọi là “rủ”. Vùng nào có heo độc chiếc “rủ” sẽ có cỏ mọc cao và vây kín xác heo. Rủi ro có cháy rừng, cả vùng cỏ ấy không bao giờ bị xém. Nhờ đó người ta mới tìm gặp nanh heo. Tương làm bằng nah heo gọi là PRẸT KHNAY TAN.
Người Việt gốc Miên rất quý trọng răng của vị Sãi Cả trong chùa và răng của ông bà, cha mẹ mình. Người ra thường xin răng rụng tiện thành tượng Phật, hoặc lúc thiêu xác mà răng không cháy hết. Nếu tiện thành tượng Phật gọi là PRẸT THMINH, thì nhờ Sư “tom” bùa vào sẽ linh thiêng, hoặc chỉ để vào trong hộp sáp bùa cũng có linh ứng như chính vị Sãi Cả hay ông bà mình theo phò hộ mình.
Người nào không đủ tiền thỉnh tượng Phật bằng ngà, bằng nanh heo hoặc nhờ thợ tiện cái răng thì vẫn có thể dùng một miếng ngà, một cái nanh, một cái răng nhờ Sư “tom” bùa, sự linh nghiệm cũng như “tom” vào tượng Phật. Quý vị Sư cho rằng uy lực của bùa không tùy nơi hình tượng mà ở tài sức của người cho.
Người nào có nhiều tiền có thể thỉnh tượng Phật bằng bạc, bằng vàng, bằng kim cương .
Tóc đanh .
Tóc đanh là tóc tự nhiên quắn lại dính liền với nhau thành một miếng dầy, cứng không thể trải gỡ được. Người có tóc đanh phải mang lấy không thể cắt bỏ vì dùng dao cạo hay kéo mà cắt thì bị đau như cắt vào da thịt mình. Đối với người Việt, người có tóc đanh thường cho là căn tu nên vào ở chùa hoặc sống một cư-sĩ, còn người Việt gốc Miên thì dùng miếng tóc ấy luyện bùa gọi là SOK ĐANH. Họ cho rằng rất ít người có tóc đanh, trong vài chục ngàn người chưa chắc có một, nên họ rất quý. Có người có một miếng, hoặc hai, hoặc ba, một miếng gọi là tônn, hai miếng thì coi như vợ chồng, miếng lớn là chồng gọi nhi, miếng nhỏ là vợ gọi sơ mônn, nếu có miếng thứ ba nhỏ hơn là đứa con gọi kônn. Khi người vợ có tóc đanh muốn cho chồng mình làm bùa phép thì phải nhờ một vị pháp-sư (KROU) cao tay ẩn đọc thần chú cầu xin Thần linh rồi mới cắt được. Không bao giờ người ta cắt tóc đanh của người chết làm của riêng mình.
Khi người nào tự nhiên có tóc đanh phải đến bảy ngôi chùa khác nhau trong ngày lễ Phật, đem nhang đèn cầy đốt trước Phật đài cầu xin tóc mình có uy lực tuyệt đối. Người Việt gốc Miên tin rằng người có tóc đanh không bao giờ bị kẻ nào đánh đập hoặc bắt giết được. Dù có chĩa súng vào người đi nữa, cò bóp cũng không nổ. Mỗi tháng hai lần nhằm ngày mồng 8 và 15, người có tóc đanh, làm lễ Phật tại chùa hay tại nhà, dâng lễ cúng là bắp rang nổ và thoa dầu dừa nên mái tóc. Người nào có miếng tóc đanh ở ngoài như của vợ cắt cho hoặc đầu tóc mượn của mình bị đanh thì để mớ tóc ấy trên bàn thờ. Người nào cũng thuộc bài kinh để đọc trong lúc làm lễ để giữ sự linh ứng luôn luôn.
Xin theo dõi tiếp kỳ II. dienbatn giới thiệu và minh họa.
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét