Đường thứ hai đi theo
hướng về Công Pông Chàm, Công Pông Thơm đi khoảng 5 Km rẽ phải vào Núi Năm Thuyền
có Chùa Năm Thuyền. Tại đây có pháo đài Bokor, là bộ sưu tập các tòa lâu đài (gồm
khách sạn, casino, nhà thờ, cung điện…) được người Pháp xây dựng từ năm 1920. Nơi
này , chính phủ Căm Phu chia đang cho xây dựng lại Casino rất lớn và sẽ khai
trương vào tháng 11 này. Trong các thư tịch, di ngôn, di tự của Phật thầy Tây
An Đoàn Minh Huyên - Giáo chủ đạo Bửu Sơn Kỳ Hương; Bổn Sư Núi Tượng Ngô Tư Lợi
- Giáo chủ đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa; Phật Trùm, Phật sống Cử Đa, Giáo chủ Hòa Hảo
Huỳnh Phú Sổ, Phật sống Trúc Lâm Nương, Trịnh Công Hương v.v… cho thấy các vị
này đều đạt chánh quả, đắc đạo ở ngôi chùa Năm Thuyền này.
Chùa 5 thuyền.
Những pháp sư nổi tiếng trước năm 1960 ở miền Nam như Thợ Đức
Lỗ Ban; Ông Ba "bùa gồng"; tướng cướp Đơn Hùng Tín; Đông Cung Phan
Xích Long và rất nhiều vị đại pháp sư khác cũng đã từng sang khu vực Năm Thuyền
luyện phép.
Theo các tài liệu của các pháp sư Việt thì đó là một ngôi am
nhỏ do Vua Monivong xây cất vào năm 1924 cho Hoàng tử Pre Thoong đến tu luyện.
Pre Thoong được một đại pháp sư người Việt có tên thường gọi là Ba Gang hướng dẫn
vào đây luyện phép tiên. Do nơi đây có 5 tảng đá hình chiếc thuyền nên được gọi
là Năm Thuyền. Ông Ba Gang và Cử Đa là hai phó tướng của Quản cơ Trần Văn Thành
- người chỉ huy cuộc khởi nghĩa Láng Linh - Bảy Thưa trong giai đoạn chống thực
dân Pháp (1867 -1868). Sau khi kháng địa
bị thất thủ, Quản cơ Trần Văn Thành tử trận, Cử Đa và Ba Gang về núi Tà Lơn tu
luyện phép thuật chờ thời cơ. Lần lượt họ viên tịch tại nơi này và được dân địa
phương đúc tượng phong thánh.
Ngày nay, Năm Thuyền không còn là ngôi chùa hoang vắng, u tịch.
Nhà đầu tư đã xóa hầu hết dấu tích người Việt và "cải biên" thành một
khu du lịch tấp nập người. Họ đã biến tượng Cử Đa và tượng Ba Gang thành
"Phật Kh'mer". Ông "lục cả" trụ trì ngôi chùa là người Việt
Nam cũng không còn.
Từ Chùa Năm Thuyền đi tiếp theo đường núi hiểm trở khoảng 32
Km ta có thể đến được khu vực đáng chú ý nhất của dãy núi Tà Lơn - Điện Minh
Châu , Điện Bình Thiên, Điện Bàn Ngự, Điện Tứ Giao, Điện Lan Thiên...là nơi các
vị Tổ của Huyền Môn , các vị lãnh đạo Đạo giáo ngày trước chọn làm nơi tu luyện.
Trong " Sấm giảng đời người "của Sư Vãi bán khoai có viết :
" Ngày xưa Phật ở nước Tần,
Rồi sau Phật lại đi lần về Nam. "
Câu đó có ý nghĩa về sự chuyển dịch trung tâm Phật giáo từ
Tây Tạng sẽ dần chuyển về nước Việt, đồng thời cũng chỉ rõ cho ta biết sự chuyển
động và kết tụ của Hymãlạp sơn như thế nào?
Về kết cấu Địa chất,
khu vực Tà Lơn hàng triệu năm trước còn là biển. Qua những kiến tạo địa chất,
được dựng lên thành núi cao đến 1079 m. Bằng chứng thấy rõ ràng nhất là bất cứ
ai bước chân đến Tà Lơn đều thấy cát ở đây là cát biển trinh nguyên.
Thời các vị tiền bối
đến đây tu tập , Tà Lơn còn vô cùng hoang sơ . Ta có thể hình dung quang cảnh xứ
này qua "Bài vè Tà Lơn " trong tác phẩm Thơ Núi Tà Lơn của nhà văn
Sơn Nam :
“ Tà Lơn xứ rày tạm
con ở.
Làm lưới chài ngày
tháng náu nương.
Gởi thơ về cho cha mẹ
tỏ tường.
Cùng huynh đệ đặng cho
hãn ý.
Kể từ thưở bôn trình vạn
lý.
Ðến bây giờ hơn bảy
tháng dư.
Nghiêng mình nằm nhớ tới
mẫu từ.
Ngồi chờ dậy ruột tằm
quặn thắt.
Nhớ huynh đệ lụy tuôn
nước mắt.
Cam phận em ruột thắt
từng hổi.
Vận bất tề nên phải nổi
trôi.
Thời bất đạt nên con
xa xứ.
Xứ lạ lùng con có một
mình.
Cơn nguy hiểm lấy ai
phò trợ.
Bởi thiếu thốn bao
nhiêu đồng nợ,
Nay thân con phải chịu
hoành hành.
.............
Việc ăn ở nhiều nỗi đắng
cay,
Vái trời phật xin về
quê cũ.
Xứ hiểm địa chim kêu
vượn hú,
Dế ngâm sầu nhiều nỗi
đa đoan.
Ngó dưới sông con cá mập
lội dư ngàn,
Nhìn trên suối sấu nằm
như trăm khúc.
Nay con tới nguồn cay
nước đục,
Loại thú cầm trông thấy
chỉnh ghê,
Giống chằng tinh lai
vãng dựa xó hè.
Con gấu ngựa tới lui gần
xó vách.
Bầy chồn cáo đua nhau
lúc nhúc,
Lũ heo rừng chạy giỡn
bát loạn thiên.
Trên chót núi, nai đi
nối gót,
Cặp giả nhân kêu tiếng
rảnh vang.
Ngó sau lưng, con kỳ
lân mặt đỏ như vàng,
Nhìn phía trước, ông
voi đen huyền như hổ.
Hướng đông bắc, con
công như tố hộ.
Cõi tây nam, gà rừng
gáy ó o...”
Đọc bài thơ đó chúng ta mới hiểu và cảm nhận được hết nghị lực
phi thường của tiền nhân chúng ta trong tu tập. Ngoài dấu tích chùa Năm Thuyền,
tại đỉnh Bokor còn rất nhiều địa chỉ mang tên thuần Việt như điện Minh Châu, điện
Bình Thiên, điện Bàn Ngự, điện Tứ Giao… Đó là dấu tích của những người Việt xưa
tu luyện phép thuật nơi này. Ngày nay, những cái tên đó đều được người bản địa
"Kh'mer hóa" thành Mik Clau (Minh Châu), Bin Thi (Bình Thiên).
Cho đến tận bây giờ, người Kh'mer vẫn tin rằng, những
"lục tà" người Việt có công khai mở thánh địa phép thuật vẫn còn
"trụ trì trong không gian". Còn các pháp sư khu vực Đông Nam Á vẫn chọn
nơi đây làm "trường thi tốt nghiệp" hàng năm. Đối với giới pháp sư,
ngoài chuyện Tà Lơn là nơi có dấu tích những bậc Phật, thánh đạt chánh quả, còn
có yếu tố "chính huyệt" của khu vực Đông Nam Á. Họ cho rằng, nơi đây
là điểm tập trung linh khí trời đất nên con người dễ hấp thu đầy đủ tinh, khí,
thần của vũ trụ. Vì những yếu tố đó, các sư phụ luôn đưa đệ tử lên đây để kiểm
tra khả năng tu luyện. Nếu vượt qua được kỳ vặt sa, kể như đạt cấp đại sư, đủ
trình độ làm thầy. Với những người đạt bậc đại sư cũng đến đây để tôi luyện một
món "đồ" (Bảo bối có ẩn chứa phép thuật) hoặc nâng cấp một tuyệt kỹ
phép thuật nào đó.
Vượt qua con suối, trước mặt tôi hiện ra một bãi đá rộng đến
hút tầm mắt. Bãi đá mang nhiều hình thù quái dị chen lẫn với những loài cây cỏ
dại. Hàng ngàn khối đá đa hình thù xếp chồng lên nhau tạo thành những cái am
thiên nhiên lý tưởng và yên tịnh.
Dù đang giữa trưa, mặt trời đứng bóng nhưng ánh nắng rất dịu
mát. Thỉnh thoảng, một làn mây xám bao phủ khiến cảnh vật trời đất trở nên âm u
huyền bí. Tôi có cảm giác như mình đang lạc vào cảnh thượng giới. Tôi đi sâu
vào bãi đá khoảng 1.000 mét. Ẩn dưới những khối đá, hàng hàng lớp lớp hang động
sâu hút. Rất nhiều hang có dấu tích con người. Trước cửa một số hang ai đó đã đặt
một bát nhang. Ông Chín "thầy pháp" đã từng kể cho tôi nghe chuyện một
số pháp sư đến đây luyện phép và chết luôn trong hang. Với trường hợp như vậy,
các pháp sư cho rằng, người chết đã đạt chánh quả và được phong thánh. Tuy
nhiên, do không để lại tên tuổi nên các pháp sư đến sau gọi chung những "vị
thánh" này theo tiếng Kh'mer là "tà phnum", có nghĩa là thần
núi.
Lấy can đảm, tôi thử chui xuống một hang có bát nhang. Cửa
hang hẹp vừa vặn thân người nên bên dưới hang tối đen như mực. Chân tôi chạm một
phiến đá phẳng khoảng 1m2. Qua ánh đèn pin, tôi thấy trên phiến đá vẫn còn sót
lại vài mẩu ngải khô, vài mẫu vải mục đã biến màu. Bên cạnh phiến đá còn có một
khe đá sâu hun hút. Không mang theo dụng cụ leo núi, tôi đành bỏ cuộc rời khỏi
hang. Tôi tiến thật sâu vào "kham maya kul", đến tận mép một thung lũng sâu hun hút. Xuống
đến lưng chừng thung lũng, trước mặt tôi là một quần thể hang động đầy vết tích
con người: Chân nhang, tàn thuốc lá, chai nhựa, giấy vàng mã, tiền âm phủ vương
vãi khắp nơi giống như vừa trải qua một đám tang tập thể. Bãi kham này bên
ngoài dành cho những pháp sư mới đến luyện phép lần đầu. Ở đây chỉ có những
pháp sư cao tay ấn luyện. Yếu nghề lò mò vào đây mà không có sư phụ đi kèm, ngồi
1 giờ là hồn xiêu phách lạc, bỏ chạy ngay. Đã từng có người chịu không nổi âm
khí bị điên luôn .Từ một cửa hang nhìn ra ngoài, kẻ không tin tâm linh cũng sởn
gai ốc chứ đừng nói đến những người tín ngưỡng tà thuật. Vực thẳm sâu hun hút,
vách núi dựng đứng, Thỉnh thoảng mây từ dưới thấp dâng lên bao trùm khiến không
gian tối sầm. Gió len vào khe đá tạo thành âm thanh như ma rên, quỉ khóc… Nếu tịnh
tâm không tốt, không điên mới là lạ.Tôi xòe hai bàn tay ra trước mặt rồi cong
ngón cái và ngón giữa lại như sắp búng lỗ mũi ai đó trong khoảng không, miệng
hô chú thật lớn. Âm thanh vọng xuống thung lũng dội lên như phát ra từ cõi vô
hình: "An xáng bang da màm a căm căm ú bà da da ba xa to bà ti ka rit xà
mì..ì..ì"
Điện Minh Châu.
Điện Bình Thiên.
Chúng tôi dừng lại Điện Bình Thiên (nay đã bị tàn phá chỉ
còn lại dấu tích cái mái) thắp nhang . Ở Bình Thiên chúng tôi phải băng qua hai
con suối trong đó tôi đã suýt bị một con suối nước lớn cuốn trôi may mà người
kéo lên.
Điện Bàn Ngự.
Chúng tôi lần lượt dừng lại kỉnh lễ nơi Điện Bàng Ngự (hai cột
đá có hình như cái trụ), dừng chân quan sát Ruộng Năm Dây (những hòn đá màu đen
to ước nặng hàng tấn ở đây có hình như chiếc bánh xu, xếp thành năm hàng, khi Đức
Thầy – Đức Huỳnh Giáo Chủ đi ngang đây đã đặt cho nó cái tên là đàn năm dây).
Điện Tứ Giao.
Điện Tứ Giao (nơi ông
Cả – Thân sinh của Đức Huỳnh Giáo Chủ tu tập và NGỘ đạo) . Tứ Giao Điện là một
tảng đá tự nhiên rất lớn bằng phẳng được chống bởi các hòn đá tự nhiên khác tạo
thành một cái động đá có 4 cửa ra vào. Nơi đây là chỗ tu tập của ông Trịnh Công
Hương ( Bửu Sơn Kỳ Hương) và bà Trúc Lâm Nương tu tập ngày xưa.
Điện Lan Thiên.
Khung cảnh trước mắt chúng tôi hiện ra mỗi lúc một đẹp của
Điện Lan Thiên. Chỉ có thể là một nhà văn giỏi mới có thể tả hết được cảnh đẹp ở
đây. Rất tiếc tôi là một người dở văn chương nên chỉ có thể “chép” lại bức
tranh thần tiên này bằng ngôn ngữ sơ sài mong bạn đọc thông cảm. Thật vậy, đó
là một “bình nguyên” đá bằng phẳng màu đen có, bảy màu có, có rất nhiều những tảng
đá to nặng hàng tấn hình con cá sấu, chim, trâu, qui, rồng… tha hồ cho tâm mơ của
bạn vẽ thú trong một rừng cây kiểng các loại, chả thế mà Ngài Cử Đa trước kia
có để lại trong cuốn “giảng Tà Lơn” của mình là:
“LAN THIÊN một kiểng
chép chơi.
Non cao đảnh thượng thảnh
thơi vô cùng:
Hiu hiu gió thổi đùng
đùng,
Phất phơ liễu yếu lạnh
lùng tòng mai,
Mùa xuân tới kiểng lầu
đài,
Tháng giêng mùng chín
thi tài hùng anh,
Tứ vi mây phủ nhiễu
đoanh,
Bồng lai một cảnh hữu
danh tư bề”.
Có một quần thể 36 mộ người Việt đã "hóa thánh" tại
đỉnh núi linh thiêng này là 36 ngôi mộ bí ẩn.
36 ngôi mộ nằm thành 3 cụm riêng biệt nhưng gần nhau. Cụm
trong cùng nằm lưng chừng thung lũng có 4 ngôi mộ nằm thành 2 lớp. Lớp trong,
sát vách đá có 1 ngôi mộ, phía ngoài là 3 ngôi mộ. Cách đó không xa là một cửa
động, trên vách đá có chạm một hàng chữ Hán "Động Kim Quang".
Những người theo đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa ở An Giang đều khẳng định
đó là mộ Vua… Hàm Nghi và 3 tướng cận vệ. Họ truyền miệng nhau rằng, khi Pháp
xâm lược Việt Nam, Vua Hàm Nghi thật không bị Pháp bắt đày đi Algerie. Người bị
bắt là một Hàm Nghi giả. Vua Hàm Nghi thật đã lẩn trốn về vùng Thất Sơn (An Giang)
gặp Cử Đa. Ông Cử Đa đã đưa Vua Hàm Nghi sang Tà Lơn ẩn trú và chết tại đây. Tại
ngôi chùa Phi Lai - Là nơi khai mở đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa - các tín đồ dành hẳn một
bàn thờ trang trọng có đặt di ảnh Vua Hàm Nghi. Họ không căn cứ vào bất kỳ tài
liệu lịch sử nào mà chỉ dựa vào lời tiên tri qua thơ của Đức Bổn sư Ngô Tự Lợi,
Cử Đa và những… giấc mơ.Tiêng tôi , tôi nghĩ rằng, đó là ngôi mộ của những
thành viên hội kín Phan Xích Long".
Căn cứ vào sử liệu, năm 1912, Phan Xích Long (tức Phan Phát
Sanh) tự xưng là Đông cung Thái tử, con trai Vua Hàm Nghi. Ông tự tôn mình làm
"hoàng đế", khởi nghiệp kháng Pháp bằng cách lập hội kín. Trước đó,
Phan Xích Long đã từng sang Tà Lơn luyện bùa phép. Những pháp sư Kh'mer gọi động
Kim Quang là "khăm Lơn", gọi núi Bokor là "Tà Lơn", tức ông
Tà Thần tên Lơn. Có thể họ đã gọi tên ngọn núi theo tên "Long" thành
"Lơn".
Phan Xích Long đã dùng tín ngưỡng và bùa chú để thu hút
thành viên hội kín (Theo tập 2, sách “Đại cương Lịch sử Việt Nam”). Một trong
những phó tướng của Phan Xích Long có người tên Nguyễn Hữu Trí (quê Cần Giuộc,
Long An bây giờ) đã lấy Tà Lơn làm đại bản doanh chỉ huy hội viên gài bom, tấn
công chiếm lĩnh các cơ quan đầu não của Pháp tại Sài Gòn, Chợ Lớn vào đêm 23, rạng
sáng 24/3/1913. Pháp phát hiện và truy lùng. Kế hoạch tấn công bị bại lộ, Phan
Xích Long, Nguyễn Hữu Trí cùng các hội viên đào tẩu.
Nguyễn Hữu Trí chạy thoát. Phan Xích Long chạy ra Phan Thiết
và bị bắt ở đó. Pháp đem Phan Xích Long về giam ở Khám lớn Sài Gòn cùng với 57
hội viên.
Năm 1916, nhân Pháp bại trận trong Thế chiến I, khoảng 300 hội
viên của các hội kín ở Gia Định, Chợ Lớn, Biên Hòa, Thủ Dầu Một, Cần Giuộc, Cần
Đước... cùng bí mật phá tù cứu Phan Xích Long. Nguyễn Hữu Trí chọn núi Cấm làm
bản doanh bàn kế hoạch giải cứu "hoàng đế". Đêm 14 rạng ngày
15/2/1916, với khẩu hiệu "Cứu Đại ca" (tức Phan Xích Long), Nguyễn Hữu
Trí chỉ huy hàng trăm hội viên ẩn mình trong những chiếc tàu buôn đậu trên sông
cầu Ông Lãnh đồng loạt tấn công dinh Thống đốc và Khám Lớn. Họ đeo bùa chú, tay
cầm binh khí thô sơ chia làm ba nhóm xông lên. Cuộc giải cứu thất bại, Nguyễn Hữu
Trí tử trận. Một số hội viên kịp cướp xác Nguyễn Hữu Trí đào thoát.
Ngày 22/2/1916, thủ lĩnh Phan Xích Long cùng một số nghĩa sĩ
bị Pháp tử hình tại Đồng Tập Trận. Sau đó, các đệ tử của ông bí mật đào mộ cướp
xác đưa đi mất.
Họ đã đem thi thể Phan Xích Long và Nguyễn Hữu Trí sang núi
Tà Lơn an táng tại động Kim Quang. Tướng cướp Đơn Hùng Tín một thời ngang dọc
khắp các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long thời kháng Pháp là một trong những đệ tử
thân tín của Phan Xích Long.
Chúng tôi tiếp tục khám phá những ngôi mộ còn lại. Hai cụm mộ
còn lại gồm 32 cái nằm rải rác bên ngoài. Những ngôi mộ này là của những người
thế hệ sau Phan Xích Long đến đây tu luyện rồi "hóa thánh".
Tất cả các ngôi mộ đều phủ những phiến đá đánh dấu. Có một
ngôi mộ chất đá rất sơ sài không bia mộ.Vào khoảng năm 1970, những người luyện
phép đến đây đã phát hiện một bộ xương khô vẫn còn ngồi trong tư thế thiền. Họ
để nguyên tư thế của người chết rồi phủ đá lên.
Trong số 36 ngôi mộ chỉ có một vài ngôi được dựng bia khắc
chữ. Có lẽ đó là mộ của những người giữ miếu, giữ am nên người ta biết rõ danh
tính. Một ngôi mộ có đề bia: "Năm 1942 phựng ưu bà di Nguyễn Thị Quan,
pháp danh Như Cẩm Nhứt, Vị giác linh. Hạn: Nhâm Ngọ Niên, cửu nguyệt, nhị thập
nhất". Số còn lại, chết trong các hang đá, không danh tính nên những người
đến sau chôn cất phủ đá đánh dấu.
Ở một số hang đá dưới sâu tận cùng đáy vực vẫn còn chứa một
số xương cốt người tu luyện chết rũ không được chôn cất, không được nhang khói.
Để leo đến đó phải mất hơn 20 giờ đồng hồ. Thời gian không cho phép tôi tiếp tục
thám hiểm.
Người ta tiếp tục đưa cái xác tôi tới Nghĩa trang Văn Điển
và làm thủ tục hỏa thiêu cái thân xác cứng đờ , nát bấy . Giờ đây , tôi đang nằm
chờ tới lúc họ đưa tôi vào lò điện.
Xin theo dõi tiếp CHƯƠNG 5. dienbatn.
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét