CHUYỆN XƯA TÍCH CŨ . BÁT THUẦN ĐOÀI . TÁC GIẢ - THANH PALI.
LỜI NGỎ : dienbatn sẽ đăng lại một số bài viết hay của các ACE thế hệ trước từng làm mưa làm gió trên các diễn đàn Huyền thuật. Việc này nhằm ôn lại những kỷ niệm xưa cũ , và cũng thầm nhớ lại và tri ân những đóng góp của họ vào tri thức Huyền thuật của nước nhà. dienbatn chỉ chỉnh sửa một số lỗi chính tả ,còn để nguyên chất giọng vùng miền của họ.Xin chân thành cảm ơn các tác giả.
CHÚ THÍCH : Thanh Pali là một cao thủ về Huyền thuật , nhất là phần luyện Ngải. Trong trang Thegioibuangai.com ( Sau này là Thegioivo hinh.com ) do anh Hùng Sơn chủ xướng khoảng gần 20 năm trước , thì tác giả Thanh Pali có nhiều đóng góp quan trọng về những kiến thức Huyền môn. dienbatn ngày xưa cũng được tác giả Thanh Pali chỉ giáo nhiều điều. Thấm thoắt đã gần 20 năm. Xin tri ân những đóng góp trong Huyền môn của tác giả Thanh Pali.
Kinh
chú linh ứng ra làm sao?
Thanh Pali
1-sư huynh tôi đạo hiệu là Đồng Huyền,công chức bàn giấy trước
75,từng thọ pháp Chuẩn đề ở tu viện Chơn không,là cư sỉ 1 vợ 2 con,ngày đi làm,
đêm luyện chú,”thú hơn ngủ với vợ”(lời ổng),không biết đó có phải là cái tội
hay không?,mà năm 76, ổng bị tình nghi làm việc khuất tất trong vụ đổi tiền,toà
xử Chí hoà 2 năm!
-Lúc cán bộ mở cửa xà lim, ổng vừa bước vô ngục,vừa đọc um sùm:-“Khể thủ qui y
tô tất đế, đầu diện đảnh lể thất câu chi………….Án chiếc lệ chủ lệ Chuẩn đề ta bà
ha.”
Cứ vậy mà đọc riết,cả ngục xúm lại ngó,”Tù trưởng”hỏi:-vô tới đây còn kinh kệ
gì nửa,cha nội!.... Ổng trả lời tỉnh bơ :-tụng kinh Chuẩn đề không bị đánh đập
,giam cầm,mau thoát tù tội,tui bị oan,tôi tụng để kêu ổng cứu tôi!”…..thay vì
cho ăn một trận đòn hội như bao thành viên khác,”Tù trưởng”im lặng 1 chút rồi
nói :-“Tụi bây cho ông Đạo nầy 2 cục ổng nằm(1 cục=1 gang tay chiều ngang,chiều
dài vừa đủ duổi chân co ro,xà lim thì nhỏ,số người thì lớn,như 1 hộp cá mòi tập
thể) ông có đọc kinh gì thì đọc nhỏ nhỏ thôi ! để cán bộ họ la tui đó….
-Từ đó xà lim nầy bớt đánh nhau,bớt kể chuyện tục tiểu vào buổi tối,chỉ còn
nghe tiếng rì rào của sư huynh tôi,rồi từ đại bàng tới bạn tù,ai nấy lần lượt
“thọ”chú Án ma ni bát di hồng,chú Chuẩn đề,chú Diệt định nghiêp = Án bát ra mật
lân đà nảnh ta bà ha!!!
-1 hôm cán bộ quản giáo “mời “ổng ra ngoài nói chuyện,cái vụ vô tù mà sao còn
đi truyền bá tôn giáo…kết quả là cái bịnh nhức đầu thống của ông cán bộ đó được
giải toả.
-Ăn cơm tù được 1 năm 2 tháng(không ăn cá tù,vì ổng ăn chay) đêm đó cở 2 giờ
khuya, ổng đang ngồi tịnh sát chấn song xà lim,thì nghe có mùi hôi thúi ở đâu
kéo tới nồng nặc,rồi tiếng rổn rảng khua dây xích, ổng giựt mình mở mắt,ngở là
cán bộ đi tuần,ai dè cách ổng 1 mét ngoài chấn song là 1 kẻ nửa người,nửa ngợm
lù lù!với thân hình tiều tuỵ,lưng gù,bộ mặt nhăn nhúm không ra già trẻ,với hàng
trăm xiềng xích quấn trên người,vắt vẻo lê trên nền đất,quần áo sơ mướp tả tơi,
đang lom lom nhìn ổng…..hồn vía ổng lên mây! Theo bản năng như 1 phản xạ, ổng
liền nắm Ấn Tý tự gỏ vào trán,vừa la làng :-Hồng Hồng …ơi.
-Ổng la lớn quá trời,cả xà lim ngồi bật dậy” chuyện gì vậy, ông Đạo?”
Lúc ấy ổng hoàn hồn lại,không còn thấy quái nhân ở đâu!vừa run vừa kể cho ai
nấy nghe,…nghe rồi tù trưởng nói :-“ Em ở đây từ trước 75, nghe có người củng
thấy như anh…đó là hồn ma “Chúa ngục”Chí Hoà,do tụi Nhật bổn nó ếm,ai đả thấy Chúa ngục thì 1 là sắp ra ,hai là sắp chết tới nơi trong ngục nầy…….”
-Sư huynh xanh mặt, đả run càng run hơn,ngồi niệm kinh miết tới sáng….rồi cở 9
giờ sáng hôm sau,cán bộ xuống,kêu ổng ra ban quản giáo trình diện,cả xà lim xôn
xao luôn! Ổng được cấp giấy tờ cho về địa phương lập tức(có xe đưa về tận công
an phường,rồi về nhà)- Có chứng minh là ổng vô tội!
-2 năm-(trừ)1 năm 2 tháng =10 tháng ở nhà bị vợ con rầy rà nhiếc nhở vì đàn ông
không làm ra tiền! Vài năm sau , ổng xuất gia,bò lên tới trụ trì ở chùa Giác tâm
thuộc Hóc môn,tha hồ mà tu niệm cho đả đời……không chừng Đức Chuẩn Đề ra tay…như
vậy đó!
2)- Sư thúc tôi đầu tròn, áo….vá,dù vải vóc không mắc mỏ gì,không hiểu tại sao
ổng cứ mặc 1 cái áo 7-8 năm trời, đả vậy nó rách te tua,còn chưa chịu bỏ,lại đem
kết làm mành treo cửa sổ! Thiệt kì cục hết chổ nói! Lúc tôi ở trên núi với
ổng,thấy ổng hay lượm đủ thứ đá cục ,tha về liêu làm bầu bạn,có cục hình như
mặt người,mặt cọp beo,có cục lại tròn vo …y như cái đầu trọc của ổng vậy! Và còn
1 mớ nầy mứi là kinh dị ! Trong trang thờ binh có vô số xương xẩu và răng
nanh,khi mình thấy cái nanh nào lạ lạ,cầm hỏi ổng,thì ổng nói :-“cái nầy
hả…răng cọp…cái nầy …nanh heo độc….hàm mèo….răng càn ranh con sát…răng hổ mây
núi…răng….”-và tới 1 cái răng như răng người,có mủi chạc nhọn 3 khía,màu đen
nâu, ổng nói:-“là răng Quỷ đó “ “-ý,là nanh con quỷ thiệt hả sư thúc?” “ừa,là
của Tinh xà niên” “Sư thúc gặp nó ở đâu vậy ?” “Mầy có gan thì vô trong rừng ở
chừng 10 năm thì gặp liền “ “-Sao mà tới 10 năm lâu quá vậy,tới chổ nào mới
thấy nó được?
-Thì mầy đi bờ suối ngồi chồm hổm ngó xuống nước, đừng ngó lên,sẻ thâý nó tức thì
! Xà niên xuất hiện !
-Trời !....gặp nó rồi mình phải làm sao hả sư thúc ?
-Còn đâu mà gặp thời buổi nầy,chỉ có niệm chú thì mấy cái xương nó lộ ra,chuồi
lên khỏi đất cho mầy thấy,muốn lấy cái nào thì xin rồi mới được lấy về làm phép
!
-Hay quá ! vậy sư thúc làm ơn dạy con bài kinh đó đi …
-Ủa,vậy là mầy tính vô rừng ở với khỉ chớ không ở đây với tao nửa hả ?( ông nầy
chơi triệt buộc quá trời luôn !)
Mà rồi ổng củng chỉ :-nô buôt the đăc côn cung năm săm săm,ma a ra hăn thê, đac
côn cung năm săm….cứ niệm hoài,kinh nầy củng hay tìm được các linh vật lạc đả
lâu như tượng phật,nanh heo ,ngà voi, đả tom phép,nằm đâu vùi trong đất,dưới
suối,nếu mình có duyên ,sẻ gặp…
-Sư thúc tôi là 1 thầy chùa,sáng kinh :-nam mô …nam mô….côc côc cốc !!!
Chiều kệ : -“ngồi buồn ……nói giảng,,,, ê….a “nghe mà buồn thúi ruột !
Vậy mà tối tối ổng êm ru ,té ra ngồi ở am sau liêu mà luyện Sơn thần Độc tướng
Ổng là 1 vị thầy “hi fi” là thầy chùa + thầy bùa = Cổ quái sơn nhân ! Cái chổ sở
dỉ bà con ở đây ái mộ là vì ổng- độc cô cầu luyện- giúp cho tỏ rỏ cái phép thầy
tổ ! Chớ không vì miếng cơm vợ con ,cho nên mấy thầy khác ở vòng vòng củng nể
ổng .
- Mình củng ăn chay như ổng.có điều là để tịnh xác cho thần quyền dể về,mà cái
miệng thì nó chưa chịu tịnh nên có ăn no rồi,còn bày đặt ngứa răng ,hỏi ổng :
-“Vậy chớ sư thúc ở vầy hoài không có vợ,có buồn hông ?
- Mầy lên đây học đạo hay lên kiếm vợ cho tao ! …mà thôi củng nhân duyên mầy
hỏi, để tao coi 1 quẻ là cái giống gì xui mầy hỏi vậy !
Sư thúc lượm 1 cục đá gạch gạch dưới đất,lẩm nhẩm 1 hồi ,rồi ngẩng lên:
-“ Phần mầy ế vợ không lo. Đi lo cho tao! Tao ở đây toàn là gặp bệnh hoạn YÊU
quái chớ VỢ con khỉ mốc gì!....dù sao quẻ có động hào,chắc là sự sắp gần kề
,thôi ra tao dạy cho cúng giải nghiệp, để cái gì tới thì tới cho qua ,cái gì
chưa thì hoá giải cho rồi . Đêm đó 2 sư thúc đệ lui cui lập bàn hương án, ổng dạy cho bài pháp danh hội hoá
giải nghiệp :
-“Con nguyện trên cha trời mẹ đất,dưới có Phật Tổ, Phật Bà , Phật Mẹ,9 phương
trời,10 phương Phật,con nguyện trên 36 Thánh, dưới co 72 hiền thần,thần hoàng
lục bộ đài quan, Thần hoàng bổn cảnh , đêm 5 du Thánh,ngày 6 khắc có 6 chư Thánh
tuần giảng Đông Tây Nam Bắc , con nguyện vong hồn ông sư sống cúư thế trợ dân ,xin ông giảng về chầu Phật Tổ
hộ đọ đệ tử tên là…tuổi….chuyển hoá tiền căn ,chuyển dời sở nghiệp……
-tứ trời đệ tử thập thử công đức khứ tam bảo đạo suy
-nam mô đại bi hội thượng Phật bồ tát”
Kế ổng lấy ra 2 lá bùa,1 lá có ghi tên pháp danh của ổng,còn 1 lá ổng đưa
mình,nói :-“ Mầy ghi tên tuổi vô ,lạy 36 lạy ,rồi đốt bùa nầy .” mình bổng thấy
sợ sợ liền nói :”- Thôi con đâu có chuyện gì mà đốt bùa !”
“- Mầy không giải thì thôi ,sau nầy có gì ráng chịu ,tao lo tao !”
Rồi ổng xì xụp lạy ,mình củng lạy theo đủ 36 cho có tụ với ổng.
Độ tuần sau,mình xuống núi, đón xe đò về Sài gòn,nghỉ thương cho sư thúc ở lại
1 mình cô độc,”quái nhân” như ổng chắc có ngày thành “ro bot nổi loạn quá” !
Rồi chuyện gì tới củng phải tới,quái nhân đả gặp quái sự ! Sư thúc lên triệu
tập Sư phụ và Sư bá để tính cái chuyện ……trăm năm của ổng ! Số là dưới núi có 1
gia đình theo công giáo ,có người con gái chửa hoang, vì vai chú rể không ai
chịu gật,và kẻ sở khanh đả quất ngựa truy phong về Sài gòn ngọn xanh,ngọn đỏ
- Gia đình cô củng đâu muốn chịu cảnh ngọn tỏ,ngọn lu-mà cái bầu đả 7-8 tháng
biết dấu ở bồ lúa nào bi chừ !? Nên họ dè ngay ông trọc đả ngoài 40 ,năn nỉ ổng
làm ơn chịu nhận giùm lể thú phạt trước mắt họ hàng , để bà con 2 bên đở bêu
riếu và họ còn có đủ can đảm mà nuôi đứa cháu tương lai !
Sư thúc chới với vì ổng chưa bao giờ nghỉ chuyện thầy chùa con ! Bậu nào ăn
chuối ,sao nở để qua hốt vỏ như vầy ! Mang tiếng thúi 1 đời thầy như chơi !có
nước bỏ xứ mà đi !......mà lòng từ bi để đâu ,khi thế nhân gạt bỏ khinh bạc ,
tới mình củng xua tay chối từ ! cứư nhân độ thế ….lấy ghế đội đầu ..như chơi !
-Mà họ quỵ lụy dử quá ,cuối cùng sư thúc xiêu lòng, chịu “tạm ứng “đưa người
qua cơn bỉ cực ! Vậy thì “chú rể” già hơn cô dâu tới 20 tuổi lận !..........vả
lại sự cạo tóc tu tự phát, có thọ giới bổn tỳ kheo hồi nào đâu mà xin ai hoàn
tục !?
Thôi thì trước xin phật TÂM- Nay khấn phật LÒNG mà …..
Công việc đả thống nhứt ,Sư phụ với mình,Sư bá với 1 đệ tử ,cùng theo Sư thúc
về dưới “rước dâu “, Vì sư thúc không còn ai là ruột thịt từ lâu,chỉ có huynh đệ
,nên băng đàn trai toàn là dân thầy pháp !kỷ nệm khắc ghi của mình trong buổi
sáng đó là……………còn vài mươi mét tới cổng cô dâu,người lớn ,con nít đứng 2 bên
đường đông hơn kiến, để chờ coi mặt chú rể, đám con nít gào lên từng hồi câu
thần chú chống tà sư :
-“Đầu thầy chùa đi lùa con gái !!!” 3 lần+ 3lần +3 lần+…….
Sư thúc mắt nhìn thẳng ,mặt lạnh như tiền,,trong bộ com lê trắng,vẩn đều
bước.sư bá nhăn chân mày, Sự phụ gải gải lổ mủi…còn mình mặt nóng ran,lòng vội
niệm thần chú chống trả lại họ :
-“ Nam mô cứu khổ cứu nạn quán thế âm đức mẹ Ma ri a ….ƠI” !!! 3 lần x 3 lần x
….
- Lể thú phạt diển ra,….. đám cưới không nhậu nhẹt, đàn ca……toàn xa lạ…..
Trông cho tàn cuộc…thầy trò về thành phố ,sư thúc ở lại…”rau râm chịu đời !
-Rồi giổ Tổ năm sau, Sư thúc bất ngờ dẩn bà xả lên ! Kỳ nầy coi bộ ổng cười nói
nhiều hơn mấy kỳ giổ trước! Vợ ổng xuống bếp với vợ Sư phụ,còn được biết là bà
xả ăn chay theo chồng !Mình không dám hỏi Sư thúc có đi lể nhà thờ chủ nhật hôn
? Chỉ thấy cái đàu ổng vẩn trọc lóc ,và bóc thuốc về dưới giúp người như củ …
Bà xả Sư thúc rất cưng chồng trước mặt mọi người,như ổng thường hay nói :-Tao
không biết “quê”là gì !Sư phụ thì cứ cười mím chi cọp hoài …..
- Là như vậy đó !sư thúc tui gặp tà ,gặp bịnh,gặp ma,gặp quỷ,,, đều vượt qua ! Mà
tới gặp YÊU thì lại…từ -bi-hỉ-xả đón nhận !!!
……..cửa chùa nào mà không rộng mở…….
-Án phật lòng…cấp cấp như luật…lệ !
-3)Sáng nào mở mắt đậy,tôi củng đọc lớn :”- í ma hâm ba ga va ăt ta bà văm tum
ha kham bà rit ca chà mi-buôt tha thẩm mô há vê răkha tí thẩm ma chà rim”vì
thầy nói là niệm như vậy để chư Phật-chư Tổ luôn hộ dắt mình trên đường đạo
không suy…vậy mà có lúc ngồi se nhang bên thầy, ê a đọc, ổng lại nói :-“Cái đó
đọc ít ít thôi,sao đọc chi mà nhiều quá vậy! Bộ tính ngồi se nhang suốt đời
sao mậy !” Dù sao, đả quen tánh,nên lúc nào rảnh miệng tôi củng vẩn ê a như
vậy….
- Hồi đó,lúc cơm gạo khốn khó,lớp đi làm công,lớp lo em út ở nhà,lớp lo phụ thầy
để học đạo…đời cứ vậy mà trôi ….
-1 chiều đi làm về,qua nhà ai nghe vẳng giọng Duy khánh…”.Mẹ ơi-hoa cúc hoa mai
nở rồi…mà giờ đây, đời con sao còn……” Lòng chợt thấy chơi vơi …có gì là lạ
trong tôi…mình liền trấn tỉnh :-“ í mà hâm ba ga va ….”
- Chuyện của Sư thúc cứ ám ảnh,tình đời sao mà lộn xộn quá ! Công việc chưa đủ
mệt sao? Mà còn nghỉ ngợi lung tung gì cho thêm mệt….bắt chước sư huynh,ngồi
tụng chú sướng hơn……..xin bái phục tất cả huynh đệ nào nào vừa lo vợ con,vừa lo
tu luyện,thiệt là 2 gánh cân đồng ! trượng phu !
- Chiều 30 tết, nhà cửa ai nấy rộn ràng,từng làn gió xuân mát lạnh đi qua hè phố
,hoa –dưa hấu -mứt …đầy đường…chuyện nhà đả xong,tôi lại đến nhà thầy,nhà khá
vắng,vì các huynh đệ đều về quê đón tết,hay về nhà lo gia đạo vợ con ,thầy củng
đi mua dưa,vì giờ nầy hình như cái gì cho tết củng rẻ……..mình thắp 3 nhang bàn
tổ ,ngồi tịnh 1 hồi …thời gian vằng vặc trôi qua…lại có tiếng Hương lan hát từ nhà
lối xóm :-“ Trong thế gian đang vui mừng đón xuân……chắc nàng xuân năm nay
…..mừng xuân quên hết nhửng chuyện buồn năm đả qua….,,,”
- Lời nhạc hanh thông…mà sao giai điệu trắc ẩn quá …..có gì mà buồn vậy ….
“ Ước gì bây giờ có ai kêu mình đi đâu hay làm gì đó cho khây khoả bớt…” Mình
phải niệm chú như ý luân :-“ Cụ đại bi tâm GIẢ, đát diệt tha, án ,chước yết ra
phạt…………..án,bát lạt ma chấn đa ma ni thươc ra hồng, án………….”
-Đùng …Đùng…Đùng…pháo ở đâu nổ vang lừng,mùi pháo đượm trong sương đêm,lòng tôi
bồi hồi..,rồi tiếng pháo đồng rộ vang lan toả,….cả xóm…cả chợ lớn….cả sài
gòn…cả lòng mình….hương giao thừa thênh thang……án,vá ra đa pad mê hum…như ý
….không khí ….mùi hương….tiếng pháo…….thần chú….
“Thanh ơi!thầy về tới nè, phụ Thầy đem dưa vô cúng giao thừa …đi con !” Thầy kêu
lớn ,cắt đứt câu thần chú của mình ..”dạ!con ra liền nè !” Sao mắt tôi chợt
nóng ướt nhoà ,mủi cay nồng…………bây giờ là giao thừa rồi ,mấy bạn ơi ….
- Với mình, Thần chú linh ứng như vậy đó,…… Án-a-hồng….ơ ơ ơiiiii……
Đối với những vị thầy xưa,
âm binh là phương tiện nhanh chóng và đắc lực nhất để thực hiện cô ng việc. Vì
vậy, không thầy nào hạ sơn mà lại không có một bà thờ binh trước sân nhà. Âm
binh làm việc theo lệnh của thầy, giúp đỡ, phá phách người dương và chống cả
người âm. Sau khi hòan thành nhiệm vụ, binh được cúng lễ đàng hòang như lính
được tướng khao thưởng ngày xưa. Lễ vật cúng binh từ đơn giản là muối gạo, nổ,
cháo hoa cho đến long trọng với đủ thịt cá trái cây rau quả...
Bàn thờ âm binh không bao giờ được để trong nhà, các thầy
phù thủy thường gọi là "Tĩnh". Trong Tĩnh, ngoài sắc lịnh triệu binh,
có khi các thầy còn thờ cả tướng trời như :Triệu Công Minh, Tề Thiên Đại Thánh,
Na Tra... ( chỉ có ở các thầy pháp). Có lẽ các thầy muốn dựa vào oai các vị này
mà khiển binh cho dễ.
Binh gia có rất nhiều loại. Tùy theo khả năng tu luyện và
phương tiện sử dụng mà thầy chiêu mộ loại âm binh nào. Phổ biến nhất vẫn là
binh Đại càn, binh chiến sĩ, binh ngũ hổ ... ghê gớm hơn thì có binh rừng, binh
tà A-rặc... Mỗi loại binh có câu chú luyện riêng. Trước khi thỉnh âm binh, bàn
thờ phải có đủ nhang đèn, trầu, rượu, nước, thuốc lá...
Muốn luyện âm binh phải đi tìm những nơi nghĩa địa, chiến
trường xưa, vùng đất từng bị ôn dịch chết nhiều... nơi đó mới có nhiều vong
lang thang, dễ cho thầy chiêu mộ.
Đây là một trong các bài chú gọi binh đơn giản dành cho
việc cúng binh Đại Càn: " Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát (3l) - Vái ông Chánh
Soái Đại Càn Phó Sóai Đại Càn, Quốc gia Nam Hải - Chư vị âm binh- Binh thiên
binh địa binh tổ binh thầy binh mấy anh chiến sĩ, đạo lộ đường xá, anh chị phụ
nữ, kẻ xiêu mồ người lạc mã về đây cảm ứng chứng minh theo thầy .....( làm công
việc gì đó) ... - Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát (3l) "
Đối với thầy pháp, việc chiêu mộ âm binh phức tạp hơn
nhiều, trong tiếng trống chiêng, tiu khánh,các thầy đọc bài văn chiêu dụ:
Hồn hỡi hồn
Cô đơn cõi chết
Không người thân thích
Không có cơm ăn
Đêm tối lang thang
Bụng thèm miệng khát
Áo cơ quần rách
Vất vưởng về đâu?
Hồn hãy mau mau
Theo thầy chịu lệnh
Không còn nhang lạnh
Thầy cúng áo quần
thầy cúng cơm canh
thầy cho vàng bạc....
Hồn hỡi hồn!
Về nơi thầy không còn vất vưởng
Về với thầy có bạn âm binh!
Có những bài văn thầy đọc hàng giờ mới hết. Chủ yếu là kêu
gọi, kể hòan cảnh đáng thương của hồn rồi chiêu dụ. Khi vong chịu theo tự
nguyện, bao giờ thầy khiển binh cũng dễ dàng hơn là dùng lịnh trục về. Y như
cõi dương vậy thôi, đắc nhơn tâm là chính.
Các thầy dùng âm binh vào rất nhiều việc khác nhau.
Trong chữa trị bệnh tà ma, âm binh giúp thầy bắt tà, khảo
tà, có khi thầy trục âm binh vào xác bệnh nhân để đánh nhau với con tà bên
trong xác, vậy là thể xác thanh chiến trường, người bệnh gào thét không dứt...
Nhà cửa bất ổn, buôn bán ế ẩm, thầy cho âm binh đến giữ
nhà, kêu gọi khách giúp chủ nhà buôn may bán đắt.
Ngày xưa, âm binh được thầy luyện tài đến mức có thể dời
nhà cửa, tát ruộng, phơi lúa... làm nhiêu việc như người sống. Dĩ nhiên là làm
ban đêm rồi. Thầy Thím ở Bình Thuận - Hàm Tân thuở xưa dời đình làng trong đêm
cũng bằng binh gia chứ làm sao mà sức người làm nổi trong một đêm.
Khi có đụng chạm, âm binh được trục liên tục để bảo vệ
thầy, đánh kẻ khắc đạo, làm thám thính. Có những trận trời long đất lở, âm binh
hai thầy đánh nhau trong đêm, người trong vùng nghe như bão tố mưa dông, tiếng
la hét, gươm giáo khua lỏang xỏang, thỏang trong gió có cả mùi tanh hôi. Đó là
chuyện xưa, còn bây giờ các thầy lo cơm áo gạo tiền, sức tu luyện và đạo pháp
cũng không bằng tiền bối, đôi khi luyện âm binh cũng chỉ nhằm phục vụ cho nồi
cơm của thầy ( xin lỗi các vị thầy giữ đạo hạnh).
Một thời gian dài không có khách khứa, nhiều thầy cà chớn
còn cho âm binh đi phá làng phá xóm để có người bệnh đến tìm. Nhưng thường là
phá phách làng khác, phá trong làng mình ở thì có nước bỏ xứ mà đi.
Có nhiều chuyện truyền miệng về việc thầy dùng âm binh
trêu ghẹo thiên hạ. Một bà đi chợ mua chiếc đầu heo về, dọc đường gặp thầy,
thầy chỉ vào đầu heo tỏ vẻ sợ hãi. Bà ta nhìn lại tay mình thì trời đất ơi, một
chiếc đầu người trọc lóc nằm gọn trong giỏ, bà ta sợ quá quăng cả giỏ mà
chạy... thầy ung dung lấy cả giỏ đồ ăn đem về. Ở Bình Chánh- Sài Gòn trước đâu
có thầy Ba chuyên chữa bệnh và nuôi con nít. Mỗi ngày đi chợ thầy xài đúng 1
quan tiền. Sáng hôm sau, mở ngăn kéo, quan tiền đã nằm trong ngăn từ đời nào,
tất cả đều nhờ mấy vị binh gia làm hộ đó.
Tuy nhiên, tu luyện binh gia là đang sử dụng con dao hai
lưỡi không biết lúc nào bị đứt tay. Thông thường, sau khi sử dụng một thời gian
( chủ yếu là làm công đức), các thầy làm phép cầu siêu cho chư vị để họ đi đầu
thai hoặc về cõi khác tốt hơn. Các thầy lạm dụng âm binh nhiều, đến một ngày
nào đó không còn đủ sức khiển hoặc đã hết thời, âm binh quay lại vật chết hoặc
hành xác điên khùng, muốn sống chẳng được, muốn chết không xong. Thầy Tư Bổn
nổi tiếng bắt tà ở Cai Lậy - Tiền Giang, đến khi về già, đang nằm ngủ trên
võng, âm binh áp vào vật ông xuống mà đánh. Sau khi vùng dậy được, ông chụp roi
ấn trên bàn thờ đánh gió túi bụi cả buổi mới thắng. Xong rồi ông cũng muốn đứt
hơi luôn. Kiểu này, sau khi ông chết đi, ắt là trong nhà có loạn. Sư Ông chùa
Linh Hiển -Thủ Đức, tài phép thần thông dời đá phá mây, đến ngày sắp tịch, đệ
tử quây quần tụng kinh 3 ngày liên tục mà ông cứ lấy hơi lên, không chết. Thanh
cùng người bạn đến thăm, thấy ông bị binh gia vây kín, mủi lòng bước đến chắp
tay chú nguyện cho mấy vị giãn ra, chưa kịp nói gì thì các thầy là đệ tử của sư
ông nóng mặt sợ minh giành mất công siêu độ nên đuổi về. Vậy là Sư ông đành nằm
lấy hơi lên thêm một ngày rưỡi nữa... các bạn có tin không? Nhưng dù tin hay
không, bạn cũng đừng luyện thử nhé! Chẳng có ai chịu trách nhiệm đâu. Vài hàng
kể cho chư huynh đệ đọc chơi.
Tôi sưu tầm được một số
chi tiết khá hay bổ khuyết thêm cho bài viết của huynh Thanh - Pali.
Theo Phan Kế Bính thì “phù thủy có phép luyện âm binh, âm
tướng, thường đêm khuya đến những nơi tha ma mộ địa, đốt hương khấn khứa, luyện
phù luyện phép, để cầu cho các âm hôn phải theo hiệu lệnh của mình... Thầy phù
thủy cũng có phép làm bùa yêu, bùa mê. Bùa yêu làm cho hai người ghét nhau phải
thương nhau. Bùa mê làm cho người tỉnh trở nên mê mẩn, có khi hóa điên dại,
phải có bùa mới hết. Người ta cũng lại nói rằng các thầy phù thủy có lắm phép
kỳ lạ, sai khiến nổi âm binh làm những việc của người trần, nhưng phần nhiều
thực hiện về đêm: sai âm binh đi tát nước vào ruộng, sai âm binh đi ném đá,
gạch vào nhà người khác... Những thầy phù thủy mỗi khi điều khiển âm binh xong
phải có lễ khao quân, nếu không âm binh sẽ phản lại đánh trả thầy, và mỗi khi
sai âm binh thầy phù thủy phải canh chừng đừng để trời sáng, phải thâu âm binh
về trước khi có ánh dương ló ra. Bị lộ thiên cơ, nghĩa là bị người trần trông
thấy vào ban ngày, âm binh cũng đánh trả thầy” (Ibid. p.20).
Sau đó Toan Ánh nhận định rằng, “Thuật phù thủy là một
việc huyền ảo, thực thực, hư hư, các thầy phù thủy khéo thôi miên con người,
nên thường được người đời tín nhiệm.” Thật ra nhận định như vậy cũng chỉ đúng
một phần trong trường hợp các tay phù thủy bịp bợm, dùng những mánh khóe, xảo
thuật để lừa dối giới bình dân trục lợi. Nhưng mặt khác, trong trường hợp thầy
phù thủy là công cụ trong tay tà linh, ma quỉ thì những pháp thuật kia không
phải là trò ảo thuật đâu mà là thể hiện quyền lực của sự tối tăm, của tà linh,
của ma quỉ. Chính Toan Ánh cũng cho biết thêm rằng các thầy phù thuỷ đều lập
những ngôi tĩnh, thường là một cái am hay một phòng nhỏ trong nhà để thờ các
thánh thần trong đạo Lão như Thái Thượng Lão Quân, Ðộc Cước thần, Trương thiên
sư....”(p. 209).
Trong ngôi tĩnh này thiết lập một “hương án, có bài vị, có
tượng hoặc tranh vẽ vị thần thầy phù thuỷ thờ phụng, đặt trên một chiếc khám hoặc
một chiếc ngai. Trước ngai là một hòm ấn kiếm, lẽ tất nhiên ấn gỗ và kiếm gỗ,
tượng trưng cho uy pháp của vị thần...Ngôi tĩnh nào cũng có một chiếc kiểng.
Trước khi cúng khấn thầy phù thủy bao giờ cũng đánh ba tiếng kiểng giáo đầu.
Các bình hương ở một ngôi tĩnh luôn luôn ngày đêm thắp hương. Theo các thầy phù
thủy nói, lúc nào ở tĩnh cũng có sự giáng lâm của thần hoặc của các bộ hạ ngài,
do đó việc đèn nhang không thể sơ xuất được” (p. 210). Như vậy các hoạt động
phù thủy thật ra chính là các hoạt động thờ cúng tà thần để được ban quyền lực
pháp thuật thực hiện những hành vi siêu nhiên, qua đó lôi cuốn, thuyết phục
được nhiều người sống trong sự tối tăm, từ đó giữ họ trong xiềng xích bền chắc
của ma quỉ. Những hoạt động thần bí khác như lên đồng, cầu hồn, phụ tiên, bói
toán, xin xâm, quẻ thẻ... đều là những hình thức thờ cúng trong các sinh hoạt
thần bí xuất phát từ Lão giáo.
Quỷ nhập tràng là một hình
thức của xác chết biết đi, mượn xác người chết mà đội mồ sống lại. Hình như ở
châu lục nào cũng có những loài tương tự như quỷ nhập tràng. Phương Tây có ma
cà rồng, Ấn Độ có Vêtala, Trung Quốc có cương thi, thi biến… còn ở VN thì gọi
là quỷ nhập tràng.
Điểm đồng nhất với nhau về các loại trên là tìm đến những
người vừa mới chết, mượn thể xác họ sống dậy để làm những việc mà bình thường
khả năng nó không làm được (vì không có thân tứ đại).
Thật sự là Thanh không có hiểu biết sâu về ma cà rồng của
phương Tây, hy vọng có vị nào hiểu biết hơn sẽ trình bày đầy đủ và sâu sắc ở
những bài nối tiếp. Xuất xứ của ma cà rồng phải chăng từ Rumani , gắn liền với
tên tuổi của Bá tước Dracula- nhân vật có thực trong lịch sử quốc gia Rumani
thời xưa, một nhân vật có thực mà sự độc ác vô song đã trở thành huyền thoại?
Vùng đất của ma cà rồng mở rộng đến Bungari- xứ sở hoa hồng, Hung gary, Balan,
Mônđavi… Tại sao những người chết lại có thể trở thành ma cà rồng? điều này vẫn
đang chờ câu giải đáp của các vị nghiên cứu huyền thuật, ma quỷ phương Tây. Tuy
nhiên, một điều không thể phủ nhận là linh khí đất đai ở những nơi đó tạo ra
chủng loại này. Ở những nghĩa địa lâu năm trong các làng ven núi các vùng
Rumani, Balan, người ta nghe có những tiếng động ở dưới đất. Khi mở những ngôi
mộ ra, họ thấy những xác chết- cả đàn ông và đàn bà đều hãy còn tươi tắn như
đang sống, máu hồng làm thắm những đôi môi của họ, phải chăng họ đã dùng máu để
nuôi sống thể xác? Để có thể tự cứu vãn linh hồn và cuộc sống của mình, dân
làng đã đóng cọc vào tim các xác chết, sau đó bỏ làng dọn đến cư ngụ ở những
làng khác, vì những làng xung quanh cũng có nghĩa địa, nhưng tại sao không hề
có hiện tượng này. Trong quyển tiểu thuyết “Dracula” của nhà văn Bram Stoker,
ta thấy bá tước ma cà rồng Dracula khi đi sang đất nước khác đã cho chở theo
những chiếc thùng chứa đấy đất ở lâu đài mà hắn ở. Phải chăng những thùng đất
ấy là nguồn sống của chủng loại này?
Những vùng giáp Vân Nam – Trung Quốc và Tây Bắc nước
ta, có một số làng bản có người chết, họ không chôn xuống đất mà đục vách núi
đặt quan tài vào hoặc đưa quan tài vào những động đá sâu thẳm trên dải Hòang
Liên Sơn rộng lớn. Phải chăng những vị đạo sĩ, thầy mo ở đó đã nhận ra điều gì
bất bình thường từ trong đất?
Cách chống ma cà rồng thường là nước Thánh, các vật đã
được làm phép Thánh, Thánh giá, tỏi… biện pháp trừ tận gốc ma cà rồng là đóng cọc
vào tim, cắt đứt đầu, nhét tỏi vào miệng xác chết và cuối cùng là thiêu hủy (
mấy vụ này là do đọc sách với lại xem phim mà kể lại, không phải do kinh nghiệm
thật).
Vêtala ở Ấn Độ cũng là một loại quỷ nhập tràng. Ngày xưa,
Ấn Độ có phong tục quấn vải vào xác chết, đem thây vào rừng, treo lên cành cây
hoặc để dưới gốc cây cho đến khi rữa nát. Nơi để xác chết được gọi là Thi Lâm
Một loài quỷ sống ở đó đã mượn những xác còn mới để sống dậy trở thành Vêtala,
ăn thịt những xác thối xung quanh. Chuyện kể rằng, có một tay nhà buôn gần sạt
nghiệp, được vị đạo sĩ huyền thuật tặng cho câu chú luyện Vêtala hy vọng đổi
đời. Anh ta phải ra nghĩa địa, ngồi lên bụng xác chết mà trì tụng bảy đêm, cho
đến khi nào xác chết cử động được và chịu hàng phục thì anh ta sẽ toại nguyện.
Trì đến đêm thứ bảy, xác chết bổng mở mắt nói cười, anh nhà buôn hỏang hốt vọt
mình bỏ chạy. Nhưng dù anh có đi đến đâu, con quỷ Vetala trong cái xác vẫn chạy
theo tìm bén gót. Cho đến một ngày, anh quẫn trí nhảy lầu tự vẫn… (Tài liệu về
loại quỷ này mình cũng không có, chỉ một ít cóp nhặt được từ trong sách vở dân
gian của Ấn Độ trước đây mà thôi).
Ở Trung Quốc, phép luyện cương thi đã có từ lâu, nhưng phổ
biến nhất là vào giai đọan cuối TK XIX, đầu TKXX khi Trung Quốc chuyển dần từ
thời phong kiến sang thời kì Trung Hoa Dân quốc. Mục đích luyện cương thi của
các đạo sĩ ban đầu là chính đáng. Có những người đi làm ăn buôn bán, làm quan
kinh lý xa nhà, bạo bệnh mà chết dọc đường. Nếu mang xác chết về đến quê nhà e
rằng đã trở thành đống xương mục nát. Vả lại, đường xa, xác chết bốc mùi làm
sao chịu thấu. Các thầy đạo sĩ đã dùng phép luyện cương thi, mở cõi trung giới
trục thỉnh một số chủng loại nơi này nhập vào xác chết, giúp cho xác chết đông
cứng, di chuyển được theo chuông ngủ cổ của thầy. Do cương thi sợ ánh sáng mặt
trời nên các thầy chỉ di chuyển vào đêm, vừa tránh dương quang vừa dễ di chuyển
mà không phiền phức. Khi đưa về đến quê nhà, thường thì đạo sĩ sẽ tẩn liệm đàng
hòang rồi mới làm phép giải thi, đưa các chủng loại ấy trở về cõi trung giới.
Việc giúp người chết hồi quy cố hương của các đạo sĩ tạo điều kiện cho các
chủng loại trên tạo lập công đức ngõ hầu siêu sinh, tiến hóa.
Tuy nhiên, càng về sau những đạo sĩ bất chính đã lợi dụng
phép luyện cương thi để làm vật hại người, làm điều mờ ám như buôn bán thuốc
phiện, chuyên chở thuốc súng… hàng được dấu trong mình cương thi, thậm chí họ
còn giả cương thi để mang hàng. Mà mấy ai ngày xưa dám ngăn chặn đạo sĩ để khám
xác chết bao giờ? Mãi về sau sự việc vỡ lỡ, nhà nước cấm đóan, phép luyện cương
thi dần dần mai một…
Quỷ nhập tràng xuất hiện
trong các câu chuyện dân gian, xuất hiện cả trong các tác phẩnm văn học lớn.
Sách “Liêu trai chí dị” của Bồ Tùng linh có câu chuyện “Thi biến”. Câu chuyện
như sau:
“Huyện Tín Dương – Trung Quốc có một người làm nghề buôn
bán hàng quán, cho khách trọ đêm, cách thành đô năm sáu dặm. Một hôm trời tối,
có bốn người khách buôn gõ cửa xin trọ, nhưng quán của ông đã không còn phòng.
Bốn người khách không biết đi đâu nên mới van xin. Sau một lúc cân nhắc, ông chủ
quyết định để các vị khách của mình vào nghỉ ở phòng trong. Nơi quàng xác đứa
con dâu mới chết. Lúc ấy, con trai ông đi mua quan tài chưa về. Trong nhà trong
còn đủ giường chiếu, xác chết được phủ chăn giấy nằm ở phía sau tấm trướng. Mấy
người khách buôn mệt mỏi đặt mình xuống là ngủ ngay, chỉ có một người còn mơ
màng. Chợt anh ta nghe phía linh sàng có tiếng động, mở mắt ra nhìn, anh thấy
xác người phụ nữ lật chăn bò dậy, bước xuống đất tiến về phía giường ngủ bốn
người. Anh ta sợ quá kéo chăn trùm kín đầu, nín thở lắng nghe. Xác chết lần
lượt đến thổi vào từng người, sau đó quay trở lại linh sàng. Người khách buôn
vội lay các bạn dậy nhưng họ đã lạnh cứng. Hỏang hốt, anh bò dậy tháo chạy ra
ngoài, thây ma đang nằm liền vùng dậy đuổi theo. Anh chạy đến đâu, xác chết
đuổi theo đến đó, chạy đến một ngôi chùa, phía trước có một cây bạch dương to
đầy một ôm tay. Anh lái buôn liền chạy vòng quanh cây với xác chết như chơi trò
cút bắt. Đuổi nhau mãi như thế đến khi anh ta mệt nhoài đứng thở hồng hộc, chợt
thây ma bổng nhảy xổ lên vươn hai tay chộp qua cây, khách kinh hãi ngã vật ra
bất tỉnh. Trong chùa nghe tiếng la hét vội đốt đèn chạy ra, nhìn thấy người
khách nằm cứng đờ vội đưa vào trong cứu chữa. Đến trời tờ mờ sáng, khách tỉnh
dậy kể đầu đuôi sự việc, mọ người ra ngoài xem, quả nhiên thấy xác người đàn bà
đang đứng ôm vòng thân cây. Hai tay quắp chặt vào cây như móc câu, ngập cả
móng. Đến khi kéo ra được, thân cây lủng sâu như đục lỗ…”
Ở Việt Nam, quỷ nhập tràng thường xuất hiện ở những vùng
quê hẻo lánh, vùng đồi núi Trung du vắng vẻ bóng người. Trước đây, khi dân cư
còn thưa thớt, thỉnh thỏang người ta vẫn kể cho nhau nghe những câu chuyện nửa
hư nửa thực về loài quỷ này.
Học giả Toan Ánh cũng có một câu chuyện thật về quỷ nhập
tràng ở vùng quê miền Bắc….
Cách nay hơn bảy mươi năm, ở làng Dũng Quyết, huyện Quế
Dương xứ Kinh Bắc có người đàn ông tên Tòng bị bệnh chết. Trong khi đang chờ
khâm liệm, ông chợt sống lại, không nói không cười, thân thể cứng đơ, đôi mắt
trừng trừng như mất hồn không hề nhắm. Từ khi ông sống lại, gà vịt trong nhà
mất tích một cách khó hiểu, cho đến khi con cháu trong nhà phát hiện ông đang
xé xác con chó để ăn sống bộ đồ lòng. Gia đình rước ông Tự Xung ở huyện Vô
Giang về chữa trị, nhưng ngay cả Tự Xung cũng bị ông Tòng cắn đứt miếng thịt
vai. Bùa phép không hiệu quả, ông Tòng cứ sống như một thây ma… Cho đến một
ngày, sư bà trụ trì chùa Nguyệt Giáng xuất hiện. Bà không chữa trị, chỉ lấy
Phật Ấn dán ở hai đầu chái nhà, trên nóc nhà, sau đó lặng lẽ tụng kinh trì chú.
Sau ba ngày đêm trì tụng, thây ma ngã gục xuống, thối rữa nhanh chóng, lúc nhúc
dòi bọ…
Còn đây là câu chuyện do thầy Tư Nhang kể lại…
Năm 1957, ở huyện Bù Đăng Bù Đốp- tỉnh Sông Bé có đứa bé
gái con dân tộc thiểu số. Khi sinh ra nó không có xương sống, không đi được, không
nói được,chỉ trườn bò mà thôi. Nuôi đến 3 tuổi thì nó chết. Người ta đem xác nó
để ngài rừng 1 ngày thì nó sống lại, bò về nhà. Ở nhà thấy kì lạ lại tiếp tục
nuôi nấng. Từ đó, mỗi tối khi mọi người ngủ, nó lại bò đi bắt gà và gia súc để
ăn bộ đồ lòng. Về sau cả làng rình phát hiện đòi giết ,ông Cai Tổng vùng đó
theo Tây học nên không đồng ý. Cả nhà liền đóng chiếc cũi lớn, bỏ nó vào khiêng
sâu lên núi bỏ cho mất tích. Từ đó về sau làng không xảy ra chuyện gì lạ nữa.
Quê của Thanh ở miền Tây, ở đó dân Cái Bè vẫn còn truyền
miệng nhau câu chuyện về bà cụ trên 70 tuổi bệnh chết nửa ngày rồi sống lại. Bà
cũng không nói năng gì, thấy ai ăn gì là chạy đến giật lấy bỏ vào miệng nhai
ngấu nghiến. Có lúc bà ngồi tự gặm lấy tay mình đến tróc thịt bày gân xương ra
trắng hếu, máu chảy ròng ròng mà bà ta còn tỏ vẻ ngon lành lắm. Cả nhà hoảng
hốt băng bó cẩn thận, bà lại tiếp tục gặm đến tay kia. Đành phải trói bà lại
vào thành giường và rước thầy pháp tới chữa. Rước đến cúng buổi sáng thì buổi
tối trong nhà nghe tiếng khóc than rì rào không ai ngủ được. Quá sợ hãi, cả nhà
bắt bà đem vào nhà thương điên, ba ngày sau bà chết…
Đó là những câu chuyện truyền miệng trong dân gian, yếu tố
thực hư chưa phân biệt rõ. Tuy nhiên, cái mà ta cần biết không chỉ là chuyện
kể. Sâu xa hơn là sự nghiên cứu tìm tòi về chủng loại này. Theo sở học cá nhân
Thanh, quỷ nhập tràng xuất hiện là do bởi những yếu tố sau:
1/ Linh miêu nhảy qua xác chết:
Đây là giả thiết nhiều người truyền tụng nhất. Nhưng linh
miêu là có thiệt. Nó là con của một con mèo mun cái bị rắn hổ ngựa quấn lấy vào
ngày tết Đoan NGọ trong năm. Đặc điểm của linh miêu khác hẳn với những con mèo
khác. Nó mình dài, đuôi dài, mõm dài hơn bình thường so với những con mèo khác.
Cách bắt chuột của linh miêu cũng không bình thường. Nó thường leo lên xà nhà
cao đứng trên đó nhìn xuống bằng đôi mắt sáng quắc như quan sát, nhìn ngó sinh
hoạt của mọi người trong nhà. Nó không bắt chuột mà chuột tự bò ra nạp mạng như
bị thôi miên. Từ trân xà nhà cao, nó lao xuống vồ chuột nhanh như chớp. Trong
người linh miêu có một thứ từ điển ma mị, khi nó nhảy qua xác chết, sức mạnh ma
quái của nó vô hình chung phá mở cánh cửa trung giới , lôi kéo các chủng loại
nào đó về nhập xác mà sống dậy.
Những người Chăm gốc Chà ở quận 8, khi nhà có tang thường
bắt hết chó mèo trong nhà trói gô lại hoặc nhốt chúng vào lồng thật kỹ lưỡng.
2/ Do thầy bùa trục luyện :
Ở vùng Trà Sư- Thất Sơn, có một số thầy tu luyện được pháp
này. Không biết có giống với phép luyện cương thi bên Trung Quốc hay không
nhưng hiện tượng thì không khác mấy. Nhửng chủng loại bên ngoài tá nhập vào thể
xác đã chết rồi, làm việc theo sự sai luyện của thầy. Giống này, trong giới
huyền thuật gọi là ĐUÔN. tại sao gọi là ĐUÔN? Giống như con đuôn ăn rỗng ruột
đọt dừa , khi nhập vào xác chết, nó ăn lần trong ruột xác chết để kéo dài sự
sống trên thế gian, ăn đến khi xác rỗng hoàn toàn thì người thầy tìm một xác
mới để trục luyện chúng sang. Ph ép luyện này tàn độc, chỉ khi nào căm thù nhau
lắm đến mức không đội trời chung,người thầy mới sử dụng. Buổi tối, thầy làm
phép trục, ĐUÔN sẽ đến nhà kẻ thù của thầy để xé xác kẻ đó.Thanh có đọc được
tài liệu trước 1975 về phép luyện này của một thầy phù thủy miền Bắc, muốn sai
khiển được ĐUÔN, thầy phải giữ trái tim người chết thật kĩ, dùng trái tim ấy là
vật sai khiến ĐUÔN. Chẳng may pháp đàn bị phá hủy, nạn nhân tiếp theo sẽ chính
là người thầy tế
luyện. Làm phép này, người thầy đã bước một chân vào địa
ngục rồi đó.
Trong một lần về núi, được nghe một thầy Chà kể lại rằng:
Có một người bệnh nặng sắp chết, bác sĩ chẩn đóan ung thư đến giai đọan cuối
không còn sống được quá 24 giờ. Cả nhà cuống cuồng, kẻ thì lo rước thầy, người
thì lo hậu sự. Có một ông thầy đến xem và khẳng định sẽ kéo dài sự sống cho
bệnh nhân đến khi con cháu ở nước ngoài về đủ. Sau khi làm phép, thầy lấy một
số tiền rồi biến mất. Quả thật đúng như lời thầy, người bệnh khỏe mạnh trở lại,
đi đứng như thường khác hẳn những ngày trước chỉ nằm 1 chỗ. Điều đặc biệt nữa
là không nói không cười, ăn uống mạnh bạo chẳng khác gì thanh niên, lại thích
ăn tiết canh, thịt bò tái. Đến khi con cháu nước ngoài về đầy đủ, người nhà
cũng chẳng thấy vẻ gì là bệnh họan. Trải qua gần 1 tháng, một hôm có vị sư tu
theo hạnh khất sĩ tình cờ khất thực ngang nhà, ông đứng ngó vào nhà chăm chú,
không chịu bỏ đi cho dù người nhà đã cúng dường. Chờ đến giờ cơm, sư tự nhiên
vào nhà hướng về người bệnh chắp tay lần thầm chú nguyện. Bỗng người bệnh bật
ngửa ra đất chết tươi. Trong chốc lát, cả nhà bịt mũi chạy làng vì thân thể
người bệnh chợt trường phình lên thối rữa nhanh chóng. Vị sư khi không gánh
chuyện thế gian, bị người nhà bắt lại toan giải lên công an vì tội “giết
người”…
Ông thầy muốn lấy le với gia đình, chắc chắn đã trục binh
hoặc những vị bên trung giới vào giữ xác. Vô hình chung thể xác người bệnh biến
thành quỷ nhập tràng. Nếu không có vị sư khất thực thì … không biết hậu quả sẽ
ra sao.
3/ Người chết có uất khí, khi chết lại nhằm ngày giờ linh:
Trước khi chết, uất khí không tan, người chết không bao
giờ chịu đi vào Âm Dương đạo. Thế nào cũng thành ma ở lại thế gian. Nếu chôn
xác nhằm vào cuộc đất “có vấn đề” như đã trình bày ở trên, việc thành quỷ nhập
tràng là điều không tránh khỏi. Tuy nhiên, loại này ở VN ít thấy ( hoặc có mà
Thanh không biết).
Người chết đi vào ngày giờ linh nếu không bị thần trùng
thì cũng làm quỷ, một trong những loại ấy là quỷ nhập tràng. Sự thật, hồn người
chết đã đi mất từ bao giờ. Nhưng thể xác còn ở lại thế gian cho linh giới chiếm
giữ. Người nhà không biết, cứ tưởng hòan dương, lo cung phụng tẩm bổ, chữa trị
tiếp tục cho đến khi chân tướng thật của quỷ hiện ra.
Quỷ nhập tràng có những đặc điểm khá rõ. Sau đây là kinh
nghiệm bản thân về chủng loại này:
- Xương sống của người nhập tràng thường cứng, nên thường
ngồi không nằm. Đêm thức trắng không ngủ, mắt không bao giờ thấy nhắm dù ngày
hay đêm.
- Người bị nhập, bước lên kẽm gai, miểng chai đâm lthủng
thịt vẫn không hề hay biết, cảm giác.
- Ngồi nơi nào, thì sau khi rời đi, chỗ đó có nước vàng
nhớt, hôi thối đọng vũng.
- Lấy gương để trước mặt người bị nhập, thì nó quay đi
không dám ngó vào gương.
- Quỷ nhập tràng hay sợ tới gần bếp lửa đang cháy ( trong
kinh nghiệm dân gian của Toan Ánh thì quỷ nhập tràng sợ nước), chúng ăn rất
nhiều mà khi đi cầu vẫn còn nguyên tất cả vật thực. Có lẽ thể xác đã chết, các
bộ phận không còn hoạt động nên không thển tiêu hóa được.
- Nhà có người bị quỷ nhập tràng thì bao giờ cũng có cảm
giác lạnh, thoang thỏang mùi hôi thối, cho dù ở nhà có lau dọn xông hương cỡ
nào đi nữa.
- Không giống các vị thần thường thích thể xác thanh tịnh,
đồng nam đồng nữ, đối tượng nhập của quỷ nhập tràng thường là người lớn tuổi,
có gia đình, thể xác bệnh họan uế trược.
- Nhà nào có hiện tượng này thì giai đọan đó gia đình làm
ăn suy sụp, đỗ vỡ.
- Trong thời gian nhà có người bị, thức ăn rất mau thiu.
Khi nấu nướng xong, khỏang 2 giờ sau là trở nên nhạt nhẽo, hư hoại, có mùi.
- Lúc người bị nhập đã chết hẳn, thì đêm đ1o trong nhà
nghe như là tiếng mèo đuổi chuột, tiếng bình bông bị vỡ hoặc chén bát để trong
kệ cũng tự nhiên vỡ nứt.
- Một điều quan trọng nhất là quỷ nhập tràng không sợ bùa
chú, ngũ lôi hoặc binh gia. Chỉ có Mật chú của chư Phật hoặc có chư tăng đạo
hạnh tụng kinh cầu nguyện nó mới xuất ra. Trước đây, Thanh và huynh đồng đạo
Bửu Sơn đi chữa bệnh cho chị một đạo hữu. Đến nơi mới biết bà ta đã trở thành
quỷ nhập tràng. Cứ kiếm xó tối mà ngồi, hai con mắt trong bóng tối sáng long
lanh, không khí xung quanh hôi thối và lạnh lẽo…Hai đứa cứ làm phép trị tà
nhưng chẳng thấy bà ta có động tĩnh gì. Thanh và huynh Bửu Sơn chuyển sang trì
Đại Bi chú, công năng thấy rõ. Bà ta tỏ vẻ sợ hãi, bịt tai nép mình vào góc cầu
thang… Một tuần lễ sau bà ta chết…
Những câu chuyện trên đây có sưu tầm, có thực tế. Những
điều trải nghiệm chưa hẳn là chính xác hòan tòan. Rất mong các vị cao nhân hiểu
biết hơn bổ sung kiến thức ngõ hầu cho mọi người được học hỏi.
dienbatn và Thanh Pa Li tại chùa Phật Thầy Tây An.
dienbatn giới thiệu.
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét