Tamandieungo : "Những gì tôi viết cho đến hôm nay chỉ
là một phần nổi của tảng băng huyền bí. Nhưng một phần ấy thôi cũng đủ vén chút
ít tấm màn bí mật bao trùm lên cõi nhân gian này vậy. Nếu vén nữa, e rằng không tốt cho bản thân
tôi và cho nhiều người.
Qua
các bài đã post, chúng ta hiểu biết thêm phần nào về những loại thảo mộc có
tánh linh này. Như vậy cũng đủ lắm rồi.
Nếu
các bạn biết quý trọng nó, nó sẽ không bao giờ phụ bạc các bạn. Loại linh thảo
này có thể ví như chiếc gương soi bản tánh con người, tâm địa thế nào, ngải sẽ
hiển thị như vậy. Cho nên, khi đã trồng thì phải dốc cái lòng thành của mình mà
chăm sóc, biết chừng tổ ngải cảm động mà cảm ứng cho ta.
Ngược
lại, mang tâm địa độc ác, muốn mượn ngải để thoả mãn tư lợi cá nhân thì sau này
ngải sẽ không tha. Sư huynh của ông dượng tôi vì thử ngải nên bị ngải vật đến
chết, người đàn bà quen dùng ngải nói cuối cùng miệng bị ngải ăn sưng vếu như
hai miếng da trâu rồi lở loét dần mà chết, người chuyên lừa bán ngải với giá
cắt cổ mà không biết cách cúng ngải và cách hội tổ ngải cuối cùng cũng bị ngải
ăn lở loét tay chân, rút hết sinh khí sanh ra bụng to cổ nhỏ xanh rờn như lá
chuối non…
Đó
chính là lưỡi dao thứ hai của ngải mà ít người biết hoặc ít chịu quan tâm.
Tôi
không muốn hướng dẫn ai luyện ngải là vì vậy.
Bản thân tôi, vì
không muốn ngải bị lãng quên như cỏ dại nên thời gian qua liều mình đánh
thức ngũ hổ tướng và thập nhị ngải nương thức dậy trong tâm thức nhân gian. Hy
vọng các vị tổ ngải tiếp tục giúp đỡ cho đời, nhất là đối với những người bắt
đầu biết hướng thiện, biết trân trọng quỷ thần. "
" Kính gửi chư đồng đạo và bè bạn DĐTGVH!
Kính cáo cùng các huynh đệ!
Kể từ ngày tôi đến với trang web
thegioibuangai (thegioivohinh sau này) đến nay đã hơn 17 tháng. Khoảng thời gian ấy không dài so với một đời người nhưng đủ để ta
chiêm nghiệm thêm nhiều điều từ một thế giới vô hình nhưng cực kỳ hữu
cảm. Đã có hai lần tôi rút khỏi DĐ. Mỗi lần tôi rút là một lần tôi ngộ ra nhiều điều…
Ai cũng cho thế gian này là ảo, trang web cũng là thế giới ảo. Thật không sai! Vậy mà
chạy ra đường, một kẻ vô lại khi không mắng ta, ta vẫn thấy trào dâng một cảm giác tức tối, một chiếc xe lớn lao nhanh đến chỗ ta, ta vẫn giật thót mình, một cô gái xinh như mộng ăn
mặc cực kỳ “hot” nhởn nhơ trước mặt ta, không kịp nghĩ mắt ta đã dính vào những chỗ …khó nói nhất. Bao nhiêu người trong phút giây ấy nhìn thấy thế gian này là ảo?
Trò chơi online trên web ai cũng biết là thế giới ảo. Nhưng sao ta vẫn mê say đến quên ăn quên ngủ, quên cả việc làm để “chiến đấu” cho sự sinh tồn của
nhân vật mình đang hoá thân? Để rồi
giết nhau trong game không hả giận, người ta
có thể bước ra đời “chiến đấu” thật bằng dao búa, bằng quyền cước?"
MINH THÔNG – tamandieungo là một cao thủ về các loại Ngải và có cách kể chuyện rất dân dã , bình dân , nhưng kiến thức vô cùng rộng lớn. Trong cuộc đời , dienbatn chưa diện kiến với MINH THÔNG – tamandieungo nhưng dienbatn rất quý trọng những gì mà tác giả đã đóng góp vào tri thức Huyền thuật của nước nhà. Xin trân trọng cảm ơn tác giả.
MỘT CÕI ÂM DƯƠNG– MINH THÔNG – tamandieungo.
Tôi xin gửi đến huynh Hùng Sơn cùng mọi người câu chuyện của cuộc đời mình. Dĩ nhiên, để cho phù hợp với thể loại truyện ngắn, tôi đã điều chỉnh sắp xếp lại cho lôgíc. Câu chuyện dưới đây là một trong những điều tôi đã trải qua trong đời làm thầy, nếu xét thấy phù hợp thì huynh tuyển chọn, còn không thì... xem như là mua vui không đặng vậy thôi!
Thật ra, tôi nghĩ mãi không biết đặt tựa đề là gì cho phù hợp với những gì mình đã nghe, thấy và biết. Thôi thì cứ đặt đại là "Một cõi âm dương", vì trong cõi tạm này, người dương, kẻ âm đang lẫn lộn. Khác chăng là ta không thấy, không biết họ mà thôi.
Chiều xuống nhanh, cái ánh
sáng vàng vọt mặt trời xuyên qua tàng cây trứng cá rọi xuống chiếc võng tôi
đang nằm. Những cơn gió nhè nhẹ thổi rung cành lá, từng đốm sáng lấp lánh nhảy
múa quanh võng tôi như trêu ghẹo.Tia sáng đã nhạt rồi, không còn cảm giác gay
gắt như lúc nãy. Giá như trước đây, giờ này tôi đã leo lên sân thượng luyện mặt
trời. Mới nghĩ đến thôi, cả người tôi bỗng chạy rần rật như điện chạy, trong
đầu tôi vang lên ong ong câu chú “Án thiết toà thần lai ứng hiện…”. Nhưng tôi
liền gạt phắt sang một bên không muốn nhớ tới. Giờ đây, những tia sáng yếu ớt
này không còn đủ ma lực quyến rũ tôi như trước nữa. Tôi bỏ tất cả, kể từ cái
ngày định mệnh ấy…
Đó là cái ngày đứa em trai út của tôi bị tai nạn giao
thông mà chết. Tôi không có mặt ở nhà để được nhìn mặt em lần cuối. Đâu có ai
hiểu hết nỗi đau khổ của tôi, một người làm thầy, đoán biết khí số của em mình
đã tận mà không cách gì cứu vãn được. Dù sư công tôi có khuyên nhủ rằng đó lá
định số, nhưng tôi vẫn không cam lòng. Ngày mồng Năm tháng Năm, nhận được điềm
báo tử, tôi tính ra điềm báo ứng vào tháng Sáu. Tôi vội vã trao cho em tôi bài
kinh Tổ, chú hộ mạng , cả bức tượng Lục Tổ Magaham mà sư công tôi bỏ ra 21 ngày
chú nguyện tơm phép. Tôi bắt buộc nó mỗi ngày phải thay tôi thắp nhang trì
tụng, không được phép cởi dây chuyền và mặt tượng, không được uống rượu bia…Tôi
thắp sẵn ngọn đèn bổn mạng của nó trên bàn thờ, ngày đêm canh chừng không cho
đèn tắt… Vậy mà nó vẫn rời bỏ gia đình, bỏ cuộc đời này một cách dữ dội và đau
đớn…
Bước sang ngày mồng Một, tôi kẹt đưa đoàn khách đi miền
Tây ba ngày. Trưa hôm đó, một con bướm nhỏ bay vào trong bóng đèn và chết cháy,
ngọn đèn cũng tắt theo. Tối hôm đó, vì lỡ uống rượu bia với đám bạn cũ, em tôi
không dám đeo tượng . Nó cũng không dám đọc kinh chú, chỉ lặng lẽ thắp hương…
để rồi sau đó một giờ, trong lúc băng qua đường, nó bị xe hàng cán chết…
Từ ngày đó, tôi bỏ công việc,từ chối gặp gỡ bạn bè, đồng
đạo, tự nhốt mình trong nhà, rút vào trong vỏ ốc của sự cô đơn vằn vặt…
Cô Hai Xa Cảng đã về từ lâu, mặt trời cũng đã mất hẳn cuối
chân trời phía Tây, chỉ còn lại một quầng sáng đỏ hắt lên bầu trời ảm đạm. Tôi
khẽ đung đưa chiếc võng, không khí mát dịu nhưng lòng tôi vẫn cảm thấy nặng nề
u uất. Tiếng cô Hai Xa Cảng vẫn còn văng vẳng trong đầu:
- Cậu Hai nghĩ lại đi. Người ta đang cần cậu giúp đỡ, cậu
lại nỡ khoanh tay làm ngơ sao? Cứu một người bằng xây bảy cảnh chùa, huống chi
bây giờ cậu cứu cả nhà người ta, cả người sống và người chết!
Cô Hai đâu có hiểu tâm trạng của tôi lúc này. Cứu làm gì
khi vận mệnh của mình còn không biết sẽ ra sao. Tôi đâu phải là Phật thì làm gì
có thể hoá độ mọi người chứ! Ngay đến em tôi, tôi còn không cứu được nữa là…
- Cậu Hai suy nghĩ lai nghe! Nếu cậu đồng ý, tôi thuê xe
rước cậu về Mộc Hoá liền. – Câu nói vẫn còn dư âm, nhưng tôi chỉ thở dài và
chìm vào trong giấc ngủ nặng nề…
xXx
… Tôi đang đi trên một con đường bờ mấp mô, nhỏ hẹp. Trước
mặt tôi là một cánh đồng trải dài. Lúa đã gặt sạch chỉ còn trơ gốc rạ vàng úa,
cằn cỗi. Xa xa, thấp thoáng rặng dừa nước. Chắc là phía ấy có nhánh sông hay
rạch gì đó. Không gian ảm đạm như buổi chiều tà tắt nắng sớm, dường như có một
chút khói sương đang giăng giăng mờ ảo. Tôi
đứng lại ngơ ngác nhìn quanh...Bóng một người con gái thấp
thoáng trên con đường bờ phía trước. Tôi rảo bước đi theo, còn kịp nhận ra
chiếc áo bà ba bông tím hoa cà phất phơ trong màn sương khói. Tôi cất tiếng
gọi, nhưng tiếng của tôi tan vào trong hư vô. Dường như cô gái cảm nhận tiếng
kêu của tôi, cô đi chậm như nấn ná. Đến những lối rẽ, cô dừng lại hẳn như chờ
đợi. Khi tôi tới gần, cô lại rảo bước đi nhanh. Tôi không nhớ là mình đã theo
cô gái được bao lâu, chỉ biết là đi mãi... Đến một hàng tre rậm rạp, cạnh đó là
một ngôi mộ đất có trồng cây chuối sứ, cô gái đột ngột quay mặt lại nhìn tôi.
Đến lúc này tôi mới nhìn rõ gương mặt của cô.
Phải nói rằng cô rất đẹp, một cái đẹp mặn mà chân chất của
cô gái vùng sông nước miền Tây Nam Bộ. Nước da ngăm đen, chân mày thanh tú, đặc
biệt là đôi mắt, nó cứ đen láy mở to và đượm buồn. Từ khoé mắt của cô, những
giọt lệ cứ trào ra và lăn dài trên gò má ... Tôi chưa kịp hỏi han gì thì cô
bỗng mờ dần, mờ dần rồi tan biến trong màn khói sương hư ảo...
... Tiếng còi xe làm tôi giật mình mở mắt, xung quanh tối
đen, trong nhà đã lên đèn tự lúc nào. Tôi đưa tay nhìn đồng hồ- đã hơn chín giờ
tối. Tôi đã ngủ quên gần bốn tiếng đồng hồ, như vậy những hình ảnh ban nãy chỉ
là một giấc mơ. Tôi lại thở dài, cuộc đời này cũng đang là một giấc mơ không
hơn không kém, thoáng nhớ đến hai câu trong bài sám hồng trần:
"Chiêm bao khéo
khuấy lạ lùng
Mơ màng trong một giấc nồng mà thôi"
Quơ tay xua đám muỗi háu ăn, tôi ngồi dậy lững thững
đi vào nhà. Má tôi đã dọn cơm sẵn cho tôi tự lúc nào. Mâm cơm nguội ngắt.
Ba tuần sau tôi về công ty
tiếp tục làm việc. Ở nhà mãi cũng chẳng làm gì. Suốt ngày ra vào an ủi nói
chuyện cho nội và má tôi đỡ buồn. Đến giờ thì tụng kinh trì chú cho thằng em.
Từ hôm nó mất đến nay, tôi không còn luyện phù nữa mà chuyển sang tụng kinh Di
Đà và trì Vãng sanh thần chú. Tôi biết nó chết dữ như vậy khó mà siêu thăng
Tịnh độ, nhưng chắc chắn nó sẽ được về cảnh giới Trung thiên để tu tiếp, chờ cơ
hội trở lại nhân gian để hoàn tất đoạn nhân duyên cuối cùng của nó. Thỉnh
thoảng tôi có thấy và trò chuyện với em tôi, tuy chỉ một hai câu thì nó biến
nhưng tôi có thể đoán được phần nào.Những điều này, tôi không bao giờ dám kể
cho gia đình nghe vì sợ nhắc đến chuyện buồn đã qua.
Thấy nội và má tôi bình thường trở lại, tôi mới dám nhận
tour mới. Chuyến hành trình này xuôi theo quốc lộ dọc các tỉnh đồng bằng sông
Cửu Long theo yêu cầu của khách. Trước ngày khởi hành, Giám đốc gọi tôi lên văn
phòng nói nhỏ:
- Em cố gắng săn sóc tốt mấy vị này nhé. “Cớm” không đấy!
Như sợ tôi chưa hiểu, Giám đốc giải thích thêm:
- Đây là đoàn cán bộ văn hoá của Trung ương đi thực tế tự
do. Họ không muốn đón tiếp rườm rà nên xin kinh phí rồi tự hợp đồng với công ty
mình hướng dẫn. Họ muốn có một người rành về miền Tây đưa đi…
- Trong công ty mình thiếu gì người am hiểu Nam Bộ…
- Ấy, rành thì có rành. Nhưng nghe nói đi với cán bộ Trung
ương ai nấy đều rét. Tụi nó sợ ăn nói có gì thất thố… làm ảnh hưởng đến uy tín
công ty.
Tôi cười buồn:
- Trung ương hay địa phương gì cũng là người cả thôi, làm
gì phải cuống lên thế chứ.
- Anh biết rồi, nhưng đâu phải đứa nào cũng như em… Thôi
anh cẩn thận dặn dò em trước, cố gắng hoàn thành nhiệm vụ nghe.
Hôm sau đoàn chúng tôi lên đường. Chuyến đi khởi hành ngày
mồng Một, đúng ba tháng sau khi thằng em tôi mất.
Đến Long An, sau khi làm việc với Sở Văn hoá – Thông tin
tỉnh xong, lẽ ra đoàn đi thẳng đến khu Di tích Óc Eo như kế hoạch định sẵn.
Nhưng, anh trưởng đoàn chợt nhớ ra có người bạn thân đang làm cán bộ chủ chốt ở
Huyện uỷ Mộc Hoá, đã lâu rồi hai người không có dịp gặp nhau. Thế là xe đổi
hướng nhắm Mộc Hoá khởi hành…
Chuyện gặp gỡ hàn huyên của những người bạn thân xa cách
lâu ngày thiết nghĩ chẳng cần phải kể vào đây. Sau phần xã giao, anh em đồng
chí khoác tay nhau đến một quán lá bên bờ sông để làm tiệc tẩy trần, họp mặt.
Rượu đế Gò Đen chính hiệu rót ra ly sủi tăm trong vắt, khăn lạnh đập nổ lốp bốp
vui tai, không khí họp mặt có chút rượu bia bỗng tưng bừng rộn rã làm sao.
Dĩ nhiên là tôi cũng được dự phần. Nhưng lấy cớ bị bệnh
đường ruột, không ăn uống được đồ sống nên tôi tìm cách xin kiếu sau khi hẹn
khách gặp lại vào sáng hôm sau.
Thật ra, tôi không ăn được là một lí do. Sâu xa hơn, tôi
không chịu được cái cảnh người ta đem cả thau cá lóc ra đập đầu từng con để
nướng trui. Những con cá lóc đen trùi trũi, to bằng cườm tay người lớn, bị đập
đầu bôm bốp bằng khúc gỗ to,thân cá giãy lên đành đạch rồi giần giật những cơn
run rẩy cuối cùng trước khi bị người ta xiên ống tre vào bụng đem lên than đỏ.
Hay đau đớn hơn là cái cảnh lũ cá kèo đang nhảy lung tung trong rỗ, bị người ta
trút thẳng vào nồi nước đang sôi. Cả lũ quẫy tung thiếu điều bung cả nắp nồi,
những cái chết thảm khốc phục vụ cho buổi tâm tình họp mặt của những người bạn
cũ… Nhìn cảnh ấy, tôi chợt nhớ đến đoạn phim tài liệu về nạn diệt chủng chiếu
cách đây vài năm. Người ta cũng giết nhau bằng cách đập đầu như thế. Lòng nhân
cuả con người tan biến trong cái lý tưởng u mê mà họ đang thờ phụng !!!
Tôi vừa bước ra ngoài vừa cúi đầu trì niệm hồi hướng cho
lũ cá đáng thương kia: “ Um, gavira gam svaha”. Cầu cho tụi bây dứt sạch sự đau
đớn trong nghiệp thức, cầu cho bây dứt sạch nỗi oán hận dày vò để hoá kiếp làm
người… tự nhiên tôi nhớ đến câu văn của nhà văn Nam Cao : “kiếp người như kiếp
tao chẳng hạn…”
Tôi thả bộ dọc theo nhánh sông nhỏ. Vài chiếc ghe hàng còn
neo trên bến chờ mối, nắng xiên quai buổi chiều phản chiếu trên dòng sông lấp
loáng. Đến chợ Mộc Hoá, tôi ghé vô một quán cà phê ven sông gọi ly chanh đá
nhâm nhi. Cảm giác mát lạnh vừa ngọt vừa chua của ly nước cùng những cơn gió từ
mặt sông thổi vào làm tôi sảng khoái hơn.
Đang ngồi ngó mông lung, chợt có tiếng gọi mừng rỡ vang
lên:
- Cậu Hai! cậu Hai!
Nghe giọng quen thuộc, tôi quay người nhìn lại. Cô Hai Xa
Cảng đang bước vô quán, nét mặt đầy vẻ mừng rỡ:
- Cậu Hai đi đâu vậy? sao cậu lại ở đây? Nhìn thấy cái
lưng áo tui nghĩ ngay là cậu mà, cái dáng của cậu không lầm với ai được cả. Gặp
cậu ở đây tui mừng quá xá. Thôi, vậy là ổn rồi…
Cô hai liến thoắng một tràng dài như đại liên bắn làm tôi
nghe không kịp thở, cũng chẳng trả lời lại được tiếng nào. Bất giác tôi phì
cười - nụ cười hiếm hoi từ khi thằng em tôi chết.
- Sao cậu cười vậy? – Cô Hai nhìn tôi ngơ ngác – Tui nói
có gì hổng phải hả cậu?
- Không có, tại tôi thấy cô hỏi liên tục chẳng cho ai nói
tiếng nào nên tôi cười vậy mà.
- Vậy hả, tui xin lỗi cậu nghe. Gặp cậu ở đây tôi mừng quá
nên…
- Thôi, được rồi, cô ngồi xuống đi, bà con người ta nhìn
kìa.
Cô Hai kéo ghế cái rột và ngồi xuống đối diện tôi, miệng
cô vẫn còn cười toe toét lộ hàm răng trên sún hết mấy cái. Thấy cô tỏ vẻ vui
mừng ra mặt, tôi cũng thấy xúc động.Nhìn cô, tôi nhớ lại cái ngày đầu quen biết
với cô…
...Bà Chín Linh nhi là một
đạo hữu mà tôi quen biết trong một lần đi núi Cấm. Lúc ấy, trong đoàn hành
hương của bà có người bị chư vị tá điển mà không xuất được, cả đoàn cuống quít
khấn vái tứ tung. Tình cờ lúc đó tôi cùng sư huynh Minh Tịnh đi ngang qua. Thấy
cô gái bị vật vã không thôi, chịu không được tôi liền xin một chén nước làm
phép giải điển, nửa chén tạt vào mặt và rưới lên đầu, nửa chén còn lại cho cô
uống. Sau khi cô gái tỉnh hẳn, chúng tôi tiếp tục lên đường. Bà Chín chạy theo
làm quen… vậy là tôi có thêm một đạo hữu mới.
Sở dĩ gọi là bà Chín Linh nhi vì chồng bà thứ Chín, gọi
theo thứ của chồng. Phần của bà là thu thập các vong con nít về nhà lập trang
thờ, hương khói mỗi ngày nghiêm túc. Mỗi khi có ai đó hiếm muộn đến nhờ vả cầu
con,bà liền coi tướng trạng, hỏi tên tuổi,nghe mạch lý. Thấy được, bà liền đưa
vào bàn thờ van vái Tử Tôn nương nương và xin quẻ âm dương. Được keo, bà đưa
ngay ra phía sau nhà, nơi có gian thờ biệt lập để lựa con. Ở trong gian thờ, bà
đóng thành kệ như bậc thang. Trên mỗi kệ bà để lủ khủ các con búp bê lớn nhỏ đủ
kiểu đặt ở tư thế ngồi. Thân chủ có duyên với con búp bê nào, bà đưa con búp bê
ấy đem về nhà để thờ, cho đến khi nào thân chủ có mang thì đem hoá nó đi.
Có một lần, bà Chín đi “thu gom” nhằm càn ranh con lộn
thuộc loại oan gia trái chủ.Ngay tối hôm đó, gian thờ linh nhi của bà dậy rân
trời tiếng trẻ con khóc thét, tiếng la hét, đùa giỡn, đập phá đồ đạc ầm ầm như
một trận ác chiến. Cả nhà hoảng hồn mở đèn chạy vào xem thì mọi thứ vẫn nằm im
lìm nguyên vẹn như chưa từng có chuyện gì xảy ra. Sự việc ngày càng tệ hơn. Ở
những đêm kế tiếp, phòng ngủ của từng người bị gõ cửa liên tục như sắp bị phá
đến nơi, thức dậy mở cửa ra thì không có người nào. Ban đầu, lũ quỷ con chỉ phá
lúc tắt đèn. Về sau, dù đèn mở sáng choang vẫn nghe mồn một tiếng la hét quậy
phá của một bầy con nít.
Sự việc lên đến cao trào khi đứa con gái đầu của bà Chín
đang ngủ, đến nửa đêm nghe nặng ngực khó thở, mở mắt ra nhìn thì thấy một đứa
trẻ mình mẩy máu me không đang ngồi chễm chệ trên ngực. Cô hoảng hồn la hét
kinh hoàng đến nỗi hàng xóm xung quanh mở đèn chạy sang cứu giúp…
Bà Chín đã làm hết cách nhưng vẫn không hiệu quả, nhiều
huynh đệ khác nhảy vào cúng bái kết cục vẫn như cũ. Cuối cùng,bà chợt nhớ đến
tôi…
Ngày đầu tiên tôi đến cúng, mọi thứ có vẻ êm đẹp. Nhưng
chỉ yên ổn đúng một đêm, qua đêm sau mọi thứ vẫn đâu vào đấy, thậm chí đám tiểu
quỉ quậy còn bạo hơn lúc trước. Tức mình, tôi sử dụng ấn Tam Sơn quyết của Tổ
sư truyền kết hợp với bùa trị càn ranh con lộn để khắc chế. Kết quả cũng chẳng
ăn thua. Tôi đành chạy về cầu cứu thầy tôi. Thầy tôi nói từ trước đến nay chưa
gặp trường hợp này nên chưa nghĩ ra cách tốt nhất, thầy khuyên tôi chạy về chùa
gặp sư công một chuyến.
Sau khi nghe tôi thưa chuyện, sư công tôi cười nói:
- Con nít nó biết cái gì mà mày dùng Tam Sơn quyết, chẳng
khác nào đem súng ra doạ đứa trẻ lên ba. Còn bùa trị Càn ranh con sát, con lộn
chỉ có tác dụng khi nó đang ám người mẹ. Hiện tại, nó đang là quỉ linh nhi ở
ngoài pháp phù không phát huy hiệu lực đâu.
- Vậy làm sao bây giờ hả sư công?
- Bản chất của trẻ con là nghịch ngợm, hiền lành. Đứa nhỏ
con ranh kia sở dĩ dữ tợn như thế là do oan nghiệp tiền khiên đời trước nên nó
mới đeo theo mà báo ứng đến giờ. Đạo hữu của con không biết nguồn cội, không
xét thiệt hơn đã vội thu thập nó về, thử hỏi làm sao nó không quậy phá cho
được.
Nghe sư công nói, tôi toát mồ hôi lạnh.
- Sư công ơi, con biết rồi. Làm sao giải bây giờ hả ông?
Con cái bà Chín bỏ nhà chạy hết trơn, còn bà lo đến tóc hai bên thái dương bạc
trắng luôn.
- Cái gì cũng có phép hoá giải cả. Oan có đầu, nợ có chủ
mà. Con bảo đạo hữu của con đến nhà thân chủ là mẹ cuả đứa con lộn ấy, thuyết
phục thân chủ thỉnh các sư về lập đàn tràng siêu độ cho đứa bé.
- Vậy là xong hả ông?
- Đâu có dễ vậy. Nếu vong nào cũng siêu độ được thì cần gì
có thầy pháp hả con. Đó chỉ là bước đầu giúp nó tan bớt oán khí đi. Vong nó dữ
tợn, mạnh bạo là do oán khí chất chồng, giải oán khi đi tức nhiên sức mạnh của
nó phải sút giảm.
- Vậy là lúc đó có thể ra tay trị nó được rồi phải không
ông?
- Sao lúc nào con cũng nghĩ đến chuyện đánh và trừng trị
không vậy? Hồi truyền cho con mấy chữ phù Ngũ Lôi, thầy bay nói công dụng của
nó để làm gì?
- Dạ, để đánh tà…
- Không phải đánh tà mà là chữa tà, giải tà.
- Vậy có gì khác nhau đâu sư công?
- Hiểu đúng công năng để hiểu rõ tôn chỉ của người làm
thầy. Mục đích dùng Ngũ lôi là để răn đe, rồi hoá độ chứ không phải để hành hạ,
trừng trị… hiểu chưa?
- Dạ …
- Trong khi đánh tà, con phải khởi tâm từ bi mà biến thành
phẫn nộ, có vậy mới đỡ gây oán nghiệp về sau.
- Dạ, sư công nói con hổng hiểu gì hết. Từ bi thì làm sau
mà phẫn nộ được, cũng như nước đá làm sao mà đốt cháy thành lửa …
- Con chịu khó tụng kinh niệm Phật và trì Bát nhã thường
xuyên đi, sau này con sẽ hiểu dần. Còn bây giờ con chưa thấu triệt được đâu.
- Sư công ơi, vậy còn vụ quỉ linh nhi giải quyết ra sao?
- À, con đem bánh kẹo, sữa bò, đồ chơi vào trong am cúng
tụi nó. Sau khi gom lại đủ rồi thì dùng lịnh và chú của Quỷ Tử mẫu mà thu phục.
Nếu được, con khuyên đạo hữu của con siêu độ đám tiểu linh nhi này đi. Làm công
việc của bà ấy chẳng khác nào đang sử dụng con dao hai lưỡi, không biết lưỡi
thứ hai cắt đứt tay mình lúc nào…
Tôi trở về am bà Chín và làm đúng theo những gì sư công
hướng dẫn. Cũng may là mọi người đều nhất nhất nghe lời. Công việc tiến triển
thuận lợi. Bà Chín qua chuyện này cũng không còn mặn mà việc thờ cúng linh nhi
nữa, nên vừa nghe đề nghị của tôi, bà lập tức đồng ý.
Sau khi thu phục bọn trẻ, bà Chín và tôi lập đàn tràng đốt
xe giấy thỉnh chư thần đến rước toàn bộ tiểu linh nhi về núi tu hành… Sau này,
có hai đứa thành tài, cảm duyên của bà Chín nên quay trở lại tá điển vào xác bà
chữa bệnh, coi bói …đó là chuyện sau này.
Tôi ghé nhà bà Chín Linh nhi
lúc bà đang có khách. Đó là một người phụ nữ gầy ốm, vận bộ bà ba nâu, khuôn
mặt bà ta dài ngoẳng thật phù hợp với cái dáng vẻ khẳng khiu như cây tre miễu
của bà. Chỉ có đôi mắt lúc nào cũng nheo nheo và cái miệng như muốn cười là làm
cho người ta cảm mến.
Bà Chín đứng dậy giới thiệu:
- Cậu Hai vào chơi. Giới thiệu với cậu, đây là cô Hai Xa
Cảng, cũng người trong bổn đạo. Nhà cô ở ngay bến xe miền Tây nên huynh đệ gọi
cổ là cô Hai Xa Cảng cho dễ nhớ.
Quay sang tôi, bà Chín nói tiếp:
- Còn đây là… - Thấy tôi nháy mắt, bà hiểu ý, lập tức đổi
tông – đây là cậu Hai Dũng, làm nghề hướng dẫn du lịch. Cẩu đi tối ngày hà, hôm
nay mới ghé chơi. Thôi, cậu Hai ngồi xuống uống nước
- Dạ…
Tôi nhấc nhẹ chiếc ghế về phía mình và ngồi xuống. Cô Hai
quay sang ngắm nghía tôi một lúc lâu như xem tướng rồi quay sang bà Chín nói
lởi xởi:
- Cô Chín à, tui thấy cậu này có căn lắm đó nghen. Cô cúng
ra căn cho cẩu đi.
Suýt tí nữa tôi phì cười. Mấy vị linh căn này, hễ gặp ai
biết đi chùa lễ bái hay tìm đến am miếu là y như rằng phán ngay cho họ hai chữ
“ có căn”. Trên đời này, ai mà không có căn kia chứ. Không có “căn” làm sao có
mình ở đây. Còn “có căn” theo kiểu mấy bà đồng đội khăn đỏ nhập xác về ợ ngáp
quay cuồng theo tiếng chuông tiếng nhạc, tiếng hát tiếng hò thì… tôi xin bái.
Thấy tôi ngồi im có vẻ suy nghĩ, cô Hai phấn khởi coi
tiếp:
- Tôi thấy cậu sáng lắm đó nghe. Tiền đồ thiệt là rộng mở…
À, cậu cũng có người anh hay em gì đó đi theo độ cậu, nhớ cúng cho người ta.
Còn nữa, tôi thấy có một ông gì… ông gì… lớn lắm – nói đến đây, cô Hai ngẩn
người ra như mất hồn.
Thấy mặt cô Hai ngẩn ra, tôi cười thầm. Tôi luyện phù từ
năm 15 tuổi, đến giờ đã hơn 10 năm, được cấp sắc ra sư rồi là sao cổ soi thấu
được. Mấy vị án hết thiên linh làm cổ nói lạc quẻ hết trơn. Cô Hai hàm hồ nói
tiếp:
- Số cậu không gần cha mẹ, sinh ra lớn lên như cây mọc trơ
trọi giữa đồng, một mình chịu đựng sóng gió…
Nói đến đây tôi chịu hết nổi rồi. Tôi chưa bao giờ sống xa
cha mẹ, dĩ nhiên là trừ những ngày tôi dẫn tour du lịch, anh em đang chung sống
đông đầy với nhau. Còn sóng gió ư, có lẽ trong đám bạn bè tôi quen bíêt, kể cả
trong huynh đệ học cùng thầy, tôi là thằng sướng nhất… Thấy cô Hai bắt đầu nói
lung tung, tôi giả vờ chắp tay cung kính:
- Con cảm ơn cô Hai đã cho con biết thêm nhiều điều ..
- Không có gì đâu, có duyên dữ lắm mới gặp được tui nói
cho vài lời đó.
Quay sang bà Chín nãy giờ chỉ ngồi trên võng tủm tỉm cười,
cô Hai nói tiếp:
- Cậu này tương lai sáng lắm đó nghe.Cô Chín liệu mà lo
cúng căn cho cậu ta đi.
Tính hiếu thắng của tuổi trẻ bốc lên. Tôi co tay bấm quyết
triệu thần, thầm gọi chư vị : “… linh quang phổ chiếu…khí dụng thành huờn… án
mộc linh thần chi nhĩ báo…”. Trong chốc lát, một số “tư liệu” về cô Hai đã có
trong tay, tôi lễ phép xin cô Hai để cho tôi coi lại. Thấy cô tỏ vẻ ngạc nhiên,
tôi nói luôn:
- Cô Hai gốc thuộc đạo Cao Đài Tây Ninh. Nhưng cô lớn lên
không tu theo Cao đài mà lại theo Tịnh Độ. Mười năm nay cô bị căn hành lang
thang đây đó, không làm ăn mua bán gì được cả.
- Trời ơi, sao cậu biết?
- Dạ, cô cũng theo thọ học đến ba bốn ông thầy, nhưng
chẳng có thầy nào chịu cấp sắc cho cô cả, cho nên cô lại mang ý định muốn tìm
một thầy khác để xin cái sắc chữa bệnh. Bây giờ thật ra cô cũng có thể cắt gió
cạo lưng hoặc coi lặt vặt cho người khác chút đỉnh. Nhưng cô làm việc có cơn,
lúc muốn coi thì không biết nói gì, lúc không muốn coi thì tự nhiên cứ buột mồm
nói ào ào không kiềm chế được…
Cô Hai há hốc mồm nhìn tôi, bà Chín ngồi trên võng cười
ngất:
- Đúng hôn vậy cô Hai?
Cô Hai Xa Cảng không trả lời mà quay sang tôi chờ nghe
tiếp. Tôi thấy hình như cô đang thu người lại.
- Bây giờ cô vẫn cứ lang thang, gia đình con cái coi
thường cô, không ai chịu nghe cô dù chỉ một lời, không ai chịu hiểu cho cô cả…
Cô Hai bật khóc ngon lành, khóc tức tưởi. Nước mắt cô tuôn
tràn khiến tôi có cảm giác như cô đã chuẩn bị khóc từ lâu lắm rồi. Vừa khóc cô
vừa than thở chuyện nhà cửa, chuyện chồng con, chuyện lang thang của cô. Tôi
đột nhiên trở thành người nghe bất đắc dĩ, bấc giác tôi hối hận về việc làm của
mình…
- Cậu Hai ơi, cậu có cách nào giúp giùm tôi không vậy cậu?
– Cô Hai chợt đổi giọng một cách đáng thương.
Bà Chín lúc này mới góp lời:
- Tôi nhắn cậu ghé qua đây cũng là vì chuyện này đó.Thấy
cổ bỏ nhà bỏ cửa đi hoài mà thương, có khi không ăn không uống gì cả. Thấy đám
cúng bà cúng miểu, cúng đình là cổ sà vô bái lạy nấn ná đến chừng tan hàng mới
thôi. Nay biết cậu rồi, nhờ cậu giúp giùm.
Tôi thở dài, giá mà lúc nãy mình đừng có thử nghề với cổ,
giá mà trước đây mình đừng có vướng vô mấy vị linh căn này thì bây giờ đỡ khổ
biết bao. Nhưng thôi, mọi thứ đều có duyên nợ cả, mình làm mình chịu chứ trách
ai bây giờ. Vả lại, nếu giúp cho cổ ổn định lại, cổ sau này làm thầy giúp được
cho bá tánh thì mình cũng có chút âm công để dành. Nghĩ vậy, tôi liền quyết
định chỉ cho cô Hai Xa Cảng bài Cửu Thiên Huyền nữ Tổng chú và Cửu Thiên huyền
nữ lệnh phù. Sau đó, tôi vẽ cho cô chín chữ Định tâm phù uống trong chín ngày
cúng đức Cửu Thiên huyền nữ…
Từ đó, cũng như bà Chín, cô Hai trở thành đạo hữu của tôi.
Hễ có chuyện gì khó khăn nan giải, cô liền chạy đến nhờ tôi hỗ trợ một tay…
Tiếng cô Hai kéo tôi trở về
với thực tại:
- Cậu Hai nghĩ gì mà thần người ra vậy?
- À, không,tôi chỉ nhớ lại chuyện cũ thôi mà!
- Cậu Hai à, từ sau chuyện xảy ra ở nhà cậu, tui thấy cậu
hay mơ màng lắm nghe…
Tôi đánh trống lảng:
- Sao cô lại có mặt ở đây vậy?
- Ủa, cậu quên tui quê ở đây sao?
- Ờ há, tôi không để ý …
- Còn cậu, sao cậu lại ở đây?
- Tôi đưa khách đi miền Tây, ghé Uỷ Ban nghỉ một đêm, mai
đi tiếp.
- Vậy là tốt quá rồi. Cậu ghé đây rõ ràng là do ơn trên
xoay chuyển. Tui không còn lo nữa.
- Nhưng mà cô lo chuyện gì?
- Cậu hổng nhớ tháng trước tui ghé nhà cậu nhờ cậu về Mộc
Hoá một chuyến giúp gia đình tui à?
- Lúc đó rối bời, tôi đâu có để ý kỹ. Thôi, cô kể lại chi
tiết giùm tôi đi.
- Chuyện là vầy…
…Châu là con gái bác Tư Xê, gọi cô Hai Xa Cảng là cô họ.
Năm nay Châu vừa tròn 19 tuổi, cái tuổi xuân thì vừa đủ độ chín mùi để làm gục
ngã bao chàng trai trong vùng. Chẳng những thế, Châu còn hát hay, cấy giỏi. Mỗi
khi bà con cấy vần công, ai nấy bị Châu bỏ xa. Có khi cô còn cấy bao nhốt mấy
chàng vào trong đám mạ phải la oai oái. Nhiều nhà có con trai mới lớn đều ngắm
nghía và tính chuyện làm sui với bác Tư. Bác Tư lấy chuyện này làm điều thích
thú. Mỗi khi đi đám tiệc ở đâu, nhắc đến Châu là y như rằng bác khoe hết lời
khiến nhiều người cứ tấm tắc hít hà…Thật ra , bác cũng đang âm thầm kiếm một
chàng rễ vừa ý.
Vậy mà, đùng một cái cô Châu có bầu. Lúc đầu thấy cô nôn
oẹ, biếng ăn, ở nhà cứ tưởng cô làm nhiều sinh bệnh. Nhưng rồi những triệu
chứng của một người ở cử càng lúc càng lộ rõ, nhất là cái eo vốn thon thả của
cố cứ tròn dần ra một cách công khai khiến mọi người tá hoả. Bà con lối xóm xì
xầm bàn tán, rủ nhau đoán già đoán non về tác giả cái bào thai kia. Trước đây,
mọi người ca ngợi Châu bao nhiêu thì bây giờ cái tiếng thị phi cũng tương xứng
bấy nhiêu. Vợ chồng bác Tư thì khỏi nói. Bác gái lúc nào cũng rền rĩ than trời
trách đất, rồi trách bản thân vô phước có một đứa con gái hư thân mất nết như
Châu. Bác Tư Xê thì ngày nào cũng tra hỏi cật vấn rồi mắng chửi đánh đập. Có
hôm ra đồng, mặt mày Châu sưng tím, tay chân lằn ngang lằn dọc vì trận đòn dữ
tợn của bác Tư. Mọi người càng dè bĩu, bác Tư càng đánh chửi thì Châu càng im
lặng. Cái im lặng thật đáng sợ ẩn chứa một sự phản kháng ngầm…
Bất ngờ lúc giữa trưa, làng xóm nghe tiếng gào khóc của
bác Tư gái. Mọi người ùa sang thì thấy cô Châu cả người tím tái, mắt trợn dọc,
bọt mép sùi ra hai bên ướt cả chiếc áo bà ba màu tím hoa cà, ướt cả chiếc chiếu
cô nằm. Người cô nẩy lên từng cơn như bị kinh phong. Bà con xúm nhau lại cạo
gió, cắt lưng, giật tóc mai nhưng cô chỉ còn nảy người lên vài cái rồi rủ xuống
tắt thở. Cô chết nhưng đôi mắt vẫn mở to, nhìn vào hư không như oán trách điều
gì. Dưới chân giường vẫn còn chai thuốc xịt rầy đã vơi hơn phân nửa.
Vậy là mọi người lại bắt tay vào lo hậu sự cho cô Châu.
Đôi mắt cô vẫn mở to không nhắm, người nhà làm đủ cách nhưng đôi mắt vẫn cứ mở
trừng trừng khiến ai nấy rởn óc không dám nhìn lâu. Cuối cùng, mấy vị chức sắc
trong Cao Đài quyết định lấy chiếc khăn đỏ phủ lên đôi mắt cô rồi làm nghi thức
an táng. Vì cô Châu chết lúc đang có mang nên bên mộ của cô Châu, người ta
trồng một cây chuối sứ, chừng nào chuối trổ buồng thì đứa nhỏ ma cũng được chào
đời.
Ba ngày sau, chuyện lạ bắt đầu xảy ra…
Ông Tám thợ rèn đi ăn đám giỗ bên kia sông nên về muộn hơn
thường ngày. Trời chạng vạng ông mới khật khà khật khưỡng qua đến đám ruộng của
bác Tư Xê. Một cơn gió lạnh thổi qua làm ông rùng mình. Cái “bầu tâm sự” của
ông cần có chỗ để trút. Ngó quanh quất không thấy ai, ông vén quần tè luôn trên
bờ ruộng. Chợt ông nghe tiếng nói văng vẳng :
- Ông Tám đi đâu về tối quá vậy…?
Tưởng gặp người quen, ông Tám lập tức ngưng ngay công việc
“tưới ruộng”. Vừa xả ống quần xuống ông vừa vội trả lời:
- Ừ, tao đi đám giỗ về …mà đứa nào hỏi đó bây?
Nhưng, khi quay người lại, ông chẳng thấy bóng dáng người
nào. Tưởng uống rượu nhiều quá nên mơ hồ, ông Tám lắc lắc cái đầu như xua tan
cơn say, tiếp tục giải quyết chuyện của mình. Vừa mới kéo ống quần lên, ông
nghe tiếng kêu thật lớn:
- Ông Tám…
Lần này không thể lầm lẫn được, ông Tám quay phắt lại
nhìn. Trong không gian nhá nhem tối, ông chợt phát hiện mình đang đứng gần nấm
mộ của cô Châu. Mồ hôi lạnh toát ra ướt áo, ông Tám tỉnh hẳn rượu vội co giò chạy
một mạch về nhà, mặt mày tái mét, nói chẳng ra lời. Hôm sau ông ngã bệnh...
Trường hợp ông Tám không phải là duy nhất. Thím Năm Hoài,
rồi cô Hai Lành, thằng Rạch con ông Ba Thớm đầu xóm cũng thấy cô Châu hiển
linh. Thằng Rạch kể, chiều hôm đó nó lùa trâu về nhà, lúc ấy trời chưa tối hẳn,
đi ngang mộ của Châu, nó thấy cô đứng sẵn tự lúc nào. Lúc đầu nó còn tưởng cô
nào ở trong vùng đang hẹn hò với bồ, không dè đến gần nó thấy cô Châu đang cười
nhìn nó. Vẫn là chiếc áo bà ba bông tím hoa cà mà ở nhà mặc lúc liệm xác cô,
vẫn nụ cười duyên quen thuộc với bà con lối xóm. Cô lấy tay ngoắc. Hồn vía lên
mây, thằng Rạch cắm đầu chạy, vừa chạy nó vừa la bài hãi: “ Trời
ơi!...Ma…ma…a…”Về đến nhà nó ngã vật ra sùi bọt mép, lên cơn co giật.
Báo hại cả xóm gần cả đêm không ngủ với nó. Người lớn vừa kiếm thầy cắt lễ cho
thằng Rạch vừa cử mấy tay thanh niên chạy ra ruộng tìm trâu.
Trong khi cả xóm còn đang kinh hoàng thì sau lễ cúng cửu
đầu tiên (đạo Cao đài lấy chín ngày để cúng vong nên gọi là cửu, khác với đạo
Phật cúng thất sau khi người chết được bảy ngày ) nhà cô Châu bắt đầu có
chuyện. Buổi tối, cả nhà nghe tiếng lục đục trong buồng ngủ của cô. Tưởng là
chuột nên bác Tư chỉ vỗ vỗ vào vách mấy cái rồi ngủ tiếp. Đến tối hôm sau thì
tiếng động càng lớn hơn như ai đó đang lục lọi đồ đạc trong buồng. Cất tiếng
hỏi không nghe ai trả lời, bác Tư bưng đèn vào trong xem thử. Tất cả bình
thường, không có vẻ gì là xáo trộn. Đêm tiếp theo nữa, cả nhà không ai ngủ được
vì tiếng khóc rấm rức từ trong buồng văng vẳng vang ra. Nghe kỹ thì đó là tiếng
khóc quen thuộc của cô Châu mỗi khi bị bác Tư đánh mắng. Ở nhà rởn da gà không
ai dám ho he. Riêng bác Tư trai vốn có vai vế trong đạo nên còn bình tĩnh, bác
hét lớn át cả tiếng khóc:
- Bây sống làm nhục nhã cha mẹ, giờ chết rồi tính làm ma
để báo hại gia đình hải không?
Tiếng khóc chấm dứt. Cả nhà yên giấc đến sáng.
Nhưng rồi những đêm sau mọi thứ vẫn tiếp diễn như cũ. Lần
này càng lộng hơn, người nhà thấy cô Châu hiện hồn rành rành. Từ trong buồng,
cô bước ra quanh quẩn gần tủ thờ rồi khóc lóc. Có khi đang ngủ, vợ chồng bác Tư
giật mình thức giấc nghe tiếng của Châu kêu gọi thảm thương:
- Má …ơi! … Tía … ơi…ơi…!
Mở mắt ra nhìn, hai ông bà thấy cô xoã tóc đứng ngay cạnh
giường ngủ của mình. Ở dưới quê lúc bấy giờ chưa có đèn điện, nhà nào sang lắm
mới xài điện bình. Bình gần cạn phải đi ghe ra ngoài chợ để sạc lại. Nhà bác Tư
cũng chỉ xài đèn dầu, trong ánh đèn dầu tù mù leo lét, bóng cô Châu lúc ẩn lúc
hiện với mái tóc xoã dài với tiếng khóc nức nở làm mọi người sợ đến mất vía.
Ban đầu là bác gái bỏ buồng trong chạy ra bộ ván ngủ với
bác trai, rồi sau đó cả nhà dọn giường qua gian bếp ngủ chung với nhau. Cuối
cùng cả nhà bỏ sang nhà bác Ba Xàng ngủ nhờ. Thế là căn nhà của bác Tư … ban
ngày dành cho người, còn ban đêm … để lại cho cô Châu về ở.
… Dường như kể nhiều hơi mệt, cô Hai Xa Cảng dừng lại hớp
một ngụm cà phê đá.
- Cô Hai à, tính đến bữa nay thì cô Châu chết được mấy
ngày rồi cô?
- Đến ngày mai là vô cửu thứ bảy rồi đó cậu. Nói thiệt với
cậu, từ hôm cậu từ chối không nhận, ở nhà đã làm hết cách rồi. Mời bổn đạo đến
hộ niệm, mời thầy đến cúng giải vong, mời đồng bóng về cúng bà… hễ ai bày gì là
anh chị Tư tui làm nấy nhưng coi bộ hổng ai làm được gì cả cậu Hai à. Cực chẳng
đã anh chị Tư tui nói quá nên tui mới về cúng thử xem sao. Biết đâu nó thương
tui thiệt lòng cầu nguyện cho nó mà chịu đi đầu thai thì phước ba đời luôn đó
cậu.
- Cô về được mấy hôm rồi.
- Mấy đâu mà mấy. Tui đi chuyến xe đầu hôm nay, về đến đây
mới có 10 giờ hà. Vậy mà có chút thời gian rảnh đã nghe không biết bao nhiêu
chuyện về con Châu nữa.
- Còn thêm chuyện gì nữa?
- Đó, mới hôm qua thôi. Buổi chiều, anh Bảy Niễng chạy hào
hễn từ ngoài ruộng về. Vô tới nhà ổng la um lên : “Con Châu nó rượt tui, con
Châu nó rượt tui”. Gặp chị Bảy nghễng ngãng còn hỏi lại: “ Trâu làm gì mà rượt
ông chứ?” thiệt là cười ra nước mắt luôn. Đến khuya hôm nay, bạn hàng của chị
Tư đi ghe qua trước nhà, tính ghé lên lấy đồ. Dè đâu vừa ghé vô thấy nó đứng
ngời ngời ngay bến, ai nấy bò càng luôn vậy đó.
Tôi cắt ngang câu chuyện:
- Bây giờ cô định làm sao?
- Thì làm sao nữa, tui định tối nay tụng kinh cầu siêu cho
nó. Thấy còn thiếu vài món nên vội chạy ra chợ mua thêm cho đủ.
Cô Hai đổi giọng:
- Cậu Hai ơi, gặp cậu ở đây rồi, thôi cậu giúp tui chuyến
này đi nghe cậu.
Tôi không trả lời, quay ra ngó mông lung ngoài sông lớn.
Phải chăng tôi gặp cô Hai ở đây là một sự tình cờ? Còn giấc mộng cách đây gần
tháng, phải chăng cũng là trùng hợp? Câu chuyện kể của cô Hai làm tôi xúc động.
Tự nhiên tôi thấy thương cảm cho số phận của một con người, sống bị người ta
chê cười, chết lại bị người ta sợ hãi. Họ sợ hãi điều gì kia chứ? Sợ ma ư? Ai
chết rồi mà chẳng thành ma? Ma là người đã chết, người là ma lúc còn sống, có
gì khác nhau đâu. Cái kiếp sinh tử luân hồi, ai mà chẳng có một lần phải trải
qua. Có điều, người thì ra đi nhẹ nhàng, kẻ thì quyến luyến nấn ná. Chẳng qua
là vì họ chẳng cam lòng đó thôi, hoặc giả họ còn điều tâm nguyện nào đó chưa
giải quyết nên không chịu nhắm mắt đi xuôi. Cái tâm tham lam, sân hận, si mê
theo họ vào cả trong cõi u minh… Biết bao giờ mới giải thoát đây.
- Cậu Hai ơi, cậu giúp giùm tui đi cậu!
Tôi sực tỉnh, quay sang nói với cô Hai:
- Được rồi, cô ghé tiệm thuốc Bắc mua giùm tôi một số vị
thuốc sau: Châu sa – 5 chỉ, Thần Sa – 5 chỉ, Son Tàu – 5 chỉ, A Nguỳ - 1 lượng…
Rồi cô ghé vô chợ mua luôn nhang đèn, giấy áo, nãi chuối
sứ…ít giấy vàng…
Cô Hai mừng quýnh:
- Giấy vàng và nhang đèn tui mua rồi nè, còn mấy cái kia
có ngay thôi. Cậu chờ tui chút nghe.
Nói xong, cô Hai đi nhanh ra khỏi quán. Cái dáng cao gầy
của cô tất tả giữa dòng người đang từ dưới bến đi lên.
Nhà bác Tư cách chợ Mộc Hoá
khoảng 9 cây số đường sông. Chúng tôi đi ghe máy về tới nhà thì đồng hồ đã chỉ
5 giờ chiều. Thấy cô Hai từ dưới bến đi lên, một người phụ nữ trạc sáu mươi
tuổi chạy ra đón lấy giỏ đồ trên tay cô Hai vừa nói:
- Trời chiều rồi mà cô chưa về làm tui lo quá. Sao mà lâu
quá vậy?
- Gặp được quới nhơn nên về muộn đó mà – quay sang chỉ
tôi, cô Hai giới thiệu - Cậu Hai Dũng, người mà tui kể với chị hồi tháng rồi
đó. Hôm nay ra chợ mua đồ, may sao gặp cậu ấy đang ghé huyện làm công chuyện.
Vậy là tui đưa cẩu về đây luôn. Còn đây là chị Tư của tui đó cậu.
Bác Tư gái có vẻ mừng rỡ:
- Mời cậu vô nhà, hôm nay mùng Một ở nhà có mấy mẹ con
tui. Ổng mắc việc ngoài Thánh thất chắc không về được.
Bữa cơm chiều được dọn ra đạm bạc. Tàu hủ chiên vàng, dĩa
rau mốp làm chua chấm chao và tô canh canh rau dền con ăn với cơm gạo mới. Tôi
làm luôn ba chén đầy mà vẫn còn muốn ăn thêm, trong đầu chợt liên tưởng đến bữa
tiệc ban trưa - nặng nề và tanh tưởi…
Ăn xong, trời cũng bắt đầu chạng vạng. Thoắt cái cả nhà
bác Tư biến đi đâu mất, chỉ còn tôi và cô Hai loay hoay chuẩn bị thời kinh.
Khi theo chân cô Hai đi lên gian nhà trên, nơi đó thờ
Thiên nhãn, Cửu huyền, bàn thờ của cô Châu cũng đặt ở đấy.
Vừa bước vào gian trên, tôi nhận ra ngay một cảm giác rất
lạ. Gian thờ đóng kín cửa lớn, nhưng tôi vẫn cảm thấy gió ở đâu quyện nhè nhẹ
vào cổ chân, sương sống tôi có một luồng khí lạnh chạy lên chạy xuống. Tưởng
linh phù chữ Phật an ở đảnh và tâm ngực xong, tôi tiếp tục bước vào trong. Đến
trước bàn thờ cô Châu, tôi bàng hoàng giật mình đánh thót một cái… chắc mọi
người đã đoán ra điều gì rồi. Bức di ảnh của cô Châu trên bàn thờ giống với cô
gái trong giấc mộng tháng rồi của tôi như đúc. Nói cách khác, cô gái mà tôi
thấy trong lúc mơ màng chính là cô Châu, nhân vật trong tấm ảnh thờ đang đưa
mắt nhìn tôi với nụ cười buồn bã…
Thoáng chút bàng hoàng tôi vội trấn tĩnh và bắt đầu thời
kinh tụng. Tiếng chuông mõ hoà vào trong ánh sáng lung linh của hai ngọn đèn
cầy, trong mùi nhang trầm phảng phất tạo nên bầu không khí liêu trai huyền ảo
nhưng ấm cúng. Tôi và cô Hai hoà niệm bài chú Đại Bi:
“ … Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da, nam mô a rị da bà lô
yết đế thước bát ra da, bồ đề tát đoả bà da…”
Tiếng chuông điểm vào cảnh tỉnh, tiếng mõ đều đặn dằn tâm,
tôi để lòng mình duyên theo bài chú, tâm thức như thấy hình tướng đức Thiên Thủ
Thiên Nhãn Quán Thế Âm đang ngự giữa hư không, ánh hào quang phóng ra tiếp dẫn
vong hồn… từng luồng điện chạy dọc theo sống lưng , chạy ra hai tay từng đợt
từng đợt làm tôi gai cả người. Tôi có cảm giác như vong hồn cô Châu đang hiện
về trong tiếng chú.
“ Nam mô Liên trì Hải hội Phật Bồ tát… Phật thuyết A Di Đà
kinh. Như thị ngã văn…”
Bổn kinh Di Đà hầu như tôi thuộc nằm lòng. Từng lời từng
lời trong kinh như mở ra cả một thế giới hư không với cõi Tây phương trang
nghiêm Tịnh độ. Bốn mươi tám lời thệ nguyện của đức Phật Di Đà dẫn dắt chúng
sanh về Phật quốc, cầu cho vong hồn của cô Châu thức tỉnh bến mê mà quay về bờ
giác. Về đi thôi, về đi cô Châu ơi, luyến tiếc làm chi một chút hồng trần, hãy
duyên theo lời hộ niệm mà thức tỉnh, hãy nương theo ánh hào quang của chư Phật
ba đời mà thoát khỏi biển khổ này. Tôi tụng cho cô cũng như tụng cho thằng em
đã mất của tôi. Nó và cô đã lìa bỏ cuộc đời, vậy đừng nên quyến luyến làm gì
thêm khổ não.
… Xong thời kinh Phật, tôi nhờ cô Hai đem sẵn châu sa thần
sa hoà trộn với son tàu thành một thứ mực đỏ sẫm. Chắp tay kết ấn trì tụng
Quang Minh cam lộ chơn ngôn 21 biến, tôi dùng son tàu vẽ thành bảng phù ấn Tỳ
lô hoa tạng. Sau đó tiếp tục vẽ thêm các linh phù bổn môn…
Đợi đến 11 giờ đêm, tôi bắt đầu khai đàn tác pháp. Cô Hai
đứng ngoài hộ đàn. Không khí lúc này yên tĩnh lạ thường, không một tiếng động,
dù là tiếng gió. Tôi có cảm giác không gian như đặc quánh lại, tay chân bỗng
trở nên nặng nề. Tôi đốt phù và đọc chú gọi hồn. Trong cái yên lặng khác thường
của gian phòng tranh tối tranh sáng, tôi nghe tiếng đọc của mình lanh lảnh: “…ơi…ơi…
ma chi la …a…ma chi li… pon on ti pê sa…a… sắc sa quắt…ơi.. ơi…i…”Ngọn
đèn cầy bên phải bàn thờ bỗng chao đảo liên hồi như có gió thổi, không khí bổng
dưng lạnh một cách kỳ lạ. Hai lỗ tai tôi lùng bùng vang lên những tiếng vo vo
như có hàng vạn con ve đang cất tiếng kêu. Biết là hồn cô Châu đang hiện về,
theo thói quen tôi kết thủ ấn làm thành bị giáp kim cương hộ thân. Và rồi…
trong khoảng tranh tối tranh sáng giữa cửa buồng của cô Châu với bàn thờ vong,
tôi thấy một bóng người mờ mờ ảo ảo. Thoáng nghe tiếng cô Hai Xa Cảng “ư” lên
một rồi tắt lịm, dường như cô đang lấy tay bịt miệng mình lại. Bóng hình rõ
dần, rõ dần… đúng là hình ảnh tôi từng thấy trong mơ, cũng chiếc áo bà ba bông
màu tím hoa cà trong ánh sáng huyền ảo của ngọn đèn cầy, đã trở màu đen sẫm.
Cũng dáng vẻ thanh nhã với cái bụng to hơn bình thường một chút, cũng khuôn mặt
khả ái và những giọt nước mắt lăn dài trên má. Sau một thoáng xúc động, tôi vừa
giữ ấn vừa hỏi:
- Cô có phải là cô Châu không?
Thoáng thấy chiếc bóng gật đầu. Tôi lại hỏi tiếp:
- Cô có biết tự vẫn huỷ hoại mình và thai nhi là mang tội
với đất trời hay không ?
Vẫn là một cái gật đầu, nước mắt tiếp tục lăn dài trên
gương mặt cô.
Cố nén tiếng thở dài, tôi nói:
- Cô biết mang tội mà vẫn làm chắc chắn là có nỗi khổ tâm.
Nhưng cô có biết rằng ở lại thế gian phá quấy mọi người là chuốc thêm tội hay
không? Người sống có con đường của người sống, kẻ chết có nẻo riêng của kẻ
chết. Cô lẫn lộn âm dương, không lo an phận chờ ngày đứa trẻ ra đời thì chắc
chắn sớm muộn gì mộ của cô cũng bị lôi đả cho mà xem…
Vẫn là tiếng nức nở. Đến bây giờ tôi vẫn không hiểu tại
sao cô Châu không thể nói với tôi một lời nào. Tôi lại cất lời khuyên nhủ:
- Cô Châu à, tôi và cô gặp nhau là do duyên. Tôi chỉ mong
giải toả uất ức trong lòng cô để cô yên lòng ra đi. Tôi không đủ sức siêu độ
cho cô nhưng tôi sẽ nhờ hạnh nguyện ba đời chư Phật và oai linh Thầy Tổ để đưa
mẹ con cô về núi tu hành.
Cô Châu khẽ cúi đầu như ngẫm nghĩ. Thật lòng lúc bấy giờ
nếu cô Châu từ chối tôi cũng không biết phải xử trí cô ra sao nữa…May cho tôi,
cô Châu ngẩng lên nhìn tôi như tỏ vẻ ưng thuận. Rồi cô đưa tay chỉ về phía bàn
thờ Thiên nhãn và Cửu huyền như muốn nói gì đó. Tôi biết cô không dám đến gần
bàn thờ Thiên nhãn.
- Cô muốn tôi làm gì ở đó?
Vong linh của cô Châu vẫn chỉ về phía bàn thờ. Nhìn theo
tay chỉ của cô, hình như là trong tủ thờ có cái gì đó. Quay sang cô Hai Xa cảng
định nhờ cô giúp thì thấy cô chắp tay che kín mặt, miệng lầm thầm niệm liên tục
không dám mở mắt. Tôi đành đứng dậy đi về phía tủ thờ. Bây giờ nghĩ lại không
hiểu tại sao mình làm được chuyện đó. Vì muốn đến tủ thờ phải đi ngang qua chỗ
hồn ma cô Châu đang đứng, chỉ nghĩ đến thôi đã ớn lạnh rồi. Vậy mà lúc ấy tôi
bước thản nhiên, lòng không có chút gì lo sợ. Vẫn nắm thủ ấn trong tay áo, tôi
tiến đến tủ thờ. Bàn thờ gia tiên được làm bằng gỗ cẩm lai cẩn xà cừ. Hai bên
hông tủ là hai cánh cánh cửa nhỏ. Ở dưới quê thường cất chén bát, ly tách quý
giá vào bên trong tủ,mỗi khi có đám tiệc mới lấy ra xài một lần.
Tôi bước đến mở tủ ra, bên trong tối om. Với tay lấy ngọn
đèn dầu trên bàn thờ Cửu huyền xuống rọi vào, một mùi ẩm mốc xộc ra khiến tôi
muốn nhảy mũi. Bên trong là từng chồng chén đĩa được gói lại cẩn thận bằng giấy
báo, bụi bám đầy bên ngoài chứng tỏ lâu lắm không ai sử dụng. Không thấy gì,
tôi lại quay ra nhìn hồn ma của cô Châu. Cô vẫn đứng xa xa chỉ về phía tủ thờ
tôi đang mở, khuôn mặt mờ ảo của cô có vẻ khẩn thiết hơn. Tôi lại phải quay vào
soi đèn tìm tiếp. Lần này, tôi đưa tay giở từng chồng chén đĩa lên để tìm. Bất
chợt, tôi phát hiện một túi ni-lông được gói cẩn thận nhét ở dưới đống dĩa. Cầm
túi ni – lông ra, tôi xoay lại định hỏi cô Châu thì … cô biến mất tự lúc nào.
Quay trở lại đàn, tôi ngồi xếp bằng xuống và mở túi
ni-lông ra. Cái túi được gói cẩn thận mấy lớp. Gỡ đến lớp trong cùng, một xấp
thư và hai tấm ảnh rơi ra. Trong ảnh là cô Châu đang tươi cười bên cạnh một
thanh niên khá đẹp trai. Cả hai đang đứng bên một hòn giả sơn khá lớn. Tôi chợt
hiểu… Cô Châu ơi, chữ tình đối với cô lớn đến như vậy sao? Vì một người đàn ông
mà cô nỡ bỏ cả mạng sống của mình, cũng vì những món vật còn để lại này mà cô
không chịu ra đi… Thế gian trầm luân cũng bởi thế này … Thôi, tôi sẽ hoàn thành
tâm nguyện cho cô, mong cô an lòng mà về núi…
Tôi bắt đầu tác pháp, kết thủ ấn định tâm nhập vào Tỳ Lô
hoa tạng thế giới, tập trung trì niệm Quang Minh cam lộ chơn ngôn hồi hướng cho
vong hồn mẹ con cô Châu được thoát khỏi ma chướng oán nghiệp, giải toả oan kết
thế gian. Cuối cùng, tôi đốt linh phù bổn môn, nhờ oai linh thầy tổ đưa cô về
núi. Những vật thực cúng dường, phù ấn, vàng bạc … và cả những bức thư, tấm ảnh
của cô Châu đều được hoá cẩn thận. Thôi, sơn quy sơn, thổ quy thổ. Những gì của
quá khứ xin trả về cho cát bụi, chết đi rồi có mang theo được gì đâu. Còn chút
ân tình cũng nên trả lại thế gian, cầu chúc cô về núi tu hành tinh tấn…
Pháp sự hoàn mãn cũng là lúc chuông đồng hồ thong thả điểm
ba tiếng. Cô Hai và tôi lặng lẽ thu dọn và ra bến chờ đứa cháu cô Hai lấy
xuồng. Đến bây giờ bác Tư gái mới xuất hiện, tôi định nói với bác vài lời nhưng
lại thôi. Nói gì bây giờ đây, dù gì đi chăng nữa, cô Châu cũng đã đi rồi, tâm
nguyện của người chết và mong muốn của người sống đã được thoả mãn, có nói cũng
vô ích mà thôi. Tôi lặng lẽ ra bến ngồi chờ, chiếc xuồng máy đuôi tôm đang từ
từ trờ tới.
Chiếc xuồng nổ máy chạy về chợ Mộc Hoá. Trên bến, bác Tư
gái còn đứng nhìn theo. Bóng của bác mất hút trong màn đêm buổi sớm. Tôi ngồi ở
mũi xuồng, từng cơn gió lạnh trên sông thổi vào mát rượi. Một ngày mới lại bắt
đầu, một chuyến hành trình mới của tôi lại tiếp tục. Trên những nẻo đường giong
ruổi, tôi lại chất thêm vào hành trang ký ức của mình một kỉ niệm siêu linh…
ngẩng lên nhìn bầu trời chi chít những ngôi sao, tôi có cảm giác như linh hồn
của cô Châu đang là một trong những vì sao ấy…
Viết xong ngày 12 tháng 2 năm 2007
CHUYỆN KỂ VỀ XÓM TÔI .
Tôi được sinh ra và lớn lên ở một quận vùng ven thành phố
Sài Gòn. Căn nhà của gia đình tôi nằm sâu trong một con hẻm lớn. Muốn vào hẻm,
người ta phải đi qua một con đường dài hơn trăm mét, hai bên tre mọc san sát.
Ban ngày đi dưới bóng tre mát rượi , còn ban đêm… từ ngoài nhìn vào hẻm tối đen
như mực, trông con đường như một cái hang khổng lồ ẩn chứa bên trong biết bao
điều huyền bí. Bà con trong xóm đều là lao động nghèo, họ làm đủ nghề khác nhau
để sống. Vợ chồng chú Sáu Lễ làm nghề xe nhang, chú đi lính biệt động quân bị
đạp trúng mìn cóc tiêu hết một chân nên giải ngũ sớm, ở nhà cà nhắc nhồi bột
cho vợ con xe nhang bán; bà Hai Hụi chuyên đi gom hụi mở các dây hụi khác nhau,
nếu bà không đến nhà ai thì người ta cũng ra vào nhà bà nườm nượp. Vợ chồng chú
Năm Bừa đi làm phu lục lộ, vợ chồng chú Út Thoại ra đường bán xăng lậu, ông Tư
Cầu chạy xe ngựa … chỉ có gia đình ông Hai Cẩu là tương đối thảnh thơi. Con cái
lớn rồi đi làm ăn xa, hai ông bà có một mảnh đất sau nhà gần đồng mã để lên vài
ba liếp cải, mấy giàn bầu mướp, khổ qua…lai rai mỗi ngày cũng có chút đỉnh xài.
Lúc trước ông chạy xe lam nhưng từ khi khá giả, ông bán chiếc xe ở nhà trồng
trọt vớI bà Hai. Nhà ông bà cũng tương đối rộng rãi, lại có cái Tivi Nationnal
17inch nên luôn luôn là trung tâm điểm cho cả xóm. Lúc nhỏ, nhà tôi nghèo quá
không có tiền mua Tivi coi nên thỉnh thoảng cũng ghé nhà ông bà coi ké. Những
lúc Tivi không có chương trình hay, mọi người cứ theo thói quen tập trung lại
ngồi nói dóc chuyện thế sự. Ôi thôi hằm bà lằng đủ mọi chuyện trên đời…từ
chuyện mùa pháp nạn năm 1963 Hoà thượng Thích Quảng Đức tự thiêu cho đến chuyện
Tết Mậu Thân hai bên bắn nhau dữ dội, từ chuyện bà Ngô Đình Nhu với đạo Cao Đài
cho đến chuyện vợ chồng ông Thiệu với cái Long Đỉnh ở Thất Sơn… nhưng những
chuyện mà lũ trẻ chúng tôi mê nhất vẫn là những câu chuyện ma không có hồi kết
thúc…
Thiệt tình, bà con thích kể chuyện ma cũng có lí do. Khu
vực chúng tôi ở giáp ranh với ngoại thành, nơi đó có một cây da cổ thụ hơn trăm
tuổi, nhánh cây um tùm sà xuống le te sát đầu người. Từ lâu, chẳng có ai dám
chặt phá nhánh cây. Nghe nói trước đây ban quản lý hội đình có mướn người mé
nhánh cho quang đãng, nhưng thợ thầy mới chặt được một nhánh thì… ông thợ chính
bỗng buông cưa ôm bụng oằn oại, rồI co giật như mắc kinh phong. Mọi người hoảng
hốt chạy đến cứu chữa thì bỗng ông ngồi bật dậy, mắt trợn dọc đập đầu vào gốc
cây bôm bốp. Ông từ giữ đình phải thắp hương cầu khấn mãi mớI êm. Thấy vậy, mấy
ngườI thợ khác rủ nhau trốn biệt, không dám làm. Cây da ngày càng um tùm rậm
rạp.
Bao quanh khu vực cây da là những ao sen, ao rau muống
liên tiếp. Năm Mậu Thân, nghe nói rất nhiều người đã chết ở tại chỗ này. Con
đường ở đây nằm trên trục lộ chính trong những mũi tiến công vào Sài Gòn của
quân giải phóng. Quân Cộng hoà cũng đóng chốt dày đặc. Vô hình chung, khu vực
xóm tôi trở thành bãi chiến trường ác liệt. Xác của binh lính hai bên và của
những người dân chết oan chất đầy con đường, có xác chìm sâu trong những ao hồ
quanh đó… Bình yên trở lại, một cái miễu cô hồn được dựng ngay gốc cây da, ban
ngày khói hương nghi ngút cháy, ban đêm leo lét ánh đèn dầu.
Con đường tre vào xóm tôi cũng có nhiều người chết. Phía
sau nhà ông Hai Cẩu lại là cánh đồng mã mênh mông. Mã lớn, mã nhỏ, mã người
già, mã trẻ sơ sinh đủ loại. Mã nhà giàu thì có kim tỉnh bằng đá ong, đá mài.
Mã ông Bá Hộ Huy thì chạm đá đá hoa cương, lại xây nguyên căn nhà mồ tuyệt đẹp;
mã người nghèo thì sơ sài tấm bia và gò đất; mã trẻ con chết non thì vun lên
một nấm đất như cái thúng úp chẳng có mộ bia gì… Tối tối, có chuyện đi ngang
đồng mã, thấy vài đốm lửa ma trơi lập loè trên mấy ngôi mã mới, không ai có đủ
can đảm mà bước đi thong thả. Vì vậy, những câu chuyện ly kì rùng rợn về các
loài ma trở thành đề tài hấp dẫn cho biết bao người trong xóm của tôi, kể cả
người có đạo hay không có đạo, kể cả người tin lẫn kẻ không tin, kể cả người
lớn và trẻ nhỏ. Dĩ nhiên, trong đó có… tôi.
NHỮNG CÂU CHUYỆN KHÔNG CÓ
HỒI KẾT
1. CHUYỆN CỦA BÀ HAI CẨU
Tối thứ Tư, chương trình Tivi thường có cải lương Hồ Quảng
do đoàn Huỳnh Long hoặc Minh Tơ biểu diễn. Mấy người lớn tuổi trong xóm lục tục
kéo đến từ hồi chạng vạng. Hôm nay đoàn Minh Tơ biểu diễn vở Thập Tam Thái Bảo,
ai nấy náo nức chờ đợi.
Vậy mà ông nhà đèn lại nỡ phụ lòng người dân xóm nghèo.
Đúng 6g45, chương trình Tivi mới bắt đầu thì … phụp- đèn tắt tối thui. Lũ nhỏ
tụi tôi rên rỉ, người lớn thở dài, càu nhàu. Bà Hai Cẩu tức mình chửi bâng quơ:
- Bà nội cha nó, tiền điện hàng tháng mình đóng đủ. Vậy mà
nó cũng không cho mình coi ti-qui nữa!
Ông Hai kêu mấy đứa con thắp đèn dầu. Một vài người trong
xóm bỏ về. Còn lại hơn phân nửa nấn ná xem ông nhà đèn có đổi ý hay chăng. Tôi
ngồi trong góc bộ ván, nép mình thu lu. Phần vì bắt chước những người ở lại
nuôi chút hy vọng mong manh, phần vì cúp điện tối thui về nhà hay ở lạI cũng
vậy thôi, …
Bà Hai Nhà in lên tiếng trước ( xóm tôi có thói quen gọI
tên người kèm theo nghề nghiệp của họ hoặc của chồng hay vợ):
- Cúp điện trời này sao tôi thấy giống năm Mậu Thân quá!
Thím Ba Cam tiếp lời:
- Trời cũng tối đen như mực thế này. Súng nổ ầm ầm, tui
chỉ biết ẳm con Hà chui đại xuống gầm ván mà trốn.
Tôi nghĩ bâng quơ “ Thì ra con Hà cũng nằm dưới gầm ván
giống mình. Hèn chi nó học ngu quá xá…”
Tiếng bà Hai Cẩu cắt ngang suy nghĩ của tôi:
- Lúc đó vừa nghe tiếng súng, ông Hai ẳm thằng Út Mười,
tui ôm con Út Chín, mấy đứa lớn chạy lúp xúp theo sau. Đạn bắn đùng đùng trên
đầu, may không chết hết rồi.
Bà Tư Cầu hiền lành ít nói nhất, bây giờ cũng góp lời:
- Mô Phật, dạo đó chỗ mình chết nhiều quá!
- Ừ, chết nhiều thiệt – Bà Hai Cẩu trả lời ngay – Tui nghe
nói bên xóm thịt ngựa họ bị pháo dập chết gần chục người. Có người bị nhà sập
đè chết, có người bị mảnh pháo mà chết…Thiệt là tội nghiệp. Ở trong nhà mà cũng
bị mảnh pháo xẻ thịt, đúng là số.
Bà Tư nhỏ nhẻ:
- Bao lâu nay họ chuyên xả thịt ngựa, bây giờ họ lại bị xả
thịt. Nghĩ lại bắt rùng mình. Sau dạo đó tôi không dám đi buổi tối đến cả năm
trời. Cứ mỗi lần có công việc gì đi với ổng về, trời chạng vạng ngang qua cây
da là tôi sởn cả da gà.
- Chị sợ là do tâm lí thôi, chứ có bao giờ chị bị ma nhát
đâu – Cô Tư Gôm giờ này mới lên tiếng – ma nhát coi mặt người ta. Chỉ có mấy
người yếu bóng vía mới thấy ma thôi, còn nặng bóng vía, muốn thấy cũng không
làm sao mà thấy được. Trong xóm mình, có mấy người thấy ma đâu?
- Từ Mậu Thân đến giờ thì tui không thấy ma, chứ hồi mới
dìa đây ở tôi gặp một chuyện kinh khủng mà đến giờ nhắc lại tui còn nổi gai ốc
– Bà Hai Cẩu nói.
MọI người nhao nhao: “ Kể đi chị Hai, kể đi…”
Hớp một ngụm nước trà thông giọng, bà Hai cất giọng nhừa
nhựa:
“ Lúc đó tui nhớ là năm Thìn. Thằng Nhiệm Lớn được một tuổi
là tui vớI ổng dọn nhà từ ấp chiến lược về đây ở. Ngày đó ở đây có vợ chồng anh
Bảy Nhà Báo với vợ chồng Bảy Tình Liên gia trưởng. Tui vớI ổng che tạm cái chòi
lá ở ngay nền nhà này sống bằng nghề gói bánh tét đi bán dạo. Công việc cực thì
có cực đó, nhưng sống cũng đắp đổi.
Bữa đó tui đi giao bánh sớm, đi ngang qua chỗ miếu Ngũ
hành bây giờ, tui thấy một ông già ngồi dựa gốc cây, cầm cái quạt phe phẩy. Tui
vừa ngạc nhiên vừa tức cườI, trờI khuya sương xuống lạnh ngắt như vầy mà ngồi
quạt, ông già này chắc bị tâm thần; vừa nghĩ vừa đi, ai dè ngang qua chỗ ngồi
của ổng, ổng chợt kêu giật giọng: “ Có bánh tét nóng bán cho mấy đòn” . Không
biết tính sao, tui hạ gánh xuống cắt cho ổng hai đòn bánh mỡ. Loáng cái ổng làm
sạch bách, lại còn đòi thêm, cắt cho hai đòn nữa ổng cũng làm cái ào hết trơn.
Trong chốc lát, ổng ăn sạch nửa chục bánh tét. Ăn xong, ổng hỏi tiền, tui nói
giá xong, ổng biểu tui đi bán xong rồi quay lại lấy sau. Thấy trời còn tốI,
đường lại vắng, đôi co với ông này nghĩ không có lợi, tui tự nhủ thầm phen này
mất toi hết nửa chục bánh. Thế là tui đứng dậy gánh giỏ bánh đi luôn. Đi khoảng
chục bước, tui quay lại dòm… Trời đất ơi! mấy bà biết gì không?
Bà Hai Nhà in nhổ cổ trầu ra đất cái toẹt, vừa quẹt mép
vừa nói:
- Thì chị cứ kể luôn đi, có ái biết gì mà trả lờI!
- Tui thấy… tui thấy ông già cứ bự dần lên như cái bong
bóng thổi to, mới đầu ổng bằng cái bao gạo, sau đó bằng cái miễu nhỏ, rồi bằng
mái nhà, cuối cùng ổng cao bằng ngọn tre đầu hẻm luôn. Tui nói…tui quăng gánh
chạy bò càng, vừa chạy vừa la bài hãi, bỏ luôn buổI chợ…
Ông Hai Cẩu phụ hoạ:
- Bữa đó tui mới đánh xe ra, tính qua xóm bên chở mối đi
chợ, thấy bả chạy xấc bấc xang bang về nhà, mặt mày thì hớt hơ hớt hải, cắt
hổng còn chút máu, miệng thì cứ ngáp ngáp chỉ ra ngoài hướng chợ. Tui chẳng
hiểu ất giáp gì hết trọi…
- Rồi sau đó làm sao? – Cô Tư Gôm nóng ruột nói chen vào.
- Thì … tui một mình quay ra chỗ bả chỉ, thấy quang gánh
bả quăng bên đường, hai trạc bánh tét ngã bù lăn bù lóc… xung quanh đâu có ai
đâu. Đành phải bỏ mối quen ở xóm trên mà chở bả ra chợ giao bánh cho kịp.
Bà Tư Cầu trầm ngâm:
- Theo tui thì đây hổng phải ma đâu. Chắc là chư vị nào đó
muốn đùa cợt chút thôi mà.
- Tui cũng nghĩ vậy. Hổng hiểu sao từ ngày xảy ra chuyện
đó về sau, ở nhà làm ăn xuôi chèo mát mái. Bán buôn cũng khấm khá hơn. Có được
chút vốn, vợ chồng tui sang lại miếng đất của ông Năm Trước trồng tỉa chút đỉnh
cho đến bây giờ. Lâu lâu nhớ ổng, tui cũng cúng cho ổng mâm cơm với nửa chục
bánh tét - Bà Hai kết thúc câu chuyện. Mọi người trầm ngâm suy nghĩ. Có lẽ mọi
người đang ước mơ một ngày nào đó được gặp ông già quái dị này chăng?
Sau này, khi lớn lên, được học đạo vớI sư công, tôi có kể
lại câu chuyện này. Nghe xong, sư công tôi mỉm cườI nói: “Đó là ông chủ thổ. Ai
gặp được ông ấy là có duyên lắm. Trừ phi mình bỏ vùng đất này mà đi, chứ ở lại
nơi đó sẽ được phù hộ quanh năm”
CHUYỆN CỦA ÔNG TƯ CẦU
Bỗng, cô Tư Gôm quay sang bà Tư Cầu hỏI:
- Anh Tư mấy hôm nay đỡ chưa vậy chị?
- Mô Phật, ổng khoẻ lại rồi. Nhưng hơn tuần nay ổng không
chịu đánh xe ngựa nữa. Báo hạI mối mang ngườI ta la quá trời. Thằng Mỹ phải xin
nghỉ làm nửa buổI ở nhà đánh xe thay ổng…
Chuyện của ông Tư Cầu tôi cũng có nghe lỏm bỏm. Thấy ngườI
lớn họ nói vớI nhau về chuyện này có vẻ kín đáo lắm. Hình như là ông gặp ma thì
phải. Từ hôm đó đến nay gần một tháng, chẳng thấy ông ra ngồi dướI cây táo
trước sân nhậu khô sặc nữa. Tụi nhỏ bọn tôi cũng sờ sợ, không dám lảng vảng hái
táo nhà ông như trước đây.
Bà Hai Nhà in vừa bỏ miếng trầu vô miệng vừa trệu trạo
nói:
- Mấy bữa xóm trong cứ xì xào chuyện anh Tư mà tui hổng có
để ý lắm. Chỉ nghe nói ảnh bịnh rồI qua thăm vậy thôi. Nay ảnh khoẻ rồi, thôi
thì chị kể lạI chuyện của ảnh cho mọI ngườI rõ một chút được không!
- Mô Phật. Chuyện cũng chẳng có gì. Chỉ tại ổng sợ quá rồi
phát bịnh thôi. Chuyện như vầy…
3 giờ sáng, như thường lệ, ông Tư đánh xe ngựa lên Bình
Trị Đông chở mối hàng bông. Không khí trở lạnh hơn mọi khi, thỉnh thoảng vài
cơn gió thổi qua làm ông khẽ rùng mình. Thò tay vào túi lấy cuộn giấy quyến và
bọc thuốc rê, chuyển sợi cương ngựa xuống quấn vào ngón chân cái, ông cặm cụI
vấn một điếu thuốc rồi bật cái hộp quẹt zipo châm lửa hút. Một làn khói trắng
tuôn ra từ cái miệng móm xọm của ông rồi nhanh chóng lan toả vào không gian mù
mịt. Bập được vài hơi, ông Tư cảm thấy ấm hẳn. Thả bọc thuốc rê vào sàn xe, ông
dựa vào thành xe, mắt lim dim tận hưởng cái cảm giác lâng lâng của khói thuốc.
Với tay nắm nhẹ dây cương, ông cho con ngựa chạy nước kiệu…
Chợt, con ngựa của ông Tư hí nhỏ một tiếng rồi khựng lại.
Giật mình, ông Tư vội gò cương ngựa chồm dậy nhìn. Trong ánh sáng mơ hồ của ánh
trăng hạ tuần đã xế bóng và ánh đèn bão móc trên tay nắm của xe, ông Tư nhìn
thấy một cô nữ sinh mặc chiếc áo dài trắng đang đứng bên đường ngoắc xe.Ghì
cương cho con ngưạ đứng hẳn lạI, ông Tư cât tiếng hỏi:
- Làm cái gì mà đêm hôm khuya khoắt chận xe ngườI khác vậy
hả?
- Dạ, con đi học ở Sài Gòn. Hôm nay Chủ nhật về sớm thăm
nhà, bác làm ơn cho con quá giang một đoạn – Tiếng cô gái nhỏ nhẽ trả lời.
- Thăm nhà thì cũng đợi sáng rồi đi chứ?
- Dạ, con ở nhờ bà con trong xóm thịt ngựa. Tranh thủ đi
về sớm để chơi với nhà lâu chút. Chiều là con phải lên Sài Gòn lại rồi.
- Con gái con đứa, đêm hôm khuya khoắt, đi một mình ngoài
đường vắng như vầy, gặp ma có ngày…
Tiếng cô gái cườI:
- Dạ, con chỉ sợ ma cô thôi. Bác cho con quá giang lên chợ
Gò Cát được hôn bác?
- Tao chỉ chạy tới Bình Trị Đông hà…
- Dạ, vậy cũng được. Tới đó rồ con tính tiếp.
- Được rồ, lên sau xe đi. Thiệt tình, tuổI trẻ tụi bay sau
này không hiểu nổi. Khuya lắt khuya lơ, đứng bên đường lại còn mặc áo dài trắng
nữa, làm tao cứ tưởng…
Mãi lo nói, ông Tư không để ý con ngựa cứ dậm chân khịt
mũi,vẻ bồn chồn. Ông cũng không để ý chiếc xe ngựa chẳng hề trì nặng xuống phía
sau như lệ thường mỗi khi có ngườI leo lên. Ông lại tiếp tục giật cương cho con
ngựa rảo bước…
Chiếc xe chồm lên rồI lạI lóc cóc lăn trên con đường nhựa
nham nhở đá. Ông Tư cũng chẳng buồn quay lại phía sau, và cũng chẳng nghe cô
gái nói năng gì.
“ Con gái bây giờ thiệt lạ - Ông Tư nghĩ thầm- ngày xưa làm
gì có chuyện đi khuya về sớm một mình một chợ như thế chứ. Ngẫm lạI gia đình
nào không chịu dạy dỗ cho đàng hoàng, rủi có chuyện gì thì… Ôi mà chuyện của
ngườI ta hơi đâu mà nghĩ…”
Một cơn gió lạnh thổI qua, ông Tư bất giác rùng mình. “
PhảI làm một điếu nữa thôi” - Vừa nghĩ, ông vừa với tay ra sau lấy bọc thuốc
rê… Bỗng, tay ông chạm phảI một thứ gì đó dài dài, trơn muợt… Theo phản xạ tự
nhiên, ông rụt tay và quay phắt lại nhìn… Quỷ thần ơi! Không có cô gái nào cả.
Phía sau xe ngựa là một mái tóc dài đậm đà đậm đuột xả từ trên nóc xe vắt vẻo
qua thành xe trải một đống trên sàn xe ngựa. Trong ánh sáng tù mù của ngọn đèn
bão , mái tóc dài đung đưa theo nhịp lắc lư của chiếc xe ngựa càng trở nên rùng
rợn. Thần hồn nát thần tính, ông Tư Cầu vừa nhảy phóc xuống xe ngựa vừa hét: “
Cha mẹ ôi! Ma…ma…a…”
Con ngựa kéo xe cũng giật mình hí lên một tiếng rồi chồm
bốn vó chạy băng về phía trước. Tiếng ngựa hí làm ông Tư sực tỉnh hồn. Ông liền
đuổI theo chụp lấy càng xe ghì mạnh lạI, miệng hô to : “Họ…họ…ọ…”
Chiếc xe còn trớn lăn thêm hai vòng nữa rồi dừng hẳn. Ông
Tư giơ tay áo quẹt mồ hôi trán đẫm ướt tự bao giờ, thở hào hển. Trên xe trống
rỗng. Ngẩn ngơ một chút, ông Tư tiếp tục lên xe, ra roi cho cho ngựa lên đường.
Mặc dù tim còn đập thình thình, mệt thở hào hển, ông Tư
vẫn không quên làm một điếu thuốc rê. Quái, bọc thuốc rê đâu rồi? Có lẽ nó bị
rơi trong lúc xe chạy giằng xóc. Ông chép miệng như tiếc nuốI “ Thôi. Đến chợ
rồi xin ai đó một điếu hút bậy cũng được”.
Con đường độc đạo đến chợ Bình Trị Đông phải qua một dãy
ao sen và cánh đồng mã lạng. Xa hơn, phía bên trong là vành đai ấp chiến lược
những năm trước Mậu Thân. Rải rác mới có một căn nhà trơ trọI giữa khoảng không
bao la. Xe gần tới chợ, ông Tư nhìn lên bầu trời. Trăng gần xế. Hơn ba giờ rưỡi
rồi, chắc giờ này bạn hàng cũng đang gánh ra chợ. Chép miệng, ông Tư lại thèm
thuốc.
Có tiếng nói cười vang lên. Phía trước ông, ngay khoảng
trống vào gò mã lạng, hai người đang ngồi nói chuyện. “Chắc là dân đi soi ếch
ban đêm” – Ông Tư nghĩ thầm. Thấy một trong hai ngườI đang hút thuốc, ông Tư gò
cương ngựa cho xe dừng lại, nhảy xuống đi chậm rãi lại chỗ hai ngườI đang ngồi.
- Anh em có thuốc rê cho tui xin một điếu!
Hai ngườI vẫn ngồi thu lu như có vẻ lạnh. Tỏ thái độ tự
nhiên, ông Tư ngồI xuống bên cạnh, mở lờI xuề xoà:
- Mấy anh em đi soi ếch hả?
- Ừm…ừm…m - Người hút thuốc trả lời ậm ừ trong cổ họng.
- Đi đêm đi hôm nhiều khi gặp phải mấy thứ gì không hà -
vừa đón lấy bọc thuốc rê từ tay người đàn ông hút thuốc, ông Tư vừa nói - hồi
nãy tui bị một vố suýt chết vì sợ luôn.
- Vố gì mà sợ dữ vậy? – Hai người đàn ông có ve chú ý.
- Tui tin mấy chú mà gặp cũng sợ chết đứng như tui thôi –
tay vân vê cục thuốc, ông Tư trả lờI - hồI nãy chạy trên đường, tui gặp ma…
- Ma hả? nó ra làm sao vậy?
- Lúc đầu nó hiện thành đứa con gái mặc áo dài trắng, lát
nữa nó biến thành mái tóc dài thòn vắt vẻo trên thành xe ngựa thấy phát ớn.
- Vậy mái tóc nó dài cỡ nào?
Ông Tư bực mình:
- HỏI chi kỹ vậy? lúc đó sợ gần chết làm sao tui nhớ nổi
chứ.
- Vậy, nó có dài bằng cỡ này không? – nói xong hai ngườI
cùng đứng dậy. Người đàn ông hút thuốc chụp lấy đầu người kế bên vặn ngược ra
sau, rồi… nắm lấy đầu tóc của ông ta kéo ra. Nắm tóc cứ dài dần, dài dần theo
bàn tay kéo của ngườI kia.
Ông Tư há hốc mồm, thả rơi cục thuốc rê. Ngực ông nặng ì
như bị đá đè, hai lỗ tai kêu vo vo, thân hình cứng đơ như khúc củi. Trong giây
lát, mái tóc của người đàn ông kia bị kéo dài xoả thành một đống dưới đất.
Trong bầu trời khuya mờ mờ ảo ảo, hai con ngườI cùng với nắm tóc đổ dài khiến
cho ông Tư muốn ngất xỉu… Giây lâu sau, như kịp định thần, ông Tư chỏi hai chân
đạp đạp về phía trước lết ngườI lùi lại, rồI ông chụp dây cột cương con ngựa
kéo chạy bán sống bán chết, lần này ông không la được một tiếng nào…
Bà Tư Cầu thở dài kết thúc câu chuyện:
- Mô Phật. Buổi sáng hôm đó, mớI dọn cháo ra bán thì một
chú tiểu ở chùa Vạn Phước tìm đến hỏi. Nghe kể lại thì nhà chùa thức dậy tụng
kinh thời khuya, thấy ngoài cửa có chiếc xe ngựa mớI chạy ra dòm. Mấy thầy nhìn
thấy ông nhà tui nằm sấp bất động bên chiếc xe mới đưa vào trong cứu tỉnh. Phải
để ổng ở lại chùa cho mấy thầy dọng Đại Hồng chung ba ngày ổng mới tỉnh táo
hoàn toàn.
Sau này nhớ lại, tôi không biết lần gặp ma ấy của ông Tư
là tốt hay xấy nữa. BởI vì từ đó về sau, ông ăn chay, hay đi chùa. Con người
thay đổI hẳn. Lúc bà cố ( má của ông Tư ) bệnh gần mất, ông cùng ban hộ niệm
quây quần quanh giường niệm Phật cả tuần cho đến lúc bà đi xuôi luôn. Nghe mấy
ngườI tẩn liệm nói lúc đưa vào hòm, đỉnh đầu của bà vẫn còn nóng hổi .
NHỮNG CÂU CHUYỆN CỦA MÁ
Nhà tôi cũng làm nghề gói bánh tét. Tính đến tôi tổng cộng
là bốn đời. Cái gánh bánh tét ấy đã đưa gia đình tôi qua những chặng đường gian
khổ nhất, nuôi ba tôi vào trường Petrus Ký rồi đi du học nước ngoài (xin nói
thêm, ngày xưa được du học là hoàn toàn miễn phí, lạI còn được cấp học bổng
nữa). Cũng nhờ cái gánh bánh tét này mà chúng tôi được trưởng thành. Nhiệm vụ
của mấy anh em tôi là mỗi sáng thức dậy lúc 5 giờ để phụ cột bánh, xâu bánh lại
theo chục và chất bánh vào nồi để nấu. Trẻ con thức dậy sớm thường hay buồn
ngủ. Thằng em tôi ngồi cột bánh mà nó mổ như gà. Còn tôi, bà nội kêu châm nước
thêm vào thùng nấu bánh, tôi bưng luôn nguyên thùng trấu đổ vô nồi… báo hại bữa
đó bị mấy roi cháy đít..
Những lúc biết tụi tôi quá buồn ngủ, nội tôi thường kể
chuyện đời xưa. Có những câu chuyện nghe đi nghe lại mãi mà không biết chán:
chuyện Thạch Sanh chém Chằn, chuyện Chàng nhái Kiểng Tiên, chuyện Đứa con trời
đánh… Cho đến giờ, tôi vẫn nhớ in những câu thơ nội đọc:
“Đờn kêu trách bấy
Lý Thông
Nỡ quên hiền đệ đem lòng bạc phai
Đờn kêu ai bắn chim bay
ĐạI bàng gãy cánh chạy dài xuống hang
Đờn kêu tích tịch tình tang
Ai đem công chúa lên thang mà về…”
Có khi nội mệt, tôi xung phong kể chuyện cho nội nghe.
Quẩn quanh vẫn là các chuyện tiếu lâm, chuyện xe cán chó … mà tôi nhặt nhạnh
được trong những lúc lê la trong xóm. Đặc biệt, mấy câu chuyện ma tôi kể tạo
cảm hứng cho mọi người. Chỉ có cô Ba tôi bị lãng tai không nghe, còn lại đều im
lặng một cách tôn trọng làm tôi rất cao hứng. Các câu chuyện ma tôi kể làm má
tôi nhớ về những năm tháng còn ở với ngoại. Và đây, hồI ức và những câu chuyện
ma của má tôi…
Quê ngoại của tôi ở Củ Chi, quê hương của địa đạo, nơi
từng được khen tặng danh hiệu “Đất thép thành đồng”. Suốt hai trào Pháp Mỹ, gần
phân nửa số dân ở đây đã về với đất. Từ những ngườI dân thường vô tội cho đến
những người cầm súng… đạn bom không chừa một ai. Hồi chín năm (bà con có thói
quen gọi thời kì chống Pháp giai đoạn 1945 – 1954 như thế), vùng quê ngoại tôi
nằm giữa hai chiến tuyến - một bên là quân đội giáo phái Cao Đài thân Pháp và
một bên là Việt Minh. NgườI dân vì không nỡ rời bỏ mảnh đất tổ tiên, nên trở
thành nạn nhân của cả hai phía. Ban ngày, lính Cao Đài vào nhà yêu cầu gia đình
phải dán cờ đạo để được bảo hộ. Ban đêm, Việt Minh đến gõ cửa những căn nhà có
dán cờ, đưa chủ nhà đi biệt tích. Người dân luôn sống trong cảm giác thấp thỏm
lo âu, sợ hãi không biết khi nào sẽ tới mình…. Vậy là, bà con phải sống theo
“con nước”. Lính đến, cờ dán lên. Lính đi, cờ hạ xuống… Chỉ một giai đoạn chín
năm, không biết bao nhiêu người đã trở thành cô hồn dã quỉ theo cách như thế.
Má tôi kể, Ở phía trên làng, gần bìa rừng có một mội nước
rất ngọt (mội: hố nước tự nhiên, sâu chỉ khoảng tới ngực người lớn, nơi mạch
nước ngầm chảy vào, rất trong, không bao giờ cạn), bà con trong xóm thường lấy
nước này về xài. Những năm gần giải phóng, không hiểu vì sao đất lở lấp mội
nước gần hết, bà con liền ra tay nạo vét và xây ximăng bao quanh. Trong quá
trình làm, ngườI ta phát hiện ngay cạnh mộI nước là một cái hố chôn gần 300 cái
đầu lâu đủ cỡ, không biết ở đó tự bao giờ. Bà con đào lên rửa sạch từng cái rồI
làm lễ an táng chung trong một cái mã lớn gọi là mã đầu lâu. Từ đó không ai dám
uống nước ở mội nước này nữa.
Thời kỳ lính Mỹ tấn công Củ Chi mớI là giai đoạn ác liệt
nhất. Bà con bị gom hết vô ấp chiến lược. Chú SAM mở các trận càn vào khu địa
đạo, trong đó qui mô nhất là trận càn mang tên “ Bóc vỏ trái đất”. Bom , pháo,
đạn, chó Bẹc-giê, lính Sài Gòn, lính Mỹ…đổ xuống dày đặc bắn nhau suốt mấy
tháng liền… Chiến sự đi qua, để lại trên vùng quê của ngoại bao tang tóc. Những
xác chết không còn hình dạng, những khúc xương, mảnh thịt tung toé hoà lẫn vào
trong đất, trở thành phân bón cho cây. Có những căn hầm trú ẩn bị bom dội trúng
chỉ còn lại một hố sâu thẳm thẳm nghi ngút khói…
Thể xác hoà trong đất, anh linh của những ngườI đã chết
vẫn còn phảng phất trong sương khói…
Bên cạnh đám ruộng của ngoại tôi là ruộng của ông Năm
Giàu. Ngày đầu sau giải phóng, về nhận lại đất ruộng để cấy cày, ngườI nhà ông
Năm cày lên từng khúc xương đầu, xương ống, có cả những mảnh bi- đông nước, vải
dù… Lẽ ra họ phảI gom lại và an táng để an ủi vong linh, đằng này nhặt được
khúc xương nào họ lại quăng chài lên bờ khúc đó, lại còn chửi rủa lầm bầm. Hôm
ra ruộng ngoại tôi nhìn thấy bất nhẫn có lời nhắc nhở, thằng Hai Đực con ông
Năm còn lớn tiếng:
- Chết là hết rồi! Mắc nợ gì mà tụi tôi phải chôn cất cúng
bái chứ. Nếu bà dị đoan quá thì cứ rước về mà cúng.
Ngoại tôi chỉ biết thở dài, kêu cậu Năm tôi ra thu nhặt
đem chôn cất cẩn thận. Ba tháng sau, ruộng các nơi bị sâu rầy phá hại, thiệt hại
không nhỏ. Ruộng nhà ngoại cũng bị rầy cắn phá đôi chút. Chỉ có ruộng nhà ông
Năm Giàu là vẫn xanh mượt mà, không có bóng dáng một con rầy nào. Ai cũng cho
là lạ. Ngoại tôi lén thở dài: “Ông trời không có mắt…”. Mấy tháng sau nữa, lúa
chín vàng, mọi người bắt đầu thu hoạch. Kì lạ làm sao! ruộng lúa nhà ông Năm
vẫn cứ một màu xanh ấy từ lúc lúa người ta trổ đòng đòng, ngậm sữa rồi chắc
hạt, vàng hạt. Đến khi ai nấy thu hoạch xong xả rồi, xung quanh chỉ còn trơ gốc
rạ, đám ruộng ấy vẫn cứ xanh mượt như cỏ non, không có một bông lúa… Ngoại tôi
lạI nói: “ TrờI cao có mắt. Tại mình không chịu tin đó thôi”…
Trong cái xóm nhỏ dướI chân dốc Bến Mương, ngoại tôi được
bà con yêu thương vì biết sống tốt với mọi người. Ngoại hiền và đức độ, vậy mà
bà thường xuyên gặp ma mớI là chuyện lạ. Hồi đó, thỉnh thoảng má tôi lại thấy
ngoại đứng trước sân nói chuyện bâng quơ vớI ai đó. Khi ngoại vào nhà, má hỏi
thì ngoại trả lờI ậm ừ : “ Thì… mấy chú lính đó mà!”. Những lúc như vậy thì
ngay hôm sau, thế nào má cũng thấy ngoại nấu một nồi cơm gạo thơm, đánh ra, vò
thành nắm như trứng vịt rồi bày ra cái sàng tre có lót lá chuối, kèm theo dĩa
muối tiêu, mấy lát hột vịt, có khi là vài miếng khô cá trèn xé nhỏ. NgoạI bưng
ra ngoài đầu ngõ, đặt dước gốc cây to nhất và lặng lẽ thắp nhang, nói chuyện
một mình. Về sau, ngoại mớI kể lại cho má nghe rằng anh linh của các chiến sĩ
trận vong không tan đi, họ vẫn tìm về thăm ngoại như những ngày ngoại còn nấu
cơm nuôi quân. Những lúc nghe tay chân phát lạnh, ở trong nhà mà gió cuộn dướI
chân liên tục, bụng bồn chồn là biết các anh các chú đang về ở ngoài vườn. Ngoại
lập tức chạy ra ngay, y như rằng trước mặt ngoại là vô số bóng hình đứng ngồi
lố nhố ẩn ẩn hiện hiện sau mấy tán cây. Người thì tay chân mất hết, người thì
dập nát nửa đầu, người thì bị pháo cắt ngang nửa ngườI chỉ còn một phần thịt
dính lủng lẳng… có một điều là họ luôn tỏ vẻ mừng rỡ khi gặp ngoại. “ Lúc đầu
thì sợ thiệt - Ngoại nói – nhưng riết rồi cũng quen, thấy thương nhiều hơn sợ”.
Ước mong của ngoại là tìm một vị cao tăng về lập đàn tràng siêu độ cho các vong
linh ấy. Ngoại nói : “ Bây giờ tao còn đây, còn cúng cho mấy chú đó. Ngày nào
tao chết, biết ai lo cho họ…”. Ngoại tôi là một người bình thường không đi
chùa, không tụng kinh niệm Phật. Nhưng ngoạI sống bằng cả tấm lòng, cho dù
ngườI đó còn sống hay đã chết…
… Tôi nhớ những năm đầu sau
giải phóng, Sài Gòn bị một trận đói tàn khốc, phải ăn độn khoai sắn, bột mì,
lúa mì viện trợ. Má tôi lập tức di tản tôi về ngoại. Cuộc sống ở quê lam lũ mà
vui. Mỗi sáng 4 giờ, ngoại thức dậy gánh hai giỏ bánh bò và bánh da lợn lên chợ
bỏ mối. Có hôm, tôi nằng nặc đòi theo, ngoại lắc đầu mãi rồI cũng đồng ý. Con
đường ra chợ chỉ có 5 cây số nhưng tối đen như mực, phải đi qua một con dốc và
hai cánh rừng mới đến nơi. Con đường này ban ngày đạp xe đạp đi chở mía tôi đâu
thấy sao đâu. vậy mà lần đầu đi đêm vớI ngoạI mới cảm thấy đáng sợ. Ngoại gánh
gồng đi trước, tôi xách cái giỏ lót tót đi sau. Một tiếng chim ăn khuya đột
ngột cất lên cũng đủ làm tôi giật thót mình. Vừa đi, vừa niệm “Án ma ni bát di
hồng” liên hồi kì tận.
Bất chợt ngoạI dừng gánh làm tôi suýt đâm sầm vào giỏ sau.
- Chuyện gì vậy ngoại.
- Ờ, con chờ chút.
Vừa nói ngoạI vừa lấy ở giỏ trước ra một cái bánh bò và
cái bánh da lợn gói sẵn trong lá chuối. Ngoại tiến đến gò mối lớn cạnh bìa
rừng, để xuống chân gò và xoè diêm châm đỏ mấy cây nhang đã chuẩn bị sẵn. Mùi
khói nhang phảng phất trong không gian buổi sớm làm tôi tỉnh hẳn người… Xong
việc, bà cháu lạI lên đường. Thắc mắc mãi, cuối cùng ra đến chợ tôi cũng đánh
bạo hỏi đại:
- Sao ngoạI cúng ở đó vậy ngoại, chỗ đó thờ ông địa hả?
Ngoại khoát tay tỏ ý ngăn tôi lạI:
- Để lúc rảnh ngoại kể cho nghe.
Và ngoại đã thực hiện lời hứa. Lúc ấy, tụi tôi đã xay bột
làm bánh xong. Trong khi chờ mợ Năm tôi làm cơm, ngoại bắt đầu kể…
…Hồi mới giải phóng, con đường chưa tráng nhựa. Ngoại vẫn
như lệ thường gánh bánh ra chợ bán. Con đường đất sáng ánh trăng nên ngoại đi
khá dễ dàng. Bất chợt, trước mắt ngoạI tối mịt mù như có ai đó lấy vải đen che
kín tất cả. Quờ quạng trong màn đêm đen kịt, lúc đầu ngoại cũng hơi hoảng hốt.
Ngoại chợt nhớ đến câu chuyện của ông Năm Bảng… Ở đây có một thứ ma gọi là ma
giăng hàng. Nó thường nắm tay giăng hàng quanh người tạo thành ảo giác khiến
cho người bị nhát tốI tăm mặt mũi không thấy đường sá gì cả. Ông Năm đã từng bị
trêu ghẹo như thế nhiều lần, nhưng ông có cách giảI quyết hiệu quả vô cùng… Ông
lột trái quần ra, tròng lên đầu, rồi tháo hai chiếc guốc dông cầm tay, vừa đi
vừa gõ… cứ thế mà về được đến nhà.
Nhưng ngoại không làm như ông Năm được. Đứng thần người
trong khi trước mắt đen kịt một màu, lẳng lặng một lúc lâu ngoại mớI cất lời:
- Mấy ông mấy bà ơi! Toàn là dân nghèo mình với nhau không
hà. Sao nỡ lòng nào đi phá khuấy như thế. Cũng còn để cho bà con kiếm sống với
chứ. Nếu các vị có buồn phiền gì cũng xin hỷ xả cho nhẹ lòng, còn nếu có đói
thì tui sẽ làm mâm cơm cúng. Để cho tui ra chợ buôn bán với…
Thở than trong giây lát, trước mặt ngoại sáng dần lên.
Ngoại thấy mình đang đứng trước bìa rừng, cạnh một gò mối lớn. Đó chính là gò
mối mà tôi đã kể. Lúc ấy, bên cạnh gò mối là một người đang đứng. Trong ánh
sáng mờ mờ của bầu trời, ngoại thấy người đó mặc chiếc áo bà ba đen, cột cái
khăn rằn ở bụng – cách ăn mặc của những cán bộ hồi chín năm. Có một điều đáng sợ hơn là … bóng
ngườI đó không có đầu. Cái bóng cụt đầu sừng sững trong đêm làm ai thấy cũng
phảI thất kinh hồn vía. Ngoại tôi cũng
sợ điếng hồn, nhưng rồi ngoạI nhanh chóng lấy lại bình tĩnh. Những hình ảnh này đối với ngoại
không quá xa lạ, chỉ có điều hơi cảm thấy bất ngờ…
- Chú ơi! - ngoạI lên tiếng – Chú sống khôn thác thiêng,
anh linh của chú ở lạI đây hưởng khói hương phù hộ bà con. Đừng nhát ngườI ta
tội nghiệp.
Cái bóng cụt đầu khẽ lay động như muốn nói điều gì. Nhưng
rồI sau đó cái bóng mờ dần và biến mất hẳn. Lúc bấy giờ ngoạI cũng không hiểu
nguyện vọng của bóng ma. Nhưng đúng lờI hứa, mỗi ngày đi chợ ngoại đều ghé
ngang gò mốI thắp cây nhang, cúng hai cái bánh.
- Từ đó đến giờ còn thấy nữa hôn ngoạI? – Tôi sốt ruột
ngắt lời.
- Không. Kể từ dạo đó đến giờ không chỉ ngoại mà những
ngườI khác cũng không còn thấy nữa. Chắc là họ đi rồi…
Sau này nhớ lại, tôi không tin những anh linh đó đã đi
mất, chỉ có điều không hiện hình đấy thôi. Họ vẫn còn ở đó bên những cánh rừng,
nơi chôn vùi thân xác họ. Thể xác không nguyên vẹn thì linh hồn làm sao an
được. Giá mà có ai tìm được hài cốt của họ qui tập trở về hoặc có ngườI lập
trai đàn chẩn tế thì tốt biết bao…
CHUYỆN CỦA TÔI
Sinh ra và lớn lên ở một nơi đầy rẫy huyền thoại như cái xóm Chuồng Trâu, người ta không tin
ma, không sợ ma mới là chuyện lạ. Trước nhà tôi có trồng một cây dừa bị. Cây
dừa không ngọt nước bằng dừa xiêm nhưng trái to, có quanh năm. Ngọn dừa cao quá
nóc nhà. Lũ nhóc trong xóm thường kháo nhau cây dừa có ma. Chúng nó kể bà Tư
quán ở xóm trong có việc đi về khuya, ngang qua cây dừa, bà thấy có một quả cầu
lửa cháy nhờ nhờ như lửa ma trơi. Cầu lửa bay qua bay lại như múa, đáp từ tàu
dừa này qua tàu dừa khác rồI sau đó vót qua đậu trên ngọn tre của nhà chú Năm
Bừa đối diện. Sợ đến ríu chân, bà ngồi thụp xuống mà niệm Phật. Giây lâu mở mắt nhìn
lên, không thấy gì nữa bà mới bươn bả về
nhà…
Không biết câu chuyện có bao nhiêu phần trăm sự thật,
nhưng gia đình tôi ở đó lâu rồi không hề thấy có con ma nào hết trơn. Cho đến
năm 1979, ba tôi bán nhà cho bà Hai Nhà in và dọn nhà đi chỗ khác ở mớI có sự
lạ xảy ra.
Một buổI trưa tháng Hai, bầu trời đang nắng gắt. Mây đen
bỗng kéo tớI đầy trời. Ai nấy còn đương ngạc nhiên vì cơn mưa trái mùa thì …
RẦM… một tiếng nổ long trời lở đất, cây dừa bị trời đánh tét ngọn ra thành ba
miếng, khói bốc mù mịt. Cả xóm thất kinh hồn vía, bà Hai Hụi ở sát nhà tôi lật
đật lấy nhang ra đốt, sì sụp vái lạy. Nghe mọi ngườI kể, tôi cũng tức tốc trở về nhà cũ để
xem, cây dừa cháy đen cả ngọn. Phần trên bị tét loe ra trông thê thảm làm tôi
bần thần cả người. Hổng lẽ cây dừa này có quỷ thật. Nếu không thì làm sao bị
trời đánh chứ… cho đến giờ câu hỏi của
tôi vẫn chưa có lời giải đáp thích đáng. Ba tháng sau sự việc sét đánh, bà Hai
nhà in đột ngột phát bệnh. Căn bệnh kéo dài hai năm rồi bà Hai qua đời. Bác sĩ nói bà bị bệnh ung thư,
bà con trong xóm lại đồn đãi vì mua nhà
tôi nên bị xui xẻo…
Trở lại chuyện tôi, càng nghe kể nhiều chuyện ma thì tôi
lại càng … sợ ma kinh khủng. Đã vậy, tôi còn mê đọc truyện tranh “Con quỷ
truyền kiếp” nên óc tưởng tượng của tôi lạI càng phong phú hơn. Mỗi tối , sau khi cắp rỗ bánh qui, bánh ít đi bán
dạo về, tôi thường ngồi lì ngoài đầu hẻm. Nhìn vô con hẻm tối thui sâu hun hút
hai bên tre mọc uốn oằn xuống như hang động, tôi sợ teo cả người. Khi nào có
một người lớn đi vào, tôi mới thừa cơ hội đi theo. Những hôm xui xẻo chờ cả tiếng đồng
hồ không có ai vô, tôi đành liều vô đại. Cắp chặt rỗ bánh trong tay, lần từng
bước chậm chạp vào hẻm, tôi có cảm giác con hẻm giống như cái miệng của con quỷ
truyền kiếp khổng lồ đang há to nuốt tôi vào dần. Vừa khuất chỗ đèn sáng, tôi
cắm đầu chạy một mạch bất kể trời đất, vừa chạy vừa niệm Phật vang trời. Vô
được trong nhà rồi, tôi thở ào ào như trâu, tưởng chừng như mới vượt qua thử thách gì ghê gớm lắm.
Sau này lớn lên, tôi phải thật lòng cảm ơn cái xóm Chuồng
Trâu cùng mấy con ma trong những câu chuyện phiếm của bà con. Nhờ sợ ma mà tôi
tin Phật, tin vào đạo thuật - một niềm tin chắc chắn và dai dẳng không có gì
lay chuyển được.
Tôi nhớ, có dạo bà dì của tôi đi núi mang về ba bức tượng
Phật dùng để đeo. Tôi nằng nặc xin cho bằng được một bức rồi dùng chỉ đỏ xỏ qua đeo vào. Pho tượng nhỏ xíu
bằng nhựa đem lại cho tôi sự tự tin ghê gớm. Tôi đi ra đi vào con hẻm không phải
chạy ào ào nữa. Từng bước vững vàng, tay nắm chặt lấy tượng Phật, miệng không
ngừng niệm Phật. Sau này, coi tuồng Na Tra đại náo Thuỷ Cung, thấy mấy ông tiên cầm cây phất
trần “Hô biến, Hô thâu”, thích quá tôi liền kiếm dây nilon tước ra cột vào đầu
đũa làm thành cây phất trần mini làm pháp bảo hộ mạng. Từ đó, cây phất trần và
bức tượng nhỏ trở thành vật bất ly thân của tôi, lúc đi học, đi bán, đi ngủ cho
đến cả lúc đi… nhà xí (!).
GẶP MA (?)
1- CHIẾC TÀU KÌ LẠ
Ở dưới quê thường
có tục tống ôn tống quái. Năm nào trong vùng xảy ra dịch bệnh hoặc có nhiều
hiện tượng bất thường xảy ra thì y như rằng năm đó có thầy pháp về chạy đàn làm
lễ tống ôn tống quái. Đàn tống ôn thường tổ chức ở một khoảng đất rộng cạnh bờ
sông. Thầy pháp cùng các đệ tử bố đàn, trấn tứ phương rồi bắt đầu gõ trống khua chiêng thỉnh âm binh
thần tướng . Trong vùng cử ra mấy ông chức sắc lo chuyện thù tiếp lễ lộc cho
mấy thầy làm phép. Sau khi cúng xong, “cái nào ăn thì ăn, cái nào cúng thì
cúng”, đồ cúng riêng cho ôn thần được dọn hết để lên một chiếc tàu hoặc bè kết
bằng bẹ chuối . Thầy đi trước dẫn đường, bốn ngườI đàn ông khoẻ mạnh khiêng bè
theo sau bà con nối đuôi nhau tống tiễn
ra đến tận bờ sông. Trên bè chuốI chất đầy đủ nhang đèn bánh trái, giấy vàng
bạc, có cả con heo quay đỏ hoét, cờ xí cắt hình tam giác đủ màu sắc làm bằng
giấy cắm um tùm xung quanh. Sau khi thắp tuần hương cuốI cùng, thầy cho bè hạ
thuỷ. Theo con nước, chiếc bè chuối cứ thế mà xuôi dòng cho đến khi tan rã.
Bà con ở quê thấy bè tống ôn họ sợ như thấy ôn dịch vậy. Bè tắp vào nớI nào, họ báo
động cho nhau rồi chạy ra khấn khứa, lấy sào dài đẩy ra giữa dòng cho trôi đi
tiếp.
Chỉ có mấy đứa chăn trâu là không biết sợ là gì.
Tôi nghe ngườI lớn kể lại, mục đồng nào chăn trâu trên mười
hai năm, chẳng có ôn dịch nào dám vật cả. Thậm chí, bè chuốI đang trôi, chúng
lấy tay ngoắc bảo vô là chiếc bè như có người lái phảI tắp vào ngay. Sau khi lựa hết mấy món
có thể nhấm nháp được, chúng lại đẩy bè cho trôi tiếp. Không biết có phải vậy
không, nhưng rõ ràng trong thờI gian ở quê tôi thấy chỉ có ngườI lớn sợ ôn dịch
thôi, chứ bọn chăn trâu thì … chỉ sợ cây roi vóc của ông chủ ruộng. Hôm nào
thấy bè tống ôn trôi ngang là chúng mừng như mở hội. Lập tức trong nhóm có
thằng lội ra kéo bè vào. Thức ăn dành cho ôn binh thần tướng bị trẻ chăn trâu
ăn mất cả. Và có đứa nào bị bịnh hoạn gì đâu, vẫn mạnh cùi cụi giống như mấy
con trâu mà hằng ngày bọn chúng phảI chăn…
Một buổi chiều tháng Năm. Lúc đó tôi đã được mười hai tuổi. Sau khi xay xong mớ bột cho ngoạI
làm bánh, tôi lững thững lội bộ ra bờ sông chơi. Từ nhà ngoại, muốn ra sông phải
vượt qua một cái vườn mía và hai đám ruộng nhà ông Năm Giàu. Mặt trời đang xế
bóng, hắt lên mặt sông vô số tia sáng lấp loáng. Tôi lại gốc bần ghẻ cạnh bờ
sông ngồi ngắm cảnh. Cây bần chắc cũng bằng tuổI tôi, trên mình của nó đầy
những vết sẹo ngang dọc, dấu tích của chiến tranh, làm vỏ cây sần sùi như bị
ghẻ. Mỗi lúc rảnh rỗI tôi thường có thói quen ngắm cảnh như thế. Không hiểu
sao, mỗi lần ngồI bên một dòng sông trôi êm đềm, tôi thường cảm thấy rất dễ
chịu. Có khi ngồi ba bốn tiếng mà vẫn không thấy chán. Lần này cũng thế, dựa
lưng vào gốc bần, mắt ngó ra khoảng không gian lấp loáng nắng chiều, tôi nghêu
ngao một vài câu vọng cổ học lóm từ ông Sáu đờn cò trước ngõ. “Nhị ca ơi, chén
rượu đoan thề hơi men còn phảng phất đầu môi, trên bước hoạn đồ muôn nẻo ngược
xuôi, anh mang chí cả mong đạp thành phá luỹ. Nhưng trờI không lựa lòng ngườI
dũng sĩ nên giữa trận tiền anh mớI chịu sa cơ…” tiếng hát bập bõm câu được câu
mất ngân nga dài bên dòng nước…
Mặt trời đã khuất hẳn sau đám mây.
Những tia sáng bạc trên mặt sông biến mất. Chỉ còn lại màu
sáng dìu dịu của buổI hoàng hôn.
Tôi vẫn còn đang nghêu ngao thì… một chiếc tàu lớn bỗng từ
từ chạy tới. Nó chạy êm như ru, không
một tiếng động, mà hình như cũng chẳng tạo nên một gợn sóng nào.
Chiếc tàu làm tôi chú ý. Hình dáng của nó khá lạ, không
giống những chiếc ghe hàng chở muối hầm thường hay đậu ngoài Bến Cỏ. Thân tàu
làm bằng gỗ sơn xanh đọt chuối , mũi tàu bằng phẳng không nhọn đầu và có hai
mắt như các tàu khác. Trên tàu, hai cột buồm giương cao với chục cánh buồm lớn
nhỏ đầy màu sắc. Há hốc mồm vì kinh ngạc, tôi đứng dậy từ lúc nào không biết.
Thấy trên tàu thấp thoáng bóng ngườI qua lại. Tiếng ồn ào la hét văng vẳng như
xa như gần, hình như có cả tiếng dây xích khua vang…
Tôi đứng nhìn theo đến khi con tàu trôi đi thật xa…
Tiếng gọi của thằng Cu Tửng con cậu Năm vang lên đằng
ruộng mía làm tôi giật mình:
- Anh Dũng ơi, dìa ăn cơm!
Bần thần trong giây lát, tôi lóc cóc đi về. Trong đầu vẫn
ngơ ngẩn về hình ảnh con tàu kì dị ấy. Trong bữa cơm, tôi kể lại cho mọI ngườI
những điều mới thấy. Chẳng có ai tin tôi cả. Mợ Năm cườI tủm tỉm nói:
- Ở đoạn sông này, chỉ có ghe chở muối vớI mấy chiếc đò
ngang qua Bình Dương thôi, làm gì có chiếc tàu kì cục như vậy.
- Thiệt mà mợ - Tôi chống chế - con thấy rõ ràng mà, chiếc
tàu bự lắm, mấy người trên đó mặc đồ giống như hát bội vậy…
Mợ tôi phì cườI:
- Ừ, lúc nào thấy nữa nhớ kêu tao ra coi nhe. Để họ hát mà
không ai coi cũng uổng.
Mấy thằng em tôi thừa dịp đó cũng xúm vào chọc ghẹo nói
cười ầm ĩ. Ngoại phải gõ đũa bếp xuống bàn tụi nó mới chịu im.
Sau bữa cơm, ngoại chỉ nói với tôi một câu gọn lỏn:
- Lần sau, con nhớ đừng có ra sông một mình nữa.
Khi viết những dòng chữ này, trong đầu tôi vẫn hiện rõ mồn
một hình ảnh của con tàu xanh kì dị đó. Phải chăng tôi bị ảo giác, bị gặp ma?
Hay đó là những linh ảnh trong quá khứ? Ngoại tôi có biết điều gì không mà dặn
tôi như vậy? … câu trả lời này xin dành lại cho các bạn đang đọc câu chuyện của
tôi.
2 – VẦNG SÁNG TRONG ĐÊM:
Từ năm lên hai tuổI, khi má sinh đứa em kế thì tôi đã được
cho ngủ riêng. Bà nội thương tình đưa qua ngủ chung vớI nội để có hơi người,
tôi dễ ngủ hơn. Ngặt một điều nết ngủ của tôi không giống ai. Đầu hôm nằm ở góc
giường này, nửa đêm đã sang qua góc giường khác rồi. Có khi lăn dữ quá, tôi té
bịch xuống đất, giật mình tỉnh dậy rồi lồm cồm ôm gối bò lên giường… ngủ tiếp (
sau này, nết ngủ đứa con gái đầu của tôi cũng giống y như thế. Thiệt đúng là
“cha nào, con nấy”).
Nội tôi chịu đựng hết xiết nên thường sau khi tôi ngủ say,
bà rón rén dọn …giường qua chỗ khác. Đôi khi nửa đêm thức dậy, sờ xung quanh
trống trơn, tôi sợ muốn phát khóc. Nhưng rồi nhìn không gian tối đen như mực,
tôi quíu quá lăn sát vào vách tường, trùm mền lạI mà ngủ. Cứ như thế cho đến
năm tôi mườI hai tuổi…
Lần ấy tôi từ Củ Chi trở về sau một tháng “tị nạn” ở nhà
ngoại.
Lúc mớI về không ai nhận ra tôi cả. Tôi tròn như hột mít
và đen như con cá trê. Nội tôi khen: “ Cái thằng này mà nuôi đàng hoàng, nó còn
mau lớn nữa!”
Đêm đầu tiên về nhà, làm như lạ hơi nên khó ngủ. Hồi ở
ngoại, mấy anh em thường nằm lăn lóc trên bộ ván ngựa nhà trước, ở quê gió lộng
tứ bề mát rượi nên dễ ngủ. Bây giờ trở về nhà, mọI thứ chật chội, tôi có cảm
giác không thoải mái cho lắm.
Trằn trọc mãi rồI tôi cũng thiếp đi…
… Tôi thấy mình đang đi trên một con đường dài thăm thẳm,
tre mọc ngút ngàn hai bên tạo thành một khung cảnh âm u đáng sợ. Tôi còn đang
ngơ ngác thì một thằng bé gầy nhom cao khẳng khiu từ đâu chạy tớI, vừa chạy nó
vừa thở hồng hộc:
- Chạy… chạy… lẹ đi! Ma đó…
Câu nói chưa trọn vẹn thì nó đã vọt qua tôi.
Chưa kịp hiểu chuyện gì xảy ra, tôi đã cảm thấy hai chân
nặng như đeo đá, lòng bàn tay bàn chân lạnh ngắt. Một cảm giác ngột ngạt khó
thở tràn ngập xung quanh. Tôi tưởng chừng như không khí quanh mình đang sệt lạI
dần, hả miệng thật to để thở mà dường như chẳng có chút oxy nào lọt vào. Cả
ngườI dần dần cứng đờ, tôi không thể nhìn lại phía sau nhưng vẫn cảm giác có
một cái gì đó thật đáng sợ đang đến gần và chuẩn bị áp sát vào tôi. Hai tai tôi
ù đặc những tiếng ve. Ngột ngạt quá. Tôi muốn la lên mà sao miệng cứ ngáp ngáp
không phát ra được một âm thanh nào cả. Tôi bỏ chạy… nhưng dường như động tác
của tôi giống vớI ngườI biểu diễn kịch câm hơn. Chậm chạp, nặng nề và … dẫm
chân tại chỗ. Cả người tôi như đang lún dần, lún dần vào đầm lầy vớI những đám
bùn đặc sệt. Tôi ngộp thở quá! Tay chân cử động hết nổi rồi . Tôi chìm, chìm dần… không còn sức lực
vùng vẫy nữa …
Ngay trong lúc ấy, trong tai tôi bỗng vang lên tiếng thét
như sấm : “NIỆM PHẬT...” tiếng thét làm tôi tỉnh người. Như người chết đuốI vớ được mảnh
ván thuyền, tôi bắt đầu niệm “Nam mô A Di Đà Phật, Nam mô A Di Đà Phật…” Nói là
niệm vậy thôi chứ thật ra mọI thứ chỉ điễn ra trong óc. Tiếng niệm Phật lúc đầu
rời rạc, tán loạn, càng về sau càng liền lạc hơn và rõ ràng hơn. Tôi thấy rất
rõ không khí xung quanh tôi loãng dần, ngực nhẹ lại. Vừa niệm tôi vừa thở lấy
thở để như kẻ sắp chết chìm được lôi đầu lên khỏi mặt nước. Mừng rỡ, tôi niệm to lên. Và… trờI
đất ơi, tôi niệm thành tiếng được rồi. Tôi nghe rõ mồn một từng câu niệm của
mình cảm giác như tiếng niệm Phật đang phá vỡ bầu không gian ma quái đang bao
trùm quanh tôi.
Vèo một cái, mọi thứ bỗng trở lại bình thường. Tay chân nhẹ tâng, hơi thở điều
hoà. Cái cảm giác lạnh lẽo vào tiếng ve trong đầu tôi biến mất. Mừng rỡ, tôi co
giò chạy một mạch về phía trước, tre hai bên đường vùn vụt lao ngược lại đàng
sau…
Chạy mãi, chạy mãi… trước mắt tôi chợt sáng rỡ. Không còn
con đường hun hút bóng tre, mở ra trước mắt tôi là bầu không gian bao la. Con
đường tôi đang chạy dẫn đấn một bến đò. Trên đò đã có một số người ngồi . Cạnh chiếc đò, một ông già mặc chiếc áo
nâu, đội nón lá đang cầm cây sào dài như đang chuẩn bị qua sông. Thấy tôi, ông
khẽ mỉm cườI, chòm râu dài bạc trắng. Tôi chạy vội đến và …hụt chân té sấp…
Giật mình tỉnh dậy, tim tôi đập thình thịch, mồ hôi ướt
đẫm chiếc chiếu đang nằm. Xung quanh tốI đen như mực. Đầu óc vẫn còn bàng hoàng
về giấc mơ quái đản
Trong lúc còn chưa tỉnh hồn, một cảm giác kì lạ chợt dâng
lên trong lòng tôi. Không phảI là cảm giác lúc đang mơ, nhưng tôi không lý giải
được. Bất giác, đưa mắt nhìn ra ngoài, tôi chợt nhìn thấy… một quầng sáng màu
vàng cam hình o-van, cao bằng đầu người đang đứng yên bất động ở ngay cạnh giường. Ánh
sáng không rực rỡ lắm, nó nhàn nhạt như màu lửa và mờ mờ ảo ảo. Bàng hoàng, tôi
lăn sát vào cạnh giường trong, lưng áp vào tường và lấy mền trùm đầu kín mít.
Nhịp tim vừa mới ổn định bây giờ lại thúc liên hồi như trống giục. Cảm giác sợ lại ập đến, tôi nhắm tít hai mắt lại đến loé đom đóm…
Một lúc sau, len lén hé mền ra nhìn… tôi vẫn thấy vầng
sáng ở đó không di chuyển. Lần này thì sợ thiệt rồi ! Tôi quay mặt úp vào trong
vách, co quắp ngườI lại , phủ mền kín đầu và niệm bất kì câu niệm nào mà tôi
nhớ ra lúc đó. Niệm mãi, niệm mãi đến khi mệt mỏi tôi ngủ thiếp đi lúc nào
không biết.
Năm giờ sáng, đúng theo lệ, nộI đánh thức tôi dậy cột
bánh. Mở mắt ra, việc đầu tiên là tôi quan sát mọi thứ xung quanh. Vẫn bình
thường, vầng sáng lạ không biết đã biến từ lúc nào…
Câu chuyện này tôi giữ kín cho đến khi nhập đạo. Các bạn
có biết việc gì xảy ra trong ngày đầu tiên tôi bái sư không? Lúc sư phụ tôi
giớI thiệu sư huynh, tôi “ớ” lên một tiếng thật lớn làm mọI người giật mình. Vì
sao ư, vì sư huynh của tôi …chính là cái thằng nhỏ còm nhom mà tôi nhìn thấy
trong mơ hơn năm năm về trước…
Còn cái vầng sáng lạ lùng là gì? Nghe tôi kể lạI, sư huynh
nói rằng đó không phải là ma đâu. Có thể là một vị thiện thần nào đó có duyên
vớI tôi mà thôi…
ĐẾN VỚI ĐẠO
Nhà tôi ở vùng ven thành phố. Khu vực này nhà cửa thưa
thớt, cây cối um tùm, đi hai ba cây số mới đến được chợ. Cả một vùng rộng lớn
như thế chỉ có hai ngôi chùa cổ: Mai Sơn và Vạn Phước. Chùa Mai Sơn thì gần nhà
tôi hơn. Nhưng chùa Vạn Phước lại gần nhà bà dì tôi, vả lại bà là Phật tử của
chùa nên thường kêu nội tôi đi chùa này. Vậy là “chùa gần không lấy, lấy chùa
xa”, mỗi dịp rằm lễ nội tôi lại đưa cả nhà đi chùa Vạn Phước, sẵn dịp thăm bà
dì tôi luôn thể.
Nhà bà dì ở ngay sau lưng chùa cách nhau một hàng tre
mỏng. Chỉ cần vét mấy cành gai tre chui qua là tới sân sau của chùa. Lúc mọi
người đang cụ bị qua dự cúng Ngọ, tôi có đề nghị băng qua hàng tre. Nhưng bà dì
tôi nói: “Đi chùa phải đường đường chính chính mà vào cổng lớn, có phải chó
chuột gì đâu mà phải chui gốc tre chứ!”. Tôi thì tôi nghĩ khác, để vào cổng lớn
cả nhà phải đi một vòng hết con hẻm, ra đến đường cái rồi mới đi theo đường bờ
đi vào. Còn ở đây, chỉ vài bước đã đến chùa, tại sao lại phải thế, đàng nào
cũng đến chùa kia mà.
Nghĩ là làm. Đợi mọi người ra cửa, tôi giả vờ ra nhà sau
vệ sinh và … alê hấp, tôi vẹt gai tre chui qua cái vèo. Lúc chui ngang, tôi quá
vội vã để gai tre cào sướt cánh tay. Nhưng không sao, chuyện nhỏ. Ở trong xóm
tôi thường bị đám con ông Hai Cẩu đánh còn đau hơn nhiều. Cái mà tôi sướng nhất
là trong khi cả nhà còn lâu mới tới, tôi chạy lại gốc cây bồ đề cổ thụ ngồi
hóng gió… bóng cây thật lớn bao trùm cả khoảng sân sau mà một phần mái chùa. Lá
cây đón gió reo lên như những trận mưa rào rào đến là thích.
Chui được một lần, thế là tôi theo thói quen chui
tiếp.Riết rồi hàng tre chỗ tôi qua lại trống hẳn một khoảnh an toàn không còn
gai góc nữa. Về sau, cả nhà tôi (luôn bà dì ) cũng bắt chước đi qua hàng tre
cho tiện. Tôi sướng quá, lỗ mũi cứ phổng lên…
Lúc ấy tôi mới 9 tuổi. Chuyện đi chùa đối với tôi chẳng
khác gì đi Sở Thú. Ngồi dưới cội bồ đề hay ngồi dưới bóng cổ thụ trong Sở Thú
tôi vẫn thấy thích thú như nhau. Tôi chịu đi chùa vì ở chùa nấu nhiều món chay
rất ngon, đặc biệt là món kiểm, món canh hỗn hợp gồm bí rợ, khoai lang, mướp,
bột khoai, đậu phộng… nấu với nước cốt dừa. Tôi mê cái vị béo của nước cốt dừa
với vị bùi bùi của hột đậu phộng đến nổi …ăn liên tục 2 chén vẫn còn thèm. Xin
thêm chén thứ ba được hai muỗng là bụng căng cứng như mặt trống chầu. Len lén
nhìn quanh không ai để ý, tôi bỏ xuống bộ ván rộng và chạy ra ngoài. Một sư cô
làm công quả thấy vậy la lên: “Ăn bỏ mứa như vầy mai mốt xuống địa ngục ăn
giòi”. Câu nói ấy ám ảnh tôi suốt một thời gian dài, đến nổi sau này ăn cơm,
một hột rơi xuống bàn tôi cũng lượm lên mà nuốt sạch…
Ngày ấy, tôi đi chùa chỉ để lạy Phật và ăn đồ chay. Sau
này, được dẫn dắt đến chùa Mai Sơn, tôi mới bắt đầu tụng kinh niệm Phật.
Sau vụ nằm mơ thấy ác mộng khoảng một tháng, tình cờ tôi
ghé nhà ông Ba Hem chơi. Nhà ông ở ngay đầu xóm, sát hàng tre. Nói nhà cho oai
chứ chỉ là một căn chòi ọp ẹp lợp tôn. Nhìn trông giống cái kho chứa đồ hơn. Bà
con trong xóm ai cũng nể ông Ba nhưng không ai dám gần gũi tiếp xúc với ông.
Nghe con Hạnh nhà đối diện tôi nói, má nó bảo gặp ông nhiều xui xẻo hết biết
luôn. Ngày nào nói chuyện với ông là trong vòng ba ngày thế nào má nó cũng bị
bắt quả tang đang bán xăng lậu, bị tịch thu sạch láng. Nó còn kể, chú Hai Heo
nhà tuốt trong xóm trong nhờ ông Ba lại sửa cái cầu tiêu. Một tuần sau, chú Hai
và sòng tài xỉu do chú làm xâu bị cảnh sát ập vô bắt gọn, chú vô nằm khám hết
ba ngày…
Tôi thì không sợ chuyện đó. Ông Ba rất hiền, đối với ai
ông cũng nhỏ nhẹ, ai nhờ cái gì ông cũng giúp mà không hề than phiền hoặc vòi
vĩnh tiền công. Đặc biệt, ông rất quý tôi. Tôi cũng quý ông nữa. Tình bạn vong
niên giữa một ông già sáu mươi và đứa nhỏ mười hai hình thành tự lúc nào không
rõ…
… Lúc tôi ghé vào thì ông Ba đang ngồi trước chòi đọc một
quyển sách. Tôi là một con mọt sách, gặp sách truyện thì y như rằng tôi quên
hết đường về. Tôi tò vè lại hỏi:
- Ông Ba đọc truyện gì vậy?
Không trả lời, ông chậm rãi lật bìa sách lên cho tôi xem.
Quyển sách đã cũ, chữ ngoài bìa cũng mờ, tôi lẩm bẩm đọc : “ kinh Bát đại nhơn
giác”.
- Cuốn này hay hôn vậy ông Ba?
- Cuốn này coi không được đâu – Ông Ba chậm rãi trả lời.
- Sao ông coi được mà con không coi được?
- Tại cuốn này cháu coi hổng có hiểu. Để ông đưa cuốn khác
cho.
Vừa nói ông vừa đứng dậy bước vào nhà. Tôi thấy ông lúi
húi giở mấy quyển sách lên và chọn ra một quyển…
Đó cũng là quyển sách đầu tiên về đạo Phật mà tôi được đọc
- “Sự tích đức Phật Cồ Đàm”
Dần dần, “thư viện” nhà ông Ba được tôi viếng thăm hằng
ngày. Cứ mỗi buổi đi học về, vớt bánh xong là tôi chạy lại căn chòi của ông Ba,
lựa một quyển ưng ý và tót ra bụi tre ngồi đọc say sưa… Những quyển sách ấy dẫn
tôi vào đạo. Còn ông Ba thì … dẫn tôi vào chùa. Rằm tháng bảy năm đó, tôi chính
thức đi chùa và … tụng kinh. Ngay đêm đầu, tôi tụng lưu loát theo mọi người
phẩm “Hoá thành dụ” trong Diệu Pháp Liên hoa kinh. Các sư cô khen tôi có duyên
với Phật…
Tôi đi chùa hằng đêm, các bài kinh ngắn như Di Đà, Phổ Môn
tôi gần như nằm lòng. Cứ tưởng cuộc đời tôi êm đềm với chuông mõ, không ngờ,
một sự kiện xảy ra làm tôi rẽ sang một lối khác…
Một đêm nọ, sau khi tụng kinh ở chùa về…
… Tôi thả bộ về nhà trên con
đường lồi lõm những đá, miệng cứ nghêu ngao mấy câu thơ trong bài Sám hồng
trần. Bất chợt, tôi nhìn thấy ở căn nhà nho nhỏ khuất sau một hàng cây có vô số
người tụ tập. Tính tò mò của trẻ con trỗi dậy, chẳng chút đắn đo tôi rảo cảng
chạy ngay đến chỗ đông người ấy.
Mới đến sân nhà, tôi đã nghe tiếng la hét hự hẹ vang rân,
xen lẫn tiếng khóc la rên rỉ. Vốn nhỏ con, tôi nhanh chóng luồn qua khỏi đám
đông chen vào đến ngay cửa sổ nhìn vào.
Ở bên trong là một gian phòng nhỏ, phía trên có một kệ thờ
bằng tấm ván gác ngang, trên kệ thờ có một khuôn hình màu đỏ bên trong có tấm
vải vàng vẽ bùa phép ngoằn ngoèo. Ấn tượng của tôi về bảng bùa đó là hai con
rắn bự chảng uốn quanh co thành hình dáng chữ bùa, đâu rắn ngoẹo sang hai bên
trông phát ớn.
Trước bàn thờ là một người đàn bà trạc năm mươi dáng người
to béo đang ngồi xếp bằng. Tiếng la khóc vẳng ra chính là từ người đàn bà này.
Cứ nghe tiếng gào của bà ta như là heo bị chọc tiết. Hai vai bà ta có hai thanh
niên nắm giữ. Đứng trước mặt bà là người đàn ông to lớn, đầu trọc trạc khoảng
bốn lăm bốn sáu gì đó. Trông mặt ông ta thật ngầu, mắt trợn tròn, tay cầm chiếc
roi bện bằng rơm và tóc người trông gớm ghiếc.
Lúc tôi vừa chen vào cũng là lúc ông ta vút roi xuống đất
cạnh người phụ nữ chan chát. Kỳ lạ ở chỗ, mỗi lần roi chạm đất là người phụ nữ
lại la lên thảm thiết như vừa bị tra tấn. Tiếng la của bà làm tôi thót tim. Bất
giác tôi đưa tay lên nắm lấy xâu chuỗi bồ đề đang đeo trong cổ áo.
Lúc ấy, ông thầy (tôi đoán thế) quát lớn:
- Mày chịu xuất ra chưa?
- Dạ chịu… hư..hư… - Người đàn bà vừa khóc vừa trả lời.
- Chịu mà sau mày cứ ở trong xác hoài vậy hả?
- Dạ… hư..hư…thầy cho con thời gian.
- Cho thời gian để mày hốt hồn người ta hả? Bây giờ đi
không?
- Dạ… hư..hư…
- Mày cứng đầu quá! Chết nè… chết nè…
Nói câu nào, ông thầy vút từng nhát roi vào đất trước mặt
người phụ nữ. Thân thể bà ta nảy lên từng cái sau mỗi nhịp roi.
- Tha cho con thầy ơi!
- Tha cho mày rồI mày có tha cho cái xác này không?
- Hư…hư…
- Hư hư nè… tha nè… - ông thầy vụt roi tới tấp. Con bệnh
lại rú lên từng hồI ngắt quãng.
Quất gió một hồI, coi bộ thấm mệt, thầy quay sang anh
thanh niên đang ghì vai trái của người bệnh:
- Long, thỉnh Tổ.
Anh thanh niên vội bước đến trước bàn thờ chắp hai tay lên
trán. Thầy quơ nắm nhang cháy nghi ngút trên bàn vẽ liên tục mấy vòng lên lưng
anh ta miệng lâm râm đọc chú, đột ngột thầy thét lớn: “ Lai tốc giáng”.
Tiếng thét của thầy có ma lực lạ lùng. Anh thanh niên tên
Long run lên bần bật, thân thể chuyển động quay cuồng, xương cốt anh ta kêu
răng rắc tưởng chừng như đang gãy vụn trước một sức mạnh kinh hồn nào đó. Cơ
thể anh chuyển động nhanh dần trong khi miệng thở phì phò như trâu thở. Lúc này
ông thầy đứng ngoài cũng đang bắt ấn miệng đọc lâm râm, bất ngờ ông lạI thét
lên một tiếng nữa làm tôi giật bắn mình: “ Chuyển!”. Anh thanh niên cũng thét
lên một tiếng rồi vung quyền ầm ầm như vũ bão. Tay anh ta đập vào thân thể nghe
chan chát, lúc anh ta quay lại , tôi thấy đôi mắt anh nhắm nghiền. Vậy mà động
tác di chuyển ra đòn thật đáng sợ. Tôi nghĩ, chắc là vị thần nào đang nhập xác
anh ta rồi. Bất giác, tim tôi đập thình thịch, tay chân cũng quíu lại có cảm
tưởng như mình cũng đang bị nhập… Lúc bấy giờ anh thanh niên còn lại cũng đã
buông tay lùi sát vách, để con bệnh ngồi chơ vơ trước bàn thờ….
Đòn thế đánh mỗI lúc một nhanh, tiếng đập chan chát mỗI
lúc mỗi lớn, nghe mà lạnh xương sống. Con tà trong thể xác người phụ nữ co rúm
lại rên rỉ thảm não.
Năm phút trôi qua mà tôi có cảm giác như lâu lắm. Anh Long
chợt thu hồi quyền cước, quay lại bàn thờ lấy mấy miếng trầu têm sẵn bỏ vào
miệng nhai rau ráu. Trong khi ai nấy còn chưa hiểu việc gì, anh ta ngồi thụp
xuống trước người bệnh. Lúc này anh ta quay mặt ra cửa nên tôi nhìn thấy mồn
một từng chi tiết trên mặt anh ta. Một khuôn mặt thật đáng sợ, hai mắt gần như
lồi ra trắng dã không thấy tròng đen, mặt xanh lè như tàu lá chuối , trong ánh
sáng nhợt nhạt của bóng đèn néon lại càng khủng khiếp hơn.
Thế rồi. hai tay anh ta chụp lấy vai con tà đẩy ngửa ra,
chu miệng phun một cái phèo, cả ngườI con tà dính đầy xác trầu và vôi nhai nát.
Con tà hét lên một tiếng rồi gục xuống.
Anh thanh niên cũng gục theo. Ông thầy lập tức hô lớn:
- Hổ, mày đỡ thằng Long ngồi dậy.
Nói xong ông lấy chai rượu trắng trên bàn trút vào miệng,
quay sang phun cái xoà vào ngườI anh thanh niên tên Long. Anh ta cựa mình tỉnh
dậy ngơ ngác nhìn thầy.
- Đưa nó vô trong - Thầy ra lệnh.
Mệnh lệnh lập tức được thi hành. Cái xác ngườI phụ nữ vẫn
nằm im không nhúc nhích. Một tiếng nào đó vang lên từ đám đông:
- Chắc là con ma nó xuất ra rồI!
- Xuất hay không thử rồi biết liền chớ gì!
Trả lời xong, với tay cầm nắm nhang nghi ngút khói để trên
bàn, thầy vẽ những hình thù kì dị nào đó lên lưng người phụ nữ . Vẽ xong, thầy
đưa tất cả đầu nhang cháy đỏ vào trong miệng nhai trệu trạo. Mọi người xuýt
xoa, tôi cũng hết hồn. Chữa bệnh kiểu này dễ bị lột lưỡi chứ không phải chơi.
Trong khi tôi còn đang nghĩ ngợi lan man thì ông thầy đã phun thẳng đống hỗn
hợp bột nhang, than tro lẫn… nước miếng của thầy vào cái xác đang nằm bất động.
Thật kinh khủng. Cái xác im lìm như chết ấy nảy ngược lên
rồi giẫy tê tê như điện giật. Miệng gào thét “Ôi, nóng quá, nóng quá!”
Ông thầy ngồi xuống theo tư thế chân chống chân quỳ, tay
trái thộp lấy cổ con tà, tay phải co
ngón giữa lại thành ấn và lôi một cái. Thân xác to béo của người phụ nữ bật
phắt dậy như cái máy. Trong thể xác ngườI đàn bà, con tà cố gắng giãy giụa.
Nhưng lúc ấy cánh tay ông thầy như cái kềm sắt nắm cứng lấy cổ của nó không
buông. Trong giây lát, cái xác lại rủ xuống mềm nhũn, miệng vẫn còn lảm nhảm:
- Đồ độc ác, làm thầy mà không có đức, chỉ biết đánh đập,
không phục hư…hư…, không phục…hư…hư…
- MÀY KHÔNG PHỤC THÂY KỆ MÀY. BÂY GIỜ TAO HỎI, CÓ CHỊU
XUẤT RA KHÔNG? – Ông thầy hét lên dữ dội , tôi lại giật bắn người.
Con tà im lặng không trả lời , đầu nó cúi rũ xuống như
chiếc lá héo.
- Được, mày muốn đau khổ, tao cho mày đau khổ.
Nói xong thầy đứng dậy bước đến bàn thờ lấy mấy tờ giấy
vàng xếp lại. Trong chốc lát, bằng vài nhát kéo, tờ giấy đã biến thành những
hình nhân đứng giang tay. Với tay cầm cây bút, thầy nghuệch ngoạc những vòng
xoắn, nút thắt gì đó trên trán, bụng và tay chân của hình nhân.
Lúc này, do quá hiếu kì, tôi đã rời khỏi cửa sổ và bước vào trong cửa phòng từ lúc nào.
Thật ra, trước đó ông thầy có đuổi mấy
lần nhưng hầu như chẳng ai chịu đi cả. Mọi ngườI cứ lùi ra một chút rồI lạI lấn
vào. Còn tôi, ỷ mình có xâu chuỗi bồ đề,
tôi tự tin vào luôn trong phòng.
Viết xong mấy chữ bùa, thầy cầm nhang khoán vào, vừa khoán
vừa đọc lầm thầm những câu gì không nghe rõ. Khoán bùa xong, ngó lên thấy tôi
đang đứng xớ rớ gần đó, thầy nổi giận
điểm mặt tôi quát lớn, e rằng thầy quát tôi còn lớn hơn quát con tà hồi nãy:
- THẰNG NHỎ KIA, ĐI RA CHƯA?
Không đợI phản ứng của tôi, thầy hùng hổ bước lại. Hoảng
quá, tôi quay ra cửa định chuồn. Nhưng… muộn mất rồi. Ông thầy bước hai bước đã
đến chỗ tôi, và… một cái đá đít như trờI giáng làm tôi muốn chúi nhũi vào đám
đông bên ngoài. Vậy là tôi đành ngậm ngùi …quay lại cửa sổ coi tiếp.
Lập xong chiến công… đá đít, thầy quay lạI tiếp tục xử con
tà. Những hình nhân giấy có vẽ bùa ấy được đốt thành tro, bỏ vào ly nước. Ông
thầy bưng đến chỗ con tà bắt nó phải uống. Nhìn ly nước đen thui đặc khềnh
những xác giấy đốt, tôi cảm thấy lo sợ thay cho con tà ấy. Uống hết ly đó chắc
nó chết quá!
Chắc con tà cũng nghĩ như tôi nên nó mím miệng cúi đầu
không uống. Thầy tức mình kêu lớn:
- Hổ!
Anh thanh niên dìu bạn lúc nãy chạy đến hỗ trợ thầy giữ
chặt hai vai ngườI bệnh, còn ông thầy một tay bóp miệng tay kia tọng thẳng ly
nước đen thui những giấy vừa đốt vào cái mồm đang há to ấy. Con tà giãy giụa,
ho sặc sụa, phun phèo phèo những tàn tro xác giấy còn vướng trong miệng ra. Vừa
phun nó vừa gào lên:
- Độc ác, độc ác!
Chưa nói hết câu, thể xác của nó ngã vật ra sau, oằn oạI
như con rắn bị đánh dập đầu. Tiếp theo, nó lăn lộn cấu xé thân thể, rồi đập
bình bịch vào người. Tưởng chừng như trong cơ thể nó đang có ông Tề Thiên nào
đó quậy phá. Miệng con tà lảm nhảm:
- Tha cho con thầy ơi! Tha cho con thầy ơi!…
Trong lúc con tà đang oằn oại , ông thầy lại bàn thờ thắp thêm nhang mới. Đoạn, ông cầm cây
roi bện rơm và tóc lên, uốn cong lạI thành hình dáng chữ bùa…
Còn đang hồI hộp chờ đợI sự việc tiếp theo thì… lỗ tai tôi
bị béo một cái đau điếng. Tức mình, tôi quay sang định chửi thì thấy khuôn mặt
tức giận của… má tôi. Thì ra mê coi chữa tà mà tôi quên cả giờ giấc. Hơn mười
giờ tốI thấy tôi chưa về, má tôi hốt hoảng chạy lên chùa tìm kiếm. Nghe các sư
cô nói vãn kinh đã lâu rồi, má lại càng lo lắng. ThờI may, trong lúc đi tìm,
nhìn thấy có đám đông, má định vào hỏi thăm và… thấy tôi đang say sưa ôm dính
cửa sổ coi thầy làm phép…
TốI hôm đó, tôi bị một trận đòn quắn đít.
… Từ dạo đó, tôi bắt đầu chú
ý nhiều đến huyền thuật, thần thông. Kho sách nhà ông Ba bị tôi bới tung cả
lên. Tìm được những câu chuyện nào trong kinh có liên quan đến thần thông là
tôi vồ lấy đọc say sưa, đọc nghiến ngấu. Trời ơi, đức Phật Tổ thần thông vô
lượng luôn! Chỉ bước đi chậm rãi mà Vô Não khoẻ mạnh kia chạy theo hoài không
bắt kịp, Phật hiển thị thần thông cùng 2500 vị alahán bay qua sông, rồi Phật
hàng phục voi dữ, thắng cả Lục sư ngoại đạo nữa. Bồ tát Mục Kiền Liên chỉ là đệ
tử của Phật thôi mà thần thông cũng ghê gớm vô cùng. Ngài hàng phục được rồng
thần, vào địa ngục tìm mẹ, lại còn dùng thần thông bay đi tìm thế giới Cực Lạc
của Phật A Di Đà nữa…
Tôi rất thích đọc kinh Pháp Hoa, đặc biệt là phẩm Đà La
ni. Những câu chú bằng tiếng Phạn đối với tôi là cả một thế giới kì bí cần phải
khám phá. Để có thể đọc nhiều lần, tôi năn nỉ ông Ba Hem mượn hẳn cho tôi quyển
kinh đem về nhà. Dĩ nhiên điều này làm cho ông Ba rất vui lòng. Có quyển kinh
trong tay, tôi có cảm giác mình đang sở hữu cả một thế giới ma thuật đầy bí ẩn.
Tôi tụng đọc các bài thần chú cúng dường của các vị Thiên vương, La sát … một
cách say sưa. Miệng tôi lúc nào cũng ê a những âm thanh kì bí không ai hiểu cả,
và tôi rất lấy làm thú vị vì điều đó.
Những lúc rảnh, tôi tẩn mẩn vẽ hình, cắt giấy làm thành
các hình nhân giống như ông thầy bùa chữa tà từng cắt. Tôi cũng cắm cúi vẽ
những khoanh tròn, những dấu móc vào trong miếng hình nhân giấy ấy giống như
ông ta từng vẽ. Dĩ nhiên là theo trí nhớ mang máng của tôi. Thậm chí những lúc
quá cao hứng, tôi còn cắt ngón tay lấy máu in vào trán hình nhân. Tôi cũng
không giải thích được vì sao mình lại làm như vậy. Bởi vì chi tiết này không hề
có trong buổi chữa tà trước đây, cũng chưa bao giờ tôi thấy ở đâu cả. Sau này,
khi đã lớn và hiểu biết nhiều, tôi mới nhận ra rằng tất cả những gì tôi làm lúc
ấy đều có liên quan đến tiền kiếp của mình. Chắc chắn rằng, trong một thời quá
khứ nào đó, tôi đã từng làm thầy hoặc đã từng trải qua cuộc sống trong thế giới
huyền môn.
Mà nào chi có mình tôi. Sư huynh của tôi cũng vậy, từ năm
lên chín, mỗi khi căm tức ai đó, ông ta thường tìm đất sét nắn thành hình tượng
vớI đủ đầu mình tay chân, sau đó rình kiếm cho bằng được tóc của người mà mình
ghét cắm vào trong cục đất và đem lên nóc nhà phơi nắng. Có ai chỉ bảo ông ta
đâu? Từ trong vô thức, có một cái gì đó mách bảo mình làm như thế.
Thông thường, sau khi vẽ rồng vẽ rắn ngoằn ngoèo trên
miếng giấy, tôi đem chúng ra ngoài sau đốt bỏ vì sợ nội tôi thấy. Nhưng, một
bữa nọ, sau khi đóng dấu son bằng cách chấm một giọt máu vào trán hình nhân,
tôi định đem ra đốt như mọi khi thì trời đổ mưa ào ào. Sực nhớ đống quần áo
đang phơi ngoài sân, tôi chỉ kịp bỏ hình nhân vào hộc tủ và chạy vội ra lấy
đồ...
Đó là hình nhân duy nhất còn sót lại sau khi tôi vẽ.
Chính nó đã mở đầu cho hàng loạt những sự kiện kì bí xảy
ra trong nhà và cũng là nhịp cầu đưa tôi đến vớI thế giới huyền môn…
… Bốn giờ sáng hôm đó, như
thường lệ bà nội tôi thức dậy chuẩn bị gói bánh tét. Vừa mới loay hoay bày trạt
lá chuối đã xếp sẵn chiều hôm qua, nội chợt thoáng thấy bóng một đứa nhỏ chạy
vụt ngang và biến mất ở gian giữa. Giật mình khẽ dụi mắt, nội tôi tự nhủ thầm
“Chắc là lớn tuổi rồi hoa mắt”, và bà bỏ qua không quan tâm để ý.
Nhưng rồi đến lượt cô tôi cũng thấy thì sự việc không còn
bình thường. Lúc cô tôi ra sàn nước để gút nếp trộn đậu đen, một bóng đen từ
nhà giữa lại xẹt qua ngang mặt, thoắt cái nó lại biến mất. Sự việc tái đi tái
lại hai ba lần đến mức cô phải thất thanh la hoảng. Má và nội tôi chạy vội ra
xem thì không thấy ai, cẩn thận mở đèn kiểm tra thì mấy anh em tôi vẫn còn trùm
mền ngủ kỹ. Bà nội lo lắm nhưng không dám nói ra.
Ngay hôm đó, bà đi chợ mua dĩa tam xên và bông trái về bày
biện cúng lễ. Mấy anh em tôi vẫn cứ vô tư chẳng biết chuyện gì, chỉ cảm thấy
vui mừng vì bữa cơm trưa hôm đó có được món thịt thay cho nồi nước mắm kho quẹt
thường ngày…
Sự việc trở nên trầm trọng hơn khi đến má tôi cũng nhìn
thấy. Trong lúc bưng thau đậu xanh tán nhuyễn từ bếp vào để vò làm nhân bánh
tét, má tôi thấy một bóng đen nhỏ người đang leo lên tuột xuống ở cây cột cái
nhà giữa. Tưởng hoa mắt, má đứng sững người xem kỹ. Bóng đen vẫn cứ tuột xuống
leo lên như ở chỗ không người. Bỏ thau đậu xanh xuống ghế, má bước nhanh lại,
bóng đen lập tức biến mất không để lộ chút tông tích nào…
Buổi sáng, anh em em tụi tôi ngồi cột bánh, nhìn thấy
người lớn trong nhà ai nấy đăm chiêu. Không khí có vẻ nặng nề đến nổi không đứa
nào dám đòi nội kể chuyện như mọi bữa. Tôi nghe má tôi hỏi nội:
- Giờ tính sao má?
- Thì rước thầy chứ sao? - Nội tôi trả lời dấm dẳng.
Ba hôm sau, đi học về đến nơi, tôi thấy nhà tôi đông như
đám giỗ. Có điều ai nấy mặc áo vàng áo lam dài lụng thụng. Bà nội tôi thỉnh các
sư cô ở chùa Vạn Phước xuống gần chục vị, cộng thêm cả chục Phật tử đi theo hộ
niệm. Bà dì tôi đang lăng xăng chỉ bảo má và cô tôi bày biện. Giữa nhà treo bức
hình Quan Âm to bằng nửa bức sơn thuỷ trên bàn thờ. Nhang đèn bông trái đã bày
biện đâu vào đó tinh tươm. Khoảng mười phút sau các sư cô và Phật tử đứng hai
bên bàn thờ Phật và bắt đầu vào thời kinh Phổ Môn. Nội và cả nhà quỳ phía trước
bàn thờ. Nhìn cái cảnh tụng kinh này, tự nhiên tôi nhớ đến ngày bà cố tôi mất.
Cũng sư tăng Phật tử hai bên, cũng cả nhà quỳ ở giữa, có khác chăng là không có
cái khăn chít đầu thôi…
“… Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp
Bá thiên vạn kiếp nan tao ngộ
Ngã kim kiến văn đắc thọ trì
Nguyện giải Như Lai chơn thiệt nghĩa…”
Tiếng tụng niệm kéo tư tưởng vẩn vơ của tôi trở về thực
tại. Tôi cũng chắp tay hộ niệm theo tiếng chuông mõ đổ nhịp đều đều…
Ngày hôm đó, mọi người ở lại dùng bữa cơm chay với gia
đình. Cả nhà tôi cũng ăn chay. Đến lúc này tôi mới biết má tôi nấu đồ chay ngon
chẳng khác gì đồ mặn.
Đêm đó và cả hai đêm sau, nhà tôi bình yên. Bà nội và má
tôi thở phào nhẹ nhõm. Vậy là xong…
Nhưng không. Đêm thứ tư, cái bóng đen ấy lại xuất hiện. Nó
chẳng khuấy phá gì nhưng cứ chạy qua chạy lại trong nhà như trêu ghẹo, có khi
nó cứ tuột lên tuột xuống ở cột cái ngôi nhà. Người lớn trong nhà ai cũng thấy.
Rồi lần lần đến lượt nhỏ em tôi …
Đên đó, con An em kế tôi nửa đêm mắc đi tè. Nó lần dò
thành giường ra mở đèn nhà sau. Ánh sáng đèn vừa mới bật, nó thoáng thấy bóng
đen chạy vù qua mặt nó như làn gió rồi biến mất. Thế là nó hét lên như bò rống
làm cả nhà kinh hoàng thức giấc, cái quần nó mặc ướt sũng, chỗ nó đứng đọng
thành một vũng nước to, khai ngấy.
Tức mình ở chỗ, ai cũng nói thấy nhưng tôi thì tiệt nhiên
không. Nhiều đêm tôi cũng thức dậy đi “giải toả ức chế trong lòng” mà có thấy
gì đâu? Hay là tại tôi thường đi chùa tụng kinh nên ma nó sợ nhỉ?
Ba ngày sau, nhà tôi có một vị khách.
Sự xuất hiện của người khách này là một điều kì lạ…
Bà mợ của tôi thường hành hương và công quả ở núi Tượng
nên có quen biết một vị sư tu ở am nhỏ gần trên đảnh. Một hôm đi ra suối xách
nước, bà gặp vị sư đang ngồi bên gộp đá. Bà cúi chào rồi tiếp tục làm việc của
mình. Bất chợt, ông sư ấy ngoắc bà lại bảo: “ Vài hôm cô có về Sài Gòn, nếu
trong nhà bà con có chuyện gì lạ, cô cứ lại chỗ đệ tử của tôi bên cầu chữ Y nhờ
nó giúp, địa chỉ là……. Nếu nó từ chối thì cô cứ bảo do tôi nhắn miệng bảo nó
phải làm…”
Quả thật hai hôm sau bà mợ tôi về lại Sài Gòn. Vì nhà tôi
gần Xa cảng miền Tây cho nên bà mợ tôi ghé ngang thăm nội. Không ngờ nghe được
câu chuyện xảy ra trong nhà, bà liên tưởng ngay đến lời dạy của ông sư trên
núi., lập tức bà quày quả sang cầu chữ Y theo địa chỉ sư ông để lại…
Vị khách tôi gặp chính là đệ tử của ông sư trên núi Tượng.
Và cũng là… sư phụ của tôi sau này.
.. Vị khách đang ngồi nói
chuyện với nội tôi tuổi trạc ngoài bốn mươi, ông mặc cái áo bà ba màu dà, dáng
vẻ điềm đạm, nói năng nhỏ nhẹ. Mới nhìn ông, tôi đã sanh trong lòng một cảm
giác rất đặc biệt, dường như là quen thuộc lắm. Nhưng đây là lần đầu tiên tôi
mới biết mặt ông, cái cảm giác ấy từ đâu mà có tôi cũng chẳng rõ. So với ông
thầy Hai chữa tà lần trước tôi gặp thì phong cách của người này khác hẳn. Điềm
đạm, khoan thai cứ như là một vị thiền sư... Tôi bước lại lễ phép chào nội và
ông:
- Thưa nội con đi học mới về. Thưa bác con đi học mớI về.
- Phải thưa thầy đàng hoàng chứ không phải bác - Nội tôi
chỉnh lại.
Ông thầy (lúc này tôi mới biết ông là thầy)đỡ lời:
- Cháu nó thưa sao cũng được mà. Đây là cháu lớn mà cô kể
lúc nãy phải không?
- Dạ nó đó thầy. Lớn tồng ngồng như vầy mà hổng biết làm
gì, tối ngày cứ ôm ba cuốn truyện ma,
truyện chưởng, kinh Phật coi suốt. Thiệt tui rầu hết sức.
Ông thầy ngó tôi chăm chú làm tôi hơi bị quê.
Đoạn, ông ngoắc tôi lạI:
- Đưa tay cho bác coi.
Tôi riu ríu làm theo. Thầy coi bàn tay trái rồI coi cả bàn
tay phải. Vừa lật tay tôi, ông vừa gật gù: “Tốt, có căn đây…”
Thú thật, lúc đó tôi chẳng biết có căn là cái giống gì.
Chỉ biết rằng đó là lời khen. Tôi khoái trong bụng.
- Căn gì thầy ơi. Tối ngày ăn rồi đi chơi, hổng chơi thì
đọc truyện. Riết rồi hổng lêu lổng cũng thành mọt sách có ngày.
- Ậy, cái gì tới thì nó sẽ tới thôi mà. Để rồi cô coi.
Sau vài câu chuyện xã giao, thầy xin phép nội tôi đi tham
quan ngôi nhà một vòng. Thầy hỏi kỹ lưỡng từng chi tiết một rồi quan sát các
chỗ có bóng đen vụt qua. Tôi thấy thầy có vẻ giống thám tử hay cảnh sát điều
tra hiện trường hơn. Đứng ở những nơi nhà tôi thường thấy ma, thầy co tay bắt
quyết, miệng niệm cái gì đó lâm râm. Một lát sau, gật gù như đoán ra điều gì,
thầy trở về ghế ngồi , miệng cười tủm tỉm.
Cả nhà thắc mắc mà không ai dám hỏi. Nội tôi đánh bạo hỏi
đại:
- Có sao hôn vậy thầy?
- Không sao đâu cô à.
Vừa nói thầy vừa lôi trong cái đãy màu nâu đã cũ mèm của
mình ra một chiếc hộp sơn mài nho nhỏ giống như mấy hộp trang điểm của phụ nữ.
Thầy mở nắp hộp lấy ra cuộn chỉ đỏ và mấy cây kim may áo. Cả nhà tròn mắt. Tôi
là người thất vọng nhất. Cứ tưởng thầy sẽ vẽ bùa niệm chú, gõ chuông đánh phép
… như thôi từng thấy ở nhà thầy Hai chữa tà, ai dè… thầy chỉ có mấy cây kim và
chỉ thêu…
Tỏ vẻ không để ý gì đến thái độ mọI người trong nhà, thầy
lấy chỉ đỏ buộc vào giữa năm cây kim. Xong, thầy đem lạI cây cột cái giữa nhà,
nơi mà mọi người nhìn thấy con ma tuột lên tuột xuống. Lấy chỉ đỏ cột vào lưng
chừng cây cột cái, năm cây kim rải đều quanh thân cột, mũi kim hướng lên trời.
Vừa cột thầy vừa lẩm nhẩm điều gì đó….
Hoàn thành công việc, thầy dặn mọi ngườI không được đến
gần nơi cột chỉ đỏ. Trong buổi tối hoặc đến sáng hốm sau, nếu có chuyện gì lạ
cũng đừng ngạc nhiên. Cứ để yên đó chờ khoảng tám giờ sáng hôm sau thầy quay lại
thu phép…
Tối hôm đó tôi thấy một giấc
mơ kì quái…
… Tôi đang lui cui dọn dẹp “bãi chiến trường” sau khi cột
bánh xong, đột ngột thoáng qua trước mắt tôi một bóng người nho nhỏ. Nó lạng
qua cây cột giữa rồi chạy thẳng ra sân. Tôi hét lên " Ai đó? Đứng
lại!". Cái bóng vẫn điềm nhiên chạy. Tức mình, tôi quăng cây chổi cỏ xuống
đất và co cẳng chạy đuổi theo. Cái bóng đó chạy nhanh thật. Gió vù vù hai bên
mang tai, tôi rượt theo cái bóng đó qua không biết bao nhiêu ngã đường, quẹo
không biết bao nhiêu con hẻm… cái bóng vẫn như đang chơi trò cút bắt với tôi.
Tôi chạy chậm thì nó cũng khệnh khạng dềnh dàng như trêu tức, tôi chạy nhanh
thì nó cũng vọt ào ào. Tức mình, tôi tăng tốc độ, nín thở chạy nà tới nó. Chỉ
còn vài bước chân là tôi bắt kịp nó rồi. Hai tay tôi vươn ra tóm lấy áo nó… Xí
hụt… Cái bóng nhỏ tràn qua né được và phóng mình chạy tiếp. Đâu dễ dàng bỏ cuộc
như thế, lập tức tôi băng theo.
Chạy đến một bãi đất rộng, cái bóng nhỏ dừng chân và từ từ
quay người lại… Trời đất ơi! Mọi người có biết chuyện gì không? Cái thằng nhỏ
đứng trước mặt tôi giống tôi như đúc. Có thể nói, nó chính là … tôi. Cũng cái
quần xà lỏn bông xanh má tôi ngắt bớt từ tấm vải may chiếc áo bà ba, cũng cái
áo cụt tay trắng bị rách một đường bên nách, cũng mái tóc húi cua trọc lóc… Tôi
đang đứng trước ...bản thân mình!
Tôi há hốc mồm ngáp ngáp… chẳng nói được câu gì.
Chợt, tôi … à mà không phải, thằng bé trong hình dáng của
tôi đưa tay về phía tôi ngoắc ngoắc. Miệng nó cười thấy rõ cái răng cửa bị gãy
một bên, kết quả của lần tôi bị té võng. Tôi líu ríu bước tới.Thằng kia quay
người đi trước.
Đến một cây cầu tuột thật lớn, nó chạy nhanh về phía các
bậc thang. Nhanh như sóc, nó trèo lên đỉnh dốc của cầu tuột. Tôi không biết làm
gì khác hơn là đi theo nó. Hai đứa đứng bên nhau trên đỉnh cầu tuột. Thằng bé
giống tôi đưa tay chỉ máng trượt và nhìn tôi như muốn rủ tôi cùng chơi.
Thiệt tình tôi không khoái cái vụ này cho lắm. Hồi nhỏ tôi
từng chơi cầu tuột. Mông vừa chạm đất thì có một thằng khác tuột đằng sau tống
hai bàn cẳng vào lưng như trời giáng làm tôi té sấp úp mặt xuống cát… Từ đó tôi
không bao giờ tham gia cái trò này nữa.
Thấy tôi chần chừ, thằng “tôi” lại cười toe toét và ngồi
xuống bắt đầu tuột một mình. Vèo một cái nó đã xuống tới đất. Thay vì vòng lên
bậc thang trở về đầu dốc, thằng nhỏ lại leo lên bằng con đường máng trượt. Lên
tới nơi, nó quay mình lại và tiếp tục lần hai.
Nhưng đến lần tuột thứ ba thì có chuyện xảy ra. Vừa tuột
xuống lưng chừng máng tuột thì … một cây cột sắt bự chảng từ đâu ngã xuống ngay
máng trượt đè thằng nhỏ kẹt cứng. Thằng nhỏ vùng vẫy la hét, tôi cũng hoảng hốt
la lên. Vừa cất tiếng la thì… Trời ơi, tôi thấy chính mình đang bị đè kẹt cứng
dưới cây cột sắt. Cây cột vừa lạnh vừa nặng, hai chân tôi tê cứng. Nhìn xung
quanh cứ tối dần tối dần, tôi sợ quá vừa la làng vừa vùng vẫy. Tiếng la của tôi
chìm mất trong không gian tối dần, chân tay tôi tê dại…
Tôi mở mắt ra, bên giường tôi là bà nội, má và cô Ba tôi
đang đứng. Nội tôi đang dùng tay vỗ vỗ vào mặt tôi chan chát, miệng kêu liên
tục:
“ Dũng… Dũng… tỉnh chưa con? hả?”. Tôi trở mình ú ớ:
- Dạ, tỉnh rồi.
- Mô Phật! Mày ngủ mà làm gì la lối đạp giường ầm ĩ làm ai
nấy hết hồn. Thôi ngồi dậy đi rửa mặt đi, cũng gần tới giờ cột bánh rồi.
Tôi uể oải ngồi dậy. Mọi chuyện trong mơ như một đoạn phim
quay chậm cứ hiện ra mồn một trong đầu tôi. Tôi định kể cho nhà nghe… nhưng rồi
lại sợ mọi người nói mình mộng mị nên thôi.
Trời sáng rõ, cô tôi xách mấy xâu bánh ra nhà bếp chuẩn bị
nấu. Đi ngang qua cây cột giữa, chợt cô cất tiếng thất thanh:
- Má! Lên đây coi nè!
Bà nội, rồi má tôi, rồi cả tôi và con An cũng đứng dậy
chạy lên. Trước mắt tôi , một hình ảnh thật đáng sợ… Trên thân cột, ngay hàng
kim buộc chỉ đỏ quấn ngang, một hình nhân cắt bằng giấy thủ công vàng cao
khoảng một gang tay đang bị kẹp giữa một cây kim và thân cột. Trên thân hình
nhân vẫn còn những chữ bùa ngoằn ngoèo, xoắn trôn ốc… Nhìn kỹ hơn, trên trán
hình nhân còn có một chấm đỏ bầm bằng hạt đậu… Tôi điếng hồn. Trời đất ơi! Đây
chính là hình nhân của tôi vẽ chơi mấy hôm trước, do bà nội kêu gấp quá nên tôi
quăng vào hộc tủ bàn học rồi quên bẵng đi mất… Bây giờ tại sao nó lại ở đây?
Bà nội tôi lầm bầm:
_ Chắc nhà này bị người ta ếm rồi!
Tôi toan đưa tay lấy hình nhân thì má tôi phát vào đầu tôi
một cái đánh”bốp”:
- Làm gì vậy? Không nên nghe chưa. Về cột bánh đi!
Tôi vừa xoa xoa cái sọ khỉ trọc lóc của mình vừa quay trở
lại công việc của mình, trong đầu tôi rối nùi như một mớ bòng bong.
Đúng 8 giờ, ông thầy có mặt
ở nhà tôi. Lần này, ông mặc đồ tây nên trông ông có vẻ trẻ hơn. May cho tôi hôm
nay là ngày Chủ nhật nên tôi được ở nhà. Có lẽ đó cũng là duyên phần mà con
người không đủ sức lý giải thấu. Thấy thầy vào đến cửa, tôi hét toáng lên:
- Ông thầy đến rồi nội ơi!
Bà nội lụm cụm đứng lên ra đón thầy:
- Thầy đến đúng giờ quá. Nhà có chuyện rồi thầy ơi!
Vừa nói nội tôi vừa đưa ông thầy vô thẳng cây cột giữa.
Hình nhân bằng giấy vẫn nằm vắt vẻo giữa cây kim và thân cột. Trông nó oặt oẹo
thấy thảm hại. Ông thầy bước đến nhìn, rồi tiện tay ông rút hình nhân ra ngắm
nghía. Trông gương mặt ông lúc đó thật lạ. Cười mà không phải cười, dường như
ông có vẻ ngạc nhiên thì phải.
Thấy ông đứng săm soi ra chiều nghĩ ngợi. Nội tôi sốt
ruột:
- Thầy ơi, có phải bị người ta ếm không thầy?
- Không phải đâu cô. Nhưng cái này ở đâu tới thì tôi không
rõ lắm.
Lúc bấy giờ tôi toan vọt miệng trả lời rồi. Nhưng nhìn
thấy có nội tôi nên đành im lặng ấm ức. Tôi thấy ông thầy nhìn nhìn tôi như
muốn hỏi cái gì đó, nhưng rồi ông lại im lặng.
- Bây giờ làm sao thầy?
- À, không có gì đâu cô. Chỉ cần một ít bông trái để cúng
là xong hà.
- Vậy hả. Để tui ra chợ mua liền.
- Thôi được, cô để tôi đi. Vì tôi cần mua thêm chút đỉnh
đồ làm phép. Cái này phải đích thân tôi đi mới được. À, mà chợ ở đâu vậy cô?
- Cũng gần đây thôi. Nhưng thầy không biết đường đâu. Để
tui kêu thằng Dũng đưa thầy đi.
Nghe tới đó, tôi khoái quá gật đầu cái rụp:
- Dạ để con đưa thầy đi ra chợ…
Hai người một lớn một nhỏ đi song song trên con hẻm lớn.
Tre hai bên mọc uốn vào che mát cả con hẻm. Tự nhiên tôi liên tưởng đến giấc mơ
trước đây… Chợt ông thầy lên tiếng:
- Con có thường hay đi chùa không?
Giống như gãi trúng chỗ ngứa, tôi hăm hở trả lời:
- Dạ, con đi chùa cũng hơn bốn năm rồi thầy. Chùa ở phía
trên chợ một chút. Con đi chùa tụng toàn kinh Pháp Hoa không hà. Các sư cô khen
con có duyên với Phật…
Tôi làm một tràng không ngớt, không hiểu sao nói chuyện
với ông, tôi không có một chút ngại ngùng nào cả. Tôi thoáng thấy ông thầy tủm
tỉm cười.
- Vậy con có bao giờ thấy người ta vẽ bùa làm phép trị
bịnh chưa?
Lại gãi trúng chỗ ngứa. Tôi liền say sưa kể cho ông thầy
nghe những chuyện tai nghe mắt thấy về ông thầy Hai chữa tà dạo trước. Thầy
nghe có vẻ chăm chú. Không đợi tôi kể hết, ông thầy xen vào:
- Vậy về nhà con có bắt chước làm theo hôn?
- Dạ có, con cũng vẽ bậy bạ chơi thôi. Rồi con đốt hết
trơn hà.
- Vậy còn cái này? - Ông thầy chợt móc túi đưa ra hình
nhân giấy.
Tôi thú nhận:
- Dạ… dạ .. cái này con vẽ hồi tuần trước nhưng con quên
đốt...
- Bác cũng đoán là con vẽ…
- Sao thầy đoán được vậy thầy?
- Đây là bí mật. Con mà muốn biết phải tu lâu lắm…
- Tu sao hả thầy? Có phải tụng kinh rồi ăn chay lạy sám
hối hôn thầy?
Tôi rối rít hỏi dồn.
Không trả lời tôi, ông thầy chợt nghiêm giọng hỏi:
- Con có muốn học phép giống như ông thầy mà con kể hôn?
Sững sờ như trong mơ, tôi trả lời ngay không hề suy nghĩ:
- Dạ muốn, dạ muốn lắm.
- Nhưng con học để làm gì?
- Dạ… để con chữa bệnh cho người ta, rồi … mình bắt mấy
con ma để nó không còn phá người khác nữa…
Tôi còn nói nhiều lắm. Nhưng thật tình đến bây giờ tôi
không còn nhớ nổi mình đã nói những gì. Bởi lẽ, lúc ấy tâm trạng tôi cực kì
hưng phấn…
Ông thầy mỉm cười móc túi áo ra một tờ giấy và cây viết,
hí hoáy ghi ghi chép chép gì đó rồi đưa tờ giấy cho tôi.
- Chủ nhật tuần sau, nếu con muốn gặp thầy ( lúc này ông
ấy mới chịu xưng thầy với tôi) thì chịu khó đi theo hướng dẫn này. Lúc ấy mình
sẽ nói chuyện nhiều hơn. Nhớ đừng cho nhà con biết, vì nếu biết nội con sẽ
không cho đâu…
Tôi cầm tờ giấy trong tay mà như cầm báu vật. Lòng tôi rộn
rã tưng bừng như mở hội...
…Tìm đến được nhà thầy, tôi mỏi rụng cặp giò. Sáng Chủ
nhật, lấy cớ trong trường tổ chức lao động trồng cây, tôi dậy thiệt sớm và chạy
ù ra trạm xe buýt quên cả phần ăn sáng má tôi để sẵn. Theo chuyến xe, tôi đến
bến đò LaKai, rồi đi qua đò sang bên Ba Đình Quận 8. Từ đây, tôi bắt đầu chuyến
hành trình bằng xe …”dép”. Trong cuộc đời tôi, có lẽ đây là chuyến đi xa nhất.
Từ trước đến nay, cùng lắm là tôi đi đến Chợ Lớn mua lá chuối hết “date”, còn
bây giờ thì… Lê lết đến rã rời tôi mới tìm thấy nhà thầy. Đón tiếp tôi là con
chó vàng gầy nhom. Nó chạy ra sân đầu tiên với khí thế vô cùng mãnh liệt làm
tôi sợ điếng hồn. Hổng ngờ, vừa đến bên tôi, nó bổng đổi thái độ nhanh chóng.
Đuôi nó ngoe nguẩy, kê mũi hửi hửi tôi từ ngón chân lên đến … háng, làm tôi vừa
sợ vừa nhột gần chết.
Ông thầy bước ra sân giải vây cho tôi.
- Chà, tìm nhà cũng hay quá hả? Thôi vô trong nhà đi con.
- Dạ… - Tôi dạ lí nhí rồi cun cút đi theo thầy vào nhà.
Con chó vàng vẫn lẽo đẽo theo sau hửi hửi cái mông tôi.
Trong nhà bài trí khá đơn sơ. Giữa nhà là bàn thờ Phật
bằng gỗ cũ kĩ. Trên cùng thờ Phật A Di Đà. Hai bên là hình Phật nhiều tay (lúc
ấy tôi không biết Chuẩn Đề và Thiên Thủ Thiên Nhãn là ai cả). Bậc giữa là một
khuôn hình vải vàng, trong đó vẽ ngoằn ngoèo vô số chữ bùa. Nhìn khuôn hình đó,
tự nhiên tôi có cảm giác nể sợ.
Ngồi sẵn trong nhà có hai thằng nhỏ khoảng mười sáu mười
bảy tuổi. Ông thầy chỉ từng người giới thiệu:
- Đây là Minh An, đệ tử lớn của thầy. Còn đây là Minh
Tịnh, đệ tử thứ hai của thầy.
Tôi gật đầu chào từng người theo lịch sự. Nhưng… đến người
thứ hai, tôi chợt “ớ” một tiếng rõ to rồi thộn người ra. Có lẽ mọi người đã
biết lý do rồi… Đó chính là thằng nhỏ gầy nhom mà tôi thấy trong giấc mộng thuở
nào…
Con đường vào ngưỡng cửa huyền môn của tôi bắt đầu như thế
đó. Gần ba mươi năm đã trôi qua kể từ dạo ấy, tôi vẫn không quên những kỉ niệm
của ngày đầu. Mỗi lần nghĩ lại, trong tôi vẫn dâng tràn một cảm giác háo hức
khó tả. Bắt đầu từ Phật Pháp, chuyển sang luyện tập huyền thuật, làm thầy chữa
bệnh, trị tà… để rồi giữa chặng đường đời tôi laị quay về với Phật Pháp để hiểu
thấu hơn thế nào là “Như Lai chơn thiệt nghĩa”…. Nếu không có những trải nghiệm
tâm linh cùng những Hỷ, Nộ, Ái, Ố, Kiêu mạn trong cuộc đời huyền thuật, tôi khó
mà cảm nhận được sự bình lặng của tâm hồn để rồi nhận ra mọi thứ chỉ là trò đùa
của tâm thức…
Con đường huyền môn của tôi bắt đầu từ khát vọng muốn làm
thầy chữa bệnh cho người. May mắn cho tôi là trước khi vào ngưỡng cửa huyền môn
tôi có căn bản năm năm tụng kinh, ăn chay, giữ giới. Điều may mắn hơn cho tôi
là sư công, sư bá của tôi đều là bậc chân tu đầu tròn chân đất, sư phụ tôi cũng
không hề bắt tôi quy y Thần, Tổ mà chỉ bảo khấu đầu lập hạnh… Nhờ vậy mà tôi
vẫn còn có chỗ quay về…
Câu chuyện của tôi xin được khép lại ở đây. Hy vọng rằng
“mua vui cũng được một vài trống canh”.
Nếu những gì tôi viết được in thành sách. Nếu những gì tôi
viết có thể giúp ích được cho ai đó thì tôi xin nguyện đem công đức này hồi
hướng về tất cả nhân vật trong câu chuyện.
Nam mô Công đức lâm Bồ tát.
Viết xong ngày mồng 1 tháng 4 năm Đinh Hợi.
dienbatn giới thiệu.
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét