Khu cư xá Thanh Đa nằm trên bán đảo Thanh Đa ven dòng sông Sài gòn thơ mộng. Nhắc đến
Thanh Đa, ai cũng nghĩ đến món cháo vịt nổi tiếng và những dãy quán cà phê ven sông. Thanh Đa đi vào kí ức của mọi người không chỉ bởi đặc sản cháo vịt, bánh tráng Trảng Bàng hay… những đĩa phim quay lén về cà phê Thanh Đa. Nhắc đến địa danh này, nhiều người vẫn còn rì rầm kể cho nhau nghe
những câu chuyện… ma bất thành văn bản… Thắm thoắt đã ba năm trôi qua kể từ ngày sư
ông và sư phụ lần lượt qui thiên, tôi ít khi về Thủ Đức thăm
chùa. Nhiều lần tôi tự nhắc mình phải về chùa thường xuyên hơn. Dù gì đi chăng
nữa, nơi đó vẫn còn di cốt của hai
người, vẫn còn có sư bá để mình thăm hỏi. Nhưng,
mỗi lần nghĩ đến ông đại sư huynh của thầy
là y như rằng tôi rùng mình ớn lạnh. Cái ông già khó đăm đăm, mặt ổng lúc nào cũng quạu đeo, hầm hầm như người
bị mất của mà không tìm ra kẻ trộm (mô Phật). Đặc biệt là đôi mắt, ông nhìn ai là cứ như soi đến tim
gan phèo phổi của người ta.
Trong các hàng huynh đệ, không ai dám nhìn lâu vô mắt ổng hết trơn. Nghe nói, ngày xưa ông bế quan luyện Thần Long
nhãn suốt 108 ngày. Đến
khi xuất quan, người ốm tong teo còn hai con mắt cứ như điện. Ai nhìn thấy cũng sợ.
Không biết thật giả thế nào, riêng tôi đã có lần chứng kiến sư bá nhiếp phục con tà bằng ánh mắt rồi. Hôm đó, từ Biên Hoà có một nhóm người chở theo một
phụ nữ ngoài ba mươi tuổi. Nhìn chị ta có vẻ như người bình thường nhưng không hiểu sao lại bị trói thúc ké như tội phạm. Thấy ai nấy ngạc nhiên, người nhà vội giải thích:
- Mấy thầy hổng biết đó thôi. Nó tinh ma quỷ quái ghê gớm. Hồi nãy muốn trói được nó tụi tôi phải nhờ đến sáu người đàn ông khoẻ mạnh áp
vật xuống mới thắng đó. Chứ sơ sơ hai ba
người xáp lại, nó hất một cái ngã chỏng cẳng luôn.
- Sao tôi thấy nó tỉnh queo mà? – Tôi vọt miệng nói, không kịp nhìn thấy ánh mắt răn đe của thầy.
- Tụi tôi cũng hổng biết nữa. Vừa tới đầu đường vô chùa, tự nhiên nó tỉnh queo như chưa
hề bệnh hoạn gì hết.
Người đàn bà bổng nhiên khóc nức nở:
- Mấy thầy ơi, cứu giùm con. Khi không mấy
ông này áp trói con lại, rồi đánh đập con. Họ nói con là tà ma quỷ quái. Họ đánh con như vầy nè…
Vừa nói, người đàn bà cúi xuống dùng vai phải hất mái tóc rủ loà xoà trước trán lên. Phía trên thái dương cô ta còn một vết bầm rướm máu. Ai nấy xuýt xoa thương cảm.
Thấy vậy, người đàn ông lớn tuổi nhất vội phân trần:
- Tụi tôi có làm gì đâu. Nó vu oan giá hoạ đó. Lúc nãy mọi người áp trói nó, nó hất một cái hai người văng ra
rồi chạy lao đầu vào cột nhà. Nếu tui không ôm nó lại kịp, chắc bây
giờ đã tẩn liệm xong luôn rồi!
Mọi người con đang
nói chuyện thì sư bá tôi bước ra. Đang khóc lóc kể lể, người đàn bà ngó thấy sư bá liền nín
bặt. Trông vẻ mặt cô ta có vẻ hoảng hốt. Sư bá
tỉnh như không, chẳng thèm ngó ngàng gì đến bà ta, từ tốn bước lại bàn ngồi và thong thả rót trà uống. Ai nấy im bặt
nhìn sư bá như chờ đợi. Bầu không khí trong chùa bỗng chùng xuống nặng nề…
Uống xong hớp trà,
bất chợt ông ngước mắt lên nhìn người phụ nữ…
Cái nhìn của sư bá cũng bình thường thôi, không trừng không trợn nhưng sao tôi
cảm thấy từ trong ánh mắt ấy toát ra một uy lực lạ lùng. Bất giác, tôi lùi lại một
bước. Nhìn qua mấy sư huynh
đồng môn, họ cũng đã lùi trước từ lúc nào. Chỉ có mình thầy tôi ung dung ngồi đó
uống nước với sư bá.
Người phụ nữ bỗng thay đổi thái độ. Trông cô ta có vẻ sợ hãi. Đôi mắt cô láo liêng nhìn qua lại như muốn tìm chỗ thoát. Đoạn, cô cười gượng gạo:
- Ơ hay, cái ông thầy này nhìn tui ghê quá hả!
Sư bá vẫn không trả lời, mắt vẫn
nhìn cô ta đăm đăm. Không khí lắng xuống đến nặng nề. Tôi cảm thấy ngực mình
như có một hòn đá lớn đang đè xuống. Chợt, sư bá cất tiếng:
- Cởi trói cho nó.
- Dạ, nhưng mà thầy… - người đàn ông lớn tuổi toan nói gì đó nhưng nhìn thấy ánh mắt sư bá liền cun cút làm theo không dám nói thêm lời nào.
Những tưởng người phụ nữ sau khi được cởi trói sẽ vùng chạy. Nhưng không, cô ta vẫn đứng đó ngơ ngác. Nhìn khuôn
mặt cô ta lúc đó thật đáng sợ, vừa sợ hãi thê lương vừa căm hờn phẫn uất. Cô ta cứ ngó dáo dác mà chân không hề di chuyển. Sư bá vẫn cứ im lặng ngồi nhìn… Ngay lúc đó, người đàn bà cất tiếng cười lớn
ghê rợn:
- Ha ha… thằng thầy chùa này mê tao rồi. Tụi bay thấy không, nó nhìn tao say đắm đấy nhé. Này, nhìn hả, nhìn đi, tao cho mày nhìn.
Vừa nói cô ta vừa ưỡn ẹo thân
thể ra vẻ khêu gợi. Tôi thấy người nhà đi theo có vẻ lúng túng.
Sư bá vẫn ngồi im, ngó cô ta đăm đăm. Đôi mắt của ông trong trẻo một cách lạ kỳ.
Về phần người phụ nữ, càng ưỡn ẹo cô ta càng có vẻ bứt rứt như phát
cuồng. Chợt cô ta gào lên:
- MÀY CÒN NHÌN HẢ, NHÌN CHƯA ĐÃ HẢ? MUỐN NHÌN THÊM KHÔNG, TAO CHO MÀY NHÌN MÃN NHÃN LUÔN.
Trong lúc đang nói, cô ta lao nhanh về phía sư bá. Mọi người hốt hoảng, tôi thoáng thấy sư huynh Minh
Tịnh co tay thành Lôi ấn. Chắc huynh ấy định sử dụng Ngũ lôi phù.
Nhưng, ngoài dự đoán của mọi người. Sư bá vẫn điềm nhiên ngồi nhìn, thầy tôi ngồi kế bên cũng ung dung không kém. Dường như thái độ hùng hổ của người đàn bà ấy không tác động gì đến hệ thần kinh của
hai người.
Điều bất ngờ nhất đã xảy
ra. Người đàn bà đang lao đến chỗ sư bá đã đứng sững lại như va phải một bức tường vô hình, cô ta loay hoay mãi không thể nào tiến thêm một bước. Tức khí, cô ta cất tiếng chửi:
- Mẹ mày… đồ thầy chùa lửa, đồ dê gái! Dê không được nên ngắm nhìn cho đỡ ghiền hả? Muốn nhìn phải không, tao cho mày nhìn tới luôn.
Nói xong, cô ta đưa tay giật tung hàng nút áo ngực lộ cả áo
trong ra. Đám đệ tử tui tôi quay mặt chỗ khác. Người nhà cô ta xấu hổ chạy lại định gài nút áo, cô quay lại hất một cái người nhà té lăn cù như quả banh. Đến lúc này tôi mới thấy sức mạnh kinh hồn của cô ta.
Sư bá vẫn ngồi điềm
nhiên nhìn. Nhưng khuôn mặt ông có vẻ nghiêm hơn. mắt ông trở nên sáng long lanh. Người đàn bà cứ đi qua lại trước mặt ông ở khoảng cách
hai mét. Cô ta vừa nắm hai vạt áo mở ra khép vào vừa hẩy bụng và
ngực về phía sư bá. Nhưng càng
làm dữ cô ta càng tỏ vẻ bứt rứt như có cái gì đang thiêu đốt trong người vậy.
Bất ngờ, người đàn bà quỳ thụp xuống gào khóc:
- Thả tao ra, thả tao ra đi. Tao cầu xin mày mà. Làm ơn cho tao đi đi
mà…
Sư bá vẫn nhìn lặng lẽ.
Cái nhìn của ông bén ngót như lưỡi dao sắc
lạnh xuyên vào da thịt người ta. Tiếng la của người bệnh vang lên bài hãi nghe xé màng nhỉ:
- Trời ơi đừng nhìn
nữa! Tha tôi đi, làm ơn tha tôi đi.
Cô ta oằn oại trên sàn như con rắn bị đập đầu, rồi chồm dậy đập đầu xuống đất nghe binh binh. Eo
ôi! Cái kiểu này chắc bể đầu chứ không giỡn đâu. Tôi thầm lo trong bụng.
Hai vị tiền bối vẫn ngồi im không nói. Tôi thoáng thấy sư phụ tôi mỉm cười. Dường như ông đã đoán trước được kết quả rồi.
Quả thật như vậy. Người phụ nữ sau vài phút dập đầu đã ngẩng lên, tóc tai rũ rượi, nước
mắt ràn rụa. Cô ta lết lại gần sư bá tôi chắp tay van lạy:
- Thầy ơi, thầy tha cho con lần này. Con cầu xin thầy. Xin đừng đốt con nữa tội nghiệp
con thầy ơi…
Sư bá quay sang thầy tôi:
- Ông rót giùm tui ly nước cho nó uống đi.
Thầy tôi lặng lẽ làm theo.
Đón nhận ly nước từ tay
thầy tôi, người bệnh uống
một cách miễn cưỡng.
- Ngồi xuống đó – Sư bá ra lệnh, người phụ nữ làm riu ríu.
- Ngươi có ân oán gì với cô gái này mà đi theo ám người ta vậy hả?
- Dạ, thưa thầy – thái độ cô ta có vẻ bình tĩnh lại – con là Đặng Duy Nam,
vốn là chồng sắp cưới của
Như (*tên cô gái). Ba năm trước, lúc tụi con chuẩn bị làm đám cưới thì con bị tai nạn giao thông mà chết. Như đã không
nghĩ đến tình cảm của con mà còn bắt bồ với thằng khác. Bây giờ tụi nó sắp cưới nhau. Làm
sao con tha thứ cho được.
Sư bá tôi tỏ thái độ nghe chăm chú.
Đoạn, ông khẽ cúi đầu thở dài:
- Nhân quả nghiệp báo. Biết bao giờ mới dứt đây.
Ngước mắt nhìn người phụ nữ giờ đây đang ngồi xếp bằng tròn thổ thức dưới đất, ông hỏi:
- Ngươi có biết là vài hôm nữa Quỷ Vô thường đến bắt ngươi về không?
- Dạ … biết…
Sư bá nạt ngang:
- Đã biết sao còn sanh chuyện cho thêm tội hả?
Cô gái cúi đầu tránh ánh mắt nghiêm khắc của ông, lí nhí trả lời:
- Thầy ơi, con không cam lòng… con yêu Như mà thầy…
- Vậy là người định bắt cô gái này theo người chứ gì?
- Dạ…
- Đúng là vô minh!- sư bá quát
lớn khiến mọi người giật thót mình - Thọ mạng người ta còn, ngươi bắt được à. Bắt rồi, ngươi có sống được với người ta không chứ. Nghiệp chồng nghiệp, phen này ngươi khó đầu thai rồi.
- Thầy ơi, vậy bây
giờ làm sao hả thầy?
- Nếu người bằng lòng
rời khỏi thể xác, ta sẽ nói gia đình cô ta lập trai đàn ba
ngày siêu độ cho ngươi. Nhờ các thầy trì tụng, mong rằng
ngươi sẽ được giải bớt nghiệp
chướng đời này.
- Nhưng… còn Như thì sao?
- VÔ MINH – sư bá hét lớn - VẪN CÒN QUYẾN LUYẾN KHÔNG
MUỐN RỜI PHẢI KHÔNG?
- Dạ… con…
- Ngươi không chịu tỉnh ngộ, ta nhốt ngươi ba ngày rồi triệu Vô thường quỷ đến bắt đi. Lúc ấy ngươi không
trách gì ta được nha!
- Dạ... thưa thầy... con chịu…
… Sau sự việc ấy, sư bá tôi nổi danh như cồn, tiếng tăm vang xa
hơn cả sư ông. Nhiều người bệnh từ khắp nơi: Cần Thơ, Sóc Trăng, Trà Vinh, Vũng Tàu,
Phan Thiết… cũng lặn lội tìm đến chữa trị. Ngày ấy, tôi thường xuyên về chùa nên chứng kiến và học
hỏi rất nhiều từ ông đại sư huynh của thầy mình…
Nhớ đến sư bá là bao nhiêu
kỉ niệm lại ùa về trong tâm trí… Tôi khẽ lắc lắc cái đầu như muốn xua tan hoài niệm. Hôm nay tôi phụ trách city tour. Một đoàn khách từ Quảng Bình vào tham quan thành
phố ba ngày. Đây cũng là cán bộ hành chánh nên giá tour chẳng có bao
nhiêu. Phòng điều hành quyết định đưa khách về nghỉ tại Nhà nghỉ Công đoàn Thanh Đa. Nghĩ ra
cũng tiện, tiện nghi cũng không đến nỗi tệ, cách phục vụ đúng kiểu bao cấp (chắc cũng quen thuộc với khách), không gian cũng yên tĩnh…
Ngày thứ nhất, đón khách từ cầu Bình Triệu. Tôi đưa thẳng về nhà nghỉ nhận phòng
rồi ăn chiều. Những công việc lặt vặt của
nghề thiết tưởng không cần phải kể ra làm gì cho dài dòng. Tôi xin kể vào sự việc chính…
Tối đầu tiên tham quan chợ Bến Thành và dạo phố đêm, nhiều vị khách đi lạc không biết đường về điểm tập kết. Tôi phải tìm mướt mồ hôi mới gom lại đủ.
Về đến Nhà nghỉ Thanh Đa thì đồng hồ đã chỉ 11g35’. Giờ này còn về nhà gì nữa! Tôi quyết định ở lại để sáng mai đưa khách đi Củ Chi
sớm. Các chị nhà phòng cũng ưu ái xếp cho
tôi căn phòng tiện nghi ở cầu thang số 12 (gần cổng lớn). Những tưởng sau
những giờ mệt mỏi chạy rã giò tìm khách, tôi sẽ ngủ một giấc
ngon lành. Nhưng không, thật
khó ngủ. Cố nhắm mắt dỗ
ngủ mà lòng cứ tỉnh như không. Đôi mắt cứ trao tráo nhìn trần nhà như không muốn khép. Tiếng quạt trần quay vù vù làm tôi khó chịu. Tắt quạt một lát thấy nóng nực lại chồm lên mở. Tôi cứ loay hoay, bứt
rứt. Định ngồi dậy luyện tập một lát nhưng lại làm
biếng. Kể từ khi sư ông và thầy mất rồi, tôi cũng trở nên chây lười, chễnh mãng
việc tập tành. Đã vậy tôi còn đi theo lũ bạn trong công ty đi hát hò nhậu nhẹt thâu đêm suốt sáng. Riết rồi tôi không biết mình có còn là dân huyền môn hay không nữa. Hình như những gì
trong quá khứ đã phai nhạt dần khi
hiện tại mở ra quá nhiều cám dỗ. Tôi bắt đầu thích cái cảm giác ngồi đến hai ba giờ sáng ở
một quán nhậu ven sông để lắng nghe nhịp thở
của cuộc sống về đêm, lắng nghe mạch máu căng ra vì chất men quá liều, nghe hơi lạnh tràn về khắp mọi nẻo giăng giăng. Tôi cũng bắt đầu để ý đến một chút thời trang của các cô trong công ty, cũng chịu khó pha trò, nói tục… Tôi đã thay đổi không còn là mình cho đến đêm nay…
Không muốn tập luyện, tôi chuyển sang dỗ ngủ bằng cách đếm. Đếm đến mấy ngàn số rồi tôi vẫn cứ trơ trơ. Bực mình, tôi ôm mền ra phòng khách nằm ngủ. Kéo
mấy cái ghế salon lại sát nhau, tắt đèn, mở quạt trần vừa đủ mát, tôi hạ tấm nệm dựa lưng xuống làm gối và khoan khoái kéo mền lên tận cổ để ngủ. Quả thật ở ngoài phòng khách mát mẻ hơn nhiều. Tôi lim dim tận hưởng cảm giác thoải mái rồi lâng lâng vào giấc ngủ…
Bất ngờ ... cái
mền tôi đang đắp bỗng nhiên tụt xuống như có người đang kéo...
Giật phắt mình, tôi chụp cái mền ngồi bật dậy ngó dáo dác… Chung quanh im lặng
như tờ, chỉ có tiếng quạt máy quay vù vù trong không gian.
Ngồi im một lúc lâu, thấy không có động tĩnh gì, tôi lại nằm xuống kéo mền lên ngực ngủ tiếp…
Vừa lịm người đi, cái mền đang đắp trên người tôi bị ai đó giật phắt một cái rơi xuống đất. Thất kinh hồn vía, tôi chồm dậy la lớn: “AI ĐÓ?”. Đáp lại câu hỏi của tôi là không gian tối om, tĩnh
lặng.
Tim đập thình thịch, tôi rón rén chạy đến góc phòng bật công tắc đèn. Xung quanh sáng
loà ánh đèn néon trắng. Mọi thứ vẫn ổn, chỉ có cái mền của tôi là không bình thường. Nó bị quăng vào góc tường, cách chỗ tôi nằm hơn một thước. Vừa sợ vừa giận, tôi co tay thủ Kiếm quyết bước tới nhặt cái mền lên. Xung quanh vẫn
tĩnh lặng. Nghe hơi ớn lạnh, tôi để luôn đèn sáng, nhảy lên salon nằm.
Lần này đừng hòng mà ngủ.
Tôi nằm nghiêng chờ đợi, tay phải nắm luôn Kiếm quyết, bụng thầm nghĩ: “Tụi bây định giỡn mặt với thầy hả con. Đứa nào ra ông cho một kiếm là tan nát hồn phách luôn!”.
Một phút…
Hai phút…
Năm phút…
Mười phút…
Chẳng có động tĩnh gì.
Tôi mệt mỏi bắt đầu
lim dim mơ màng. Bỗng…
“Ké…é.. é..t”
Hai chiếc ghế salon được tôi kê làm giường nằm bị kéo thẳng về hai phía. Tôi rơi xuống đất đánh “bịch” một cái đau điếng hồn. Hoảng quá, tôi lồm cồm bò dậy quơ vội cái
mền chạy vào phòng đóng cửa lại...
Chui tọt vào trong mùng, tôi không quên mở đèn sáng choang. Tim đập liên hồi trong cảm giác bàng hoàng, sợ hãi, tức tối, hổ thẹn.
Ai đời làm thầy chữa bệnh trị tà, giải vong từ bao năm qua, vậy mà đến lúc này bị ma quỷ phá phách mới xấu hổ chứ!
Tôi ngồi thừ trong mùng một hồi lâu với ngổn ngang tâm trạng. Nhìn xuống đồng hồ, cây kim giờ đã chỉ đúng số 1. Tôi uể oảI chắp tay đọc bài kinh Phật Tổ:
“Á rá hăn – sam ma sam buol đô
Quýt chá chá rá ná
Sam ban đô
Su ga tô
Lô ca quyt du
An nu ta rô
Pu ri sa đam
Ma sa ra thi
Sat tha đê va
Ma nu sa năng buôl đô
Pa ga va ti”
Mới đọc có 2 biến mà mắt tôi muốn sụp xuống. Buồn ngủ kinh khủng. Ráng đọc xong đến biến thứ ba là tôi rũ cả người ra. DuỗI chân ra ngáp dài một tiếng, tôi
ngả lưng xuống nệm, vặn vẹo ngườI mấy cái khoan khoái. Cảm giác nặng nề lúc nãy biến mất. Tôi
xoay người lại ngay ngắn và
thiếp đi…
… Sao mà tôi vẫn thức thế này! mắt vẫn mở trao tráo nhìn trần nhà. Một cảm giác lạnh lẽo bao trùm lấy căn phòng, cái lạnh phủ dần từ hai bàn chân, lan toả đến đầu gối. Tôi cảm thấy rất rõ
từng thớ thịt tôi ơn ớn rồi tê lại khi hơi lạnh đi
qua. Biết có chuyện, tôi cựa mình ngồi dậy. Nhưng, tay chân tôi không còn điều khiển được theo ý mình nữa rồi. Hơi lạnh lan đến bụng, cảm giác
nặng nề khó thở tràn ngập, ngực tôi
nặng như đá đè, phổi cứng lại không thở được. Và tôi thấy…trong ánh sáng trắng bệch của ngọn đèn néon, hai bóng người đi xuyên qua cánh cửa phòng ngủ bước vào trong. Rõ ràng họ đi rất bình thường, nhưng không có một cản trở ngăn ngại nào trong bước đi
của họ. Đó là hai người đàn ông, một già một trẻ. Gương mặt
xanh xao lạnh lùng vô cảm. Đôi mắt đứng tròng không hề chớp cứ nhìn chăm chăm vào
mặt tôi. Cả hai đều mặc bộ đồ trắng, thứ quần áo bệnh viện thường mặc cho bệnh nhân…
Nói thì dài nhưng sự việc diễn ra nhanh chóng. Họ bước xuyên
qua cái giường ngoài (mỗI phòng ngủ của Thanh Đa có hai giường, tôi
nằm giường trong, sát vách tường) và tiến đến ngay chỗ tôi
nằm. Người trẻ đứng phía dưới chân, người già đứng ngang người tôi. Họ cúi xuống.
Giá mà tôi có thể hoá thành khói biến đi khỏi đôi mắt của họ, Nó đờ đẫn và sâu hun hút như cánh cửa địa
ngục, khuôn mặt xanh mét của một xác chết. Cả hai thò tay ra…
Bốn cánh tay cùng lúc xuyên qua chiếc mùng
tuyn mỏng và dần dần hạ xuống cổ
tôi. Tôi nhìn thấy rõ những cẳng tay gầy guộc, khẳng khiu không có một chút sinh khí nào. Các bàn tay đè chặt làm tôi không thở được, hơi lạnh chết chóc từ những ngón
tay thít chặt trên cổ truyền sang cơ thể, thấm vào trong mạch máu làm tôi cứng đờ người. Tôi vùng vẫy trong tuyệt vọng, miệng thốt ra những tiếng ú ớ vô nghĩa. Hai bóng ma vẫn trơ trơ vô hồn, đôi mắt sâu thẳm của họ mở ra
to dần thành hai hố đen sâu hun hút, tôi thấy trong đó là vòng xoáy trôn ốc cuốn tôi vào. Đầu óc quay cuồng, ngực không còn thở được, tôi thở dài: “Vậy là hết…!”
Bỗng nhiên…
Một tiếng vỗ bàn
vang lên đánh “RẦM” như tiếng sấm. Nghe như tiếng vỗ bàn quen thuộc của sư bá tôi khi nhiếp phục con tà.
Tôi giật nảy mình.
Hai bóng ma mờ dần, mờ dần
rồi tan biến như sương khói.
Cảm giác lạnh lẽo khó thở cũng giảm nhẹ dần…
Tôi chồm dậy. Đèn néon vẫn sáng, chiếc quạt trần
vẫn quay nhè nhẹ trên cao. Xung quanh yên ắng đến lạ kỳ. Tôi
bần thần không biết là mơ hay thật. Nhưng có điều chân tôi vẫn còn cảm giác lành lạnh không bình thường. Tim vẫn còn đập thình thịch trong lồng ngực. Gương mặt hai người đàn ông lúc nãy vẫn còn lở vởn trong đầu.
Ngay lúc này, khi kể lại câu chuyện, trước mắt tôi như vẫn hiện rõ mồn
một hai khuôn mặt ấy.
Không có thờI gian suy nghĩ nữa. Tôi lập tức lấy gốI và mền kê làm toạ cụ, xoay mặt về hướng Tây Nam kết ấn Chuẩn Đề bố tự hộ thân và bắt đầu trì tụng theo phép Sư tử Hống:
“AUM – CHA – LE – CHU – LE – CHAN – DI – SVA – HA”
Trong lúc trì, tôi quán tưởng mình hiện tướng phẫn nộ (mà làm sao không “phẫn nộ” được cơ chứ! Làm thầy mà để ma giỡn mặt có đáng giận không!), tám tay tôi cầm đủ tám món binh khí :KIẾM – KÍCH – BÚA – MÓC CÂU – BÀNG BÀI –
CHÀY ĐỘC CỔ - CHÀY TAM CỔ - VÒNG KIM CANG.
Tôi trì với tất cả sự tức giận, sợ hãi và xấu hổ. Đã lâu lắm rồi tôi mới có lại sự nhất tâm như thế này. Tiếng trì tụng ban đầu còn run rẩy, sau cứ to dần, to dần.Tôi cũng thấy mình
cũng to dần như phiến đá trên Vồ Thiên Tuế của núi Cấm. Toàn thân tôi bốc lửa…
Ma không làm gì được con người đâu, vì “ma là người đã chết, người là ma
lúc còn sống” mà! Nhưng, bản chất con người vốn sợ những gì mình không thấy được (sợ ma chẳng hạn)
cho nên khi gặp ma, họ sợ
thất thần mà chết. Thực ra là họ bị hại bởi chính mình. Ma không có thể xác ngũ hành như con người nên tụ
tán như sương khói. Ma
không có giác quan như con người nên nhìn và biết con người qua ánh sáng của thể phách. Cho nên, từ những tâm lí sợ hãi, lo lắng, cho đến tâm địa hiểm ác…ma đều có thể thấy và biết. Ma lợi dụng điều đó để phá phách con người, khi con người sợ hãi đến cùng tột, thể phách
của người sẽ thất tán. Ma thừa cơ hội vào chiếm giữ thể xác.
Xem như ma “đã có nhà mới sau một thời gian lang thang”. Còn chuyện ma bóp cổ con người đến
chết hoặc giết người… chỉ có trong phim Hồng Kông và Thái Lan thôi.
Ma tồn tại trên
thế gian vì tâm nguyên chưa hoàn thành,
cái ý chí đó mạnh đến mức kết tinh thành hình khối. Họ vất vưởng
trên thế gian vượt qua
được sự chi phối của Hắc Bạch vô
thường. Trường hợp người yêu
của cô Như là một ví dụ. Nhưng, nếu có sự
tác động của đạo sư, ma vẫn không thoát được. Tuy nhiên, phương pháp chủ
yếu của đạo sư là khuyến dụ,
khuyên răn để vong linh giác
ngộ. Cái oán tiêu tan thì đầu thai
mới được.
Trung giới tuy không
phải Dương gian nhưng không đánh đồng với cõi âm. Chuyện này không dùng để phiếm luận trên DĐ được. Nếu dốc lòng tu tập, sau này
bạn sẽ hiểu.
…Lửa cất cao ngọn, từ trong thân tôi toả ra xung quanh
rồi đốt trụi tất cả - kể
cả tôi.
Tôi ngồi không biết bao lâu. Nhưng khi mở mắt ra xả đàn thì ngài cửa sổ trời đã mờ
mờ sáng. Toàn thân tôi ướt đẫm mồ hôi. Cái mền kê làm toạ cụ và phần nệm giường cũng thấm mồ hôi ướt sũng.
Tôi chà nóng hai tay rồi xoa bóp toàn thân cho thông máu. Thân thể tôi lúc ấy nhẹ nhàng và sảng khoái lạ lùng. Có điều… toàn thân tôi bốc ra mùi thúi kinh khủng, Nó thum thủm nặng mùi
như xác chó mèo chết sình. Lúc đầu tôi còn tưởng ngoài cửa sổ
có con chuột chết nào đó. Nhưng sau khi tìm kiếm
một hồi, tôi giơ tay lên ngửi thì… Oẹ! mùi thúi xộc thẳng vào
mũi xông lên tới óc làm tôi muốn ói vọt ra. Tôi vội vàng lau khô mình rồI nhảy vào nhà tắm. Mất gần ba mươi phút kỳ cọ tắm rửa, tôi mới thoát khỏi sự ám ảnh của mùi hương độc đáo ấy.
Thả bộ ngoài vườn hoa nhà nghỉ Thanh Đa trong buổI sáng trong lành, tôi mới cảm nhận hết giá trị của cuộc sống. Thế này mới là hưởng thụ đây chứ! Chợt nhớ, đã lâu lắm rồi tôi không đi dạo buổi sáng. Tôi nhớ lại những ngày ở chùa, sáng sớm thầy tôi đã bắt thức dậy đi
kinh hành quanh khuôn viên chùa. Lúc ấy là những ngày vui sướng và an lạc nhất...
Từ sư phụ, tôi nhớ đến sư bá. Lâu lắm rồi tôi không về Thủ Đức. Một
cảm giác mong nhớ tự dưng
trào lên mãnh liệt đến nỗi tôi muốn đằng vân trở về chùa. Mỗi bước chân đi của tôi kéo theo bao nhiêu hoài niệm. Nó cứ như những đợt sóng lòng dồn dập vỗ vào tâm trí…
Cuối cùng, tôi quyết định bỏ tour Củ Chi.
Sau khi nhờ được thằng bạn trong công ty dẫn tour giùm, tôi nói vài lờI giả lả khách sáo vớI mọi ngườI trong
đoàn và đi ngay, bỏ cả ăn sáng.
Từ Thanh Đa đi về Thủ Đức cũng không xa lắm. Vượt qua cầu Bình Triệu rẽ phảI cặp theo con đường song song với tuyến đường sắt, tôi về đến chợ Thủ Đức. Con đường này lâu lắm rồi tôi chưa đi ngang. Chính xác là từ sau ngày thầy tôi mất…
Con đường vào chùa cũng không thay đổi gì mấy. vẫn là những ruộng rau muống nối tiếp nhau, vẫn là những hàng cây xanh mát mắt. Đây rồi, cánh cổng chùa bằng gỗ cũ kỹ nằm khiêm tốn dưới tán lá bồ đề rợp mát. Cổng vẫn
mở rộng như ngày sư ông tôi còn tại thế. Không khí tĩnh lặng và vắng vẻ quá. Tôi bâng khuâng nhớ đến hai câu đối từng đọc ở Tịnh xá Trung Tâm:
“Thiền môn rộng mở ít người đến
Cửa khám then cài lắm kẻ vô”
Sợ làm ồn, tôi xuống xe ở cổng và dắt bộ vào. Băng qua sân chùa còn rơi vãi ít chiếc lá đa khô, tôi dẫn xe vào vườn. Một chú
tiểu trạc mười sáu mười bảy tuổI đang xách nước tưới cây. Nghe tiếng động,
chú quay lạI nhìn tôi chăm chú. Tôi chưa kịp hỏi, chú đã nở nụ cươi tươi nói
trước:
- Sư huynh tên Dũng phảI hôn?
- Đúng rồi, sao chú biết? – Tôi ngạc nhiên hỏI lại.
Chú tiểu vẫn cườI:
- Sư phụ có dặn, nếu sư huynh
đến thì lên thất gặp sư phụ.
- Thất nào? Có phảI chỗ của sư ông lúc trước hôn.
- Dạ đúng rồi. Sau khi khi
sư tổ viên tịch, sư phụ dọn lên ở trên đó luôn để tiện việc nhập thất.
- Vậy sao này sư bá không chữa
bệnh nữa sao?
- Dạ cũng có, nhưng sư phụ chọn
người dữ lắm. Có duyên ông mới chịu chữa.
Bằng không, sư phụ kiếm cớ tránh mặt hết.
- Chà, sau này ông khó khăn quá vậy ta.
- Không phải. Sư bá không muốn tạo nghiệp nữa. Hồi sư tổ viên tịch, ông cũng bị hành hết ba ngày mới hoá được. Lúc đó, các thầy ở các chùa khác đến tụng kinh cầu nguyện, sư tổ đâu có cho. Ông nói, ba chục năm tạo
duyên tạo nghiệp gây ân chuốc oán với cõi vô hình, bây giờ bị
đình trệ ba ngày có là bao. Ông chỉ biểu sư phụ làm phép giảI hết các sắc thần, sắc binh mà trước đây ông mượn để làm việc…
- Hồi sư ông bị bệnh, tôi kẹt tour miền Trung về không kịp. Có nghe Minh Tịnh kể
lại nhưng không rõ lắm…
- Sư tổ bị làm mệt suốt ba ngày đêm, ai nấy lo đến rơi nước mắt mà không biết phảI làm
sao. Chỉ có sư phụ kề cận trì chú trợ lực cho ông, còn mấy đứa tụi đệ chỉ niệm Phật vòng ngoài.
- Ủa, vậy ra chú đi tu mấy năm rồi à.
Vậy mà tôi hổng biết chú.
- Làm sao sư huynh biết được. Hồi sư thúc mất cho đến bây giờ, huynh có về chùa được mấy lấn đâu. Về thì huynh chạy lên
thất sư tổ ngồi miết, sau đó
chạy qua phòng sư phụ ngồi nữa,
huynh có để ý đến ai đâu.
Nghe đến đây, tôi khẽ cuối đầu xấu hổ. Chú tiểu nói đúng. Tôi tệ dần từ sau khi
thầy tôi mất…
- Sau khi sư tổ viên
tịch, sư phụ không muốn chữa bệnh
nữa. Khi nào gặp người hữu duyên có thể tạo phước sau này, sư phụ mới ra tay thôi. ĐốI với ngườI khác nhờ vả, khách thường thì sư phụ bế quan, khách VIP thì sư phụ đi lánh nơi khác. Riết rồi
ngườI ta nản không muốn ghé nữa.
Tôi thở dài:
- Thần thông như sư bá mà không
giúp người thật là uổng phí.
- Sư phụ nói, Phật độ hữu duyên nhơn. Ngày xưa,
trước khi độ người, đức Thế Tôn thường nhập định quán chiếu nhân duyên các đời của ngườI ta rồi
mớI bắt đầu hoá độ. biết được căn duyên mới hoá độ được tận gốc. Bây
giờ, người ta tu Tâm thì ít tu Tướng thì nhiều – tu Huệ thì ít tu Phước thì nhiều – tu Thật thì ít tu Giả thì nhiều – Chân thành thì ít Lợi dụng thì nhiều… trợ duyên cho những con người ấy là tự chuốc thêm phiền não, khó lòng thoát khỏi sanh tử luân hồi. Thôi thì, chùa trồng gì ăn nấy, không cần nhờ vả vào những đồng tiền bất chính của những người giả vờ tin Phật. Hộ Pháp sẽ không bỏ người tu …
- Vậy là sau này sư bá thường nhập thất lắm hả?
- Mô Phật. Một tháng
sư phụ nhập thất một tuần. Những tháng Hạ, sư phụ không đi Kiết Hạ như các thầy khác mà vô thất ngồi luôn. Còn những ngày không nhập thất, sư phụ ngồi thiền định một ngày bốn thời Tý Ngọ Mẹo Dậu, mỗI thời khoảng hai tiếng đồng hồ.
Chỉ có hôm nay hơi lạ. Sư phụ mới nhập thất có hai ngày thì sáng này ông dậy dặn đệ nếu có sư huynh nào tên
Dũng đến chùa thì biểu lên gặp ông…
“Như vậy sư bá biết mình đến hôm nay!” – Tôi thầm nghĩ và càng kính phục thần thông
của sư bá. Giá mà tôi có được một chút của ông thôi thì… Đang nghĩ vẩn vơ,
tiếng nói của chú tiểu làm tôi giật mình trở về thực tạI:
- Sư huynh lên đi, đừng để sư phụ chờ.
- Ờ há! Mãi nói chuyện mà tôi quên mất. À, mà chú pháp danh gì vậy?
- Mô Phật, sư phụ đặt
pháp danh cho đệ là Minh Trí.
Thì ra, hàng đệ tử của thầy và sư bá đều đặt chung chữ Minh. Tôi cũng có pháp danh là Minh Thông, nhưng ít ai gọi đến trừ thầy tôi. Có lẽ tại con người tôi còn nặng thế tục quá chăng?
Vừa nghĩ ngợi tôi
vừa leo lên thất của sư bá. Nói
là thất chứ thật ra là phần sân thượng phía sau chùa. Trước đây sư ông về cải tạo
lại, che mái và ngăn làm hai. Một nửa làm thất và một nửa làm sảnh. Ở ngoài
sảnh thờ năm đạo lệnh phù Bàn Cổ bằng vải vàng. Nét phù được vẽ bằng bút lông đại tự chấm châu sa
và son tàu đỏ thắm. Đó là nơi huynh đệ tôi thỉnh thoảng lên tu
luyện theo lệnh của sư ông.
Tôi leo lên đến nơi, nhìn thấy mọi thứ vẫn như xưa. Không kịp nghĩ
ngợi gì vì sư bá tôi đã ngồi đó tự lúc nào. Nhìn cái dáng gầy gầy ngồi khoan
thai bên cái bàn gỗ uống trà, tôi
xúc động muốn trào nước mắt. Tôi bước nhanh đến
chỗ ông ngồi, quỳ sụp
xuống thổn thức:
- Thưa thầy… - Chỉ có hai tiếng thôi, tôi hết biết nói gì.
Tôi quen gọi sư bá là thầy từ khi thầy tôi dọn nhà về Thủ Đức sống cạnh
chùa với sư ông (xem
“Ngũ Lão Bàn Cổ lệnh phù”).
Sư bá nhìn tôi im lặng chẳng nói năng gì. Ánh mắt ông toát lên vẻ gì đó vừa nghiêm nghị vừa từ ái. Tôi trang trọng đảnh
lễ ông bốn lạy. Ông ngồi tĩnh tại không hề tỏ thái độ nào.
Lạy xong, tôi ngẩng nhìn lên, sư bá chỉ tay vào cái ghế lớn bên cạnh bàn ra dấu tôi ngồi. Nhìn cái ghế còn lớn hơn ghế ông ngồi, tôi rụt rè từ chối và chạy lại phía bàn thờ lấy cái ghế đẩu nhỏ hơn đặt xuống
cạnh ông.
Sư bá khẽ gật đầu,
lại chỉ tay vào tách trà còn đang bốc khói để sẵn tự lúc nào ở trên bàn. Tôi không hiểu làm sao mà sư bá biết tôi đến lúc này mà rót trà để sẵn.
- Trà nguội bớt rồI đó, con uống đi. – Lúc này ông mới mở miệng.
Tôi suýt rơi nước mắt. Sư bá còn nhớ rõ tính tôi không thích ăn uống những đồ quá nóng. Ông quan tâm đến tôi như vậy, còn tôi thì…
Rón tay cầm ly trà lên khẽ nhắp một tí, tôi nghe tỉnh cả người. Mang tiếng là nước trà chứ thật ra chỉ là nước gạo lức rang vàng. Mùi thơm thoang thoảng
của gạo rang làm tôi nhớ lạI những ngày
xưa, lúc tôi bị đau bụng. Gần một tuần
lễ tôi chỉ uống nước gạo
rang này cầm hơi… Sư phụ tôi thường đùa tôi: “ Uống nước này đúng một tuần là con thoát thai hoán cốt luôn đó nghe!”.
- Thưa thầy … - Tôi rụt rè toan nói thì sư bá
khoát tay.
- Thầy biết hết rồi.
- Sao thầy biết được
ạ? - Vừa hỏI xong tôi mới sực nghĩ mình hỏi quá thừa. Một tia sáng loé lên trong đầu tôi. - Vậy là hồi hôm này thầy đã…
Sư bá khẽ gật đầu,
hơi mỉm cười với tay lấy tách
trà đưa lên miệng.
Thì ra là vậy. Tiếng vỗ bàn hồi hôm là do sư bá dùng phép cứu tôi. Chả trách tại sao bỗng dưng
ma quỷ rủ nhau biến mất sau tiếng động trong đếm ấy.
- Em chào anh Dũng! Mấy nay anh khoẻ không?
Đang ngồi uống cà phê tán gẫu cùng sư huynh Minh Tịnh thì một tiếng chào
cắt ngang câu chuyện. tôi ngẩng đầu lên nhìn. Một thanh niên ngoài 30 tuổi gầy gò, đen đúa như người dân
tộc đứng trước mặt tôi cười toe toét.
Nhìn nụ cười, tôi ngờ ngợ.
- Hình như em là…
- TrờI ơi, thằng Bình nè, anh hổng nhớ em hả.
- Bảy Bình phảI hôn? Ông ơi,
em đi đâu mà ghé đây? Không phải đã về Bà Rá ở rồi sao? Sao lại có mặt ở chỗ này. Còn anh Ba thầy của em có khoẻ hôn? Ảnh có về hôn?
Tôi hỏi liên tu bất tận không kịp cho Bình trả lời, thằng nhỏ
cứ đứng ngẩn ra mà cười. Một bàn tay vỗ nhẹ lên đầu gối của tôi,
quay lại thấy Minh Tịnh vừa cười vừa chỉ vào cái ghế. Tôi lúc bấy giờ mớ ngớ ra là chưa cho thằng nhỏ ngồi xuống.
- Thôi chết, anh xin lỗi. Bình ngồi xuống rồi nói chuyện đi em. Gặp lại tao
mừng quá nên quên cả việc mời ngồi.
- Dạ - Bình với tay kéo cái ghế ở bàn bên kia qua và từ tốn ngồi xuống. Trông nó có vẻ mệt mỏi.
- Em uống gì không?
- Dạ anh cho em ly cà phê đá ít đường.
- Sao em biết anh ở đây mà ghé?
- Dạ, em ghé nhà, nghe người nhà nói anh đi uống cà phê nên thử đi tìm. May sao chư thần chỉ lối vừa ra một đoạn là thấy anh đang ngồi với anh Hai…
- Ừ, lúc rảnh không biết làm gì là anh rủ ổng đi uống cà phê tán dóc cho đỡ buồn đó mà. Sao, còn em với thầy em dạo này thế nào?
- Dạ…
Tôi quen với thầy trò của Bình cũng trong một lần
đi núi. Ngày ấy, trên núi Cấm còn hoang sơ lắm. Người
hành hương tứ xứ tụ tập
lên Điện Bồ Hong lễ bái cúng dường xong là trải chiếu dưới mấy gộp đá mà ngủ. Người có tiền thì chịu khó đi bộ xuống vài trăm bậc đá sẽ có mấy
cái chòi che tạm để giăng võng ngủ. Nhưng hầu như mọi ngườI đều thích ở lại trên đỉnh hơn. Có lẽ họ
muốn được lãnh điển trời hay vì muốn được tự do nhóm họp và ca hát…
Đêm đó, người ở lại trên điện đa phần là bổn đạo của phái Tứ Ân Hiếu Nghĩa, phần còn lại là các vị có phần căn được vô hình dựa xác. Tôi tháp tùng theo đoàn khách hành hương ở khu người Hoa Chợ Lớn. Sau phần cúng lễ, hầu hết thành
viên trong xe tôi đều xuống dưới triền để nghỉ ngơi. Chỉ riêng tôi cùng vài người ở lại ngồi đàm đạo chuyện đông tây kim cổ. Không khí lúc đó cũng vui, bên đây rì rầm nói chuyện, bên kia đọc tụng lào xào, Văng vẳng vang lên mấy bài kệ pháp của các vị linh căn về điển…
Bỗng, ở phía bên kia có tiếng la hét bất thường. Cảm giác có điều bất ổn , tôi cùng vài huynh đệ vôi
chạy qua xem. Trong ánh sáng nhập nhoạng của đèn nến nghi ngút trên bệ thờ, tôi nhìn thấy một người phụ nữ đang vật vã. Những người xung
quanh đều hoảng hốt tránh ra xa thành một vòng tròn , chỉ còn lại giữa vòng
hai người đàn ông một trung niên, một trẻ tuổi. Anh bạn trẻ đang cố hết sức giữ chặt vai người phụ nữ, còn người đàn ông trung niên đang dùng nhang khoán thổi. Trớ trêu ở
chỗ, càng khoán thổi người đàn bà càng vật vã giữ dội.
Sau một lúc, người phụ nữ vùng dậy được hất mạnh chàng trai té ngã vào đám đông và gầm gừ gào thét dữ dội. Người đàn ông trung niên có vẻ hốt hoảng và tức giận. Tôi thấy ông ta co tay trái thành Lôi ấn, chuyển chân thành bộ Cương, ngưng
thần nắm chặt bó nhang trong tay…
Không hiểu động lực nào giật tôi ra khỏi đám đông,
chạy đến chụp cổ tay ông lại. Người đàn ông quay sang nhìn tôi với vẻ khó hiểu và bực dọc. nhưng lúc ấy tôi còn để ý gì nữa đâu. Chụp ly nước để trên bệ thờ, tôi kết ấn Cát Tường đọc kinh thỉnh Tổ. Một luồng khí ấm áp từ đỉnh đầu lan xuống, tôi lâng lâng sảng khoái. Không hiểu sao tôi bật nói một tràng tiếng lạ, khẩu âm
giống giống tiếng Khơme nhưng không phải.
Người đàn bà đang vật vã bỗng dịu hẳn lại. Bà ta ngồi yên lắng nghe tôi nói một cách chăm chú. Thế rồi…
Người phụ nữ cất tiếng trả lời. Tiếng nói cũng âm hưởng giống cách phát âm của tôi. Cả hai nói chuyện qua lại với nhau liên tu bất tận. Nói ra
thì kỳ, trước nay có bao giờ tôi biết nói tiếng Miên tiếng Lèo gì đâu. Hôm nay sao đột ngột xuất khẩu thành lời, một thứ ngôn từ
mà mình chưa bao giờ học. Thầy tôi có nói, đó là tiếng âm, tiếng của chư vị
Lục Tổ chư vị Lục Xiêm ở cõi giới trên trao điổi với nhau. Nghe thì nghe vậy chứ có áp dụng lần nào đâu mà biết, giờ đây gặp chuyện, cái
thứ tiếng lạ đó cứ tuôn trào như nước chảy. Lạ
hơn nữa là người phụ nữ nói đến đâu, tôi hiểu ngay đến đó, hiểu một cách tự nhiên như đang nghe tiếng
mẹ đẻ của mình…
Trao đổi với nhau một hồi lâu, người phụ nữ gật đầu ra vẻ đồng ý. Tôi liền bước tới gần
hớp một hớp nước trong ly phun lên phía sau lưng người phụ
nữ. Bà ta ưỡn người dựng đứng thân mình rồi rũ xuống như tàu lá chuối bị gió quật gãy. Sợ phần điển xuất ra mang theo sinh khí, tôi liền quỳ xuống phía sau lưng hoạ chữ Phật trong phép của Tổ sư Đại động
vào giữa hai vai người
phụ nữ, miệng lâm râm khấn vái:
MÔ TÂY PHƯƠNG SƯ TỔ, ÔNG BÙA ĐẠI TIÊN, LỤC CỤ CHUI.
NAM MÔ ÔNG BÙA, ĐỨC PHẬT VƯƠNG TRỢ LỰC CHO ĐỆ TỬ LÀM PHÉP GIÚP Đ ỜI..
Thời gian trôi nhanh khoảng chừng
hớp một chung trà, người phụ nữ cựa mình tỉnh dậy. Bà đưa mắt ngơ ngác nhìn quanh như dò hỏi. Tôi ngoắc mấy người ngồi gần đưa bà ta ra khỏi tâm vòng tròn, đoạn trả chung nước lại trên bàn thờ. Tiện tay, tôi thắp bảy nén nhang kỉnh lễ chư
vị…
Người đàn ông trung niên nãy giờ im lặng quan sát việc làm của tôi bây giờ mới lên tiếng:
- Chào huynh, chẳng hay huynh là…
- Dạ, tôi ở Sài Gòn mới xuống hồi chiều
này.
- Tôi cũng ở Sài Gòn đây. Chẳng hay huynh ở
quận mấy?
- Dạ, tôi ở quận 5, gần chùa Bà Thiên Hậu đường Nguyễn Trãi.
- Còn tui ở quận 8, gần cầu Chà Và. Tui với bổn đạo - vừa nói ông vừa chỉ mấy người ngồi quanh – cũng mới xuống hồi chiều này.
- Huynh ở gần cầu Chà Và vậy có ở đường Bến Ba Đình không vậy?
- Ủa, huynh biết hả? Tui ở cuối bến Ba Đình, gần chợ Xóm
Củi đó.
- Dạ, thỉnh thoảng tôi cũng có qua đó thăm người quen – Tôi cố tình dấu tung tích của thầy mình.
- Hay quá. Vậy khi nào có qua, huynh cứ đến gần ngã ba hỏi thăm cậu Ba
Hồng, ai cũng biết tui hết đó. Có dịp huynh ghé qua
nghen. Còn đây là thằng Bình, học trò của tui – Ông ta quay sang chỉ
người thanh niên đứng bên cạnh.
Khẽ gật đầu chào anh ta, tôi trả lời cho xong
chuyện:
- Dạ. Khi rảnh tôi sẽ
ghé…
Chưa đợi tôi nói hết, cậu Ba Hồng - tức người đàn ông trung niên - đã vội kéo tôi ra ngoài vòng tròn và hỏi nhỏ:
- Hồi nãy, huynh trao đổi gì với mấy ổng vậy?
Thì ra huynh ta đang thắc mắc cái vụ nói chuyện tiếng âm. Tôi cười hỏi lại cắc
cớ:
- Vậy huynh biết mấy ổng là ai hôn?
- Tui biết là chư vị thôi, còn là ai thì chưa rõ lắm.
- Chưa rõ mà huynh định dùng Ngũ Lôi đánh người ta, thiệt là …
Ba Hồng cười gượng:
- Hồi nãy, thấy nó lì quá nên tui định trục ra…
Lần này đến tôi nghiêm mặt:
- Tôi nói thiệt lòng, mong huynh tha lỗi nếu có gì xúc phạm. Huynh chưa biết là ai, cũng chưa hỏi rõ ngọn nguồn đã thủ ấn đánh người, không khéo sau này gặp chuyện phiền
phức không gỡ nỗi đó. Người ta là điển cô cậu, chưa đủ thời kỳ
về xác, huynh triệu thỉnh
các vị nhập về lại không giải điển được làm người ta bị kẹt
trong xác, vậy mà còn định đánh Ngũ Lôi nữa thì lỗi của huynh nhiều
quá xá.
Cậu Ba chống chế:
- Tôi nghĩ nếu là chư
vị thì phải xuất nhập bình an chứ, có lý đâu lại …
- Muốn về xác phải có sắc lệnh. Cái xác thối tha này, nhất là xác nữ càng nhiều uế trược, ai mà ngự cho được chứ. Lỡ vào rồi chẳng khác gì cá vô lờ, mắc kẹt lại xác làm sao mà chịu nổi… Hồi nãy, các vị giận huynh lắm đó.
Cậu Ba Hồng dường như thấm thía, thở dài ngồi im nhìn vào khoảng không trước mặt…
Chuyện ấy xảy ra thắm thoắt đã gần 10 năm.
Sau này, thỉnh thoảng qua thăm thầy, tiện đường tôi cũng có ghé nhà cậu Ba Hồng chơi. Nhà cậu cũng không rộng rãi gì, một trệt một gác
gỗ. Điện thờ ở trên gác, phần nhà trệt để bán tạp hoá và phòng ngủ, nhà bếp, nhà vệ sinh. Những chuyện giao lưu qua lại có lẽ không cần thiết phải dài dòng làm gì. Có điều, tôi không thường ghé nhà cậu mặc dù cậu rất quý tôi. Bởi mỗi lần ghé, ít nhiều gì tôi cũng phải ngồi đồng
tiếp xúc với một loạt các đồng đạo của cậu ta. Nhìn thấy các vị ấy cứ lúc âm lúc dương, không bao
giờ chịu tự chủ bản thân mà tu tiến, lúc nào họ cũng chờ đợi có ai nhập xác để nói chuyện huyền cơ khiến
tôi cảm thấy buồn lòng. Chư vị về tá điển làm việc giúp đời chẳng qua là muốn lập đủ các công đức để thằng lên bậc cao. Công đức ấy, phần xác được hưởng một phần. Nếu ai biết nương theo điều đó mà tu tập thì mau thăng tiến, ngược lại sẽ trở thành con đồng không hơn không kém.
Tôi buồn và không muốn tiếp xúc vì hầu hết những người tôi gặp đều sống dựa vào cõi vô hình. Thậm chí không ai giáng điển họ cũng tìm cách gật gù ỡm ờ cho có vẻ linh thiêng huyền bí, nói chuyện thì cứ như người cõi trên, áo quần thì luôn khác người. Nếu không
loè loẹt phấn son thì cũng ra vẻ tiên nhân giáng thế. Hỏi thăm gia đình họ mới biết đa số
là con cái lang thang học hành
không đến nơi đến chốn, vợ chồng hục hặc. Tôi chạnh nghĩ, lúc nào họ cũng ở trên mây như thế, chả trách
chồng, vợ, con cái nản lòng mà xa cách. Tôi có đưa vấn đề ra nói thẳng, nhiều vị còn tỏ vẻ giận dỗi hoặc đổ thừa cho căn số. Thiết tưởng, căn số là hoàn cảnh trớ trêu mà con người tìm mọi cách thoát ra nhưng không thoát. Còn họ cứ bỏ nhà bỏ cửa đi hết chùa này miễu nọ, hết đình to am nhỏ, hết núi lớn đến sông dài thì gia đình làm sao cung phụng cho nỗi…
Càng nghĩ, tôi càng thấy họ xa dần những điều Phật dạy, mê mãi trong ánh hào quang mà chư vị tá về giúp độ. Ngày nào đó không xa, khi công thành quả mãn, chư vị rút điển đi còn trơ lại xác thân, lúc bấy giờ nghiệp đổ ra
không ai gánh chịu giùm mình…
Bẵng một thời gian rất lâu tôi không ghé, nghe đâu gia đình cậu Ba bán nhà đi về kinh tế mới ở tận Bù Băng – Sông Bé (bây giờ là Bình Phước). Thằng Bình là đệ tử thân thiết, cũng không có người thân nên cậu Ba Hồng đưa
nó theo sống chung.
Vậy mà thoắt cái đã hơn ba năm …
- Dạ.. thầy em có lời
hỏi thăm huynh và anh Hai…
Câu nói của Bảy Bình kéo tôi trở về với thực
tại.
- Vậy dạo này cậu Ba ổng sống ra
sao?
- Vất vả lắm huynh ơi - Giọng Bảy Bình lắng xuống cố nén
một tiếng thở dài.
- Đành chịu thôi. Về vùng kinh tế mới mà, có phải như ở thành phố đâu mà đòi hỏi tiện nghi sung
sướng.
Minh Tịnh cũng góp vào một câu:
- Ngẫm ra chỉ ở tại đất Sài Gòn này là hạnh phúc nhất. Có nghèo đến đâu cũng không đến nỗi đói kém.
- Về trên ấy, mọi người sống
bằng gì?
- Dạ, thì cũng làm rẫy là chủ yếu.
- Ở trên đó yên tĩnh, gần rừng núi, chắc là cậu Ba ổng luyện dữ
lắm hả Bình?
Thằng Bình khẽ cúi đầu:
- Mất hết rồi huynh ơi. Thầy Tổ hết độ rồi…
- Vậy là sao ? – Tôi ngơ ngác.
- Dạ… sư phụ không những chữa bệnh hết được mà còn bị ma rừng phá phách nữa!
- Trời đất! Có chuyện đó sao?
Bảy Bình bắt đầu kể, nó kể nhiều lắm nhưng
tôi chỉ lược thuật lại hai câu
chuyện :
… Sau khi về Sông Bé gần một năm thì các nguồn hỗ trợ dành
cho người đi kinh tế mới cạn
sạch. Chính quyền thì ở xa, điều kiện đi lại thì khó khăn, rẫy bắp trồng
suốt thời gian qua không cho được bao nhiêu trái, lại không bán được cho ai. Thế là đói.
Thầy trò thằng Bình phải đi bẫy thú, bắn chim để cải thiện.
Hôm đó, hai thầy trò đang đi thăm bẫy thì nghe tiếng ếch kêu vang rân. Cậu Ba soi đèn và phát hiện trên mấy gò đất ếch hội đầy. Con nào con nấy bự bằng bàn tay trở lên. Mắt ếch phản chiếu
ánh đèn lấp lánh. Mừng rỡ như bắt được vàng, hai thầy trò bỏ cả việc thăm bẫy lao vào bắt ếch. Cái dòng ếch nghĩ cũng lạ, bị đèn chiếu vào mắt là ngồi trơ ra như bị thôi miên, người ta chỉ có việc bước tới nắm lấy ngang thân bỏ vào lồng.
Chẳng mấy chốc, cái
lồng đan bằng tre lồ ô đã đầy. Hai thầy trò khệ
nệ mang về nhà, vừa đi vừa tiếc rẻ mấy con ếch chưa bắt.
Đổ hết giỏ ếch vào cái lu gạo đã trống rỗng, thằng Bình chắn lên nắp đậy một cục đá to cho chắc ăn. Nó cẩn thận để hở ra một chút vừa đủ cho lũ ếch không chết ngộp. Xong, hai thầy trò đi ngủ. Cậu Ba vào ngủ trong buồng, thằng Bình ngủ ở nhà sau….
Chỉ mới lim dim chưa kịp thả hồn thì.. thằng Bình chợt nghe không khí yên lặng một cách lạ kỳ. Cái im lặng thật đáng
sợ. Nó tạo cho người ta một
cảm giác bất an. Thằng Bình trăn trở một hồi chợt nhận ra nãy giờ không hề nghe tiếng ếch
kêu. Quái! Không con này kêu thì cũng còn con khác chứ, lẽ nào im dữ vậy!
Nó mò mẫm trong bóng
tối lần ra sau hè. Đứng bên lu ếch, Bình đánh que diêm cháy sáng. Một tay cầm diêm, một tay kéo nắp lu xích ra một chút. Vừa nhìn vào lu, Bình đã hốt hoảng hét lên…
- Trời đất ơi…!
Bình chạy vội vào nhà, vừa lúc cậu Ba đang xỏ dép bước ra.
- Chuyện gì mà nửa đêm mày la hét vậy hả?
- Thầy ơi… mấy.. con ếch… nó… - Bình lắp bắp không nói nên lời.
- Mấy con ếch nó
sao? Chết hết rồi hả?
- Nó… nó…
- Hay là rắn vô bắt
ếch…
- Hổng phải, nó…
Câu Ba tức mình bỏ mặc Bình đứng đó, chạy vội ra sau hè. Cô Ba cũng vừa cầm cây đèn bão chạy ra.
Vừa soi vào lu, cả hai sững sờ
chết trân…
Trong lu không có một con ếch nào, chỉ đầy nhóc những cục đất to tròn bằng nắm tay trở lên.
Cậu Ba vừa quay trở vào nhà vừa than thở:
- Hết thời rồi! Hết thời rồi… Ma dám giỡn mặt thầy, ma dám giỡn mặt thầy…
Cả nhà im lặng như đưa đám,
không ai dám nói với ai một tiếng nào.
Sau đó vài tháng…
Mùa mưa đến. Muỗi rừng nhiều như trấu. Trời vừa chạng vạng là nó bay ra cả bầy vo ve
như tiếng đàn tiếng sáo. Chỉ cần quơ tay cũng nắm được mấy con.
Cho nên, vừa thấy mặt trời gác núi là ai nấy lo buông mùng. Ai ăn cơm chậm trễ thì bưng luôn vào trong mùng ngồi ăn. Ăn xong rồi đẩy mâm ra ngoài sáng hôm sau mới rửa.
Nhà cậu Ba nghèo
nhất nhì trong xóm (nói là xóm chứ cách xa nhau hàng chục thước mới có một căn nhà lá lụp xụp). Thầy trò cậu
phải tranh thủ làm thêm buổi tối. Ban ngày,
sau khi đi rẫy về, cậu và Bình chặt thêm mấy khúc tre lồ ô về chẻ nhỏ đan rỗ rá. Buổi tối, thầy trò đốt một đống un bằng lá
rừng có mùi cay vừa thay cho đèn dầu vừa để xua muỗi.
Hôm đó, mợ Ba bị sốt, thằng Bình phải lo dọn rửa chén bát phía sau, còn một mình cậu Ba ngồi vun đống củi khô và lá cây để đốt. Mùa mưa, lá và cành đều
ẩm ướt, thổi cho cháy lên được là cả một công trình. Khói bay mịt mù cay xè đôi mắt…
Bỗng …
Một tiếng nói vang lên sau lưng, phía cửa rào:
- Ô, có lửa rồi. Chú cho hơ lửa chút.
Tưởng có người hàng xóm nào ghé ngang, cậu Ba chẳng
thèm quay lưng lại, trả
lời:
- Hơ thì vô hơ, khách sáo gì.
Một bóng người bước tới
ngồi cạnh bên cậu Ba:
- Cảm ơn nhe!
- Lại khách sáo. - vừa nói cậu vừa đứng dậy bước vô phía trong hốt thêm mớ
lá.
Đến khi quay lại, cậu Ba điếng hồn “Ơ” lên một tiếng khi nhìn thấy …
Người đàn ông đang ngồi hơ lửa đội cái nón lá rộng vành kiểu người Tàu,
trên người khoác tấm lá bện bằng cỏ tranh
phủ ra sau lưng. Áo quần ông ta rách rưới. Hai tay giơ ra phía trước huơ huơ gần lửa, bàn tay gầy đét trơ xương, các ngón
cụt gần hết còn trơ cùi…
Nghe tiếng “ơ” của cậu, người đang
ngồi ngước mặt lến nhìn. Trời đất ơi! Trên khuôn mặt đầy xương lạnh lùng
như xác chết là hai hốc mắt sâu thẳm, hoàn toàn không có tròng mắt, con người.
Người đàn ông chợt cất tiếng cười, hàm răng ông nhe ra trắng ởn…
Thần hồn nát thần tính, không kịp suy nghĩ đến một câu chú hộ thân cầu tổ nào khác, cậu Ba quơ tay
chụp cái rựa trên đất liệng về phía người đàn ông rồi co cẳng chạy vào nhà…
Sáng hôm sau, hai thầy trò đi tìm cái rựa…
Nó nằm tuốt ở bìa
rừng, bên cạnh một gò mối bự
chảng…
Câu chuyện của Bảy Bình làm tôi nghẹn ngào. Cuộc đời làm thầy bao nhiêu là truân chuyên. Dù không bất hạnh như cậu
Ba nhưng huynh đệ tôi cũng đâu có sung sướng gì!
Cứu người thì được tiếng khen, không
cứu được người thì bị mang tiếng oán.
Thậm chí khi đã giúp người qua cơn nguy
hiểm, người ta vẫn cho là nhờ đổi thuốc, tìm được bác sĩ hay… Cái thói đời, đau chân thì hả miệng, vừa chạy bác sĩ vừa cầu khẩn tứ tung vừa thỉnh thầy bà đủ hướng. Đến khi khoẻ
mạnh thì phẩy tay, ngoảnh mặt
cho rằng nhờ khoa học hiện đại,
nhờ bác sĩ chuyên khoa mới bên nước ngoài về… Hừ! Bác sĩ mà ở được ngãi ma lai hay mở được độc trùng thư ếm thì mấy ông thầy huyền môn về
núi hoặc bỏ nghề từ lâu rồi!
Chạnh lòng, tôi nhớ lại hai câu
thơ của thầy thường hay ngâm
ngợi:
“Nhân tình thường bạc như vôi
Đến khi gặp ác mới hồi hung tâm”
Cuộc đời của một ông thầy có bao giờ ăn ngon mặc đẹp. Thậm chí, khi được tặng một cái áo mới, thầy cũng phải thắp hương bàn tổ rồi châm vào cho thủng áo mới dám xỏ vào.
Tôi nhớ lại ông Út làm thầy sửa sưng trặc
ở xóm tôi hồi ấy cũng vậy …lối
xóm không ai dám hó hé đến nhà ông, mặc dù ông rất hiền nhưng mọi người đều "chợn". Người ta đồn nhà ông toàn là ngãi nghệ, đến nhà ông thế nào cũng trúng ngãi mà chết. Tôi lúc đầu cũng sợ lắm, nhưng
vào nhà ông tôi chẳng thấy cái gì khác hơn bộ bàn ghế cũ mèm, cái bàn thờ đóng tạm bằng tấm ván
cũ, một bình hương chõng chơ
chẳng có bùa phép ngãi nghệ gì. Tôi được ông chữa đau ở ngón tay. Ngay trong buổi chiều ấy, tay tôi lành lặn bình thường như chưa từng bị trặc. Chúng tôi cám ơn ông và ra về sau khi cúng tổ ... chỉ bằng một cái trứng gà đã luộc sẵn...
Sau này lớn lên, tôi có quay lại tìn ông. Nhưng ông đã chết
được vài năm, căn nhà nhỏ
của ông được đứa cháu sang tay cho chủ khác. Thoáng chút ngậm ngùi về cuộc đời làm thầy, sống trong nghèo khó, cô đơn (xóm giềng có ai dám chơi với ông đâu), chết cũng trong cô đơn nghèo khó ( nghe
nói lúc ông chết chỉ có một bộ đồ cũ liệm xác, một chiếc hòm phước thiện của trại hòm và vài người tốt bụng tiễn đưa).
Sau này khi học phép ra
sư với thầy, tôi mới thấm thía cái vị cay đắng chua chát của cuộc đời. Minh Tịnh sư huynh tôi cũng đâu có hơn gì, thậm chí còn vất vả bất hạnh hơn
nhiều. Tôi còn ung dung đi tour đây đó chứ huynh ấy suốt ngày bị cột chặt vào công việc, phải cày
bừa để hùn cơm với gia đình,
lúc tan sở lại đạp xe cọc cạch đến
nhà người ta chữa bệnh.
Mà thói đời nghĩ cũng lạ. Phù thịnh không ai chịu phù suy. Thầy càng giàu có càng làm tiền dữ tợn, con công đệ tử càng xúm vào tâng bốc. Thầy lệnh phải
cúng bao nhiêu tiền thì phải cung cúc lo đủ bấy nhiêu tiền, không hề dám thở than một tiếng. Nhưng gặp thầy đi xe đạp, mặc áo rách thì khinh khi ra mặt, một ly nước chẳng muốn mời. Thậm chí nghe đề nghị bố thí phóng sanh họ liền nhăn
mày nhíu mặt than không có tiền xoay sở…
Đó là lý do vì sao
người đời dễ bị lường gạt đến tiền mất tật mang…
Thật ra, than thở là nói theo thói đời vậy thôi. Khi vào cửa đạo, ai nếm qua pháp vị
mới thấy nó hơn hẳn mọi vị trên cõi đời. Không có gì bình an bằng sự bình
an trong tâm hồn con người. Tự
biết thế nào là đủ, ung dung trong
cuộc sống “an bần lạc đạo”, thế mới là tiên tại thế…
Dạ, hôm nay em về kiếm
huynh là có chuyện gấp.
Câu nói của thằng Bình kéo tôi trở về với thực tại.
- Có chuyện gì vậy
Bình?
- Dạ, sư phụ bảo em phải về tìm sư thúc đi một chuyến về Bù Đăng để phụ giúp sư phụ. Nhưng về đây thì sư thúc đi núi mất
tiêu rồi. Chuyện lại gấp
gáp quá, em chạy lại tìm
huynh hú hoạ, biết đâu huynh có thể giúp được gì. May sao, gặp huynh và anh Hai ở đây…
- Mà chuyện gì mới
được, mày cứ vòng vo hoài anh hổng hiểu gì
hết.
Bảy Bình hắng giọng và bắt đầu kể…
... Khu dân cư ở Bù
Đăng nhà cửa khá thưa thớt. Cách
xa hàng chục thước mới có một căn nhà lá. Hiếm hoi lắm mới có vài căn nhà tường lợp tôn xi măng. Đó là nhà của mấy vị cán bộ trong xã sinh sống ở nơi này
từ rất lâu. Ở phía sau khu nhà là rừng chuối bạt ngàn kéo dài ngút mắt. Người dân ở đây sinh sống chủ yếu là nghề làm rẫy, tỉa bắp, trồng
mì. Các loại cây khác như mít, đu đủ chuối thì trồng tự nhiên, đến khi đủ ngày tháng cây tự động ra trái. Chủ vườn cứ việc
ra đốn về đóng vào cần xé mang ra vựa bán.
Bọn trẻ ở vùng này gần một nửa là
thất học. Muốn đến trường Tiểu học,
phải lội bộ gần chục cây số mới đến xã. Học Trung học thì phải đi mấy chục cây số ra tận thị trấn. Nhà ai nấy đều nghèo, làm gì có đủ tiền bạc và phương tiện mà đi học như con nít
thành thị. Vả lại, đi học hết lấy ai coi
nhà và phụ giúp chuyện gia đình. Thôi thì trời sinh sao chịu vậy. Chừng nào khá giả hẵng hay.
Trẻ con ở nhà một đám lủ khủ lớn nhỏ đủ
hết. Nhiều khi ba mẹ chúng đi làm rẫy, không biết chuyện gì làm chúng liền tụ tập nhau
lại bày đủ trò để chơi, khi thì nhảy dây, khi thì rượt bắt, lúc thì đá banh, chọi cầu, leo cây, đánh chõng…
Hôm trước, mấy đứa
nhỏ ở không tụ tập lại chơi
trò ma chuối…
Thằng Hiếu con chú Năm
trưởng ấp oẳn tù tì bị thua nên ngồi chính giữa làm ma. Bọn trẻ chạy vào rừng chuối cạo phấn chuối đem về xoa đầy mặt mũi tay chân thằng Hiếu. Sau đó,
thằng nhỏ bị bắt ngồi chồm hổm, hai tay bịt mặt. Cả đám đi vòng tròn xung quanh mỗi đứa cầm trong tay một tàu lá chuối vừa đi vòng quanh thằng Hiếu,
bọn trẻ gõ tàu chuối lên đầu thằng nhỏ vừa hát:
Con ma chuối
Ở trong núi
Ở trong rừng
Nhảy cà tưng
Qua con suối
Về ăn muối
Về ăn cơm
Nằm ổ rơm
Chơi rượt bắt
Hú… oà… oà…
Hát chừng vài chập, thằng Hiếu
vụt đứng dậy...
Hai mắt nó giương lên chỉ còn tròng trắng. Hai tay
vươn dài về phía trước, lưỡi chợt le
ra lòng thòng, nó khệnh khạng bước …
Lũ trẻ rú lên bỏ chạy tán loạn. Mấy đứa nhỏ hoảng hốt chạy tuốt về nhà đóng cửa lại, hai ba đứa lớn lúc đầu ngỡ thằng Hiếu giả vờ nên còn né qua né lại cười cợt. Sau vài phút, thấy vẻ không bình thường của thằng
Hiếu, tụi nhỏ bắt đầu sợ thiệt. Không ai bảo ai, tụi nó cắm đầu cắm cổ chạy thục
mạng tìm chỗ nấp…
Một lát sau…
Nghe không khí chừng yên tĩnh trở lại, thằng lớn nhất chạy ra khỏi chỗ ẩn nấp thăm dò. Xung quanh vắng lặng, thằng Hiếu biến đi đâu mất. Những đứa khác cũng lục tục kéo ra, hỏi thăm nhau, chẳng ai thấy thằng Hiếu ở chỗ nào. Thế là nháo nhào đi tìm…
Chiều tối, người lớn đi rẫy về, thằng Hiếu vẫn bặt vô âm tín. Nghe bọn trẻ kể lại, cả xóm đốt đuốc chạy tìm tứ xứ . Chú Năm xách chiếc xe honda cà tàng chạy thẳng lên xã báo cáo. Xã đội cử mấy dân quân vác súng đi tìm với bà con.
Một đêm thức trắng. Gần sáng, mọi người lủi thủi kéo về. Ai nấy mệt mỏi rã rời. Chú thím Năm mặt mũi bơ phờ hốc hác…
Bóng dáng thằng Hiếu vẫn mù mịt.
Ngày thứ hai trôi
qua trong vô vọng. Bóng dáng thằng Hiếu vẫn bặt
vô âm tín. Mấy đội tìm kiếm đã toả ra khắp cả vạt
rừng để cứu hộ nhưng tất cả
đều trở về trong thất
vọng. Bây giờ, gia đình chú Năm chỉ còn hy vọng vào nhóm người dân tộc đang lùng ở vạt rừng bên trong.
Đến tối, mấy thanh niên ngườI Ch’ro đã về đến xóm. Nhưng, nhìn thấy thái độ ủ rũ của họ, ai nấy
đều biết kết quả như
thế nào rồi. Già làng dẫn đầu nhóm tìm kiếm lắc đầu nói bằng tiếng Việt lơ lớ:
- Bọn tui tìm khắp nơi không thấy
gì. Cũng không có dấu thú rừng. Tui chắc thằng nhỏ bị con ma bắt đi rồi.
Thím Năm gục xuống xỉu tại chỗ, mọi người lại phải đưa thím vào nhà cứu chữa…
Chợt, anh Tư Phước hàng xóm sát nhà cậu Ba Hồng nhớ ra:
- TạI sao mình không nhờ anh Ba ảnh giúp cho. Tui biết ảnh làm thầy hồi còn ở Sài Gòn lận.
Chú Năm mừng như ngườI chết đuối vớ phảI phao cứu sinh:
- Sao anh không nói sớm. Anh đưa tui qua nhà ảnh đi.
Thế là chú Năm cùng Tư Phước chạy qua
kiếm cậu Ba…
…
- Dạ - Bảy Bình kết thúc - thầy em nói
dạo này khí vận không tốt lắm, không thể làm được chuyện này.Nhưng ngườI ta năn
nỉ quá sức, vả lạI chú Năm
cũng là người trên xã, không giúp ổng cũng khó khăn trong công
việc sau này. Vậy là thầy kếu em tức tốc về Sài Gòn tìm sư thúc trợ giúp.
Không có ổng thì may thay gặp hai anh
ở đây…
- Gặp ở đây thì sao? – Tôi hỏi ngược lại.
- Em định nhờ huynh giúp…
Bình chưa nói hết câu, tôi trợn mắt:
- Trời đất! Bộ em tính kêu anh theo em về Bà Rá hả?
- Dạ, rối quá, em chỉ biết nhờ
huynh…
- Nhưng… chuyện này
tao chưa làm lần nào hết. Không biết có được không nữa.
- Huynh ráng giúp giùm thầy trò em. Lúc này, không có huynh em chẳng
biết nhờ ai. Huynh làm ơn giúp giùm…
Thằng Bình năn nỉ làm tôi mủi lòng.
Còn đang ngẫm nghĩ thì chân tôi bị đá nhẹ một cái. Ngó sang, Minh Tịnh nhìn tôi khẽ gật đầu một cái. Tôi mừng húm:
- Ông giúp tui nhe!
Minh Tịnh lại gật đầu.
Tôi thở phào nhẹ nhõm.
- Thôi được rồi. Trả tiền cà phê rồi mình lên đường luôn. Ghé qua nhà anh lấy đồ cái đã, tiện thể nói với mà anh một tiếng kẻo bà trông…
Đường về Phước Long xa mù mịt. Ba huynh đệ tôi ngồi bó chả trong chiếc xe
chạy bằng than nóng như lò bát quái và
chật cứng. Thằng Bình có vẻ quen thuộc nên
ngồi tự nhiên, Minh Tịnh lên xe ngồi nhắm mắt như ngủ. Có mình tôi là khó chịu thật sự. Trước nay, mỗi lần đi xa, nếu không đi máy bay thì cũng đi ô tô du lịch gắn máy lạnh đàng hoàng.bây giờ mới biết cảm giác đi xe than thú vị cỡ nào… Ngồi im một hồi, tôi thử quán tưởng. Thân con người lúc
chưa sinh ra cũng đâu có rộng rãi gì hơn. Trong một cái túi nhau chật hẹp suốt chín tháng mười ngày. Khi ra đời lại bị quấn vòng trong vòng ngoài như bó chả. Lớn lên lại bị ràng buộc vào trong hàng loạt những thứ
linh tinh khác, rồi mãi quây quần trong đời tạm cũng chật chội khó chịu tù túng có khác chi mình ngồi trong chiếc
xe than này. Chẳng qua, một cảm
giác chật hẹp nóng bức có thể cảm nhận được và một cảm giác vô hình không thấy được đó thôi…
Nghĩ đến đó, tôi thấy cảm giác khó chịu không còn hành hạ mình nữa. Tôi cũng bắt chước Minh Tịnh khoanh tay lim dim mắt. Bất ngờ, sư
huynh mở mắt nhìn tôi cười ý nghĩa. Tôi cũng cười và
nhắm mắt lại đọc bài kinh hộ mạng: “
Buot tho tế lô…”
Vào đến chỗ ở của cậu Ba, tôi mới biết cuộc sống cậu ấy khổ đến thế nào. Một căn nhà lá ba gian lụp xụp, cái sân hẹp phơi đầy củ
khoai mì và bắp. Bước vào trong, cái bàn thờ đóng tạm bằng mấy miếng ván cũ, trơ vơ phía trên là hình Phật Di Đà, Quan âm, phía dưới là tấm sắc thờ chư vị 5
ông đã bạc màu theo năm tháng…
Cậu Ba từ nhà sau bước lên, nhìn thấy huynh đệ tôi, cậu ớ lên một tiếng rồi đứng
trân ngỡ ngàng, xúc động. Có lẽ cậu không ngờ huynh đệ tôi lặn lội lên tận chốn này…
Chuyện hàn huyên những tưởng không
cần kể lể dài dòng. Huynh đệ chúng tôi ngay sau đó theo cậu Ba sang nhà chú Năm ba thằng Hiếu.
Nghe nói có thầy ở Sài Gòn xuống, bà con trong xóm kéo đến một nhà. Kẻ trong người ngoài lố nhố như xem hát tuồng. Huynh đệ tôi đã quen với những chuyện
này nên cũng không ngại ngùng cho lắm.
Sau khi nghe kể đầu đuôi câu chuyện, Minh Tịnh nhìn đồng hồ nói:
- Bây giờ cũng chiều rồi, mình phảI khẩn trương lên để kịp tìm thằng nhỏ về trước lúc trời tối. Để mặt trời sụp xuống là khó hy vọng lắm. Đêm nay là đêm thứ ba rồi.
Chú Năm tha thiết:
- Dạ, thầy cứ chỉ dạy, chuyện gì tụi tui cũng là
hết.
Tư Phước cũng xen vô:
- Tụi tui cũng giúp
nữa thầy. Cả xóm này ai cũng lo cho thằng nhỏ hết trơn, thầy có cần gì cứ nói.
Minh Tịnh không nói không rằng tiến đến bàn thờ Thổ công thắp nhang khấn vái. Tôi biết huynh ấy đang triệu thỉnh Thổ Thần hỏi việc.
Giây lát, Minh Tịnh cắm nhang vào lư hương, quay sang bảo tôi:
- Ông thắm nhang bàn
thờ Phật và bàn thờ gia tiên. Đọc bài Ân đức Phật trước, sau đó qua bàn thờ gia tiên lấy tên tuổi thằng nhỏ mà tụng kinh hội Cửu Huyền Thất Tổ, nhờ họ bảo mạng giùm.
Quay sang chú Năm:
- Anh vào bếp lấy cho tôi cái chén mà thằng nhỏ thường dùng ăn cơm. một đôi đũa cũ đem lên đây. Còn bà con – quay sang Tư Phước huynh nói tiếp – ai tuổi Dần, Ngọ
Tuất thì đi phụ tìm thằng nhỏ, ai không phải tuổi thì cứ
ở nhà đi theo không tiện.
Trong khi tôi cúng bên trong thì Minh Tịnh bước ra sân vẽ bùa làm phép…
Pháp sự hoàn tất, cái chén của thằng Hiếu được đặt vào trong lư hương cửu huyền. Lấy gạo đổ đầy chén, Minh Tịnh thắp ba cây nhang cắm vào, lấy một cái trứng gà để dưới chân nhang, gác ngang đôi đũa và bắt đầu khởi hành vào rừng.Nhóm người tìm kiếm cũng chia làm ba
nhóm theo tuổi. Tôi và Minh Tịnh đi vớI nhóm tuổi Dần, cậu Ba
Hồng và chú Năm đi với nhóm tuổi Ngọ, thằng Bình và thím Năm đi với nhóm tuổi Tuất. Mỗi nhóm mang theo chiêng,
nắp nồi, vỏ đạn để gõ tạo thành tiếng động. Vừa gõ, họ vừa gọi tên
thằng Hiếu om xòm.
Rừng càng lúc càng dày đặc, trời cứ tốI dần đi. Chúng tôi bắt đầu
sốt ruột. Cây nhang đã tàn hơn một nửa mà bóng dáng thằng Hiếu vẫn không thấy đâu.
mệt mỏi, chúng tôi ngồi bệt xuống một gốc cây to nghỉ ngơi. Trời sẫm dần lại, không gian mờ ảo…
Bỗng, một con khỉ từ đâu trên cây nhảy xuống chụp lấy cái trứng gà và chạy biến vào rừng mất dạng. MọI
người nhốn nháo toan chạy theo thì sư huynh tôi ngăn lại. Nhìn thấy vả mặt tươi cười của huynh ấy là tôi biết có chuyện vui rôi.
- Sao ông? Được rồI hả?
Khẽ gật đầu, huynh ấy gọi lớn:
“ Bà con về nghỉ, trờI tối rồi không tìm được nữa đâu.”
MọI người lốc thốc kéo về.
Đến gần nhà chú Năm, ai nấy nghe tiếng ồn ào náo nhiệt. Giọng tư
Phước to nhất:
“… Tụi tui mệt quá tính đi vế thì thím Năm bả mắc tiểu. Bả
vừa chạy u vô phía sau bụi chuối để xả
thì tụi tui nghe bả la
chỏi lỏi. Hết hồn, tui và thằng Bình chạy vô thấy bả đưa tay chỉ bụi chuối lớn bên trong. mấy người biết gì không? Thằng Hiếu nó ngồi thu lu ở giữa mấy gốc chuối. Mắt nó đứng tròng, tay bó gối. Còn cái miệng nó hả… Trời đất ơi, nhét đầy nhóc đất cục luôn. Tụi tui chạy lạ i khiêng thằng nhỏ ra ngoài, móc đất trong miệng nó ra.
Ông ơi.. trong đất còn có mấy con trùng bò lổn ngổn thấy mà ớn. Vậy là mấy anh em tôi thay nhau vác nó chạy về đây…”
Minh Tịnh vẹt mọi người ra, tiếng đến chỗ thằng nhỏ đang
nằm trên bộ ván. mặt của nó xanh mét, mắt nắm khít
như ngủ. Huynh ấy, lấy lay đặt lên đầu thằng Hiếu nhắm
mặt niệm lâm râm, tôi cũng nắm vội hai ngón chân cái đứa nhỏ để tiếp lực. Đọc xong bài kinh Phật Lực, Minh Tịnh thổi ba hơi vào đỉnh đầu thằng Hiếu. Đoạn, dựng nó lên vỗ ba cái vào giữa hai gù vai.
Thằng Hiếu cựa mình
mở mắt. Thím Năm mừng qua chạy
lại ôm chầm lấy nó khóc nức nở…
Minh Tịnh dặn:
- Ở nhà pha nước gừng cho đứa nhỏ uống, đừng
bu đông qua nó bị ngộp.
sau khi tỉnh hẳn. Hiếu bắt đầu kể:
- Hồi chơi trò ma chuối. Con đang ngồi thì có một cô đẹp lắm bước tới hỏi con muốn đi chơi không, có chỗ này vui lắm. Con vừa gật đầu thì cô đó bước tới nắm tay con
chạy đi vù vù. Đến một chỗ đông người lắm. Họ rủ con ở lạI chơi, họ cho con nhiều đồ ăn với kẹo bánh.
Đang ăn thì mấy chú đến kêu con về…
Thì ra thằng nhỏ bị ma chuối dấu. Hồn nó bị đưa vào cõi ma, cũng
may là còn kịp đưa về. Nếu không, để qua đêm nay thế nào nó cũng bị kẹt ở lại trong đó làm ma rừng suốt đời.
…
Chú Năm mừng rỡ liền làm luôn mấy con gà đãi bà con chòm xóm. Dĩ nhiên chúng tôi là thượng khách nên được khẩn khoản ở lại thưởng thức món gà nướng đất sét đặc biệt do thím
Năm làm. Anh em tôi viện cớ ăn chay nên xin phép ra về…
Trên đường về nhà cậu
Ba, tôi và Minh Tịnh khẽ chạnh lòng cho cái vô minh của con người. Lẽ ra, con được cứu trở về thì gia
đình phải hồi tâm chuyển ý mà tin Phật. Đằng này… còn tiếp tục sát sanh để ăn mừng thoát
nạn. Nghiệp này cứu được, sau này nghiệp khác chồng lên không biết ai sẽ là người cứu họ đây.
Nghĩ mà buồn cho người đời. Miệng họ luôn nói tin Trời tưởng Phật, ngồi nói chuyện với nhau toàn lý lẽ cao sâu đến khi gặp chuyện rồi
mới hiểu con người thực tại là thế
nào. Tôi khẽ chua chát
nhớ lời nói của chú Năm trước khi chia tay:
- Tôi hứa sẽ ăn chay mà. Nhưng đó là chuyện ngày mai. Còn bữa nay, anh em mình nhậu một bữa cho vui, coi như mừng thằng nhỏ bình an trở về…
Không biết khi nghiệp báo đổ tới, có ai đứng ra hẹn ngày mai không nhỉ?
… Tối đó, ngồi nói chuyện với cậu Ba đến gần sáng. Chúng tôi mới biết thêm nhiều câu chuyện về sự thăng
trầm của cậu suốt thời gian qua. Thôi! Làm thầy là để trả nghiệp. Nghiệp
hết rồi thì mọi thứ lại bình ổn như xưa thôi.
Nhìn lên bà thờ lấp loé mấy cây nhang cháy đỏ, tôi biết chư Thần vẫn còn ở đó. Nhưng, đâu có chư
thần nào chịu xen vào nhân quả thế gian đâu. Họ chỉ xuất hiện đỡ lưng trong những lúc tối cần thiết… Đó lại là chuyện khác sau này của câu ba, không phải là câu chuyện bây giờ
… Ba giờ sáng, thầy trò thằng Bình đã thức dậy tiễn huynh đệ tôi ra lộ lớn. Nơi đó,
những chiếc xe than chở chuối mít,
khoai mì đang đổ về Sài Gòn. Chúng tôi sẽ đi nhờ một trong những chiếc xe than ấy. Quà tặng mang về là … mấy củ khoai mì mà cô Ba thức dậy nấu từ
hồi sớm.
Chiếc xe than rồ máy
chạy bon bon trên con đường về thành phố. Bóng thầy trò cậu Ba nhanh chóng biến mất trong màn đêm. Mỗi người lại tiếp
tục cuộc hành trình của mình…
Còn gia đình chú năm? Có lẽ giờ này họ vẫn đang ngủ ngon sau bữa tiệc rượu linh đình.
Ngó sang Minh Tịnh, huynh ấy lại tiếp tục khoanh tay lim dim không biết đang ngủ hay thức.
Ngó ra ngoài, trời vẫn còn tối đen như mực. Chiếc xe
than chở chúng tôi đang cố pha đèn vào khoảng không gian đen tối để tìm đường chạy…
Viết xong ngày 15 tháng 5 năm 2009
VỀ
NÚI CẤM - GIẤC
MƠ LẠ.
Núi Cấm – một địa danh đi vào lịch sử.
Núi Cấm – nơi chứa đựng bao huyền sử dân
gian qua những câu sấm Trạng Trình, những bài sấm giảng, thi văn
của đức Phật Trùm, của Sư Vãi bán khoai, của đức Bổn sư Ngô Lợi….
Những nhà nghiên cứu lịch sử bắt gặp ở đây một chặng hành
trình mở đất gắn liền với những cuộc khởi nghĩa oanh liệt chống Pháp của các vị anh hùng dân tộc: Phật Thầy Tây An, ông Cử Đa,đức Cố Quản...
Những nhà nghiên cứu văn hóa bắt gặp tại nơi đây
sự giao thoa của những nền văn hóa tâm linh khác nhau: văn hóa Kh’mer Nam Bộ, văn hóa Ấn
Độ, văn hóa Java hòa trộn với
phong cách bản địa tạo nên một bản sắc đặc trưng không lẫn vào đâu được.
Còn những bậc phong thủy sư nhìn thấy được ở núi Cấm (Thiên Cẩm sơn) có địa mạch quan trọng nhất ở vùng Bảy Núi, là ngọn núi thiêng ẩn tàng nguyên khí của vùng đất phía Nam này…
Thời gian trước, tôi là người tu huyền môn,
cho nên sự quan tâm thiết yếu nhất vẫn là những huyền tích kì lạ đang bao phủ ngọn núi thiêng này như một màn sương mờ ảo. Đã bao lần tôi ước mơ được về Bảy
Núi, niềm mong ước ấp ủ
từ những ngày đầu theo học huyền thuật với thầy tôi… Mỗi lần đọc bài phụng thỉnh “ Trà Lơn ,Thất Sơn, Ông
Cấm, Ông Két, Núi Sam, Núi Sập…” là một cảm giác hoài niệm mênh mang không rõ căn nguyên từ đâu ập tới choán ngợp cả tâm hồn đứa trẻ 15 tuổi. Niềm mơ ước được về núi chất chứa theo thời
gian dần dần trở thành sự khát khao vô bờ bến.
Nhưng, tôi biết điều đó là vô vọng. Bởi tuổi đi
học lại nhà nghèo như tôi làm gì có tiền để về. Mà dù có tiền đi nữa cũng không
thể nào đi được. Ba tôi làm cán bộ nên rất dị ứng với
chuyện chùa miễu núi non… Tôi chỉ biết nén thở dài, đêm đêm trèo lên nóc nhà luyện sao rồi hướng về phía Tây Nam mà vọng bái…
Rồi có lúc cơ duyên cũng đến.
Nhờ đi chữa bệnh mà tôi quen được cậu Sáu, người chuyên tổ chức hành hương cho bổn đạo. Biết tôi chưa từng đi núi, cậu ngỏ lời mời tôi cùng tháp tùng một chuyến nhân dịp mùa hè. Tôi vừa mừng vừa lo
lắng. Làm sao đi được! Từ trước đến giờ tôi chưa từng đi cắm trại quá hai
ngày. Bây giờ đi biệt tích ba ngày ròng rã sức mấy mà ba tôi đồng ý.
Tôi băn khoăn đem chuyện này trình với sư phụ. Thầy tôi khẽ cười:
- Duyên con tới rồi,
thầy cho con câu chú như ý này về đọc
một đêm rồi nói chuyện với nội, con sẽ được đi. Nhưng, nhớ một điều, con chỉ sử dụng lần này thôi nghe. Không được lạm dụng …
Nói xong thầy tôi kề
tai tôi đọc nhỏ như vầy… như
vầy…
Tôi lẩm bẩm vài
lần là thuộc lòng. Đêm đó tôi về luyện chăm bẳm có câu chú thầy tôi chỉ.
Sáng dậy làm bánh, tôi trịnh trọng xin nội
tôi. Nghe xong, bà nội tôi gật đầu cái rụp không hỏi han thêm. Má tôi nhăn nhó:
- Nó có đi đâu nhiều
ngày như vậy, rủi có chuyện gì…
- Chuyện gì là chuyện gì? – Bà nội nạt ngang – Nó lớn rồi, cũng có dịp
cho đi ra ngoài một chút chứ. Dạy con như vợ
chồng bây làm sao nó nên người.
Má tôi im re không dám nói thêm tiếng nào.
Trời ơi, tôi mừng như bắt được vàng, trong bụng cứ ca
vọng cổ. Bữa hôm đó ngồi làm bánh hoài đến trưa không biết mệt là gì…
Ba đêm trước khi về núi, tôi nằm mơ thấy một
chuyện kì lạ…
Tôi đi lang thang giữa cánh đồng mênh mông nước nổi… Còn ngơ ngác chưa biết
sẽ làm gì thì một ông già trạc ngoài năm mươi tuổi, tóc dài búi cao , râu ba chòm lốm đốm bạc, mặc bộ bà ba
màu nâu đất bơi xuồng lại gần.
Cụ nhìn tôi cười đôn hậu, ra dấu chỉ
xuống chiếc xuồng. Không hiểu sao tôi riu ríu làm theo …
Chiếc xuồng nhỏ xíu,
nhẹ tâng lướt trên mặt nước không có chút gợn sóng. Nước trong veo. Bất chợt nhìn xuống, tôi giật bắn người vì có rất nhiều con vật lạ
bơi nhởn nhơ. Những con vật này hình dáng kì dị chưa hề có
trong sách sinh vật mà tôi được biết, không phải cá, cũng chẳng phải rắn, chẳng phải rùa. Tôi định quay sang hỏi ông
già thì trước mặt tôi đổi khác – một con đường mòn đi lên núi…
Buổi sáng thức dậy, hình ảnh trong mơ vẫn như in. Tôi nhún vai rồi lắc mạnh đầu tự nhủ: ngày
tưởng – đêm mơ.
VIẾNG MIẾU BÀ CHÚA XỨ.
Ngày đi núi, tôi có mặt rất sớm. Háo hức quá mà! Cậu Sáu xếp cho tôi chiếc ghế súp
ngồi gần tài xế, cậu nói nhờ tôi ngồi trên sẵn chú nguyện cho chiếc xe
thượng lộ bình an. Tôi biết là cậu nói khéo đấy thôi. Một chiếc ghế đi núi cũng mấy chục ngàn, tôi đi ké thì làm gì có phước mà ngồi ghế dựa. Chẳng quan trọng. Được về núi là vui rồi.
Ngồi trước mặt tôi là một chị độ ngoài ba mươi, nghe mọi người gọi là Út Hà. Chị là bà con xa với cậu Sáu.
Sau lưng tôi là anh Huỳnh, lớn hơn tôi vài tuổi, cũng thuộc dạng linh căn đang thời kì bị hành xác. Nhìn cái mặt đen thui và đôi mắt tán thần của anh là tôi biết anh không làm chủ được mình. Anh cũng lần đầu đi núi và cũng được cậu Sáu cho một chiếc ghế súp như tôi. Anh Huỳnh lầm lì ít nói, tôi vốn cũng ít giao tiếp nên
cũng chẳng hỏi han bắt chuyện làm chi.
Chặng hành trình từ Sài Gòn đến Châu Đốc kéo dài tới chiều tối mới đến. Bởi trên đường đi, bác tài xế vô tình quẹt trúng đuôi xe của một người đang chạy cùng chiều khiến anh ta
loạng choạng tay lái. Thế là tức tốc, anh ta hô hoán lên rồi cùng bạn bè đuổi theo chặn đầu xe, leo lên hành hung bác tài.
Thấy có vẻ không êm, tôi cúi đầu tụng chú xả tai.
Quái! Hổng hiểu sao chú tụng không linh. Tôi càng đọc, cuộc thư hùng lại càng dữ dội, có người còn nổi điên xách cây lớn đập vào thùng xe rầm rầm làm mấy bà già trên xe sợ khiếp vía. Cuối cùng, cậu Sáu phải chạy xuống xin lỗi và bồi thường một số tiền không nhỏ họ mới cho xe đi.
Đến chỗ dừng chân châm nước xe, tôi thấy bác tài nói nhỏ gì đó với cậu Sáu. Cậu vội vã gọi anh Huỳnh tới và chỉ vào xe chỗ tôi ngồi. Anh Huỳnh lập tức chạy lên xách chiếc ghế chị Út Hà ngồi đem đi rửa. Nhìn theo chiếc ghế gỗ nhỏ bị ướt, tôi liền vỡ lẽ - chị Út Hà đang tới tháng.
Người lái xe đò liên tỉnh rất tin chuyện
tâm linh, cho nên phía đầu xe họ thường đặt
tượng Phật Quan Âm đã tơm phép để thờ phượng, đốt nhang. Bây giờ chỗ thờ phượng
bị uế tạp, việc xui kéo đến cũng là điều dễ hiểu. Lúc này tôi mới hiểu tại sao
mấy câu chú xả tai của tôi
chẳng phát huy được chút gì…
Mặc dù trời đã chạng vạng, khu vực miếu Bà vẫn đông đúc nhộn nhịp như chợ Tết. Miếu Bà trang nghiêm sừng sững với hàng đèn sáng trưng, nhìn lên trên nóc miếu, khói nhang và khói vàng mã bay lên mờ ảo.
Nhắc đến truyền thuyết về
ngôi miếu nổi tiếng này, truyện xưa kể lại rằng: Những năm 1820 - 1825, Quân Xiêm thường
sang nước ta quấy nhiễu, cướp bóc.
Mỗi khi giặc đến, người dân quanh vùng lại phải bồng bế
nhau chốn chạy lên núi lánh nạn. Có lần quân giặc đuổi theo lên đến đỉnh núi Sam thì gặp tượng Bà. Chúng hì hục cậy ra, lấy dây buộc lại dùng đòn khiêng xuống núi để mang về xứ. Nhưng khi bọn chúng mới khiêng đi được một đoạn đường ngắn, lạ thay
tượng Bà bỗng dưng nặng trĩu
không thể nào nhấc lên được nữa. Khi đó,
một tên trong bọn tức giận đập vào cốt tượng làm gãy một phần cánh tay bên trái và ngay tức khắc hắn bị
Bà vật té sùi bọt mép giãy dụa như heo bị chọc
tiết. Bọn còn lại hoảng hốt lạy
như tế sao rồi kéo nhau chạy mất.
Thời gian sau, Bà
thường hiện về xưng là Bà Chúa Xứ, dạy dân làng khiêng xuống núi lập miếu thờ cúng. Bà sẽ phù hộ cho mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu, tránh được giặc cướp quấy phá, thoát khỏi dịch bệnh hoành hành. Thấy vậy, dân làng họp nhau lên núi khiêng tượng về thờ cúng.
Nhưng lạ thay, dù mấy chục thanh niên trai tráng hò nhau gắng sức vẫn không lay chuyến nổi tượng Bà. Trong lúc mọi người đang rất thất vọng, có ý định bỏ dở thì một cô gái trong làng bỗng dưng lên đồng cho biết : "Bà chỉ cần 9 cô gái đồng trinh lên khiêng". Dân làng làm theo lời dạy ấy và qủa đúng thật 9 cô gái đồng trinh khiêng
tượng Bà đi xuống một cách
nhẹ nhàng.
Bỗng nhiên khi đi đến chân núi thì tượng Bà trở nên nặng, không thể khiêng nổi thêm một bước nào nữa. Khi đó mọi người đã hiểu rằng, Bà đã chọn nơi đây để an vị nên đã không cố gắng di chuyển đi nữa mà lập miếu thờ cúng chỗ đó…
…Mặc dù đã trễ, đoàn chúng tôi cũng xin phép được Ban Trị sự vào hành lễ. Cậu Sáu vốn có năng khiếu ngoại giao. Mọi chuyện qua tay cậu là êm thắm vô cùng. Lúc này đang mùa vía Bà, người ta chen nhau
bái tế, đến giờ đoàn tôi làm lễ mà vẫn còn nhiều người ôm
heo vào cúng. Thiệt tình, nhìn cái cảnh người ta ùn ùn chen chúc nhau vào lễ bà trông chẳng khác gì cảnh mua vé xe ngày Tết. Từng con heo
quay đỏ khé được đội vào làm lễ thật trang trọng. Trong khoảng một giờ, tôi đếm có trên mười con được bưng vào. Nghe nói, những người cúng heo đa phần đều là dân làm ăn, buôn chuyến hoặc dân đánh đề. Họ đến lễ bà cầu xin bà phù hộ cho những chuyến
buôn của họ trót lọt, qua mặt được
quản lí thị trường. Cũng có người đến vay lộc làm ăn, bây giờ họ đến trả nợ và vay thêm lộc khác. Có người trúng số đề nên thuê hẳn một chiếc xe với dàn đồ lễ trang trọng đến tạ ơn. Lễ xong, họ đi về ngay trong đêm đó.Cứ như thế mà
người ta nối đuôi nhau rồng rắn chờ đến lượt mình vào dâng lễ. Mấy con heo
quay vừa đặt xuống, nhang chỉ
vừa cắm vào chiếc lư khổng lồ phía trước điện thờ, người chưa
kịp khấn xong thì bị xua đi cho kẻ khác vào dâng tiếp.
Tôi quay sang hỏi một dì thường đi núi chung đoàn:
- Dì nè! Họ cúng cả con heo bự chảng như vậy, lấy gì mà ăn hết ?
- Ít người ăn lắm con
ơi.
- Vậy là sao vậy dì?
- Họ đem ra ngoài trước bán lại cho lò heo. Rồi lò heo đem vô làm nóng lại đem bán tiếp cho mấy người khác.
- Trời đất! Một con heo đem cúng bà mấy bận luôn hả?
- Chứ sao! Bởi vậy, dì không bao giờ mua heo ở đây cúng. Muốn gì, mua sẵn rồi chở từ Sài Gòn xuống luôn.
Tôi bỗng chạnh lòng: “Tội thay, người ta vì tiền mà sẵn sàng lừa gạt lòng tin của kẻ khác. Họ lừa con người chứ làm sao mà lừa thần thánh cho được. Tại sao Bà Chúa Xứ linh hiển đến thế mà không trừng trị mấy tên
lường gạt bất nhân ấy vậy kìa!”
Điều này cứ làm tôi trăn trở mãi không đáp án. Về sau được gặp sư ông, tôi mạnh dạn bày tỏ:
- Thưa thầy (tôi vẫn thường gọi sư ông là thầy), bà Chúa Xứ là địa linh một cõi. Vậy tại sao bà không thưởng thiện phạt ác mà lại đi độ cho kẻ buôn lậu, làm ăn phi pháp hoặc những người cờ
bạc, đánh đề là sao ạ? Còn mấy tên lừa gạt sống quanh đó nữa, sao bà không vật hết cho rồi để không còn kẻ nào dám buôn thần bán thánh nữa.
- Sao con biết do bà Chúa Xứ độ? – Sư ông cười hỏi lại.
- Dạ, con thấy họ đi tạ ơn đông ken luôn. Nếu không độ lấy gì họ giàu có mà mua heo cúng trả lễ chứ!
Sư ông nhìn tôi lắc đầu:
- Con nói trật lất
rồi. Tất cả là do nhân quả hết.
- Nhân quả gì kì vậy thầy. Kẻ giàu làm ác tiếp tục giàu,
người nghèo làm việc thiện càng
gặp nhiều xui xẻo.
- Đó là do cái nhân đời trước còn lại họ chưa hưởng
hết, còn cái quả đời này chưa đến lúc chín muồi. Nhân quả thường hằng,
chẳng qua là sự chưa tới đó thôi.
- Thiệt tình là con rối quá thầy ơi!
- Tại con không tin nhân quả.
Bài học của sư ông đến già tôi mới hiểu phần nào.
Xin trở lại câu
chuyện dang dở...
Một đêm ngủ lại ở miếu bà Chúa Xứ, tôi trằn trọc không
ngủ được.
Cậu Sáu liên hệ cho đoàn chúng tôi ở trong một phòng
lớn phía trái chánh điện. Thật tình là tôi không có cảm nhận được chút ân điển nào của bà Chúa Xứ. Từ lúc hành lễ cho đến lúc nghỉ ngơi, tôi chỉ thấy tràn ngập nhiều luồng điển tạp từ những người đi trong đoàn và các đoàn khác chung phòng. Khoảng mười giờ đêm, họ bắt đầu quây nhóm lại với nhau. Chỗ
thì nói thơ, nói kệ. Chỗ thì xem bói, soi căn. Người khác thì ợ ngáp rồi nhảy múa ngả nghiêng quay cuồng trong tiếng vỗ tay cổ vũ của những người cùng hội.
Tôi cũng cố kéo chân ngồi tịnh. Nhưng ngột ngạt quá khiến tôi ngồi không yên, đành ngả lưng chợp mắt một chút. Văng vẳng nghe bên kia một giọng nữ cất lên lảnh lót như hát tuồng: “ Ta là Diêu Trì Kim Mẫu đây, các con có nghe không?”. Một người phụ nữ trạc sáu mươi nghe vậy liền cười ngất:
- Diêu Trì Kim mẫu hả? Hổng biết phải mẫu thiệt hôn. Để tui xin keo cái coi.
Nói xong, bà ta quay sang lấy đôi dép lào dấu dưới chiếu chắp lại rồi tung lên như người ta đang
xin keo. Đôi dép lật ngửa.
- Rồi, xin keo hổng phải. Mẫu này chắc là đồ giả - Bà ta la to.
Nhiều người cất tiếng cười phụ họa. Vài tiếng chửi bóng
gió từ phía vòng tròn của người đàn bà xưng mẫu vang lên.
Chán ngắt. Tôi nằm quay mặt vào trong vách cố niệm Phật cho đến khi vào giấc ngủ chập
chờn...
VỒ THIÊN TUẾ.
Sáng sớm, đoàn người vội vã ăn
sáng rồi nhanh chóng lên đường. Tôi chỉ kịp mua một ổ bánh mì không đem lên gặm đỡ trên xe. Xe lăn bánh đưa đoàn hành hương chúng tôi thẳng tiến vào núi Cấm. Càng rời xa miếu Bà,
cảnh vật càng hoang vắng, quạnh
hiu. Nhưng, trong lòng tôi lại cảm thấy một niềm vui vô căn phát khởi. Cứ như là
mình sắp được về nhà vậy...
Xe dừng lại ở bên
ngoài. Đoàn chúng tôi phải đi bộ thêm một quãng vào chân núi. Đến nơi, tôi ngỡ ngàng đến lặng người... Con đường mòn lên núi giống y chang con đường tôi thấy trong mơ.
Trèo lên được đến
Vồ Thiên Tuế là ai nấy mệt lả người. Tội nghiệp mấy bà già, đi thở hồng hộc mà
miệng vẫn tự động viên mình: “Mô Phật, Khỏe quá! Mô Phật, Khỏe quá!”. Tôi vốn thanh niên,
sức khỏe dồi dào, vậy mà leo từ gộp đá này sang gộp đá khác một hơi hai bắp đùi tôi cứng đơ, mỏi nhừ. Hồi xưa,
nghe thầy tôi kể các vị tiền bối tu trên này, muốn lấy nước phải
đi gần nửa quảng đường núi. Khó khăn đến kinh dị. Nghĩ vậy
thôi, tôi đã lắc đầu le lưỡi thán
phục công hạnh của những bậc
tiền bối ở đây...
Ngôi am lá do hai sư cô cất trên vồ đón chúng tôi bằng mùi nhang trầm thoang thoảng với tiếng chuông thanh thoát giữa núi rừng. Nhìn ngôi thảo am đơn sơ với pho tượng đức Phật Thích Ca ngồi thiền định, tôi nghe lòng thanh thản lâng lâng. “Giá mà được ở đây lâu thì hay biết mấy” – Tôi thầm mơ ước.
Vồ Thiên Tuế, một trong năm
vồ của hệ thống núi Cấm khi tôi lên vẫn còn xanh um những bụi thiên tuế cao khỏi đầu
người. Nghe nói có cây đã già hơn trăm tuổi. Khi
nghe tôi hỏi về sự tích cái tên vồ Thiên Tuế, sư cô lớn tuổi
giải thích: “Có hai giả thuyết giải
thích về sự ra đời của địa danh này lận cậu à. Giả thuyết thứ nhất
cho rằng do nơi đây này từng được
vua Gia Long đặt đại bản doanh trong những lần lẫn tránh sự truy đuổi của quân Tây Sơn. Vì vậy, để đảm bảo an toàn cho nhà vua, lúc đó người ta gọi “trại” là vồ thiên
tuế ở, về sau nói gọn lại thành vồ Thiên Tuế. Giả thuyết thứ
hai cho rằng do nơi đây ngày xưa mọc toàn cây thiên tuế, từ đó mà thành tên”.
- Giả thiết nào đúng hơn vậy cô?
- Cô thấy cái nào cũng đúng. Ở trên đây còn lưu lại dấu tích
chiếc ghế đá ngày xưa vua Gia Long ngồi và giếng nước được tạo nên từ lưỡi kiếm của vua.
Nói đoạn, sư cô dẫn tôi ra phía ngoài xem giếng nước. Nhiều người trong đoàn khách hành hương tò mò cũng
vội đi theo. Đến một gò đá cao, cô chỉ:
- Đó, giếng nước của vua.
Gọi là giếng chứ thật ra chỉ là một khe nước chiều dài khoảng hơn 1m nằm giữa hai tảng đá lớn. Miệng khe nước có hình thoi, bén hai đầu. Nhìn giống như dạng một lưỡi gươm khổng lồ cắm xuống mà tạo thành. Sư cô kể tiếp:
- Ngày trước, vua Gia Long bị Tây Sơn rượt đuổi phải rút lên đây lẩn trốn. Không có nước uống, binh sĩ mệt lả. Nhà vua cầu khấn với trời, nếu ngài có chân mệnh thiên tử thì xin trời ban cho nước uống. Khấn xong nhà vua cắm mạnh lưỡi gươm xuống khe đá, khi rút lên thì bất ngờ một mạch
nước trào ra. Nhờ vậy mà quân lính mới qua cơn nguy hiểm...
Mấy bà già đi chung xuýt xoa tán thưởng:
- Trời đất! Ngộ quá hén. Vậy mà đó giờ mình đi núi cứ đi, có biết gì đâu.
Nhiều người thành tâm cúi xuống vốc nước rửa
mặt rồi trầm trồ khen nước mát. Tôi cũng bắt chước làm
theo. Quả thật, nước giếng trời ban vừa mát lạnh vừa ngọt đến
lạ lùng.
VỒ ONG BƯỚM.
Tiếp tục lên đường, trèo qua mấy dải rừng,
chúng tôi đến được Vồ Ong Bướm. Nhìn vồ đá nhô ra, ở đó đặt một bệ thờ khói
nhang nghi ngút. Tôi tò mò hỏi cậu Sáu:
- Hồi xưa ở đây chắc ong bướm tụ về
nhiều lắm sao mà người ta gọi là vồ Ong Bướm vậy cậu?
Cậu Sáu lắc đầu. Lúc ngồi nghỉ, cậu
tranh thủ lấy trong túi đeo ra một bình thủy nhỏ, vừa rót nước trà nóng trong bình ra chiếc tách nhỏ mang theo, cậu vừa kể cho chúng tôi nghe sự tích vồ Ong Bướm.
Vào năm Quý Mão (1843), do sự xúi
giục và hỗ trợ của Xiêm La, một đạo quân Chân Lạp do hai tướng là Vôi và Bướm chỉ huy sang cướp phá vùng Láng Cháy (An Giang) giết
hại, cướp phá lương dân. Được tin
cấp báo, lúc bấy giờ Quản cơ Trần Văn Thành (đức Cố Quản) đang đóng quân ở phía nam núi Cô Tô lập tức mang quân đến dẹp.
Hôm ấy, trời đổ
mưa như thác, nên từ Cô Tô đến Xà Tôn (Tri Tôn) đường trơn như đổ mỡ,
thỉnh thoảng gồ ghề, binh sĩ phải trèo qua rất vất vả. Lúc đến Cây Mè, thình lình quân Chân Lạp ào ra chặn đánh rất dữ. Trong cơn
nguy cấp, Đức Quản cơ Trần Văn Thành tuyền lịnh thoái
binh để xoay thế trận. Quân Chân Lạp tưởng thắng
trận rượt nà theo liền bị một toán phục binh của ta bất ngờ chặn đánh. Không đường rút, quân Chân Lạp nhảy bừa xuống
hào mà chạy, thừa thắng, quân ta hỉ mặt áp lại đánh rất hăng.
Xong, Đức Quản cơ thâu binh, rồi ra lịnh tiến gấp. Được tin phục
binh mình bị phá tan, hai tướng Bướm, Vôi huy động toàn lực chờ nghinh chiến. Chiều hôm đó, hai bên đụng độ, trận chiến đụng độ suốt hai ngày đêm. Quân ta vì phần vì đường xa mệt mỏi, phần vì thức đêm, nên người nào cũng mệt và đói, mà tứ bề quân Chân Lập vây chặt, không ngả nào rút lui.
Trước tình thế nguy kịch, đức Cố Quản liền chia quân ra làm ba đạo quyết phá vòng vây. Quân Chân Lạp la ó suốt hai ngày đêm. Bỗng nhiên, sáng hôm ấy không thấy quân ta động tinh, chúng tưởng đã bị tiêu diệt hết, nên tụ năm tụ bảy chè chén vui say, không màng đề phòng chi hết.
Bất thần quân ta phản công, quân Chân Lạp trở tay không
kịp, lớp chết, lớp chạy tán loạn. Duy chỉ có cánh quân phía nam do hai thướng
Bướm và Vôi trực tiếp chỉ huy còn chống cự, nhưng rất yếu ớt.
Quân ta vừa đánh mạnh, vừa bao vây, rồi cho một người biết tiếng Chân Lạp lên đồi cao dùng lời giải thích điều lợi hại mà khuyên dụ hai tướng Bướm và Vôi về hàng.
Trong thế cùng lực kiệt, lại nghe
lời chiêu dụ hữu lý, nên Bướm và Vôi truyền cho binh sĩ
vứt bỏ vũ khí, rồi đích thân đến trước mặt Đức Cố Quản thọ tội. Xong trận này, quân Chân Lạp ở các vùng lân cận cũng xin hàng. Riêng Bướm và Vôi thì xin Cố Quản cho về ẩn dật.
Sau đó, hai người lên tụ trên núi Cấm, chọn chỗ có vồ đá nhô ra làm nơi trú ngụ. Ít
năm sau, hai người đắc đạo, có nhiều phép thần thông và thường hay chữa trị nhiều bệnh lạ để giúp người. Cả hai được những người Kh’mer
trong vùng coi như hai vị
Phật sống.
Và đây chính là nơi tu luyện của hai ông.
Nghe kể, trong lòng
cảm khái. Người tu Phật có câu: "Phóng hạ đồ đao, lập địa thành Phật", việc này chẳng phải là ứng
dụng vào trường hợp của Ông Bướm, Ông Vôi đó sao. Người ta làm tướng giết người như rạ, vậy mà còn có thể tu hành đắc pháp. Còn mình, tu kiểu này bao giờ mới đắc đây?
Tôi bước ra ghềnh đá,
lặng lẽ thắp ba cây nhang thành tâm khấn vái. Một cảm giác bình an lan tỏa trong tâm hồn như làn khói nhang lan tỏa trong không gian se lạnh của núi rừng.
ĐỘNG THỦY LIÊM.
Chặng hành trình lên chùa Phật Lớn gần kết thúc. Cậu Sáu chỉ cho
cả đoàn một cái hõm đá lớn bên thành núi. Ở đó nước từ đỉnh núi Cấm chảy xuống
thành dòng thác nhỏ và tụ lại thành vũng lớn trong veo trông thật hữu tình.
- Thủy Liêm động đó bà con. Ai muốn đi tiếp thì cứ đi, ai thích
tắm thì vô gột rửa cho thanh tịnh.
Đa số chỉ rửa mặt rồi đi tiếp. Chỉ có vài người trẻ ở lại, trong
đó có tôi, anh Huỳnh và cậu Sáu. Thế rồi, một chuyện xảy ra…
Vừa tắm suối lên, chưa kịp mặc áo thì anh Huỳnh ré lên một tiếng
rồi bắt đầu nghiêng ngả như say rượu. Tôi đoán anh đang bị điển nhập. Chưa kịp
có phản ứng gì thì anh ta bắt đầu bung quyền. Nhìn đôi mắt nhắm nghiền và tư
thế đánh võ của anh, tôi biết anh đang xuất quyền Tề. Động tác của anh nhanh
nhẹn, hai bàn tay bẻ gập xuống như khỉ, vừa đánh anh vừa khẹc từng hồi. Tôi đã
từng thử quyền với Minh Tịnh rồi, huynh ấy thường đánh quyền Lục, tôi lại chọn
Hổ quyền. Trong khi tôi vừa đánh vừa gầm thì huynh ấy vừa đánh vừa đọc hàng
tràng tiếng lạ. Lúc trước tôi cứ nghĩ đó là thần chú đánh quyền. Tuy nhiên,
huynh ấy đánh có bài bản và chủ động được bản thân. Khi nào cần thôi là điển
xuất ngay, không để bị khống chế.
Còn trường hợp anh Huỳnh thì khác hẳn.
Anh đánh như ngây như dại, bộ pháp nhanh nhẹn đến bất ngờ. Hai tay
anh vừa đánh vừa đỡ vòng kín quanh thân. Có những động tác vô cùng phức tạp,
phóng lên gộp đá cao bên cạnh thác rồi nhảy lộn đầu xuống, lăn mấy vòng. Những
chiêu thức này, tôi nghĩ chỉ có trong phim Tàu do Lí Tiểu Long hoặc Vương Vũ
đánh ngày xưa mới có mà thôi.
Lúc đầu, mấy bạn trẻ còn đang tắm thấy lạ chạy lên coi. Sau thấy
anh Huỳnh có vẻ điên dại và dữ tợn quá nên hoảng hốt chạy đến núp sau lưng cậu
Sáu. Thấy tình hình có vẻ không êm, anh Huỳnh không có biểu hiện nào nhưng
đánh, cậu Sáu quay sang tôi hỏi: “Cậu xem có cách nào giúp nó! Nếu không, tôi
sợ xác nó chịu không nổi”
Thú thật, lúc đó tôi còn quá trẻ để biết cách xử lí tình huống.
Nếu bây giờ tôi cũng bung quyền nhảy vô thì không những không giúp được anh mà
còn biến động Thủy Liêm thành sàn đấu thần quyền nhằm so tài cao thấp! Cũng
không thể dùng Ngũ Lôi mà đánh vào anh như đánh tà, việc này không chừng phạm
vào chư vị phần điển e không có tốt cho tôi...Thật là rối trí!
Trong lúc đang lúng túng, bỗng tôi nghe vẳng vẳng lúc gần lúc xa
tiếng ai niệm bài kinh Tam Giáo Phật: “Thiên địa huyền tôn – Vạn khí bổn căn -
Quảng tu vạn kiếp – Chứng ngộ thần thông….”. Bài kinh này trước đây sư phụ dạy
cho tôi nhằm mục đích trị điên. Trì tụng bài kinh này và vẽ chữ phù Tam Giáo
Phật vào trái dừa xiêm cho uống mỗi ngày. Nhẹ thì uống 21 trái, trung thì 49
trái, nặng thì 108 trái. Tôi trì tụng nhưng chưa bao giờ áp dụng cả. Gờ đây,
tiếng đọc tụng vang lên như tiếng chư thần nhắc nhở hay là tiếng vang trong
tiềm thức của tôi cũng chẳng rõ. Bất giác, tôi cúi đầu chắp tay đọc theo...
Lúc đầu còn đọc nhỏ, sau giọng tôi cứ lớn dần, lớn dần thành sang
sảng. Rồi bất chợt, trong một hành động vô ý thức, tôi chạy nhanh về phía tảng
đá nơi để bình nước tôi mang theo. Chụp lấy cái bình, tôi dùng lưỡi họa chữ phù
Tam Giáo Phật và A Di Đà Phật định tâm phù vào trong bình. Tôi thổi vào bình
nước một hơi dài rồi mang đến chỗ anh Huỳnh đang đánh võ. Rót tràn nước vào
lòng bàn tay, tôi đọc hàng tràng tiếng lạ nghe như tiếng Kh’mer (sau này tôi
mới biết đó là tiếng âm). Đang đánh ào ạt, nghe tiếng đọc, anh Huỳnh xuất chiêu
chậm lại rồi quay nhanh về phía tôi. Khẹc lớn một tiếng, anh ta lao thẳng về
phía tôi, đôi mắt anh đỏ khé. Khi anh vừa trở đến, bàn bay chứa đầy nước của
tôi hất thẳng vốc nước vào mặt anh Huỳnh. Chỉ thấy anh ré lên một tiếng nữa rồi
bật ngửa ra đất nằm chết giấc.
Tiến đến cạnh thân thể đầy mồ hôi, bụi đất của anh Huỳnh, tôi tiếp
tục rải nước lên người anh và đọc hàng tràng tiếng lạ. Đến khi hết nước trong
bình, khí lực của tôi dường như cũng hết theo.
Khẽ rên một tiếng, anh Huỳnh mở mắt nhìn quanh. Cậu sáu và mấy
người khác chạy đến đỡ anh ngồi dậy. Tôi lững thững bước lại tảng đá bên động
ngồi thừ ra. Từ trước đến nay, chuyện này chưa từng có với tôi. Sự việc này là
sao? Tất cả xảy ra ngoài sự tính toán bình thường. Nếu thầy tôi biết được thì
sẽ ra sao đây? Tôi có bị trách phạt hay không? …Hàng loạt câu hỏi ập đến mà
không có câu nào được giải đáp rõ ràng.
Tôi cứ thẩn thờ như thế mà lên chùa Phật Lớn, không mấy quan tâm
đến những ánh mắt xung quanh nhìn tôi vừa thán phục vừa sợ hãi.
ĐIỆN MƯỜI BA.
Buổi cơm trưa đạm bạc ở chùa Phật Lớn chỉ có nồi canh chua và củ
cải mặn. Canh chua được nấu bằng đủ loại rau rừng với tàu hủ cậu Sáu mua sẵn
ngoài miếu Bà Chúa Xứ, củ cải mặn cũng được mang sẵn theo rồi xào sơ lại. Vậy
mà leo núi mệt và đói, tôi ăn liền bốn chén. Bụng no căng rồi nhưng miệng vẫn
còn thèm. Ăn xong, tôi ra phía trước chùa ngồi hóng gió.
Gọi là chùa, thật ra chỉ lớn hơn ngôi miếu ngũ hành một chút. Phía
trước chánh điện thờ chủ yếu pho tượng đức Bổn sư trong tư thế xếp bằng. Nhìn
bức tượng cao gần 2m, tôi nghĩ thầm chắc tên chùa bắt nguồn từ pho tượng lớn
này chăng. Sau hỏi lại cậu Sáu thì quả là vậy. Cậu cho tôi biết tên chùa Phật
Lớn còn dùng để phân biệt với chùa Phật Nhỏ ở hướng Đông của núi Cấm.
Cậu Sáu là người thích kể chuyện, thấy tôi ham tìm hiểu nên cũng
ngồi phệt xuống thềm cửa cạnh tôi và hắng giọng kể tiếp:
- Chùa Phật Lớn này nghe đâu được làm từ đầu thế kỉ. Nghe bà con
cố cựu ở đây kể lại là do thầy Bảy Do cất lên. Thầy Bảy tên thật là Cao Văn
Long, quê ở Bến Tre. Ông là một trong những người lãnh đạo cuộc nổi dậy đánh
chiếm Khám Lớn Sài Gòn năm 1916. Ngôi chùa của ông xây với mục đích ban đầu là
lấy đó làm trụ sở cho hội kín Thiên Địa hội. Đến năm 1917 thì ông bị giặc bắt
và qui tội ông làm quốc sự.
Tôi ngẩn người ra nghe về sự tích ngôi chùa. Ở cái vùng đất linh
thiêng này, mỗi ngôi chùa, vồ đá dường như ẩn chứa bao nhiêu là huyền thoại và
lịch sử. Cậu Sáu kể tiếp:
- Sau khi thầy Bảy Do bị Pháp bắt, chùa Phật Lớn trở nên hoang
tàn. Người có tâm đạo lấy cây làm cái trại lá để tạm che mưa nắng cho Phật
tượng bởi họ nhiều lần xin phép cất cái trại thì nhà cầm quyền thời đó cũng
nhất quyết không cho. Mãi sau này có ông Hương Quản Lầu ở Mĩ Tho phát tâm xây
một cái am che mưa che nắng cho tượng Phật. Trải qua mấy trào Pháp, Mĩ ngôi
chùa mới được như hôm nay…
Cậu Sáu im lặng, tôi cũng lặng im nhìn ra khoảng không gian trước
mặt, lòng đầy cảm khái. Vạn vật vô thường, chùa miễu cốt tượng cũng theo cái vô
thường ấy mà sinh diệt. Ngồi trước pho tượng Phật, nhân chứng của thời gian,
tôi mơ màng nghĩ đến những người trong quá khứ. Không biết bây giờ họ ở nơi
đâu? …
Còn đang bâng khuâng chìm đắm trong suy tư, bỗng một tiếng tằng
hắng vang lên từ sau lưng làm hai cậu cháu giật bắn mình. Quay lại phía sau,
một sư sĩ gầy gò mặc bộ bà ba màu đen, trạc ngoài bốn mươi, tóc búi ra sau, râu
ba chòm đen nhánh đang nhìn cậu Sáu tươi cười. Dường như gặp lại cố nhân, cậu
Sáu đứng nhanh dậy nắm chặt tay vị cư sĩ kia vồn vã:
- Mô Phật, sư huynh
vẫn mạnh giỏi?
- Ừ, vẫn khỏe. Vậy chứ
huynh lên núi hồi nào?
- Cũng mới đến gần
trưa nay. Vừa ăn xong, định xuống thăm huynh đây…
Chuyện vãn đôi câu, cậu Sáu đi theo vị cư sĩ nọ về nhà. Dĩ nhiên
là tôi cũng được tháp tùng.
Ngôi nhà của vị cư sĩ nọ ở dưới triền núi. Một ngôi nhà lá ba gian
đơn sơ. Gian giữa là phòng tiếp khách với phía trên là trang thờ trần điều và
hình Phật Thầy Tây An. Cái bàn tre đơn sơ mà vững chãi.
Tôi không biết vị cư sĩ tên gì, chỉ nghe cậu Sáu gọi huynh nên tôi
cũng gọi đại bằng cậu. Nhà của cậu có ba thằng con trai. Thằng lớn trạc tuổi
tôi tên Phi Vân, thằng giữa là Phi Hổ và thằng Út là Phi Kiếm. Ba cái tên sặc
mùi kiếm hiệp làm tôi cũng thấy thú vị. Trong ba đứa, tôi mến nhất là Phi Kiếm.
Nó gầy gò như cha nhưng đôi mắt lanh lợi có thần, tay chân nhanh nhẹn. Tôi cũng
không ngờ nó là người dẫn đường cho tôi đến Điện Mười Ba sau đó…
Sở dĩ gọi là Điện Mười Ba vì hang đá này có tổng cộng mười ba tầng
thông suốt với nhau. Người ta nói, ai đến núi Cấm mà không viếng Điện Mười Ba
thì xem như chưa được tái sinh. Lúc đầu tôi không hiểu lắm cho đến khi chính
mình trải nghiệm qua…
Nhờ cậu Sáu ngỏ lời mà tôi được thằng Phi Kiếm dẫn đường. Tôi nhớ
lúc đó tôi phải theo thằng nhỏ vượt qua hết trảng này đến đồi khác, leo qua
từng gộp đá lớn mệt đến bở hơi tai mới đến Điện Mười Ba. Lúc này, ở trước điện
cũng có ba người đang đứng tần ngần. Thì ra họ muốn được vào viếng điện nhưng
không ai hướng dẫn. Biết chúng tôi định tham quan nên họ muốn tháp tùng. Hai
người đi sau tôi hình như là hai cha con. Nghe họ nói chuyện, tôi biết họ là
người Hoa bán thuốc Bắc ở Chợ Lớn về núi hành hương. Người đi sau cùng là một
thanh niên người nhỏ thó, đôi mắt láo liêng. Anh này cũng chung đoàn hành hương
với cha con người bán thuốc.
Cầm trong tay mẩu đèn cầy do Phi Kiếm phát, tôi vừa niệm Phật vừa
lần theo từng bước chân của thằng nhỏ. Hang càng xuống càng hẹp và tối đen. Chỉ
còn ánh sáng le lói của ngọn đèn cầy tôi cầm trong tay. Không khí trong hang
lạnh buốt vì hơi đá. Tôi lần dò theo bóng thằng Kiếm mà tim cứ như bị ai bóp
chặt. Mỗi lần dừng lại ở một tầng điện, tôi đều chắp tay hành lễ nghiêm túc.
Thằng Phi Kiếm cho tôi biết, buổi tối các vị đạo sĩ ở gần đây thường chui vào
động để luyện phép. Các chỗ cắm nhang là dấu tích của những lần tu luyện. Nghe
kể, mấy người đứng sau tôi lắc đầu le lưỡi. Hai cha con người Hoa lại xì xồ với
nhau cả tràng dài không ai hiểu. Tôi đoán là họ đang thán phục. Cứ tưởng tượng
cái cảnh ngồi một mình trong hang giữa đêm khuya mà tôi lạnh cả người. Ai biết
chuyện gì xảy ra trong lúc đó, chư thần, ma quỷ, rắn rít, cọp beo… Nếu để tôi ở
lại trong hang kiểu này chắc là phải chào thua thôi. Tôi không ngờ, cơ duyên
sau này của tôi lại có một lần ngồi trong hang núi lúc nửa đêm với đầy thử
thách tâm linh…Nhưng đó lại là chuyện khác, sau này tôi sẽ kể.
Càng xuống sâu vào những tầng dưới, đường đi càng hẹp lại. Có chỗ
chúng tôi phải ngửa người nằm trườn qua, có đoạn phải nằm sấp mà lách. Trong
hang tối, tôi nghe tiếng thở phì phò của ông già và tiếng khóc thút thít của cô
con gái. Nhưng, bên cạnh tiếng thở ấy, tôi còn nghe những âm thanh kì lạ khác.
Dường như là tiếng nói của nhiều người. Những tiếng nói vang lên cứng cứng như
tiếng Kh’mer hay tiếng Lèo, tiếng Thái… âm thanh ban đầu còn nhỏ, càng lúc càng
to dần như đang cố bắt chuyện với tôi. Những âm ba của ngôn ngữ này từa tựa như
âm thanh tôi đọc hồi sáng ở động Thủy Liêm vậy. Tai tôi bắt đầu nghe o o như ve
kêu, người tê rần. Chết cha! Bị áp điển rồi. Hoảng quá, tôi vội vàng định thần
quán tưởng tứ tung ngũ hoành và đọc bài chú hộ thân mà sư phụ tôi dặn dò trước
lúc đi núi. Mãi một lúc sau âm thanh mới nhỏ dần rồi mất hẳn.
Cuối cùng chuyến đi cũng trót lọt. Các bạn biết không, vừa ra khỏi
cửa đá, nhìn thấy bầu trời xanh và hít được một hơi nguyên khí, tôi có mừng rỡ,
cảm thấy như mình vừa thoát thai tái sinh lại lần hai. Một cảm giác lâng lâng
khó tả dào dạt trong lòng không kể xiết..
Tiếng kêu ré từ trong hang vang ra. Thằng nhỏ vội lách vào xem.Thì
ra ông già người Hoa bụng bự quá nên bị kẹt ở khe đá. Con bé con lại òa khóc.
Thằng Kiếm bình tĩnh khuyên nhủ ông già bình tĩnh niệm Phật rồi nó kéo ra. Nghe
lời, ông già niệm Phật liên hồi, trong vòng chục tiếng niệm, thằng bé con nhỏ
xíu đã lôi được ông già to béo ra khỏi ngách dễ dàng. Theo sau là con gái của
ông mặt mày đầm đìa nước mắt. Ông già mừng quá móc tiền mấy tờ giấy bạc cho
ngay thằng nhỏ.
Nhưng chuyện chưa dừng ở đó. Trong khi chúng tôi còn đang hân hoan
nói chuyện thì trong hang lại vang lên tiếng kêu cứu. Lúc này tôi mới sự nhớ đến
anh thanh niên đi sau cùng chưa thấy xuất hiện. Thằng Kiếm lại chạy vào một lần
nữa. Tôi cũng lấy hết can đảm luồn theo nó. Anh thanh niên bị kẹt ở tầng thứ
12. Tôi thấy cũng kì. Một ông già bụng to mà còn lọt qua được, sao anh này là
thanh niên, lại nhỏ người như thế mà không chui qua được mới lạ. Thấy kéo mãi
không qua, thằng Kiếm cất tiếng hỏi:
- Anh có lấy cái gì
trong điện không?
- Không có… không có –
anh thanh niên chối bây bẩy.
- Tui hổng biết,
thường là những ai lấy cái gì trong hang đều không chui qua lọt mấy khe đá. Anh
hổng lấy, tui cũng hổng biết làm sao nữa.
- Tui chỉ có lượm mấy
cục đá thôi hà…
- Trời ơi! Anh làm ơn
trả lại chỗ cũ giùm tui đi. Rồi quay lại đây tui kéo anh ra.
Một lúc sau, người thanh niên xuất hiện ngoài cửa hang. Mặt mày anh
ta xanh lè không còn chút máu. Hai cha con ông Tàu thấy vậy vái lia vái lịa vào
hang…
CẤM SƠN HUYỀN BÍ.
Trở về nhà cậu Ba ( lúc này tôi mới biết ba của thằng Phi Kiếm thứ ba), tôi vẫn còn bàng hoàng chưa tỉnh hồn. Chỉ
đến khi uống chén trà thanh tâm, bí quyết riêng của gia chủ, tôi
mới định thần kể lại toàn bộ câu chuyện. Cậu Ba vừa
nghe vừa cười tủm tỉm.
- Tại chú mới đến lần đầu nên thấy lạ. Tui ở đây từ khi chưa có sắp nhỏ này, có chuyện gì mà tui không trải qua.
- Vậy là sao cậu ?
- Mấy hang núi đó ban ngày coi bình thường vậy chứ về đêm thì sợ hết biết. Chư vị
ban ngày ẩn hình, ban đêm mới thị hiện ra.
Dạo trước, có vị đạo hữu đang luyện phép, cảm động mấy ông hay sao mà họ thò đầu xuống xem, đang bắt ấn niệm chú,
cảm thấy ghê ghê, vị đạo huynh ấy mở mắt ra
thấy cái đầu của ông dài nằm gác trên gộp đá to bằng cái thúng, hai con mắt bự
như miệng chén đỏ rực giống hai ngọn đèn. Huynh ấy hết hồn hét lên rồi ngã bật ra sau bất tỉnh. Mấy đạo hữu khác nghe hét bò sang thì huỷnh lạnh ngắt rồi. Phải khiêng trầy trật lắm mới ra khỏi hang, cứu chữa mấy ngày trời mới tỉnh hồn. Tỉnh dậy, kể lại đầu đuôi câu chuyện cho đồng đạo xong, huỷnh dọn đồ xuống núi luôn…
Nghe kể, tôi nghe sống lưng lạnh
toát. “Gặp mình chắc cũng không hơn gì vị đạo
hữu kia” – Tôi thầm nghĩ. Giọng
cậu Ba cắt ngang suy nghĩ của tôi:
- Thiệt ra, chư vị ở đây hiển lộ chút chút để thử định lực người tu luyện thôi mà. Ai yếu cơ thì rớt đài, ai trụ được thì đắc pháp.
- Vậy là trong hang chủ yếu là chư vị thần xà hả
cậu?
- Đâu có! Còn có thần hổ nữa.
- Trời! Ở núi mình còn cọp nữa sao?
- Suỵt! Không được nói phạm. Ở đây, phải gọi là ông dài và thần hổ. Chư vị mang hình thú nhưng tu luyện lâu năm được thông linh rồi. Chẳng qua là vẫn còn mang nghiệp thú thôi.
- Sao con nghe kể trên núi vẫn còn rắn hổ mây khổng lồ nuốt cả
heo rừng với người luôn mà cậu?
- Những ông dài thọ trên 150 năm đều đặng linh thông, trở thành chư vị của thần vương ở đây. Mấy ông nhỏ vài mươi năm, tuy thân xác to nhưng còn thú tánh nên đói bụng thấy gì nuốt đó. Bởi vậy, mấy vị tiền
bối mới ra tay trừ diệt. Âu cũng là kiếp nghiệp…Ngay cả tôi cũng một lần bắt gặp một con…
- Rồi sao cậu?
- Bữa đó tôi đi rẫy về muộn, trời cũng chạng vạng như vầy. Đi qua truông cỏ tranh tôi
nghe tiếng sột soạt. Tưởng có con
heo rừng nào đó đang ủi đất, tôi rút cây mác xuống cầm tay rồi lần dò lại chỗ tiếng động.
Nhưng trong lúc tiến đến, tôi có linh tính kì lạ nên ngửa mặt nhìn lên cái cây trước mặt. Chu cha ơi! Một con rắn hổ mây bự tản thần đang
gác cái đầu trên chạc ba nhìn xuống. Cái đuôi nó dài dọc theo thân cây rồi khuất trong đám cỏ
tranh. Lúc đó tôi mới biết tiếng sột
soạt là do cái đuôi con rắn khua qua lại. Tôi bủn rủn cả người, đi lùi dần, lùi dần đến một quãng rồi co giò chạy thục mạng. Cũng
may là con rắn không đuổi theo.
Nghe cậu Ba kể mà tôi cũng hồi hộp nín
thở như đang trong câu chuyện. Tôi háo hức hỏi thêm:
- Cậu Ba nè, con nghe thầy con kể, trên này còn có rít khổng lồ với lại rắn có mồng biết gáy nữa phải hôn cậu?
- Ừa, có hết. Lúc trước bên điện Huỳnh Long có một đạo hữu ghé mấy hôm để luyện đạo. Buổi tối đang ngồi tịnh, ổng thấy nhồn nhột ở chân, mở mắt ra nhìn thì … ôi, một con rít chúa dài cả thước đang bò trên chân ổng. Thấy vậy ổng
hoảng hồn nhắm mắt chết trân.
Một hồi mở mắt ra chẳng thấy gì cả.
Đó, mấy ổng thường hay
bò ra nắn gân mấy ông đạo bằng cách đó đó.
- Vậy chứ cậu Ba có thấy vị nào chưa? – Tôi hỏi
dồn.
- Có. Dạo trước, hồi
mới lên núi một thời gian, tui ngồi cúng ngoài bàn thiên, một con rít núi bự chà bá bò lại ngay chân bàn thiên. Thân nó
mập bằng cổ tay, dài gần nửa sải tay, mình có đủ màu xanh đỏ. Tôi đang quỳ mà sợ cứng cả người, cứ
chắp tay niệm danh thầy liên
tục, một hồi nó quay đầu về phía tôi, múa râu như chào hỏi rồi bò xuống triền núi
mất dạng.
Nhìn gương mặt tôi chắc thú vị lắm hay sao mà cậu
Ba lại cao hứng nói tiếp:
- Còn rắn có mồng là chư vị sứ giả của sơn thần. Các vị thường đi một cặp, một đực một cái. Rắn đực nhỏ hơn nhưng màu sắc sặc sỡ hơn. Cái mồng của chư vị đỏ chót nhưng nhỏ như mồng
gà tre. Nơi nào chư vị đó ngụ, nơi đó là nơi linh huyệt của núi. Sư phụ tôi kể hiện giờ trong lòng núi có rất nhiều vị địa
tiên đang tu luyện chờ hội Long Hoa, cặp rắn thần ấy thường canh giữ ngoài cửa không cho người trần đến khuấy phá sự thanh tu của họ.
Hồi trào Pháp, ông Bác vật
Lang đã từng được vào núi và được cho thấy thiên
cơ. Nhưng ổng phải lập lời thề nên không được phép tiết lộ. Trở về,
ổng giả khờ luôn .…
Ngồi nghe cậu Ba kể chuyện mà tôi say sưa hơn cả
chuyện Liêu Trai của ông Bồ Tùng Linh người Trung
Quốc. Những câu chuyện nửa hư nửa
thật ấy hòa quyện trong làn khói sương mờ ảo của Cấm
Sơn buổi chiều tà khiến tôi có cảm giác như chìm trong một thế giới huyền thoại. Ở vùng đất linh thiêng này, con người hầu như
tách xa thế giới phồn hoa để hòa vào cuộc sống thiên
nhiên thì những chuyện ông dài, thần hổ, rắn có
mồng, rít ngũ sắc đều trở nên tự nhiên như cơm bữa…
Hoàng hôn buông xuống thật nhanh. Tôi vẫn còn thòm thèm mấy câu chuyện của cậu Ba nhưng đành phải chia tay. Cậu Sáu đã về chùa Phật Lớn từ hồi sớm, lúc tôi viếng Điện Mười Ba. Cậu còn trách nhiệm với đoàn hành hương, đâu thể nào rảnh rỗi ngồi tán
chuyện được. Lúc chia tay, cậu Ba còn tặng tôi hai món quà thật quý: phép cắt lễ chận cử rét và phép cắt tuyệt căn bệnh rét kinh niên. Lòng hoan hỉ chia tay cậu mà không biết bao giờ mới
gặp lại… Cho đến khi tôi viết những dòng này, gần ba mươi năm đã trôi qua. Có lẽ bây giờ cậu cũng theo
cậu Sáu về trong núi mất rồi.
Con đường trở về chùa chìm trong màn đêm đen kịt, một chút ánh sáng nhờ nhờ trên trời không đủ để tôi nhìn thấy đường đi. Tôi đi một mình trong đêm không có một cây đèn mà ruột gan hình như teo tóp mất tiêu. Trời! Làm thầy chữa bệnh trừ
ma không sợ mà bây giờ đi một mình giữa đêm tối lại run dữ vậy nè! Tôi đi vội đi vàng qua truông cỏ tranh, mỗi
tiếng sột soạt của cỏ đủ làm tôi lạnh gáy. Biết đâu một ông dài đang ngoe nguẩy đuôi nhìn tôi đang di chuyển. Không dám nghĩ ngợi nhiều, tôi cắm cúi đi nhanh, vừa đi
vừa niệm chú hộ thân liên tu bất tận. Cho đến khi nhìn thấy ánh sáng le lói từ chính điện của ngôi chùa, tôi mới thở phào nhẹ nhõm…
CẤM SƠN MẦU NHIỆM.
Tôi lặng lẽ dùng
cơm trong ánh đèn dầu tù mù phía sau chùa. Mọi người ăn cơm từ sớm rồi. Cậu Sáu hâm lại cho tôi tô cơm và ít đồ ăn. Bữa
cơm tối cũng đạm bạc như buổi trưa
vậy: cơm trắng, cải mặn, canh chua rau rừng. Nhưng đối với tôi, nó ngon hơn bất kì sơn hào hải vị nào
từng được thưởng trước đây. Có lẽ phần vì đói, phần vì vận động nhiều cả ngày nên cơ thể thanh niên như tôi sẵn sàng
dung nạp mọi dưỡng chất. Cái không khí lành lạnh của buổi đêm
cũng làm cho những chén cơm trở nên ngon hơn.
Tiếng chuông mõ tụng kinh của một số Phật tử trong đoàn vang lên. Tôi vội vàng đem chén đũa đi rửa rồi đi nhanh ra chánh điện. Trong cái lạnh của núi rừng, trong làn
khói nhang mơ ảo cùng sương núi, trong
ánh đèn cầy lung linh tỏa sáng,
tiếng tụng niệm ngân nga thâm trầm mà thanh thoát làm tôi cứ gai người. Một cảm giác thiêng liêng khó tả ngập tràn trong tâm trí. Tôi chắp tay hướng về
Phật Tổ, hòa điệu cùng tiếng mõ:
“ Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp
Bá thiên vạn kiếp nan tao ngộ
Ngã kim kiên văn đắc
thọ trì
Nguyện giải Như Lai chơn thiệt nghĩa…”
Xong thời kinh, ai nấy sửa soạn chỗ ngủ. Lúc này tôi mới nghe phía
ngoài gộp đá lớn những tiếng ngâm nga thi phú văng vẳng. Thì ra, trong khi ở trong đang tụng kinh thì một
số người thuộc dạng phần căn cô căn
cậu lại kéo nhau ra ngoài ngồi hát hò thi phú với nhau. Một dì Phật tử lắc đầu nói:
- Lúc mọi người mặc áo tràng chuẩn bị tụng
kinh, họ ngồi tán chuyện với nhau.
Tui nghe một bà nói lớn: “ Mấy người tụng kinh,
công quả chỉ là bậc hạ căn. Còn
bậc thượng căn là công phu bên trong, không cần phải tỏ vẻ cho mọi người biết. Vì là thượng căn cho nên được bề trên về dạy đạo, không phải vô minh tụng kinh, làm công quả ở đợ cho mấy ông thầy chùa”, nghe mà tui tức ở trong lòng.
- Ừ, tui cũng không biết họ thượng căn ở chỗ nào – một dì khác tiếp lời – ai nấy lên núi ăn chay, họ mang theo heo quay, chả lụa, xôi mặn để dùng. Vậy mà họ còn nói: “Phật tại tâm, chay lòng hơn chay miệng. Không nên tu hình thức mà phải tu trong lòng”.
Một bà già phụ họa:
- Mấy người đó còn lấy chuyện Lục Tổ
Huệ Năng ăn mặn với chuyện Tế Điên hòa thượng ăn thịt chó ra để làm bằng chứng tu hành
nữa kia.
Cậu Sáu nghe vậy khuyên can:
- Thôi, chuyện của
người, mấy cô đừng để vào lòng. Ai có con đường mấy mà. Ngày hội Long Hoa đến, con của Phật thì Phật rước, con của ma thì ma rước. Nói làm chi cho mang nghiệp miệng.
Nghe phải, mấy dì
Phật tử im lặng thu dọn chỗ nghỉ đêm. Tôi cũng lựa một chỗ sát góc tường để nằm. Anh Huỳnh thấy vậy cũng xách chiếc chiếu lại nằm kế bên tôi. Từ hồi trưa đến
giờ, sau vụ ở động Thủy Liêm, anh Huỳnh luôn tỏ
thái độ nể phục tôi. Tôi làm gì anh cũng làm theo. Hồi nãy tụng kinh, mặc dù
hổng thấy ảnh tụng tiếng nào,
nhưng cũng riu ríu ngồi sau tôi xếp bằng chắp tay lim dim nghe kinh. Thấy anh như vậy tôi cũng bắt tức cười. Thôi, ảnh làm theo mình cũng tốt, có gì đâu mà lo nghĩ.
Trước khi nghỉ, tôi
ngồi tréo chân tịnh một chút.
Trước khi đi, thầy tôi dặn đi dặn lại là không được tác pháp hay luyện bất cứ phép gì trên núi. Chỉ được phép ngồi tịnh hoặc tụng
kinh mà thôi. Lúc đầu tôi cũng thắc mắc nhiều
lắm, người ta cầu được về núi để luyện, còn mình bây giờ có cơ hội về lại không được phép luyện, vậy là sao? Mãi đến khi gặp cậu Ba và nghe chuyện mấy vị đạo hữu bị “thử lửa” tôi mới hiểu thầy tôi kĩ lưỡng vô cùng.
Thấy tôi tịnh, anh Huỳnh cũng
ngồi dậy tịnh theo. Chúng tôi ngồi thật lâu, tôi như chìm vào trong khoảng không an lạc gần như quên hẳn bên ngoài. Đến khi xả tịnh thì đôi chân tôi hầu như tê dại hoàn toàn. Phải xoa bóp, làm nóng một hồi lâu mới thấy đỡ. Anh Huỳnh cũng xả tịnh, không biết anh có cảm
giác như tôi không mà
ngồi cũng lâu dữ. Vừ ngả lưng
xuống chiếu, tôi lập tức chìm ngay vào giấc ngủ…
… Có ai đó chạm khẽ vào chân, tôi giật mình mở mắt. Một ông đạo trạc tuổi tôi, gương mặt tròn,
da rám nắng, mắt trong
veo, miệng không cười mà nét mặt như cười. Anh
ta mặc chiếc áo dài màu nâu đỏ, tóc cắt ngắn, đi chân không. Đang đứng ngay dưới chân tôi. Thấy tôi nhìn, huynh ấy ra dấu bảo tôi đi theo rồi quay lưng
đi trước. Tôi chồm dậy chạy theo
bóng ông đạo nhỏ khuất ngoài cửa.
Khung cảnh không
gian ngoài chùa sáng nhờ nhợ giống buổi
hoàng hôn tắt nắng. Cảnh vật cũng vậy nhưng tôi vẫn thấy là lạ. Ông đạo nhỏ đi chậm thôi, vậy mà tôi phải chạy hết tốc lực mới không bị mất dấu huynh ấy. Đi mãi không biết bao xa, chỉ
nhớ là tôi đã vượt qua mấy con đường mòn, nhảy qua nhiều mỏm
đá lớn mà không thấy mệt nhọc hay
nặng nề gì cả, lúc ấy mới đến một vách núi dựng đứng không có lối đi. Không dừng lại, ông đạo xăm xăm thẳng tới rồi mất dạng. Tôi hoảng hốt chạy theo… vừa chạm vách núi, cảnh vật trước mắt liền thay đổi.
Tôi đang đứng trong một hang động khổng lồ. Đường hang dẫn vào xa tít tắp. Ngơ ngác, tôi
đưa mắt nhìn quanh. Trần hang
cao, hai bên vách hang có nhiều mỏm đá nhô ra. Trên mõm đã hình như là một cái động nhỏ. Tôi còn trân người đứng đó thì ông đạo nhỏ lại xuất hiện,
huynh ấy ra dấu bảo tôi đi điếp. Theo chân ông đạo, tôi đi sâu vào trong, ánh sáng trong hang không biết từ đâu rọi tới mà cũng nhờ nhợ như ánh
sáng bên ngoài núi, có điều ảm đạm
hơn một chút… Tôi nhớ là hang động có nhiều tầng, mỗi tầng tôi phải leo lên chín bậc thang bằng đá cao
vòi vọi. Thật tình lúc đó tôi không hiểu tại sao mình
lại có thể leo lên được bậc
đá cao như vách tường
như thế. Chỉ biết vừa nhấc chân định bước là tôi đã thấy bậc đá trên năm ngay dưới bàn chân mình, chỉ cần đặt chân xuống rồi bước tiếp thôi.
Lên được tầng hang thứ ba thì tôi đã đứng trong một khoảng
không gian rộng lớn.
Nhiều tảng đá khổng lồ mọc lên như thạch trụ, cái
cao nhất cũng gần chục mét, cái thấp cũng ba bốn mét. Trên đỉnh mỗi thạch trụ đều có người ngồi xếp bằng. Nhìn quanh, hai bên vách đá cũng có những tảng lồi ra thành thạch bàn, trên thạch bàn đó cũng có người ngồi an vị. Có chỗ, vách đá lõm khoảng 1m tạo thành hang, bên trong cũng có ai đó đang thiền định. Những vị ngồi trên đá đa phần đều lớn tuổi, trang
phục khác nhau. Có vị trọc đầu đắp y theo lối Nam Tông, có vị mặc áo tràng theo kiểu đại thừa, có vị mặc đồ nâu tóc búi cao râu dài bạc trắng như Phật
Thầy Tây An, có người mặc áo dài trắng của Cao Đài, tóc ngắn, tóc búi, tóc xõa dài đủ kiểu…
Sau này về kể lại cho sư phụ và sư ông nghe, ông cười khẽ bảo:
- Đó là các vị địa tiên. Lúc sinh thời họ luyện
huyền môn nhiều hơn tu Chánh
Pháp, cho nên lúc mãn phần họ đắc
quả vị thụt. Các vị ấy không đạt Niết Bàn, không nhập vào tứ quả, cũng không được về cảnh trời nên
tạm ở lại trong núi tiếp tục tu hành…
- Vậy họ ở đến bao giờ hả thầy? – Tôi chen vào.
- Không được hỏi leo! – Sư phụ tôi nạt.
Giơ tay ngăn sư phụ tôi, sư ông cười và kể
tiếp:
- Có vị định nghiệp sâu dày, sẽ ở lại làm tổ
của huyền môn linh giới. Vị nào muốn tu lên nữa thì chuyên sâu vào thiền định. Đến khi nào thành tựu các vị ấy sẽ được lên bậc trên tu tiếp. Trong động
có nhiều bậc, đến bậc cuối cùng
họ theo đường núi về cảnh trời. Mỗi chặng như thế cũng phải mất mấy trăm năm…
- Trời! Lâu dữ vậy thầy?
- Bởi họ không có thân ngũ hành để tu tập nên lâu. Vị nào muốn đắc quả mau hơn thì lập hạnh đầu thai trở về thế gian để tu tiếp. Nhưng sau khi tái sinh, họ được hưởng nhiều phước báu nhân gian, sự hưởng thụ
sẽ che lấp thiên tính, đánh mất chánh niệm ban đầu rồi bị lạc hướng
luôn. Bởi vậy, trước khi
thác sanh, họ thường
giao ước với một vị đồng đạo nào đó thị hiện xuống nhân gian để thức tỉnh mình…
- Vậy những vị khác thì sao hả thầy?
- Những vị còn lại không tái sinh thì tiếp tục tịnh tu trong
núi. Sau đó, họ quán chiếu nhân gian, những ai có duyên với mình thì chiêu cảm về núi để tiếp điển. Người được tiếp điển sẽ có một số thần thông nhất định mà không cần phải bỏ công ngồi luyện. Những thần thông ấy được đem ra cứu độ người đời. Có người chữa bệnh, có người soi căn, xem bói, xem phong thủy…Việc
cứu độ sanh nhơn sẽ làm nên công đức. Công đức ấy, người được
tiếp điển hưởng một phần, còn lại sẽ quy chiếu về vị chơn linh kia.
- Vậy họ độ đến bao giở hả thầy?
- Họ độ đến khi nào thu thập đủ một ngàn công đức hoặc một vạn công đức thì xong. Các vị sẽ rút điển lại. Nếu người hữu duyên ấy biết tu tập, sẽ có một vị khác tiếp điển để tiếp tục lập công đức, hoặc được hướng dẫn pháp tu
để được vào cảnh giới cao hơn.
Ngược lại, nếu người được tiếp điển thiếu huệ căn, cứ nghĩ thần thông đó là của mình rồi dựa vào đó để tìm kiếm lợi lộc, sa đắm vào dục lạc nhân gian. Họ sẽ mất hết thần thông, phước báu tạo ra bao nhiêu đem tiêu xài hết thì chẳng bao lâu nghiệp dữ sẽ đổ xuống trên thân họ.
- Nhưng con thấy có nhiều người đâu
phải thuộc trường hợp thầy kể, họ có ai đó về dựa xác rồi vẫn chữa bệnh soi căn được vậy!
- Những trường hợp đó là loại thứ hai. Họ có phần di nghiệp cửu huyền nên dù không muốn cũng phải làm thầy để bòn công đức cho tổ phụ. Ngoài ra
còn có loại thứ ba. Đó là những người tự phá
thai, con chết non trong bụng mẹ, hoặc đứa nhỏ sinh ra chẳng bao lâu thì mất, thể phách đứa bé vì có căn duyên với người mẹ nên không chịu đi đầu thai, bám theo hành xác mẹ. Cho đến khi nào đứa bé hữu duyên được một người thầy đạo hạnh dẫn dắt cho về núi tu học. Thời gian tu học từ ba đến bảy năm. Sau đó, đứa bé được gọi là Trạng, quay trở về làm đồng cô cốt cậu xem bói,
cắt lễ, cạo gió, khuyến tu.... để lập một ngàn công đức.
- Vậy… con có nằm trong những
trường hợp trên hông vậy thầy? – Tôi thiệt thà hỏi.
Sư ông và sư phụ im lặng quay nhìn nhau cười đầy ẩn ý.
Tôi định ngoái lại nhìn kĩ vị trí vách núi để phòng sau này có dịp quay lại tìm. Nhưng, vừa xoay ngang thì tiếng sột soạt ở tảng đá lớn bên cạnh làm tôi chú ý. Bất ngờ, hai cái đầu rắn lớn bằng nắm
tay đột ngột ngóc cao lên cả thước. Trên đầu mỗi con tôi nhìn rõ cái mồng đỏ rực. Cặp lưỡi của chúng thè ra thụt vào liên tục như đe dọa. Tôi vốn sợ rắn từ lúc
nhỏ, bây giờ thấy cùng lúc hai ông mồng gà thiếu điều tôi muốn ngất đi. Tôi bước lùi dần, lùi dần một quãng rồi quay đầu chạy trối chết….
Các bạn đã bao giờ nằm mơ thấy
mình phi thân như mấy cao thủ giang hồ trong phim chưa? Tôi thì có rồi đó. Lúc này, trong lúc chạy bán sống bán chết, tôi nhận ra mình đang bay qua từng phiến đá nhẹ nhàng như bông. Mỗi bước
nhún là một lần tôi bay xa gần chục
thước. Cứ vậy mà tôi phóng mãi, phóng mãi lên đỉnh núi.
Gần đến một vồ đá lớn, tôi dừng lại nhìn quanh. Từ đỉnh núi cao, trong khung cảnh mờ ảo của khói sương, tôi thấy cả không gian bao la như ở trong tầm mắt. Phía trước tôi là những cánh đồng vuông vức mạ non xanh rì trải rộng đến vô cùng. Khung cảnh thật bình yên,..
Một cơn gió thoảng qua, đám sương mờ quanh tôi
tan bớt. Nhìn xuống khoảng ruộng
dưới núi, tôi bỗng giật bắn người. Sâu dưới mặt ruộng đến hàng trăm thước, tôi
thấy như in hình dáng những con cá sấu khổng lồ nằm cạnh nhau im lìm. Tưởng hoa mắt, tôi dụi mắt rồi nhìn
lại… Không sai chút nào, đúng là những con cá sấu. Chúng nằm như hóa đá. Có một điều tôi không thể giải thích được là lúc đó, tại sao tôi lại nhìn thấy hình dáng các vị ấy rất rõ như
không có gì ngăn ngại. Tôi có thể thấy đến từng cái gai nhọn khổng lồ trên lưng mỗi vị nữa.
- Đó là sấu thần – Một tiếng nói trầm trầm vang lên ngay bên cạnh.
Tôi giật mình nhìn ngang, hai ông đạo mặc bà ba nâu xuất hiện cạnh bên tôi tự lúc nào. Nhìn sắc mặt hồng hào
của hai người, thật không thể đoán được tuổi tác. Tóc râu cả hai đều lốm đốm bạc nhưng gương
mặt tròn trịa, không một nếp nhăn. Đôi
mắt, đặc biệt là đôi mắt các vị đều giống nhau, trong
veo, tĩnh lặng, bình an…
Tôi cúi đầu chào,
cả hai cũng nghiêng đầu đáp lễ. Ông đạo có chòm râu dài cất trầm trầm nói
tiếp:
- Đó là sấu thần giữ đất.
Các vị này nằm tu ở dưới đây từ
lâu lắm rồi. Cứ thế, đất đai bồi đắp dần cho đến ngày nay thành đồng ruộng. Họ không dám chuyển mình, vì mỗi lần chuyển mình
sẽ gây sụp lở hại người
hại của…
- Thưa …
- Huynh đệ cứ gọi chúng tôi là đạo hữu – Ông đạo còn lại đỡ lời.
- Thưa đạo hữu, sao các vị này phải nằm im như
vậy. Chừng nào các vị mới giải thoát
nghiệp thú?
- Thiên cơ không giải thích hết được. Huynh đệ cũng không cần hỏi sâu. Chỉ biết là các vị vẫn đang nằm đó tu luyện. Sau này,
khi có cơ duyên thì huynh
đệ tất sẽ biết hết thôi.
- Ồ, vậy ra chuyện thần hổ, thần xà, sấu thần đều là thật cả…
Hai ông đạo vuốt râu
cười. Ông râu ngắn tiếp lời:
- Người đời nghe nói nửa tin nửa ngờ. Có kẻ bĩu môi chê cười cho là chuyện nhảm nhí của
mấy bà già mê tín. Nhưng dù có tin hay không, vạn vật vẫn hiện hữu như vậy. Cũng
như chuyện về đức Phật Tổ vậy, Ngài đã đản sinh giáo hóa từ mấy ngàn năm qua. Vậy mà đến hơn trăm năm trước
người đời mới chịu tin Phật
Tổ có thật trên đời…
- Dạ, con cũng nghe sư ông con giảng, đại khái là đức tin dù bằng hạt cải cũng đủ làm đổ núi Tu Di.
- Sau này người ta tin vào những máy móc nhiều hơn tin bản thân mình. Cho nên, họ ngày càng trở nên yếu ớt...
Ông đạo râu dài nói thêm:
- Ở trên núi này, các vị thần thú có nhiều không ít. Hầu hết đều tu và ẩn sâu trong lòng núi.
- Vậy ra núi Cấm có nhiều hang động lắm ư đạo hữu?
- Những hang người ta đi hành hương chỉ là di tích của các vị đời trước tu luyện để lại thôi. Đúng
ra ngày xưa các vị cũng về
ngụ tại nhưng hang lộ thiên đó. Nhưng sau này loạn quá, người ta lên núi phá rừng, phá đá làm động núi non, chư vị đã ẩn
hết vào các hang sâu rồi.
- Sao người ta không thấy vậy?
- Phàm phu nhục nhãn làm sao nhìn thấy được. Có
những ngày sóc vọng, các vị linh xà bò ra nuốt khí âm dương nằm khơi khơi
bên đường vậy mà có ai thấy đâu. Các vị ấy dùng định lực ẩn hình rồi. Khi nào cao hứng hoặc sơ ý mới hiện thân mà thôi. Những ai được nhìn thấy là phước của người ấy.
Nghe vậy tôi lè lưỡi. Phước kiểu như ông đạo trong Điện Mười Ba hoặc Điện Huỳnh
Long thiệt tình tôi hổng thích chút nào. Chợt nhớ một điều, tôi vội hỏi :
- Vậy các vị đó ăn gì để sống, thưa đạo hữu.
- Các vị thần xà tu lâu năm chỉ uống sương,
hớp ráng trời mà sống. Vị nào đạo lực chưa cao thì ngậm một cục đất sình trong miệng, rút hơi đất trong sình mà nuôi thân.
- Trời! Ăn đất sình sao? – Tôi tròn mắt hỏi ngược lại.
- Có nhiều thứ huynh đệ chưa biết lắm. Chư vị thần hổ cũng vậy, chủ yếu sống nhờ ráng trời, sương núi. Vị nào còn yếu thì xuống ruộng ăn lúa lép để qua bữa.
- Ăn lúa lép? – Tôi lại ngơ ngác.
Chuyện thật khó tin.
Cả hai ông đạo cùng cười, nụ cười chân chất và thanh thoát.
- Chuyện huynh đệ chưa biết còn
nhiều lắm. Nếu còn đủ cơ duyên gặp lại, chúng tôi sẽ cho biết…
Hai ông đạo dẫn tôi đến ngồi trên một thạch bàn to hơn chiếc chiếu. Một vị lấy từ trong túi ra gói lá chuối bé tí đặt lên mặt đá. Vừa banh gói lá ra thì nó đã to ra bằng chiếc mâm. Trên lá có một lớp cơm trắng
mỏng nóng hổi tỏa mùi thơm phức. Mùi thơm của gạo mới, gạo nàng thơm Chợ Đào
chắc cũng đến thế này là cùng. Bất giác, ruột tôi lại sôi lên…
Ông đạo râu dài lấy trong túi áo ra cái bầu hồ lô nhỏ hơn nắm tay và mấy
cái chung nhỏ xíu như hột mít đặt xuống cạnh tàu lá chuối. Ông rót nước trong bầu ra chung rồi chỉ tay vào mâm nhìn tôi như tỏ ý mời. Đoạn, ông với tay vón một ít cơm cho vào miệng
ăn nhỏ nhẻ. Ông đạo kia cũng bắt đầu
bốc cơm ăn. Dù thèm thật nhưng tôi cũng lác đầu từ chối:
- Dạ, con mới ăn hồi nãy ở chùa rồi.
- Vậy thì hai chúng tôi không ép.
Nói xong, cả hai lặng lẽ ăn uống.
Lúc đó, thấy không
tiện ở lâu, tôi khẽ cúi đầu xá cả hai ông đạo rồi định quay đầu xuống núi…
Sau này về kể cho thầy nghe, thầy tôi mừng rỡ nói:
- Cũng may là con không ăn. Nếu ăn vào, xem như sau này con vô bộ của các vị ấy luôn rồi.
Lời thầy nói lúc ấy khiến tôi ngơ ngác...
… Tiếng chuông công phu khuya vang ngân nga trong đêm tối làm tôi choàng tỉnh. Thì ra chỉ là một giấc mơ. Nhưng, một giấc mơ rất thật. Thật đến nỗi tôi nhớ như in từng chi
tiết, từng gương mặt của các vị
trong mơ. Tôi ngồi thần người ôn
lại từng sự việc cho đến khi anh Huỳnh vỗ
vai gọi đi rửa mặt.
PHẦN KẾT.
Tôi trở về thành
phố sau ba ngày đi núi. Hành trang trở về của tôi chỉ có một giấc mơ kì lạ đến siêu thực. Nhưng, chuyến
đi ấy đã làm thay đổi cuộc đời tôi. Cũng từ giấc mơ ấy đến nay, tôi chưa bao giờ có được cơ hội mơ lại một
lần nữa. Có lẽ cơ duyên của tôi chỉ có thế, giống như chặng
hành trình đi mãi về phía trước, những con đường, những chuyến đò qua mình chỉ gặp được có một lần. Không có con đường để tôi quay lại phía
sau, cũng như trong mơ tôi chưa bao giờ được một lần nhìn
ngoái lại…
Chiếc xe đò lần này bon bon trở về thành phố đầy thuận lợi. Nhìn ngọn núi khuất dần sau những
hàng cây lòng tôi bâng khuâng như đang lưu luyến…
“Sẽ có dịp tôi về núi lần nữa” – Tôi tự nhủ thầm như thế.
Tôi xin cảm ơn mọi người đã chịu khó đọc hết những dòng này. Chúc mọi người thân tâm an lạc.
dienbatn giới thiệu.
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét