GIẢI MÃ NHỮNG BÍ ẨN VỀ KINH THÀNH HUẾ VÀ LĂNG MỘ CÁC VUA NGUYỄN. BÀI 24.
Chủ Nhật, 19 tháng 7, 2020
GIẢI MÃ NHỮNG BÍ ẨN VỀ KINH THÀNH HUẾ VÀ LĂNG MỘ CÁC VUA NGUYỄN. BÀI 24. I.NGUỒN GỐC VÀ QUÁ TRÌNH KHỞI PHÁT CỦA 9 ĐỜI CHÚA VÀ 13 ĐỜI VUA NHÀ NGUYỄN. II.LĂNG MỘ CỦA CÁC VUA NGUYỄN TẠI HUẾ. 1.LĂNG THIÊN THỌ CỦA VUA GIA LONG. 2. HIẾU LĂNG CỦA VUA MINH MẠNG. 3. XƯƠNG LĂNG(昌陵) - LĂNG CỦA VUA THIỆU TRỊ. 4. KHIÊM LĂNG – Lăng Tự Đức (chữ Hán: 嗣德陵) 5. LĂNG VUA KHẢI ĐỊNH. 6.CUỘC CHIẾN TÂM LINH RÙNG RỢN GIỮA NHÀ NGUYỄN GIA LONG VÀ NGUYỄN HUỆ - TÂY SƠN. 7. NHỮNG CUỘC TÀN PHÁ VÀ THẢM SÁT CỦA NHÀ TÂY SƠN. ( Bài đọc thêm phần tư liệu ). 8.ĐƯỜNG TOẠI ĐẠO Ở LĂNG VUA CHÚA TRIỀU NGUYỄN. 9.ĐÀN NAM GIAO TẠI VIỆT NAM . I.ĐÀN NAM GIAO Ở THĂNG LONG. 1. Đàn Nam Giao Thăng Long Thời Lý - Trần- Lê: 2.ĐÀN NAM GIAO TẠI THÀNH NHÀ HỒ - THANH HÓA. 3. ĐÀN NAM GIAO TẠI THỌ XUÂN - THANH HÓA. 4. ĐÀN TẾ NAM GIAO CỦA TÂY SƠN Ở BÌNH ĐỊNH. 5. ĐÀN TẾ NAM GIAO TẠI HUẾ. 1/ ĐÀN TẾ NAM GIAO CỦA TÂY SƠN TẠI NÚI BÂN – HUẾ. 2/ ĐÀN NAM GIAO NHÀ NGUYỄN TẠI PHỦ DƯƠNG XUÂN THỜI CÁC CHÚA NGUYỄN: 3/ ĐÀN NAM GIAO NHÀ NGUYỄN TẠI KINH THÀNH HUẾ.( Tiếp theo ). TƯ LIỆU 1 : LỄ TẾ ĐÀN NAM GIAO TẠI HUẾ NĂM 1935. Những hình ảnh về lễ tế Đàn Nam Giao được diễn ra vào năm 1935 cho chính vua Bảo Đại đích thân chủ trì. TƯ LIỆU 2 : LỄ TẾ ĐÀN NAM GIAO TẠI HUẾ NĂM 1924. Ảnh quý về Lễ tế đàn Nam Giao của vua Khải Đinh năm 1924 tại Huế. 10.ĐÀN XÃ TẮC Ở VIỆT NAM. 11.THÀNH PHỐ MA AN BẰNG – VĨNH AN – PHÚ VANG – HUẾ.
1. NGHĨA TRANG LÀNG AN BẰNG - XÃ VĨNH AN - HUYỆN PHÚ VANG - HUẾ. “Nghĩa địa làng An Bằng là một nghĩa trang nổi tiếng, được xem là xa hoa, tráng lệ bậc nhất ở Việt Nam, tọa lạc tại làng chài ven biển An Bằng thuộc xã Vinh An huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên - Huế, nằm cách thành phố Huế 35 km về phía Đông. Tại đây có hàng nghìn khu lăng mộ đủ màu sắc và kích thước, với những khu có giá trị lên tới hàng tỷ đồng. Kiến trúc lăng mộ làng An Bằng hội tụ đủ các yếu tố của Phật giáo, Thiên chúa giáo, Đạo giáo và thậm chí cả Hồi giáo. Nghĩa trang An Bằng nổi tiếng không chỉ tại Việt Nam mà còn trên thế giới và được người trong nước cũng như báo chí nước ngoài gọi bằng những mỹ từ như "thành phố ma An Bằng", "thành phố của người chết", "khu biệt thự của người chết", "thiên đường lăng mộ". Tuy nghĩa trang này không phải là khu du lịch, nó vẫn là một địa điểm thu hút nhiều du khách tham quan. Nghĩa trang An Bằng nằm cách bờ biển khoảng 300 mét, nằm bên Quốc lộ 49B trên đường từ Huế đi Đà Nẵng. Nghĩa trang thuộc địa phận xã Vinh An, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên - Huế, trên một dải đất ngăn cách biển Đông và hệ đầm phá Tam Giang - Cầu Hai, và có diện tích vào khoảng 250 hécta (2,5 km2), tức rộng khoảng gấp 7 lần Disneyland. Làng An Bằng vốn là một làng chài nghèo, cuộc sống của người dân nơi đây chủ yếu phụ thuộc vào nghề đánh bắt, khai thác thủy sản gần bờ, nên đời sống của người dân vẫn còn thiếu thốn.Tuy nhiên, vào đầu thập niên 1990, khi Chính phủ Việt Nam cho phép người Việt định cư ở nước ngoài gửi tiền cho thân nhân của mình ở trong nước, ngôi làng nhanh chóng thay da đổi thịt. Có tới 90% dân làng đều có người thân định cư ở nước ngoài, chủ yếu là tại Mỹ, vốn phần nhiều là thuyền nhân vượt biên sau sự kiện 30 tháng 4, đã ồ ạt gửi tiền về cho người thân. Sự thay đổi nhanh chóng về đời sống kéo theo sự phát triển của quần thể nghĩa trang khi nhiều gia đình sẵn sàng bỏ nhiều tiền để sửa sang, xây dựng mới những lăng mộ cũ của gia tộc mình. Kể từ năm 1991, số lượng lăng mộ bắt đầu tăng lên nhanh chóng, những ngôi mộ được sửa sang, cơi nới với quy mô tráng lệ khi người dân trong làng chạy theo trào lưu xây mộ to đẹp cho người thân.Cuộc tranh đua xây dựng mộ to đẹp diễn ra rất gay gắt, nhiều gia đình vừa mới xây xong chưa được bao lâu, liền đã phá bỏ khu lăng mộ cũ để làm lại cho hoành tráng hơn, đẹp hơn. Nhiều cá nhân dù còn sống vẫn đã được xây mộ, vì vậy mà có nhiều tấm bia chỉ đề năm sinh mà chưa có năm mất vì chủ của nó vẫn đang sống khỏe manh. Làng An Bằng hiện có ước tính khoảng 3.000 ngôi mộ lớn nhỏ.Vào đầu những năm 1990, do chính quyền địa phương chưa có quy hoạch quy hoạch cụ thể, các gia đình vì thế mà tùy ý giành giật đất đai để xây dựng lăng mộ. Các lăng mộ trong nghĩa trang đều có đầy đủ các loại kích thước, hình dáng, diện tích nằm trong khoảng từ 40 – 400 m². Nhiều ngôi mộ cao gần 7 – 8 m, cao gần bằng căn nhà hai tầng, một vài ngôi thậm chí còn cao tới tới 10 m. Lăng mộ nằm dày đặc bao quanh nhà dân, vì thế mà tại làng An Bằng, giữa người sống và người chết không còn "ranh giới" nữa. Hầu hết lăng mộ trong nghĩa trang đều được phỏng theo thiết kế của lăng Khải Định. Lăng Khải Định nổi tiếng vì pha trộn nhiều trường phái kiến trúc như Ấn Độ giáo, Phật giáo, Roman, Gothique,... Tuy sử dụng lăng Khải Định làm mẫu, nhưng biến hóa thêm hay bớt chi tiết đều phụ thuộc vào sở thích của mỗi người xây. Các lăng mộ được thiết kế giống như lăng mộ Đế vương, có cổng tam quan, lợp ngói lưu ly, lại có câu đối, bia đá, trụ biểu, la thành được khảm sành sứ sặc sỡ và được trang trí đầy đủ linh thú trong tứ linh (long ly quy phụng).Cũng vì thế mà nhiều khu lăng mộ còn sang trọng hơn cả nhà dân. Việc ngày càng có nhiều ngôi mộ mọc lên đã tạo công ăn việc làm khá ổn định với thu nhập tương đối tốt cho những người thợ xây, thợ khảm sành sứ, thợ chạm khắc hoa văn trong vùng. Nhiều người từ các huyện lân cận cũng tìm được những công việc như kéo xe cát, chở vật liệu, hay làm phụ hồ để xây lăng. Không chỉ vậy, các dịch vụ khác như thắp nhang thuê, bật điện vào ban đêm, quét dọn và bảo vệ khu lăng mộ cũng mang lại cho người dân thu nhập từ 2 đến 3 triệu đồng/người mỗi tháng, còn vào những dịp lễ tết thì do nhu cầu tăng cao, công việc nhiều nên mức tiền công cũng vì thế mà tăng lên đáng kể. Cũng vì những lý do này mà nghĩa địa làng An Bằng được mệnh danh là nơi "người chết nuôi người sống" .Nghĩa trang An Bằng – Wikipedia tiếng Việtvi.wikipedia.org.
2/ LỊCH SỬ PHÚ VANG. Nguyên xưa, nơi đây là vùng đất thuộc châu Lý của Chiêm Thành. Sau khi được sáp nhập vào Đại Việt, Nhà Trần đã đổi tên châu Lý thành Hóa Châu. Thời Lê, đặt thành huyện Tư Vinh thuộc phủ Triệu Phong. Đầu thời Nguyễn đổi tên là huyện Phú Vinh, nhưng thường đọc trại thành Phú Vang thành tên gọi như ngày nay. Sau năm 1975, huyện Phú Vang có 20 xã: Phú An, Phú Đa, Phú Diên, Phú Dương, Phú Hải, Phú Hồ, Phú Lương, Phú Mậu, Phú Mỹ, Phú Tân, Phú Thanh, Phú Thuận, Phú Thượng, Phú Xuân, Vinh An, Vinh Hà, Vinh Phú, Vinh Thái, Vinh Thanh, Vinh Xuân. 3/Lịch Sử Về Cái Tên Của Làng An Bằng - (An Đôi Ngày Xưa) Nguyễn Tấn Tên làng An Bằng không được bình an cho lắm. Số là thoạt tiên, làng chỉ gồm toàn người lương, chỉ vì có một số ít người gặp phải những lý do không tốt, phải theo đạo Chúa, và từ đó có nhiều mâu thuẩn trong làng. Số người theo đạo Chúa đã gọi tên làng thành An Bường chỉ vì tên đó được phát xuất từ một cố đạo người Tây. Và cũng vì thế, đa số người lương không thích. 4/VÀI NÉT VỀ LÀNG AN BẰNG. Theo tư liệu lịch sử dân tộc và gia phả họ Nguyễn văn Lĩnh (khai canh). Nguyễn văn Tích Kết hợp tư liệu văn bản Hán Nôm của làng và tư liệu lịch sử dân tộc, chúng ta có thể bước đầu trình bày quá trình thành lập làng An Bằng như sau đây. Nguyên vào nửa thế kỷ XV, Nguyễn Hoàng tức chúa Tiên vào trấn thủ Thuận Hóa năm 1558. Năm 1569, ông lại ra Thanh Hóa chầu vua Lê. Qua năm 1570, một số lái buôn người thôn An Ba, xã Cừ Hà, huyện Khang Lộc, Phủ Tân Bình (sau đổi Quảng Bình) đi thuyền ra buôn bán xứ Thanh, trong số đó có ba ngài họ Nguyễn, Trần và Hoàng. Ba vị này đứng ra tình nguyện dùng thuyền trường đà (loại ghe vận tải lớn ngày xưa) chở chúa Tiên trở vào Ái Tử lại làm hướng đạo ngài đi đánh dẹp Mĩ quận công và tham gia trù lập quận công Nguyễn Bạn (tướng nhà Mạc). Sau khi xong việc, năm 1571, ba ngài đưa vợ con, bạn bè vào miền biển huyện Phú Vang, phủ Triệu Phong, lập nên làng xóm, đặt tên là phường An Đôi. Nhờ có công lao phò tá, chúa cho dân phường được miễn thuế má, hàng năm chỉ nạp cá làm lễ phẩm kị giỗ tôn miếu. Thời chúa Ngãi Nguyễn Phúc Thái (1687-1691), vì kiêng húy bà Tống Thị Đôi (người sinh ra chúa Ngãi), làng phải đổi tên An Bằng, thuộc nội phủ, tổng Diêm Trường, huyện Phú Vang, phủ Triệu Phong. Năm 1835, vua Minh Mạng tiến hành xếp đặt lại các đơn vị hành chánh, thì ấp An Bằng thuộc tổng Kế Mĩ. Ngày nay, làng An Bằng nằm trong địa phận xã Vinh An, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế. Ngài họ Nguyễn văn Lãnh (Lĩnh) có lăng trước đình làng và có con cháu nối dõi, còn ngài họ Trần và họ hoàng đều không có mộ cũng không có con cháu nối dõi, theo giấy kê khai: - Vị thứ nhất: Nguyễn quý công, húy Lĩnh (có miếu, có tên, có mộ). - Vị thứ hai: Trần quý công (thờ chung miếu với Nguyễn quý công, không tên, không mộ). - Vị thứ ba: Hoàng quý công (thờ chung miếu với Nguyễn qúy công, không tên, không mộ). Trong khi đó, theo tài liệu Thời chúa Ngãi Nguyễn Phúc Thái (1687-1691), vì kiêng húy bà Tống Thị Đôi (người sinh ra chúa Ngãi), làng phải đổi tên An Bằng, thuộc nội phủ, tổng Diêm Trường, huyện Phú Vang, phủ Triệu Phong. Tóm lại, không có chuyện An Bình hay An Bường gì cả. Người dân An Bằng không hài lòng khi có người gọi là An Bường. “Nguyễn Tấn. 5/“GỐC GÁC CỦA DÂN LÀNG AN BẰNG Gốc gác làng An Bằng thành lập từ thời Chúa Nguyễn Hoàng, di cư vào từ Thanh Hóa Nghệ An, nguyên là dân làng An Đôi (*). Là những người được Chúa Nguyễn nhờ dùng thuyền đưa hoàng tộc và quan quân vào Thuận Hóa, thì chính Chúa Nguyễn đã cấp vùng đất mang tên Tiểu Hoàng Sa, (Vùng đất cát vàng, đúng ra là phải gọi là dãi đảo cát vàng mới đúng, vì dải đất nầy có chiều dài rất dài và chiều ngang thì hẹp, bởi dãi đất nầy là trong sông ngoài biển, hai đầu có hai cửa ăn thông giữa biển và sông) từ cửa Thuận An của ngày nay đến tận cửa Tư Hiện cho tất cả những người đưa thuyền của làng An Đôi thời đó lập nghiệp. Do gốc gác từ dân làng An Đôi nên những thế hệ khai canh mới đặt tên làng là làng An Bằng." " Theo tìm hiểu của chúng tôi, làng An Bằng hay còn có tên gọi khác là Hà Úc và vốn là một làng chài nghèo của xã Vinh An (huyện Phú Vang). Cuộc sống của người dân ở làng chèo này chủ yếu phụ thuộc vào nghề khai thác thủy sản gần bờ trên những con thuyền nhỏ. Cuộc sống của những ngư dân làng An Bằng chuyển sang một trang mới khi khoảng năm 1990 nhà nước cho phép những người Việt định cư ở nước ngoài gửi tiền về cho người thân trong nước. Nhiều người xuất thân từ làng An Bằng đang sinh sống ở nước ngoài (chủ yếu là Mỹ) đã gửi tiền về cho người thân. Từ nguồn tiền ấy, dân chài làng An Bằng bắt đầu thay đổi cuộc sống bằng cách làm nhà, tậu xe sang… Với việc cuộc sống đủ đầy và quan niệm “sống cái nhà, thác cái mồ” nên những ngư dân ở An Bằng bắt đầu đi kiến thiết lăng mộ với nguồn tiền chủ yếu từ nước ngoài gửi về. Từ đó, những lăng mộ có giá hàng trăm triệu thậm chí hàng tỷ đồng thi nhau mọc lên như nấm trong khuôn viên nghĩa địa của làng. Thậm chí còn có thông tin cho rằng, nhiều nhà xây rồi nhưng lại đập đi xây lại vì mộ kém đẹp và to so với những ngôi mộ khác. Có những nhà tốn cả 70.000 USD (hơn 1,5 tỷ đồng) để xây lăng mộ. Một số ngôi mộ ở đây vẫn còn trống, vì nó được xây trước khi có người chết. Theo những người thợ xây ở khu lăng mộ An Bằng, hầu hết các lăng mộ ở đây đều lấy mẫu thiết kế chung từ lăng Khải Định. Sau đó, việc biến hóa thêm hay bớt tùy thuộc vào sở thích của mỗi chủ nhân. Theo quan sát của chúng tôi, tổng thể khu lăng mộ An Bằng độc đáo về kiến trúc, đủ các phong cách. Những người thợ xây, thợ khảm sành sứ chính là những người đã thổi hồn vào cho những ngôi mộ bạc tỷ biến nó thành một “thành phố của người chết” xa hoa bậc nhất đất Việt. Tôi còn nhớ cách đây chừng 6 năm, khi tìm về khu lăng mộ ở An Bằng gặp một toán thợ xây, tôi được nghe một người thợ tâm sự: “Giá mà tui có số tiền bằng một phần của việc xây ngôi mộ ni thì có lẽ vợ con tôi đã đỡ khổ’. 6 năm sau, khi quay lại “thành phố của người chết” tôi vẫn bắt gặp giữa trưa hè những người thợ xây, thợ khảm sành vẫn đang miệt mài “thổi hồn” lên những ngôi mộ bạc tỷ. Nói chuyện với họ, tôi được nghe những câu chuyện tưởng chừng như vô lý nhưng suy nghĩ lại rất có lý là những người dưới những nấm mộ bạc tỷ đang “nuôi” những người thợ xây ở các vùng phụ cận."QUỐC TRỰC – NGUYỄN VƯƠNG 6/ TAY NGHỀ CỦA NHỮNG NGƯỜI THỢ XÂY DỰNG LĂNG MỘ. Theo những người cao niên trong làng cho biết, hầu hết các lăng mộ An Bằng đều lấy mẫu thiết kế chung từ lăng Khải Định, sau đó việc biến hóa thêm hay bớt tùy thuộc vào sở thích của mỗi chủ nhân. Các lăng mộ thiết kế như lăng mộ vua chúa, cũng tam quan với mái ngói lưu ly, câu đối, bia đá, trụ biểu, la thành... rực rỡ sắc màu nhờ bàn tay người thợ khảm sành sứ giỏi. Tổng thể khu lăng mộ tại đây độc đáo về kiến trúc, đủ các phong cách Phật, Thiên chúa giáo, Lão Giáo, Hồi giáo, châu Âu... đều xây bằng tiền do con cháu ở nước ngoài gửi về. Chính quyền địa phương cho biết, những năm 90 của thế kỷ trước, những người An Bằng định cư ở nước ngoài ăn nên làm ra ồ ạt gửi tiền về xây lăng mộ để... báo hiếu. Do địa phương chưa có quy hoạch nên mạnh ai nấy làm, từng nhà, từng dòng tộc thi nhau giành đất để xây lăng, đắp mộ. Có nhiều ngôi mộ diện tích lên tới cả ngàn mét vuông. Chỉ trong một thời gian ngắn, những cồn cát xưa kia đã được bịt kín bằng lăng mộ. Lăng mộ “bao vây” nhà ở người dân, dường như nơi đây không có ranh giới giữa người sống và người chết. Đa số những lăng mộ hoành tráng ở An Bằng được tạo nên từ sự khéo léo của những người thợ các xã Vinh Thanh, Vinh Xuân... (Phú Vang). “Mặc dù làm việc trong môi trường đặc biệt, nhưng được cái khi nào cũng luôn tay. Cứ xây xong mộ này lại có cái mới để xây, đôi lúc tổ thợ tui không dám nhận nhiều vì sợ làm không nổi. Một ngôi mộ trung bình ở đây cũng phải xây đến nửa năm với khoảng 10 nhân công, đó là chưa nói khi gặp những gia đình cẩn thận, họ đòi hỏi tỉ mỉ thì công việc sẽ kéo dài thêm” “Những thợ xây mộ tại đây không chỉ biết cách xây mà cần có sự khéo léo, kèm thêm một chút kinh nghiệm. Khi xây những ngôi nhà ở bình thường những chi tiết còn thô thì họ bỏ qua, nhưng xây huyệt mộ chỉ cần sơ suất nhỏ thôi là mình phải làm lại ngay...”, anh Phước cho biết. Không những giỏi nghề mà họ còn phải nghiên cứu về kiểu cách xây, biết kết hợp hài hòa giữa kiến trúc vua chúa và kiến trúc hiện đại. Chính vì vậy, những người thợ ở làng Vinh Thanh rất được lòng người dân An Bằng. Có nhiều trường hợp thợ nề sau thời gian làm ở đây đã xuất ngoại, họ được các mối ở nước ngoài mời sang. Việc đi xuất ngoại giúp họ thu nhập cao hơn gấp nhiều lần trong nước. Điều đặc biệt của các thợ nề xuất ngoại là giỏi về nghệ thuật điêu khắc đá, vẽ tranh, hoa văn và kỹ thuật gắn miếng vỡ từ loại chén bát có men. Sự khéo léo tinh tế của những thợ kép thể hiện trong tạo hình, đắp nổi, trau chuốt từng chi tiết nhỏ nhất. Nhờ đó cũng tạo công ăn việc làm cho nhiều người ở xã Vinh An và các địa phương khác trong huyện. Điển hình là nghề kép (chuyên đắp nổi và khảm sành, thuỷ tinh lên các chi tiết của đình chùa, miếu, nhà thờ ở Huế) làm ăn phát đạt nhất huyện.Nghề kép có truyền thống từ lâu đời ở vùng Thuận Hoá, Phú Xuân, Thừa Thiên Huế. Nghề này sống nhờ vào việc làm đẹp cho các công trình xây dựng đền, chùa, miếu, nhà thờ. Đặc biệt, kể từ khi phong trào xây dựng lăng mộ nở rộ, cánh thợ kép càng có thêm nhiều đất dụng võ. Một dịch vụ đặc biệt nữa là việc thuê thắp nhang, bật điện ban đêm, quét dọn lăng mộ... cũng rất phát triển ở đây. Theo tiết lộ của những người làm công, đối với những công việc đó mỗi tháng một người nhận được từ 1,5 đến 2 triệu đồng mỗi tháng, lễ tết được thưởng thêm như những công việc khác. Để khôi phục Lăng mộ nhà Nguyễn, chúng ta rất cần những bàn tay vàng của những người thợ xây lăng mộ làng Vinh Thanh này. 7/PHONG THỦY KHU NGHĨA TRANG.
Nghĩa trang An Bằng nằm cách bờ biển khoảng 300 mét, nằm bên Quốc lộ 49B trên đường từ Huế đi Đà Nẵng. Nghĩa trang thuộc địa phận xã Vinh An, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên - Huế, trên một dải đất ngăn cách biển Đông và hệ đầm phá Tam Giang - Cầu Hai, và có diện tích vào khoảng 250 hécta (2,5 km2), tức rộng khoảng gấp 7 lần Disneyland. Làng An Bằng vốn là một làng chài nghèo, cuộc sống của người dân nơi đây chủ yếu phụ thuộc vào nghề đánh bắt, khai thác thủy sản gần bờ, nên đời sống của người dân vẫn còn thiếu thốn.Tuy nhiên, vào đầu thập niên 1990, khi Chính phủ Việt Nam cho phép người Việt định cư ở nước ngoài gửi tiền cho thân nhân của mình ở trong nước, ngôi làng nhanh chóng thay da đổi thịt. Có tới 90% dân làng đều có người thân định cư ở nước ngoài, chủ yếu là tại Mỹ, vốn phần nhiều là thuyền nhân vượt biên sau sự kiện 30 tháng 4, đã ồ ạt gửi tiền về cho người thân. Kể từ năm 1991, số lượng lăng mộ bắt đầu tăng lên nhanh chóng, những ngôi mộ được sửa sang, cơi nới với quy mô tráng lệ khi người dân trong làng chạy theo trào lưu xây mộ to đẹp cho người thân.Cuộc tranh đua xây dựng mộ to đẹp diễn ra rất gay gắt, nhiều gia đình vừa mới xây xong chưa được bao lâu, liền đã phá bỏ khu lăng mộ cũ để làm lại cho hoành tráng hơn, đẹp hơn. Nhiều cá nhân dù còn sống vẫn đã được xây mộ, vì vậy mà có nhiều tấm bia chỉ đề năm sinh mà chưa có năm mất vì chủ của nó vẫn đang sống khỏe manh. Làng An Bằng hiện có ước tính khoảng 3.000 ngôi mộ lớn nhỏ.Vào đầu những năm 1990, do chính quyền địa phương chưa có quy hoạch quy hoạch cụ thể, các gia đình vì thế mà tùy ý giành giật đất đai để xây dựng lăng mộ. Các lăng mộ trong nghĩa trang đều có đầy đủ các loại kích thước, hình dáng, diện tích nằm trong khoảng từ 40 – 400 m². Nhiều ngôi mộ cao gần 7 – 8 m, cao gần bằng căn nhà hai tầng, một vài ngôi thậm chí còn cao tới tới 10 m. Lăng mộ nằm dày đặc bao quanh nhà dân, vì thế mà tại làng An Bằng, giữa người sống và người chết không còn "ranh giới" nữa.
Tên làng An Bằng không được bình an cho lắm.
Về Phong thủy khu vực này nằm trên doi cát , bốn bề trống trải , gió thổi ầm ầm, các lăng mộ quay đủ hướng và chen chúc.Về Phong thủy không có gì đáng nói . Nhận xét chung của dienbatn là tại khu vực tốn hàng ngàn tỷ này tay nghề của các người thợ xây dựng quá giỏi và trình độ của các Thày Phong thủy quá dở . Chắc mới học xong phần BÁT TRẠCH MINH CẢNH. Về Tâm linh dân làng An Bằng ngày xưa rất nghèo khó , sau khi ồ ạt vượt biên đi nước ngoài : " Có tới 90% dân làng đều có người thân định cư ở nước ngoài, chủ yếu là tại Mỹ, vốn phần nhiều là thuyền nhân vượt biên sau sự kiện 30 tháng 4, đã ồ ạt gửi tiền về cho người thân." nên tạm coi là khấm khá. Vì là quê cha đất Tổ , nên dù về Địa lý Phong thủy không có gì đáng nói nhưng họ vẫn đầu từ xây nhà và Lăng mộ rất nguy nga , tráng lệ , có lẽ muốn xóa đi cảnh nghèo đói ngày xưa ???
8. MỘT SỐ ẢNH TRONG CHUYẾN ĐI ĐIỀN DÃ CỦA DIENBATN ĐỢT VỪA QUA.
Đường vào Làng An Bằng.
Trên cồn cát trắng tinh hàng ngàn tỷ bạc chen chúc nhau .
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét