Blog chuyên nghiên cứu và chia sẻ văn hóa phương Đông - phong thủy - tâm linh - đạo pháp - kinh dịch...
EMAIL : dienbatn@gmail.com
TEL : 0942627277 - 0904392219.PHÁC THẢO PHONG THỦY HÀ TĨNH. BÀI 25.
PHẦN III . HỌ NGUYỄN TIÊN ĐIỀN.
PHẦN IV. PHONG THỦY VÀ DANH NHÂN HUYỆN CAN LỘC.
1/Cứ liệu gia phả.
Hiện nay trong họ và Thư viện Viện nghiên cứu Hán Nôm còn lưu giữ được 4
gia phả họ Phan Huy. Trước hết tôi xin lưu ý, dòng họ Phan Huy vốn xưa là Phan
Văn, đến đời thứ tám là Phan Huy Cận mới đổi thành Phan Huy. Tổ tiên xa nhất gọi
là Tiên tổ mà gia phả ghi nhận thuộc thời Lê sơ thế kỷ XV. Dòng họ trước đây ở
xã Ngọc Điền (xã Thạch Thượng, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh, thị trấn huyện lỵ
huyện Thạch Hà hiện nay). Đến đời vua Lê Thánh Tông (1460-1497) mới dời về thôn
Chi Bông, sau đổi là thôn Hữu Phương (xã Thạch Châu, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà
Tĩnh). Đời thứ bảy, dòng trưởng là Phan Văn Canh dời từ thôn Hữu Phương về thôn
Gia Thiện (xã Thạch Châu, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh), dòng thứ vẫn ở Hữu
Phương. Dòng họ Phan Huy định cư tại Gia Thiện cho đến nay.
Đời thứ sáu là Đô đốc Vinh Lộc hầu Phan Văn Kính có hai người con gái là
Phan Thị Nẫm được tuyển chọn làm cung tần chúa Tây Đô vương Trịnh Tạc
(1657-1682) và Phan Thị Lĩnh làm cung tần chúa Định vương Trịnh Căn
(1682-1709). Hai phi tần này đã từng về xã Thuỵ Khuê (thôn Thuỵ Khuê, xã Sài
Sơn, huyện Quốc Oai, tỉnh Hà Tây) tu sửa chùa Hoa Phát, chùa Bối Am (chùa Một
Mái), dựng đền thờ Một Mái thờ cha gọi là “Phan Đô đốc từ” trong đền tạc tượng
thờ, đúc chuông và mở ao vườn làm ao công của làng gọi là Ao Gạch… Nhưng đến đời
thứ tám, Tiến sĩ Phan Huy Cận (1722-1789) mới nhập cư ở Thuỵ Khuê và được coi
là Tổ của chi phái Sài Sơn, trong gia phả thường gọi là Sơn phái tức chi phái ở
Sơn Tây. Họ Phan Huy có nhiều chi phái ở nhiều nơi nhưng vào cuối thời Lê trung
hưng và đầu thời Nguyễn, tức thế kỷ XVIII và đầu thế kỷ XIX, chi phái Sài Sơn
phát đạt nhất.
Hiện nay dòng họ còn lưu giữ được 4 bản gia phả. Tại Gia Thiện-Hà Tĩnh
lưu giữ được 2 bản đều mang tên “Phan gia công phả”, một bản đầy đủ 167 trang,
một bản thiếu một số trang (1). So sánh nội dung thì hai văn bản cơ bản giống
nhau, gần như sao chép từ một văn bản chung trước đó. Chi phái Sài Sơn trước
đây cũng lưu giữ 1 văn bản gia phả do cụ Phan Huy Diêu giữ và tôi đã có dịp được
mượn về nhà xem, sao chụp lại một số phần cần thiết. Tiếc rằng sau khi cụ Phan
Huy Diêu mất, bản gia phả này bị thất lạc và cho đến nay vẫn chưa tìm ra. May
thay Thư viện Viện nghiên cứu Hán Nôm còn lưu giữ được 2 văn bản gia phả họ
Phan Huy do Viện Viễn Đông bác cổ Pháp (EFEO) sưu tầm. Đó là “Phan gia thế tự lục”
do Phan Huy Quýnh (1775-1844) soạn tại Sài Sơn năm Bính Tuất niên hiệu Minh Mệnh
thứ 7 tức năm 1826 (2) và “Phan tộc công phả” do Phan Huy Dũng (1842-1912) soạn
với bài dẫn viết năm Canh Dần niên hiệu Thành Thái tức năm 1890 và bài tựa tân
biên năm Duy Tân thứ nhất tức năm 1907 (3). EFEO thu thập hai gia phả này tại
chi phái Sài Sơn. Giữa 4 gia phả trên có một ít khác biệt, nhưng về cơ bản là
thống nhất và bổ sung cho nhau. Về hành trạng của Phan Huy Chú thì “Phan tộc
công phả” của Phan Huy Dũng và “Phan gia công phả” của dòng họ Phan Huy ở Gia
Thiện-Hà Tĩnh chép tương đối đầy đủ nhất và hoàn toàn thống nhất.
Theo tư liệu gia phả thì Phan Huy Chú (1782- 1840) thuộc đời thứ chín,
là con trai thứ ba của Tiến sĩ Phan Huy Ich (1750-1822) và mẹ là Ngô Thị Thục
(1750-1792), con gái cả của Tiến sĩ Ngô Thì Sĩ. Cuộc đời thi cử và làm quan của
Phan Huy Chú gặp nhiều trắc trở, hai lần đi thi (năm 1807, 1819) chỉ đỗ Tú tài,
12 năm làm quan (từ 1821 đến 1833) cũng không được tin cậy khi thăng khi giáng,
có khi bị khiển trách, ghép tội và bãi chức, cách chức. Chí hướng và tâm huyết
của ông giành cho đọc sách, khảo cứu và trước tác. Năm 1833 sau chuyến công cán
ở Giang Lưu Ba (Batavia tức Jakarta, Indonesia hiện nay) về, ông lấy cớ đau chân,
xin trí sĩ, trở về cuộc dời dạy học và sáng tác thơ văn (4).
Phan Huy Chú có hai vợ. Bà chánh thất là
Nguyễn Thị Vũ, người làng An Lũng (Hoài Đức, Hà Tây), con gái Thượng thư
Bộ lại Nguyễn Thế Lịch (1748-1817) và cháu ngoại Đại vương Nguyễn Quý Đức làng
Đại Mỗ (Từ Liêm, Hà Nội). Nguyễn Thế Lịch còn có tên là Nguyễn Gia Phan, đỗ Tiến
sĩ cùng khoa với Phan Huy Ích, Ngô Thì Nhậm (khoa thi năm 1775), cùng theo Tây
Sơn và cùng bị vua Gia Long sai đánh đòn trước Văn Miếu. Bà sinh 4 con trai là:
Phan Huy Uyên, Phan Huy Chuẩn, Phan Huy Triệt, Phan Huy Hàm và 1 con gái là
Phan Thị Cơ. Bà thứ thất, người làng Thanh Mai (Ba Vì, Hà Tây), gia phả không
ghi họ tên. Bà sinh 1 con trai là Phan Huy Nhuận. Theo gia phả, sau khi nghỉ
hưu, Phan Huy Chú về dạy học tại quê bà vợ thứ và mất tại đây vào năm Minh Mệnh
thứ 21 tức năm 1840. Theo “Phan tộc công phả” thì khi mất, mộ Phan Huy Chú táng
tại Thanh Mai. Trong số 5 con trai của Phan Huy Chú thì:
– Phan Huy Uyên, tục gọi Cả Khế, mất sớm.
– Phan Huy Chuẩn tục goi Hai Kế, nhập tịch làng Đại Mỗ để lo thờ cúng tổ
tiên bên ngoại là bà ngoại họ Ngô ở làng Tả Thanh Oai, mẹ họ Nguyễn ở làng An Lũng và ông ngoại ở
làng Đại Mỗ.
– Phan Huy Triệt tục gọi Ba Mai,
nhập tịch làng Thanh Mai.
– Phan Huy Hàm sinh 1 con gái và mất sớm.
– Phan Huy Nhuận cũng nhập tịch làng Thanh Mai.
Như vậy tư liệu gia phả cung cấp hai căn cứ quan trọng:
– Hai người con trai của Phan Huy Chú nhập tịch tại Thanh Mai và lập
thành một chi phái họ Phan Huy ở đây.
– Vào cuối đời, Phan Huy Chú dạy học và sống 7 năm tại Thanh Mai rồi năm
1840 mất và mộ táng tại đây.
Đấy là những cứ liệu trong gia phả
cho phép định hướng đi tìm mộ Phan Huy Chú tại làng Thanh Mai.
2/Điều tra thực địa.
Làng Thanh Mai tục gọi là Kẻ Mơ, thuộc tổng Thanh Mai, huyện Tiên Phong,
phủ Quảng Oai, trấn Sơn Tây, nay là thôn Mai Trai, xã Vạn Thắng, huyện Ba Vì, tỉnh
Hà Tây (5).
Ngày 19 tháng 4 năm 2001, tôi cùng gia đình và ông Phan Huy Dục thuộc
chi phái Sài Sơn tìm về làng Thanh Mai, xã Vạn Thắng, huyện Ba Vì, tỉnh Hà Tây.
Chúng tôi gặp Đảng uỷ và UBND xã Vạn Thắng, trong lãnh đạo xã cũng có người thuộc
dòng họ Phan Huy. Các đồng chí rất vui vẻ tiếp chúng tôi và cho biết tại Mai
Trai chỉ có một dòng họ Phan với tên lót là Phan Huy hay Phan Văn. Chúng tôi về
thôn Mai Trai gặp một con cháu và vị cao tuổi trong họ Phan Huy. Tất cả hậu duệ
đều khẳng định là con cháu của một chi phái họ Phan Huy nhưng không nhớ tên vị
tiên tổ đến đây đầu tiên. Gia phả chữ Hán đã bị đốt cháy năm 1948 khi quân Pháp
nhảy dù xuống Bạch Hạc rồi càn quét cả vùng này. Qua ký ức lưu truyền con cháu
chỉ biết vị tiên tổ gốc ở làng Thầy (tức Sài Sơn), về đây dạy học, thường gọi
là Ông Sứ hay Ông Chánh Sứ. Điều vui mừng là các cụ cho biết mộ tổ họ Phan Huy
vẫn còn và mới được con cháu xây lại năm 1994. Các cụ cũng cho biết sau con
cháu ít người học hành đỗ đạt mà phần lớn làm ruộng và buôn bè trên sông Đà, một
nghề phổ biến ở vùng này.
Chúng tôi đi thăm mộ tại xứ Nội Ngân thuộc địa phận thôn Mai Trai. Ngôi
mộ rõ ràng mới xây và có ghi rõ ngày xây là 20-12-1994. Mộ hình khối vuông,
trên cùng có mái hình chóp bốn cạnh rồi tiếp đến bốn mái hiên. Trong mộ có bia
viết chữ quốc ngữ “Mộ tổ họ Phan”, dưới
ghi ngày “Kỵ 22-1”.
Chúng tôi tin rằng đây là mộ Phan Huy Chú, nhưng cần xác minh thêm. Điều
băn khoăn nhất của tôi là ngày giỗ theo một cuốn gia phả do Phan Huy Long và
Phan Huy Uẩn biên soạn ở Sài Gòn năm 1963 là ngày 27 tháng 4 (6) mà mộ chí lại
ghi là 22 tháng 1.
Trở về Hà Nội, tôi tìm đến gặp cụ bà Phan Huy Diêu (1917-2002) là người
cao tuổi nhất trong chi phái họ Phan Huy ở Sài Sơn, năm 2001 đã 84 tuổi và đã từng
buôn bán ở vùng Thanh Mai. Cụ cho biết, dân buôn bè sông Đà rất vất vả, phải lo
làm ăn cho đến cuối tháng chạp mới về nhà ăn lo chuẩn bị ăn tết và thường sau Tết,
trong tháng giêng mới làm lễ cúng tổ tiên. Do đó, ngày giỗ 22-1 có thể là ngày
giỗ Tổ của con cháu theo tập quán làm ăn của dân buôn bè. Đấy là một giả thuyết
giải thích sự khác biệt về ngày giỗ chép trong gia phả và ngày giỗ con cháu thực
hiện trong cuộc sống thực tế.
Ngày 21 tháng 1 năm Bính Tuất-2006, tôi lại cùng gia đình và ông Phan
Huy Khang và ông Phan Huy Dục thuộc chi phái Sài Sơn về cúng giỗ cùng bà con họ
Phan Huy ở Thanh Mai. Lần này chúng tôi may mắn được gặp rất nhiều con cháu của
hai chi ở Thanh Mai và Đại Mỗ đều là hậu duệ trực tiếp của Phan Huy Chú cùng một
số chi phái khác.
Theo gia phả có thể tóm lược thành sơ đồ con cháu chi phái họ Phan Huy ở Thanh Mai và Đại Mỗ như sau (xem sơ đồ).
– Quê ở Thầy tức Sài Sơn là chi
phái họ Phan Huy do Tiến sĩ Phan Huy Cận khai lập mà Phan Huy Chú là cháu gọi bằng
ông nội.
– Quê gốc ở Hoan Châu là họ Phan
Huy ở Gia Thiện-Hà Tĩnh hiện nay, trước thuộc Hoan Châu hay Nghệ An.
– Làm nghề dạy học vì từ sau khi
xin nghỉ hưu, Phan Huy Chú về quê bà vợ thứ ở Thanh Mai dạy học.
– Thường gọi là Ông Sứ hay Chánh
Sứ vì trong thời gian làm quan cho triều Nguyễn, Phan Huy Chú ba lần được cử đi
sứ nước ngoài: năm 1824 được cử làm Phó sứ sang triều Thanh, năm 1830 cũng làm
Phó sứ sang triều Thanh, năm 1832 được cử đi công cán ở Giang Lưu Ba tức
Batavia (Jakarta ở Indonesia hiện nay) (7).
Con cháu không nhớ tên vị tổ thứ nhất, nhưng lại nhớ khá rõ các vị tổ về
sau thuộc thế hệ thứ ba, thứ tư của Phan Huy Chú như sự ghi chép của gia phả. Tất
cả thông tin đó tổng hợp lại cho phép khẳng định Phan Huy Chú đúng là vị tổ của
chi họ Phạn Huy ở Thanh Mai và Đại Mỗ.
Về ngôi mộ Phan Huy Chú, các cụ cao tuổi
cho biết thêm, ngôi mộ đã di chuyển lần thứ nhất vào năm 1967 và năm 1994 chuyển
đến vị trí hiện nay rồi xây dựng lại. Các cụ còn nhớ khi đào lên thấy hài cốt
đã cải táng, đặt trong một nồi đất to, trên úp một viên gạch cổ. Cải táng trong
nồi đất là tập quán phổ biến ở vùng Ba Vì và thường dùng nồi đất của lò gốm Phú
Nhị gần thị xã Sơn Tây hiện nay.
Con cháu còn ghi nhớ, ngoài ngôi mộ tổ họ Phan Huy, còn hai mộ tổ đời thứ
hai ở Thanh Mai. Đối chiếu với phả hệ, đời thứ hai là Phan Huy Triệt và Phan
Huy Nhuận.
Như vậy đối chiếu tư liệu gia phả với ký ức con cháu thuộc hậu duệ của
Phan Huy Chú ở Thanh Mai và Đại Mỗ, có thể đi đến kết luận là ngôi mộ tổ họ
Phan còn được bảo tồn ở Thanh Mai, nay là thôn Mai Trai, xã Vạn Thắng, huyện Ba
Vì, tình Hà Tây là mộ Phan Huy Chú.
Vấn đề duy nhất cần xác minh thêm là ngày mất của Phan Huy Chú. Trên
ngôi mộ hiện còn ở Mai Trai ghi là 22-1, do con cháu mới ghi lại năm 1994 nhưng
trên cơ sở ngày giỗ tổ hàng năm vẫn được tổ chức vào ngày này. Ngày mất 27-4
năm Canh Tý (1840) là theo bản “Gia phả họ Phan” do Phan Huy Long và Phan Huy Uẩn
biên soạn năm 1963, nhưng cho đến nay bản gốc bằng chữ Hán vẫn chưa tìm thấy,
còn các bản gia phả chữ Hán đang được lưu giữ tại Viện nghiên cứu Hán-Nôm và tại
họ Phan Huy ở Gia Thiện-Hà Tĩnh thì không ghi ngày mất của Phan Huy Chú. Vấn đề
này xin lưu lại để tiếp tục tra cứu, xác minh sau và có hai khả năng: thứ nhất,
ngày mất của Phan Huy Chú là ngày 27-4 và con cháu tổ chức giỗ tổ vào ngày 22-1
theo tập quán làm ăn của dân buôn bè; thứ hai, ngày mất của Phan Huy Chú đúng
là ngày 22-1 và ghi chép của bản gia phả mới biên soạn năm 1963 đã nhầm lẫn.
Trong lúc chờ đợi sự xác minh, tôi đề nghị nên chấp nhận ngày giỗ 22-1 mà lâu
nay hằng năm con cháu chi phái trực hệ của Phan Huy Chú ở Thanh Mai và Đại Mỗ vẫn
tổ chức giỗ tổ Phan Huy Chú.
Trên cơ sở xác định mộ Phan Huy Chú, con cháu trong họ cùng Sở Văn hoá
thông tin Hà Tây có căn cứ khoa học để lập kế hoạch bảo tồn, tôn tạo chuẩn bị
cho kỷ niệm 225 năm sinh của danh nhân vào năm 2007.
Chú thích:
Hai bản gia phả Phan tộc công phả này hiện
nay do ông Phan Huy Xương bảo quản tại Gia Thiện, xã Thạch Châu, huyện Thạch
Hà, tỉnh Hà Tĩnh. Chương trình nghiên cứu gia phả Việt Nam của Viện Việt Nam học
và khoa học phát triển thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội, đang dịch và xuất bản cuốn
gia phả này kèm theo bản chụp nguyên bản chữ Hán.
Phan gia thế tự lục, Viện nghiên cứu Hán
Nôm, ký hiệu A.2691
Phan tộc công phả, Viện nghiên cứu Hán
Nôm, ký hiệu A.2963
Phan Huy Lê, “Phan Huy Chú-cuộc đời và sự
nghiệp”, trong Tìm về cội nguồn, NXB Thế giới, Hà Nội 1999, T. II, tr. 693-712
Các tổng trấn xã danh bị lãm, bản dịch Tên
làng xã Việt Nam đầu thế kỷ XIX, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội 1989, tr. 41. Đồng
Khánh địa dư chí lược, tỉnh Sơn Tây, bản in và dịch, NXB Thế giới, Hà Nội 2003,
T.I, tr. 907.
Gia phả họ Phan do Phan Huy Long, Phan Huy
Uẩn soạn, Sài Gòn1963, bản đánh máy.
Phan Huy Chú, Hải trình chí lược/Recit
sommaire d´ un voyage en mer, Phan Huy Lê, Claudine Salmon, Tạ Trọng Hiệp dịch
và giới thiệu, Paris 1994.
Phan Huy Lê.
TS. NGUYỄN NGỌC NHUẬN
Viện Nghiên cứu Hán Nôm
(Tạp chí Hán Nôm, Số 5 (78) 2006;
Tr.10-20)
Theo cuốn “Phan gia công phả” còn ghi lại: “nghe nói trước kia tiên tổ
dòng họ ta nguyên quán ở xã Ngọc Điền, huyện Thạch Hà, thuộc ty Giáo phường,
quen nghề làm ruộng và am tường âm nhạc. Đến niên hiệu Quang Thuận, Hồng Đức đời
Lê Thánh Tông (1460 - 1497), phụng chỉ cho coi việc giáo phường làm phân trưởng
của đình ở huyện, lúc đó mới nhập tịch
vào phía Tây xứ Trằm Vịt, thôn Chi Bồng
(sau đổi là Hữu Phương) xã Thu Hoạch, huyện Thiên Lộc cho nên người trong ấp
thường gọi tiên tổ họ ta là ông Trằm, mụ Trằm…” (tờ 7a). Có thể nói ông Trằm là
ông tổ đầu tiên của họ Phan ở Thạch Châu, Thạch Hà, Hà Tĩnh. Vào đời Lê Sơ, tổ
tiên dòng họ Phan vốn có nghề làm ruộng lại giỏi âm nhạc do ty giáo phường quản
lý và được phân về giữ đình (đình Môn) các xã trong huyện.
Tổ tiên họ Phan vốn ở xã Ngọc Điền huyện Thạch Hà, do quy định trên đã
phụng chỉ chuyển về thôn chi Bồng, sau đổi là thôn Hữu Phương, xã Thu Hoạch,
huyện Thiên Lộc (nay thuộc xã Thạch Châu, huyện Thạch Hà, tĩnh Hà Tĩnh) . Thạch
Châu nguyên xưa là thuộc làng chi Bồng xã Thu Hoạch tổng Canh Hoạch – huyện
Thiên Lộc – phủ Đức Quang. Nơi đây là một miền đất khai phá từ lâu. Đến năm Khải
Định thứ 6 (1021) chia tổng đoàn vào huyện Can Lộc và huyện ấy lại tách hai tổng
Vĩnh Luật và Canh Hoạch về Thạch Hà cho đến đời thứ 10 trong dòng họ Phan có
người là Trùm huyện là chức sắc trong giáo phường, một tổ chức của hát ca từ thời
phong kiến ở nước ta.
Từ Ngọc Điền chuyển về thôn chi Bồng tức Hữu Phương, vào đời thứ bảy, họ
Phan phân làm hai chi phái: Đại Tôn ở thôn Gia Thiệu và Tiểu Tôn ở Hữu Phương,
nay đều thuộc xã Thạch Châu, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh.
Với lịch sử hơn 400 năm qua 15 thế hệ con cháu (tính từ cụ tổ) Dòng họ
Phan Huy ở Thạch Châu – Thạch Hà - Hà Tĩnh đã lan tỏa ra nhiều huyện trên đất
Hà Tĩnh, nhiều tỉnh thành trong cả nước và thậm chí đang có số ít sinh sống ở
nước ngoài. Đến đời cụ Phan Huy Cận dòng họ Phan Huy có một nhánh ra dòng họ
Thuỵ Khê (Hà Tây). Riêng ở Thạch Châu, Thạch Hà, Hà Tĩnh dòng họ Phan Huy đã rất
phát triển.
Theo cuốn “Phan Gia công phả” cả phần dịch và chữ Hán dày 308 trang do
Nguyễn Ngọc Nhuận dịch và giáo sư Phan
Huy Lê hiệu đính, từ thế kỷ XVI đến cuối
thế kỷ XIX trải qua 13 đời như sau:
Đời 1: Tiên tổ khảo, tên Thụy là Đôn Dụ phủ quan.
Đời trước có nói rằng: Cao cao tổ tên là ông Trằm, Cao cao tổ tên là mụ
Trằm (vào mùa thu năm Mậu Thân niên hiệu Bảo Thái đời Lê (1728), tăng quận công
cùng các vị Quý Tần về bản quán có đặt đàn, bày lễ, truy tiến các vị gia tiên
đã ghi như vậy).
Đời 2:Phan Lệnh Công tên Thuỵ là trang chiêu phủ
quân, tên huý là Phan Văn Lâu.
Đời 3:Phan Lệnh Công, tên thuỵ là thuần mục phủ
quân tên, huý là Phan Văn Đài
Đời 4:Phan Văn Nguyên: Ông là con trưởng của cụ Thuần Mục Công, vào
năm Nguyên Hòa đời vua Lê Trang Tông (1533 - 1548) lúc đầu đi theo viên quân
nhiều lần được thăng quan cơ cai làm vũ huân tướng quân, phong tước hầu, sau
khi đánh giặc có công, được tấn phong tước quận công. Ngày tháng 3 niên hiệu Khải
Định thứ 2 (1917) được gia phong Quang Ý trung
đẳng thần. Niên hiệu Khải Định thứ 9 (1924) được gia tặng là trắc vĩ thượng
đẳng thần.
Đời 5: Cụ Phan Văn Lan:con trưởng của cụ Phan
Văn Nguyên. Vào niên hiệu Quang Hưng (1578 - 1599) thời Lê Thế Tôn (1573 –
1600), ông làm cai cơ dần dần thăng tả thăng đốc, được phong tước hầu.
Đời 6:Cụ Phan Văn Kính: con đầu cụ Phan Văn
Lan, vào niên hiệu cảnh trị đời Lê Huyền Tôn (1663 - 1671) ông theo nghiệp binh
làm cai cơ, sau dần dần được thăng chiêu nghị tướng quân, đô đốc đồng tri, đến
đời Lê Cảnh Hưng năm thứ 47 (1786) được phong tặng là Trấn quốc thượng tướng
quân, Hữu đô đốc vinh lộc hầu trụ quốc thượng liệt. Tháng 5 Thành Thái thứ 6
(1894), triều Nguyễn, ông được phong Đoan túc bảo trung hưng tôn thần, chuẩn
cho hai thôn phụng thờ. Ngày tháng 10 năm Duy Tân thứ 3 (1909) lại được gia
phong, Chuẩn cho hai thôn phụng thờ. Năm Khải Định thứ IX (1924) được gia tăng
Quang Ý trung đẳng tôn thần.
Đời thứ 7:Dòng họ chia ra thành Đại tôn và Tiểu tôn.
Trưởng là Vũ Tường Hầu (Phan Văn Canh) thuộc đại tôn, nhập tịch ở Gia
Thiện.
Thứ là Tăng Quận Công (Phan Văn Tĩnh), thuộc tiểu tôn vẫn ở Hữu Phương.
Từ đây gia phả chép các thế thứ theo hai dòng đại tôn và tiểu tôn.
Đại tôn:
Đời thứ 7:
Phan Văn Canh: Tên tự là Như
Thành, tên Thuỵ là Thuần hậu phủ quân. tuổi Đinh Mùi (1667) thọ 65 tuổi sinh được hai người con
trai (trưởng là Côn Thọ Bá, thứ hai là Văn Kiều) .
Đời thứ 8:Chánh ngũ phẩm giữ chức thiêm sự tại sự viện, Côn Thọ Bá Phan
Quý Công, tên tự là Như Phương, tên Thuỵ là Thanh Trực. Con trưởng cụ Phan Văn
Canh, sinh năm Quý Dậu (1693), thọ 68 tuổi.
Sinh hạ được 6 con trai là: (Châu, Điền, Tuyên, Gia, Điền).
Đời thứ 9:Phan Huy Châu: Là chánh ngũ phẩm giữ chức
thiên sự tại thiên sự viện là con trưởng của Côn Thọ Bá. Ông sinh năm Nhâm Thìn
(1712), thọ 59 tuổi.
Sinh hạ 4 con trai (trưởng Bĩnh, thứ hai là Quan, thứ ba là Điền, thứ tư
là Tôn).
Đời thứ 10:Phan Văn Bỉnh là con trưởng của cụ thu lộc
hầu Phan Văn Châu, sinh năm Kỷ mão (1959), thọ 60 tuổi. Ông là quan viên tử
kiêm trùm huyện tức là người đứng đầu ty giáo phường cấp huyện.
Sinh hạ được 4 con trai là: Xán, Án, Đồng, Lương.
Đời thứ 11: Phan Văn Xán là con trưởng cụ trùm huyện
Phan Văn Bỉnh, ông sinh năm Kỷ Mão, thọ 60 tuổi. Ông là quan viên tôn kiêm tướng
sĩ lang giữ chức tri sự thừa hoa điện.
Sinh hạ được 2 con trai con trưởng là Vĩ, con thứ là Minh.
Đời thứ 12:Phan Văn Vĩ tên chữ là Mân, là con trưởng
cụ tri sự Phan Văn Xán, ông thọ 70 tuổi.
Sinh hạ được 3 người con trai: Con trưởng là Lãng, con thứ hai là Phổ,
con thứ ba là Tiến.
Đời thứ 13:Ông trưởng là Phan Văn Lãng. Sinh hạ được
một con trai, mất sớm.
Ông thứ hai là Phan Văn Phổ. Sinh hạ được một con trai.
Ông thứ ba là Phan Văn Tiến.
Tiểu tôn:
Đời 7:Phan Văn Tĩnh sinh năm Tân Hợi niên hiệu Cảnh
Trị thời Lê (1671), con thứ cụ Phan Văn Kính và bà á thất là Phạm Đặng lệnh
nhân. Vào ngày mùng 5 tháng 9 năm Giáp Dần niên hiệu Long Đức thứ ba (1734) ông
mất khi đương chức, thọ 64 tuổi.
Sinh hạ được 9 người con trai (Công, Diễn, Đính, Hạo, Đôn, Cận, Vị,
Kiêm, Trì), 10 người con gái, chỉ biết hai người là thị Chỉnh, thị Đang, còn lại
không rõ.
Đời thứ 8:
- Phan Huy Công con trưởng cụ Phan Văn Tĩnh.
- Phan Huy Diễn con thứ hai cụ quận công Phan Văn Tĩnh, sinh hạ được một
người con gái.
- Phan Huy Đình con thứ ba cụ Phan Văn Tĩnh. Sinh hạ được một người con
trai tên là Trị hai người con gái là thị Hán, thị Bình.
- Phan Huy Hạo con thứ 4 cụ Phan Văn Tĩnh. Sinh hạ được 1 người con trai
là Kiển.
- Phan Huy Đôn là con thứ 5 cụ Phan Văn Tĩnh.
- Phan Huy Cận Con thứ 6 cụ Phan Văn Tĩnh.Ông Sinh giờ Thìn mồng 2 tháng
2 năm Nhâm Dần, niên hiệu Bảo Thái Triều Lê năm thứ 3 –(1722), mẹ là Tự Phu
Nhân. Lúc đầu được nuôi ở nhà nhũ mẫu thôn Cầu Trì, khi 6 tuổi được Tu Nghi
nuôi trong phủ Nhân Vương. Vương yêu quí vì thông minh dĩnh ngộ, cho hầu trong
nội cung. Đến khi cụ Quận Công (Phan Văn Tĩnh) vào Trấn thủ ở Nghệ An, ông tối
quân thứ hầu hạ, đựơc thụ nghiệp tiến sĩ Nguyễn Tuấn. Năm Giáp Dần (1734), khi
đã xong việc tang cụ Phan Văn Tĩnh, lại
đến kinh theo học Tiến sĩ Nghiêm Bá
Đĩnh. Khoa Qúy Hợi (1743), ông phải cư tang, cùng Vũ Công Trấn (Tiến sĩ), Đỗ
Huy Kỳ (Thám Hoa) giao du, về lý số, từ nguyên, ông đã đạt đến chỗ tinh túy. Đến
khoa Đinh Mão (1747), niên hiệu Cảnh Hưng, khi đó 26 tuổi, thi Hương trúng giải
nguyên, năm Giáp Tuất (1754) thi hội trúng hội nguyên, vào Điện thì được ban Đồng
Tiến sĩ đệ tứ.
Sinh được 5 ngươì con trai là: Ích ,Thự , Ôn, Sảng, Tân; 4 con gái: Anh,
Trân, Uyển, Toại.
- Phan Huy Vị con thứ 7 cụ
Quận Công Phan Văn Tĩnh.
- Phan Huy Kiêm con thứ 8 cụ
Phan Văn Tĩnh.
- Phan Huy Trì con thứ 9 cụ
Phan Văn Tĩnh.
Đời thứ 9: Lấy con của Phan Huy Cận làm đại diện.
- Phan Huy Ích :Ông sinh giờ thìn, ngày 12 tháng 12 năm Canh Ngọ, niên
hiệu Cảnh Hưng thứ 11 (1750), là con đầu cụ Bình Chương (Phan Huy Cận), lúc nhỏ
rất thông minh dĩnh ngộ.
Khoa Tân Mão (1771) ông thi Hương đậu giải nguyên, khi đó ông 22 tuổi.
Năm Nhâm Thìn (1772), khảo khoa 4 kỳ đều ưu cả, đến mùa đông năm đó thi Hội 4
trường đều có phân số. Năm Quý Tỵ (1773) được nghị thưởng một bậc, cho làm Thừa
Ty Sơn Nam, không bao lâu ông xin về. Năm Giáp Ngọ (1774) phụng mệnh khảo hạch
tuyển chọn học trò huyện Đông Quan. Khoa thi hội năm Ất Mùi (1775), ông đỗ hội
nguyên, được ban cho là Thiếu Tuấn khoa đồng Tiến sĩ đệ thất. Tháng 2 mùa xuân,
ông lên kinh ứng khảo, đặc phê ứng chế đệ nhất, được thưởng 10 quan thanh tiền,
được trao chức Hàn Lâm hiệu Thảo, sau đó giữ chức Thị giám sát Ngự Sử tỉnh
Thanh Hoá…. Ông đã có nhiều đóng góp cho
triều Tây Sơn, ông mất vào giờ Tuất ngày 20 tháng 3 năm Nhâm Ngọ (1822) niên hiệu
Minh Mệnh, thọ 73 tuổi.
Sinh hạ 6 con trai là: Quỳnh, Thực, Chú,Thanh, Ly, Mãn; 8 người con gái
là: Bích, Ngôn, Điền, Xuân, Thiều, Quán, Đại, Lương.
- Phan Huy Thự: Là con thứ hai cụ Bình Chương (Phan Huy Cận), sinh năm
Quy Dậu niên hiệu Cảnh Hưng thời Lê (1753). Khoa Tân Mão (1771) đậu hương cống,
lúc đó 19 tuổi, năm Kỷ Hợi (1779) thi hội trúng tam trường. Lúc đầu ông giữ chức
tự thừa, đến năm Đinh Mùi (1787)được cử làm Hiến sát phó sứ. Mùa hạ năm Tân Hợi
(1791) thời Tây Sơn ông về trú xã Bảo Triện Kinh Bắc, bị kẻ cướp giết hại (ông
mất lúc 39 tuổi).
Sinh hạ được hai con trai là: Phái, Điền; hai con gai là: Ái, Tuyên.
- Phan Huy Ôn: con thứ 3 cụ Bình Chương (Phan Huy Cận), sinh năm Ất Hợi
niên hiệu Cảnh Hưng (1755) , mất tháng 11 năm Bính Ngọ (1786), thọ 32 tuổi.
Sinh hạ được 2 trai là: Đạm, Hoàn ; 3 gái là: Hoãn, Lịch, Viên.
- Phan Huy Sảng là con thứ tư cụ Bình Chương (Phan Huy Cận) sinh năm
Giáp Thân (1764). Khoa Kỷ hợi (1779) đậu Hương Cống (năm 16 tuổi), thi hội nhiều
lần trúng tam trường. Lúc đầu ông giữ chức tự thừa, đến thời Tây Sơn được triệu
ra bổ chức Hiệu lý Viện Hàn Lâm; phái Lộc Bá. Mùa thu năm Mậu Ngọ (1798) ông
lĩnh chức Hữu quản lý huyện Thạch Thất. Sau đó đổi tên Giám, tự là Thúc Minh, rồi
về Cổ Nhuế dạy học, đặt niên hiệu là phục Am Công. Ông mất ngày 24 tháng Giêng
năm Tân Mùi (1811) niên hiệu Gia Long, thọ 48 tuổi. Sinh được 1 con gái là: Cự.
- Phan Huy Tân sinh năm Giáp Thân (1764), con thứ 5 cụ Bình Chương (Phan
Huy Cận). Khi trẻ giỏi võ nghệ, được theo cụ Bình Chương đi trấn thủ ở Động Hải,
được làm võ úy quân đội Hữu Chấn, Tể võ bá. Nhà Lê mất, ông không chịu làm tôi
nhà Tây Sơn đã nổi quân chống lại nhưng bị thua phải đi trốn, đến năm Quý Sửu
(1793) niên hiệu Quang Trung, ông bị Trấn Quan bắt được rồi giết chết, thọ 30
tuổi. Bà vợ sinh được một con trai là:Thẩm.
Đời thứ 10: Lấy con của Phan Huy Ích làm đại diện gồm:
- Phan Huy Quýnh hiệu Tố Am, sinh giờ Mão ngày 19 tháng 6 năm Ất Mùi
(1775) là con trưởng của cụ Dụ Am Hầu (Phan Huy Ích), ở nhà dạy học. Ông mất
ngày 17 tháng 5, thọ 70 tuổi. Có 3 người con trai là: Khiết, Phương, Trừng, và
1 người con gái.
- Phan Huy Thực là con thứ hai
cụ Phan Huy Ích, sinh giờ tý, ngày 5 tháng 10 năm Mậu Tuất, niên hiệu Cảnh Hưng
thứ 39 (1778) ông mất vào giờ dần ngày 11 tháng 2 năm Giáp Thìn (1844) thọ 67
tuổi, Có hai con trai là: Vịnh và Lãm, hai người con gái.
- Phan Huy Chú, sinh năm Nhâm Dần
niên hiệu Cảnh Hưng (1782), con thứ 3 cụ Phan Huy Ích. Khoa Đinh Mão (1807) Kỷ
Mão (1819) đời Gia Long đều đậu tú tài, tháng giêng năm 2 niên hiệu vua Minh Mạng
(1821) ông được bổ…. Hàn lâm viện biên tu, rồi làm phủ Thừa Thiên, Hiệp Trấn
tĩnh Quảng Nam. Hai lần phụng mệnh đi sứ phương Bắc, sau đó bị khiển trách, đến
năm 15 (1834) được phục hồi làm công bộ tư vụ, bị đau chân xin về nghỉ hưu, dạy
học. Sau phụng mệnh đi sứ, thăng thị giảng sung sứ bộ. Ông mất năm Minh Mạng thứ
21 (1840), thọ 59 tuổi. Có 5 người con trai là: Uyên, Chuẩn, Triệt, Hàm, Nhuận,
một con gái là Cơ.
- Phan Huy Thanh con thứ 4 cụ
Phan Huy Ích. Ông sinh giờ Dần ngày 15 tháng 9 năm Bính Ngọ (1786), mất ngày 22
tháng 4, thọ 54 tuổi. Có 3 con trai là : Trạm, Tiệm, Thúc; 3 con gái là: Thành,
Hoàn, Cư.
- Phan Huy Lý con thứ 5 cụ Dụ
Am Phan Huy Ích, ông sinh năm Tân Dậu (1801), sinh hạ được 2 con trai là: Nghi, Đàm; 2 con gái.
- Phan Huy Mãn: Ông sinh năm
Nhâm Tuất (1802), là con thứ 6 cụ Phan Huy Ích theo thượng thư Khuê nhạc công(
Phan Huy Thực) đi sứ sang Trung Quốc, làm quan đến thông phán, mất ngày 19
tháng 8 năm Minh Mạng thứ 17 (1836) lúc đó ông 35 tuổi, có 1 con trai là Diên.
Đời thứ 11:
Lấy con của Phan Huy Thực
làm đại diện gồm 2 người con trai nhưng nổi bật lên là Phan Huy Vịnh.
Phan Huy Vịnh sinh giờ hợi,
ngày 25 tháng Giêng năm Tân Dậu, niên hiệu
Cảnh Thịnh (1801). Ông đậu cử nhân khoa Mậu Tý năm thứ 9 niên hiệu Minh Mạng
(1828), năm Tự Đức thứ 6 (1853) được bổ thị Lang, làm chánh sứ sang Thanh, vì
đường khó đi phải ở lại 3 năm, đến lúc về được thăng Hữu tham tri bộ hình và ban cho 8 bài Ngự thi (1 bài thất ngôn, 7
bài ngũ ngôn), một kim khánh (có 4 chữ Cần Lao Khả Lục nghĩa là: chuyên cần lao
động đáng ghi nhận), sau thăng về bộ thượng thư trưởng lễ bộ, kiêm trưởng Quốc sử
quán tổng tài, bộ hình. Năm Canh Ngọ (niên hiệu Tự Đức) thứ 23 (1870), giáng
làm tham tri, cho về hưu, ban cho lụa sâm các loại. Ông mất giờ Sửu ngày 22
tháng 8 năm Tân Mùi (niên hiệu Tự Đức)
thứ 24 (1871), thọ 71 tuổi. Có 7 con trai là: Nguyên, Tảo, Lạc, Tuân, Kỳ, Trăn,
Tấu; 4 người con gái là: Hàm, Trù, Ôn,
Bình.
Đời thứ 12.
Lấy con của Phan Huy Vịnh làm
đại diện gồm:
- Phan Huy Nguyên con trưởng
cụ Phan Huy Vịnh, sinh giờ Mão ngày mồng 1 tháng 9 năm Ất Dậu niên hiệu Minh Mạng
(1825), năm Nhâm Tuất (1862) niên hiệu Tự Đức đi lính được thưởng hàm chánh bát
phẩm, tháng 7 dẫn khâm phái thu hồi đuợc
phủ thành Quốc Oai, giặc Yên được thưởng
trao hàm thị giảng. Năm Bính Dần (1866), về kinh bổ thụ chức viên ngoại lang,
năm Đinh Mão (1867), sung làm Đề điệu trường thi Nam Định, nhân bệnh xin cáo
quan về, giỗ ngày mồng 8 tháng 7, thọ 44 tuổi. Có 2 con trai là Đồng, Mai; 1
con gái.
- Phan Huy Tảo là con thứ 2 cụ
Phan Huy Vịnh, sinh năm Đinh Dậu (1837), giỗ ngày 18 tháng 4, thọ 47 thuổi. Có
1 con trai là Huyền, 2 con gái là : Thị Anh, Thị Hưởng.
- Phan Huy Lạc là con thứ 3 cụ
Phan Huy Vịnh, sinh năm Đinh Mùi (1847), ấm thụ cửu phẩm, làm hậu bổ tỉnh Hưng
Hoà, năm ất Dậu niên hiệu Đồng Khánh quyền kinh lịch ở tỉnh, năm Bính Tuất
(1886) nhiếp huyện. Có 1 con trai là Kỳ; 3 người con gái.
- Phan Huy Tuân là con thứ tư
cụ Phan Huy Vịnh, sinh năm Kỷ Dậu (1849), tòng tỉnh ấm sinh, năm Giáp Thân niên
hiệu Kiến Phúc (1884) làm bang tá phủ vụ. Có 4 con trai là: Tiếp, Thiêm, Tấn,
Cán; 2 xon gái là: Thị Nhĩ, Thị Thám.
- Phan Huy Kỳ là con thứ 3 cụ
Phan Huy Vịnh, sinh năm Kỷ Mùi (1859), được tặng nghi nhân hàm Tòng ngũ phẩm. Mất
ngày 14 tháng 3, thọ 27 tuổi. Có 1 con trai là Cầm.
- Phan Huy Trăn là con thứ 6 cụ
Phan Huy Vịnh, sinh năm Canh Ngọ (1870). Năm Nhâm Thìn niên hiệu Thành Thái
(1892) được ấm lệ vào học Quốc Tử Giám, khoa Giáp Ngọ niên hiệu Thành Thái thứ
6 (1894), ông đỗ cử nhân xếp thứ 14. Năm Ất Mùi (1895) theo khâm phái được binh
bổ đi hậu bố tỉnh Nghệ An, năm Giáp Thìn (1904) được bổ thụ tri huyện Nghi Lộc,
năm Ất Tỵ (1905) được thăng thụ tri phủ phủ Quỳ Châu. Sau đó ông bị giáng rồi
được bổ dụng làm đến Tư vu Binh bộ Ty, kinh lịch thông phán tỉnh Khánh Hoà. Khi
về hưu được trao thị giảng học sĩ, hưu trí vào năm Khải Định thứ 9 (1924). Nhân
tiết mừng thọ nhà vua vừa 40 tuổi, ông được cải thụ Quang Lộc tự thiếu khanh.
Có 2 con trai là Thung, Đăng; 3 con gái là: Thị Cúc, Thị Liên, Thị Quỳ.
- Phan Huy Tấu là con thứ 7
cụ Phan Huy Vịnh, sinh năm Ất Mùi (1871).
Từ đời 13 đến nay tất cả các
chi họ đều phát triển mạnh sinh sống ở nhiều tỉnh trong cả nước và cả ở nước
ngoài, con cháu học rộng, tài cao và ngày càng có nhiều cống hiến quan trọng
cho đất nước.
Trải qua hơn 400 năm lịch sử, kể từ đời cụ tổ nhập tịch vào phía Tây xứ
Trằm Vịt thôn Chi Bồng (sao đổi là Hữu Phương) xã thu hoạch, huyện Thiêu Lộc
nay Thạch Châu- Thạch Hà- Hà Tĩnh , dòng họ Phan Huy đã trở thành một dòng họ lớn
có truyền thống hiếu học, yêu nước và con cháu dòng họ đang ngày càng tô điểm
thêm truyền thống văn hoá tốt đẹp đó của cha ông.
4/ GIA PHẢ CỦA HỌ PHAN CÓ NGUỒN GỐC Ở THẠCH CHÂU - HÀ TĨNH
Cuốn Phan gia công phả(6) còn ghi lại: “Nghe nói trước kia tiên tổ dòng
họ ta nguyên quán ở xã Ngọc Điền, huyện Thạch Hà, thuộc Ty giáo phường, quen
nghề làm ruộng và am tường âm nhạc. Đến niên hiệu Quang Thuận, Hồng Đức đời Lê
Thánh Tông (1460-1497), phụng chỉ cho coi việc Giáo phường làm phân trưởng cửa
đình ở huyện. Lúc đó mới nhập tịch vào phía Tây xứ Trằm Vịt, thôn Chi Bông (sau
đổi là Hữu Phương) xã Thu Hoạch, huyện Thiên Lộc. Cho nên người trong ấp thường
gọi tiên tổ [họ ta] là Ông Trằm, Mụ Trằm...” (tờ 7a). Có thể nói Ông Trằm là
ông tổ đầu tiên của họ
Phan ở Thạch Châu, Thạch Hà, Hà Tĩnh. Vào thời Lê sơ, tổ tiên dòng họ
Phan vốn
có nghề làm ruộng lại giỏi âm nhạc. Theo quy định của triều đình lúc đó
những người làm nghề ca nhạc do Ty giáo phường quản lý và được phân về giữ cửa
đình (đình môn) các xã trong huyện. Tổ tiên họ Phan vốn ở xã Ngọc Điền, huyện
Thạch Hà, do quy định trên đã phụng chỉ chuyển về thôn Chi Bông, xã Thu Hoạch,
huyện Thiên Lộc (nay thuộc xã Thạch Châu, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh)(7). Cho
đến đời thứ 10, 11 trong dòng họ Phan còn có người là Trùm huyện, Quan viên tử,
Quan viên tôn(8) là các chức sắc trong giáo phường, một tổ chức của hát ca trù
thời phong kiến ở nước ta.
Gia phả họ Phan nguồn gốc ở Thạch Châu hiện nay còn lại 4 văn bản, trong
đó có 2 văn bản hiện được lưu giữ tại thôn Gia Thiện, xã Thạch Châu, huyện Thạch
Hà, tỉnh Hà Tĩnh; 2 văn bản khác hiện lưu giữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm, do
con cháu của dòng họ Phan Huy ở Sài Sơn biên soạn.
1. Văn bản thứ nhất:
Phan gia công phả (PGCP) chúng tôi gọi văn bản này là Văn bản A bản gốc
hiện được lưu giữ tại thôn Gia Thiện, xã Thạch Châu, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà
Tĩnh; gồm 172 trang, chép chữ Hán xen kẽ chữ Nôm, khổ 23x12cm.
Sách gồm 3 phần:
Phần thứ nhất, từ trang 3 đến trang 14 là sơ đồ dòng họ Phan từ đời thứ
nhất Đôn Dụ công cho đến đời thứ 13 của chi đại tôn, đời thứ 12 của chi tiểu
tôn. Trong đó, từ đời thứ 7 được chia thành hai nhánh, chi trưởng là Vũ Tường hầu
Phan Văn Canh thuộc đại tôn nhập tịch vào thôn Gia Thiện; chi thứ là Tăng Quận
công Phan Văn Tĩnh thuộc tiểu tôn, đời này vẫn ở thôn Hữu Phương. Đời thứ 8 có
Huyện thừa huyện Nông Cống là Phan Huy Công con trưởng Quận công có con cháu một
chi về Tả Thanh Oai, một chi về Mao Điền, Cẩm Giàng, Hải Dương. Còn Khuê Phong
hầu Phan Huy Cận là con thứ 6 của Tăng Quận công đến cuối đời cũng dời về nhập
tịch tại Thụy Khuê, Sài Sơn (nay thuộc tỉnh Hà Tây) lập nên một dòng họ Phan
Huy ở Sài Sơn.
Phần thứ 2, từ trang 15 đến trang 160, đây là nội dung chính của cuốn
gia phả dòng họ Phan. Trước khi viết về đời thứ nhất, người chép gia phả đã nhắc
tới vị Tổ đầu tiên (sơ tổ) là Ông Trằm, người ở thời Lê Thánh Tông niên hiệu Hồng
Đức (1460 - 1497), sau đó mới giới thiệu về đời thứ nhất: Tiên tổ khảo, tên thụy
là Đôn Dụ phủ quân, Tiên tổ tỷ bà chính thất, tên thụy là Từ Thiện nhụ nhân...
Có lẽ do thời gian xa cách khá lâu nên đời thứ nhất, thứ hai, thứ ba, người
chép gia phả đã không ghi được đầy đủ tên tuổi, hành trạng của các vị này. Nếu
đem so sánh với Phan tộc công phả (PTCP) ký hiệu A.2963(9) thì phần này cũng có
khác, bản PTCP coi Phan Văn Đài là đời thứ nhất, còn bản PGCP (Văn bản A) coi
Đôn Dụ phủ quân mới là đời thứ nhất. Ở đời thứ 3 Văn bản A còn ghi thêm: “Kính
xét, theo gia phả dòng họ ở Sơn Tây(10) ghi là đời trước húy Đài (Phan Văn), đời
sau húy Lâu (Phan Văn), nhưng khi khảo 3 cuốn gia phả khác thì ghi đời trước
húy Lâu (Phan Văn), đời sau húy Đài (Phan Văn), cho nên chép lại để khảo cứu”.
Sau đời thứ 6, đời thứ 8 (tiểu tôn) gia phả còn phụ chép các bà có đức hạnh
của dòng họ, trong đó có bà Phan Thị Nẫm và Phan Thị Lĩnh, là con của cụ Phan
Văn Kính thuộc đời thứ 6 (ông nội của Phan Huy Cận). Hai bà là cung tần của các
chúa Trịnh. Bà Nẫm từng xuất tiền ra sửa chữa chùa Hoa Phát ở xã Sài Khê (Sài
Sơn), còn bà Lĩnh được Khang Vương (Trịnh Căn) rất sủng ái. “Vào khoảng niên hiệu
Chính Hòa thời Lê (1680-1705), bà theo xe tháp tùng [Trịnh Căn] đi tuần du phía
Tây, xem phong cảnh Sài Sơn, nhân đó quyên tiền làm chùa Long Đẩu, ủy cho chánh
thần soạn bài văn bia. Sau khi Khang Vương mất, bà trở về gia quán quy định lễ
hậu hai làng. Đến năm Vĩnh Thịnh (1705-1719) bà lại lên kinh đô, rồi về trú ở
xã Thụy Khuê, mở mang doanh tạo ao vườn (ao đó sau lưu lại cho xã làm ao công,
người trong xã thường gọi là Đức Bà Ngạch. Bà lại sửa hai tòa thượng điện chùa
Bối Am, khu thờ một mái, một tòa tiền đường, đúc một quả chuông lớn...”
(tr.28-29). Như vậy thì có lẽ những người đầu tiên thuộc dòng họ này đặt chân đến
Thụy Khuê - Sài Sơn phải là hai người cô ruột của Phan Huy Cận... Có thể do mối
quan hệ nói trên mà sau này Phan Huy Cận về nhập tịch Thụy Khê(11).
Các đời tiếp theo đều được PGCP ghi chép đầy đủ chức tước, tên thụy, tên
húy, tên tự, là con của vị nào cùng ngày tháng năm sinh, tuổi thọ, ngày tháng
giỗ, nơi đặt phần mộ và tên tuổi các bà vợ, tên con trai con gái của chủ hộ...
Nhiều nhân vật sinh thời có nhiều đóng góp với xã hội, dòng tộc đã được ghi
chép khá tỉ mỉ như trường hợp của ông Phan Huy Cận (thuộc đời thứ 8 là thân phụ
của Phan Huy Ích, Phan Huy Ôn) đỗ Tiến sĩ khoa Giáp Tuất (1754), Đặc tiến Kim tử
Vinh lộc thượng đại phu, Nhập thị Kinh diên Bình chương trọng sự, kiêm Nhập thị
Tham tụng Quốc sử quán Tổng tài Khuê Phong hầu, gia phong Trác vĩ Dực bảo Trung
hưng Thượng đẳng tôn thần. Lúc nhỏ “ông tên húy là Cận sau vì kỵ húy với Đông
cung nên đổi là Áng, con thứ 6 cụ Quận công và bà Tự phu nhân. Ông sinh giờ
Thìn ngày mùng 2 tháng 7 năm Nhâm Dần, niên hiệu Bảo Thái triều Lê năm thứ 3
(1722)... Năm Giáp Tuất (1754) đi thi Hội trúng Hội nguyên, vào Điện thí ông được
chấm đồng Tiến sĩ đệ tứ. Năm Ất Hợi (1755) đăng triều nhậm chức Binh khoa cấp sự...
Năm Tân Tỵ 1761 triều Thanh sai sứ sang sách phong, ông được đặc mệnh thự Đốc đồng
kiêm Thiêm sai tri phiên, ông được tùy nghi sai phái việc quan, công việc đều ổn
thỏa. Năm Nhâm Ngọ (1762), ông được phái đi sứ sang Thanh tạ ân, khi về lại giữ
nguyên chức Thiêm sai. Ông vốn tính cương trực nên bị quyền thần không ưa, thường
hay bị dèm pha... Ông làm phụ chính đã nhiều năm, công việc đều hoàn tất. Đến
năm Ất Tỵ ông xin thôi chức Bồi tụng nhưng không được trên chuẩn, được thăng chức
Giảng quan Thự Công bộ.
Đến năm Chiêu Thống thứ 2 (1788) ông được ấm phong Lễ bộ Thị lang. Giờ Tỵ
ngày 12 tháng 4 năm Kỷ Dậu (1789) ông mất, thọ 68 tuổi, hiệu là Thận Trai, tên
thụy là Văn Đạt, phần mộ đặt tại xứ Cây Bằng Thượng Cách, Nhâm sơn Bính hướng
(theo hướng bắc nam) (trong nguyên văn tr.46-54).
Sau đó người chép gia phả còn đưa ra lời nhận xét, đánh giá về Tiến sĩ
Phan Huy Cận: “Ông là người phát khoa cho họ ta đầu tiên... Ông giỏi địa lý làm
nhà thờ, làm hậu miếu cho hai thôn, bên tả thì đặt chợ Phủ, bên hữu thì đào giếng,
lại chọn đất làm văn chỉ cho tổng, cho xã và thần từ cho thôn Hữu Phương và phần
mộ cho các vị tiên nhân. Xem như vậy ông là người có huân nghiệp chốn triều
đình, đức trạch ở họ hàng, khôi khoa hiển hoạn được ghi bia đá nước nhà, đến
nay còn hiển hách rạng rỡ” (nguyên văn tr.54-55).
Ở đây Tiến sĩ Phan Huy Cận được xem là người khai khoa, người đỗ Tiến sĩ
đầu tiên của dòng họ, mở ra tiền lệ cho thế hệ những người kế tiếp như: Tiến sĩ
Phan Huy Ích (đỗ năm 1775), Tiến sĩ Phan Huy Ôn (đỗ năm 1780), Tiến sĩ Mộng
Đinh (con của Phồn Khê công Phan Huy Chỉ)...
Đối với Phan Huy Thực là tác giả của tác phẩm Nôm nổi tiếng Tỳ bà diễn
âm được PGCP ghi lại như sau: “... Ông tên húy là Thực, tên tự là Vỵ Chỉ, là
con thứ hai cụ Dụ Am hầu, ông sinh giờ Tỵ ngày 5 tháng 10, năm Mậu Tuất, niên
hiệu Cảnh Hưng thứ 39 (1778). Năm thứ 12 niên hiệu Gia Long (1813) ông được ứng
triệu cử làm Phó sứ sang Thanh, năm Canh Thìn niên hiệu Minh Mạng thứ nhất
(1820) ông làm Hiệp trấn tỉnh Lạng Sơn nửa kỳ, từ đó ba lần làm Thượng thư Bộ Lễ,
năm đầu niên hiệu Thiệu Trị (1741) ông xin về nghỉ. Đến năm thứ 2, thánh giá bắc
tuần, ông tới yết kiến ở hành điện, nhà vua ban cho một thỏi bạc và một bài
thơ... Ông mất vào giờ Dần ngày 11 tháng 2 năm Giáp Thìn (1844), thọ 67 tuổi,
phần mộ ở Đường Le, xã Thụy Khuê, đặt theo hướng bắc nam. Năm thứ 11 niên hiệu
Tự Đức thời Nguyễn (1858) ông được dự vào đền thờ của các bày tôi hiền lương...
Tác phẩm của ông có: Hoa Thiều tập, Tỳ bà diễn âm, Nhân ảnh vấn đáp từ”.
(nguyên văn tr.76-77).
Về Phan Huy Chú nhà văn, nhà bác học lỗi lạc, tác giả của nhiều tác phẩm
có giá trị được ghi lại trong PGCP như sau: “... Ông tên húy là Chú, tên chữ là
Lâm Khanh, sinh năm Nhâm Dần niên hiệu Cảnh Hưng (1782), con thứ ba cụ Dụ Am hầu,
khoa Đinh Mão (1807), Kỷ Mão (1819) đời Gia Long đều đậu Tú tài(12), tháng
giêng năm thứ 2 niên hiệu Minh Mạng (1821) ông được bổ thụ Hàn lâm viện Biên
tu, rồi làm Phủ thừa phủ Thừa Thiên, Hiệp trấn tỉnh Quảng Nam, phụng mệnh hai lần
đi sứ phương Bắc, sau đó bị khiển trách, đến năm thứ 15 được phục hồi làm Công
bộ tư vụ, bị đau chân xin về nghỉ dạy học, sau thăng Thị giảng sung Sứ bộ. Tác
phẩm của ông có: Bình Định quy trang, Hoa thiều ngâm lục, Hoa thiều tục ngâm,
Dương trình ký kiến, Lịch triều hiến chương (4 quyển)(13). Ông mất năm Minh Mạng
thứ 21 (1840), thọ 59 tuổi” (nguyên văn tr.78).
Sau những trang ghi chép theo thế thứ các đời thì đến đoạn Bản tộc hợp tế
từ vũ (nguyên văn trang 127- 129), phần 2 của văn bản PGCP đã cho biết việc xây
dựng và trùng tu nhà thờ họ Phan ở xã Thạch Châu, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh
qua các thời kỳ. Bắt đầu từ thời Cảnh Hưng (vào năm 1779) nhà thờ họ được Tiến
sĩ Phan Huy Cận khởi công xây dựng, đến năm Bính Ngọ (1786) do binh hỏa nhà thờ
bị cháy... Sau nhiều lần được trùng tu, cho đến năm Bảo Đại thứ 5 (1930) thời
Nguyễn, nhà thờ họ được Tiến sĩ Mộng Đinh trùng tu lần cuối.
Trong Bản tộc hợp tế từ tự điển (nguyên văn tr.130-139) của phần 2 người
biên soạn gia phả đã ghi lại lệ định trong nội tộc liên quan tới điển lệ thờ
cúng và những vị được đưa vào thờ ở gian chính: “... Nếu ai thi đỗ Tiến sĩ,
quan văn từ Án sát, quan võ từ Lãnh binh trở lên mới được đưa vào thờ ở gian
chính trung, án thứ 2 để biểu dương khuyến khích, cho đến các vị Thị nội cung tần
đã đóng góp những điều tốt đẹp cho dòng họ và có công với bản tộc ta được nêu ở
hàng trên. Còn như người nào được hiển quý, nhưng không có công đức thì không
được liệt vào hàng đó”.
Ở Phần 2, người biên soạn còn chép thêm hai bài văn bia, một ở đền thờ họ
tại thôn Gia Thiện với tiêu đề: Tôn Hậu thần lập thường bi ký (Bia ghi việc tôn
hậu thần lập ra để thờ cúng lâu dài) do Tiến sĩ khoa Ất Sửu Nguyễn Đổng soạn
năm Giáp Ngọ niên hiệu Vĩnh Thịnh thứ 10 thời Lê (1714). Tấm bia thứ 2 có tiêu
đề: Đức Quang phủ, Thiên Lộc huyện, Canh Hoạch, Thu Hoạch đẳng xã, Hữu Phương,
Gia Thiện đẳng thôn Hậu thần bi ký. (Bia ghi Hậu thần ở các thôn Hữu Phương,
Gia Thiện, các xã Thu Hoạch, Canh Hoạch, huyện Thiên Lộc, phủ Đức Quang) do Tiến
sĩ khoa Tân Hợi là Đỗ Huy Kỳ soạn vào năm thứ 3 niên hiệu Long Đức (1734).
Cuối Phần 2 còn phụ chép thêm 1 bài tựa do Phan Huy Dũng soạn vào hạ tuần
tháng 8 năm Đinh Mùi, niên hiệu Duy Tân năm thứ nhất (1907). Bài tựa này được
chép thêm về sau bằng kiểu chữ khác, bút loại khác so với những phần trên. Có
thể bài tựa được người sau chép thêm vào từ một cuốn phả do Phan Huy Dũng biên
soạn, tương tự như bản Phan tộc công phả mang ký hiệu A.2963 hiện lưu trữ tại
Viện Nghiên cứu Hán Nôm(14).
Phần thứ 3, trong nguyên văn từ trang 161 đến 171, gồm 10 tấm bản đồ vẽ
địa thế các khu vực đặt phần mộ của các nhân vật chính trong dòng họ Phan. Như
bản đồ ở trang 166 trong PGCP, vẽ hình con cá chép là nơi đặt phần mộ của Tham
đốc thần vũ Tứ vệ quân Thiều Quang Quận công(15). Như bản đồ ở trang 167 trong
PGCP, vẽ khu đất ở xứ Cồn Mỹ hình vị tiên, nơi đặt phần mộ của Tài Lương hầu
Phan Văn Lan (đời thứ năm).
* Về tác giả của văn bản PGCP: có lẽ văn bản PGCP được chép từ một cuốn
PGCP trước đó, là gia phả được biên soạn cẩn thận, theo thể thức nhất định của
cách viết gia phả. Như chúng ta biết, dòng họ Phan từng có nhiều người học
hành, đỗ đạt nên việc viết gia phả để lại cho con cháu mai sau đã sớm được quan
tâm, từ đời thứ 8 của dòng họ thời Tiến sĩ Phan Huy Cận (1722-1789) vào những
năm cuối đời ông dâng biểu từ chức, “từ đó về sau ông về quê nhà nhàn dưỡng, dạy
dỗ con trẻ và soạn gia phả được một quyển”. Bản PGCP có nguồn gốc từ thôn Gia
Thiện, xã Thạch Châu, Hà Tĩnh, do không chép bài tựa, bài dẫn, không ghi người
biên soạn gia phả nên việc tìm ai là tác giả của bản PGCP cần có thêm những dữ
liệu cho việc xác định này.
* Về niên đại của bản PGCP (Bản A): khi đi tìm những chữ viết kiêng húy
trên văn bản, chúng tôi thấy ở dòng 3 trang 147, dòng 6 trang 151, chữ “Nhậm” (
任) được viết kiêng húy là “Nhậm” () đây là
cách viết kiêng húy thời Tự Đức (1848-1883). Trong nguyên văn chúng tôi còn ghi
lại được nhiều sự kiện, thời điểm mà căn cứ vào đó có thể xác định được niên đại
sớm nhất của văn bản, như:
- Phủ tá phủ Thái Bình là Phan Văn Sính (đời thứ 10) “Năm Kỷ Tỵ niên hiệu
Bảo Đại thứ 4 (1929) cho người cháu ngoại là Hội viên Phạm Khuê gửi bạc về xây
mộ ở thôn Vĩnh Lộc, năm đó cụ Mộng Đinh ở Thanh Hóa có khắc đá làm mộ chí đặt
trước mộ” (nguyên văn tr.82).
- Bà chính thất của Phồn Khê công Phan Huy Chỉ, là Lê Thị Hòe, năm bà 18
tuổi về làm dâu họ Phan, năm 19 tuổi chồng mất, bà ở vậy nuôi con học hành đỗ đạt.
Đến tháng giêng năm Ất Tỵ (1905) phụng chuẩn khâm tứ ban cho tấm biển trên khắc:
“Tiết hạnh khả phong”(16), được sơn son thiếp vàng, lại phong cho là: “Tòng tứ
phẩm cung nhân”(17). Năm Canh Ngọ niên hiệu Bảo Đại thứ 5 (1930) lại được chuẩn
thưởng tấm kim bội hạng nhì (một bên khắc: “Quỳnh giao vĩnh hảo”(18), một bên
khắc: “Bảo Đại niên tạo”(19) và cho treo bức thùy anh huyền bội, nội dung ghi:
“Quả cư trợ tử hiền hạnh khả gia”(20) để khuyến khích đức hạnh tốt đẹp” (nguyên
văn tr.101-102).
- Năm Bảo Đại thứ 3 (1928), cụ Mộng Đinh làm Án sát Thanh Hóa, đã quyên
tiền về tu bổ lợp ngói hạ đường, đến năm thứ 5 (1930) lại đem tiền về tu bổ thượng
đường và hai bên chái nhà, cả hai lần tu bổ không dưới 400 đồng, gạch gỗ rất
kiên cố, quy mô rất mới...” (nguyên văn tr.129).
Với những sự kiện gắn với niên đại đã dẫn chứng ra ở phần trên, cho phép
chúng ta xác định được niên đại của PGCP (Văn bản A): đó là một cuốn gia phả xuất
hiện không sớm hơn nên hiệu Bảo Đại năm thứ 3 (1930) thời Nguyễn.
2. Văn bản thứ 2:
Phan gia công phả (PGCP) chúng tôi gọi văn bản này là Văn bản B, bản gốc
hiện được lưu giữ tại thôn Gia Thiện, xã Thạch Châu, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà
Tĩnh, sách gồm 142 trang, chép chữ Hán xen kẽ chữ Nôm, khổ sách 23x12cm.
Khi đem so sánh đối chiếu giữa Văn bản A và Văn bản B chúng tôi nhận thấy
2 văn bản có nhiều điểm giống nhau, tiêu đề sách đều được ghi là: Phan gia công
phả, đối chiếu qua các đời hai văn bản được chép giống nhau, nếu có khác nhau
chỉ là sự chênh giữa các trang của hai văn bản. Khi đối chiếu vào từng phần,
chúng tôi nhận thấy Văn bản B còn lại những trang cuối của phần Phụ lục nữ hạnh
(Phụ chép các bà có đức hạnh)(21) và bắt đầu từ đời thứ 7. Văn bản B mất những
trang đầu chỉ còn lại phần thứ 2 và phần thứ 3. Văn bản B có thể bổ sung và
đính chính một vài chi tiết sai ở Văn bản A khi tiến hành việc dịch nghĩa và
chú thích cuốn PGCP. Như trường hợp do Văn bản A nguyên bản trang 70-71 chép
thiếu 1 dòng: “Huyện thừa công húy Hằng, Trung úy hầu đệ tam tử kỵ nhật... Mộ tại
Đồng Các xứ” (Huyện thừa công, tên húy là Hằng, là con thứ 3 cụ Trung úy hầu,
ngày giỗ... Mộ tại xứ Đồng Các) nên dẫn đến sự nhầm lẫn của Văn bản A coi Huyện
thừa Phan Văn Tế là thân phụ của Phan Văn Sính và Phan Văn Ngọc.
Trên cơ sở đối chiếu so sánh từng phần giữa Văn bản A và Văn bản B,
chúng tôi đưa ra nhận xét bước đầu như sau: hai văn bản trên nội dung tương tự
nên có thể được sao chép ra từ cùng một bản gốc có tên là Phan gia công phả được
biên soạn trước đó.
3. Văn bản thứ 3:
Phan tộc công phả (PTCP), chúng tôi gọi văn bản này là Văn bản C, bản gốc
hiện lưu tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm (ký hiệu A.2963), sách viết tay chữ Hán,
xen kẽ chữ Nôm, 156 trang khổ 30x21cm, có 1 nguyên dẫn, 1 tựa, 1 phàm lệ, có
hình vẽ sơ đồ những khu mộ táng các vị trong dòng tộc (5 trang).
Văn bản PTCP (tờ 4a) cho biết Ông Trằm là sơ tổ của dòng họ tên thuỵ là
Đôn Dụ phủ quân “bản tộc nguyên quán ở thôn Chi Bông (Hữu Phương) xã Thu Hoạch,
tổng Canh Hoạch, huyện Thiên Lộc, phủ Đức Thọ, tỉnh Nghệ An (nay thuộc Hà Tĩnh)
đời đời làm nghề nông kiêm thanh nhạc, sau này dời sang thôn Gia Mỹ Đoài, xã
Canh Hoạch”. Phả này chép từ sơ tổ đến đời thứ 14, bắt đầu từ tổ đời thứ nhất
tên húy là Văn Đài, tên thụy là Trang Minh phủ quân(22). Ở từng đời đều ghi tên
tuổi, năm sinh, năm mất, hành trạng, về vợ con của mỗi người .
Phần cuối của PTCP còn chép thêm văn bia, văn tế, bài văn mừng thọ Phan
Huy Ích 60 tuổi của Ngô Thì Hiệu và Ngô Thì Tính; bài phú Phan Thượng thư quy
Sài nham của Cao Bá Quát(23); bài Tiến thư biểu của Phan Huy Chú(24).
Bản PTCP do Phan Huy Dũng(25) biên soạn; ông đã viết bài dẫn và phàm lệ
vào mùa xuân năm Canh Dần, niên hiệu Thành Thái (1890); viết bài tựa tân biên
năm Duy Tân thứ nhất (1907). Trong bài tựa Phan Huy Dũng nói về quá trình viết
cuốn PTCP: “Cuốn Bản tộc công phả do Dũng tôi biên soạn từ những năm trước, về
thể tài phàm lệ lời dẫn đầy đủ. Sau đó (thì tôi đi làm việc) khắp vùng đất phía
nam, trong suốt 15 năm trời, việc nhà có điều không lo tới được. Nay mới được
trên cho về nghỉ hưu. Về quê xét lại trong dòng họ thì thấy tình hình hiện tại
so với những điều đã biên soạn từ những năm trước có nhiều sai khác. Đầu tiên,
hai đời Tiên công nay mới thêm Thần hiệu. Cha mẹ nhiều lần được vinh hiển ban tặng
sắc phong. Tiếp đó có nhiều vị nối nhau mang lại tiếng thơm do thi đỗ trung
khoa, tiểu khoa. Người giữ hàm tước trong các viện, người được phong chức tước
quận công, người ra làm quan, người ra làm tướng, đó đều là những thay đổi cần
được chép vào gia phả, mà phả soạn trước đều chưa có... Tôi bèn căn cứ vào thể
lệ chép phả cũ, sửa lại thành một bản phả mới, sau phả chép thêm những người
thuộc hàng đời thứ 12, bổ sung những sự việc trong 20 năm gần đây, đặt tên là
Công phả tân biên...”
Từ bản PTCP chúng tôi tìm thấy một vài chi tiết có thể bổ sung vào tiểu
sử của nhân vật trong dòng họ Phan mà ở các cuốn phả khác còn khuyết. Như trường
hợp đời thứ 8 có Phan Huy Ích(26) tên tự là Khiêm Thụ Phủ tên hiệu là Dụ Am là
con trưởng của Tiến sĩ Phan Huy Cận, trong văn bản PTCP đã cho biết thêm về
sáng tác của ông có: “các bộ sách về Ngâm lục, Văn tập(27) cùng Chinh phụ ngâm
diễn âm khúc(28) (Sở soạn hữu Ngâm lục, Văn tập đẳng bộ cập Chinh phụ âm diễn
âm khúc) tờ 10a.
4. Văn bản thứ 4:
Phan gia thế tự lục (PGTTL), chúng tôi gọi văn bản này là Văn bản D, bản
gốc hiện lưu tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu A.2691, sách viết tay, chữ
Hán xen kẽ chữ Nôm, 146 trang, khổ 27x16cm. Sách do Phan Huy Quýnh biên soạn tại
Sài Sơn năm Bính Tuất, Minh Mệnh thời Nguyễn (1826). Trong những trang đầu tiên
người biên soạn viết: “Đời trước của dòng họ Phan là người thôn Chi Bông xã Thu
Hoạch, huyện Thiên Lộc theo nghiệp nông lấy âm nhạc làm nghề. Sau dời sang thôn
Gia Mỹ Đoài xã Canh Hoạch và nhập tịch ở đó... Tiên tổ hiệu Ông Trằm, tỷ hiệu Mụ
Trằm” (tờ 3a).
Cuốn PGTTL tuy không được người biên soạn gọi là thế phả hoặc gia phả,
nhưng như chúng ta được biết loại hình thư tịch này ở Trung Quốc ngoài cách gọi
là phả còn có các cách gọi khác nhau như: lục, kí, chí, bạ, thặng, điệp, sử, hệ,
tập, khảo, biên, truyện... kết hợp với các chữ chỉ dòng họ như: gia, tộc, tông,
thế, thế hệ, thế gia, tính, chi, bản chi, thị tộc, thống tông, tông thế... tất
cả trên 80 cách gọi khác nhau(29). Cho nên cuốn PGTTL có thể coi là một cuốn
gia phả, là nguồn tư liệu quan trọng trong việc nghiên cứu tiểu sử nhân vật,
nghiên cứu về dòng họ Phan ở Thạch Châu, Hà Tĩnh và chi họ Phan Huy ở Sài Sơn.
Cuốn PGTTL đã nêu hệ thống các đời của dòng họ Phan, về hành trạng của
những nhân vật hiển đạt trong dòng họ. Đặc biệt, cuốn gia phả ghi lại khá đầy đủ
về hành trạng và những công tích đối với dòng tộc và đất nước của Tiến sĩ Phan
Huy Cận và con trai của ông là Tiến sĩ Phan Huy Ích. Về Khuê Phong hầu Phan Huy
Cận, là ông tổ khai khoa của dòng họ đã được PGTTL ghi lại tiểu sử, hành trạng
của ông với 22 trang sách (từ tờ 12 đến tờ 22). Còn về Thụy Nham hầu Phan Huy
Ích, là con trưởng của Phan Huy Cận, một danh thần đã đóng góp vào việc nội trị
và ngoại giao thời Tây Sơn, ông được cuốn PGTTL ghi lại với 45 trang (từ tờ 25b
đến tờ 48a). Qua đó người đọc biết được ông đỗ Tiến sĩ năm Ất Mùi (1775) thời
Lê làm quan tới chức Hàn lâm thừa chỉ. Sau khi nhà Lê mất, ông được triều Tây
Sơn mời ra giao cho trọng trách lo việc bang giao với nhà Thanh và các nước
láng giềng. Năm Canh Tuất (1790) ông được sung vào đoàn sứ bộ “Giả vương” sang
Thanh chúc thọ Hoàng đế Càn Long. Trở về ông được thăng chức Thượng thư Bộ Lễ,
tước Thụy Nham hầu. Khi nhà Tây Sơn mất ông về làng Thụy Khuê làm thơ, viết
sách rồi qua đời ở đó, ông thọ 73 tuổi.
Cuốn PGTTL còn cho người đọc biết thêm những chi tiết xung quanh mối
quan hệ giữa Tiến sĩ Phan Huy Ích với mưu sĩ của Nguyễn Huệ: “Vào cuối thời Thịnh
Vương Trịnh Sâm có người cống sĩ ở Thuận Hóa là Trần Văn Kỷ đến kinh dự kỳ thi
Hội, từng gặp gỡ Phan Huy Ích và rất kính phục ông. Đến khi Trần Văn Kỷ làm
quan cho Tây Sơn, đã khuyên vua Tây Sơn nên chiêu dụ ông” (tờ 33a)(30). Trong
việc bang giao với nhà Thanh, cùng với Ngô Thì Nhậm(31), Phan Huy Ích đã được
triều Tây Sơn trọng dụng, điều đó đã được ghi lại trong PGTTL như sau: “Vua Tây
Sơn cho rằng bang giao là việc quan hệ rất lớn, đặc biệt uỷ nhiệm cho ông cùng
với bá cữu(32) lo việc này” (tờ 34a)(33).
Trên cơ sở đối chiếu, so sánh 4 văn bản: gồm 2 văn bản PGCP (Văn bản A
và Văn bản B), (PTCP: Văn bản C), (PGTTL: Văn bản D), chúng tôi chọn PGCP (Văn
bản A) làm bản gốc và là bản đáng tin cậy để tiến hành dịch nghĩa, chú thích và
công bố sau này.
PGCP (Văn bản A) là một cuốn gia phả quý, được biên soạn theo một thể thức
khá chuẩn mực. Cuốn sách được viết một cách có hệ thống từ đời thứ nhất đến đời
thứ 13 của chi đại tôn, đời thứ 12 của chi tiểu tôn. PGCP lại có nguồn gốc từ
thôn Gia Thiện, xã Thạch Châu, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh.
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét