LƯỢC KHẢO VỀ CÁC HỆ PHÁI HUYỀN MÔN NAM TÔNG. BÀI 24.BÀI CUỐI.

7/18/2014 |
LƯỢC KHẢO VỀ CÁC HỆ PHÁI HUYỀN MÔN NAM TÔNG. BÀI CUỐI.
PHẦN 2.NHỮNG HỆ PHÁI CƠ BẢN CỦA HUYỀN MÔN NAM TÔNG.
TRUY TÌM NGUỒN GỐC PHẬT QUYỀN.
( Tiếp theo )
CẢNH BÁO : Các tài liệu trong loạt bài này các bạn không nên tự luyện tập nếu không có chân sư hướng dẫn. dienbatn không chịu trách nhiệm về hành vi tự ý luyện tập của các bạn nếu có hậu quả đáng tiếc. dienbatn.



Theo chân những đoàn quân của các Chúa Nguyễn, những nhà truyền giáo, các Pháp sư, Phù thủy từ miền Bắc Việt Nam mang theo những bí thuật Huyền môn của mình kết hợp với Huyền môn bản địa mà tạo ra những trang sử huy hoàng của giới Huyền môn Việt Nam.

Như vậy ta thấy rằng , kể từ 1558, khi Chúa Nguyễn Hoàng bắt đầu Nam tiến , Phật pháp và Huyền môn Việt Nam đã vận động được một vòng tròn hoàn chỉnh . 
Do tiếp nhận những kiến thức của rất nhiều vùng địa lý, của nhiều dân tộc mà Huyền môn có nhiều chi phái khác nhau , mang nhiều tên gọi khác nhau. Tuy nhiên ta có thể thấy về Phật quyền và Thất sơn thần quyền có nguồn gốc xuất xứ khác nhau nhưng có những điểm chung về nguyên tắc cơ bản như sau :
1/ Tuy là một môn võ có những đòn thế siêu đẳng, nhưng Phật quyền và Thất sơn thần quyền các môn phái này chủ yếu là để tự vệ ,không được đánh người ,không được ngạo mạn ỷ lại hiếp đáp người cô thế .Luật của các phái cũng hết sức nghiêm minh ,ai vào thọ giáo phải đứng trước tổ thầy đọc các lời thề về giử gìn đạo đức và tôn kính Trời Phật Thánh Thần , rất nguy hiểm khi có đệ tử nào vi phạm thì khó tránh khỏi kiếp nạn do chính mình chọn ra. Ngoài ra còn phải kiêng cử trong ăn uống tuỳ theo môn phái bùa có quy định, như : Chó ,Trâu ,Mèo là phải kỵ tuyệt đối , còn nhiều thứ khác phải kiêng kỵ tuỳ theo môn phái của mình.
2/ Trước khi tập thì môn sinh đều phải cầu Thầy Tổ về trợ giúp. các Thày Tổ ở đây với mỗi một môn sinh là khác nhau, không ai giống ai cả. Theo hiểu biết của dienbatn thì những Thày Tổ này là những vị Thày Tổ từ nhiều căn kiếp trước đã từng dạy cho người đó, nay cầu về, các ngài tiếp tục dạy hay trực tiếp phát công , phát ra những thế đánh của bản môn Thầy Tổ đó .
3/ Trong Phật quyền và Thất sơn thần quyền : Quan trọng nhất vẫn không phải học quyền mà là .... học Đạo . Trong việc học Đạo, ngoài các Giáo lý nhà Phật ra, môn sinh đều có những bài tập về đọc chú ,  luyện khí, luyện gồng, luyện một số công năng đặc di khác .
4/ Theo các vị sư phụ của dienbatn truyền lại, Phật quyền và Thất sơn thần quyền ngày xưa có tới 7 nhánh : Tuy cùng là thờ các vị chư Phật, chư Bồ tát nhưng 7 nhánh này chia ra luyện chuyên sâu theo từng vị Phật mà chi nhánh đó nhận làm Tổ . Các nhánh đó lần lượt nhận các chư Phật sau làm Thầy Tổ :
* Đức Di Lặc Phật Vương, 
* Đức Tây phương cực lạc A Di Đà Phật.
* Đức Phật Quán thế âm Bồ tát.
* Đức Đại Phổ hiền Bồ tát.
* Đức Đại Thế chí Bồ tát.
* Đức Phật mẫu Chuẩn đề vương Bồ tát.
* Đức Bồ tát tôn giả Mục Kiền Liên.
Trải qua nhiều thăng trầm của thời gian, ngày nay ta chỉ còn thấy nhiều nhất là hai nhánh võ phái nhận Thày Tổ là : Đức Phật Quán thế âm Bồ tát  và Đức Phật mẫu Chuẩn đề vương Bồ tát. Riêng phái nhận  Đức Đại Thế chí Bồ tát chỉ còn tại một vài nơi hẻo lánh và có môn quy rất nghiêm ngặt hầu như những người lạ khó xâm nhập vào được.
5/ Cũng theo những gì dienbatn được truyền lại : Khi điểm Đạo cho học trò Phật quyền và Thất sơn thần quyền , các vị chân sư phải truyền dẫn nội công , khai mở 7 luân xa  :
1. Luân xa thứ Nhất: Muladhara chakra (sanskrit). Vị trí nằm giữa hậu môn và bộ phận sinh dục, tương đương với huyệt Hội Âm là hội hiệp các âm linh của châm cứu học. Nó được biểu hiện bằng một bông sen bốn cánh màu đỏ, chủng tự tiếng sanskrit của nó là LAM. Luồng hỏa hầu Kundalini nằm phục ở đây. khi thành tựu phép quán tưởng luân xa này, sẽ làm chủ được địa đại, tiêu trừ nghiệp quá khứ, biết được ba thời quá khứ, hiện tại, vị lai, thọ hưởng niềm hoan lạc tự nhiên.
Ở đây Ngài A Di Đà làm chưởng Quản tiếp dẫn những giác linh, chơn linh, hương linh, vong linh về cảnh giới của Ngài, ngài cho xuất gia.
2. Luân xa thứ Hai: Svadhisthana chakra. Vị trí nằm dưới rốn chừng bốn ngón tay, tương đương với huyệt Đan Điền , biểu hiện bằng bông sen sáu cánh màu cam, chủng tự là VAM. Thành tựu phép quán tưởng luân xa này sẽ làm chủ được thủy đại và các giác quan, biết được cảnh Trung giới (monde astral).
Chưởng quản ở đây là ngài Cam Lồ Vương Như Lai, khi chúng ta đến cảnh giới nầy thì chúng ta sẽ được học phép thắng tất cả: Tham ái, giận hờn, ngã mạn, ganh tỵ và các phiền não khác đều được tiêu trừ. Vượt thoát tử thầncủa các cõi. lúc nầy chúng ta chứng quả thượng thừa của tầng hai nầy lảnh sắc lệnh lên tầng thứ ba.
3. Luân xa thứ Ba: Manipura chakra. Vị trí ở giữa rốn tương đương với huyệt Thần khuyết. Biểu hiện bằng bông sen mười cánh màu vàng, chủng tự là RAM. Chưởng quản ở đây là Ngài Ly Bố Úy Như Lai, ở đây Chúng ta học phép thành tựu phép làm chủ hỏa đại, không còn sợ lửa thiêu đốt, hoàn toàn thoát khỏi ngũ hành kim mộc thủy hỏa thổ. lúc nầy chúng ta chứng quả thượng thừa của tầng ba nầy lảnh sắc lệnh lên tầng thứ tư.
4. Luân xa thứ Tư: Anahata chakra. Vị trí ở giữa ngực, tương đương với huyệt Ðản trung. Biểu hiện bằng bông sen mười hai cánh màu xanh lá cây, chủng tự là YAM. Chưởng quản ở đây là Ngài Quảng Bác Thân Như Lai, ở đây ngài dạy chúng ta học phép Thành tựu làm chủ phong đại, tùy ý bay lượn trong không gian hoặc chui nhập vào thân người khác, đầy đủ đức tính của chư thiên và tình thương vũ trụ. lúc nầy chúng ta chứng quả thượng thừa của tầng bốn nầy lảnh sắc lệnh lên tầng thứ năm
5. Luân xa thứ Năm: Visuddha chakra. Vị trí ở ngay dưới cổ, tương đương với huyệt Thiên đột. Biểu hiện bằng bông sen mười sáu cánh màu xanh da trời. Chủng tự là HAM. Chưởng quản ở đây là ngài Diệu Sắc Thân Như Lai, ở đây chúng ta được học phép Thành tựu làm chủ không đại, thân thể không bao giờ tàn hoại, ngay cả khi thế gian bị tiêu diệt, đạt được trí huệ thông suốt tất cả kinh điển vô tự và ba thời: quá khứ, hiện tại, vị lai. lúc nầy chúng ta chứng quả thượng thừa của tầng năm nầy lảnh sắc lệnh lên tầng thứ sáu
6. Luân xa thứ Sáu: Ajna chakra. Vị trí ở giữa hai chân mày nơi mà huyền môn thường gọi là con mắt thứ ba, tương đương với huyệt Ấn đường. Biểu hiện là bông sen hai cánh màu xanh nước biển, chủng tự là A. Chưởng quản ở đây là Ngài Bảo Thắng Như Lai ở đây chúng ta được học phép trở thành người hoàn toàn giải thoát liền đắc cái trí bửu pháp tánh bực vô thượng. lúc nầy chúng ta chứng quả thượng thừa của tầng sáu nầy lảnh sắc lệnh lên tầng thứ bảy
7. Luân xa thứ Bảy: Sahasrara chakra. Vị trí ngay trên đỉnh đầu, tương đương với huyệt Bách hội. Biểu hiện bằng bông sen ngàn cánh màu tím, trắng, vàng. Chủng tự là OM. Khi luồng hoả hầu Kundalini chạy lên tới đây, Chưởng quản ở đây là Ngài Đa Bảo Như Lai , ở đây chúng ta được học phép trở thành một bậc giác ngộ giải thoát hoàn toàn. Hòa đồng Vũ Trụ gọi là Đạo. lúc nầy chúng ta chứng quả thượng thừa của tầng bảy nầy lảnh sắc lệnh ra ngoại Càn Khôn Vũ Trụ.
Có một cấp bậc điểm đạo tối cao siêu đẳng mà người môn đồ khi đã đạt tới trình độ đó không chỉ được tạm thời giải thoát khỏi thể xác vật chất để chứng minh sự tồn tại của linh hồn, mà còn được đưa lên những cảnh giới thanh cao nhất, hòa nhập hoàn toàn với đại thể của vũ trụ. Kinh nghiệm huyền diệu đó giúp phá vỡ sự cố chấp hữu hạn của con người và do đó mới có thể tiếp xúc với sự hiện hữu chân thật trường cửu của hết thảy mọi sinh thể. Trong một thời gian ngắn, người môn đồ được cảm thông trong im lặng và một cách thần diệu với thực thể của muôn loài; sự tiếp xúc tuy ngắn ngủi, nhưng giây phút cảm thông huyền diệu đó cũng đủ làm cho người ta thay đổi hoàn toàn quan điểm đối với cuộc đời. Người môn đồ ấy đã chia sẻ một phần cái ân huệ thiêng liêng nhất mà con người có thể nhận được. Người ấy xem như đã khám phá được cái ánh sáng huyền diệu thiêng liêng, là cái tinh hoa rốt ráo vi diệu của bản thể, mà so với nó thì thể xác vật chất này chỉ là giả tạm và vô nghĩa. Vì thế, người môn đồ sau khi được điểm đạo đã thật sự được hồi sinh trở lại, theo đúng ý nghĩa cao cả nhất của danh từ này. 
Như thế, cuộc điểm đạo là sự đạt tới một viễn cảnh mới của cuộc đời, cái viễn cảnh tâm linh mà nhân loại đã đánh mất trong thời dĩ vãng xa xăm, khi rơi từ “Thiên đàng” xuống cõi vật chất. Khoa huyền môn giúp ta thực hiện sự trở về nguồn cội ngay từ bên trong, và đưa ta đi tuần tự từ bước một đến sự giác ngộ hoàn toàn. Khoa huyền môn hé mở cho ta thấy trước hết là những cảnh giới tâm linh huyền bí vượt ngoài giới hạn nhận biết trong cõi vật chất của trần gian, và sau đó tiết lộ cho ta những điều huyền diệu rốt ráo và tính chất thiêng liêng của tâm thức con người. Khoa huyền môn giúp cho người môn đồ nhìn thấy được những cảnh giới dường như địa ngục âm ty để thử thách tâm trí và lòng kiên quyết, cũng như để người ấy được có dịp học hỏi và mở rộng tầm nhận thức. Kế đó, người môn đồ được nhìn thấy những cảnh giới Thiên đàng tốt đẹp để khuyến khích và ban ân huệ. Nếu khoa huyền môn vẫn phải dùng đến phương tiện đồng thiếp thì điều đó không có nghĩa là không còn phương pháp nào khác. Đó chỉ là một phương tiện được áp dụng, nhưng cảnh giới tâm linh có thể được đạt tới bằng nhiều phương cách khác nữa, và không cần phải áp dụng phương pháp xuất thần. 
Tuy nhiên, lịch sử của nhân loại luôn luôn theo định luật chu kỳ, những gì đã từng xảy ra, sẽ tái diễn trở lại. Một lần nữa, con người đã trải qua một thời kỳ hỗn loạn và hắc ám, trong khi đó lại cảm thấy một sự băn khoăn bất mãn do nhu cầu tự nhiên của bản tính con người là muốn lặp lại sự giao tiếp với cảnh giới tâm linh huyền diệu huy hoàng. Bởi vậy, tôi hy vọng rằng những điều kiện sẽ có thể được tạo nên, những hoàn cảnh thuận tiện sẽ đến và những nhân vật đủ thẩm quyền và khả năng sẽ xuất hiện, để nhờ đó mà một lần nữa trên địa cầu này sẽ được tái lập tổ chức huyền môn, dưới những hình thức hoàn toàn mới mẻ tân kỳ, để cho được phù hợp, thích ứng với thời đại tân tiến hoàn toàn khác hẳn với thời đại cổ xưa. "
6/ " Những vị đạo đồ trong khoa huyền môn thời cổ phải long trọng tuyên thệ là không bao giờ tiết lộ những gì xảy ra bên trong thánh điện thâm nghiêm huyền bí. Ta nên nhớ rằng, dù sao thì lễ điểm đạo cũng chỉ được cử hành mỗi năm cho một số rất ít môn đồ. Sự hiểu biết giáo lý mật truyền không bao giờ được ban bố cho nhiều người cùng một lúc. Bởi lẽ đó mà không một nhà văn thời cổ nào đã đưa ra được một tường trình đầy đủ và mạch lạc về những gì được gọi là giáo lý huyền môn, vì các vị môn đồ luôn giữ đúng lời cam kết một cách chặt chẽ. 
Những chân lý được truyền dạy trong các đạo viện huyền môn là do sự tiết lộ mà các đấng thánh nhân dành cho nhân loại từ lúc phát sinh những nền văn minh cổ xưa nhất, và nay giáo lý huyền môn cần được giữ gìn nguyên vẹn để duy trì sự tinh khiết của nó. Như thế, người ta hiểu tại sao khoa huyền môn được ẩn giấu cẩn mật và giữ gìn chặt chẽ ngoài tầm tay của kẻ thế nhân phàm tục. 
Tại sao những vị đạo trưởng lại có một sự dè dặt vô cùng chặt chẽ như thế? Đó là vì những lý do mà chỉ có các ngài mới có thể biết được. Dù sao, các ngài hẳn là thấy cần phải loại những kẻ hoài nghi và bỡn cợt ra ngoài những kinh nghiệm thần bí dẫy đầy nguy hiểm cho tánh mạng của người thí sinh. Người ta không trao những viên ngọc quý cho kẻ tầm thường. 
Ngoài ra, rất có thể là có nhiều người, vì không đủ sự chuẩn bị sẵn sàng cho một kinh nghiệm như thế, sẽ trở nên điên cuồng hoặc thiệt mạng sau cuộc thử thách. Bởi đó, lễ điểm đạo luôn luôn chỉ là đặc ân dành cho một số ít người xứng đáng. Nhiều người đã gõ cửa cầu xin điều đó ở các đền huyền môn nhưng vô ích. Những người khác, bị đặt dưới hàng loạt những cuộc thử thách sơ đẳng mỗi lúc một khó khăn hơn, không có đủ sự gan góc cần thiết để tiến xa hơn nữa, hoặc cảm thấy lòng ước muốn điểm đạo nguội bớt dần. 
Về sau, sự sa đọa vật chất của con người đã làm cho các vị đạo trưởng chân chính của thời xưa dần dần biệt tích hoặc rút lui ra ngoài vòng thế tục, và thay chân các ngài là những kẻ phàm phu mê muội, làm hoen ố và hạ thấp khoa huyền môn cao cả. Những kẻ bất chính, có tham vọng đạt được những phép thần thông của bàng môn tả đạo, sau cùng đã chiếm ưu thế để giành quyền kiểm soát các đạo viện huyền môn ở Ai Cập và những nơi khác. 
Những gì từ lúc nguyên thủy vốn là thiêng liêng, chỉ dành cho những người chọn lọc nhằm mục đích duy trì ngọn lửa thiêng tinh khiết của sự sống tâm linh cho được trường cửu trong nhân loại, đã lọt vào tay những kẻ tà tâm, buôn thần bán thánh. Đó là những sự kiện lịch sử, làm cho cái kho tàng tâm linh quí báu của nhân loại thời cổ xưa đã trở nên suy tàn. " -( Theo Ai Cập huyền bí ).
Chính vì vậy ngày xưa Thầy Tổ có truyền lại :
" Một đêm nọ Thày tôi đã dặn:
Này Chân sư , Pháp sư con nghe ta dạy,
Ấn tướng và Pháp chú - Là bí mật hiển vi.
Của Phật , Hiền, Thánh chúng.
Có cảm thì có ứng,
Và không thể giải thông.
Cũng không thể tạo khuôn,
Đệ tử muốn gia trì,
Hoặc truyền Đạo đại chúng.
Nên nhớ là lúc tập và lúc niệm,
Năng tinh tấn chuyên cần.
Và hành nơi vắng lặng.
Không cho ngoại Đạo niệm.
Bởi ấy sinh lòng tà,
Khinh khi hoặc khích nhiễu.
Đây là một nghiêm luật.
Đệ tử chiếu phụng hành . " 

KẾT THÚC BÀI.
Thân ái - dienbatn .
Xem chi tiết…

LƯỢC KHẢO VỀ CÁC HỆ PHÁI HUYỀN MÔN NAM TÔNG. BÀI 23.

7/01/2014 |
LƯỢC KHẢO VỀ CÁC HỆ PHÁI HUYỀN MÔN NAM TÔNG. BÀI 23.
PHẦN 2.NHỮNG HỆ PHÁI CƠ BẢN CỦA HUYỀN MÔN NAM TÔNG.
TRUY TÌM NGUỒN GỐC PHẬT QUYỀN.
( Tiếp theo )
CẢNH BÁO : Các tài liệu trong loạt bài này các bạn không nên tự luyện tập nếu không có chân sư hướng dẫn. dienbatn không chịu trách nhiệm về hành vi tự ý luyện tập của các bạn nếu có hậu quả đáng tiếc. dienbatn.


Bồ đề Đạt ma 9 năm diện bích.
Bây giờ, để tìm lại những trang hào hùng của lịch sử võ học, đã bị bụi thời gian phủ lên dày đặc những huyền thoại, chúng ta trở về thời điểm năm 518 dương lịch . Vào thời điểm đó có một vị Phật tăng Ấn Độ là Bồ Đề Đạt Ma (phiên âm tiếng Trung Quốc của tên Ấn Độ Puti Damo 菩 提 達 摩 , Bodhidharma) từ Ấn Độ (năm 518 Tây lịch) đến Trung Hoa truyền thụ giáo pháp Phật Giáo đồng thời sáng lập nên một giáo phái Phật giáo mới sau này phát triển khắp vùng Đông Nam Á, bán đảo Triều Tiên và Nhật Bản là giáo phái Thiền Tông Trung Hoa. Ở Nhật Bản, tinh thần của Thiền (Zen) đã thấm đẫm văn hóa truyền thống của người Nhật qua các nghi thức trà đạo và các môn võ sau này.Sau khi triều kiến Lương Vũ Đế (463-549) (cũng thuộc triều Bắc Ngụy) ở Kim Lăng (Trung Quốc) bất thành, Bồ Đề Đạt Ma đã đến chùa Thiếu Lâm (năm 527) để truyền bá Phật pháp cho người Trung Hoa. Do đó Bồ Đề Đạt Ma cũng được coi như là ông tổ của Phật Giáo Thiền Tông.
Bồ Đề Đạt Ma và chùa Thiếu Lâm, sau này lại trở nên nổi tiếng ở Trung Hoa và các quốc gia lân cận bị ảnh hưởng bởi nền văn minh và văn hóa Trung Hoa không phải ở lĩnh vực tôn giáo - như là Sư tổ của cái nôi xuất xứ (tổ đình) của giáo phái Phật Giáo Thiền Tông Trung Hoa, mà lại nổi tiếng là Ông tổ của võ thuật Trung Hoa .
Thực ra chùa Thiếu Lâm đã có từ trước đó . Chùa Thiếu Lâm, theo như trong các tài liệu khảo sát bằng văn bản của Dương Huyễn Chi, trong "Lạc Dương Già-lam kí" (洛陽伽藍記; 547), và Lý Hiền (李賢), trong "Minh nhất thống chí (明一統志; 1461), cũng công nhận vị trí và thời đại của ngôi chùa như Đạo Tuyên trong "Tục cao tăng truyện" (续高僧传, 645). Quyển "Gia Khánh trùng tu nhất thống chí" (嘉慶重修一統志; 1843) viết rằng ngôi chùa ở tỉnh Hà Nam, được xây dựng vào năm Thái Hòa (太和) thứ 20 nhà Bắc Ngụy (tức năm 497), là ngôi chùa Thiếu Lâm ở huyện Đăng Phong (Dangfeng 登封), tỉnh Hà Nam (Henan 河南) (có sách viết là Hồ Nam là không đúng vì tỉnh Hồ Nam rất xa về phía Nam tỉnh Hà Nam), Trung Quốc, cách Bắc Kinh 600 km về phía Nam và cách Nam Kinh 600 km về phía Tây. Ngôi chùa bị hủy diệt và trùng tu vài lần, trở thành một trong những ngôi chùa xưa nhất của Trung Quốc. Trước khi Bồ Đề Đạt Ma tứ Ấn Độ đến thì chùa Thiếu Lâm cũng chỉ là một ngôi chùa nằm trong Ngũ hành sơn của Trung Quốc. Theo "Tục cao tăng truyện" (续高僧传, 645) của Đạo Tuyên ngôi chùa này ban đầu được Hiếu Văn Đế (孝文帝)(471-499) triều Bắc Ngụy (386-534) xây dựng vào năm 497 ở phía bắc ngọn núi Thiếu Thất (Shaoshi 少室山), trong dãy Tung Sơn (Songshan 嵩山), huyện Đăng Phong (Dengfeng 登封), thuộc tỉnh Hà Nam (Henan 河南) về hướng Tây Bắc gần thành phố Trịnh Châu (Giản thể: 郑州, Phồn thể: 鄭州; Bính âm: Zhèngzhōu) (là một trong năm ngọn núi danh thắng của Trung Quốc là Hoa sơn, Thái sơn, Hằng sơn, Hành sơn và Tung sơn) cho nhà sư Bạt Đà (Bá Tuó 跋陀), đến Trung Hoa vào năm 464, người đã thuyết giảng Bộ kinh Phật giáo ở Trung Quốc trong vòng ba thập kỷ.
Theo truyền thuyết của Phật Giáo Thiền Tông Trung Hoa, sau khi từ biệt Lương Vũ Đế, Bồ Đề Đạt Ma đã vượt sông Trường Giang (Dương Tử Giang) trên một ngọn cỏ lau (cước đạp lô diệp quá giang) đi đến chùa Thiếu Lâm và trụ trì ở đó. Ngày nay ở Thiếu Lâm tự vẫn còn bức tượng "cước đạp lô diệp quá giang" miêu tả tích này. Tại ngôi chùa này, ông đã thực hành thiền định trong chín năm liền quay mặt vào vách núi (cửu niên diện bích).
Trong thời gian trụ trì và thuyết pháp, nhận thấy các tăng nhân trong chùa có thể lực rất yếu kém không thể chống chọi nổi với thời tiết và khí hậu khắc nghiệt của vùng núi rừng hiểm trở, ngài đã kết hợp các bài tập luyện thở Yoga và một số môn võ tay không của Ấn Độ gọi là Cửu Long sáng tạo nên một số bài tập để rèn luyện tăng cường sức khỏe phục vụ cho quá trình tu hành.
Các bài tập của Bồ Đề Đạt Ma cho đến hiện nay vẫn chưa thể xác định được.
Tuy nhiên có một điểm cần lưu ý là các bài tập của Bồ Đề Đạt Ma có kèm theo một số các thủ thuật xoa bóp và điểm huyệt gọi là Án Ma Pháp (Anma Faat 按摩法) giống như phương pháp châm cứu và bấm huyệt của Đông y học Trung Quốc và phương pháp massage của phương Tây ngày nay. Do vậy trong các bài quyền của hầu hết các hệ phái Thiếu Lâm sau này thường hay có những động tác vỗ chân vỗ tay nhằm kích hoạt (activate) lên các huyệt đạo để phát động nguồn Khí lực trong cơ thể đồng thời để tạo khí thế khi diễn tập với mục đích làm cường kiện thân thể.
Các bài tập thở và xoa bóp huyệt đạo để đả thông khí huyết trong hệ kinh mạch của võ Thiếu Lâm có liên hệ mật thiết sau này với các phương pháp của trường phái triết học Trung Hoa cổ đại là phái Đạo Gia với Phép đạo dẫn mà nó chính là phương pháp luyện tập hơi thở và truyền dẫn nguồn năng lượng nội sinh (Inner Power) trong cơ thể được gọi là khí (tiếng Trung Hoa phát âm là Qi, tiếng Nhật là Ki cũng gần như nhau). Đó chính là phương pháp Khí công chỉ chuyên luyện nội khí, vận khí (dẫn khí), dụng khí hóa kình trong quyền thuật và Điểm Huyệt của võ Thiếu Lâm. Hai môn này hiện nay đang được các trường Đại học của Trung Quốc và Đài Loan . ( Viết theo http://vi.wikipedia.org/).
Lịch sử của võ phái Thiếu Lâm rất lâu đời, các bạn có thể tìm trên google, dienbatn không nêu ra đây nữa, nhưng có một điều rất hiển nhiên của lịch sử là ngay cả một lịch sử võ thuật lâu dài của Thiếu Lâm Trung Quốc cũng là do khởi đầu từ một vị Phật tăng Ấn Độ là Bồ Đề Đạt Ma . Bồ đề đạt ma được coi là tổ sư, người sáng lập phái võ Thiếu Lâm. Môn võ này có nguồn gốc từ môn võ thuật cổ truyền của Ấn Độ là võ Kalaripayat, mà Bồ-đề-đạt-ma là một võ sư của môn võ này.
Bây giờ, Võ học phát triển, Thiếu Lâm có mặt khắp nơi, không kể Đông Tây Nam Bắc và tùy theo phong thổ mỗi quốc gia mà có những nét đặc sắc riêng. Theo Lịch sử Võ Học Thế Giới chép rằng, các môn phái Nga My, Không Động, Võ Đang xuất phát từ Thiếu lâm tự; Karatedo, Taekwondo, Judo phát xuất từ cương quyền, nhu quyền, nhu thuật của Thiếu Lâm tự; Kiếm đạo của Nhật Bản, võ đạo trên thế giới đều tôn Ngài Bồ Đề Đạt Ma làm thủy tổ. Như vậy, chúng ta thấy, bao nhiêu hoa trái xum xuê vươn lên từ cây đại thọ thiền học hay võ học ở Trung Hoa và Việt Nam đều vươn lên từ Ngài Bồ Đề Đạt Ma, nên chúng ta có thể nói thiền và võ thuật cùng chung gốc và có mối quan hệ rất mật thiết.
Điều đó cũng có nghĩa là nguồn gốc của mọi nguồn gốc cũng đều từ PHẬT giáo của Ấn Độ.
Bây giờ ta lại khảo cứu đến Kalarippayattu – Môn võ cổ nhất thế giới.


Được xem là điệu múa đầy uy lực của nữ thần Shiva, Kalarippayattu là môn võ cổ xưa nhất của Ấn Độ, được lưu truyền đến ngày nay. Theo truyền thuyết, cách đây hàng ngàn năm trước Công nguyên, một vị hoàng tử Ấn Độ đã quan sát ghi nhận đòn thế giao tranh của các loài cầm thú rồi chế tác ra nhiều chiêu thức chiến đấu cho con người.
Kalarippayattu có thể coi là môn võ xưa nhất thế giới, có hệ thống bài bản, hành trình theo hướng từ Ấn Độ sang Trung Hoa, Nhật Bản rồi tỏa đi các nước khác.
Ngày nay, Kalarippayattu được truyền dạy như là một phương pháp tự vệ và thể dục rèn luyện thân thể hữu hiệu. Tại bang Karela, tổ đường của Kalarippayattu là một ngôi đền thờ nữ thần Siva và thần chiến tranh (Mahakali). Đền này cũng thờ tất cả các vị tổ sư nhiều đời của Kalari, là nơi để các môn đồ võ phái gặp gỡ cùng nhau tập luyện mỗi ngày. Nghi thức mở đầu buổi tập cùng các phương pháp kỹ thuật, đòn thế đã khiến các nhà võ học xác định vai trò ngọn nguồn của nó.


Đòn thế căn bản của Kalarippayattu gồm: Quyền, cước, cầm nã và điểm huyệt. Chiêu thức đòn thế có sự giống nhau với kỹ thuật của hầu hết các võ phái Nhật Bản, Trung Hoa. Kỹ thuật tấn công bằng đòn thế được gọi là dhanurveda, điểm huyệt được gọi là dim mak và chia ra làm 3 cấp độ: Dim chinh đánh lên dây thần kinh cảm giác gây kích ngất, bất tỉnh, dim Hsueh đánh lên gân máu, khớp xương gây tê dại, dim mak đánh lên tử huyết gây tử thương. Huyệt được gọi là marmas.
Võ phái Kalarippayattu cũng quan niệm có 108 huyệt trên thân thể con người như các võ phái Trung Hoa. Cách phân loại các huyệt cũng giống nhau: Huyệt đơn (eka Marmas), huyệt kép (dwanda Marmas), tử huyệt (padu marmas, gồm 12 huyệt), sinh huyệt (thodu marmas, gồm 96 huyệt).
Việc luyện nội công của Kalarippayattu thông qua môn Yoga (tiếng Phạn có nghĩa là sự liên kết tập trung khí lực). Có hai pháp môn Yoga chính là: Yoga tinh thần (Raja yoga) tương đương với tĩnh công, suy tưởng thiền định của các võ phái Nam Á; Yoga thể dục (Hatha yoga) tương đương động công, khí công.
Raja yoga nhằm đưa con người đến tình trạng Đại định và Thần lực bằng con đường tập trung cao độ tinh thần, cảm xúc, ý thức đến mức tự kiểm soát được toàn bộ con người.


Hatha yoga nhắm đến thể chất với mục tiêu tạo một sức khoẻ toàn diện bao gồm nhiều phép luyện thở có kết hợp với nhiều tư thế khác nhau của thân thể như tư thế cây chuối, cái cung, rắn hổ mang, cào cào…
Mỗi tư thế đều có tác dụng điều hòa và tăng cường sinh lực cho các cơ quan nội tạng. Theo nội dung triết lý chủ đạo của trường phái y thuật cổ Ayurveda thì lý trí có tác động mạnh mẽ nhất đối với sức khoẻ và thể xác của mỗi người. Đồng thời, sự giải thoát khỏi bệnh tật cũng lệ thuộc vào ý thức và sự cân bằng của lý trí. Khi lý trí đạt được sự cân bằng, nó sẽ chuyển giao sự cân bằng này cho cơ thể, giúp cơ thể chiến thắng bệnh tật.
Thành quả cuối cùng của 2 pháp môn này không hạn chế. Dù tập pháp môn nào người tập cũng sẽ đạt đến mục đích giống nhau: Đạt đến trạng thái hợp nhất về tinh thần, nội lực sung mãn, sức khoẻ dồi dào. Nhiều môn sinh Kalarippayattu đã biểu diễn những công phu đặc dị như đi như bay (Khinh công), đi trên nước (Thủy thượng phiêu), đi lên những bức tường thẳng đứng (Bích hổ du tường)…(Theo bee ).
Như các bạn đã biết, ngày xưa khi  Huyền Trang tên tục Trần Huy (Trần Vĩ hoặc Trần Y 陳褘) sinh năm 596,đời Tùy Văn Đế tới Ấn Độ để thỉnh kinh Phật, các tác phẩm kinh Phật ông mang về dịch tại Trung Quốc hầu như bằng chữ (zh. Phạm/Phạn ngữ 梵語; sa. saṃskṛtā vāk संस्कृता वाक्, hoặc ngắn hơn là saṃskṛtam संस्कृतम्) là một cổ ngữ của Ấn Độ còn gọi là bắc Phạn để phân biệt với tiếng Pali là nam Phạn .
dienbatn đã tham khảo khá nhiều tài liệu viết về Phật quyền, Thần quyền, thì đa phần sử dụng các câu chú tiếng Pali ( Pāli (पाऴि) còn gọi là Nam Phạn, là một ngôn ngữ thuộc nhóm Ấn-Aryan Trung cổ hay prakrit. Nam Phạn là ngôn ngữ kinh điển của Phật giáo Nam Tông, dùng trong việc chép kinh cùng tụng niệm, trong đó có bộ Kinh Tam tạng (tên theo tiếng Nam Phạn là Tipitaka). Chữ Nam Phạn được đúc kết từ mấy nguồn hệ thống chữ viết khác nhau, từ chữ Brahmi, Devanāgarī và các chữ viết thuộc hệ Ấn-Aryan. ).
Chỉ có một số rất ít tài liệu viết về Phật quyền, Thần quyền sử dụng tiếng Phạn hay tiếng Trung Quốc. 
Tuy nhiên có một điều hết sức thú vị là khi sử dụng chú bằng tiếng Pali thì hầu hết tất cả những câu thỉnh Tổ của Phật quyền, Thần quyền lại dùng tiếng Trung Quốc ( Chuyển thừ Phạn tự sang tiếng TQ do Huyền Trang thực hiện ).
Lược lại quá trình lịch sử, dienbatn mạo muội lập một bản đồ phát triển của Phật giáo như sau :



Giai đoạn 1 : Sự xuất hiện của người Aryan tại Ấn Độ.
 "Có lẽ vào khoảng 1000 năm trước Công nguyên những cư dân thuộc chủng tộc Aryan bắt đầu tràn vào Ấn Độ từ phía Bắc, xâm nhập không gian cư trú của người Dravidian . Người Aryan là những bộ lạc bán du mục, mặc dù có văn hoá kém hơn, nhưng có sức mạnh quân sự hơn hẳn người bản địa đã dần dần chiếm lĩnh được hết Ấn Độ bằng chiến tranh. Khi đã có địa bàn đứng chân chắc chắn họ tiếp tục tiến xuống miền Nam Ấn với những đợt di dân bằng sức mạnh tôn giáo cho đến khi làm chủ toàn bộ bán đảo. Cuộc di cư vĩ đại này đã tạo ra quá trình hoà trộn tổng hợp văn hoá giữa 2 dân tộc Dravidian và Aryan.Người Aryan đã "mượn chế độ cộng đồng làng xóm, chính sách điền địa thuế khoá", (Will Durant - Lịch sử văn minh Ấn Độ) của người Dravidian, tổ chức lại đất nước thành những tiểu quốc nhỏ theo chế độ phong kiến. Mặt khác họ đưa vào đất An một tôn giáo mới, tôn giáo này kết hợp với những tôn giáo sẵn có tại địa phương thành tín ngưỡng chung cho toàn Ấn Độ trong một giai đoạn dài cho đến 500 năm trước Công nguyên. Người ta gọi đó là kỷ nguyên Veda, theo tên những bộ kinh ra đời trong thòi gian này.
Các kinh Veda chứa đựng những yếu tố căn bản, đặt nền móng cho tư tưởng và văn hoá Hinđu giáo sau này.
Từ cuối kỷ nguyên Veda, Ấn Độ bắt đầu phải đương đầu với hai cuộc xâm lấn từ phía Tây Bắc của người Ba Tư vào thế kỷ thứ VI trước Công nguyên và của Hy Lạp vào thế kỷ thứ IV trước Công nguyên. Người Ấn sau đó giành lại được đất đai và lập nên triều đại Maurya thống nhất toàn bán đảo dưới một quốc gia tập quyền. Sau khi Ashoka, vị vua Maurya và là phật tử vĩ đại nhất qua đời, triều đại này tan rã một cách nhanh chóng, và đất nước bị chia rẽ dẫn đến hàng loạt cụộc xâm chiếm mới của người Bactria, người Shakas, người Kushan, mỗi tộc người lại lập ra một hoặc nhiều vương quốc ở phía Tây và Bắc Ấn Độ.
Giữa những xáo trộn ghê gớm đó, hàng loạt tôn giáo mới ra đời, phát triển, đóng góp vào kho tàng văn hóa và tư tưởng Ấn Độ những giá trị quý báu. Đáng chú ý nhất là sự huy hoàng của đạo Phật dưới triều Maurya và đạo Jain xuất hiện.
Đến thế kỷ thứ IV và V sau Công Nguyên, Ấn Độ bước vào một giai đoạn hoàng kim dưới triều đại Gupta. Trong thời kỳ này nền văn hóa Ấn Độ đã đạt được nhiều thành tựu rực rỡ. Các vua triều Gupta nâng đỡ các nhà khoa học, nghệ sĩ, phát triển các ngành văn hóa tôn giáo, khoa học và nghệ thuật. Đặc biệt, các tôn giáo đều có cơ hội phát triển khá tự do, bình đẳng, kéo theo những môn nghệ thuật liên quan. Phía Hinđu giáo, các học giả, tu sĩ phục hồi lại vãn học Hindun, "làm cho tiếng Sanskrit trở thành một thứ thế giới ngữ cho khắp các nhà trí thức Ấn Độ " (Will Durant - Lịch sử văn minh An Độ). Còn nghệ thuật Phật giáo cũng phát triển mạnh, sản sinh ra được những tác phẩm hàng đầu như hệ thống bích họa trong các chùa hang. Tuy nhiên thời kỳ rực rỡ đó bị chấm dứt bởi những cuộc xâm lăng của Hung Nô. Sang thế kỉ thứ VII, triều đại Harsha đẩy lui Hung Nô và phục hồi được phần nào nền hòa bình và không khí văn hóa thời Gupta. Vị vua lập quốc Harshavarhana, là một minh quân có tâm hồn và tài năng của nghệ sĩ, đồng thời lại có chính sách khoan dung với mọi tôn giáo. Chính vì vậy, văn hóa Ấn Độ, đặc biệt là văn hóa Phật giáo lại thịnh đạt trong một thời gian dài.
( http://kientrucsaigon.net/).
Giai đoạn 2 : Sự truyền bá của đạo Phật từ Ấn độ tới Trung Quốc :
1/ Tì-ni-đa-lưu-chi (zh. 毘尼多流支, sa. vinītaruci), ?-594, cũng được gọi là Diệt Hỉ (滅喜), là Thiền sư Ấn Độ sang Trung Quốc tham học, môn đệ đắc pháp của Tam tổ Tăng Xán và là người khai sáng thiền phái Tì-ni-đa-lưu-chi tại Việt Nam.
Sư là người Nam Thiên Trúc (Ấn Độ), thuộc dòng dõi Bà-la-môn. Sư thuở nhỏ đã có ý chí khác thường, đi khắp mọi nơi cầu học Phật pháp. Năm 574, Sư sang Trung Quốc và nhân đây có cơ hội yết kiến Tam tổ Tăng Xán tại núi Tư Không. Thấy cử chỉ uy nghiêm của Tổ, Sư bỗng đem lòng kính mộ, đứng trước vòng tay cung kính. Tổ vẫn ngồi im nhắm mắt không nói. Sư đứng im suy nghĩ giây lát bỗng nhiên tự ngộ, liền quì xuống lạy ba lạy. Tổ thấy vậy cũng chỉ gật đầu ba lần. Sư muốn đi theo hầu Tổ nhưng Tổ lại khuyên đến phương Nam giáo hóa.( vi.wikipedia.org)
 2/ Đường Tam Tạng hay Đường Tăng, Huyền Trang (chữ Hán: 玄奘; bính âm: Xuán Zàng; khoảng 602–664) là một Cao tăng Trung Quốc, một trong bốn dịch giả lớn nhất, chuyên dịch kinh sách Phạn ngữ ra tiếng Hán. Nhà sư cũng là người sáng lập Pháp tướng tông (zh. fǎxiàngzōng 法相宗), một dạng của Duy thức tông (zh. 唯識宗, sa. yogācāra, vijñānavāda) tại Trung Quốc. Vì tinh thông Kinh điển Phật giáo nên nhà sư còn mang danh hiệu là Tam Tạng (pháp sư), là người tinh thông cả Tam tạng.
Huyền Trang tên tục Trần Huy (Trần Vĩ hoặc Trần Y 陳褘) sinh năm 596, năm thứ 16[cần dẫn nguồn] đời Tùy Văn Đế Dương Kiên tại Lạc Châu (洛州), huyện Câu Thị (緱氏縣), tỉnh Hà Nam, trong một gia đình có truyền thống quan lại. Đến cha của Huyền Trang là Trần Huệ thì dốc tâm vào Nho học, từ khước làm quan. Theo các truyện kí thì từ nhỏ Sư nổi danh thông minh đĩnh ngộ, sớm được thân phụ chỉ dạy những nghi thức Nho giáo.
Năm lên 13 tuổi Sư đã xuất gia và Thụ giới cụ túc năm 21 tuổi. Sư tu học kinh sách Đại thừa dưới nhiều giảng sư khác nhau và thấy có nhiều chỗ giảng giải mâu thuẫn. Đây là lí do chính thúc đẩy Sư lên đường đi Ấn Độ để tự mình tìm hiểu.
Mặc dù bị hoàng đế ra lệnh cấm đi du hành qua Ấn Độ, năm 629 Sư liều mình ra đi để hành hương chiêm bái quê hương Đức Phật, hi vọng sẽ tìm kiếm và nghiên cứu kinh điển mà hồi đó Trung Quốc chưa biết tới. Tập kí sự du hành của Sư (viết theo yêu cầu của nhà vua, người đã khâm phục và hỗ trợ Huyền Trang sau khi Sư vinh quang trở về năm 645), có tên là Đại đường tây vực kí, để lại cho hậu thế một nguồn tài liệu vô song về địa lí, xã hội và tập quán của miền Trung Á và Ấn Độ trong thế kỉ thứ bảy. Nhiều miêu tả của Sư về các vùng đất đó đã đạt tới độ chính xác mà trong thế kỉ 19, 20, nhiều nhà du khảo phương Tây như Ariel Stein đã tham khảo tập kí sự đó như một tập sách hướng dẫn nhằm tìm lại và xác định những vị trí đã được tìm ra và rồi bị lãng quên trong nhiều thế kỉ.
Sau khi trở về cố quốc, một phần nhờ trình độ uyên bác xuất chúng, một phần nhờ tiếng tăm vang dội mà Sư đã gặt hái được tại Ấn Độ và các nước Trung Á, một phần nhờ hoàng đế Trung Quốc đặc biệt hỗ trợ, như xây cất chùa chiền cho Sư trú ngụ cũng như thành lập một ban dịch thuật do chính nhà vua chọn lọc để giúp cho Sư hoàn thành công tác phiên dịch của hơn 600 kinh sách mang về Trung Quốc, Huyền Trang đã trở thành tu sĩ tiếng tăm nhất tại vùng Đông Á trong thế hệ đó. Học viên đến với Sư từ khắp Trung Quốc, kể cả từ Triều Tiên và Nhật Bản, song song có nhiều tăng sĩ từ Ấn Độ và các vương quốc Trung Á đến để bày tỏ lòng hâm mộ. Ngoài việc truyền bá kinh sách Phật giáo và tư tưởng Ấn Độ mới mẻ vào Trung Quốc, Sư cũng gây ảnh hưởng lên nền nghệ thuật và kiến trúc Trung Quốc bằng những vật dụng và thiết kế do Sư mang về. Có một ngôi chùa được xây theo thiết kế của Sư tại Trường An (ngày nay là Tây An) để chứa dựng kinh sách và các tác phẩm nghệ thuật của Sư mang về. Ngôi chùa đó ngày nay vẫn còn và là một dấu ấn quan trọng của đô thị này.
Sư là một trong những dịch giả người Hán dịch các văn bản của Phật Giáo Ấn Độ vĩ đại nhất và mang lại thành quả lớn lao nhất (và cũng chính xác nhất). Nhiều dịch phẩm của Sư, như Tâm kinh và Kim Cương kinh, ngày nay vẫn còn đóng một vai trò quan trọng trong việc hành lễ Phật giáo hàng ngày. Qui mô của các dịch phẩm của Sư là vô song, không chỉ những kinh sách của Duy thức tông mà Sư quy phục, mà còn bao gồm đầy đủ những kinh tạng đạo Phật, từ phép chỉ quán và đà-la-ni, đến phép quán tưởng, đến a-tì-đạt-ma cũng như toàn bộ kinh bát-nhã ba-la-mật (bộ kinh này chiếm ba bộ của Địa tạng Trung Quốc), kinh A-hàm, kinh Đại thừa, các chú giải về kinh và luận, Nhân minh học (Sư là người duy nhất dịch kinh luận Nhân minh ra chữ Hán) và kể cả một văn bản Thắng luận của Ấn Độ giáo.vi.wikipedia.org)
Giai đoạn 3 : Phật giáo vào Việt Nam :
1/ Tại miền Bắc Việt Nam : 
Đạo Phật truyền đến Việt Nam vào khoảng đầu thế kỷ Công Nguyên [năm 580]. Đến cuối thế kỷ thứ hai, Việt Nam đã thành lập được một trung tâm Phật Giáo quan trọng trong vùng, thường được gọi là trung tâm Phật Giáo Luy Lâu, nay thuộc tỉnh Bắc Ninh, phía bắc thành phố Hà Nội. Luy Lâu là thủ đô của xứ Giao Chỉ, tên cũ của Việt Nam, và là một trạm nghỉ chân quen thuộc của các nhà truyền giáo đạo Phật người Ấn Độ, trên hành trình sang Trung Hoa theo đường biển của các thương gia Ấn đi từ bán đảo Ấn Độ. Một số kinh điển Đại Thừa và A-hàm đã được dịch sang Hoa văn tại đó, chẳng hạn như kinh Tứ Thập Nhị Chương, An Ban Thủ Ý, Kinh Bổn Sanh, Kinh Mi-lan-đa Vấn Đạo, v.v.
Tỳ Ni Ða Lưu Chi - Sư sang Việt Nam khoảng cuối thế kỉ thứ 6 (~580), cư trú tại chùa Pháp Vân (chùa Dâu) tỉnh Hà Bắc. Nơi đây Sư dịch bộ kinh Đại thừa phương quảng tổng trì sau khi đã dịch xong bộ Tượng đầu tinh xá kinh tại Trung Quốc.
Theo Thuyền Uyển Tập Anh, Tỳ Ni Ða Lưu Chi đã nghe lời tổ Tăng Xán xuống phương Nam hành đạo và do đó đã dịch các kinh Tượng Ðầu và Nghiệp Báo Sai Biệt tại chùa Chế Chi ở Quảng Châu và sau khi tới chùa Pháp Vân ở làng Cổ Châu, Long Biên, mới bắt đầu dịch kinh Tổng Trì. Thuyền Uyển Tập Anh nói rõ rằng ông đến chùa Pháp Vân vào tháng Ba năm Giáp dần (594) thì tịch. Thời gian ông lưu trú tại Việt Nam như vậy là 14 năm.
Khi ông qua tới chùa Pháp Vân thì ở đây đã có một vị thiền sư Việt Nam tên là Quán Duyên đang dạy thiền học cho đồ chúng. Ông ở lại đây và chọn thiền sư Pháp Hiền làm đệ tử. Pháp Hiền từ trước đã có học thiền học với Quán Duyên.
2/ Tại miền Nam Việt Nam :
*Therevada tại miền Nam Việt Nam.
" Phần đất phía nam của Việt Nam ngày nay đầu tiên có người Chàm và Cam Bốt (Khơ-me) trú ngụ, và họ theo cả hai truyền thống Đại Thừa Ấn Độ và Phật Giáo Nguyên Thủy, mặc dù có lẽ là người Chàm đã theo truyền thống Nguyên Thủy từ thế kỷ 3 CN và người Cam Bốt chỉ bắt đầu theo Nguyên Thủy vào thế kỷ 12 . Người Việt bắt đầu xâm chiếm và thu nhập phần đất nầy vào thế kỷ 15, và đến thế kỷ 18, hình dạng của quốc gia Việt Nam như hiện nay được hoàn tất. Từ đó, sắc tộc Việt theo Phật Giáo Đại Thừa, trong khi sắc tộc Khơ-me theo truyền thống Nguyên Thủy, cả hai truyền thống nầy cùng chung nhau hiện hữu an hòa.
Chữ Theravada được ghép từ hai chữ thera và vada. Trong tiếng Pa-li chữ thera có nghĩa là người xưa, người đi trước, người cao tuổi, người con cả (ancien, aîné / ancient, old, elder) hoặc một người mang phẩm trật cao (senior). Trong phạm vi của Phật Giáo Theravada chữ thera được dùng để gọi một người tỳ kheo đã được thụ phong hơn mười năm - nói theo cách của các nhánh gia đình Phật Giáo khác là người tỳ kheo ấy đã "thọ cụ túc giới" hơn 10 năm. Do đó kinh sách Hán ngữ đã dịch chữ thera là "Thượng Tọa" hay "Trưởng Lão" (chúng ta sẽ trở lại vấn đề này trong phần tìm hiểu nguồn gốc của Phật Giáo Theravada dưới đây). Chữ vada có nghĩa là quan điểm hay giáo lý (doctrine, theory), vậy nếu dịch chữ Theravada là "Giáo Lý của các vị Thượng Tọa" hay của các vị "Trưởng Lão" thì không có nghĩa gì cả, nói cách khác là tiền ngữ thera trong chữ Theravada không có nghĩa là Thượng Tọa hay Trưởng Lão mà chỉ có nghĩa là "người xưa". Tóm lại phải hiểu toàn bộ chữ Theravada là "Giáo lý của những người xưa"
Trên thực tế Theravada chỉ xuất phát từ một trong số 18 học phái xưa mà thôi. Học phái này được đưa vào Tích lan vào thế kỷ thứ III trước Tây Lịch, và sau đó cũng đã phát triển và biến dạng không ít trước khi được chính thức "khai sinh" với cái tên gọi là Theravada vào thế kỷ thứ VII như đã nói trên. Thế nhưng tại sao lại nên gọi gia đình Phật Giáo này là Theravada? Dù rằng chỉ đại diện cho một học phái xưa thế nhưng ít ra tên gọi Theravada cũng phản ảnh phần nào nguồn gốc xưa của Phật Giáo trước khi Đại Thừa Phật Giáo (Mahayana) được chính thức hình thành vào thế kỷ thứ I sau Tây Lịch.
Đạo Phật du nhập vào Việt Nam thế kỷ đầu Tây lịch.Tại Việt Nam, ngoài Phật giáo Đại thừa, Phật Giáo Nam Tông có hai hệ phái chính: Phật Giáo Nam Tông Khmer và Phật Giáo Nam Tông người Kinh, cả hai chủ yếu được thịnh hành ở vùng Nam - Trung Bộ.
Chúng ta được biết:“Phật giáo Nam Tông được truyền vào Việt Nam theo con đường của các nhà truyền giáo từ Ấn Độ đi theo đường biển tới Tích Lan (Srilanca), Miến Điện (Myanma), Thái Lan tới vùng sông Mê Kông (Campuchia) và vào vùng các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long (phía Nam) của Việt Nam, được đông đảo người dân, đặc biệt là đồng bào dân tộc Khmer đón nhận, trở thành tôn giáo của người Khmer, do đó gọi là Phật giáo Nam Tông Khmer”...
Phật giáo nguyên thuỷ- Nam tông (Theravada) có bề dày lịch sử rất lâu đời, sự truyền thừa được các sử gia thừa nhận là không bị gián đoạn. Điểm ưu việt của nó là truyền bá đến quốc gia nào vẫn giữ được nét văn hoá Phật giáo đặc thù, mà những truyền thống khác rất hiếm có. Phật giáo nguyên thuỷ hiện nay có mặt ở những quốc gia: Tích Lan, Miến Điện, Thái Lan, Lào, Campuchia, Việt Nam, Anh, Mỹ, Ý, Úc, Mã Lai, Indonesia,Nepal, Ấn Độ v.v… Điểm đáng nói là tính thống nhất trong truyền thống Nguyên thuỷ, chư tăng tụng kinh bằng tiếng Pali và tiếng bản ngữ , tu hành y cứ theo thánh điển Pali, Tam y và bình bát là tài sản của bậc xuất gia, chỉ ăn ngày một buổi, không ăn phi thời. 
Miền Nam Việt Nam xưa kia là lãnh thổ của vương quốc  Phù Nam. Theo sử liệu của Trung Hoa vương quốc này thành lập khoảng thế kỹ 12 trước Công nguyên, nhưng theo những nhà khảo cổ Tây phương dựa vào bia ký khắc trên đá, vách thành đã được tìm thấy dưới lòng đất thì quốc gia này lập quốc thế kỷ thứ 1 sau công nguyên.  Nhưng vương quốc Phù Nam bị Chân Lạp xâm chiếm và tiêu diệt vào cuối thế kỷ thứ 6. Trên bản đồ,  Phù Nam không còn nữa. Trải qua năm tháng nhờ Việt Nam, triều Nguyễn, bảo hộ chống nội loạn và ngọai chiến nên vua Chân Lạp nhượng đất để đền ơn đáp nghĩa vào năm Đinh sửu (1759) .
Từ khi lập quốc đến thế kỷ thứ 6 sau Tây lịch do các vua chúa Phù Nam cai trị. Từ thế kỷ thứ 6 đến năm 1759 là các triều đại của vua chân lạp  . Năm Đinh Mão (1867) Pháp chiếm Miền Nam làm thuộc địa, để phân định hai quốc gia với lối cai trị khác nhau vị toàn quyền Pháp và quốc vương Campuchia ấn định lằn ranh giữa hai nước đồng ký vào bản nghị định ngày 9-7- 1870, do vậy Miền nam có mặt trên bản đồ thế giới dưới tên gọi do thực dân Pháp đặt ra Cochinchinne, gọi là Nam Kỳ . Năm 1945, chế độ thực Dân Pháp sụp đổ, Việt Nam Cộng Hòa ra đời danh từ Nam Kỳ đổi thành Miền Nam Việt Nam. Ngày 30-4-1975 chế độ Việt Nam Cộng Hòa không còn nữa, đất nước chúng ta thống nhất từ Ải Nam Quan đến mũi Cà Mau. Người Việt gốc khơme sống trong lãnh thổ Việt Nam cũng  được hưởng quyền tự do bình đẳng như người Việt Nam.
Ngày nay, những nhà khảo cổ  đã phát hiện những cổ vật, tháp, tượng Phật, thần ở Long An, Kiên Giang, Đồng Tháp Mười v.v… có niên đại 530, 400, 300 năm trước công nguyên . Điều đó cho chúng ta thấy rằng những địa điểm trên đã có một nền văn hóa thật sự văn minh và phát triển tại đây.
Đồng thời trong Mahàvamsa, lịch sử truyền bá của Phật giáo thì có nhắc đến phái đoàn truyền giáo sang xứ Suvannabhùmi của vua ASOKA vào thế kỷ thứ III trước công nguyên do hai vị A La Hán Sona và Uttara lãnh đạo. Các nhà sử học thật  khó khăn để thẩm định  ranh giới của địa danh Suvannabhùmi này ở đâu? Nhưng đa số cho rằng cả vùng Đông Nam Á. Cụ thể hơn ông Aymonier cho rằng Phù Nam là  Miền Nam Việt Nam hiện nay. Theo ông Abel Résumat Phù Nam là Miền Bắc Việt Nam .  Chính vì thế những quốc gia như Thái Lan, Miến Điện, Lào, Camphuchia và Việt Nam, lịch sử  Phật giáo những quốc gia này đều có ghi nhận là vào thế kỷ thứ III  truớc công nguyên phái đòan vua Asoka có truyền đạo đến đất nước của Mình. Từ đó chúng ta có thể đưa ra những kết quả niên đại Phật giáo du nhập vào Miền Nam Việt Nam." ( dienbatn tổng hợp các tư liệu )
* Các triều nhà Nguyễn ở miền Nam Việt Nam .
Chúa Nguyễn là cách gọi chung trong sử sách và dân gian về những nhà cai trị các vùng đất từ Thuận Hóa (phía nam đèo Ngang hiện nay) vào miền nam của Việt Nam, bắt đầu từ đầu giai đoạn Lê Trung Hưng của nhà Hậu Lê, hay giữa thế kỷ 16, cho đến khi bị nhà Tây Sơn tiêu diệt năm 1777. Các chúa Nguyễn là tiền thân của nhà Nguyễn, triều đại phong kiến cuối cùng của Việt Nam.
Năm 1527, Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê và lập ra nhà Mạc. Nguyễn Kim (1468-1545), vốn là một tướng giỏi của nhà Hậu Lê, nhờ có công giúp vua Lê chống lại nhà Mạc nên được phong chức Thái Sư Hưng Quốc Công, sau này khi nhà Nguyễn thống nhất đất nước đã truy tôn ông là Triệu tổ Tĩnh hoàng đế. Nguyễn Kim có ba người con. Con gái đầu tên Ngọc Bảo, lấy Trịnh Kiểm, người sau này trở thành vị chúa mở đầu cho sự nghiệp của các chúa Trịnh ở Đàng Ngoài; hai người con trai kế của Nguyễn Kim cũng là tướng giỏi và được phong chức Quận công. Sau khi người con trai lớn là Nguyễn Uông, bị anh rể là Trịnh Kiểm giết, người con trai còn lại là Nguyễn Hoàng đã xin vua Lê cho vào cai trị vùng đất Thuận Hóa để rời xa tầm ảnh hưởng của anh rể, nhằm mưu đồ tạo dựng cơ nghiệp riêng cho họ Nguyễn. Tổng cộng có chín chúa Nguyễn cai quản xứ Đàng Trong trong hơn 2 thế kỷ.
Nguyễn Hoàng (chữ Hán: 阮潢; 28 tháng 8 năm 1525 – 20 tháng 7 năm 1613) là người tiên phong trong việc mở rộng bờ cõi đất nước xuống phía nam, mở đầu cho việc hùng cứ phương nam của 9 chúa Nguyễn, tạo tiền đề cho việc thành lập vương triều nhà Nguyễn bao gồm 13 vua; nhưng cũng là người mở đầu cho cuộc chiến tranh Trịnh-Nguyễn sau này.
Để mở rộng bờ cõi, năm 1611 ông đã thực hiện cuộc Nam tiến đầu tiên sau khi trấn giữ Thuận Quảng. Tiến chiếm đất từ đèo Cù Mông (bắc Phú Yên) đến đèo Cả (bắc Khánh Hòa) của vương quốc Chăm Pa khi đó đã suy yếu rất nhiều, lập thành phủ Phú Yên gồm hai huyện Tuy Hòa và Đồng Xuân, giao cho Văn Phong trấn giữ.
Cho tới khi ông mất, giang sơn họ Nguyễn trải dài từ đèo Ngang, Hoành Sơn (nam Hà Tĩnh) qua đèo Hải Vân tới núi Đá Bia (Thạch Bi Sơn), gần đèo Cả, bây giờ là vùng cực nam Phú Yên, giáp tỉnh Khánh Hòa.
Trong khoảng thời gian 200 năm kể từ 1558 khi chúa Tiên Nguyễn Hoàng được vua Lê cử cai quản đất Thuận Hóa và sau đó là Quảng Nam. Với những công trình khẩn hoang của mình, chúa đã làm cho hai xứ Thuận Quảng từ một vùng đất hoang sơ lạc hậu, nhanh chóng trở thành một khu vực kinh tế phát triển.
Cho đến năm 1757, khi chúa Võ Nguyễn Phúc Khoát tổ chức hành chánh hoàn tất vùng Nam bộ thì cương vực và lãnh thổ Việt Nam đã tăng gấp đôi.
Với sự mở đầu ra đi của chúa Nguyễn Hoàng, và kế tục là các đời chúa con cháu của ngài, đất nước đã tiếp thụ một nguồn của cải mới, đó là cả một vùng đất phía Nam giàu có, là các cuộc giao thương cường thịnh với các trung tâm thương mại mới: Hội An; Nông Nại Đại Phố, Gia Định, Bến Nghé, Hà Tiên... là các tri thức mới khi tiếp cận ở nhiều dân tộc phương Nam hay đến từ phương Nam. 
Theo chân những đoàn quân của các Chúa Nguyễn, những nhà truyền giáo, các Pháp sư, Phù thủy từ miền Bắc Việt Nam mang theo những bí thuật Huyền môn của mình kết hợp với Huyền môn bản địa mà tạo ra những trang sử huy hoàng của giới Huyền môn Việt Nam.
Xin coi tiếp bài 24 - dienbatn.
Xem chi tiết…

LƯỢC KHẢO VỀ CÁC HỆ PHÁI HUYỀN MÔN NAM TÔNG. BÀI 22.

6/30/2014 |
LƯỢC KHẢO VỀ CÁC HỆ PHÁI HUYỀN MÔN NAM TÔNG. 
PHẦN 2.NHỮNG HỆ PHÁI CƠ BẢN CỦA HUYỀN MÔN NAM TÔNG.
TRUY TÌM NGUỒN GỐC PHẬT QUYỀN.
CẢNH BÁO : Các tài liệu trong loạt bài này các bạn không nên tự luyện tập nếu không có chân sư hướng dẫn. dienbatn không chịu trách nhiệm về hành vi tự ý luyện tập của các bạn nếu có hậu quả đáng tiếc. dienbatn.
Đôi lời bày tỏ :  dienbatn vừa nhận được một lá thư của một bạn đọc như sau : 
THẤT SƠN PHẬT QUYỀN
Con xin nói sơ qua về môn phái của con 
Môn phái của con có tên là thần quyền .Con thấy sư phụ thờ phật thích ca ,Sư phụ của con ở gia lai .con có hỏi sư phụ học võ này từ đầu thì sư phụ nói gần 40 năm trước ông ấy học ở trên núi bà đen tây ninh
Môn võ của con khi nhập môn thì thầy dùng nhang khoán vào người và cho con uống 1 ly nước trong ly nước có 1 bông hoa đc lấy trên bàn thờ phật thả vào .Khi nhập môn xong thì thầy  xin trên cho đệ tử 1 hiệu pháp .Hiệu pháp đấy nằm trong 14 câu kinh riêng trong sách của thầy ,mỗi người 1 hiệu pháp khác nhau .Nhập môn xong đệ tử đọc câu hiệu pháp ấy ,tùy từng người mà có người đánh đc ngay hay ko ,nhưng đa phần là ko đánh được ngay ,100 người thì may ra có 1 người ra quyền ngay .người đó phải thật khỏe và thần kinh cực tốt mới đc như vậy .,còn đa số là yếu cái gì thì ông độ mạng cho tập cái đấy trước ,rất nhiều người phải xoay tròn để luyện thần kinh ,con xoay tròn mất vài tháng mới bung quyền được .Khi bung quyền thì thầy gọi vào làm lễ Hàn dầu .Trước khi làm lễ hàn dầu thì đệ tử ăn chay 7 ngày để khi thầy chém vào người ko bị chảy máu ,thầy chém 18 nhát vào người ,sau đó lấy dầu thơm + rượu đổ lên người đệ tử và 3 ngày sau ko đc tắm .Khi hàn dầu thầy cho đệ tử đọc quyền gồng ( hô hô sô sô mô mô ) và từ đó đệ tử bắt đầu có thể luyện pháp .Bên con luyện pháp theo cữ 21,49 hoặc 100 ngày ,khi luyện pháp đệ tử ăn chay hoàn toàn .Con nghe sư phụ nói là có 72 bộ pháp
Trong đó có những pháp như :
+ Ấn tướng ( dùng chú để luyện ấn ,con tìm hiểu về cách luyện ấn của các môn phái những k môn nào giống môn con cả ,bên con luyện ấn thì có 1 cái gương ghi 9 chữ phạn ,đó là chú  chuẩn đề ,trước gương để 1 cái đèn dầu ( gọi là hỏa tam muội ),khi đệ tử luyện thì phóng ấn vào đấy ,và khi dùng thì phải có chú để mở ấn ,dùng xong  muốn thu ấn về thì thu liên tục trong 7 ngày)
+ Pháp gồng bay -> hay còn gọi là khinh công
+ pháp ngũ lôi thần gồng 
+ và rất nhiều pháp nữa ....
Đường quyền của môn phái con khác những môn phái khác ,đường quyền bên con rất dẻo
Đây là 1 bài kệ nằm trong sách của thầy mỗi khi giỗ tổ thường mang ra đọc,video con gửi là đệ tử của thầy con ở gia lai
https://www.youtube.com/watch?v=UPuvHHWS3e4 "


Để trả lời câu hỏi này thực sự không dễ đối với những nghiên cứu của dienbatn . Tuy nhiên là người xuất phát từ giới Huyền môn Tây Ninh ( Điện Bà Tây Ninh ), ngày xưa dienbatn cũng nghe các Thày bàn luận sơ qua về việc này, cộng thêm nghiên cứu những năm gần đây, xin chia sẻ cùng các bạn về những hiểu biết ít ỏi về Phật quyền đang âm thầm tồn tại trong giới võ lâm đất Việt. Những nghiên cứu này còn quá ít ỏi đơn sơ và không tránh khỏi những thiếu sót. Xin các cao minh bổ xung giúp cho hoàn thiện, dienbatn cảm tạ lắm thay. Nay kính. dienbatn.
Ngày xưa, dienbatn được nghe Thày Bảy ( Tây Ninh ) và Thày Hoàng Giáo ( Bến Tre ) nói về một câu chú cúng dường  Thất Phật :
Nam mô Đa Bảo Như Lai .
Nam mô Bảo Thắng Như Lai .
Nam mô Diệu Sắc Thân Như Lai .
Nam mô Quảng Bác Thân Như Lai .
Nam mô Ly Bố Úy Như Lai .
Nam mô Cam Lộ Vương Như Lai .
Nam mô A Di Đà Như Lai .
Đây là một câu chú dùng khi cúng dường chư Phật.
Trong đó : 
Nam mô Đa Bảo Như Lai. 
Nghe đến danh của Đức Đa Bảo Như Lai, thì có thể đắc trí-huệ-tài-bửu của pháp tánh mà thụ dụng không hết, vì là của sẵn trong tự tánh.


Nam mô Bảo Thắng Như Lai
Nghe danh của Đức Bảo Thắng Như Lai, hay dứt trừ được lửa nghiệp phiền não sanh tử, liền đắc cái trí bửu pháp tánh bực vô thượng.

Nam mô Diệu Sắc Thân Như Lai
Nghe danh của Đức Diệu Sắc Thân Như Lai, hay đặng cái thân tướng hảo đoan nghiêm bực nhứt giữa tam giới, tức kinh Pháp Hoa bảo:"Vi diệu tịnh pháp thân, cụ túc tam thập nhị"

Nam mô Quảng Bác Thân Như Lai
Nghe danh Đức Quảng Bác Thân Như Lai, thì đặng tiêu được lửa nghiệp, cuống họng mở thông mà đặng cái thân thanh lương vô ngại.


Nam mô Ly Bố Úy Như Lai 
Nghe danh Đức Ly Bố Úy Như Lai, thì xa lìa các điều sợ sệt, thường đắc mọi sự khoái lạc thanh tịnh.

Nam mô Cam Lộ Vương Như Lai
Nghe danh Đức Cam Lộ Vương Như Lai, thì năng đắc mùi vị cam lộ rót vào thân tâm hằng được an vui khoái lạc.


Nam mô A Di Đà Như Lai
Nghe danh Đức A Di Đà Như Lai, thì được đắc sanh sang thế giới Tây Phương Cực Lạc, do liên hoa hóa sanh vào bực bất thối chuyển.

Nghe danh Đức A Di Đà Như Lai, thì được đắc sanh sang thế giới Tây Phương Cực Lạc, do liên hoa hóa sanh vào bực bất thối chuyển.
Ngàn tướng tốt đoan nghiêm mầu nhiệm
Trải tăng kỳ số kiếp chân tu
Mặt sáng tợ trăng tròn, mắt đẹp như sen
Khắp cõi Trời, Người đều cung kính
Một lòng lễ lạy Ðức tướng Như Lai
Ngợi khen mãi vẫn không sao cùng tận
Bảy vị Phật nói trên nếu chúng sinh nào được nghe tên cùng thấy thân thì phải biết người đó có phước đức trí tuệ rộng lớn và chúng sinh đó sẽ được lợi lạc như đã nói trong đời đời kiếp kiếp.
Khi tụng danh hiệu của bảy Đức Như Lai, phải tưởng những tiếng tâm niệm Phật khắp nghe cả thế giới,tất cả chúng sanh đều quỳ gối chấp tay chí tâm lòng nghe tin chịu, một phen lọt vào tai, vẫn làm một hột giống Phật, liền có thể vĩnh viễn xa lìa khổ đau sanh tử của 3 đường ác , đắc vãng sanh về nước Cực Lạc, do hoa sen hóa sanh.
Kinh Niết Bàn nói:"Nghe được hai chữ "Thường Trú", vẫn chẳng đọa địa ngục". Huống chi được nghe cả Hồng Danh vạn đức của Như Lai ư?
Kinh Hoa Nghiêm nói:"Rất đổi như người nghe danh của Như Lai, và nghe được cái pháp sở thuyết, mà chẳng sanh tâm tin hiểu đó, cũng còn được tập thành hạt giống Phật, thì sẽ được thành Phật. Nay mà nghe được danh của đức Phật, đều được vô lượng công đức, chẳng thể nghỉ bàn".
Đọc đến đây chắc các bạn sẽ hỏi : Vậy Thất Phật có liên quan gì đến Thất Sơn Thần quyền và Phật quyền ?
Xin các bạn  cứ từ từ đọc tiếp những phần sau . Người Hà Nội có câu : " Hà Nội không vội được đâu " và " Từ từ thì khoai cũng như ". Lịch sử của Thất Sơn Thần quyền và Phật quyền có một quá trình lâu dài, do các vị Thày muốn hùng cứ một phương , bày đặt ra nhiều tên gọi và copy and past của nhiều môn phái nên thông thường quên luôn cái nguồn gốc xuất xứ đích thực của môn phái mình. Thời gian cứ thế phủ bụi lên những trang lịch sử hào hùng của võ học và cuối cùng hiện thực như này hôm nay chúng ta nghe thấy chỉ là ...những truyền thuyết.
Một bài viết của một tác giả ( dienbatn chưa tìm được nguồn ) ,theo dienbatn đánh giá là một vị có hiểu biết rất sâu về võ học đã viết : 
"  Tôi chỉ là kẻ hậu sanh ,lớn lên may mắn tôi đả từng sống bên cạnh những bạn bè thân hữu cũng là những người chuyên tập luyện môn vỏ thần bí này. Dù đó chỉ là những người quê mùa chất phát nhưng họ cũng có những kinh nghiệm trong học tập và chịu khó luyện tập cuối cùng đả đạt được những kết quả như ý muốn .Hôm nay mình xin cống hiến chia sẻ dài cảm nhận về môn phái võ thần này cùng các bạn nhé...
Không thể đem những kiến thức hèn mọn của mình để bình luận với các bậc sư phụ ,cùng các nhà tâm linh học đang lừng lẫy trên các diễn đàn mà tôi đả từng xem qua, tôi chỉ nói theo những gì đả có thật trong đời này.
Thần quyền còn gọi là võ BÙA gì nó được hình thành từ các môn phái Bùa mà ra ,cùng có chung tổ nghiệp ,cùng thờ Phật Trời và các vị sư tổ như : XIÊM ,CHÀ, LỤC ,LÈO ,MỌI , tuy cách thờ cúng và hành lễ có khác nhau đôi chút. võThần quyền có rất nhiều phái khác nhau như : Phật võ ,chư vị 5 ông , chư vị Xiêm , chư vị Thất Sơn , bùa Miên , Mội, Lèo , bùa Mẹ Sanh , bùa 3 ông ....
Các môn phái này chủ yếu là để tự vệ ,không được đánh người ,không được ngạo mạn ỷ lại hiếp đáp người cô thế .Luật của các phái cũng hết sức nghiêm minh ,ai vào thọ giáo phải đứng trước tổ thầy đọc 10 lời thề về giử gìn đạo đức và tôn kính Trời Phật Thánh Thần , rất nguy hiểm khi có đệ tử nào vi phạm thì khó tránh khỏi kiếp nạn do chính mình chọn ra. Ngoài ra còn phải kiêng cử trong ăn uống tuỳ theo môn phái bùa có quy định, như : Chó ,Trâu ,Mèo là phải kỵ tuyệt đối , còn nhiều thứ khác phải kiêng kỵ tuỳ theo môn phái của mình.
Các môn phái võ này khi nhận đệ tử vào nhập môn thì các sư thường hoạ bùa gồng rồi dùng dao chém 9 nhát ,trên đầu 3 nhát ,lưng và ngực điều 3 nhát ,sau đó làm lễ cúng ra mắt tổ nghiệp và thề nguyện trước tổ .rồi cho đệ tử uống bùa để bùa dẫn vào huyết quản , tâm nảo ,rồi khi bùa đả thật sự ngự trị trong cơ thể thì sư sẻ trục cho bùa chuyễn động hay gọi là tổ nhập vào xác.
Trong võ thần sự nhập xác có khác với các ông Đồng bà Cốt ,gì họ được nhập vào từ các vong linh hay các vị Thần nào đó trong cỏi tâm linh ,còn võ Thần được nhập vào bởi bùa ngãi sai khiến và chuyễn động. Rồi sẻ có các vị tổ nhập vào xác khi luyện tập ,theo thời gian khổ luyện các vị tổ sẻ về theo rất nhiều ,mổi khi luyện tập có ta có thể cầu tên từng vị về để tập ,như : mẹ sóc ,núm na prum ,hê sa sap,nô tho ngan, bi ly.,ông hai ông ba ,ông câm ,và các vị thần Á Rặc ,v ..v.....
Trong tam thập lục tổ còn có 5 chư vị sư Hắc Hổ ,Bạch Hổ ,Thái sơn lâm ,12 vị tiên sư , môn phái bùa Ngọc xích Lỗ Ban cũng có sử dụng vỏ thần quyền nhưng chỉ dùng chú cầu Phật tổ và Thái thượng Lảo Quân , hay môn phái Lục tổ Thần công cùa chánh nhất pháp sư ở Nam hải có 3 vị thánh tổ : Bi Li .Nu Sê , Nha Bên , cũng vừa làm các việc bùa phép giúp đời vừa tập võ. Ngoài ra còn các môn phật quyền xuất sứ từ bên Cao Miên cũng có những vị thần vừa chửa bệnh cứu người vừa đánh võ.
Trong tất cả các phái võ bùa nếu muốn giỏi thì ngoài luyện tập các quyền thế hàng đêm các đệ tử phải học thêm các kỷ thuật huyền bí khác như : luyện bùa gồng , bùa án ,bùa khoán sân ,bùa hạ đối thủ ,bùa chỉ dao ,bùa chỉ cây ,và nhất là các câu chú để trừ các môn phái bùa khác khi đối nhau ..quá trình luyện cũng gian nan như luyện tập các môn phái bùa phép khác, chỉ cần sai xót gì đó thì sẻ bị ''tẩu hoả nhập ma'' ngay mà khó có thể giải được .Do vậy nên các đệ tử phải có sự hướng dẩn trực tiếp của các sư mới thành công được.
Trong võ Thần quyền họ có lợi thế là lúc giao đấu họ không cần phải sử dụng tâm trí tự nhiên của mình,mà tất cả các động tác điều phải do các linh hồn trong cõi khác điều khiển.Các bài múa quyền cũng rất đơn giản,không đẹp và bài bản như trong võ khác ngoài đời,tuy đòn thế co uy lực ,nhưng người đệ tử sẻ rất mệt sau mổi lần tập luyện gì họ luôn phải chuyễn động hết gân lực của mình khi bùa nhập vào người.
Sau thời gian dài công phu luyện tập các đệ tử có thể ra sân múa những bài quyền giống như các võ khác ngoài đời, nhưng không ai đánh giống ai ,là do mỗi vị tổ có lối đánh của mình nhập vào đệ tử. Sức mạnh cũng tăng dần lên ,nổi bậc những gân cốt cuồn cuộn ,hơi thở cũng mạnh hơn ,và phát ra những âm thanh của tiếng âm rất lạ,giống như một môn khí công thực sự nhuần nhuyễn ,mặc dù những người này chưa hề biết qua chút gì về vỏ thuật cả. Đó là điều kỳ lạ làm ngở ngàn bao nhiêu người khi lần đầu chứng kiến cảnh tượng này.Trong luyện tập có một số môn có đối luyện với nhau ,nhưng cũng có môn gì sợ mức độ nguy hiểm nên thường là chỉ tự tập một mình, và đến khi cảm thấy đả đạt được 1 trình độ nào đó thì đệ tử sẻ múa quyền và ra đòn thế để chống đở với các vật dụng như : cây ,gạch ,đất , ghế đẩu , do các đệ tử đứng bên ngoài ném vào.
Có những môn phái khi đánh đệ tử không hay biết gì cả ,họ không làm chủ được bản thân họ có thể bay nhảy rất cao và có khi đánh thẳng vào cây cối tay chân rướm máu mà không hề đau đớn, nhưng cũng có môn phái khi đánh họ biết hết các việc xung quanh và làm chủ được bản thân , nếu cần họ liền xử dụng ngay các bùa chú khác kèm theo cùng một lúc như bùa tôm sân ,khoán cho địch thủ cuồng chân ,hoạ bùa đánh huyệt , rồi thần chú đá ,chú lộn ,chú trói địch thủ , cầu tăng sức mạnh và quan trọng là chú hạ địch thủ... thật vô cùng huyền bí.
Trong các phép thần quyền người học cũng nhiều nhưng bỏ cuộc nửa chừng thì cũng không ít ,bởi do không tuân theo nổi các lời thề ,không chịu khó luyện tập ,hay có số đệ tử chỉ học sơ cấp đả ra đời kêu căn ỷ lại rồi đi đánh nhau làm mất hết uy tính của môn phái mình .Các môn phái vỏ Thần cũng giống như vỏ ngoài đời khi vào học cho đến khi xuất sư đệ tử sẻ phải qua rất nhiều thử thách gian khổ, các sư luôn theo dõi từng đệ tử ,mặc dù trước khi nhập môn họ đả xem qua một lần rồi ,mặc dù vậy cũng không sau tránh khỏi cảnh lừa thầy phản bạn.
Khi các đệ tử nhập môn được một thời gian dài tháng thì sư sẻ truyền dạy cấp cho luyện tổ 4 mặt ,và cấp cho ấn Trắng gọi là sơ cấp. Sau đó là luyện tổ 8 mặt và nhận ấn Vàng ,cuối cùng luyện tổ 12 mặt là đến lúc xuất sư cũng là ngày nhận ấn Đỏ .
Trong thời gian học đó các đệ tử phải học qua Bát diện ,Tứ diện ,và thông suốt các bùa chú cần thiết của môn võ. Nhưng cũng có môn phái chỉ cấp ấn vàng hay ấn đỏ là xong một chương trình học.
Nhưng dù là ở môn phái nào đi nửa thì các đệ tử điều phải có học qua Phật tổ Phật thầy , Tam thập lục Tổ , Mẹ sanh mẹ Lục ,Mội tổ,Xiêm tổ ,Chà tổ ,12 vị Thần Chăm ,tổ Lục giây , tổ Lèo và cùng sư tổ Đạt Ma .Sư tổ Đạt Ma tuy là tổ của vỏ Thiếu Lâm ,nhưng tu luyện đắc quả thành Phật nên các môn phái bùa Lỗ Ban vẫn thờ phụng và là vị tổ của nhiều môn phái khác.
Tất cả các môn phái võ thần ngày nay họ chỉ hoạt động riêng rẽ kh6ng có tổ chức nào liên kết với nhau ,nhiều khi rộ lên tưng bừng rồi cũng im lìm rồi không còn nghe thấy nữa ,có những dịp ta hành hương về các vùng núi Châu Đốc hay Tây Ninh thỉnh thoản sẻ gặp được các sư này cũng ở các tỉnh khác về đây để cúng bái .Họ tụ tập lại và trao đổi lẫn nhau về môn phái của mình về các kinh nghiệm và đàm luận những những chuyện xa gần của trời đất, nhưng đó là những cơ hội hiếm hoi lắm...
Trên đây là những gì tôi biết và đả từng nghe thấy , xin chia sẻ cùng bạn bè gần xa để chúng ta cùng tham khảo .Đây chỉ là thế giới tâm linh không có gì làm biện chứng , rất mong các bạn cảm thông mà cho ý kiến những gì sai sót xin cám ơn.
Một đoạn tài liệu khác mà dienbatn quên mất nguồn có viết như sau : 
Trong Mật tông có hai ngành là võ Phật và văn Phật. Kinh MTTHYL trang 7 có nói về lá Thiên thơ được các sư hàng lục cả dùng để trao truyền tâm pháp gọi là Phép Phật hay võ Phật. Võ Phật là chuyên về luyện bùa phép và học thần quyền chứ không biết gì về đạo pháp. Văn Phật là học về đạo lý của đời sống và của siêu hình bao gồm chuyện thiên cơ. 
Tại những nước Đông Nam Á phần lớn người học huyền bí đều là môn sinh của Võ Phật vì ít người học được văn Phật. Mặc dù có nhiều tông phái huyền bí với nhiều danh xưng khác nhau nhưng tựu chung vẩn phải có lễ điểm đạo, cúng Phật, cúng thần, cúng tổ, uống một lá linh phù, và chắp tay đọc một câu thần chú. Tông phái huyền bí thì có rất nhiều phù và rất nhiều thần chú cho nên khi xuất sư những môn sinh cũng chọn 1 lá phù và 1 câu thần chú nào đó để truyền lại, do đó mà thấy có cả trăm tông phái mà căn bản đều thuộc về Mật tông, đều xuất xứ từ bùa Thái Lan, không thì là bùa Cao miên hay Lào. Huyền bí của Miến Điện và Nam Dương thì ít ai học vì nó ở xa nước Việt Nam hơn, nhưng nó cũng không khác gì với của Thái Lan, Cao Miên hay Lào. 
Mỗi tông phái đều có lời thề riêng tuy có thêm thắt cho khác nhau nhưng chánh yếu vẫn là phải giữ luật công bằng và không hiếu sát. Những bộ môn thần quyền có lẽ do các tông phái huyền bí từ Trung Hoa hay Ấn Độ truyền sang từ xưa. Đó là bộ môn do thiên đình bí truyền cho nhân gian để chứng minh sự hiện diện của thánh thần, mà các võ sư bậc thầy ở dưới đất khi nhìn thấy thần quyền biểu diễn cũng phải trầm trồ bái phục. "
Trong bài khấn trước Tổ của một chi phái Phật quyền nhánh thờ Phật Mẫu Chuẩn Đề có những câu như sau :
" Nam mô cung vọng kính thỉnh đức Ngọc Hoàng Thượng Đế .
Nam mô bổ sư Thích ca mâu ni Phật.
Nam mô A Di Đà Phật.
Hôm nay ...ngày    tháng   năm , chúng con ...
Xin cúng dường 10 phương chư Phật, chư đại Bồ tát cùng các hàng cấp Phật.
Đệ tử chúng con xin cúi đầu kính lễ :
* Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế.
* Tất cả các chư Phật 3 đời tột hư không khắp pháp giới.
* Chánh pháp 3 đời tột hư không khắp pháp giới.
* Phật hiện tại Thích Ca Mâu Ni.
* Vị lai Di Lặc tôn Phật.
* Tây phương cực lạc đại từ đại bi A Di Đà Phật.
*Kính lễ Phật Thày.
* Kính lễ Phật Quán thế âm Bồ tát.
* Kính lễ Phật Bồ tát Đại Phổ Hiền.
Kính lễ Phật Bồ tát Đại Thế Chí .
Kính lễ Phật Bồ tát Đại Chuẩn Đề.
* Kính lễ Phật 5 ông.
* Kính lễ Phật 7 ông.
* Kính lễ Phật 9 ông.
* Bồ tát Tôn giả Mục Kiền Liên.
* Đức U minh Giáo chủ Địa Tạng Vương Bồ tát,
* Tổ sư Đại Ca Diếp.
* Tổ sư A Nan.
* Tổ sư Bồ Đề Đạt ma.
* Các Thày, Tổ dưới hình bóng Phật vi vô Pháp, vi vô trường.
* Chư Thiên Long Thần hộ mạng ở khắp 10 phương.
*Kính xin các hàng cấp Phật chư Thiên độ mạng, chư vị ngũ hành độ Pháp...."
Một người bạn lâu năm của dienbatn ở Bến Tre là Thày Hoàng Giáo cũng nói về sự liên quan giữa 7 luân xa và 7 vị Phật như sau : 
" 1. Luân xa thứ Nhất: Muladhara chakra (sanskrit). Vị trí nằm giữa hậu môn và bộ phận sinh dục, tương đương với huyệt Hội Âm là hội hiệp các âm linh của châm cứu học. Nó được biểu hiện bằng một bông sen bốn cánh màu đỏ, chủng tự tiếng sanskrit của nó là LAM. Luồng hỏa hầu Kundalini nằm phục ở đây. khi thành tựu phép quán tưởng luân xa này, sẽ làm chủ được địa đại, tiêu trừ nghiệp quá khứ, biết được ba thời quá khứ, hiện tại, vị lai, thọ hưởng niềm hoan lạc tự nhiên.
Ở đây Ngài A Di Đà làm chưởng Quản tiếp dẫn những giác linh, chơn linh, hương linh, vong linh về cảnh giới của Ngài, ngài cho xuất gia, đó là
1. Xuất thế tục gia.
2. Xuất phiền não gia.
3. Xuất tam giới gia. ) Dục giới, sắc giới,vô sắc giới
Dục giới => là nơi đường tiểu khởi dâm dục, dục vọng ( xuất bỏ )
Sắc giới  => là nơi Hội Âm có rất nhiều âm linh quy tụ về có nhiều màu sắc gọi là Sắc giới. ( xuất bỏ )
Vô Sắc Giới => là Hậu môn còn gọi là Cốc Đạo, nếu ai luyện đến thượng thì khi đóng cửa Cốc Đạo kêu lên tiếng cốc hay rắc đó gọi là thoát được vô sắc giới. ( xuất bỏ )
Và cuối cùng là Xuất Tam Bảo Gia => là Tinh Khí Thần, Phật Pháp Tăng, Tam Bảo của Thế Gian chúng ta bỏ hết thì mới thấy Đạo, lúc nầy chúng ta chứng quả thượng thừa của tầng một nầy lảnh sắc lệnh lên tầng thứ hai.
2. Luân xa thứ Hai: Svadhisthana chakra. Vị trí nằm dưới rốn chừng bốn ngón tay, tương đương với huyệt Đan Điền , biểu hiện bằng bông sen sáu cánh màu cam, chủng tự là VAM. Thành tựu phép quán tưởng luân xa này sẽ làm chủ được thủy đại và các giác quan, biết được cảnh Trung giới (monde astral).
Chưởng quản ở đây là ngài Cam Lồ Vương Như Lai, khi chúng ta đến cảnh giới nầy thì chúng ta sẽ được học phép thắng tất cả: Tham ái, giận hờn, ngã mạn, ganh tỵ và các phiền não khác đều được tiêu trừ. Vượt thoát tử thầncủa các cõi. lúc nầy chúng ta chứng quả thượng thừa của tầng hai nầy lảnh sắc lệnh lên tầng thứ ba
3. Luân xa thứ Ba: Manipura chakra. Vị trí ở giữa rốn tương đương với huyệt Thần khuyết. Biểu hiện bằng bông sen mười cánh màu vàng, chủng tự là RAM. Chưởng quản ở đây là Ngài Ly Bố Úy Như Lai, ở đây Chúng ta học phép thành tựu phép làm chủ hỏa đại, không còn sợ lửa thiêu đốt, hoàn toàn thoát khỏi ngũ hành kim mộc thủy hỏa thổ. lúc nầy chúng ta chứng quả thượng thừa của tầng ba nầy lảnh sắc lệnh lên tầng thứ tư
4. Luân xa thứ Tư: Anahata chakra. Vị trí ở giữa ngực, tương đương với huyệt Ðản trung. Biểu hiện bằng bông sen mười hai cánh màu xanh lá cây, chủng tự là YAM. Chưởng quản ở đây là Ngài Quảng Bác Thân Như Lai, ở đây ngài dạy chúng ta học phép Thành tựu làm chủ phong đại, tùy ý bay lượn trong không gian hoặc chui nhập vào thân người khác, đầy đủ đức tính của chư thiên và tình thương vũ trụ. lúc nầy chúng ta chứng quả thượng thừa của tầng bốn nầy lảnh sắc lệnh lên tầng thứ năm
5. Luân xa thứ Năm: Visuddha chakra. Vị trí ở ngay dưới cổ, tương đương với huyệt Thiên đột. Biểu hiện bằng bông sen mười sáu cánh màu xanh da trời. Chủng tự là HAM. Chưởng quản ở đây là ngài Diệu Sắc Thân Như Lai, ở đây chúng ta được học phép Thành tựu làm chủ không đại, thân thể không bao giờ tàn hoại, ngay cả khi thế gian bị tiêu diệt, đạt được trí huệ thông suốt tất cả kinh điển vô tự và ba thời: quá khứ, hiện tại, vị lai. lúc nầy chúng ta chứng quả thượng thừa của tầng năm nầy lảnh sắc lệnh lên tầng thứ sáu
6. Luân xa thứ Sáu: Ajna chakra. Vị trí ở giữa hai chân mày nơi mà huyền môn thường gọi là con mắt thứ ba, tương đương với huyệt Ấn đường. Biểu hiện là bông sen hai cánh màu xanh nước biển, chủng tự là A. Chưởng quản ở đây là Ngài Bảo Thắng Như Lai ở đây chúng ta được học phép trở thành người hoàn toàn giải thoát liền đắc cái trí bửu pháp tánh bực vô thượng. lúc nầy chúng ta chứng quả thượng thừa của tầng sáu nầy lảnh sắc lệnh lên tầng thứ bảy
7. Luân xa thứ Bảy: Sahasrara chakra. Vị trí ngay trên đỉnh đầu, tương đương với huyệt Bách hội. Biểu hiện bằng bông sen ngàn cánh màu tím, trắng, vàng. Chủng tự là OM. Khi luồng hoả hầu Kundalini chạy lên tới đây, Chưởng quản ở đây là Ngài Đa Bảo Như Lai , ở đây chúng ta được học phép trở thành một bậc giác ngộ giải thoát hoàn toàn. Hòa đồng Vũ Trụ gọi là Đạo. lúc nầy chúng ta chứng quả thượng thừa của tầng bảy nầy lảnh sắc lệnh ra ngoại Càn Khôn Vũ Trụ
Thâu hút năng lượng trong vũ trụ thiên nhiên rồi phát ra nuôi dưỡng các thân (thô và tế). Nơi người khỏe mạnh bình thường, bảy luân xa này đều hoạt động đúng mức, không nhanh không chậm, không nghẽn tắc. đó mới gọi là Đạo Giáo Thiên Đồng".



ĐẠO Giáo thông Thiên Vũ Trụ đồng
GIÁO duyên Phàm Thánh sánh Hư Không
THIÊN ban Sắc Lệnh Vũ Trụ thống
ĐỒNG Danh Đồng Hiệu với Hư Không.
Hòa Nam Thánh Chúng => Lúc nầy ra khỏi nội Vũ Trụ,
hòa đồng ngoại Vũ Trụ của Ngài Chánh Pháp Minh Như Lai.
Chú Ý: trong bảy tầng Như Lai nầy đều có Ấn Sắc lệnh và Chơn Ngôn của mỗi như lai.
Đây chính là 7 tầng Như Lai và là căn để của lý luận võ học.

Xin xem tiếp bài 23- dienbatn .
Xem chi tiết…

THỐNG KÊ TRUY CẬP

LỊCH ÂM DƯƠNG

NHẮN TIN NHANH

Tên

Email *

Thông báo *