SỬ DỤNG MẬT CHÚ MẬT TÔNG TRONG PHONG THỦY . BÀI 2.

11/13/2016 |
SỬ DỤNG MẬT CHÚ MẬT TÔNG TRONG PHONG THỦY  .
1. SƠ LƯỢC MỘT SỐ PHÁP TRONG ĐẠO PHÁP TIÊN GIA ĐƯỢC SỬ DỤNG TRONG PHONG THỦY.
 ( Tài liệu do dienbatn sưu tầm và sắp xếp lại - Do quá lâu ngày nên không còn nguồn dẫn - Xin các tác giả cảm thông.dienbatn ).

1/ NGHIÊN CỨU BÙA CHÚ .
"Trong chúng ta ít nhiều đều có nghe qua về bùa phép, ngải nghệ v.v….. Kẻ tin, người không, có người cũng đã từng xài qua ! Mà về bùa ngải thì rất nhiều môn nhiều phái, bùa Xiêm, bùa Lèo, bùa Miên, bùa Mọi (tổ phù thủy 3 đầu lâu của Thượng cao nguyên Việt Nam) bùa Lỗ Ban v.v…
 Từ thời hồng hoang, thiên địa sơ khai, đức Hồng Quân Lão Tổ (hoá thân của Ngọc Hoàng Thượng Đế) dạy ra ba vị đệ tử :
1) Thái Thượng Lão Quân-  2) Ngươn Thủy Thiên Tôn-  3) Cửu Thiên Huyền Nữ
Tam vị này mà người học phép thuật ở Việt Nam ta thường gọi là Tam vị thánh Tổ. Những vị này đều do tiên thiên khí hoá, chẳng phải nhân thần (từ người hiển thần như Đức Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trung Trực v.v…). Đức Thái Thượng Lão Quân chưởng quản Thái Thanh Cung, Đức Ngươn Thủy Thiên Tôn chưởng quản Ngọc Thanh Cung và Đức Cửu Thiên Huyền Nữ coi sóc Bồng Lai Cung cùng nhau giáo hoá chư thần tiên bát bộ .
Bùa phép do chư Tổ, chư Thầy truyền xuống dân gian  . Lúc đó thiên hạ đều biết qua như một dạng Đạo hạnh tu tiên , luyện đan của các đạo sĩ mà tuỳ theo từng vùng mà có tên gọi khác nhau …… có vùng gọi là Mao sơn thuật, có kẻ gọi Phù lục pháp, có người được Thần Tiên ấn chứng vì hữu duyên ,đắc đạo cho là Vạn pháp qui tông pháp v.v…… Thực sự  đó là các Đạo phái Tiên gia, có cùng 1 gốc với Tiên thiên Thần giáo bên Tàu hiện nay, căn bản là tích tinh, dưỡng khí, tồn thần, trì niệm thần chú, quán tưởng linh phù, luyện qua nhiều giai đoạn.
1)- Dòm đèn cầy – 2)- Dòm nhang – 3)- Dòm mặt trời – 4)- Dòm mặt trăng – 5)- Dòm sấm chớp
Muốn xuất sư ra làm Thầy hành giả cần phải có công phu tu tập tinh tấn như vậy trong 3 năm, mới đủ công năng và luyện tâm (sức định) bền vững, nguội lạnh đạm bạc cùng danh lợi, nếu không hậu quả khó lường, vì một số thầy bùa làm việc không phải, do danh, lợi, tình mà dùng phù phép ếm đối thiên hạ, nên con sâu làm rầu nồi canh, khiến dân gian có cái nhìn sai lệch về đạo thuật này." ( Thày Sương mãn Thiên ).
Bùa chú đặt ra cho con người hiện đại một câu hỏi lớn luôn day dứt và cho tới nay cũng chưa có lời giải thích thỏa đáng : Bùa , Chú có thật hay không ? Bùa , Chú có linh ứng như người đời thường đồn đoán hay không ? 
Sự tồn tại lâu dài , dai đẳng của Bùa , Chú  khắp nơi trên trên quả Địa cầu này và những kiến thức hàng ngày ta được dạy dỗ trong " Thế giới văn minh " thường là có sự trái ngược rõ rệt . Chúng ta thường xuyên được dạy rằng : Phải dùng kiến thức Khoa học , dùng trí tính và lý tính của mình để giải thích thế giới xung quanh . Ngược lại , đối với Bùa , Chú , chúng ta dường như đi vào một thế giới mơ hồ , không rõ rệt .
Tuy nhiên để giải đáp được hai câu hỏi đã nêu chúng ta dù không muốn cũng phải công nhận những điều sau : * Quy luật vận động của Vũ trụ là một thế giới khách quan, không phụ thuộc vào nhận biết của con người .
* Những điều gì tồn tại lâu dài , dai dẳng tự bản thân nó đã có lý .
Và nếu các bạn thích Toán học thì sẽ phải nhận thấy rằng : Quy luật vận động của hình học phẳng ( bao gồm tất cả các Tiên đề ,định lý , công thức ...) không thể dùng để giải thích trong quy luật vận động của hình học không gian . Nói một cách khác : Quy luật trong hai chiều không gian ( x, y ) không thể giải thích được sự vận động trong ba chiều không gian ( x,y,z ). Ngược lại quy luật sự vận động trong ba chiều không gian ( x,y,z ) luôn có thể giải thích sự vận động trong hai chiều không gian ( x, y ) . Một cách quy nạp ta luôn có : Quy luật vận động trong không gian n+1 chiều luôn có thể giải thích được quy luật vận động của không gian n chiều. Ngườc lại : Quy luật vận động của không gian n chiều không thể giải thích được quy luật vận động của không gian n+1 chiều .
Và một hệ quả tất yếu ta có : " Quy luật vận động của không gian n chiều là một trường hợp đặc biệt của quy luật vận động của không gian n+1 chiều ."
Ngày nay , mặc dù khoa học kỹ thuật đã tiến bộ và phát triển như vũ bão , nhưng những kiến thức của con người có thể nhận biết được vẫn chỉ là hữu hạn và rất nhỏ bé trước quy luật vận động của Vũ trụ . Nếu lấy cái tri thức hữu hạn của chúng ta mà phủ nhận quy luật vận động khách quan của Vũ trụ thì đó chính là Mê tín .
Nếu các bạn đủ sức " Điên " và đủ tài năng, dienbatn mong các bạn nghiên cứu 15 tập sách, tác phẩm của GS.TS Nguyễn Hoàng Phương mang tên : "Sứ mệnh Đức Di Lặc" là tác phẩm cuối đời của Giáo sư . Những tác phẩm này , dienbatn đã đưa 9 tập vào thư viện miễn phí của mình :
http://www.4shared.com/document/PK31nfUp/TAP_1.html
http://www.4shared.com/document/mXd_wBWX/TAP_2.html
http://www.4shared.com/document/ffnhYyYi/TAP_3.html
http://www.4shared.com/document/lqIY2o9P/TAP_4.html
http://www.4shared.com/document/9JlORd62/TAP_5.html
http://www.4shared.com/document/y_zdcZGS/TAP_6.html
http://www.4shared.com/document/QOOGBb4s/TAP_7.html
http://www.4shared.com/document/AXYHDwyJ/TAP_8.html
http://www.4shared.com/document/3zUJrRyW/TAP_9.html
Trong những tác phẩm này , GS.TS Nguyễn Hoàng Phương đã dùng :" 
1) Khoa học phương Tây:- Toán cao cấp và chủ yếu là toán chuyên biệt như lý thuyết nhóm, đại số Li, đại số quaternion (đại số không gian 4 chiều), đại số octonion (đại số không gian 8 chiều); - Vật lý lý thuyết gồm thuyết tương đối và lý thuyết hạt cơ bản, lý thuyết cấu trúc vũ trụ…
2) Khoa học phương Đông: - kinh dịch, các học thuyết về tử vi, thái ất, độn giáp, phong thủy… - Đông y, lý thuyêt về kinh, lạc và huyệt vị, thời châm học … 
3) Khoa học Đông – Tây : sinh vật học, lý thuyết mã di truyền, trường sinh học…
4) Tôn giáo: thầy Phương chủ yếu dựa vào đạo Phật nhưng thầy có tham khảo cả các tôn giáo khác và có dựa vào triết học cổ đại của nhiều dân tộc, đặc biệt có nhắc đến nhiều lần hình vuông kỳ diệu của người Hebreux(Do thái cổ) …
Công trình của thầy Phương là sự tổng kết cho những nghìn năm trước và tiên đoán và đề xuất chiến lược cho nghìn năm nay và những nghìn năm sau. Nhưng nói như thế không phải không xứng đáng để nghiên cứu và không phải không có ứng dụng cho hôm nay. Toát lên trong công trình của thầy Phương là xu thế thống nhất hòa nhập. Loài người sẽ trở về trong cái Một và đi theo con đường tìm đến chân thiện mỹ. Hàng nghìn năm trước loài người chia rẽ sâu sắc vì trong cái toàn vẹn Thiên – Địa – Nhân thì loài người chỉ cúi mặt xuống đất và xâu xé trái đất với nhau, chém giết lẫn nhau. Đã đến lúc con người phải cùng nhau ngửa mặt lên giời hướng đến cái cao cả xứng đáng với con người: hòa hợp với trời, hòa hợp với tâm linh của chính mình, hòa hợp với nôi sinh ra mình (sự sống được gieo từ vũ trụ). Theo thầy Phương thì trong bốn giai đoạn phát triển của nhân loại chiếu theo tứ tượng: thái âm, dương minh, thái dương và thiếu âm, thì loài người đang bước qua (và hy vọng thế) giai đoạn mông muội thái âm để hồn nhiên trong sáng như một nhi đồng bước vào thời kỳ dương minh. Ngay từ buổi sơ khai loài người đã không biết rằng mình cùng ra đi từ một nguồn gốc mà rồi tư duy lại chia làm hai ngả: duy lý phương tây và minh triết phương đông. Suốt bao nhiêu năm cứ tranh luận, cái nào hơn cái nào. Lịch sử cận đại với những thành tựu của khoa học công nghệ đã nâng cao vai trò của khoa học duy lý phương tây. Nhưng gần đây với những đòi hỏi cấp bách về làm rõ thế giới vật chất và tâm linh thì các nhà khoa học phương tây lại sánh vai với các nhà mình triết phương đông để giải quyết những vấn đề chung. Theo thầy Phương thì không thể nói cái nào hơn cái nào cả mà duy lý là phần cứng như xương cốt, và minh triết là phần mếm như thịt da của một cơ thể nhận thức nhân loại. Theo tôi (tôi xin mạo muội viết ra) đóng góp vĩ đại nhất của công trình thầy Phương là chứng minh một cách thuyết phục nguồn gốc chung của duy lý phương tây và minh triết phương đông đó là nguồn gốc số. Đằng sau sự huyền diệu và kỳ bí của minh triết phương đông là một cấu trúc số chính xác không khác gì duy lý phương tây mà thậm chí còn vượt trội. Thái cực là gì trong cấu trúc số: là cái Một là toàn bộ vũ trụ. Luỡng nghi là gì? Là cái Âm và cái Dương thống nhất và đấu tranh trong mọi sự vật. Âm dương có thể mô tả trong số hai chiều, có thể ký hiệu vạch đứt vạch liền, có thể xem như số nhị phân 0 - 1 hay gần đây người Việt còn gọi là ngôn ngữ nòng nọc. Tứ tượng là gì trong cấu trúc số? Đó là số bốn chiều hay không gian bốn chiều quaternion. Bát quái là gì? Bát quái là tám chiều cực đại cần thiết của con sổ mà người ta gọi là octonion. Đó là không gian cực đại cần thiết mà con sồ đã từ bỏ hai tính chất cốt yếu của nó: tính giao hoán và tính kết hợp. " ( Một người đã đọc tác phẩm ).
Trở lại vấn đề Bùa - Chú : Bùa - Chú là một phương tiện dùng để trao đổi giữa con người của hệ tọa độ Đề các ( x,y,z ) với các chiều không gian khác ( n+1 ). Đó chính là một loại trường sinh học - điện từ , là một loại năng lượng của Vũ trụ. Năng lượng này càng lớn thì sự trao đổi với các chiều không gian khác càng nhanh. Nguồn năng lượng này con người hoàn toàn có thể tạo ra được trong quá trình luyện tập , thực hành trong gian khổ và lâu dài.
Bùa - Chú đã tồn tại lâu dài trên trái đất này cùng với văn hóa của con người. Qua Bùa- Chú ta có thể thấy rõ ảnh hưởng của vùng , miền lên cấu tạo của Bùa - Chú. Phải chăng tự bản thân Bùa - Chú cũng là văn hóa của nhân loại . Bùa - Chú tồn tại trong dân gian hàng ngàn năm nay , nó bao gồm rất nhiều sắc thái cùng với phong tục , tập quán của các đại phương từ Đông sang Tây. Tính địa phương của Bùa - Chú cũng được phản ánh rõ rệt , do vậy khi cầm một lá Bùa trên tay , ta có thể đọc được xuất xứ, địa phương và dòng phái sinh ra nó . Bùa - Chú còn mang trong mình bản sắc văn hóa của từng dân tộc .
Như vậy ta có thể nhận xét rằng : Bùa - Chú là một loại phong tục , tập quán chuyển tải những tư tưởng truyền thống , sự kết hợp các Tông giáo và nó là một hình thức của Văn hóa không thể phủ nhận được .
Người Phương Tây cũng có rất nhiều loại Bùa - Chú . Họ sử dụng các con số , các phương trận , Thủ Ấn , thiên tượng làm Bùa - Chú . Đó là sự kết hợp giữ tư tưởng truyền thống và văn hóa của họ . Bùa - Chú và Tông giáo không thể chia tách . Tông giáo là một bộ phận lớn và vô cùng quan trọng để cấu thành một dân tộc . Người nghiên cứu văn hóa Ai cập cổ thường thấy Bùa - Chú trên các Kim tự tháp . Do vậy có thể thấy rằng : Bùa - Chú thật sự là văn hóa , mang bản sắc riêng của từng dân tộc , nó cùng với từng địa phương , từng dân tộc và có chung nguồng gốc . Địa vị của Bùa - Chú là không thể phủ nhận trong nên văn hóa của các dân tộc trên trái đất này và nó mang trong mình bản sắc dân tộc đã sinh ra nó .
Xác định Bùa - Chú là một loại hình văn hóa mang bản sắc dân tộc đã sinh ra nó , tức là ta đã bàn đến tính xác thực của Bùa - Chú .
Để có thể đánh giá tính xác thực của Bùa - Chú , ta không thể dựa trên những kiến thức hữu hạn của mình mà phủ nhận nó , cũng như ta không hiểu được sự khách quan của quy luật vận động Vũ trụ mà phủ nhận những quy luật đó không tồn tại .
Trên cương vị là những người nghiên cứu , trước hết chúng ta nhận thấy rằng : Giá trị đầu tiên của Bùa - Chú trước hết là tính đại biểu cho tư tưởng , phong tục , tập quán , văn hóa và bản sắc của từng dân tộc , từng địa phương . Ta chưa cần xét đến việc về tính hiệu quả của nó .
Thông thường người ta thường chỉ xét đến hiệu quả của Bùa - Chú mà coi nhẹ giá trị về Văn hóa của nó .
Ta có thể thấy những giá trị về học thuật của Bùa - Chú theo các quan điểm như sau : 
* Tư tưởng truyền thống về cân bằng Động - Tĩnh : Trong văn hóa của triết học Đông phương có câu : " Nhất Âm - Nhất Dương chi vi Đạo " ( Một Âm - Một Dương mới thành Đạo ) . " Âm - Dương hòa , hóa dĩ chính " . Âm - Dương cần phải có sự cân bằng thì mọi vật mới có thể phát triển tốt được .
Trong Bùa - Chú : Thì Bùa là trạng thái tĩnh , Chú là trạng thái động . Vẽ Bùa mà không đọc Chú thì không thể linh nghiệm .
* Bùa - Chú khi thực hiện , người ta không chỉ cố gắng làm sao vẽ cho giống , đọc cho giống mà quan trọng hơn cả là người thực hiện cần phải tập trung tinh thần tối đa , loại bỏ mọi tạp niệm , nhất tâm chuyên chú vào công việc . Điều này cần phải dựa trên công phu tu luyện hàng ngày trong một thời gian khá dài .
* Khi tác pháp , hành giả cần phải ăn chay, diệt dục , tắm rửa sạch sẽ để biểu thị lòng thành kính với các Đấng , các cõi mà người đó muốn liên thông .
* Khi bắt đầu vẽ , trước hết cần có một Đàng tràng cho thật trang nghiêm , chọn những giờ thanh tịnh và linh ứng như giờ Tý ( 11-1 giờ ) để thực hiện .
* Sau khi vào Đàn , đốt hương khấn vái các Thần linh , báo cáo mục đích của mình mới bắt đầu tác pháp.
* Đọc các loại chú thư vào nước , mực , giấy , bút  rồi mới bắt đầu vẽ. * Khi vẽ phải tập trung hoàn toàn tinh lực , không để những tác động bên ngoài ảnh hưởng đế công việc của mình . Làm như vậy là Bùa mới có thể linh nghiệm được .
Người xưa thường dạy : " Tínhthành sở chí - kim thạch vi khai " , " Nhất thành khả cảm cách Thiên Địa , Quỷ , Thân " là cái ý đó vậy . 
Bùa - Chú  tục còn gọi là Phù tử có thể tạm chia ra làm 2 phái :
* Phái chính pháp  gọi là Phù tử lộ .
* Phái tà pháp còn gọi là Diệp tử lộ .
Thông thường tất cả các sách Bùa - Chú đều là Chính Pháp ( Phù tử lộ ). Phái tà pháp đa phần là truyền thụ riêng cho nhau , rất ít được công khai truyền thụ .
Các hành giả Bùa - Chú thường nói : " Không biết vẽ Bùa thì Quỷ , Thần cười chê ". Vẽ Bùa đi đôi với niệm chú có sự kỳ diệu . Khi vẽ Bùa ắt tâm không động mà ý niệm , tâm tĩnh lặng không tạp nhiễm , tâm lúc đó như mặt nước phẳng lặng , như gương sáng , như in vào trời xanh . Khai một nét bút , đọc một câu Chú khi đó nhất Khí tụ thành , nhất nét mà tựu , tâm không tạp niệm thì Bùa đó ắt phải Linh nghiệm .

2/ CẤU TẠO CHUNG CỦA MỘT LÁ BÙA.
Con người ta có đầy đủ lục phủ ngũ tạng , thiếu một phần nào trong cơ thể đều dẫn đến rối loạn , dẫn đến suy nhược , thậm chí nghiêm trọng hơn có thể dẫn đến cái chết . Một lá Bùa cũng tương tự như vậy , thiếu một nét cũng không được . Cho đến nay, vấn đề này vẫn thường bị dấu giếm , ít phổ biến ra ngoài , đa phần là truyền thu riêng .
Một lá Bùa bao gồm có 3 bộ phận quan trọng ( Ở đây dienbatn chỉ nói về Bùa của Tiên gia Bắc tông, còn Bùa của nam tông đa phần là Bùa Điển nên hầu như không có quy luật ) .
lá Bùa bao gồm 5 phần quan trọng bao gồm :
Một đạo phù cấu thành bởi 5 bộ phận chủ yếu:    
1 - Điểm phù đầu: Đây là điểm khai bút rất quan trọng, giống như mắt của con người. 
2 - Chủ sự phù thần: Mỗi đạo phù có công dụng khác nhau, sự việc nào thì tìm chủ sự thần phù tương ứng, giống như cách dùng quyền oai hoặc giáo thụ hiện nay. 
3 - Phù phúc nội: công dụng chủ yếu của đạo phù trảm yêu trừ tà hoặc trấn trạch, thể hiện rõ ràng tại đây. 
4 - Phù đảm: là phần tinh hoa của một đạo phù (sinh hồn và linh hồn), phù có linh nghiệm hay không là do ở đây. 
5 - Xoa phù cước: (giáo hồn) để thỉnh binh tướng trấn thủ như ý, phù cước rất nhiều biến hóa, tất cả phải do bản thân công dụng đạo phù mà định, là phần chặn cuối phù cũng như khẩu quyết. 
Năm phần trên liên hệ với nau rất chặt chẽ , thiếu một bộ phận nào cũng không được , ngoài ra khi vẽ Bùa phải vừa vẽ vừa đọc Chú  của loại Bùa đó và phương pháp sử dụng của từng lá Bùa cũng khác nhau . 
Vận dụng phù lục, cũng phải dựa vào sự phối hợp, vận dụng pháp lực, lại cần bạn hoàn thành từ những cái vô hình, do đó bản thân người học phù lục cần phải có thầy truyền mà tu luyện, thậm chí muốn có thủ hạ binh tướng, dần dần từng bước học tập mà đạt. Nếu không thì sau khi bạn viết phù, làm sao có thể hỗ trợ đầy đủ theo yêu cầu của người được? Vì lẽ đó sắc phù phát lệnh thủ hạ binh tướng, để bạn hoàn thành nhiệm vụ, tài năng được hiệu ứng. Bởi bên ngoài không thiếu kẻ giả giả thực thực, nên không thật thà cẩn thận đắc tội với người vì thế các bạn tự mình nhận định. 
Bùa nào cũng phải có chữ bùa này. 
CHÚ :
Tả phết chống Thiên Địa – Thâu nhật nguyệt tinh.
Phết thượng hoành phong – Nhất điểm quỷ thần kinh.
Đông trấn , tây trấn – Nam bắc trấn.
Đông tây nam bắc – Thiên địa nhân.
Thìa thí thìa thá – Thìa mí thìa má.
Thìa má thìa tú – Thìa thá.
Mỗi đạo phù vì công dụng không giống nhau nên phân ra 7 cách dùng, mỗi cá nhân phải hiểu cách thức để có thể phát huy công hiệu, các cách dùng như sau: 
1 - Hóa pháp: là đốt, trực tiếp dùng hỏa thiêu, cần chú ý lúc đốt, nhất định phải đốt từ phần cuối phù trước, nếu như có thể xếp (gấp) thành hình của lệnh kiếm tất hiệu quả rõ rệt. 
2 – Bội (đeo) pháp: cứ đem tờ phù gấp đeo trên người, phần lớn gấp thành hình bát quái, sau đó cho vào bao dán lại, tiện mang theo người. 
3 – Thiếp (dán) pháp: trực tiếp đem đạo phù dán lên trên vật, ngoài ra loại phù để chữa bệnh thì dán trực tiếp tại nơi đau, hoặc đem đốt sau trộn cùng dược vật để sử dụng. 
4 – Ngật (uống) pháp: trước đem đạo phù cho vào cái bát nhỏ hoặc chén trà đốt thành tro, sau cho âm dương thuỷ (nước nóng pha nước lạnh) vào khuấy lên, đợi nước phù lắng trong đem uống. 
5 – Chử (nấu, luộc) pháp: còn gọi là sắc, tức là đem đạo phù cho vào ấm sắc thuốc, sắc thuốc có hai cách khác nhau, một cách cho đạo phù cùng nước trong vào sắc (có lúc phù đổi màu, thậm chí có mùi thuốc), một cách hòa một ít Trung dược cùng nấu. 
6 – Sát (xoa, xát) pháp: đem đốt phù cho âm dương thuỷ vào, dùng kiếm chỉ hoặc kim cương chỉ quết nước phù xoa thân thể, thông thường xát phần đầu trước, lại quết nước phù vỗ vỗ trước ngực cũng làm như vậy sau lưng, có lúc có thể dùng cách phun, dùng cách này lấy nước phù ngậm trong miệng, cùng dùng kiếm chỉ tại mỏ ác mình, dùng lực phun một hơi, nước phù theo kiếm chỉ mà vào tới người. 
7 – Tẩy (rửa) pháp: trực tiếp tại bồn tắm hoặc bồn rửa mặt, đốt đạo phù thành tro xong đem cho cùng âm dương thuỷ vào bồn, sau khi rửa nước phù bắn ra ngoài hoặc ra chỗ đất trống, hoặc chảy vào cống nước thải đều được. 
Trình tự vẽ phù, không được lẫn lộn . 
1 - Chuẩn bị đầy đủ dụng cụ (nước, bút, mực, nghiên mực, giấy, hương, hương lơ, châu sa, kim ngân tiền giấy các vật cần thiết khác). 
2 - Chọn thời điểm đẹp nhất (chọn thời điểm vào giờ Tý để vẽ phù là tốt nhất).    
3 - Tâm bình thần định (tọa thiền dưỡng khí).    
4 - Đốt hương thỉnh thần (niệm chú thỉnh thần). 
THỈNH THẦN CHÚ: 
Thừa sai thổ địa, cấp hốt thiên lí, thông thiên thấu địa, xuất u nhập minh, văn ngô quan triệu, bất đắc lưu đình, thượng thiên hạ địa, thập tạp tam đảo, phi phù tẩu triện, triệu thỉnh vô đình, tốc đáo đàn tiền, tiếp ngô phù lệnh, hữu công chi nhật, danh thư thượng thanh. Ngô phụng thái thượng đạo tổ sắc, thần binh hỏa cấp như luật lệnh. 
5 - Quán tưởng thần phật giáng lâm. 
6 - Niệm sắc thủy chú, sắc bút chú, sắc chỉ chú, sắc mặc chú, sắc nghiễn chú, thủ bút chú. 
SẮC THỦY CHÚ: (chú nước) 
Thử thủy phi phàm thủy, bắc phương nhâm quý thủy, nhất điểm tại nghiễn trung, vân vũ tu du chí, bệnh giả thôn chi, bách quỷ tiêu trừ, tà quỷ thôn chi như phấn tối. Cấp cấp như tam kì đế quân luật lệnh. 
SẮC BÚT CHÚ: (chú bút) 
Cư thu ngũ lôi thần tướng, điện chước quang hoa, nạp tắc nhất thân bảo mệnh. Thượng tắc phọc quỷ phục tà, nhất thiết tử hoạt diệt, thông ngã biểu sinh. Cấp cấp như luật lệnh. 
SẮC CHỈ CHÚ: (chú giấy) 
Bắc đế sắc ngô chỉ, họa phù đả tà quỷ, cảm hữu bất phục giả, áp nhập phong đô thành. Cấp cấp như luật lệnh. 
SẮC MẶC CHÚ: (chú mực)
 Ngọc đế hữu sắc, thần mặc chá chá, hình như vân vụ, thượng liệt cửu tinh, thần mặc kinh ma, phích lịch củ phân. Cấp cấp như luật lệnh. 
SẮC NGHIỄN CHÚ: (chú nghiên mực) 
Ngọc đế hữu sắc, thần nghiễn tứ phương, kim thủy mộc hỏa thổ, lôi hỏa vũ điện, thần nghiễn khinh ma, phích lịch điện quang mang. Cấp cấp như luật lệnh. 
THỦ BÚT CHÚ 
Hách hách Âm Dương, nhật xuất đông phương, Ngô sắc thư phù, phổ tảo bất tường, khẩu thổ Tam Muội chi hỏa, nhỡn phóng như Nhựt chi quang, Kim Cang giáng phục, tróc chư yêu quái hóa vi cát tường, tả thiên thiên lực sỉ, hửu vạn vạn tinh binh cấp cấp như luật lịnh. 
7 - Hạ bút vẽ phù (trước khi hạ bút chú tam biến, hạ bút khi đầy đủ thần, tòan tâm tòan ý quán tưởng, vẽ xong trong một hơi thở). 
8 – Chỉnh sửa phù, thu phù. 
9 – Vẽ xong phù, đem tới lư hương đã đốt hương, trên lư hương quấn phù tròn thành 3 vòng. 
10 - Đem tờ giấy vẽ phù tới vòng ở trên lư hương ba vòng. 
11 - Niệm chú tống thần (dùng phối hợp chú đặc định). 
TỐNG THẦN QUY VỊ CHÚ: 
Thiên tồi tồi, địa tồi tồi, bản suất kị mã hồi đương quy, binh lai đàn tiền ngự liễu giáp, mã lai đàn tiền tá liễu an, tiên binh tống đáo, quy tiên đồng, địa binh phụng tống quy doanh trại, hữu cung quy cung, vơ cung quy miếu, phụng tống quy cửu châu. Phụng tống tiên thần chân linh chính thần quy kim thân, thần thối thần, nhân thối nhân, tống quy sinh đồng thập nhị điều nguyên thần quy bản thân cung, tổ sư tống tam hồn, bản sư tống thất phách, tiên nhân ngọc nữ tống quy, sinh đồng tam hồn thất hồn quy bản thân cung, thần binh hỏa cấp như luật lệnh. 
 Những trình tự ở trên tất nhiên phải rất cung kính, không được mảy may cẩu thả, cho đến lúc vẽ xong phù, khiến cho mỗi đạo phù đều có oai lực, yêu cầu sử dụng phù chính xác, hoặc dán hoặc đốt hoặc đeo không được nhầm lẫn, trong khoảng một ngày, có thể phát huy hiệu quả! 
● Kị huý khi vẽ phù: cấm hút thuốc, uống rượu, cáu giận, tinh thần không tốt, thân thể không khoẻ, sau khi sinh hoạt... không thể vẽ phù. Tâm cần phải hòan tòan bình hòa, chú tâm vào việc vẽ phù. 
● Vẽ phù rất cần tránh tiến hành vào ngày Hình Phá, nếu vẽ phù vào ngày đó thì biến thành chiêu hung tai, vào ngày 9 tháng 3, 2 tháng 6, 6 tháng 9, 2 tháng 12, đại kỵ đem cho người dùng phù. 
Còn 1 điều tối ư quan trọng phải cấm kỵ khi họa Phù  là : ngày Sát Sư của mỗi tháng và tháng Sát Sư của ngày đó , phạm những ngày này tổn phước Hành Giả , Phù phép không linh , và những ngày trong năm cấm kỵ phòng sự , nếu phạm thì không chứng quả Tiên , Thánh được v.v.....
Ngày sát Sư bốn mùa :
Xuân Giáp Dần – Hạ Đinh Tỵ .
Thu Tân Mùi – Đông Nhâm Tý .
Giáp Tý , Canh Ngọ Nhật đại hung .
Bính Tý Ất Mùi sát sự cung 
Cảnh hữu Nhâm Tý giai bất lợi .
Vì nhân suy giả tế suy tâm .
" Những Điều Cần Lưu Ý Khi Tác Pháp .
Tất cả các phép thuộc Đạo Giáo đều có sự yêu cầu rất nghiêm ngặt về  mặt nghi lễ cũng như phụ pháp, để làm 1 lá linh phù đòi hỏi rất nhiều  những nghi thức phức tạp, nếu không thực hiện 1 cách đầy đủ nghiêm túc thì sẽ khó mà tận dụng được hết oai lực của Bùa chú và phép, bởi phép thuật bao la vạn tượng một loại phép một   câu   chú   có   thể  tạo  ra  nhiều  phép  khác,  thậm  chí  còn   biến  hóa  khôn  lường, yêu cầu cao nhất của phép thuật Đạo Giáo là phải nắm rõ về các  Ấn  Quyết,  cách  thư  phù,  cách  chọn  ngày,  tính  ngày,  và  đặc  biệt  quan  trọng trong phép thuật Đạo Giáo là Đạp Cương Bộ Đẩu người làm phép phải nắm rõ về phép này, nếu không nắm rõ về Đạp Cương Bộ Đẩu thì coi như là đã mất đi 50% kĩ thuật luyện phép Đạo Giáo . Một điều quan trọng  nữa về phép Đạo Giáo chính là phương thức lập đàn, ví dụ khi  làm linh phù Lục Giáp phải lập đàn Lục Giáp, làm linh phù nào thuộc dạng pháp  lực lớn đều phải lập đàn cầu thỉnh tiên thánh trợ giúp . Một điều quan trọng  nữa chính là Ấn Sắc người luyện phép bắt buộc phải có ấn sắc, Ấn Sắc  giống như 1 con dấu của công ty vậy, khi làm bùa phải có những Ấn sắc  đóng vào thì mới có thể tạo ra được oai lực, tất nhiên nếu không có ấn  hoặc làm những nghi lễ trên thì vẫn có chút linh diệu đối với những người  đã tu hành về Phật giáo và Đạo Giáo, và những người có tâm tha thiết  mong   cầu,   những  Ấn  Sắc  bắt  buộc  phải  có  gồm  Ấn  Thái  Thượng  Lão Quân, Ấn Tiên Thiên Bát Quái, Ấn Bản Mệnh, Ấn Cấp Sắc của môn phái  theo học, ngoài ra khi sử dụng các phép Cửu Thiên Huyền Nữ, Trương  Thiên Sư, Mao Sơn, vv..... thì cần thêm các ấn đó. Tựu trung lại học phép  thuật Đạo Giáo vô cùng phức tạp nhưng cũng rất thiên biến vạn hóa công  năng rất mạnh. Cho nên người dịch sách khuyên nên tìm minh sư chỉ dạy  nếu muốn học phép thuật Đạo Giáo, tuy nhiên nếu những người chưa có  duyên tìm thầy mà có căn cơ tốt chịu khó nghiên cứu tu học, có tấm lòng mong cầu học đạo thì cũng có thể sớm ngộ ra được phép mà tu luyện, lúc  đó có thể được các vị thần tiên yêu mến mà ủng hộ hoặc trợ giúp, những  người đã tu trì về phật đạo cũng sẽ dễ dàng học phép và thi triển phép thuật linh diệu hơn là người không tu trì một chút gì. 
Pháp   Nam   Tông   thì   không   phức  tạp  như  Bắc  Tông  Đạo  Giáo  bởi  các  phép này là các bí thuật dân gian và do các thầy tổ sáng tạo ra, những  phép Nam Tông rất gần gũi với đời sống của con người miền Nam, các  phép này có những phép kết hợp với cả Phật Giáo để luyện cho nên ai đã từng quy y Tam bảo đều có thể tu học và đọc các chú Pali Nam Tông  được, nhưng tốt nhất nên tìm thầy để chỉ dạy, sách vở chỉ là sự ghi chép  của các pháp sư ghi lại, khi họ ghi chép thường chỉ ghi những điều mà họ  dễ quên hoặc cơ bản chứ không bao giờ ghi cặn kẽ những điều như họ đã làm, chúng ta ghi chép lại điều gì cũng vậy thôi, không thể nào ghi đầy đủ ra những thứ mà thuộc về kĩ năng của mình được, hoặc cũng không thể  ghi những thứ rất đơn giản mà ta đã nắm rõ ví dụ như, khi đọc kinh, chú  đọc như thế nào, tay dơ ra sao, chân bước ra sao, đây là điều kiên quyết  phải biết đối với người học phép thuật, cho nên những điều này các bạn  nghiên cứu phép nên hiểu rõ. Nhiều người nghĩ rằng có sách trong tay là có   thể  luyện  được  phép  ngay  thì   xin   thưa  rằng  đó  là  điều  rất  khó  nếu không có sự nghiên cứu và học tập kĩ càng thì kể cả Nam Tông hay Bắc  Tông đều rất khó luyện thành, người căn cơ cao thì đọc qua có thể hiểu  ngay được ít nhiều kẻ căn cơ thấp thì cho dù có ghi chép đầy đủ ra vẫn  cảm thấy là rất khó hiểu bởi vậy nên mới phải đợi 2 chữ Tùy Duyên." ( Tantric )
Vẽ được một lá Bùa cần phải trải qua các bước nghiêm cẩn đến như vậy , nếu người vẽ không khổ công rèn luyện , tu pháp chưa chắc đã linh nghiệm , huống chi gần đây có vị tự xưng này nọ , kia đem Bùa ra bờ sông Tô Lịch vẽ trên đất dơ bẩn , Đàn pháp bát nháo mà đòi phá Trấn của cao Vương . Nghe thật nực cười lắm thay .
Xin xem tiếp bài 3. dienbatn.

Xem chi tiết…

SỬ DỤNG MẬT CHÚ MẬT TÔNG TRONG PHONG THỦY . BÀI 1.

11/11/2016 |
SỬ DỤNG MẬT CHÚ MẬT TÔNG TRONG PHONG THỦY  .
Vài dòng dẫn nhập : Khi thực hiện làm Phong thủy cho Dương trạch, đặc biệt là Âm trạch , chúng ta cần phải nắm vững và thực hiệt tốt các vấn đề cơ bản của kiến thức Phong thủy. Ngoài việc tính toán cho đúng các vấn đề về HÌNH - LÝ - KHÍ - SỐ ra chúng ta cần phải thực hiện việc cân Phúc đức của dòng họ thân chủ mà điều chỉnh Khí lực khi đưa vào Huyệt mộ hay ngôi nhà. Khi Khí lực của Long mạch đưa vào quá lớn, Phúc phận dòng họ của Gia chủ lại chưa được nhiều, nếu chúng ta thu toàn bộ Khí lực của Long mạch đưa Huyệt mộ hay Dương cơ , không những chúng ta không giúp đỡ được cho Gia chủ mà thậm chí còn làm hại đến sự phát triển và sự bình an của họ. Đất hay đá quý đều chọn chủ - Đó là cái lý của Tạo hóa gần như bất di bất dịch. Có nhiều trường hợp do không tụ đủ phúc mà cố cưỡng cầu đặt vào , ngay lập tức thảm họa tới liền. " Khi táng di hài Tổ tiên,chắc người ta phải chọn Địa huyệt thật tốt mà an táng , song song với việc trên ,người tại tiền phải nỗ lực tu dưỡng thân,tâm cầu lấy gốc rễ của Đạo . Nếu chỉ chú trọng quan sát hình thể Địa huyệt,sẽ cho kết quả trái ngược,làm tổn hại đến con cháu đời sau. Nếu như có Nhân,tất phải có Quả;nhưng Nhân -Quả thiện ác tùy vào Tâm khi chiêu lấy họa phúc " .
Theo sử sách còn truyền lại,từ khi Phục Hy lập ra Bát quái định Thiên đồ,xa thì trông Thiên văn,đại Địa,gần thì trông ở người,vật,toàn đồ Vũ trụ quan bao gồm Thiên -Địa -Nhân.
THIÊN :Tinh ba là Nhật -Nguyệt -Tinh.
ĐỊA :Tinh ba là Thủy -Phong -Hỏa.
NHÂN :Tinh ba là Tinh -Khí -Thần.
Tất cả các thành phần trên gọi chung là Đại đạo,mỗi thành phần đều sống động.
THIÊN ĐẠO :Là sự vận hành các phần tử Thiên hà,Thiên hệ,Tinh tú châu lưu an toàn trong khoảng không theo một trật tự nhất định.
ĐỊA ĐẠO :Thủy -Hỏa-Phong châu lưu khắp nơi nhằm sinh hóa và nuôi dưỡng vạn vật.
NHÂN ĐẠO :Là cái đức lớn của Thiên -Địa,Tinh khí tươi nhuận thì Thần mới minh.
Vũ trụ toàn đồ luôn sống động,nếu ngưng ,nghỉ tức là hoại ,là diệt.
Một Cảnh giới hài hòa tạo được sự an lạc,hạnh phúc cho mọi người tức là cả ba thành phần phải tốt tương ứng thể hiện đủ đức tính của Đại đạo.Vì thế ,các bậc Tiền nhân luôn có ước muốn tạo cho mình và cộng đồng một Cảnh giới Chân -Thiện -Mỹ,họ chiêm nghiệm ,học hỏi từ Thiên nhiên địa vật,tạo nên nền tảng Kiến trúc .Nhân giới luôn hài hòa với Tam tài (Thiên văn,Địa thế,Nhân sinh ),nên gọi là thuật Phong thủy.Phong thủy cũng dựa vào trên nền tảng Quái đồ,Hà Lạc.
Trước khi Tầm Long,trích Huyệt thì Phong thủy sư phải học hỏi để hiểu biết nhân thân là một TIỂU VŨ TRỤ.Trong thân thể con người có 365 đại huyệt và gần 1.000 huyệt nhỏ khác,cũng có Khí,có Thủy,có Hỏa,kinh lạc như Đại Vũ trụ bên ngoài.Phải biết kết nối các mạch cùng vận hành thuận hòa trong bản thể,tức là phần tu luyện Pháp Đạo,Đạo Thuật để đạt được đức Nhân.Có Đức Nhân rồi mới tìm hiểu biết về Đại Vũ trụ,tầm Long,tróc mạch những nơi "Tàng Phong tụ Thủy ",là những nơi có Huyền lực của Thiên Địa làm ảnh hưởng thăng hoa vật chất và nhân thể.
Điểm Huyệt trên Nhân thì ảnh hưởng đến tính mạng,còn điểm Huyệt trên đất,nước,âm,dương trạch thì ảnh hưởng đến dòng tộc ,con cháu nhiều đời.Do vậy,các Phong thủy sư phải rèn luyện Đạo thuật,nhằm khai mở Tâm năng,khiếu Cảm xạ,Thấu thị là chính yếu,còn tri thức kinh nghiệm của các bậc Tiền nhân là căn bản cho sự nhận định và luận chứng Huyệt mạch Phong thủy mà thôi,chứ việc Tầm Long ,trích Huyệt rất phức tạp và đa dạng.
Tâm năng của con người gần như bất tận nếu biết rèn luyện,khai thác đúng mức những khả năng để khám phá Đại Vũ trụ như:
-Cảm xạ các giao động mạch Khí.Tìm nguồn nước.
-Thần giao cách cảm.Tương tác giữa người này và người kia.
-Sử dụng tâm năng Tiên đoán,thấu thị.
-Hóa giải theo ý muốn.
Biết được Thiên vận,Địa thế,Nhân cơ,các nguồn thông tin,dữ liệu từ Vũ trụ.
-Sử dụng Tâm năng trong Y học trị liệu,giải phẫu...
-Trị liệu bằng Trường Sinh học.
Ngày xưa ở Trung quốc,Việt nam và các nước Chấu Á đều có Kỹ thuật xây dựng,kiến trúc theo Phong thủy căn cứ vào 4 yếu tố :HÌNH -LÝ-KHÍ- SỐ.
1/KHÍ :là Năng lượng Vũ trụ hàm tàng trong Vũ trụ,vật thể,Đất,Nước,con người..
2/LÝ :Là quy luật vận động,vận chuyển ,tạo tác của Khí Thủy -Phong -Hỏa.Gồm ba nguyên tắc :
a/Trời chưởng quản Địa,Nhân.
b/Trời,Đất đều tác động đến Vật chất và con người,nên phải biết vận dụng ảnh hưởng này nhằm tạo yên vui cho cuộc sống.
c/Vận mạng ,hạnh phúc của người sống tùy thuộc ảnh hưởng của người chết,tức là Âm trạch.Do vậy người xưa có câu :"Người sống thì xem cái nhà ,người chết thì xem cái mồ ".
3/SỐ :Là những tượng số của Dịch lý(Nghi,Tượng,Quái,Hào).
4/HÌNH :Là hình thể vùng đất,dòng nước,cấu trúc các công trình xây dựng có ảnh hưởng tốt đến mạch khí.
Ngoài 5 thành tố Kim-Mộc-Thủy -Hỏa-Thổ sinh và khắc chế ngự lẫn nhau.Yếu tố được xem là thuận lợi khi nào năng lực của Vũ trụ hòa hợp cùng năng lực của Đất hay còn gọi là sóng điện từ.Chính hai lực này chi phối,ảnh hưởng đến hoạt động của Trường Sinh học con người,nếu hai lực này tương phản thì đem lại kết quả xấu cho con người trong cuộc đất này hay Dương trạch họ đang ở,hoặc Âm trạch táng tử thi.Nếu hai lực kết hợp tốt thì Vận mạng của con người sẽ tốt,sức khỏe dồi dào,kinh tế phát triển lên mãi.
Do vậy,Phong thủy là một bộ môn học thuật dựa trên Minh triết của Âm -Dương-Ngũ hành -Bát quái,là một Huyền môn Khoa học cổ xưa đã có quá trình trải nghiệm trên 5.000 năm.Phong thủy không mê tín mà là một học thuật tối cổ căn cứ vào HÌNH -LÝ-KHÍ-SỐ mà luận đoán theo một quy luật nhất định.
PHONG THỦY.
Phong : Là Gió.
Thủy :Là nước.
Hỏa :Là Lửa.
Là tinh túy của Đất,sự lưu chuyển của ba thành phần này nhờ vào Khí.Địa vận có sự dịch chuyển để sinh hóa thì Thiên vận tùy theo nó.Thiên vận có sự biến đổi thì Địa khí tương ứng với nó.Thiên khí vận động ở trên thì Nhân khí tương ứng với nó;Nhân vận động ở dưới thì ở trên Thiên khí sẽ ứng theo.Như vậy chúng ta thấy rằng Tam tài THIÊN ĐỊA NHÂN đều có liên quan lẫn nhau.Hoàng Thạch Công nói :Một Âm,một Dương là Đạo (Nhất âm nhất dương chi vi Đạo ).Một tĩnh ,một động là Khí,một Vãng một Lai là Vận.Hà đồ -Lạc thư hợp thành số lẻ;"Cơ "là Tịnh Dương hay thuần Dương,số chẵn là Ngẫu thì Tịnh Âm hay Thuần âm.
Sách "CHÍNH QUYẾT CHƯƠNG HÌNH KHÍ "của Tiên sinh Tử Linh Thành viết :"Vào thời Phục Hy,Thần nông,Hoàng đế;sông Hoàng hà dịch chuyển từ Long môn đến Lã Lương Sơn,Từ Lã Lương Sơn hướng về Thái hành sơn chảy qua Kiệt Thạch sơn vào biển lớn.Sông Hoàng hà chẩy từ phương Tây chẩy qua phương Nam,rồi từ Nam chuyển hướng lên Đông bắc,Dự châu đóng ở giữa.Hoàng hà chính là dải đai các núi Nhũ nhạc triều bái,thì nơi đây chính là Phong thủy Bảo địa.Cũng là nơi xuất hiện ra các bậc Thánh nhân như vua Ngiêu,Thuấn,Khổng tử.Phía Bắc Hoàng hà ,còn phương Nam là Trường giang,Thái sơn (Tỉnh An huy ) kẹp giữa ;như vậy Thái sơn chính là Can Long từ dải Hoa sơn trở xuống (Vùng đất này ngày xưa là của Việt tộc ).Nhưng rồi Thiên vận hướng Can Long xuôi theo về hướng cực Nam để rồi kết thành một vùng Bảo địa hay Linh địa.Có Linh Tú khí.Quách Đại Quân viết rằng :"Ta xem núi non ở Giao châu phần lớn Long mạch đều xuất phát từ Quý châu,mà Quý châu là phần dư thừa các con sông từ đất Ba Thục;Long mạch chảy qua cuồn cuộn không dừng thẳng đến đất Giao châu,nên nước ấy có Can Long kết thành Linh bảo địa".
Nền Phong thủy của Việt nam chúng ta dựa trên học thuật của Tổ tiên,ông cha truyền khẩu,bao nhiêu sách vở từ xưa đã bị tiêu hủy trong thời chiến tranh bị đô hộ Bắc thuộc.
Sách có câu :"Tiên tu nhân lập âm chất,nhi hậu tầm Long ".
Người người đều muốn có được một Địa trạch tốt tươi,nhằm thăng hoa cuộc sống vật chất đầy đủ,công danh hiển hách,vợ đẹp con ngoan,Gia đình hạnh phúc.Sách THÔI QUAN THIÊN viết :"Trong nhà có người đức hạnh cao thượng thì đất đá trên núi gần đó nhất định có Linh khí ".Qua câu nói trên tức là con người làm chủ Linh khí vạn vật do phần Tâm khícủa chính mình.Các Phong Thủy Sư không hiểu điều này thì dủ có Trích Huyệt Tầm Long được Bảo địa cũng chẳng linh nghiệm.
Những việc Tầm Long Địa Huyệt còn phải hội thêm phần cảm ứng tức là Thiên Đạo (Đạo Trời );sự ứng nghiệm của việc hành thiện lập âm chất,tạo nhân quả tốt.Tục ngữ có câu :"Âm địa tốt không bằng Tâm địa tốt ".Do vậy,tìm kiếm chọn lọc được Địa mạch Huyệt vị,Phong Thủy Sư phải tích đức hành thiện làm căn bản.Nếu kẻ nào có phẩm chất cao thượng,thì ắt Thiên cơ sẽ ứng,Địa cơ theo đó mà tăng thêm sự tốt lành cho con cháu đời sau hưởng Phúc.Bởi Tâm địa thiện lương thì tương ứng với Địa mạch cát lợi ,vận Trời ứng cho,chứ chẳng phải chủ quan tâm về hình thức mà quên đi nội dung,cứ tưởng rằng tầm được Long huyệt rồi,con cháu đời sau sẽ được hưởng Phúc,cái gốc chúng ta chẳng lo mà lại đi lo cái ngọn,rõ là ta chẳng biết gì cả.Nếu như các Phong Thủy Sư họ tài giỏi như thế thì ắt họ phải giành những huyệt Đế vương,Công Hầu,Khanh tướng cho con cháu họ,chứ dại gì mà họ chỉ cho ai ?
Ví như Phong Thủy Sư Cao Biền thời Thịnh Đường được Vua cử làm An nam Tiết độ sứ đô hộ nước ta,thấy đất Giao châu kết huyệt Đế Vương rất nhiều nên sai người đắp thành Đại La trên mạch kết của Can Long,sau đó xưng Vương.Cao Biền còn sợ Tú khí Địa linh của nước Việt chúng ta,nên thường cưỡi diều giấy bay khắp nơi yểm Long mạch không cho kết phát ,làm hư hại rất nhiều Long mạch.Nhưng ý người muốn sao bằng Thiên vận (Ý Trời ).Ít lâu sau Cao Biền bị triệu hồi,phải bỏ thành Đại La.Đất Việt là Địa Linh thì tất phải có Nhân kiệt,nối tiếp người xưa đứng lên đánh đuổi ngoại xâm,giành chiến thắng cho dân tộc.
HÌNH -LÝ-KHÍ-SỐ là một nguyên tắc học thuật mà các nhà Nho,Đạo xem đó là căn bản.Do vậy mà họ lấy Tâm làm gốc và đó cũng chính là nội dung của Khí.Khí là hình thức mà cũng chính là sự cảm ứng của Tâm.Trời là Lý mà Lý tự nhiên thì :"Bất ngôn nhi mặc tuyên đại hóa..."(Trời chẳng nói gì nhưng sanh hóa hết Vũ trụ),luôn cảm ứng cùng Tâm khí con người.Quách Phác nói :"Cát hung cùng cảm ứng lẫn nhau,họa phúc cũng tự nhiên theo Tâm khí chiêu cảm mà đến ".
Khi táng di hài Tổ tiên,chắc người ta phải chọn Địa huyệt thật tốt mà an táng,song song với việc trên ,người tại tiền phải nỗ lực tu dưỡng thân,tâm cầu lấy gốc rễ của Đạo.Nếu chỉ chú trọng quan sát hình thể Địa huyệt,sẽ cho kết quả trái ngược,làm tổn hại đến con cháu đời sau.
Nếu như có Nhân,tất phải có Quả;nhưng Nhân -Quả thiện ác tùy vào Tâm khi chiêu lấy họa phúc.Cũng như ngày xưa có người chết được Thiên táng hay Địa táng một cách ngẫu nhiên,con cháu sau này phát Đế Vương,Công hầu.Trường hợp như thân Phụ của ông NGUYỄN KIM (Cao tổ của nhà NGUYỄN GIA LONG ),Âm phần phát được 9 đời Chúa và 9 đời Vua...vv.Đó là phần Âm chất đã tích lũy từ nhiều đời nên chiêu tập được Nhân -Quả,được Trời -Đất cho hưởng Phúc,đâu phải tầm Long trích Huyệt mới được.
Triệu Quang viết cuốn :"PHONG THỦY TUYỂN TRẠCH TỰ ",có nói rằng :"Vô phước cho ai không có nhân duyên mà được Huyệt tốt ".Dẫu cái tốt,xấu của Phong thủy Huyệt mộ ảnh hưởng đến cát hung,nhưng Âm đức của con người có thể cải biến được Vận -Mạng.Đến như các bậc Tiền bối Phong thủy như Cao Biền,Quách Phác tài giỏi kinh Thiên động Địa ,nhưng khi gặp Huyệt Đế Vương cũng không dám dành cho mình,bời biết đạt Địa lợi,nhưng Thiên thời và Nhân hội còn khuyết,không dám nghỉ bàn.Tóm lại việc "TIÊN TÍCH ĐỨC,NHI HẬU TẦM LONG " của người xưa dạy quả không sai.
Ngoài tất cả những kiến thức về Phong Thủy - Địa lý đã nêu ở phần trên , nếu chỉ thực hiện như thế cũng chỉ đạt kết quả khoảng 60% mà thôi. Các cụ ngày xưa có dạy : " Thày Địa lý : Trên thông Thiên văn , dưới tường Địa lý, giữa thông muôn loài " . Nếu chưa có khả năng " Thông muôn loài " như vậy thì dù : "Trên thông Thiên văn , dưới tường Địa lý " cũng chỉ đạt được những kết quả khiêm tốn khi tác nghiệp.
Ngày xưa , các Thày Địa lý thường hiểu biết bao gồm đủ cả : NHO - Y - LÝ - SỐ . Khi thực hành Địa lý, ngoài việc sử dụng 36 tầng la kinh, các Thày Địa lý thường phải sử dụng rất nhiều Kinh, Chú để phụ trợ cho công việc của mình. các Thày Địa lý thường sử dụng những Kin, Chú, Bùa của Đạo giáo khi tác pháp.
Nhìn chung, Đạo giáo có 3 trường phái:
Đạo học chủ trương tu tánh thiên về vấn đề giác ngộ, quay về với nội tâm tìm sự thanh tĩnh để đạt Đạo, tương đương phương pháp Đốn ngộ của Phật giáo. Đại diện cho trường phái này là Lão Tử, Trang Tử, Liệt Tử (khoảng thế kỷ thứ 4 trước CN) viết Xung Hư chân kinh, Quan Doãn Tử viết Văn Thủy Chân Kinh, Trần Hi Di tức Trần Đoàn Lão Tổ (khoảng 900, đầu thời Tống) là người đã sáng lập khoa Tử vi.
Tiên học (còn gọi là Đơn Đạo) khác với Đạo học, là phương pháp tiệm tu, đi từ thấp đến cao, từ thô tới tinh, từ hữu vi đến vô vi; có mục tiêu tu hành phản lão hoàn đồng, trường sinh bất lão tức là chủ trương tu tạo nên một xác thân tráng kiện, dần dần tiến đến thân tâm an lạc và cuối cùng mở được tuệ giác và chung cuộc vẫn đi đến chỗ Thiên Nhân hiệp nhất, huyền đồng cùng Trời Đất. Phái Tiên Học cũng thờ Lão Tử nhưng có 3 vị đứng đầu là Đông Hoa Đế Quân Lý Thiết Quải (sống vào thời nhà Hán) tu ở núi Côn Lôn; Chung Ly Quyền (cuối thời Đông Hán), đứng đầu Bát Tiên; Lữ Đồng Tân là đồ đệ của Hán Chung Ly.
Tiên Học có các tông phái:
- Nam Tông: gồm có Lưu Thao được Chung Ly Quyền truyền Đạo năm 911; Trương Bá Đoan (đời Tống) sáng lập ra Nam Tông.
- Bắc Tông: còn gọi là Toàn Chân Phái, giáo chủ là Vương Trùng Dương, người Hàm Dương, có 7 đệ tử: Khưu Xứ Cơ, Lưu Xứ Huyền, Đàm Xứ Đoan, Mã Ngọc, Hách Đại Thông, Vương Xứ Nhất, Tôn Bất Nhị. Doãn Chân Nhân, người giảng Hoàng Cực hợp Tích Chứng Đạo Tiên Kinh và Liêu Dương Điện Vấn Đáp sau tập hợp thành Tính Mệnh Khuê Chỉ là học trò của Khưu Xứ Cơ
- Đông phái: do Lục Tiềm Hư sáng lập năm 1567 đời Minh Mục Tông.
- Tây phái: do Lý Hàm Hư đời ThanhHàm Phong sáng lập (1851)
- Trung phái: do Lý Đạo Thuần sáng lập đời Nguyên, đề cao chữ Trung.
- Trương Tam Phong phái: (cuối nhà Nguyên, đầu triều Minh).
Ngoài ra, dưới thời nhà Tấn, có Kim Đan Đạo do một ông quan là Cát Hồng khởi xướng chủ trương tu Tiên bằng hai cách: nội tu và ngoại dưỡng. Ngoại dưỡng là dùng kim đan gọi là thuốc trường sinh luyện bằng các khoáng chất như thần sa, vàng…. Nội tu là rèn luyện thân thể bằng phép dưỡng sinh, tịnh luyện tinh – khí – thần để "hườn Hư".
Đạo giáo nhân gian hay Đạo giáo phù thủy do Trương Đạo Lăng, người nước Bái đến núi Tứ Xuyên tu luyện, là cháu 8 đời của Trương Lương thời Tam Quốc (đời Hán – 206 trước CN và 220 sau CN) sáng lập "Đạo 5 đấu gạo" (Ngũ đấu mễ đạo: ai muốn vào Đạo thì phải nộp 5 đấu gạo), thờ Lão Tử tôn xưng là Thái Thượng Lão Quân dùng kinh kệ, bùa chú, phương thuật, tế lễ… để thu hút tín đồ, được hậu thế phong là Trương Thiên Sư.
Thông thường các Thày Địa lý đều tinh thông một hay nhiều Pháp của Tiên gia như : Lỗ ban pháp ,Côn Lôn pháp, Mao Sơn pháp , Hà Dương mạn lạo bí lục ( các vu thuật của người dân  tộc trên miền thượng du Bắc Bộ), Liễu Linh Nhi ( là 1 pháp bí truyền của Kim Anh phái),  Bắc Thiên Sư Đạo 北天師道 , Bạch Gia Đạo 帛家道 ,Chân Đại Đạo 真大道 ,Chính Nhất Đạo 正一道 ,Lâu Quán Đạo 樓觀道 ,Lý Gia Đạo 李家道 ,Nam Thiên Sư Đạo 南天師道, Ngoại Đan Đạo 外丹道 ,Ngũ Đấu Mễ Đạo 五斗米道 ,Nội Đan Đạo 內丹道 ,Thái Bình Đạo 太平道 ,Thái Nhất Đạo 太一道 ,Toàn Chân Đạo 全真道 ,Tịnh Minh Đạo 淨明道 ,Diên Hống Phái 鉛汞派 , Du Sơn Phái 游山派   ,Đan Đỉnh Phái 丹鼎派 ,Đông Hoa Phái 東華派 ,Kim Sa Phái 金砂派 ,Linh Bảo Phái 靈寶派 ,Long Môn Phái 龍門派 ,Nam Vô Phái 南無派 ,Ngộ Tiên Phái 遇仙派 ,Phù Lục Phái 符籙派 ,Thanh Vi Phái 清微派,Thần Tiêu Phái 神霄派 ,Thiên Tâm Phái 天心派 ,Thượng Thanh Phái 派上清,Tử Dương Phái 紫陽派 ,Tùy Sơn Phái 隨山派 ,Bắc Tông 北宗,Các Tạo Tông 閣皂宗, Kim Đan Phái Nam Tông 金丹派南宗
Long Hổ Tông 龍虎宗,Mao Sơn Tông 茅山宗, Nam Bắc Tông 南北宗,Nam Tông 南宗......
Khi sử dụng các Pháp theo Đạo giáo như đã nói ở trên , người Thày phải thực hiện rất nhiều nghi thức tỷ mỷ, rối rắm và....bí truyền. 
Đạo Pháp đều có hệ thống lý luận, cách thức tập luyện và bí quyết riêng của mình, nhưng các môn này đều sử dụng phương thức chung là truyền miệng. Không lưu lại văn tự và cấm lưu truyền cho người ngoài, do lưu  truyền bí ẩn nên bí quyết không nói miệng mà bằng ẩn ngữ thay thế, nếu  như không có vị thầy cao tay chỉ dẫn, thì thật khó có thể hóa giải, thật  khó có thể đắc đạo nổi. Thông qua, căn cứ theo căn số của từng người mà truyền thụ, người học  pháp có thể dùng chú ngữ để trị bệnh, trừ ác dương cao cái thiện, khử tà trấn sát và đuổi âm hộ pháp, Người có đạo hạnh cao thâm hình thức bùa tùy tâm để làm việc, khi đạt điểm cao nhất của của bùa chú là có thể làm cho lá bùa ứng biến như thần, có hiệu quả tức khắc với bất cứ trường hợp  nào mà không cần lập đàn mà lại không hề hao tổn nguyên khí. Tu luyện đạo pháp nhiều năm có thể lĩnh hội được công dụng của bùa 
chú, có thể trừ tà, phá sát, hộ thân.
Đa phần các Thày Địa lý ngày xưa đều là những nhà Phù thủy có nhiều pháp thuật để phù trợ cho công việc làm Âm trạch cũng như Dương trạch . Các pháp thuật của Đạo gia thường có tác dụng rất nhanh , tuy nhiên cũng thường có những tác dụng phụ không mong muốn. Khi Thày còn khỏe mạnh hay rèn luyện Pháp thuật thường xuyên, các binh gia đều phải nghe theo lệnh của Thày mà làm việc. Tuy nhiên khi Thày già yếu mất đi hay có những Thày dương dương tự đắc vào Thần thông , lúc đó binh gia sẽ phản loạn , còn gọi là " dậy binh " , không chịu sự điều khiển của Thày nữa. tất nhiên hậu quả sẽ vô cùng thảm khốc . Người xưa đã dậy : " Nhất nhật vi Sư - Tam niên khất thực " . ( Một ngày làm Thầy mà không có đức thì 3 năm con cháu phải đi ăn mày ).
Ngoài phương pháp sử dụng Kinh, Chú, Bùa của bên Đạo Tiên gia , còn có một dòng phái các Thày Địa lý ( Thường là ẩn danh ) , sử dụng Mật chú Mật Tông để làm công cụ hỗ trợ khi tác pháp.
"Mật tông (zh. 密宗 mì-zōng) là từ gốc Hán dùng để gọi pháp môn bắt nguồn từ sự kết hợp giữa Ấn Độ giáo và Phật giáo Đại thừa, được hình thành vào khoảng thế kỷ 5,6 tại Ấn Độ. Mật tông còn có tên gọi là Mật giáo hoặc Bí mật giáo, Chân ngôn tông, Kim cang thừa, Mật thừa, Quả thừa v.v..
(Có một số ý kiến cho rằng có sự đồng nhất giữa tên gọi Mật tông với Kim cương thừa (Vajrayāna). Tuy nhiên, tên gọi Kim Cương Thừa chỉ thấy xuất phát từ Tây Tạng, còn các nguồn kinh điển Hán tạng xưa không đề cập đến tên gọi này. Vấn đề này có thể thấy rõ qua nét khác biệt của hai đường lối tu giữa hai trường phái. Mật Tông Trung Quốc xuất phát từ sự kết hợp giáo nghĩa của cả hai Kim Cương Giới và Thai Tạng Giới, trong khi đó Mật Tông Tây Tạng hiếm khi đề cập đến Thai Tạng Giới và Kinh Đại Nhật.)" (https://vi.wikipedia.org )
"Mật Chú Đà Ra Ni còn được gọi là “chân ngôn” hay “chân kinh” tức là những câu nói ngắn nhưng rất vi diệu, chân thật, “bất khả tư nghị” của chư Phật hay chư Bồ Tát. Mật Chú không thể giải nghĩa được hay lý luận được. Những buổi lễ quan trọng nhất của Mật Tông mới được dùng những Mật Chú này. Công dụng chính là đưa những sức huyền diệu, anh linh của vũ trụ đi vào trong nội tâm của con người. Mật Chú cũng có thể tiêu trừ những bệnh khổ do Tứ Đại gây ra. Những bệnh do Ngũ uẩn, hay do quỷ thần gieo rắc cũng có thể giải cứu bằng Mật Chú được. Cũng như Đàn Tràng (hay Đàn Pháp) (Mandala), Mật Chú có công dụng vô biên, khó lường được. 
Mật Tông còn gọi là Chân Ngôn Tông, trong đó rất nhiều thần chú và ấn khuyết. Chư Phật 10 phương, chư Bồ Tát và các bộ chúng thiện thần ủng hộ chúng sanh tuyên thuyết thần chú cũng rất nhiều. Tuy nhiên thiên ma, tà ma ngoại đạo cũng nương theo lòng từ bi của Phật nói ra cũng không ít. Vì vậy, kết tập lại thành 1 tạng Mật Tông (Mật Tạng) tất cả thần chú nói trên đều có oai lực rất lớn, người tu trì Mật Tông phải hết sức cẩn trọng. Như lời khai thị đã nói: Mật Tông chỉ là năng lực nhằm đưa hành giả đi nhanh mau đến mục đích. Nhưng mục đích ấy chánh hay tà, chơn hay ngụy đều đáng lưu tâm là chổ đó, không khéo tu 1 thời gian trở thành tà ma, ngoại đạo, phù thủy, bùa phép, kỳ hình, dị tướng. Tóm lại, Mật Tông như con dao 2 lưỡi...."
Mật chú Mật tông có rất nhiều công dụng trong cõi Ta bà của chúng ta và được rất nhiều vị ẩn sư về Địa lý áp dụng trong Phong thủy.Điều này dienbatn sẽ nói rõ ở những phần sau.
Trong loạt bài này , dienbatn xin cùng chia sẻ với các bạn những vấn đề chính như sau :
1. SƠ LƯỢC MỘT SỐ PHÁP TRONG ĐẠO PHÁP TIÊN GIA ĐƯỢC SỬ DỤNG TRONG PHONG THỦY.
2. ÁP DỤNG MẬT CHÚ MẬT TÔNG TRONG ĐỊA LÝ PHONG THỦY.
Xin theo dõi tiếp bài 2. Thân ái. dienbatn.
Xem chi tiết…

"HUYỀN MÔN PHONG THỦY THỰC DỤNG" BÀI 9.

10/23/2016 |
"HUYỀN MÔN PHONG THỦY THỰC DỤNG" BÀI 9.
Nguyễn Ngọc Vinh - bút danh Mân Côi.

Đây là một tài liệu dienbatn sưu tầm được. Nhận thấy có nhiều điểm bổ ích nên đăng lại trong Blog này. Tất nhiên " ngọc nào cũng có vết " - Có nhiều điểm chưa đúng hoàn toàn , nhưng là một tư liệu quý để các bạn suy ngẫm , chiêm nghiệm. Nhiều khi ca một cuốn sách chỉ cần một dòng cũng soi sáng cho ta nhiều điều trong quá trình tu học. Xin giới thiệu cùng các bạn . Thân ái. dienbatn.
16. PHÁP THỨC BÁT MÔN
Pháp thức bát môn là nói tới tám cửa, ứng hợp với tám quái trong kinh dịch. Pháp thức này được áp dụng trong hầu hết các học thuật cổ của Trung Hoa. Nguyên tắc chính của bát môn là "dụng sự" (nghĩa là dựa vào hướng cát hung mà khởi một việc gì đó). Pháp thức bát môn khác với pháp thức cửu tinh là nó không nhập vào trung cung, mà theo chiều kim đồng hồ. Bát môn có tám cửa với ý nghĩa như sau:
người ta kết hợp giữa Bát môn và Cửu tinh tử bạch để tìm ra phương hung, phương cát và việc làm cho phù hợp với thiên thời, địa lợi. Nguyên tắc xử dụng như sau:
Cát + Cát = Đại cát
Cát + Hung = Bình hòa
Hung + Cát = Bình hòa
Hung + Hung = Đại hung
Trong đó có 4 cửa cát là: Khai - Hưu - Sinh - Cảnh, bốn cửa hung là: Thương - Đỗ - Tử - Kinh. 
CÁCH KHỞI
Trong bát môn cũng được chia ra làm 4 loại là niên, nguyệt, nhật, thời. Ở đây chúng ta chỉ xét bát môn theo ngày: theo khẩu quyết âm độn hay dương độn ta có thể tìm ra bát môn trực nhật, sau đó lần lượt an thuận theo chiều kim đồng hồ vào cửu cung (không an vào trung cung).
Ví dụ: vào ngày Canh Ngọ nào đó sau tiết Đông Chí, xử dụng dương độn ta an cửa Hưu vào cung Chấn, lần lượt an thuận ta có bát môn như sau:
NHẬN XÉT
Bát môn cứ 3 ngày thì cửa Hưu đáo nhập một cung, ví dụ như trong thời dương độn thì cửa Hưu đáo nhập cung Khảm trong ba ngày Giáp Tý, Ất Sửu, Bính Dần. Nếu ta bỏ cửa Hưu lên cửu cung an thuận (cứ 3 ngày là 1 cục) ta sẽ thấy nó vận hành thuận/nghịch theo cửu cung:
BẢNG BIỂU DIỄN THEO CHIỀU DỌC .
Ta thấy rằng quy luật của bát môn như sau:
lấy 3 ngày làm một cục, mà mỗi tiết khí được 15 ngày, vậy mỗi tiết khí quản 5 hầu. Vòng quanh một bảng hoa giáp vốn có 60 ngày, chia cho 3 ngày mỗi cục sẽ được 20 bước nhảy. Bước nhảy cuối cùng là "Tân Dậu, Nhâm Tuất, Quý Hợi" ở cung 4 không tiếp nối được với bước đầu tiên ở cung 1 - bị gọi là thoát khí ở các cung sau:
dương độn: vào chu kỳ cuối cùng tính từ Nhâm tý tới Quý hợi thì các cung: Càn, Đoài, Cấn, Ly không có các ngày trực nhật, vậy chúng bị thoát khí.
âm độn: Khảm, Khôn, Cấn, Tốn không có các ngày trực nhật, vậy chúng bị thoát khí.
nay bảo lưu lại nghi vấn về pháp quyết Bát môn, hồi sau sẽ tìm hiểu kỹ lại.

17. THÀNH MÔN NHỊ CUNG DƯƠNG TRẠCH .
Từ "Thành môn" là dựa vào hình dạng để gọi, nghĩa đen là "cổng thành", nguồn gốc xuất xứ của nó tức là cửa bốn phương, tám hướng của thành trì ngày xưa: mỗi phương mỗi hướng đều có cửa đi ra vào. Ngoài ra, học thuật phong thủy còn có từ "Thủy khẩu", xét địa hình một vùng đất có bốn phương núi non bao bọc, có một vài chỗ khuyết để lưu thông ra vào bằng đường thủy hay đường bộ. Thành môn dương trạch được áp dụng bằng các hình thức chính sau đây:
Nơi giao nhau giữa các ngã đường (ngã ba, ngã tư, ngã năm vv)
Các bến cảng có thuyền bè neo đậu tấp nập
Các cơ quan nhà máy có công nhân, xe cộ đông đúc
Nơi có ao hồ đầm nước, núi non..vvv.
Chỗ ngã ba sông hợp lưu...
Dụng cửa nhà thông khí để làm thành môn. Từ "thành môn" (cửa thành) xét về không gian gọi là "chiếu thần" hoặc "cát hướng". Công dụng của thành môn là khi thiết kế xây dựng nhà cửa, phải tìm được Thành môn tọa nơi cung cát để liên tục nhận được thêm vượng khí từ vùng đất xung quanh, hỗ trợ cho khí của sơn/hướng của ngôi nhà - giống như trên gấm thêu thêm hoa. Công thức chính của việc thiết lập Thành môn được chia làm hai cách: 1) chính thành môn (hay còn gọi là Chính cách hay Chính mã); 2) Phụ thành môn (hay còn được gọi là Thiên cách hay Tá mã). Pháp thức chủ yếu dựa vào tám quái của bát quái, lấy quái hướng làm chủ đạo: trong tám quái thì có 4 quái thuộc tứ chính là Khảm (tý), Ly (ngọ), Chấn (mão), Đoài (dậu); 4 quái tứ duy là Càn, Tốn, Cấn, Khôn. Xử dụng công thức hợp số tiên thiên mà hình thành như sau:
nhà có hướng bát quái tứ chính: Chính thành môn là quái kế trước nó, phụ thành môn là quái kế tiếp nó (theo chiều kim đồng hồ).
nhà có hướng bát quái tứ duy: dụng quái kế tiếp nó làm Chính thành môn, dụng quái kế trước nó làm phụ thành môn
Từ pháp thức chủ đạo nói trên phát sinh ra hệ quả "Thành môn nhị cung phụ mẫu tử tức".
THÀNH MÔN NHỊ CUNG PHỤ MẪU TỬ TỨC
xét trong bảng "Tam nguyên âm dương long" thì một quẻ quản 3 sơn chi ra làm tam tài thiên địa nhân.
Từ phân biệt tam tài này, khi tiếp nhận sa/thủy hoặc hình thức phụ trợ nào khác phải cần thành quẻ thuần túy - nếu lẫn lộn tam tài là nghịch quẻ, không tốt:
Tám quẻ phụ mẫu, khi tiếp nhận sa thủy vv... hoặc các hình thức phụ trợ khác phải nằm trong tám sơn phụ mẫu.
Tám sơn nghịch tức, khi tiếp nhận sa thủy hoặc các hình thức phụ trợ khác, phụ trợ đó phải nằm trong tám sơn nghịch tức.
Tám sơn thuận tử, khi tiếp nhận sa thủy hoặc các hình thức phụ trợ khác, phụ trợ đó phải nằm trong tám sơn thuận tử.
VÍ DỤ 1
Ngôi nhà tọa Tý hướng Ngọ trực thuộc tám sơn phụ mẫu, khi tiếp nhận ngoại khí thông qua các hình thức như sa, thủy, các ngũ đường, ao, hồ, nhà máy, bến cảng vv.. phải nằm trực thuộc các sơn Tý, Ngọ, Mão, Dậu, Càn, Khôn, Cấn, Tốn(tam tài thiên) có như thế mới gọi là hợp quẻ thuần túy.
VÍ DỤ 2
Ngôi nhà tọa Canh hướng Giáp trực thuộc tám sơn nghịch tức, thì khi tiếp nhận ngoại khí (như ví dụ 1 đã ghi) phải nằm trong tám sơn Nhâm, Bính, Giáp, Canh, Thìn, Tuất, Sửu, Mùi (tam tài địa). Có như thế mới gọi là hợp quẻ thuần túy.
VÍ DỤ 3
Ngôi nhà tọa Tân hướng Ất trực thuộc tám sơn thuận tử, thì khi tiếp nhận ngoại khí phải nằm trong tám sơn Ất, Tân, Đinh, Quý, Dần, Thân, Tị, Hợi (tam tài nhân). Có như thế mới gọi là hợp quẻ thuần túy.
Pháp thức Thành môn nhị cung dùng để khai môn nhà cửa, hoặc dùng để tiếp nhận sa, thủy hoặc các giao lộ có đông đúc xe cộ vận hành hay các cơ quan xí nghiệp, nhà máy vvv... để tiếp nhận thêm ngoại khí, nhàm phù trợ cho sơn hướng của ngôi nhà.
Vì có liên quan tới khái niệm "Thành Môn nhị cung", nay post lại để bạn đọc dễ theo dõi:
LẬP HƯỚNG KHAI MÔN CHO DƯƠNG TRẠCH
Phần này dùng để minh họa cho việc ứng dụng cho 2 pháp quyết Đại, tiểu huyền không ngũ hành. Chúng ta sẽ gặp lại các khái niệm về khai sơn, phóng thủy, khai môn trong một phần chuyên biệt khác. Đối với các bạn mới bắt đầu tìm hiểu phong thủy (cũng như tui), có lẽ đọc tới các pháp quyết này sẽ cảm thấy khó hiểu - tuy nhiên chúng ta cứ bảo lưu đấy đã, từ từ các phần khác sẽ làm sáng tỏ từng điểm.
Trong pháp dương trạch, ta dùng ngã ba/tư/năm..vv đường gần nhà nhất làm sơn lai thủy: dùng la kinh đặt giữa trọng tâm miếng đất hay căn nhà muốn xây dựng để xem giao điểm của các ngã đường (ngã ba, ngã tư, ngã năm...vv) gần nhà nhất nằm thuộc sơn nào, từ đó dựa vào pháp quyết đại/tiểu huyền không (giống y hệt như cách dùng trong âm trạch) để lập hướng và khai môn cho căn nhà/miếng đất:
Ví dụ 1: căn nhà trong thành phố cố định một hướng, đó là tọa Cấn hướng Khôn, nhà này có ngã tư gần nhà nhất nằm ở sơn Tị:
Kết hợp cả hai pháp thức Tiểu/đại huyền không, ta chọn được 5 môn để khai sơn: Tý Dần Thìn Cấn Tị. Khi đã chọn được 5 sơn khai môn này rồi, ta sẽ kết hợp dùng thêm pháp thức "Đại du niên" hoặc pháp thức phụ mẫu tử tức huyền không. Định theo công vị mà chọn sơn chính để khai môn (hai pháp thức này sẽ nói rõ phần sau).
Kết Hợp Pháp thức Đại Du Niên: căn nhà tọa Cấn có các cung cát là:
Khôn (Mùi - Khôn - Thân) được sinh khí
Đoài (Canh - Dậu - Tân) được thiên y
So sánh với 5 sơn khai môn trên, ta không thấy có trùng hợp vì vậy không dùng pháp thức đại du niên được. Ta chuyển qua pháp thức "Phụ mẫu tử tức huyền không".
Kết Hợp Pháp Thức "Phụ mẫu tử tức huyền không"
Ngã tư nằm thuộc sơn Tị, thuộc công vị "nhân" là thuận tử. Trong 5 sơn đã chọn ra thì:
Tý, Cấn thuộc "Thiên" không hợp công vị của thủy lai
Dần, Tị thuộc "Nhân" hợp với công vị của thủy lai
Thìn thuộc "Địa" không hợp công vị của thủy lai
Vậy tổng kết lại chỉ có hai sơn Dần, Tị phù hợp với công vị của thủy lai. Nhưng sơn Dần lại trực thuộc cung Phục vị phía sau nhà, thành ra chỉ có thể thông cửa hậu. Sơn Tị nằm bên hông trái nhà, cố gắng chừa khoảng cách để mở cửa tại sơn tốt này. Giả sử không thể mở cửa tại cung Tị, ta có thể dùng cung Thân của tiểu huyền không để khai môn (vì được cung Sinh khí).
Ví dụ 2: căn nhà tọa Càn hướng Tốn, có ngã 5 gần nhà nhất tại sơn Cấn:
Hợp nhất đại/tiểu huyền không ta được bốn sơn: Cấn Bính Ất Đinh. Nạp đại du niên: tọa Càn có Đoài (sơn Canh Dậu Tân) thuộc sinh khí, Khôn (sơn Mùi Khôn Thân) thuộc Diên niên; Cấn (Sửu Cấn Dần) thuộc Thiên y. Rút lại ta được sơn Cấn - nằm bên hông trái nhà. Cố gắng thiết kế thông cửa ở sơn này, 3 sơn còn lại không nằm ngay cung hướng nên bỏ. Còn hai sơn Thìn và Tị nằm ngay mặt tiền nhà, theo Đại huyền không cũng dùng để cửa được.
Ví dụ 3: nhà tọa Bính hướng Nhâm, có ngã tư gần nhà nhất tại sơn Giáp:
Hợp nhất đại/tiểu huyền không ta có 5 sơn dùng được: Hợi Giáp Quý Đinh Dậu. Nạp đại du niên: nhà tọa Bính thuộc cung Ly: có quẻ Chấn (sơn Giáp Mão Ất) được sinh khí; quẻ Khảm (sơn Nhâm Tý Quý) thuộc diên niên; quẻ Tốn (Thìn Tốn Tị) được Thiên y. Kết hợp cả 3 pháp quyết ta lựa được sơn Quý, Giáp để làm cửa: sơn Quý ngay mặt tiền, sơn Giáp nằm bên hông nhà.
Ví dụ 4: nhà tọa Khôn hướng Cấn, có ngã tư gần nhà nhất tại sơn Tị:
Kết hợp cả hai pháp thức Tiểu/đại huyền không, ta chọn được 5 môn để khai sơn: Tý Dần Thìn Cấn Tị. Nạp đại du niên: nhà tọa Khôn được cung Cấn (sơn Sửu Cấn Dần) được sinh khí; cung Càn (sơn Tuất Càn Hợi) được diên niên. Lựa ra được 2 sơn Cấn Dần phù hợp cả 3 pháp thức, mà cả hai sơn đều ở mặt tiền của nhà nên mở cửa rất tốt.
18. PHÁP THỨC KHAI MÔN DƯƠNG CƠ .
Học thuật phong thủy phần dương trạch xem việc khai môn là rất quan trọng. Theo quan niệm của phong thủy, cửa nhà chính là nơi tiếp thu khí trường mạnh nhất và thường xuyên nhất. Người xưa rất coi trọng khai môn, và áp dụng nó để xoay trở hướng nhà, hướng đình, chùa miếu...vv. Có nhiều pháp quyết khai môn khác nhau, cần phải kết hợp nhiều pháp quyết thành một thể hoàn chỉnh để thiết kế cửa nhà. Có các pháp quyết cho khai môn như sau:
Pháp "Đại du niên" đã trình bày ở phần "Phiên quái hay Biến quái".
1. Pháp "Thành môn nhị cung"
2. Pháp "Phụ mẫu tử tức"
3. Pháp "Phu phụ tiên thiên"
4. Pháp "Ngũ hành đại huyền không" - dựa theo các giao lộ của đường phố mà khai cửa..vv.
Trong các pháp thức nói trên, pháp "Đại du niên" được coi là chuẩn mực và lâu bền nhất. Khi dùng pháp này cũng cần phải kết hợp thêm với hệ phụ mẫu tử tức, hay các hình thức ngoại khí khác xung quanh nhà như: sa, thủy, giao lộ, nhà máy..vvv.
hình trên biểu diễn tám kiểu nhà tám quẻ, ta nên hiểu rằng mỗi quẻ quản 3 sơn. Ta có thể nhận ra rằng:
có bốn kiểu nhà khai môn trực hướng cát lợi là:
- nhà tọa khảm hướng ly
- nhà tọa ly hướng khảm
- nhà tọa cấn hướng khôn
- nhà tọa khôn hướng cấn
bởi khai môn tại hướng gặp các sao vũ khúc/diên niên, tham lang/sinh khí. Đây chính là lý do tại sao người xưa hay dùng hướng Bắc - Nam, Nam - Bắc để xây dựng đình chùa miếu mạo.
có bốn kiểu nhà khai môn trực hướng bất lợi là:
- nhà tọa càn hướng tốn
- nhà tọa tốn hướng càn
- nhà tọa chấn hướng đoài
- nhà tọa đoài hướng chấn
bởi khai môn tại hướng gặp các sao lộc tồn/họa hại, phá quân/tuyệt mệnh. Đây là bốn thế nhà sở đoản.
Để khắc phục các thế nhà sở đoản, ta phải mở đường ở hông nhà, định ngay cung sơn cát để khai cửa phụ. Cần phải kết hợp với hệ "Phụ mẫu tử tức" để khai môn chính xác hơn.
HỆ PHỤ MẪU - TỬ TỨC
ta biết rằng dụng pháp thức "Đại du niên" chỉ tính toán bát quái, mà mỗi quái quản 3 sơn. Khi muốn khai mở thêm cửa phụ, ta phải xét sơn tọa của căn nhà thuộc tài nào trong tam tài thiên - địa - nhân mà quái tọa sơn của căn nhà quản, sau đó chọn ngay cung cát trùng với "tam tài" của sơn tọa căn nhà - việc xét đó gọi là "hệ phụ mẫu tử tức". Xem bảng sau:

VÍ DỤ THỰC HÀNH 1
Xét căn nhà tọa Càn (ứng với tài "thiên") hướng Tốn, nhà này khai môn chính hướng gặp cung lộc tồn/họa hại. Vì thế muốn khai mở thêm cửa phụ để đón cát. Dùng pháp thức "Đại du niên" ta có ba cung cát:
Cấn - cự môn/thiên y: quản 3 sơn Sửu (địa), Cấn (thiên), Dần (nhân). Nếu chọn mở cửa phụ thì phải chọn tại sơn Cấn có tài thiên trùng với tài thiên của tọa.
Khôn - vũ khúc/diên niên: quản 3 sơn Mùi (địa), Khôn (thiên), Thân (nhân). Nếu chọn cung này mở cửa phụ thì phải chọn tại sơn Khôn, có cùng tài thiên.
Đoài - tham lang/sinh khí: quản 3 sơn Canh (địa), Dậu (thiên), Tân (nhân). Nếu muốn chọn cung này để mở cửa phụ thì phải chọn sơn Dậu là sơn có tài thiên.
HỆ PHU PHỤ TIÊN THIÊN
chỉ quan hệ giữa quái hậu thiên và quái tiên thiên, tức là lấy quái nào đối xứng với quái tọa của căn nhà thì gọi là "hệ phu phụ tiên thiên".
VÍ DỤ THỰC HÀNH
Xét căn nhà tọa Ất (ứng tam tài Nhân) hướng Tân, khai môn chính hướng gặp cung tuyệt mệnh không tốt. Nhà này có 3 cung cát là:
Khảm - cự môn/thiên y, quản 3 sơn Nhâm (địa), Tý (thiên), Quý (nhân)
Tốn - vũ khúc/diên niên, quản 3 sơn Thìn (địa), Tốn (thiên), Tị (nhân)
Ly - tham lang/sinh khí, quản 3 sơn Bính (địa), Ngọ (thiên), Đinh (nhân).
Vì trong tiên thiên bát quái thì Tốn đối xứng với Chấn gọi là cặp "phu phụ tiên thiên) nên ta chọn sơn Tốn. Nếu không, ta có thể chọn tài nhân trong 3 cung nói trên.
XÉT NGŨ HÀNH THEO TIỂU HUYỀN KHÔNG VÀ ĐẠI HUYỀN KHÔNG (XEM PHẦN ĐẠI/TIỂU HUYỀN KHÔNG NGŨ HÀNH)
HỢP CUNG BÁT QUÁI NẠP GIÁP TAM HỢP.
bát quái nạp giáp tam hợp thì Khảm và Ly không nạp Mậu Kỷ bởi trong hai bốn sơn không có Mậu Kỷ, cho nên Ly nạp Nhâm của Càn, Khảm nạp Quý của Khôn:
theo nguồn gốc của Tiên thiên bát quái thì Khảm Ly nạp Mậu Kỷ
theo cái dụng của Hậu thiên bát quái thì Khảm nạp Quý, Ly nạp Nhâm
tứ chính là bốn quẻ Khảm - Ly - Chấn - Tốn còn kiêm nạp thêm tám chi, mỗi quái nạp hai chi.
Như thế, chỗ hai chi mới nạp và chi của chính quái sẽ tạo thành tam hợp. Tọa sơn của thuật Kham dư, Cửu tinh tranh âm tranh dương, nguồn gốc đều xuất ra từ đó. 
19. PHÁP THỨC PHÓNG THỦY DƯƠNG CƠ
Pháp phóng thủy, hay nói nôm là phương thức thiết kế đường ống xả nước thải sinh hoạt trong nhà ra đường ống chính. Vị trí của đường ống thoát nước từ trong nhà ra khỏi địa phận căn nhà - nơi đó chính là sơn của "khứ thủy". Trong phong thủy, pháp phóng thủy có rất nhiều cách:
xét ngũ hành đại huyền không theo công thức sinh xuất, khắc nhập - lấy sơn nhà làm chủ để xét.
một vài cách khác...
Nhưng theo hiện trạng nhà cửa đô thị hôm nay, chỉ nên lấy pháp thức chính yếu sau đây:
Tọa hướng của căn nhà thuộc địa chi thì phải phóng thủy lệch qua hai bên biên hướng nhà, nằm vào các sơn Thiên can/Tứ duy.
Tọa hướng của căn nhà thuộc thiên can/tứ duy thì cứ phóng thủy ngay chính giữa hướng nhà mà lập.
Ta có bảng lập sẵn sau đây:
19. PHÁP THỰC TỌA BẾP DƯƠNG CƠ .
Đây là những nguyên tắc khi làm bếp:
đặt hướng bếp phải tọa Đông hướng Tây, hoặc tọa Tây hướng Đông, chứ không nên đặt bếp tọa Nam hướng Bắc, hoặc tọa Bắc hướng Nam. Khi nấu bếp thì người nấu phải quay mặt về hướng Đông hoặc hướng Tây, chứ không bao giờ được phép quay mặt về hướng Nam hay hướng Bắc.
bếp không nên trùng với hướng Bạch hổ, tức là phải đặt bếp bên phía/mé trái của căn nhà (thanh long là mé trái, bạch hổ là mé phải).
hướng bếp phải tránh đối diện với cửa phòng
Công thức đặt bếp dương cơ được lập nên bởi các nguyên tắc sau: dùng pháp song sơn để định sơn trạch:
tọa sơn nhà thuộc tứ mộ (thìn, tuất, sửu, mùi) thì lấy tứ mạnh (dần, thân, tị, hợi) làm sơn tọa bếp.
tọa sơn nhà thuộc tứ mạnh (dần, thân, tị, hợi) thì lấy tứ mộ làm sơn tọa bếp.
tọa sơn nhà thuộc tứ chính (tý, ngọ, mão, dậu) thì lấy ngay tứ chính làm tọa bếp.
Chúng ta có bảng lập sẵn như sau:
20. PHÁP XUYÊN TỈNH (ĐÀO GIẾNG) DƯƠNG TRẠCH .
Pháp thức này dựa vào công thức "Thập nhị thần" để lấy hai cung Trường sinh và Đế vượng dùng để đào giếng. Muốn sử dụng cho đúng pháp này thì cần phải phân biệt nhà thuộc dương cục hay thuộc âm cục - thì phải biết xem "lai long" phương nào tới (như đã nói trong mục "Âm Dương"). Tuy nhiên, theo thực trạng hoàn cảnh xã hội ngày nay thì phố xá nhà cửa quá đông - khó lòng xác định chính xác lai long. Do vậy chỉ nên dùng hai cung đế vượng của hai cục âm dương mà thôi, chứ không nên dùng hai cung Trường sinh (bởi nếu dùng lộn thì sinh sẽ thành tử, tử sẽ thành sinh rất là nguy hiểm). Các sơn được gộp chung bởi pháp "Bát quái nạp giáp tam hợp", được chia thành tám cục như sau:
21. PHÁP LẬP PHÒNG NGỦ, PHÒNG VỆ SINH DƯƠNG TRẠCH .
Phòng ngủ: khi thiết kế phòng ngủ, phải xem tọa căn nhà thuộc đông trạch hay tây trạch:
nếu tọa của căn nhà là Đông trạch: phải để phòng ngủ ở các cung Khảm, Ly, Chấn, Tốn
nếu tọa của căn nhà là Tây trạch: phải để phòng ngủ ở các cung Càn, Đoài, Cấn, Khôn
Tọa nhà là đông tứ trạch thì phòng ngủ cũng phải thuộc đông tứ, cho người đông tứ ở và ngược lại. Không được lẫn lộn đông tứ với tây tứ.
Phòng vệ sinh:
khi thiết kế xây dựng nhà cửa phải bố trí phòng vệ sinh như sau:
cửa phòng vệ sinh không được cùng hướng với cửa chính
không được đối diện với đòn giông nhà
không được đối diện với phòng khách và đại sảnh
phải tránh xa bếp và giếng nước
22. CÁT HUNG PHÂN PHÒNG, LẦU TRẠCH .
Để tính được cát hung của số phòng, số lầu trong một căn nhà chúng ta dựa vào ba yếu tố chính sau:
mệnh chủ nhà: tức là mệnh nạp âm ngũ hành của người chủ chốt của căn nhà đó.
số gian nhà: căn nhà ngăn vách ra nhiều gian, lấy số tiên thiên mà đoán định (xem bảng dưới đây).
số tầng nhà: cũng giống như số gian nhà .
Các số trên lấy trong cặp số hà đồ mà ra. Cách dùng: cứ tương sinh hoặc tỷ hòa với mệnh chủ là tốt, tương khắc với mệnh chủ là xấu.
VÍ DỤ 1
nhà trệt không lầu, có 3 gian vậy thuộc hành mộc. Nhà này phù hợp mệnh thủy, hỏa, mộc.
VÍ DỤ 2
nhà có 1 lầu thuộc hành thủy, do đó phải bố trí số gian trong căn nhà là 3 gian (hành mộc) để tạo thế thủy sinh mộc. Tạo 4 gian (hành kim) để tạo thế kim sinh thủy. Kỵ phân gian thành 5 hay 7 gian bởi sẽ tạo thành thế thổ khắc thủy hoặc thủy hỏa tương khắc. Giả sử chủ nhà mệnh hỏa, thì tạo 3 gian để tạo thế thủy sinh mộc, mộc sinh hỏa.
VÍ DỤ 3
nhà có hai tầng (hành hỏa), phải phân gian thành 3 (mộc) phòng hoặc 5 (thổ) phòng để tạo thế tương sinh. Giả sử chủ nhà mệnh kim thì nên tạo 5 gian phòng để tạo thế hỏa sinh thổ, thổ sinh kim. Giả sử chủ nhà mạng mộc, tạo 3 gian để mộc gặp mộc vượng khí. 
Ngoài ra, người mệnh tây tứ trạch nên ở phòng tây tứ trạch, mệnh đông tứ nên ở phòng đông tứ.
23. THÔI THIÊN QUAN HUYỆT PHÁP .
Đây là bảng thống kê các hướng cát nhất trong "Long nhập thủ" theo nguyên tắc: âm long âm hướng, dương long dương hướng, dùng để tùy nghi vận dụng:

KẾT.
Xin chân thành cảm ơn tác giả Nguyễn Ngọc Vinh - bút danh Mân Côi.

Xem chi tiết…

THỐNG KÊ TRUY CẬP

LỊCH ÂM DƯƠNG

NHẮN TIN NHANH

Tên

Email *

Thông báo *