CUỘC CHIẾN GIỮA CÁC PHÁP SƯ VÀ HAI CÕI ÂM DƯƠNG. BÀI 27.

11/03/2017 |
CUỘC CHIẾN GIỮA CÁC PHÁP SƯ VÀ HAI CÕI ÂM DƯƠNG. BÀI 27.
NHỮNG NĂM THÁNG HỌC HUYỀN MÔN.
Từ phần này trở đi có tên gọi là NHỮNG NĂM THÁNG HỌC HUYỀN MÔN. Đó là những tháng ngày vô cùng vất vả, trải nghiêm đủ Hỉ- Nộ- Ái - Ố của dienbatn . Cũng đã qua từ lâu rồi , xin kể lại để các bạn cùng chiêm nghiệm . Thân ái. dienbatn. Loạt bài này đã đăng trên báo giấy : Tuổi trẻ và Đời sống .
Hàng ngày tôi phải thường đọc các câu chú Thày Chàm dạy cho thật nhuần nhuyễn.
Chú kêu 3 ông Tổ lớn nhất  “ Ề hế tế dá mặc mặc.Ề hế thế dái mặc mặc.Ề hế Bi li mặc mặc.”.
*  KINH KÊU TỔ.
Nam mô tassa phagavato arahato sammasambut tasac.
Khi muốn làm việc gì lớn phải đọc bài kinh này.
* KINH KÊU TỔ.
Nô phích chi quých – Nô phích duol chanh – Ni hai ni duol – Nắt phích bích tíc – Nắt lom mô quên – Bíc quên bel thắt quên – Dul chai nắt lom – Lon lại nắt săng ti mô – Sa rắt pút thắt ma ních muốt mô ( 3 biến ).
* Chú tập và cầu Tổ buổi sáng.
Con cầu xin đức Phật Quan Thế Âm Bồ tát.
Con cầu sư Tổ Thất sơn Thần quyền.
Con cầu 7 vị sư phụ của đồ nhi.
Con cầu xin thể phách không chưởng.
Con cầu xin sư Tổ và 7 vị sư phụ Thất sơn Thần quyền cho đệ tử con được rê quyền nhanh mạnh , tu luyện chóng thành tài. BÚP THA.
*  CHÚ CẦU PHẬT BÀ VỀ TRỢ GIÚP.
Út đa măng kính cần Quán thế âm Bồ tát về tự. 
Hỏa hỏa chơn nhơn ba ông Đạo trưởng.
Như câu lão ông.
Thanh Trúc Đạo trưởng.
Bá Hanh ngũ độc.
Ngư Thiên Đạo trưởng.
Sử dụng : Đọc 3 lần - vái 3 vái.
 * Lời vái buổi sáng và trước khi tập quyền.
Nam mô A di đà Phật.
Phục vọng Hoàng Thiên hậu Thổ, Phật Tổ , Phật Thày. Linh Sắc, Hắc Tổ , Tam thập lục Thánh, thất thập nhị hiền, lục bộ đài quân, Du Thánh Du Thần cảm ứng, Phật mẫu tu luyện cho thành Đạo.
Nam mô A di đà Phật.
9 phương Trời - 10 phương Phật , Tây phương tiếp dẫn A di đà Phật , Quán Thế Âm Bồ tát , Phật Đại thế chí Bồ tát , Thích Ca mâu Ni Phật, Phật bà Thiên Tài Long nữ , Quan Thánh Đế Quân, chư vị Thất sơn , Tà Lơn lai lâm ủng hộ cho con tên ....tuổi ...quê .....tu luyện thành đạt.
* CHÚ CẦU ĐỘ MẠNG .
Ha ta ma - Ha ta ma.
Út ta ra hăng tác bà ha.
Phận bà Quan Âm, Như Lai.
Tê ra tát bắt phạt cho đệ tử ( 7 lần ).
*CHÚ CẦU THẦN VỀ MÁCH BẢO .
Nam mô Quán thế âm Bồ tát,
Nam mô sư Tổ của Thất sơn Thần quyền.
Cầu 7 vị sư phụ của Thất sơn Thần quyền.
Úm xùm xòa na ni - Vườn tó vườn tắc , vườn khám - Ám loại thoai thoai thoai - Vườn tán Quán thế âm Bồ tát .
* CHÚ CẦU 7 VỊ THẦN BÙA.
Phút thăn xa ra măn két xa mí.
Thơm măn xa ra măn két xa mí.
So khăn xa ra măn két xa mí.
Ề hế kìn xa ra - Ề hế mắc mắc.
* CHÚ CẦU 7 VỊ THẦN PHÉP.
Nắng ràm nàng rây bèn khen khuây - Nền nà nền ôi - A ra hăng á.
NHỮNG TÔNG PHÁI TRONG TSTQ.
Trong môn phái TSTQ, người ta chia ra 2 phái chính : Đó là Võ Đạo và Quyền Đạo. Trong Võ Đạo còn chia ra 2 phái là Âm Công và Dương Công. Thất Sơn Thần Quyền chính tông gồm 2 phần: Quyền và Thuật. Quyền là phần "dương công" gồm những thế võ cận chiến tay không và giáp chiến binh khí. Thuật là phần "âm công" huyền bí, dùng năng lượng siêu nhiên trợ lực. Chỉ đệ tử duy nhất được chọn kế thừa chưởng môn mới được sư phụ truyền dạy phần "âm công".
Trước hết là Võ Đạo :
“ Đạo Trong Võ Học : Nói về Đạo trong võ học, là nói về Đường lối, là Chân lý, là Giáo Dục. Võ học chính thống, thì cho dù là võ Việt Nam, võ Nhật, võ Trung Hoa, Đại Hàn, hay bất cứ môn phái của dân tộc nào cũng có Đạo. Nói chung, Võ Học có năm Đạo: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín. 
1. Chữ Nhân.
“Nhân” có nghĩa là lòng thương người, trên căn bản Nhân đạo. Võ học chính thống luôn dậy người phải có lòng Nhân. Học võ không phải để hại người, để khoe tài, để kiêu căng, chà đạp người khác, mà học võ là để vừa Tự vệ vừa để bảo vệ người yếu đuối. Không một môn võ chính thống nào dậy võ sinh là học xong, các trò phải đi xưng hùng xưng bá, phải giết chết địch thủ như trong các phim chưởng, truyện chưởng mà chúng ta thường xem. Tất cả những điều đó chỉ là kết quả của sự tưởng tượng, nhất là đối với dân tộc Việt Nam chúng ta.
Nếu lần giở lại lịch sử trên 4000 năm văn hiến, từ khi lập quốc đến nay, đến thời đại chúng ta, từ Nam, qua Trung, ra Bắc, chưa hề bao giờ nghe nói đến có những môn võ nào dậy đệ tử đi làm hại người cả. Ngược lại, chỉ thấy những môn võ rèn luyện môn sinh để giữ gìn đất nước, bảo vệ người cô thế. Đến khi những môn võ nước ngoài du nhập vào đất nước ta, cũng chỉ nghe nói đến chữ “Nhân” trong võ học. Các đòn thế đấm, đá, vật, xiết cổ, đè, quăng, ném đều hạn chế người xử dụng tới một điểm nào đó. Những cú đánh kết liễu chỉ được dành cho các môn sinh ở trình độ cao, có thể tự điều khiển được mình rồi, mới được học cách xử dụng, với lời căn dặn là “chỉ khi nào nguy cấp, không còn cách tự vệ nào khác, mới được áp dụng đòn hiểm để thoát thân.” Do đó, từ cả trăm năm nay, không mấy ai nghe nói đến có những trường hợp tử vong chỉ vì người xử dụng võ thuật nóng giận, đấm đá kẻ địch đến chết hoặc chết vì thách đấu.
2. Chữ Nghĩa
Một khi nói đến chữ “Nghĩa”, người ta thường nghĩ ngay đến “Nghĩa hiệp” và “hành hiệp trượng nghĩa”. Mà muốn hành hiệp trượng nghĩa, cứu khổn phò nguy, thì phải biết võ nghệ. Do đó, võ học đi liền với “nghĩa”. Người học võ thường thích ra tay nghĩa hiệp. Giữa đường thấy chuyện bất bằng là phải ra tay ngay. Nghĩa còn dậy chúng ta phải biết trả ơn một khi đã nhận ơn. Người học võ thường không bao giờ muốn nợ ai mà không trả. Nhất là nghĩa Thầy, Cô, nghĩa Sư Phụ, Đệ Tử. Học chữ có thể quên Thầy, nhưng học võ thì không bao giờ có thể không nhớ ơn Thầy đã nắm tay, cầm chân, chỉ cho một thế đá, thế đấm, không thể quên lời Thầy dặn dò, chỉ bảo, hoặc gắt mắng chỉ vì lo cho môn sinh mau tiến bộ, mà lại không gây thương tích cho chính mình hoặc cho người khác.
3. Chữ Lễ
Lễ là hình thức cư xử giữa môn sinh và Thầy Cô, giữa các môn sinh với nhau, giữa môn sinh của môn phái này và môn phái khác. Lễ được thể hiện ngay ở cách chào kính, bái tổ trước khi bước ra sân đấu. Tùy theo môn phái, mà cách chào kính, bái tổ khác nhau, thường thì bái Tổ sư, kính Thầy, chào bạn, có môn phái chào cả khán giả, có môn phái lại chào cả nơi chốn mà mình tập luyện, song đấu nữa. Trong môn phái Nhu Đạo, khi thi lên đẳng cấp đai đen, ngoài thi song đấu, thi kỹ thuật còn thi Lễ nữa. Các võ sinh đai đen phải di chuyển từng bước chân, từng cử động thật chậm đúng Lễ Nghi, đúng phong thái mới được trao bằng. Chữ Lễ trong võ học còn dậy các môn sinh quy củ trường tập, kính trên nhường dưới. Lễ dậy cách bảo vệ danh dự của Môn phái, bảo vệ danh dự cho nhau. Người đã tập võ chân chính càng ngày càng cung kính, nhún nhường, không cao ngạo, không tự phụ, khoe khoang, không biểu diễn võ công khi không cần thiết. Chữ “Lễ” trong Võ học được trọng kính và áp dụng hơn rất nhiều chữ lễ trong khi học chữ. Người Thầy trong Võ học khi xưa còn có quyền sinh sát với môn sinh hơn cả cha mẹ nữa cũng chỉ vì chữ “Lễ”.
4. Chữ Trí
Người học võ nhất định phải học những cách phản công, xử thế trong các trường hợp ngặt nghèo. Môn võ nào cũng dậy cách biến hóa, phản đòn, nghĩa là dậy các môn sinh dùng Trí tuệ đi kèm theo Võ thuật. Không có Trí, võ chỉ là những đòn hùng hục như trâu, gặp đối thủ lanh lợi thì nhừ đòn. Trí trong các môn võ học chính thống không phải là lường gạt, mưu mô, mặc dù có đòn hư, đòn giả. Người võ sinh chính nhân quân tử chỉ dùng Trí để không cho địch thủ biết mình định xủ dụng đòn nào thật, đòn nào giả. Những cạm bẫy để lừa gạt người không phải là Trí mà chỉ là phương pháp tiểu nhân mà thôi. Ngoài ra, các môn võ chân chính cũng dậy môn sinh phải biết suy nghĩ để cho võ thuật được xử dụng đúng lúc và đúng cách hầu đúng với câu :Một trí tuệ minh mẫn trong một thân thể tráng kiện.
5. Chữ Tín
Không cần phải giải thích nhiều, ai cũng hiểu, người có võ học luôn biết giữ chữ Tín của Người Anh Hùng, đã nói là làm, đã hứa là phải giữ lời. Người có chữ Tín thà chết không để cho danh dự bị xúc phạm vì nói mà không giữ lời. Trong chiến tranh, đã biết bao võ sinh hy sinh thân mình chỉ vì một chữ Tín với Giang Sơn, Tổ Quốc.
Tóm lại, nói đến Võ Học là nói đến Đạo, đến Lễ Nghĩa, Trung Tín, đến Danh Dự, đến lòng Nhân Từ và Trí Tuệ. Võ học không chỉ là tay đấm, chân đá, quật, vật, ném, tung mà là cả một hệ thống Đạo trầm ẩn, thâm sâu. Người học võ thâm thúy cũng như người tu đạo. Cho nên, khi nhìn một vị Tôn Sư thật sự, chúng ta tự nhiên thấy kính nể, vì những ưu trầm của Đạo đã thể hiện lên khuôn mặt cũng như một vị tu hành đã thành chánh quả. Không khắc khổ, cau có, không giận bùng, không buồn bã. Chỉ cất tiếng Sư Tử Hống để áp đảo địch thủ, chứ không nổi giận gào thét bất thường. Chỉ ra tay vũ bão để giảm nhẹ đau thương, chứ không biểu diễn, dậm dọa người cô thế. Võ học cao quý như thế nên võ học chính thống càng ngày càng thịnh. Những thế võ quái đản, hại người, hại thân như của Nhạc Bất Quần, Đông Phương Bất Bại như trong chuyện Chưởng thì tự nhiên dần dần tàn lụi. ( Nguồn: Việt Báo. ).
Không thể diễn đạt định nghĩa của - Võ đạo một cách đơn giản được. Đây vốn là từ dùng để chỉ Võ Sĩ Đạo nhưng Võ đạo ngày nay được định nghĩa khác nhau tùy theo từng môn phái.
Hơn nữa, dù là người trong cùng một môn phái nhưng cách suy nghĩ về Võ đạo cũng khác nhau, và có lẽ không có một định nghĩa nào về Võ đạo có thể thỏa mãn được tất cả mọi người.Tuy nhiên, nếu định nghĩa đái khái về Võ đạo thì có thể nói, trong Võ đạo, không chỉ học kỹ thuật chiến đấu, mà còn cần phải rèn luyện thể chất và tâm hồn, hình thành nhân cách.Ngoài ra, nhiều người thường đánh đồng Võ đạo và Võ thuật là như nhau nhưng Võ thuật chỉ kỹ thuật chiến đấu, còn Võ đạo hướng tới mục đích hình thành nhân cách thông qua kỹ thuật chiến đấu.
Võ đạo vốn không nhằm mục đích thi đấu, tranh tài. Khi con người đã có ý thức luôn tự hoàn thiện tất yếu sẽ tránh được những thói hư tật xấu, những sa ngã trong cuộc sống. Xã hội có nhiều con người tốt cũng sẽ tốt, cũng như khi có nhiều điểm sáng thì bóng tối sẽ tự tiêu tan. Đây là một lý tưởng hoàn toàn mang tinh thần phục vụ, cống hiến cho nhân loại, một nhân tố hòa hợp, gắn bó bằng tâm thức yêu thương, hào hiệp chứ không phải sự chinh phục, áp đặt, đồng hóa. Chân giá trị của " Võ đạo " là tính chất nhân bản : do con người, vì con người, phát triển và phục vụ con người...như một biển lớn thu nạp được tất cả mọi mạch nguồn từ các nơi đổ về, bất kể phẩm chất và số lượng của mạch nguồn đó ra sao, sau đó chuyển hóa thành nước biển trong sạch.
“Con Đường Võ Đạo
Với tính ứng dụng, Triết Lý Võ Đạo có nội hàm là Tam Chân (ba chân lý rốt ráo của Võ Đạo cần quán triệt) và Tứ Xứng (tương ứng với các trình độ truyền dạy mà người học phải hội đủ những phẩm chất để xứng đáng được truyền), và là kim chỉ nam hướng dẫn cho người học một cách xuyên suốt trên Con Đường Võ Đạo.
Tam Chân
Chân lý thứ nhất : Tự Thắng
Chiến thắng vĩ đại nhất của người học võ không phải là chiến thắng kẻ khác mà là chiến thắng bản thân, chiến thắng những đam mê thấp hèn, chiến thắng cái Tôi "Vĩ Đại" dốt nát, chiến thắng những chủ quan một chiều chật hẹp, những hoang tưởng về đỉnh cao vũ trụ... "Hiểu được bản thân là Anh, Thắng được bản thân là Hùng".
Chân lý thứ hai : Yêu người trên quan điểm vị tha
Người ta thường yêu theo cách hướng nội, thực chất là yêu bản thân mình, là để thỏa mãn khát vọng vị kỷ. Điều này đi ngược với quan điểm Võ Đạo. "Yêu" đúng nghĩa của Võ Đạo là mong cho người khác đẹp hơn mình, giỏi hơn mình và may mắn hơn mình. Trong quan hệ đồng môn, đó là sự chia sẻ, nhường nhịn của tình anh em gắn bó máu mủ, nâng đỡ nhau để cùng tiến bộ. Trong quan hệ thầy trò, đó là sự hy sinh không toan tính, vô bờ bến của người cha dành cho con.
Chân lý thứ ba : Định giang sơn, an vũ trụ
Đây không phải là một chân lý diễn đạt theo kiểu thậm xưng, mà là một thái độ hành xử rất cụ thể, không chỉ đúng với Võ Học mà rất đúng trong mọi hoàn cảnh xã hội, nhất là đối với một xã hội vẫn còn sự ganh đua, tranh giành, quay cuồng giữa bài toán "Cho" và "Nhận". Đây chính là cốt lõi uyên nguyên của mọi tranh chấp và xung đột trên thế giới hiện nay, là một lập trình đã sai cơ bản của vấn đề sinh tồn nhân loại. Võ Đạo lấy quan niệm bao dung "Yêu người trước nhất và ghét người sau cùng" làm nền tảng hành xử, hãy cho đi để mà nhận và nhận để mà cho, lấy việc bù đắp cho người khác trước rồi mới tới lượt mình thụ hưởng thành quả. Phải an được mình, làm ổn định được một vật  mới làm cho những vật khác, việc khác ổn định. Đối với người muốn đến với Võ Đạo, đây là một phương pháp rốt ráo, bắt buộc để rèn luyện tư duy, cảm xúc và hoàn thiện hành vi.
Tứ Xứng
ChânTruyền :
Người học trò đến với thầy, phải Chân Thành mới xứng đáng được thầy Chân Truyền .
Tâm Truyền :
Người học trò phải có lòng Tôn Sư Trọng Đạo, dốc tâm khổ luyện và tận tụy với môn phái mới xứng đáng được thầy  Tâm Truyền. Vì Tâm Truyền là kết quả của cảm ứng rung động, hòa cảm giữa thầy và trò. Chỉ trong trạng thái đó thầy mới toàn tâm toàn ý và tin cậy giao cho học trò những kiến thức ấp ủ một đời.
Bí Truyền :
Người học trò phải thông minh, tài trí xuất chúng, có căn cơ đặc biệt mới xứng đáng và đủ khả năng để được thầy Bí Truyền. Bí Truyền không có nghĩa là bí mật mà cần hiểu theo nghĩa truyền dạy bằng phương pháp siêu hình. Bí truyền đòi hỏi trò phải có căn cơ lĩnh hội hơn người và khả năng trừu tượng cao độ trong quá trình thụ giáo bằng tâm linh.
Mật Truyền :
Trò phải là con người tiềm ẩn nhiều phẩm hạnh cao quý, có khả năng hữu dụng cho đời, có tấm lòng vị tha và trái tim nhân ái, thầy mới dám Mật Truyền, mới gửi gắm cho trò những bí mật tuyệt học của Bản Môn.(http://www.shaolinwingchun.com/).
“ ĐẠO  là con đường, là hướng đi, là lối sống (Đạo đây không phải là một tín ngưỡng )
Vậy ĐẠO là đường lối, mục đích, là kim chỉ Nam. ĐẠO  còn mang ý nghĩa Lương Tâm của con người. Tâm hồn thanh cao trong một thể xác lành mạnh. ĐẠO  còn là NƯỚC : Nước có thể Hòa mà không Đồng. ĐẠO  còn được nêu cao như một mẫu mực của người Quân Tử. ĐẠO  được phô diễn như một Cây Tre. ĐẠO  chính là phần siêu thoát, tinh túy, vượt lên trên mọi bản ngã của con người : Ganh ghét, đố kỵ, hơn thua, sang hèn, tốt xấu……. ĐẠO  cũng chính là cán cân công bằng, giản dị, vị tha. ĐẠO là căn nguyên NHÂN BẢN dân tộc và nhân loại.
Nhờ có võ đạo người môn sinh tạo được niềm tin trong cuộc sống, luôn hướng thiện, tu luyện bản thân hoàn hảo hơn, xây dựng gia đình vững mạnh, thành công trong giao tiếp làm ăn, giúp ích cho dân tộc và nhân loại trong những công tác xã hội, xây dựng và bảo vệ đất nước…
Cũng nhờ tinh thần võ đạo, mà những dị biệt, những xung đột với những phương cách làm việc khác nhau được bỏ qua… nhờ vậy mà sự phát triển võ Đạo được tồn tại, lớn mạnh và lan rộng ra toàn thế giới .
Bất cứ ngành học thuật nào đạt tới mức nghệ thuật và dẫn dắt đời sống tinh thần của con người thêm phong phú, thanh cao, hướng thiện, đều xứng đáng tôn vinh là “Đạo”.
 Nhớ có tư duy, trí tuệ, khả năng phân biệt đúng sai, phải quấy, tốt xấu, thiện ác, óc suy luận, sáng tạo, và nhất là tính cần cù lao động; con người khởi thủy từ ăn long ở lỗ, nhưng đã vượt lên thành chúa tể muôn loài.
Song song với đời sống vật chất, con người cũng nâng cao đời sống tinh thần qua các ngành  văn hoá nghệ thuật, trong đó có một số lãnh vực được thăng hoa vi dịệu thành ĐẠO như:  Hoa đạo, Trà đạo, Thư đạo, Kiếm đạo, Võ Đạo v.v… sản sinh ra bao tư tưởng triết lý thâm sâu, không kém phần thú vị và ích lợi cho nhân sinh. Nhưng đó không phải là tôn giáo, người ta tôn sùng vì phù hợp với sở thích, với quan điểm cá nhân, đến vì cơ duyên, bằng sự tự nguyện chứ không khiên cưỡng hay ép buộc.
Đạo mang ý nghĩa con đường, suy rộng ra là hệ thống triết lý.  Võ Đạo tức hệ thống triết lý về võ, vạch ra khuynh hướng và đường hướng tu dưỡng, rèn luyện cho người tập võ , để thể chất và tinh thần được nâng lên đỉnh cao, hình thành tính chịu khó, kiên nhẩn, không ngại gian khổ, vượt thắng chính mình, tính kỷ luật trong sinh hoạt tập thể, sự điều độ trong đời sống hàng ngày, kiểm soát được hành vi trong xử kỷ tiếp vật, giàu trí tưởng tượng và phát triển óc sáng tạo.  Hơn nữa, võ đạo tạo được sự liên kết, tương thông, mối đồng cảm giữa các cá thể, dù thân hay sơ, xa hay gần.  Đó là kết quả của nền võ đạo chân chính.
Tư tưởng triết học võ đạo phải được sản sinh từ các hoạt động sống của võ, từ những người đã thấm nhuần, tinh thông võ thuật chứ không thể lượm lặt qua các lảnh vực triết học khác.  Mẫu số chung của các ngành triết học là phục vụ loài người, nhưng từng nét riêng không thể nhầm lẫn gán ghép với nhau; cũng không thể lấy khuôn vàng thước ngọc của tôn giáo lồng vào hệ tư tưởng của võ và cho đó là võ đạo.  Tư tưởng võ đạo phải đầy tính nhân bản, không được xa rời thực tế; nếu không, chẳng thể nào xâm nhập vào tâm hồn người, nói chi đến việc được số đông ủng hộ.
Ngoài ra, một số mặt khác cũng không kém phần quan trọng, thuộc hệ tổ chức bộ máy.  Các bộ phận hành chính, huấn luyện, thông tin, nghi thức, nghiên cứu, tài chính, lễ hội… phải được bố trí vận hành nhịp nhàng, hiệu quả.
Điều cốt lõi nhất vẫn là xây dựng được mối quan hệ thật tốt đẹp giữa người và người, trong cũng như ngoài môn phái.  Chính những tình cảm tốt đẹp ấy chứng minh hùng hồn tinh thần võ đạo thật sự hữu ích chứ không nói suông theo sách vở giáo điều.
Phải xuất phát từ lòng ham thích, đam mê, mới thấy được từng góc cạnh thú vị của Võ.  Phải tư duy sâu lắng mới nghiệm ra được chiều thâm viễn tàn ẩn của võ đạo. Một nét phát đơn sơ, nhưng chính là phức hợp của nhiểu chuyển động; câu nói tưởng chừng vô nghĩa nhưng bao hàm một triết lý cao xa.  Mỗi lần hít vào  thở ra, cảm thấy luồng chân khí luân lưu rần rần trong huyết quản, ánh mắt như loé hào quang, quyền cước như sao sa chớp giật, bước chân thoăn thoắt như phiêu hốt, thân pháp xoay lướt tựa giao long uốn khúc giữa ba đào.
Mặc ai đua chen tranh sống, ta chỉ cố chiến thắng bản thân mình.  Vượt được một thử thách, trong lòng chất thêm một niềm vui, đạt được một công phu, tinh thần càng thêm sảng khoái.  Trong khó khăn nghịch cảnh, chính võ đạo là người bạn trung thành nhất, người thầy tận tâm nhất, nguồn năng lượng vô tận cung cấp cho tâm thân luôn sung mãn an nhiên.”
Thất Sơn Thần quyền ngay bản thân tên gọi của nó đã chỉ ra xuất xứ của nó. Đây là một môn phái không chỉ là võ học mà căn bản của nó vẫn là Đạo học. " Đệ tử của Thất Sơn không chỉ được học quyền mà còn học pháp, Quyền chỉ là phương tiện để dẫn pháp, chứ không phải để đi đánh nhau ,Tất nhiên lúc đánh vì mục đích chính nghĩa thì cũng vô cùng huyền diệu, một đòn vào người, dù đối phương không thấy đau lắm, nhưng về nhà cũng đủ thối da thối thịt. Đệ tử nhập môn, bao giờ cũng phải học quyền. Nhiều người học quyền mãi mà chẳng thăng tiến về tâm, về pháp nên cứ tưởng là cứ giỏi quyền là đã thành tựu. 
Cao hơn quyền, nhiều đệ tử phát triển về pháp. Pháp trong môn cũng vi diệu là khó tin đối với quảng đại quần chúng. Nếu muốn biết về một người, dù cách cả ngàn cây số, cũng có thể biết người ấy đang nghĩ gì, có gặp sự cố gì không. Pháp của môn có thể cầu nắng thành mưa, có thể cầu người sắp chết được sống.
Có thể xin thần linh thổ địa, đuổi trừ tà ma, chữa người điên thành lành... Tất cả những điều này, người trong môn vẫn đang thực hành. Pháp thì cao, nhưng không phải lúc nào cũng làm. Làm thế có mà loạn. Lúc nào ra tay giúp người, lúc nào không, cái gì đáng làm, cái gì không, mỗi đệ tử trong môn phải tự định đoạt (nói những người có khả năng thôi). Nếu không, đều có thể phải trả giá. Để có pháp. không phải cứ khổ công tu luyện hay đọc chú là được. 
Tuỳ vào tâm đức vào kiếp trước của anh đã tinh tiến đến đâu thì khả năng phát triển đến đó. Điều này vô cùng quan trọng. Do đó, đệ tử lâu năm trong môn không có nghĩa là người giỏi. Giỏi hay không, hoàn toàn phụ thuộc vào tâm đức và sự khai mở từ những kiếp trước. Và vì phụ thuộc nhiều vào tâm đức, nên có những tên tuổi ngày trước đã lẫy lừng, mang tính huyền thoại, thì giờ, do làm nhiều việc phạm, do làm nhiều việc không có tâm đức, đã mất hẳn quyền pháp, trở nên vô dụng. Cái sự khó trong khi tu tập trong môn là như vậy nên tìm được đệ tử chân truyền là cực hiếm.
Người này hôm nay có thể có tâm tốt, ngày mai có thể hỏng. Mà cái khó nhất là nhiều khi sai mà không biết mình sai. Phạm lỗi nhiều mà tự mình ko thể nhận biết mà sửa chữa. Hậu quả nặng nhất mà một đệ tử có thể phải chịu khi phạm lỗi tất nhiên là bị đuổi ra khỏi môn. 
Nhẹ hơn thì mất hết quyền, pháp. Khi sư phụ chọn đệ tử, là sư phụ đã biết đệ tử ấy kiếp trước đã tu tập đến đâu, tâm đức đong được mấy thúng. " 
Thất Sơn Thần Quyền chính tông gồm 2 phần: Quyền và thuật. Quyền là phần "dương công" gồm những thế võ cận chiến tay không và giáp chiến binh khí. Thuật là phần "âm công" huyền bí, dùng năng lượng siêu nhiên trợ lực. Chỉ đệ tử duy nhất được chọn kế thừa chưởng môn mới được sư phụ truyền dạy phần "âm công”.
Do có xuất xứ từ vùng Bảy Núi linh thiêng nên người đời gọi là Thất Sơn Thần Quyền. Môn võ này có 4 phần luyện là Tam Đạo nhất Thần: Tu tâm dưỡng tính gọi là Tâm Đạo, định thần dưỡng khí gọi là Thể Đạo, luyện thân tráng kiện gọi là Quyền Đạo. Phần luyện thứ tư gọi là luyện Thần.
 Trong các môn phái bùa phép hầu như phái nào cũng có bùa gồng , như là, gồng Trà kha, Thất sơn thần quyền , bùa Miên , bùa Xiêm , bùa 5 Ông , Phật huyền môn vạn thiên giới linh , Thần quyền lục pháp.
Môn phái Thất sơn Thần quyền tôn đức Quán thế âm Bồ tát là Tổ sư và có thêm 8 vị đại diện nữa thay mặt sư Tổ truyền dạy cho các môn đồ . Tám vị Thần đó là :
1, Hỏa Hỏa Chơn Chơn,
2/Bá Thiên Đạo trưởng.
3/ Thanh Trúc Đạo trưởng.
4/ Hoàng Thiên Đạo trưởng.
5/ Sa Thiên Đạo trưởng.
6/ Nga Mi lão Tổ.
7/Ngư Câu lão ông.
8/ Bá Hành ngũ độc.
Để có thể gây hào hứng , giúp quá trình luyện tập được chăm chỉ, Thày Chàm dạy cho tôi phần Quyền thuật đầu tiên. Đây là chương trình sơ cấp cho những đệ tử thi lấy đai vàng . Phần này đã khá phổ biến với những người học TSTQ nên dienbatn có thể viết ra một số bài tập ( Nhưng các câu chú đã bị cắt bớt ) để các bạn có thể hình dung .
* Chú hộ mạng trước khi ra khỏi nhà : Tứ tung ngũ sắc, quả lắc nhập môn, đương in hoành ngộ kiêm xuất hành cấp cấp y như luật lệnh.Chế búp thăng ni sống ca ra sép ( 3x ).
* Chú tẩy uế sân trước khi tập : Á á a ra hăng á (Đọc 7 thổi 1 ).
* Chú tẩy uế dọn dẹp bàn thờ : 
Búp thăng bạch cho khóa mì.
Thơm măm bạch cho khóa mì.
Son khăn bạch cho khóa mì.
Chu chê xu mì.

Vẽ Bùa và đọc chú vào giấy trắng đốt trên ban thờ.
* Chú kêu tên Thày : Búp tha. ( Đọc liên tục khi cầu Thày Tổ ).
* Chú khoán sân trước khi tập : Á á a ra hăng á (Đọc 7 thổi 1 ).
* Chú dùng luyện hàng tháng : Xế xây cà ra mây - No thăn ngăn chế á an sa giá mắc cà , na nu hi tê .

( Đọc 3 thổi 1 đủ 7 vào giấy ).Xử dụng Bùa này uống hàng tháng.
* Chú cầu Phật về trợ giúp :
Út da măng kính cầu Quán thế âm Bồ tát về tự .
Hỏa hỏa chân nhân ba dương Đạo trưởng.
Như câu lão ông.
Thanh trúc Đạo trưởng.
Bá hanh ngũ độc.
Ngư thiên Đạo trưởng.
Đọc 1 lần để cầu trợ giúp rồi vái 3 vái.
* Chú đọc khi đi đường trừ nguy hiểm : Khi đi đường mà gặp nguy hiểm đọc bài chú này sẽ có Tổ độ .
Tá ba à ha - Ý ý rị - Ta bà ha - mặc hắc a - Bà ra ra - Chú y hi - Thần ma ra lục sân ra - Phát bá ra - Ta bà ha - Na hà na hà rị - Rị rị đà . ( Đọc 3 lần hít vào ). Đọc tiếp Ề hế tuần phùng chua lục cu ( 7x ) - Chắc đốt năm - Phinh tà căng - Sanh phát quô ( Đọc 7 lần trong 49 ngày ).
BÙA HỘ MẠNG.
Bùa hộ mạng còn gọi là Bùa tàng hình , là bảo vật quý giá và cao nhất của môn phái Thất sơn Thần quyền. Người có được Bùa này phải tuân thủ đúng nội quy , không được dùng trong những trường hợp thất đức hay phi pháp. Bùa này dùng thay thế tượng Phật hay ảnh trên bàn thờ khi đi xa nhà ( tương tự như Kính đàn bên Mật tông ). Để đảm bảo tính mạng , khi ra khỏi nhà luôn mang theo người. Khi chữa bệnh cho mọi người thì để bên mình sẽ không mệt và làm có hiệu quả. Khi phát triển cho môn sinh cũng vậy. Dùng khi trị bệnh tà ma, ngải , thư , ếm . Đem theo khi vào chiến trận , súng đạn , bom mình hộ thân . Nói chung là luôn mang theo người khi đi ra khỏi nhà , phòng ngừa bị đánh trộm, đánh lén, tai nạn xe cộ . Mọi tai nạn sẽ được báo trước để mình tránh .
Cách sử dụng :
 Khi đi xa cầu : 
Con cầu xin Phật quán thế âm Bồ tát - (9x ).
Con cầu Tổ phái Thất sơn Thần quyền ( 3x ).
Nam mô trung Thiên giáo chủ điều ngự Đạo sư A di đà Phật .
Thần kim ngưỡng vọng Bạch văn Thần trị , Sơn thọ sắc Lão quân Tổ , Pháp Tam thanh thừa trị . Đệ tử con tánh danh ......tên ....tuổi ...quê quán .....Con xin khấu đầu khấu nguyện , vạn bái cầu xin Bồ tát, Phật Tổ , 7 vị sư phụ Thất sơn Thần quyền cho con được phép mang theo và sử dụng Bùa .
Sau đó cầu 7 vị Thần phép : Nàng Ràm, nàng Rây , bèn khen bền ây - Nền nà nền ôi - A ra hăng á - Nam mô Quán thế âm Bồ tát - Á thá chơn nhân hỏa hỏa ( 9x ).
LỜI VÁI :
 Nam mô A di đà Phật.
Phục vọng Hoàng Thiên hậu thổ ,  Phật Tổ , Phật Thày , Tam thập lục Tổ, Thất thập nhị Thánh , nhị hiệu lục bộ đài quân , Du Thánh du Thần cảm ứng , Phật Mẫu hộ độ tu luyện cho thành Đạo. 
 Nam mô A di đà Phật.
9 phương Trời 10 phương Phật , thập phương tiếp dận A di đà Phật , Quán thế âm Bồ tát , Đại thế chí Bồ tát , Thích ca mâu ni Phật , Phật Bà Thiên tài long nữ , Quan Thánh Đế quân , Quan Châu quan Bình , Quan chư vị, Thất sơn Tổ , Tà Lơn về độ cho đệ tử tánh danh ......tên ....tuổi ...quê quán .....tu luyện thành đạt. ( 3x ).
Khi vào chiến trận súng , đạn, bom , mìn , dao , gậy mà không có thời gian chỉ cần cầu 3 câu đầu tiên. Trùm Bùa ( mặt phải ) lên đầu và đọc chú :
A la cà xa măng xét xa ô.
La vi nô hoa , hu hạ, ni vu lô.
Oa oa mi la sơn thủy độc.
Mi hoàng sơn thủy cùng xa.
Tây la vân sơn đá ơ vệt.
( Khi cầu đọc 1 lần - Khi sử dụng đọc liên tục ). Lúc đó sẽ hiện ra 3 con đường - Phải đi theo con đường màu vàng sẽ an toàn.
Ghi chú : Khăn tối thượng được in bằng bản khắc của sư phụ Ngọc Sơn còn để lại tại Phú Vang - Huế . Khăn này in và cấp cho các đệ tử cấp cao . Rất nhiều đệ tử của TSTQ chưa bao giờ được nhìn thấy.

Xin theo dõi tiếp bài 28. dienbatn.
Xem chi tiết…

CUỘC CHIẾN GIỮA CÁC PHÁP SƯ VÀ HAI CÕI ÂM DƯƠNG. BÀI 26.

11/03/2017 |
CUỘC CHIẾN GIỮA CÁC PHÁP SƯ VÀ HAI CÕI ÂM DƯƠNG. BÀI 26.
NHỮNG NĂM THÁNG HỌC HUYỀN MÔN.
Từ phần này trở đi có tên gọi là NHỮNG NĂM THÁNG HỌC HUYỀN MÔN. Đó là những tháng ngày vô cùng vất vả, trải nghiêm đủ Hỉ- Nộ- Ái - Ố của dienbatn . Cũng đã qua từ lâu rồi , xin kể lại để các bạn cùng chiêm nghiệm . Thân ái. dienbatn. Loạt bài này đã đăng trên báo giấy : Tuổi trẻ và Đời sống .
Khi nhập môn, võ sinh của Thất Sơn Thần Quyền học bài vỡ lòng là bài khấn tổ: Nam mô tổ sư tam giáo đầu sư Dương Gia, Chàng Lía, cha Hồ, chúa Nhẫn, tổ sư Hải Đề Long núi Tô về cảm ứng nhậm lễ chứng miên cho đệ tử…”.
Sau đó, người võ sỹ được học những bài chú kêu gọi các đấng siêu nhiên nhập xác (như lên đồng) ứng chiến gọi là chú “thỉnh tổ”: “Nam mô thập phương chư phật, chư vị đại Thần đại Thánh đại Hải, chư vị Bồ tát…thập bát La hán, Bát quái Tổ sư… Án Lỗ ban tiên sư phù, Lỗ Ban đại sát, dụng hưng yên bất dụng hương đăng hoa quả vật thực chơn hình trợ kỳ đệ tử thần tự…hội Tà Lơn Thất Sơn, 5 non, 7 núi, rừng rú, tổ Lục, tổ Lèo, tổ Xiêm, tổ Mọi, tổ Chà đồng lai đáo hạ hộ giá quang minh, chấp kinh trì chú cứu thế trợ dân cấp cấp như luật lịnh sắc”.
Điều này cho thấy các nghĩa quân kháng chiến ngày xưa đã áp dụng bùa Lỗ Ban có xuất xứ từ Trung Quốc vào hệ thống “âm công” của Thất Sơn Thần Quyền.
Về quyền thế, Thất Sơn Thần Quyền có nhiều bài hay như: Linh miêu đoạt thạch, Tam sơn trấn ải, Mãnh hổ tọa sơn… Vào thập niên 1960, Thất Sơn Thần Quyền kể như không tồn tại nữa mà chuyển thể thành Thất Sơn Võ Đạo. Thất Sơn Võ Đạo là những quyền thế dương công của Thất Sơn Thần Quyền. Tuy không còn yếu tố huyền linh nữa nhưng Thất Sơn Võ Đạo cũng tạo được tiếng vang trong làng võ Nam Bộ thời ấy.
Thời điểm này, phong trào võ thuật vùng Nam Bộ rất sôi động, nơi nào cũng có võ đường Thần Quyền: Sa Đéc có lò võ Sáu Cường; Lý Suol ở Châu Đốc; Bảy Biển ở Kiên Giang; Ba Hoằng ở Long Xuyên. Nhiều võ sư tạo được tiếng vang nhờ đào tạo được những võ sỹ vô địch trong các trận đấu võ đài. Đến tận ngày nay, những võ sư ấy vẫn còn được nhiều người nhắc như: Hai Diệp, Mười Nho, Nguyễn Mách, Út Dài, Thiên Đường.
Họ thường tổ chức thi đấu tại Chợ Lớn (quận 5) mang tính giao hữu với các quốc gia trong khu vực như Campuchia, Hồng Kông. Trong những cuộc đấu giao lưu ấy, nhiều võ sỹ Việt Nam đã tạo được sự thán phục của các võ sư, võ sỹ nước ngoài.
Báo chí thể thao dạo ấy đã bình luận từng tuyệt chiêu của các võ sỹ Thần Quyền như: Võ sỹ Minh Sang có đường quyền vũ bão; Võ sỹ Minh Sơn có cú đấm nhanh như chớp và cú húc chỏ “hồi mã thương”, võ sỹ Chhit Sarim (người Campuchia theo học Thần Quyền).
Thày Chàm cứ rủ rỉ rù rì kể cho tôi biết bao nhiêu điều thú vị về môn học này. Theo Thày được nghe kể lại : 
“ Kể từ đầu lịch sử, người Việt  luôn phải đấu tranh chống lại nạn ngoại xâm, nhất là những đạo quân của các triều đại Trung Quốc. Hàng lọat cuộc chiến  đấu chống ngoại xâm,  đòi lại chủ quyền đất nước  từ thời   Hai Bà Trưng và Bà Triệu, chống Tống ( năm 981 và 1077) chống Nguyên Mông ( năm 1258, 1285,  1288), chống Minh ( từ  1418-đến  1428) và chống Thanh ( năm 1789).  Chính vì  những cuộc chiến đấu đó, mà võ   Việt và tinh thần thượng võ   hình thành.   Võ là phương tiện cho người Việt chống  các  nạn  ngoại xâm  được mệnh danh là võ ta.
Võ sư Võ Kiểu  (nguyên tổng thư ký Liên đoàn Quyền thuật miền Trung): cho rằng Võ ta đã gắn bó với dân tộc ta từ hàng ngàn năm qua, nó mang một vẻ đẹp không môn phái nào trên thế giới có được, nó không chỉ là một môn võ phòng thân, chống lại bao giặc thù hàng ngàn năm qua mà còn là một lối sống, một nhân sinh quan, một tư tưởng vô cùng quan trọng trong hệ thống tư tưởng Việt . Đánh mất tên gọi “võ ta”, là chúng ta đã vô tình đánh mất luôn cả cái hệ tư tưởng Việt quý giá ẩn chứa trong môn võ vô cùng đẹp này!
Võ cổ truyền Việt  được dùng để chỉ những hệ phái võ thuật lưu truyền trong suốt trường kỳ lịch sử của dân tộc Việt , được người Việt sáng tạo và bồi đắp qua nhiều thế hệ, hình thành nên kho tàng những đòn, thế, bài quyền, bài binh khí, kỹ thuật chiến đấu đặc thù. Với những kỹ pháp võ thuật này, người Việt  đã dựng nước, mở mang và bảo vệ đất nước suốt trong quá trình lịch sử Việt
 Bộ võ khí bằng đồng hiện được trưng bày trong bảo tàng lịch sử Việt có thể giúp ta hiểu thêm về nhiều loại võ khí  thuộc  lãnh vực Võ cổ truyền Việt  . Những thứ vũ khí này gồm dao găm, rùu gươm và giáo. Đó là những thứ võ khí được sử dụng trong khi đánh giáp lá cà. Sử dụng những thứ võ khí này đòi hỏi phải có sự can đảm, sức dẻo dai, sự khéo léo và kỹ thuật  thành thạo.. Chính những yếu tố này đòi hỏi  người  Việt phát triển các hình thức chiến đấu nhằm tạo thuận lợi và nâng cao hiệu quả sữ dụng vũ khí
Võ cổ truyền Việt  không những nhằm giỏi võ thuật mà còn nhằm tự kiểm soát, hoàn thiện mình và rèn luyện những bí kíp về thần , khí, ý và lực.
Đặc điểm  của Võ thuật cổ truyền:
Thường là võ trận, sử dụng trong trận mạc, chiến đấu chống ngoại xâm, chinh phục thiên nhiên hoang dã, chống trả và săn bắt hổ, lợn rừng, bảo vệ nhà cửa, làng xóm, chống trộm cướp.
Thích hợp với nhiều loại địa hình.
Thực dụng, linh hoạt.
Dĩ công vi thủ, dĩ nhu chế cương, dĩ đoản chế trường.
Các bài quyền đều có lời thiệu bằng thơ, phú
Muốn luyện thành thạo phải luyện với thiên nhiên nơi có khí trong lành, để tăng khí công trong người, khi đó ra đòn sẽ mạnh hơn.
Từ thế kỷ 15 đến thế kỷ 19, võ thuật tồn tại ở hai cấp độ: bình dân ( tại các lễ hội) và triều đình ( chương trình chuyên rèn luyện và thi võ).....

Nhóm Nam Bộ ở miền Nam.
Các phái võ Nam Bộ xuất hiện cùng với quá trình định cư của nhóm người Việt ở miền nam trong thế kỷ 18-19. Sau khi đứng chân ở nam  Trung Bộ, các chúa Nguyễn tiếp tục mở rộng lãnh thổ xuống phía nam và di dân từ Quảng nam, Đà nẵng, Quy Nhơn vào khai khẩn đất hoang tại đồng bằng sông Cửu Long. Triều Nguyễn con lưu đầy nhiều tội phạm vào nam. Vì thế, nhiều người Việt ở miền nam xuất thân từ  các vùng có truyền thống võ nghệ, và bản thân họ cũng rất thành thạo nghệ thuật chiến đấu.
Cuối thế kỷ 18, bị bại trận trước  quân  khởi nghĩa Tây Sơn, tàn quân nhà nguyễn bỏ chạy xuống phía Nam, rồi quy tụ về vùng Đồng nai. Tại đây, họ tuyển mộ các võ sư để rèn luyện binh sĩ phục thù. Sau khi nhà Nguyễn được thành lập năm 1802, nhiều người vùng này vượt qua được  các kỳ thi võ của triều đình và theo đuổi binh nghiệp.
Võ Nam bộ có nguồn gốc khác nhau: Bình Định, Thanh Hóa, Nghệ An, đồng bằng sông Hồng và Trung Quốc. Đó là sự pha trộn của nhiều môn phái với những kỹ thuật được biến cải cho phù hợp với điều kiện cụ thể ở miền Nam, trong đó có nhu cầu tự vệ trước thú dữ và khai khẩn đất  canh tác mới.
TRÊN NÚI CÔ TÔ.
“ Phụng thỉnh năm non , bảy núi. Phụng thỉnh núi Sam, núi Sập, Núi Cấm , núi Két , núi Tô, núi Tổ . Phụng thỉnh Tà Lơn – Thất Sơn. Phụng thỉnh chư vị Phật Tổ. Phụng thỉnh Phật ông , Phật bà. Phụng thỉnh Phật Thầy , Phật cô. Phụng thỉnh bà Tổ , mẹ Tổ. Phụng thỉnh 5 ông Tổ . Phụng thỉnh Tam Giáo Đạo Sư . Phụng thỉnh tiền Tổ hậu Tổ . Phụng thỉnh thập nhị Tiên khai. Phụng thỉnh 12 vị Tổ. Phụng thỉnh Thiên binh , Thiên tướng . Phụng thỉnh thập nhị Sơn Thần. Phụng thỉnh 12 vị quan Tà á rặc. Phụng thỉnh Tà Muôn, Tà Bạch , Tà Gầm , Tà Hầm,  Tà Há , Tà Sấm , Tà Sét , Tà Két , Tà Rắn , Tà Hồng , Tà Sanh , Tà Sấm , Tà Sét , Tà Gầm , Lục Tặc Tà Hom , Tà Lơn ,Thất Sơn , Ông Lục Tà Rù , Ông Chúa lèo , Ông Tà Đỏ.Phụng thỉnh 12 đạo binh rừng, binh rú, binh mọi, binh rợ, tướng Lèo hồi cung thanh thỉnh. Hộ độ cho đệ tử tên … tuổi …được thành công đắc đạo.
Nam mô a di đà Phật.Hắc tô hắc nây – Ô ta thia ly âm.Cà thăn săn – rặc rặc ơ.Mơn mơn lừng lừng che.”
Phải mất đến 3 ngày hôm sau , thày trò chúng tôi mới yên vị được trong một cái Cốc được dựng từ một vòm hang đá , xây dựng sơ sài trên đỉnh núi Cô Tô. Cái cốc này là của một người bạn cũ Thày Chàm cho chúng tôi sử dụng nhờ.
Trước khi lên núi , Thày Chàm bắt tôi cố công học thuộc bài khấn ở trên để khấn các vị Thần ở đây.
Núi Cô Tô (gọi tắt: núi Tô), tên chữ: Phụng Hoàng sơn , tên Khmer: Phnom-Ktô; là một ngọn núi trong Thất Sơn, thuộc xã Cô Tô, huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang, Việt Nam.
Núi Cô Tô cao 614 m, dài 5.800 m, rộng 3.700 m. Vì ở một vùng bán sơn địa và vì do cấu tạo địa chất đặc biệt, nên nhiều nơi bên trong núi là một hệ thống hang động ngầm như tổ ong lớn, rất kiên cố và vững chắc. Vì vậy, khu vực núi Tô có nhiều điểm đáng tham quan. Các hang động ở đây được giới Huyền môn sử sang lại làm thành những các Cốc dùng để làm nơi tu luyện. Nước sử dụng nơi đây đều lấy từ những khe nước chảy ra từ khe núi trong vắt. Sườn phía Tây núi Cô Tô là Đồi Tức Dụp hay Tức Chóp (tiếng Khmer) có nghĩa nước quanh năm. Bên  phía Đông núi Cô Tô là một hồ nước có vẻ đẹp hoang sơ, nước hồ luôn xanh biếc và phẳng lặng có tên là Hồ Soài So . Những lúc rảnh rổi , Thày Chàm đưa tôi đi thăm các điểm quanh Núi Tô như  Mũi Tàu, Mũi Hải, Vồ Hội lớn, Vồ Hội nhỏ, suối Cây giông, Pháo đài và Bàn chân tiên.
Người Khmer gọi “Phnom-Ktô” để chỉ ngọn núi cao 614m này, còn người Việt thì quen gọi là núi Cô Tô. Với tên gọi khá hoa mỹ là “Phượng Hoàng Sơn”, Cô Tô như ẩn chứa chút gì đó nét riêng tư mà từ lâu đã mặc nhiên mang dáng hình kiều diễm nhất của vùng Thất Sơn huyền bí! Có phải chăng do sự cấu trúc đầy kỳ bí của thiên nhiên đã tạo nên những khối đá xếp chồng chất lên nhau qua sự sắp bày đầy tính sáng tạo của bàn tay vô hình nào đó. Dưới những tảng đá nặng nề ấy là những kẽ đá lớn, nhỏ hình thành nhiều hang động, ngỏ ngách đến sâu thẳm mà từ lâu được người địa phương gọi là “lò ảng” giống như một mâm trứng chất đầy từ dưới lên trên. Đó là ngọn “đồi con” nằm cạnh chân núi Cô Tô đã đi vào lịch sử và huyện thoại dân gian ... 
Truyền thuyết kể rằng thuở xa xưa, khi trời đất còn tối tăm, dãy Thất Sơn còn đầy vẻ hoang sơ... các tiên ông từ núi Cấm, núi Giày đã cùng nhau khiêng từng phiến đá xếp chồng lên nhau, xếp mãi cho đến lúc bình minh thì thành hình trái núi, vào một đêm trăng sáng, các nàng tiên rủ nhau sang núi ngắm trăng, vui chơi thoả thích, hết đàn hát lại bày trò vui. Nhưng cuộc chơi nào rồi cũng nhàm chán, họ cùng nhau thi ném đá từ trên núi xuống... đến khi ánh trăng khuất dần thì một trái núi nhỏ cũng hiện trong bóng mờ của màn đêm, dưới chân núi lại có dòng nước chảy qua lấp lánh như những thỏi bạc... nước chảy triền miên, chảy đến tận làng mạc quanh vùng làm xanh ruộng đồng, cây lá! Và từ đó trái núi nhỏ bé ấy được mang tên là “Đồi nước đêm”, người Khmer gọi là “Tức Chúp” còn người Việt thị đọc trại ra thành “Tức Dụp” đến ngày nay. Trong thời chiến tranh ác liệt nơi đây được coi là một trong những “tử địa” khủng khiếp nhất của ngoại xâm!
 Nằm giữa những cánh đồng bao la, bát ngát, ngọn núi Cô Tô khoác trên mình vẻ đẹp hoang sơ, kỳ vĩ say đắm lòng người. Những ngôi nhà được xây dựng trên các vách đá dựng đứng, từng rặng cây đung đưa theo gió như cơn sóng biển đang gợn từng cơn, đem lại khí hậu mát mẻ quanh năm. 
Có nhiều cách để leo tới đỉnh núi, bằng cách đi xe ôm hay xe máy . Đối với những ai yêu thích khám phá và thử thách có thể đi bộ men theo những bậc thang, ngôi chùa, các bụi cây và những hàng cây cổ thụ, vừa đi vừa cảm thụ khí trời thiên nhiên. Nếu các bạn đủ gan dạ, thuê một chuyến xe ôm từ chân núi chỗ mấy quán nước, quán ăn lên đỉnh Cô Tô chỉ hết vài chục ngàn . Những chiếc xe máy này được thay lại toàn bộ nhông xích để tăng lực kéo , như những con ngựa hoang tung vó đưa bạn lên đỉnh núi. Ngồi đằng sau lưng của những anh xe ôm bản xứ, bạn tự nhiên thấy tim như muốn thót lại. Con đường chỉ khoảng 2 gang tay , ngoằn nghèo, trơn trượt và dựng đứng lướt như bay dưới tay lái lụa của bác xe ôm. dienbatn cùng Thày Chàm  đã vượt qua những đỉnh dốc khúc khuỷu, trơn trượt của Cô Tô , lên chiêm ngưỡng vẻ đẹp của những vồ trên núi , thấy được những cây vạn tuế hàng mấy trăm năn tuổi trên đỉnh núi Cô Tô. Trên hai vồ Thượng và Trung , hàng năm có rất nhiều người trong giới Huyền môn về đây ngồi nhận điển . Tại khu vực này , điển rất mạnh , mà theo đánh giá của nhiều người trong Huyền môn , ngồi tịnh ở đây một đêm bằng nhiều tháng ở nhà.
Cô Tô được nhiều du khách chọn là nơi hành hương bởi trên núi có rất nhiều ngôi chùa và miếu thờ, du khách sẽ được phục vụ ăn uống, ngủ nghỉ và tìm hiểu về đời sống chay tịnh nơi đây. Tại đây, du khách có thể ngắm nhìn những cánh đồng lúa vàng, làng xóm và cảnh sông nước hữu tình, bạn sẽ có cảm giác như đang ôm trọn cả thế giới vào lòng mình.


Cảnh Cô Tô.


Dienbatn cùng các đồng Đạo trên núi Cô Tô.

Thất sơn Thần quyền chính là một môn Võ Đạo của người Việt Nam được hình thành từ thế kỷ 19 , do các Đạo giáo của vùng Thất sơn ( Bửu sơn kỳ hương, Tứ Ân hiếu nghĩa, Cao đài, Hòa hảo...), dựa trên những sở học về Huyền môn của nhân loại , nhất là các phái Huyền môn Nam tông (Phật giáo nguyên thuỷ- Nam tông (Theravada) có bề dày lịch sử rất lâu đời, sự truyền thừa được các sử gia thừa nhận là không bị gián đoạn. Điểm ưu việt của nó là truyền bá đến quốc gia nào vẫn giữ được nét văn hoá Phật giáo đặc thù, mà những truyền thống khác rất hiếm có. Phật giáo nguyên thuỷ hiện nay có mặt ở những quốc gia: Tích Lan, Miến Điện, Thái Lan, Lào, Campuchia, Việt Nam, Anh, Mỹ, Ý, Úc, Mã Lai, Indonesia,Nepal, Ấn Độ v.v… Điểm đáng nói là tính thống nhất trong truyền thống Nguyên thuỷ, chư tăng tụng kinh bằng tiếng Pali và tiếng bản ngữ , tu hành y cứ theo thánh điển Pali, Tam y và bình bát là tài sản của bậc xuất gia, chỉ ăn ngày một buổi, không ăn phi thời. ). 
Tuy cùng một nguồn là Thất sơn Thần quyền, nhưng do quá trình truyền thụ , tam sao thất bản mà hiện nay tùy theo vùng , miền mà môn phái Thất sơn Thần quyền rất khác nhau .  Không chỉ nguồn gốc của môn mà ngay các thủ tục, quy cách trong quá trình tu học cũng bị “tam sao thất bản” rất nhiều nên phổ biến trong nhân gian những thủ tục khá rườm rà khi nhập môn, dẫn đạo và thực hành công năng.
Khi nhập môn, môn đồ của môn phái TSTQ phải đứng trước ban thờ thề đủ 9 điều (càng học cao thì số lời thề càng tăng thêm và cao nhất là 16 điều). Sau đó, mỗi người sẽ được sư phụ mình phát cho hai lá bùa hộ thân, một vuông, một dài. Trên những lá bùa ấy có vẽ hình đạo sĩ ngồi thiền và những "thông số", "mật mã" riêng của môn phái.
Trước khi truyền thụ những câu thần chú, bí kíp võ công của môn phái thì hai lá bùa ấy được đem đốt, lấy tro hòa vào nước cho người mới nhập môn... uống cạn. Thần chú của môn phái thì có rất nhiều, gồm chú gồng, chú xin quyền, chú chữa thương... Đã được truyền thần chú thì môn sinh cứ tự mình gọi chú mà xin sức mạnh, mà tập quyền cước.
Thày Chàm nhờ người xuống núi mua đầy đủ đồ để làm lễ nhập môn cho tôi . Đồ lễ cũng khá đơn giản : Ngoài bức ảnh của Phật bà Quán Thế Âm ra , chỉ có chút hoa , quả , trà , nước, rượu mà thôi.
Đêm rằm của tháng đó , dưới sự chứng kiến của một vài vị học Huyền môn trên đỉnh Cô Tô , Thày Chàm làm lễ nhập môn TSTQ cho tôi . Thày Chàm cùng tất cả mọi người làm lễ khấn chư Phật , chư vị Thần , Tiên , Thánh và cõi cõi về chứng giám. 
Sau đó bắt đầu từ những câu chú Hội Phép :
* " Cung thỉnh Phật Tổ , Phật Thày, chư Phật Bồ Tát 10 phương . Thiên linh - Địa linh, Nhật minh, Nguyệt tinh , Tạo hóa trường sinh. Cung thỉnh chư Thần 5 non 7 núi , Sơn Thần, Thổ Thần, Thủy Thần, Thần Hoàng bổn cảnh , Thái Ất cứu khổ Thiên tôn, Thái cực tả cung Cát tiên. Lôi công ấn ẩn thân pháp . Tam vị Thánh Tổ, tam vị Thần hổ,Ngũ vị Lục Tổ,  Cửu huyền thất Tổ, Tổ sư, Tổ Thày , chư vị Tổ Cô. 12 ông Lục , 12 ông Tà , chư vị Thần xà, các đạo binh chư Thần vô danh, chư vị Ngũ hành ...."  
* " Phụng thỉnh 5 non 7 núi . Phụng thỉnh Núi Sam, Núi Sập, Núi Cấm , Núi Két, Núi Tô, Núi Tổ. Phụng thỉnh Tà Lơn Thất sơn. Phụng thỉnh chư vị Phật Tổ, phụng thỉnh Phật ông, Phật bà, phụng thỉnh Phật thày , Phật cô , Phụng thỉnh bà Tổ, mẹ Tổ. Phụng thỉnh 5 ông Tổ. Phụng thỉnh Tam giáo Đạo sư, Phụng thỉnh thập nhị Tiên khai, Phụng thỉnh 12 vị Tổ. Phụng thỉnh Thiên Binh, Thiên tướng , phụng thỉnh thập nhị sơn Thần . Phụng thỉnh 12 vị quan Tà Á rặc - Phụng thỉnh Tà Muôn, Tà Bạch, Tà Gầm , Tà Hầm, Tà Há, Tà Sấm, Tà Sắc, Tà Sét, Tà Rắn, Tà Hồng . Phụng thỉnh 12 đạo binh rừng, binh rú , binh Mọi, binh Rợ , tướng Lèo hồi cung thanh thỉnh....."
* " Vận chuyển thập nhị Thần Tà : Tà Mun,Tà Ná ,  Tà Vẹt, Tà Thần, Tà Khé Khét, Tà Khao, Tà Mao, Tà Hom, Tà Rút, Tà Mặc …..”.
*" Tiên sư, Tổ sư, Tam giáo Đạo sư, thập nhị công nghệ, tiền Tổ , hậu Tổ Phật Tổ , Phật Thày, Quan Âm Phật . Nam mô a di đà Phật , nguyện cùng chủ thất chủ tri, nguyện cùng lớn thượng giúp rày cho con.
Nam mô a di đà Phật , chư tiền , đức Tổ sư, liệt vị Tổ sư.
Nam mô adi đà Phật , vận chuyển nhị thập Thần Tà : Tà Mun, Tà Ná, Tà Vẹt, Tà Thần, Tà Két, Tà Khao, Tà Mao, Tà Hom, Tà Rút, Tà Mặc Thống chế 5 ông, phò hộ , phò âm , phò dương, phần hồn , phần xác cho đệ tử tên ....tuổi..."
Sau đó Thày Chàm cầm bó hương đã đốt sẵn lần lượt thổi vào các Huyệt Đạo của dienbatn từ đỉnh đầu tới tận lưng  rồi xuống chân. Với môn sinh là nam giới thì dùng 7 nén nhang thổi 7 lần vào mỗi huyệt đạo. Môn sinh là nữ thì dùng 9 nén, thổi đúng 9 lần. Mỗi làn hơi Thày Chàm thổi vào ,người tôi tựa như có những lằn điện chạy ngang dọc, nối thông các Đại Huyệt bắt đầu từ Thượng Đài,chạy vòng xuống Huyệt Ngọc Chẩm rồi xuống Huyệt Giáp Tích.Rồi bắt đầu chuyển từ Huyệt Giáp Tích xuống Huyệt Vĩ Lư,tới Huyệt Trường Cường,sau đó tách ra làm hai bên và đi vòng xuống hai chân .Tiếp tục hít hơi vô,cảm thấy 2 làn Điển quang từ ngoài chạy vào 2 ngón chân cái (Cảm thấy mát lạnh ),chạy trở lên Huyệt Trường Cường rồi đến Vĩ Lư , lên nữa cho đến Giáp Tích và ngưng lại đó . Bắt đầu chuyển tiếp từ Giáp Tích ra hai tay ,chạy đến 2 ngón tay cái thì ngưng lại .Sau đó lại bắt đầu có hai lằn Điển chạy vào từ 2 ngón tay đến Giáp Tích rồi lên Huyệt Ngọc Chẩm,đến Thượng Đài rồi trở lại Huê quang . Như vậy là đã đi hết một vòng Châu thiên . Đêm hôm ấy, xong nghi thức nhập môn, sư phụ đã kéo tôi ra sân và chỉ trong vòng 1 giờ đồng hồ, ông đã truyền thụ xong xuôi cho tôi lời chú xin quyền.
Theo lời của Thày Chàm , lời chú ấy tôi tuyệt đối không được phép tiết lộ cho bất kỳ ai nếu chưa được phép của những người đứng đầu môn phái.
Chính vì vậy ngày xưa Thầy Tổ có truyền lại :
" Một đêm nọ Thày tôi đã dặn:
Này Chân sư , Pháp sư con nghe ta dạy,
Ấn tướng và Pháp chú - Là bí mật hiển vi.
Của Phật , Hiền, Thánh chúng.
Có cảm thì có ứng,
Và không thể giải thông.
Cũng không thể tạo khuôn,
Đệ tử muốn gia trì,
Hoặc truyền Đạo đại chúng.
Nên nhớ là lúc tập và lúc niệm,
Năng tinh tấn chuyên cần.
Và hành nơi vắng lặng.
Không cho ngoại Đạo niệm.
Bởi ấy sinh lòng tà,
Khinh khi hoặc khích nhiễu.
Đây là một nghiêm luật.
Đệ tử chiếu phụng hành . " 
" Có một cấp bậc điểm đạo tối cao siêu đẳng mà người môn đồ khi đã đạt tới trình độ đó không chỉ được tạm thời giải thoát khỏi thể xác vật chất để chứng minh sự tồn tại của linh hồn, mà còn được đưa lên những cảnh giới thanh cao nhất, hòa nhập hoàn toàn với đại thể của vũ trụ. Kinh nghiệm huyền diệu đó giúp phá vỡ sự cố chấp hữu hạn của con người và do đó mới có thể tiếp xúc với sự hiện hữu chân thật trường cửu của hết thảy mọi sinh thể. Trong một thời gian ngắn, người môn đồ được cảm thông trong im lặng và một cách thần diệu với thực thể của muôn loài; sự tiếp xúc tuy ngắn ngủi, nhưng giây phút cảm thông huyền diệu đó cũng đủ làm cho người ta thay đổi hoàn toàn quan điểm đối với cuộc đời. Người môn đồ ấy đã chia sẻ một phần cái ân huệ thiêng liêng nhất mà con người có thể nhận được. Người ấy xem như đã khám phá được cái ánh sáng huyền diệu thiêng liêng, là cái tinh hoa rốt ráo vi diệu của bản thể, mà so với nó thì thể xác vật chất này chỉ là giả tạm và vô nghĩa. Vì thế, người môn đồ sau khi được điểm đạo đã thật sự được hồi sinh trở lại, theo đúng ý nghĩa cao cả nhất của danh từ này. 
Như thế, cuộc điểm đạo là sự đạt tới một viễn cảnh mới của cuộc đời, cái viễn cảnh tâm linh mà nhân loại đã đánh mất trong thời dĩ vãng xa xăm, khi rơi từ “Thiên đàng” xuống cõi vật chất. Khoa huyền môn giúp ta thực hiện sự trở về nguồn cội ngay từ bên trong, và đưa ta đi tuần tự từ bước một đến sự giác ngộ hoàn toàn. Khoa huyền môn hé mở cho ta thấy trước hết là những cảnh giới tâm linh huyền bí vượt ngoài giới hạn nhận biết trong cõi vật chất của trần gian, và sau đó tiết lộ cho ta những điều huyền diệu rốt ráo và tính chất thiêng liêng của tâm thức con người. Khoa huyền môn giúp cho người môn đồ nhìn thấy được những cảnh giới dường như địa ngục âm ty để thử thách tâm trí và lòng kiên quyết, cũng như để người ấy được có dịp học hỏi và mở rộng tầm nhận thức. Kế đó, người môn đồ được nhìn thấy những cảnh giới Thiên đàng tốt đẹp để khuyến khích và ban ân huệ. Nếu khoa huyền môn vẫn phải dùng đến phương tiện đồng thiếp thì điều đó không có nghĩa là không còn phương pháp nào khác. Đó chỉ là một phương tiện được áp dụng, nhưng cảnh giới tâm linh có thể được đạt tới bằng nhiều phương cách khác nữa, và không cần phải áp dụng phương pháp xuất thần. 
Tuy nhiên, lịch sử của nhân loại luôn luôn theo định luật chu kỳ, những gì đã từng xảy ra, sẽ tái diễn trở lại. Một lần nữa, con người đã trải qua một thời kỳ hỗn loạn và hắc ám, trong khi đó lại cảm thấy một sự băn khoăn bất mãn do nhu cầu tự nhiên của bản tính con người là muốn lặp lại sự giao tiếp với cảnh giới tâm linh huyền diệu huy hoàng. Bởi vậy, hy vọng rằng những điều kiện sẽ có thể được tạo nên, những hoàn cảnh thuận tiện sẽ đến và những nhân vật đủ thẩm quyền và khả năng sẽ xuất hiện, để nhờ đó mà một lần nữa trên địa cầu này sẽ được tái lập tổ chức huyền môn, dưới những hình thức hoàn toàn mới mẻ tân kỳ, để cho được phù hợp, thích ứng với thời đại tân tiến hoàn toàn khác hẳn với thời đại cổ xưa. "
" Những vị đạo đồ trong khoa huyền môn thời cổ phải long trọng tuyên thệ là không bao giờ tiết lộ những gì xảy ra bên trong thánh điện thâm nghiêm huyền bí. Ta nên nhớ rằng, dù sao thì lễ điểm đạo cũng chỉ được cử hành mỗi năm cho một số rất ít môn đồ. Sự hiểu biết giáo lý mật truyền không bao giờ được ban bố cho nhiều người cùng một lúc. Bởi lẽ đó mà không một nhà văn thời cổ nào đã đưa ra được một tường trình đầy đủ và mạch lạc về những gì được gọi là giáo lý huyền môn, vì các vị môn đồ luôn giữ đúng lời cam kết một cách chặt chẽ. 
Những chân lý được truyền dạy trong các đạo viện huyền môn là do sự tiết lộ mà các đấng thánh nhân dành cho nhân loại từ lúc phát sinh những nền văn minh cổ xưa nhất, và nay giáo lý huyền môn cần được giữ gìn nguyên vẹn để duy trì sự tinh khiết của nó. Như thế, người ta hiểu tại sao khoa huyền môn được ẩn giấu cẩn mật và giữ gìn chặt chẽ ngoài tầm tay của kẻ thế nhân phàm tục. 
Tại sao những vị đạo trưởng lại có một sự dè dặt vô cùng chặt chẽ như thế? Đó là vì những lý do mà chỉ có các ngài mới có thể biết được. Dù sao, các ngài hẳn là thấy cần phải loại những kẻ hoài nghi và bỡn cợt ra ngoài những kinh nghiệm thần bí dẫy đầy nguy hiểm cho tánh mạng của người thí sinh. Người ta không trao những viên ngọc quý cho kẻ tầm thường. 
Ngoài ra, rất có thể là có nhiều người, vì không đủ sự chuẩn bị sẵn sàng cho một kinh nghiệm như thế, sẽ trở nên điên cuồng hoặc thiệt mạng sau cuộc thử thách. Bởi đó, lễ điểm đạo luôn luôn chỉ là đặc ân dành cho một số ít người xứng đáng. Nhiều người đã gõ cửa cầu xin điều đó ở các đền huyền môn nhưng vô ích. Những người khác, bị đặt dưới hàng loạt những cuộc thử thách sơ đẳng mỗi lúc một khó khăn hơn, không có đủ sự gan góc cần thiết để tiến xa hơn nữa, hoặc cảm thấy lòng ước muốn điểm đạo nguội bớt dần. 
Về sau, sự sa đọa vật chất của con người đã làm cho các vị đạo trưởng chân chính của thời xưa dần dần biệt tích hoặc rút lui ra ngoài vòng thế tục, và thay chân các ngài là những kẻ phàm phu mê muội, làm hoen ố và hạ thấp khoa huyền môn cao cả. Những kẻ bất chính, có tham vọng đạt được những phép thần thông của bàng môn tả đạo, sau cùng đã chiếm ưu thế để giành quyền kiểm soát các đạo viện huyền môn . 
Những gì từ lúc nguyên thủy vốn là thiêng liêng, chỉ dành cho những người chọn lọc nhằm mục đích duy trì ngọn lửa thiêng tinh khiết của sự sống tâm linh cho được trường cửu trong nhân loại, đã lọt vào tay những kẻ tà tâm, buôn thần bán thánh. Đó là những sự kiện lịch sử, làm cho cái kho tàng tâm linh quí báu của nhân loại thời cổ xưa đã trở nên suy tàn. " ( Theo Ai Cập huyền bí ).
Truyền chú xong, Thày Chàm bảo, cứ nhẩm theo câu chú ấy mà luyện. Chú "nhập" đến đâu thì công phu tự khắc... ra đến đó. Ngay đêm  hôm ấy, thầy Chàm  đã kéo tôi ra khoảng sân rộng trước Cốc , bắt đầu luyện tập quyền pháp. Trước khi tập, thầy lấy nắm nhang nghi ngút khói thổi vào tất cả những huyệt đạo trên cơ thể tôi . Làm xong, thầy bảo tôi nhẩm đọc chú để... gọi võ về. Thật ngạc nhiên, khi vừa đọc chú xong, tôi bỗng thấy mình lâng lâng như người say rượu. Lúc thì thấy tay mình nhẹ bẫng, lúc thì thấy nặng như đang khuân cả khối đá trăm cân. Tự nhiên thấy mình nhẹ bẫng, một cách vô thức , tôi như bay lượn trên sân tập , hai tay , 2 chân bung ra những cú chặt, chém, cú đá xé gió kinh hồn. Người tôi như bay như lượn , lăn lộn suốt từ đầu này sang đầu kia sân tập mà không có chút nào mệt mỏi . Trạng thái không kiểm soát ấy đã khiến tôi lúc thì lăn lộn trên đất, lúc thì nhảy tưng tưng trên không, lao đầu vào tường, vào bụi gai cũng không hề hay biết. Chỉ cho tới lúc Thày Chàm nắm lấy bàn tay tôi , đọc chú Ặc Rin thì lúc đó tôi mới như tỉnh lại .
Theo dõi tiếp bài 27. dienbatn.
Xem chi tiết…

CUỘC CHIẾN GIỮA CÁC PHÁP SƯ VÀ HAI CÕI ÂM DƯƠNG. BÀI 25.

11/03/2017 |
CUỘC CHIẾN GIỮA CÁC PHÁP SƯ VÀ HAI CÕI ÂM DƯƠNG. BÀI 25.
NHỮNG NĂM THÁNG HỌC HUYỀN MÔN.
Từ phần này trở đi có tên gọi là NHỮNG NĂM THÁNG HỌC HUYỀN MÔN. Đó là những tháng ngày vô cùng vất vả, trải nghiêm đủ Hỉ- Nộ- Ái - Ố của dienbatn . Cũng đã qua từ lâu rồi , xin kể lại để các bạn cùng chiêm nghiệm . Thân ái. dienbatn. Loạt bài này đã đăng trên báo giấy : Tuổi trẻ và Đời sống .
Thất Sơn Thần Quyền chính tông gồm 2 phần: Quyền và thuật. Quyền là phần "dương công" gồm những thế võ cận chiến tay không và giáp chiến binh khí. Thuật là phần "âm công" huyền bí, dùng năng lượng siêu nhiên trợ lực. Chỉ đệ tử duy nhất được chọn kế thừa chưởng môn mới được sư phụ truyền dạy phần "âm công”.
Do có xuất xứ từ vùng Bảy Núi linh thiêng nên người đời gọi là Thất Sơn Thần Quyền. Môn võ này có 4 phần luyện là tam đạo nhất thần: Tu tâm dưỡng tính gọi là tâm đạo, định thần dưỡng khí gọi là thể đạo, luyện thân tráng kiện gọi là quyền đạo. Phần luyện thứ tư gọi là luyện thần.
Còn một truyền thuyết khác nữa về nguồn gốc của phái Thất sơn Thần quyền như sau : "Thất Sơn thần quyền (TSTQ) do võ sư Trần Ngọc Lộ, sáng lập Trần Ngọc Lộ là đệ tử dưới trướng của Phật thầy Tây An Đoàn Minh Huyên. Vốn là người giỏi võ, lại đức độ, võ sư Trần Ngọc Lộ không thể lập giáo phái vì sợ mang tiếng phản thầy, phản giáo, nên ông lập võ đạo , lấy tên TSTQ đặt cho võ phái của mình
Đệ tử TSTQ nhập môn ngoài học quyền cước còn được học cả đạo. Võ là để rèn luyện thân thể, sức khỏe dẻo dai, bảo vệ chính nghĩa, giúp đỡ kẻ yếu. Còn đạo là đạo đức, đạo lý sống ở đời. Thêm vào đó, đệ tử TSTQ còn có thêm niềm tin rằng nếu ra sức luyện tập, đến một lúc nào đó có thể luyện thành “thần quyền”, có sức mạnh siêu phàm có thể “hô phong, hoán vũ”, có thể 1 đánh 10, thậm chí vài chục người. Chính đức tin này đã thu hút rất nhiều người tìm đến học TSTQ. Tuy nhiên, không phải đệ tử nào cũng được học “thần quyền”. Tương truyền, chỉ có người được chọn kế thừa Trưởng môn mới được chân truyền “thần quyền” để trấn môn    võ sư Hoàng Bá (tên thật Trần Kim Truyền), nhà ở cầu Tầm Bót, P.Mỹ Phước, TP.Long Xuyên. Ông chính là đệ tử chân truyền cuối cùng của võ phái TSTQ ở An Giang. Ông mở võ đường, thu nhận đệ tử tại Long Xuyên, lấy tên là Hoàng Bá.
Những năm từ 1958 đến 1960, lò võ Hoàng Bá nhanh chóng nổi tiếng trong giới võ thuật miền Nam, cả nước và thậm chí khu vực Đông Nam Á qua các cuộc thượng đài. “Hồi đó lên võ đài là phải ký giấy sinh - tử, 2 cái hòm (quan tài) được để sẵn bên hông. Mặc dù người học võ không được phép đánh chết người, nhưng vì quyền cước không có mắt nên phải làm như vậy. võ sư Hoàng Bá lấy tên lò là Thất Sơn Võ Đạo, thu nhận rất nhiều đệ tử. Đệ tử cuối cùng của võ sư Hoàng Bá là anh Phan Thanh Thuận, hiện là huấn luyện viên võ cổ truyền. Anh Thuận theo học tại nhà võ sư Hoàng Bá từ năm 1991-1994. Lúc này, võ sư Hoàng Bá đã đóng cửa võ đường và Thuận là đệ tử cuối cùng. Anh Thuận cho biết, những thế võ anh theo học có rất nhiều bài quyền cận chiến hay như Mãnh hổ tọa sơn, Linh miêu đoạt thạch, Tam sơn trấn ải, Xí mứng, Phá xí mứng, Pha bốc bế... "
Thất Sơn thần quyền là một trong những võ phái ra đời rất sớm ở vùng Thất Sơn (Bảy Núi, An Giang. " ( Trích từ Quá trình phát triển võ dân tộc của Phạm X Khuyến ).

dienbatn tại mộ Phật Trùm.
Có rất nhiều tài liệu nói về xuất xứ của phái Thất sơn Thần quyền , nhưng theo thày Chàm thì có một số điều chính như sau :
* Thứ nhất : Đây là một võ phái của Việt Nam , tiếp thu và phát triển những tinh hoa về võ học và Huyền môn của nhân loại , nhất là của các hệ phái Huyền môn Nam tông.
* Thứ 2 : Có rất nhiều tài liệu nói phái Thất Sơn Thần quyền xuất phát từ Trung Quốc. Nhưng theo thày Chàm , điều này hoàn toàn không có cơ sở vì tuy võ phái căn bản dựa trên hiện tượng cầu Thần nhập xác, nhưng việc này không chỉ có ở trung Quốc mà còn có ở hầu khắp các phái Huyền môn trên thế giới. Mặt khác các chữ bùa và câu chú của phái Thất Sơn Thần quyền đều là sử dụng tiếng Pali hoặc săngkit , các chữ bùa hầu như không xử dụng chữ Hán mà chủ yếu theo chữ Điển vô vi.
* Thứ 3 : Thất Sơn Thần quyền ngay bản thân tên gọi của nó đã chỉ ra xuất xứ của nó. Đây là một môn phái không chỉ là võ học mà căn bản của nó vẫn là Đạo học. " Đệ tử của Thất Sơn không chỉ được học quyền mà còn học pháp, Quyền chỉ là phương tiện để dẫn pháp, chứ không phải để đi đánh nhau ,Tất nhiên lúc đánh vì mục đích chính nghĩa thì cũng vô cùng huyền diệu, một đòn vào người, dù đối phương không thấy đau lắm, nhưng về nhà cũng đủ thối da thối thịt. Đệ tử nhập môn, bao giờ cũng phải học quyền. Nhiều người học quyền mãi mà chẳng thăng tiến về tâm, về pháp nên cứ tưởng là cứ giỏi quyền là đã thành tựu. 
Cao hơn quyền, nhiều đệ tử phát triển về pháp. Pháp trong môn cũng vi diệu là khó tin đối với quảng đại quần chúng. Nếu muốn biết về một người, dù cách cả ngàn cây số, cũng có thể biết người ấy đang nghĩ gì, có gặp sự cố gì không. Pháp của môn có thể cầu nắng thành mưa, có thể cầu người sắp chết được sống.
Có thể xin thần linh thổ địa, đuổi trừ tà ma, chữa người điên thành lành... Tất cả những điều này, người trong môn vẫn đang thực hành. Pháp thì cao, nhưng không phải lúc nào cũng làm. Làm thế có mà loạn. Lúc nào ra tay giúp người, lúc nào không, cái gì đáng làm, cái gì không, mỗi đệ tử trong môn phải tự định đoạt (nói những người có khả năng thôi). Nếu không, đều có thể phải trả giá. Để có pháp. không phải cứ khổ công tu luyện hay đọc chú là được. 
Tuỳ vào tâm đức vào kiếp trước của anh đã tinh tiến đến đâu thì khả năng phát triển đến đó. Điều này vô cùng quan trọng. Do đó, đệ tử lâu năm trong môn không có nghĩa là người giỏi. Giỏi hay không, hoàn toàn phụ thuộc vào tâm đức và sự khai mở từ những kiếp trước. Và vì phụ thuộc nhiều vào tâm đức, nên có những tên tuổi ngày trước đã lẫy lừng, mang tính huyền thoại, thì giờ, do làm nhiều việc phạm, do làm nhiều việc không có tâm đức, đã mất hẳn quyền pháp, trở nên vô dụng. Cái sự khó trong khi tu tập trong môn là như vậy nên tìm được đệ tử chân truyền là cực hiếm.
Người này hôm nay có thể có tâm tốt, ngày mai có thể hỏng. Mà cái khó nhất là nhiều khi sai mà không biết mình sai. Phạm lỗi nhiều mà tự mình ko thể nhận biết mà sửa chữa. Hậu quả nặng nhất mà một đệ tử có thể phải chịu khi phạm lỗi tất nhiên là bị đuổi ra khỏi môn. 
Nhẹ hơn thì mất hết quyền, pháp. Khi sư phụ chọn đệ tử, là sư phụ đã biết đệ tử ấy kiếp trước đã tu tập đến đâu, tâm đức đong được mấy thúng. “
Thất sơn Thần quyền chính là một môn Võ Đạo của người Việt Nam được hình thành từ thế kỷ 19 , do các Đạo giáo của vùng Thất sơn ( Bửu sơn kỳ hương, Tứ Ân hiếu nghĩa, Cao đài, Hòa hảo...), dựa trên những sở học về Huyền môn của nhân loại , nhất là các phái Huyền môn Nam tông (Phật giáo nguyên thuỷ- Nam tông (Theravada) có bề dày lịch sử rất lâu đời, sự truyền thừa được các sử gia thừa nhận là không bị gián đoạn. Điểm ưu việt của nó là truyền bá đến quốc gia nào vẫn giữ được nét văn hoá Phật giáo đặc thù, mà những truyền thống khác rất hiếm có. Phật giáo nguyên thuỷ hiện nay có mặt ở những quốc gia: Tích Lan, Miến Điện, Thái Lan, Lào, Campuchia, Việt Nam, Anh, Mỹ, Ý, Úc, Mã Lai, Indonesia,Nepal, Ấn Độ v.v… Điểm đáng nói là tính thống nhất trong truyền thống Nguyên thuỷ, chư tăng tụng kinh bằng tiếng Pali và tiếng bản ngữ , tu hành y cứ theo thánh điển Pali, Tam y và bình bát là tài sản của bậc xuất gia, chỉ ăn ngày một buổi, không ăn phi thời. ). 
Tuy cùng một nguồn là Thất sơn Thần quyền, nhưng do quá trình truyền thụ , tam sao thất bản mà hiện nay tùy theo vùng , miền mà môn phái Thất sơn Thần quyền rất khác nhau .  Không chỉ nguồn gốc của môn mà ngay các thủ tục, quy cách trong quá trình tu học cũng bị “tam sao thất bản” rất nhiều nên phổ biến trong nhân gian những thủ tục khá rườm rà khi nhập môn, dẫn đạo và thực hành công năng.
SỰ TRUYỀN THỪA CỦA PHÁI THẤT SƠN THẦN QUYỀN.
Có nhiều tài liệu nói về nguồn gốc của phái Thất sơn Thần quyền tại nhiều nơi như tại vùng Bảy Núi - An Giang, Huế, Bình Định, Quảng Trị , Đà Nẵng ,Thái Nguyên, Hà Nội ....nhưng theo thày Chàm tất cả những nơi đó đều có nguồn gốc xuất phát từ khu vực vùng Bảy Núi - An Giang . Môn phái Thất Sơn Thần Quyền tôn Quán Thế Âm Bồ Tát là Tổ sư và thêm 8 vị thần đại diện sư tổ trong công tác dạy các môn đồ. Các môn sinh gia nhập môn phái thì phải: đứng trước bàn thờ tổ (Quan Thế Âm Bồ Tát) xưng tên họ và thề 9 điều ( Tùy theo các vị sư phụ chọn từ 9-55 điều trong các lời thề. Mỗi câu thề là một giềng mối đạo đức giúp tăng năng lực tâm linh rất cao, tác động linh ứng rất mạnh , vì vậy người nào giữ được những lời thề đó sẽ có hiệu quả rất lớn khi thực hiện các phép thần bí )  : 
1. Hết lòng hiếu thảo với cha mẹ 
2. Không phản thầy 
3. Không phản bạn, xem bạn như anh em ruột thịt 
4. Không phản lại môn phái Thất Sơn Thần Quyền 
5. Không ỷ mạnh hiếp yếu 
6. Không ham mê tửu sắc 
7. Không cưỡng bách những người đàn bà đã có chồng con 
8. Hết lòng làm việc nghĩa 
9. Không phản đạo 
"Nếu con không làm tròn 9 điều thề trên thì con sẽ bị phanh thây làm muôn mảnh". Ðó là 9 điều tâm niệm của môn đồ Thất Sơn Thần Quyền.
Hiện nay, truyền nhân duy nhất và cuối cùng của Thất Sơn Thần Quyền là võ sư Hoàng Bá, cư ngụ tại cầu Tầm Bót, TP. Long Xuyên, tỉnh An Giang. Đã hơn 75 tuổi, gần 20 năm nay, võ sư Hoàng Bá đóng cửa võ đường, không thu nhận đệ tử nữa. Điều đáng tiếc là võ Sư Hoàng Bá, tuy là truyền nhân nhưng không phải là chưởng môn nên không lĩnh hội được hết tuyệt chiêu của Thất Sơn Thần Quyền. Ông cho biết, người trưởng môn duy nhất và cuối cùng của võ phái, nắm giữ tất cả tuyệt chiêu là ông Đạo Ngựa tu luyện ở núi Sam, Châu Đốc.
Võ sư Hoàng Bá chỉ là truyền nhân của một bản sao Thất Sơn Thần Quyền. Vì vậy, ông chỉ lĩnh hội được một số tuyệt kỹ thuộc về phần “dương công” của Thất Sơn Thần Quyền, chứ không nắm không nhiều những bí quyết về phần “âm công”. Võ sư Hoàng Bá đánh giá: “Thất sơn thần quyền là một môn phái cận chiến thực dụng, chỉ hữu ích trong chiến đấu thuở gươm đao xưa. Người võ sinh có những phương pháp luyện tập dị biệt. Vì bài quyền không có lời thiệu nên bị tam sao thất bổn. Ngoài quyền cước, võ sinh còn được trang bị thêm niềm tin huyền bí để tạo sự tự tin, bình tĩnh. Trong chiến đấu, sự tự tin, bình tĩnh chiếm 50% thắng lợi”. Thất Sơn Thần Quyền chính tông là một phái võ đặc dị gồm 2 phần: Quyền và Thuật. Quyền là phần “dương công” gồm những thế võ cận chiến tay không và giáp chiến binh khí. Thuật là phần “âm công” huyền bí, dùng năng lượng siêu nhiên trợ lực. Vì môn qui, người đệ tử duy nhất được chọn kế thừa trưởng môn mới được sư phụ truyền dạy phần “âm công”. Tương truyền, võ sinh Thất Sơn Thần Quyền chính phái có tuyệt chiêu gọi hồn nhập xác. Khi giáp chiến võ sỹ chỉ sử dụng quyền thế trong dương công để tấn công đối phương. Nếu gặp đối thủ lợi hại, võ sỹ dùng huyền thuật gọi hồn một vị thần giỏi võ nhập xác vào võ sỹ trợ giúp.”
“ Vào năm 1967, những người cao niên sinh sống dưới chân Núi Sam (Châu Đốc, An Giang) vẫn còn thấy một đạo sỹ gầy, râu tóc bạc phơ, tu luyện trong rừng sâu trên đỉnh núi. Hàng ngày, vị đạo sỹ này cưỡi ngựa xuống núi trao đổi lương thực với người dân quanh vùng.
Vị đạo sỹ này rất kiệm lời nên không ai biết thân thế, tên tuổi của ông. Ông không bao giờ rời lưng ngựa. Điều đáng quan tâm là, hình dáng ông trông rất ốm yếu, lại cưỡi ngựa không yên cương. Dốc núi gập ghềnh đá, ông phải có sức mạnh phi thường mới có thể cưỡi ngựa lên đỉnh xuống vồ. Vì thế, người dân địa phương gọi đùa là ông Đạo Ngựa.
Một lần dong ngựa xuống núi đổi rau củ lấy gạo, bắt gặp một toán cướp dùng súng uy hiếp người dân, ông xuống ngựa can thiệp. Đó là lần đầu tiên người ta thấy ông rời lưng ngựa. Toán cướp thấy ông ốm yếu xông vào toan đánh đập. Không ngờ chỉ bằng một ngón tay, ông đã khiến một tên cướp trợn dọc mắt, ngã lăn bất tỉnh. Tên cướp khác toan nổ súng. Ông rùng mình một cái rồi sau đó như điên loạn.
Ông bay vèo đến cạnh tên cướp tước súng rồi vung chân múa tay đánh gục hết những tên còn lại. Ông ung dung lên ngựa trở về núi. Một ông già ốm yếu đánh gục toán cướp khỏe mạnh lại có vũ khí trong tay khiến nhiều thanh niên thán phục. Họ rủ nhau lên núi tìm ông xin học võ. Không ai tìm được nơi trú ẩn của ông. Tuy nhiên, có một người thanh niên quyết tâm tìm ông cho được. Người thanh niên này bò lên đỉnh núi Sam tìm nơi ngồi thiền lâm râm khấn: khi nào gặp được sư phụ mới chịu xuống núi. Sau hai ngày chịu nắng mưa, đói khát giữa rừng sâu núi thẳm, người thanh niên ấy ngất xỉu. Khi tỉnh lại thì thấy mình nằm trong một hang động. Kể từ ngày đó, người thành niên ấy trở thành đệ tử chân truyền của Đại sư Đạo Ngựa. Ngoài Hoàng Sơn còn có một tiểu đồng tên Ba giúp ông Đạo Ngựa nhang khói. Trong những ngày thụ đạo, người thanh niên ấy mới biết sư phụ mình là đệ tử kế thừa trưởng môn Thất Sơn Thần Quyền của Nam Cực Đường. Nam Cực Đường của Đại sư Bảy Do lập năm từ đầu thế kỷ 20 đào tạo nghĩa sỹ kháng Pháp. Năm 1917, quân Pháp bao vây bắt Đại sư Bảy Do đày ra Côn Đảo. Năm 1926, tạo nhà lao Côn Đảo, Đại sư Bảy Do cắn lưỡi cho máu chảy đến chết. Học được gần 1 năm, đã hết phần “dương công” chuẩn bị bước sang phần “âm công”, người thanh niên ấy xin về nhà giỗ cha. Giỗ cha xong, khi trở lại núi Sam, người thanh niên không tài nào tìm được hang động cũ. Nghĩ rằng sư phụ muốn lẩn tránh mình, người thanh niên ấy đành lại tạ hư không rồi xuống núi. Từ ngày đó cũng không ai còn thấy bóng dáng ông Đạo Ngựa một lần. Ông mất hút giữa rừng núi thiêng. Người thanh niên ấy chính là lão võ sư Hoàng Sơn. Năm 1960, trong một trận thi đấu tranh giải võ thuật khu vực Đông Nam Á, võ sỹ Hoàng Sơn đại diện đoàn Việt Nam đấu với võ sỹ Kh’mer tên là Nosar. Vào hiệp một, chỉ sau vài chiêu giao đãi, võ sỹ Nosar xin dừng trận đấu vì nhận ra đồng môn. Hóa ra, Nosar cũng là đệ tử của Thất Sơn Thần Quyền. Năm 1970, ông Nosar trở thành Phó Chủ tịch Hội đồng võ thuật Campuchia đã đào tạo ra những võ sỹ “thần quyền” nổi tiếng Campuchia như Nosar Long, Nosar Lieng. Hóa ra Nosar là truyền nhân mấy đời của ông Cử Đa ở Tà Lơn.
Theo dõi tiếp bài 26. dienbatn.
Xem chi tiết…

CUỘC CHIẾN GIỮA CÁC PHÁP SƯ VÀ HAI CÕI ÂM DƯƠNG. BÀI 24.

11/03/2017 |
CUỘC CHIẾN GIỮA CÁC PHÁP SƯ VÀ HAI CÕI ÂM DƯƠNG. BÀI 24.
NHỮNG NĂM THÁNG HỌC HUYỀN MÔN.
Từ phần này trở đi có tên gọi là NHỮNG NĂM THÁNG HỌC HUYỀN MÔN. Đó là những tháng ngày vô cùng vất vả, trải nghiêm đủ Hỉ- Nộ- Ái - Ố của dienbatn . Cũng đã qua từ lâu rồi , xin kể lại để các bạn cùng chiêm nghiệm . Thân ái. dienbatn. Loạt bài này đã đăng trên báo giấy : Tuổi trẻ và Đời sống .
Ngày 20 tháng 6 năm 1867, quân Pháp chiếm thành Vĩnh Long. Sau đó, tiến lên huy hiếp thành Châu Đốc, buộc Tổng đốc Phan Khắc Thận phải đầu hàng. Tỉnh An Giang mất vào tay Pháp vào ngày 22 tháng 6 năm 1867. Trần Văn Thành không hàng Pháp mà mang quân qua Rạch Giá, hỗ trợ kháng chiến quân của Nguyễn Trung Trực.
Trần Văn Thành sinh năm 1920 ở ấp Bình Phú, làng Bình Thạnh Đông, tổng An Lương, quận Châu Phú Hạ, tỉnh Châu Đốc (nay thuộc xã Phú Bình, huyện Phú Tân, tỉnh An Giang). Năm 1840, ông gia nhập quân đội nhà Nguyễn được cử làm suất đội trong chiến dịch giải giáp Nặc Ông Đôn (em vua Cao Miên, khởi quân chống lại Việt Nam). Năm 1845, ông được thăng làm Chánh quản cơ, coi 500 quân, đóng quân ở Châu Đốc để giữ gìn biên giới phía Tây Nam.
Theo (https://vi.wikipedia.org).
“Trần Văn Thành sinh ra trong một gia đình trung nông ở ấp Bình Phú (Cồn Nhỏ), làng Bình Thạnh Đông, tổng An Lương, huyện Đông Xuyên, tỉnh Châu Đốc (nay thuộc ấp Bình Thành, xã Phú Bình, huyện Châu Phú, tỉnh An Giang).
Ông trưởng thành và hoạt động dưới triều đại Thiệu Trị và Tự Đức, từ khoảng năm 1841 đến 1873.Năm 1840, Trần Văn Thành gia nhập quân đội nhà Nguyễn giữa lúc Nặc Ông Đôn, em vua Cao Miên, nhờ có Xiêm La giúp sức, đã khởi quân chống lại cuộc bảo hộ của Việt Nam.
Nhờ có sức khỏe, giỏi võ nghệ, khá thông thạo chữ nghĩa , nên ông được cử làm suất đội (chỉ huy khoảng 50 lính), từng đóng quân ở Chân Lạp (Campuchia).
Dưới thời Thiệu Trị, ông từng đem quân đánh dẹp phe nổi dậy ở Láng Cháy (Tri Tôn) . Năm 1845, sau khi lập được nhiều công lao, ông được thăng làm Chánh Quản Cơ, coi 500 quân, đóng quân ở Châu Đốc để giữ gìn biên giới phía Tây Nam .
Năm 1846, Nặc Ông Đôn qui phục nhà Nguyễn. Cuối năm Đinh Mùi (1847), xét thấy tình hình biên giới Tây Nam đã ổn định, thực hiện chính sách "ngụ binh ư nông", triều đình cho giải ngũ một số binh sĩ, trong đó có cơ biền của Trần Văn Thành. Trước khi về lại quê nhà, ông được ban thưởng nhiều phẩm vật cùng một tờ chiếu khen là "Quản cơ tinh binh".Giải ngũ, Trần Văn Thành cùng gia đình đến cư ngụ tại khu vực chùa Huê Viên (còn gọi là chùa Vườn Bông, nay thuộc xã Phú Bình, huyện Phú Tân).
Năm 1849, Trần Văn Thành gia nhập giáo phái Bửu Sơn Kỳ Hương do Đoàn Minh Huyên (Phật Thầy Tây An) sáng lập năm 1849.
Từ 1851, khi Đoàn Minh Huyên bị bắt buộc phải đến tu tại chùa Tây An (Châu Đốc), nghe lời thầy, ông mang vợ con rời Cồn Nhỏ (Bình Thạnh Đông) đến vùng Nhà Bàng sau này, rồi đến Láng Linh (Châu Phú) lập trại ruộng để lo việc khẩn hoang .
Tháng 2 năm 1861, Đại đồn Chí Hòa thất thủ, sau đó quân Pháp lần lượt đánh chiếm ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ. Vua Tự Đức liền ra lời kêu gọi các sĩ dân nơi đây cùng hợp tác chống ngăn quân xâm lược. Hưởng ứng lệnh vua, Trần Văn Thành trở lại đội ngũ.
Sau khi đi Pháp chuộc lại ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ thất bại, năm 1865, Phan Thanh Giản được cử làm Kinh lược sứ ba tỉnh miền Tây Nam Kỳ. Do sức ép của Pháp, triều đình lệnh cho ông Giản phải lùng bắt Võ Duy Dương (còn gọi là Thiên hộ Dương), và ông Giản đã phái Trần Văn Thành thực hiện nhiệm vụ này, nhưng ông chỉ làm cho lấy có .
Ngày 20 tháng 6 năm 1867, quân Pháp chiếm thành Vĩnh Long. Sau đó, một đoàn tàu chiến do trung tá hải quân GaLey cầm đầu, tiến lên huy hiếp thành Châu Đốc, buộc Tổng đốc Phan Khắc Thận phải đầu hàng, tỉnh An Giang mất ngày 22 tháng 6 năm 1867.
Để cứu nguy nước nhà, Trần Văn Thành tự tổ chức dân binh đắp cản ở quê nhà (Cồn Nhỏ) để ngăn quân Pháp , đồng thời mang quân qua phía Rạch Giá, hỗ trợ cuộc khởi nghĩa Nguyễn Trung Trực. Tháng 6 năm 1968, thủ lĩnh Trung Trực đánh chiếm được đồn Kiên Giang mấy ngày, thì bị quân Pháp tổ chức phản công. Lập tức, Trần Văn Thành cho quân (có đông đảo đồng bào Núi Sập tiếp tay) đắp cản ở Ba Bần, Trà Kên (nay đều thuộc huyện Thoại Sơn) để ngăn cản tàu chiến Pháp đi tái chiếm tỉnh lỵ Rạch Giá .
Ngoài ra, ông còn can dự vào việc giết viên Chủ tỉnh Vĩnh Long là Salicetti ở Vũng Liêm .
Cuộc cản phá thất bại, Nguyễn Trung Trực bị đánh thua rút quân ra Hòn Chông (nay thuộc Kiên Lương), còn Trần Văn Thành thì dẫn lực lượng của mình vào Láng Linh dựng trại, khẩn hoang làm ruộng, luyện quân và rèn đúc vũ khí...để chuẩn bị làm cuộc đánh đuổi ngoại xâm .
Láng Linh một cánh đồng rộng trũng phèn rộng bao la, thời nhà Nguyễn, đất này thuộc huyện Tây Xuyên, phủ Tuy Biên, tỉnh An Giang (nay nằm trên địa bàn các xã Thạnh Mỹ Tây, Đào Hữu Cảnh, Bình Phú (nay đều thuộc huyện Châu Phú tỉnh An Giang). Xưa kia, nơi đây có nhiều đầm lầy, đế sậy và vô số cây thưa (vì thế mà thành tên cuộc khởi nghĩa) , lại ít có kênh rạch thông vào...
Cây trát thưa hay cát thưa (dân gian gọi tắt là "thưa") là một loại cây ưa mọc ở vùng đất thấp, chịu được mùa nước nổi, cội to (khi lớn), lá nhỏ mà dài (xem ảnh). Ca dao địa phương có câu: "Bãi bồi mọc những cát (hay trát) thưa/ Thương em đi sớm về trưa một mình". Theo Nguyễn Hữu Hiệp và Liêm Châu, tên cuộc khởi nghĩa viết là Bãi Thưa (theo nghĩa bãi đất mọc nhiều cây thưa) mới đúng. Do cách phát âm của người nông thôn miền Nam, mà tên Bãi Thưa lần hồi thành ra Bảy Thưa (theo Kỷ yếu, tr. 79 và 92). Hiện nay ở Láng Linh còn rất ít loại cây này. Cây cát (hay trát) thưa, chỉ còn lại vài bụi nhỏ tại Dinh Sơn Trung.
Theo lời kể của nhân dân và tư liệu cũ thì căn cứ chính của khởi nghĩa Bảy Thưa là Hưng Trung doanh (nay thuộc ấp Hưng Trung, xã Đào Hữu Cảnh, huyện Châu Phú). Xung quanh có các đồn làm tuyến ngăn cản đối phương, như: đồn Cái Môn, đồn Lương (đều thuộc Thạnh Mỹ Tây), đồn Giồng Nghệ (Vĩnh Hanh, (Châu Thành), trạm canh Ông Tà (Tà Đảnh, Tri Tôn), đồn Hờ ở vàm rạch Cái Dầu (Châu Phú), v.v... . Mỗi đồn đều được trang bị súng thần công, súng điểu thương, hỏa hổ,... với khoảng 150 nghĩa quân phòng thủ.
Trần Văn Thành phất cờ chống Pháp vào khoảng tháng 8 năm 1867, và lấy tên Binh Gia Nghị đặt cho đội quân của mình.
Theo tờ trình của Pháp năm 1870, thì lúc bấy giờ lực lượng của Trần Văn Thành có khoảng 1.200 nghĩa quân, bao gồm một số quân triều và nghĩa dân (trong đó phần đông là tín đồ Bửu Sơn Kỳ Hương). Để củng cố thêm thế lực, Trần Văn Thành cho người đến liên hệ với Pu Kom Pô, thủ lĩnh kháng Pháp ở Campuchia, nhưng vì ông này cũng đang gặp khó khăn nên việc liên kết không mấy hiệu quả. Ngoài ra, ông còn cho người sang Xiêm La và Cao Miên để mua súng đạn, nhưng không thành công, vì hai nước ấy không muốn nhúng tay vào việc Nam Kỳ e mất lòng Pháp .
Cuối năm 1868, các phong trào kháng Pháp tại Nam Kỳ đã bị tan rã gần hết, lực lượng Trần Văn Thành lâm vào thế cô, và ông trở thành nhân vật bị Pháp truy nã, treo giải thưởng cao .
Năm 1871, một cộng sự của Pháp là Trần Bá Lộc thử hành quân vào Bảy Thưa, nhưng chẳng thâu được kết quả do sình lầy, bốn phía lau sậy mù mịt, thỉnh thoảng bị phục kích.
Sang năm 1872, nhờ lời khai của nghĩa quân ra hàng và mật thám thăm dò được, thực dân quyết định mở cuộc càn quét lớn vào Bảy Thưa. Tuy nhiên mãi cho đến năm sau, họ mới phát lệnh hành quân.
Bắt đầu từ tháng 3 năm 1873, thực dân Pháp cho quân đánh phá đồn Hờ ở rạch Cái Dầu (thuộc Châu Phú), và uy hiếp đồn Nghệ (thuộc xã Vĩnh Hanh, huyện Châu Thành, An Giang) rồi kéo dần vào rừng. Họ nã đại bác vào phía trước và cho dân dọn đường phía sau. Qua 5 ngày chiến đấu, quân Bảy Thưa lui dần. Quân Pháp không tiến mau được vì ngột nắng và sợ đỉa. Ngày 19 tháng 3, hải quân Pháp từ Châu Đốc tiến vào đánh đồn Cái Môn (nay thuộc xã Thạnh Mỹ Tây, huyện Châu Phú). Tuy có hào sâu nhưng vì súng của nghĩa quân bắn không được xa, phát nổ phát không, nên chẳng bao lâu quân Pháp tràn vào được trong đồn. Cùng ngày ấy, tàu chiến Pháp đâu tại vàm rạch Mặc Cần Dưng (nay thuộc Châu Thành, An Giang), ngoài sông Hậu, rồi cho quân  dùng xuồng nhỏ vào ngọn rạch Mặc Cần Dưng (nay thuộc Châu Thành, An Giang) để tiến tới ngọn Hang Tra là nơi Trần Văn Thành đang chỉ huy chiến cuộc .
Biết mình đang bị bao vây, và người Pháp có vũ khí hữu hiệu, nhưng Trần Văn Thành và nghĩa quân vẫn cương quyết đối phó.
Theo Sơn Nam, khoảng 9 giờ sáng ngày 19 tháng 3 năm 1873 (21 tháng 2 năm Quý Dậu), quân Pháp bắt đầu xung phong đánh chiếm Hưng Trung doanh. Báo Le Courrier de Saigon ra ngày 5 tháng 4 năm 1873 tường thuật:
Tại Hưng Trung, Trần Văn Thành vẫn bình tĩnh đứng sau chiến lũy làm bằng những tấm ván và những bao gạo chồng lên nhau, để đốc thúc nghĩa binh chiến đấu. Nghĩa quân trong các chiến lũy thổi tù và, đánh trống và reo hò để tăng uy thế. Bên cạnh ông còn có con trai ông hỗ trợ cho ông bắn"...
Nhà văn Sơn Nam kể:
Ông Trần Văn Thành vẫn bình tĩnh đối phó, tuy đang bị vây. Ông đứng sau phòng tuyến làm bằng ván với những bao gạo chồng chất. Ông thách thức bọn Pháp, dùng ống loa mà chửi rủa thậm tệ. Đồng thời ông day về phía quân sĩ của mình mà khích động tinh thần; quân sĩ hò reo vang rân, chửi rủa bọn Pháp, trống đánh liên hồi. Ông Trần Văn Thành cắt từng lọn tóc nhỏ của mình mà phân phát cho các tín đồ...Bọn Pháp được lịnh đánh tràn vào. Ông Thành mặc áo màu đỏ sậm, đốc thúc chiến sĩ, ra hiệu lịnh, bên cạnh ông là đứa con ruột đang tiếp tay và đích thân ông bắn súng...
Trước hỏa lực mạnh mẽ của đối phương, dù cố gắng chống trả nhưng chỉ vài giờ sau thì quân Bảy Thưa cũng bị đánh tan. Cũng theo Sơn Nam thì sau trận này, bên nghĩa quân có 10 người chết, 5 người bị thương, 15 người bị bắt sống. Ngoài ra, họ còn bị đối phương chiếm đoạt 16 súng điểu thương, 70 cây đao, nhiều gạo cùng ghe xuồng, một số giấy tờ cho thấy ông Thành từng ở Rạch Giá với Nguyễn Trung Trực và can dự vào vụ đánh giết Salicetti (chủ tỉnh Vĩnh Long) ở Vũng Liêm.
Xong trận, quân Pháp nổi lửa đốt tất cả dinh trại, phá hủy hết các lò đúc vũ khí, rồi mang xác ông Thành và Đội Văn (Pháp ghi là Vang, giữ hậu tập, tử trận trong trận Hưng Trung) về chưng bày tại chợ Cái Dầu (Châu Phú) để thị uy, để ngăn chận những tin đồn cho rằng ông còn sống, chỉ tạm thời đi lánh mặt và sẽ tiếp tục kháng chiến . Theo Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam thì ông không tử trận. Sách viết: "sau khi bản doanh Hưng Trung bị tàn phá, thất bại nặng, ông rút lui vào chiến khu và mất ngày 21 tháng 2 âm lịch năm 1873".
Về cái chết của ông, đến nay vẫn chưa được làm rõ.
Nhà văn Sơn Nam viết về Trần Văn Thành và cuộc khởi nghĩa của ông như sau:
Trần Văn Thành từng tham gia những trận chống quân xâm lược Xiêm, đời Thiệu Trị. Qua đời Tự Đức, thấy sự áp bức của vua quan, ông trở thành tín đồ của Đoàn Minh Huyên, bấy lâu nổi danh với tài trị bệnh, cải cách Phật giáo, bỏ những nghi thức rườm rà, nhằm huy động nông dân chống lại phong kiến...
Với chí lớn không chút bi quan yếm thế, ngay sau khi An Giang mất, ông đưa nghĩa dân và nghĩa quân qua phía Rạch Giá, tham gia cuộc khởi nghĩa Nguyễn Trung Trực, và ông trở thành nhân vật mà thực dân Pháp truy nã gắt gao, treo giải thưởng. Sau đó, ông rút lui về Láng Linh để khẩn hoang. Có thể nói, ông là người đầu tiên dám nghĩ đến việc canh tác ở vùng trũng phèn này. Từ năm 1871 đến đầu năm 1873, mật khu lần hồi thành hình...Nghĩa quân gồm quân sĩ cựu trào, thêm khá đông người yêu nước từ các tỉnh.
Khi đề cập cuộc khởi nghĩa Bảy Thưa, nhiều sử gia đều đánh giá cao, vì:
-Việc tổ chức khá khoa học, với công sự, kho lương thực; đặc biệt là đúc súng ống tại chỗ, tuy súng hãy còn thô sơ, kiểu "ống lói".
-Biết dùng hình thức tôn giáo để qui tụ quần chúng và che mắt thực dân Pháp.
-Thủ lĩnh (Trần Văn Thành) thấy rõ tương lai dân tộc ở hành động cụ thể là phải chống ngoại xâm, không thể ngồi khoanh tay chờ núi Cấm nứt ra "bất chiến tự nhiên thành". Thái độ của thủ lĩnh và nghĩa quân là "chiến đấu không thỏa hiệp"
Nho sĩ Cao Văn Cảo, người cùng thời, có làm bài thơ chữ Hán tưởng niệm ông. Vô danh dịch như sau:
Non sông Hồng Lạc, giặc xâm lăng
Thẳng thắng, Trần công cố sức ngăn.
Trời đất biết cho lòng sốt sắng,
Kiếp đời ghi mãi chí thù hằn.
Đền thờ tỏ dấu dân trong nước,
Thơ vịnh nêu tình khách viết văn.
Những đứa phản thần qua đến cửa,
Gục đầu, run mật, cặp mày nhăn.
Năm 1909, một tu sĩ trong giáo phái Bửu Sơn Kỳ Hương tên là Vương Thông có viết tập thơ Nôm thể lục bát có tên là "Trần Quản Cơ dữ Gia Nghị Binh", kể về khởi nghĩa Bảy Thưa, trong đó có nhiều câu nói đến tinh thần "an bần, lạc đạo", lòng quả cảm và tiết tháo của ông, trích hai đoạn ngắn:
Thân ngài (Trần Văn Thành) chẳng quản rách lành,
Ở trong Láng đó lều tranh chờ thời.
Người trung đứng giữa mặt trời,
Đắng cay bao quản vận thời chớ than.
Trích cò le át la vang,
Đậu khoai nuôi bữa bắp rang đỡ lòng...
Và:
An Giang có một ông (Trần Văn Thành) đây
Chữ dạ ngay thầy ái quốc ưu dân.
Thà thua xuống láng xuống bưng,
Kéo ra đầu giặc lỗi chưng quân thần...
Trần Văn Thành được tôn thờ ở nhiều nơi, như: Đền thờ Quản cơ Trần Văn Thành, Dinh Hưng Trung, Dinh Sơn Trung...Ngoài ra, tên ông còn dùng để đặt tên cho trường học và đường phố trong tỉnh An Giang.”
Tháng 6 năm 1968, Nguyễn Trung Trực đánh chiếm được đồn Kiên Giang mấy ngày, thì bị quân Pháp tổ chức phản công. Do địch được trang bị vũ khí vượt trội nên Nguyễn Trung Trực rút lui ra Hòn Chông, còn Trần Văn Thành thì dẫn lực lượng của mình vào Láng Linh – Bảy Thưa dựng trại, khai hoang, luyện quân và rèn đúc vũ khí chờ thời cơ. Đó là khoảng thời gian hình thành môn phái võ Thất Sơn Thần Quyền.
Một số Chưởng môn truyền nhân của các hệ phái đều nhắc đến ông tổ Cử Đa - Một nhà sư tay không đả hổ ở núi Thiên Cấm Sơn. Cũng có thể đó là ông Tổ chung nhiều môn phái võ có xuất xứ ở vùng Thất sơn.
Thời Thiệu Trị cuối cùng, Nguyễn Văn Đa thi đậu võ cử nên được gọi là Cử Đa.
Khi triều đình nhu nhược trước quân Pháp, ông Cử Đa thất vọng từ quan về vùng Thất Sơn đứng dưới cờ kháng chiến của nghĩa quân Trần Văn Thành (quản cơ Trần Văn Thành) vào năm 1862. Lúc ấy nghĩa quân Trần Văn Thành trú đóng dưới chân núi Liên Hoa Sơn (căn cứ Láng Linh – Bãi Thưa) lập căn cứ kháng chiến lâu dài.
Láng Linh – Bãi Thưa là hai cánh đồng rộng nằm liền kề, có nhiều đầm lầy, lau sậy và vô số cây thưa um tùm tăm tối. Căn cứ chính của Trần Văn Thành có tên là Hưng Trung doanh, đặt tại trung tâm rừng Bãi Thưa (nay thuộc xã Đào Hữu Cảnh, huyện Châu Phú, An Giang).
Ông Cử Đa trở thành người huấn luyện võ thuật cho quân kháng chiến. Trong khi quân Pháp sử dụng vũ khí hiện đại, quân kháng chiến chỉ có các loại đao, thương và súng tự chế. Để trấn an tinh thần nghĩa quân, thủ lĩnh nghĩa quân Trần Văn Thành giao cho Ngô Lợi huấn luyện phép thuật.
Còn cụ cử Đa trong cuốn Tà Lơn có viết là quê tại Thuộc Nhiêu , chống Tây bị thất bại nên đi tu lấy hiệu là Ngọc Thanh :
“ Hắc y đổi lại cà sa,
Cải tên đặt lại hiệu là Ngọc Thanh “.
Trong thời gian này cụ cử Đa thường đem quân lên Vồ Thiên Tuế  tập võ .  Gọi là Vồ bởi chúng là những chỏm cao nhô lên trong cùng một dãy núi, phần nhô cao lên có đỉnh bằng phẳng . Tại núi Cấm có 5 vồ là : vồ Thiên Tuế, vồ Ông Bướm , vồ Bà , vồ Đầu và vồ Bò Hong . Trong đó vồ Bò Hong cao nhất ( 716 m ) và thấp nhất là  vồ Ông Bướm ( 480m ) . Gọi là vồ Thiên Tuế bởi ở đây có rất nhiều cây Thiên Tuế  lâu năm , gọi là vồ Ông Bướm bởi ngày trước cuối thế kỷ 19 có hai người Miên tên là Bướm và Vôi đến tu luyện . Gọi là vồ Bà vì trên vồ có tượng Bà to lớn và rất đẹp . Tại Vồ Bà cũng còn có một phiến đá rất to có hình dáng giống như một cái thuyền có sự tích về “ Chàng Nam và chiếc thuyền hóa đá “
Nhằm tạo niềm tin, thu hút nhiều quần chúng tham gia kháng chiến, Ngô Lợi đem nền tảng đạo Bửu Sơn Kỳ Hương lập một tôn giáo mới có tên gọi là Tứ Ân Hiếu Nghĩa. Những tín đồ được Ngô Lợi phát bùa đeo nhằm… chống đạn. Ông Ngô Lợi còn dùng sấm truyền để tín đồ tin rằng sắp đến ngày tận thế (đồng khởi), ma quỷ (quân Pháp) đã hiện ra đầy đường và núi Cấm sắp mở hội “Long Hoa”.
Chỉ trong một thời gian ngắn, người dân khắp đồng bằng bồng bế gia đình kéo về vùng kháng chiến Láng Linh nườm nượp. Ngô Lợi phải chia đất cho tín đồ cất nhà, lập làng và tổ chức khai hoang lập ruộng sản xuất lấy lương thực nuôi quân. Theo lệnh của Quản cơ Trần Văn Thành, ông Ngô Lợi còn bày cách cho tín đồ đóng ghe nhiều chèo phục vụ cho chiến đấu.
Sau một thời gian dài chuẩn bị, năm 1872, Trần Văn Thành chính thức phất cờ chống Pháp, lấy hiệu là Binh Gia Nghị. Nghe tin, Pháp cử chủ tỉnh người Việt tên Trần Bá Lộc đưa mật thám xâm nhập căn cứ.
Năm 1873, sau khi nắm rõ tình hình nghĩa quân, Trần Bá Lộc dẫn quân Pháp đánh vào Bảy Thưa. Ông Trần Văn Thành tử trận. Cuộc khởi nghĩa thất bại. Quân Pháp tàn sát, giết hại, đốt làng của tín đồ Tứ Ân Hiếu Nghĩa. Ông Ngô Lợi thoát nạn, sau này quay trở về Láng Linh tiếp tục chiêu mộ nghĩa quân dưới danh nghĩa tôn giáo chờ thời cơ. Khi quân Pháp càn quét vào vùng căn cứ, một trong những đệ tử của Bổn sư Ngô Lợi đã dùng một chiếc ghe nhiều mái chèo theo sông Cái ra biển đào thoát về tận vùng núi Long Sơn ở Bà Rịa lập nên đạo Ông Trần.
Riêng ông Cử Đa cải trang thành một vị sư lấy tên là Sư Bảy, giả điên khùng, lưu lạc nhiều nơi để tránh sự truy lùng của quân Pháp. Có lúc ông phái lánh sang Campot,Campongtrach, đến núi Tà Lơn tức Bokor (Campuchia).
Đến năm 1896, ông Cử Đa mới dám trở về vùng núi Cấm lập am ẩn danh. Năm 1896, khi rời Campuchia về nước, ông Cử Đa tìm gặp Đức Bổn sư Ngô Lợi để bàn chuyện tiếp tục đánh Pháp. Nhưng vị tu sỹ này từ chối do chưa đến thời cơ. Thất chí Cử Đa về vùng rừng Tri Tôn lập chùa Năm Căn quy  ẩn.
Riêng làng An Định, nơi được xem là thủ phủ của đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa với ngôi chùa Tam Bửu và Phi Lai do chính Ngô Lợi tạo dựng, quân Pháp bố ráp xóa làng 5 lần nhưng không xóa được lực lượng nghĩa quân này.
Sau khi Ngô Lợi bị bệnh qua đời, những kháng chiến quân trong đội ngũ tín đồ vẫn tiếp tục rèn luyện võ nghệ chờ thời cơ đánh Pháp. Nhưng do không còn người lãnh đạo, lực lượng này mai một dần.
Tương truyền, ông Cử Đa là một trong số chỉ huy của Chưởng cơ Thành. Khi nghĩa quân bị thực dân Pháp đàn áp, các vị chỉ huy nghĩa quân phân tán lực lượng vào các cánh rừng già để bào toàn lực lượng và chờ đợi người liên lạc của Chưởng cơ Thành. Họ không ngờ rằng chủ soái đã bị giặc bắt và tử hình. Với quân số ít ỏi, Cử Đa không thể làm được gì ngoài việc chiêu mộ thêm nghĩa quân và ngày đêm luyện tập võ nghệ. Do ảnh hưởng tín ngưỡng và điều kiện rèn quân nên hệ phái tổ sư Cử Đa có võ pháp nghiêng về các thế tấn công quyền pháp và binh khí. Về võ đạo, hệ phái tôn vinh tinh thần dân tộc, chống ngoại xâm và tuyệt đối phục tùng mệnh lệnh sư phụ (chỉ huy) bằng lời thề độc khi nhập môn. Về võ thuyết, hệ phái này lấy niềm tin từ “cõi âm”, vì vậy, ngoài những bài tập rèn luyện về thể chất, võ sinh còn phải luyện bùa, phép, ngải, chú. Do sống trong vùng rừng thiên nước độc, không có giấy tờ ghi chép nên các võ sinh chỉ học bằng cách truyền khẩu. Sau này, các đệ tử (Nghĩa quân) của tổ sư Cử Đa tiếp tục đi khắp nơi chiêu mộ nghĩa quân, chiêu mộ đến đâu huấn luyện võ thuật đến đó. Vì lưu trữ kiến thức võ học bằng trí nhớ nên chuyện tam sao thất bồn là lẽ đương nhiên. Sau nhiều thế hệ nối tiếp, dần dà, Thất Sơn võ phái biến thành nhiều chi phái khác nhau. Có nhiều chi Thất Sơn nhưng hầu hết đều không nhận ra bài quyền nào của nhau. Thậm chí có chi phái hoàn toàn không luyện đòn thế mà chỉ chú tâm vào huyền thuật, gọi là chi phái “thần quyền”. Khoảng thập niên 70 của thế kỷ trước, nhiều người đã cố công sưu tầm, tập hợp các tinh hoa của tổ sư Cử Đa nhưng chưa thành công đã giải tán do chiến tranh.
Phái Thất sơn Thần quyền là một môn phái riêng, không hẳn là Trà Kha , nhưng tiếp thu rất nhiều những kỹ thuật căn bản và khẩu quyết của phái Trà Kha. Các thày ngày xưa đi học và nghiên cứu theo các hệ phái Nam tông thường kết hợp và vận dụng rất tài tình, sáng tạo các môn phái khác vào môn phái của mình. Chỉ riêng phái Thất sơn thần quyền cũng chia ra rất nhiều nhánh nhỏ với nhiều sáng tạo và kết quả là có nhiều chi nhánh khác nhau trong cùng một phái Thất sơn Thần quyền. Thất Sơn Thần Quyền là một môn phái cận chiến thực dụng, chỉ hữu ích trong chiến đấu thuở gươm đao xưa. Người võ sinh có những phương pháp luyện tập dị biệt. Vì bài quyền không có lời thiệu nên bị tam sao thất bản. Ngoài quyền cước, võ sinh còn được trang bị thêm niềm tin huyền bí để tạo sự tự tin, bình tĩnh. Trong chiến đấu, sự tự tin, bình tĩnh chiếm 50% thắng lợi .
Theo dõi tiếp bài 25. dienbatn.
Xem chi tiết…

THỐNG KÊ TRUY CẬP

LỊCH ÂM DƯƠNG

NHẮN TIN NHANH

Tên

Email *

Thông báo *