THẦN THÁNH TRUNG HOA - NHƯỢC THỦY DỊCH . BÀI 1.

3/28/2015 |
THẦN THÁNH TRUNG HOA
Bản dịch của Nhược Thủy - dienbatn giới thiệu.

LỜI NÓI ĐẦU : Đây là bản dịch rất công phu của Nhược Thủy trong trang Hoangthantai . Nay không còn thấy trang này hoạt động nữa. dienbatn chép lại vào đây để làm tư liệu . Mong bác Nhược Thủy cảm thông.
      
 THẦN THÁNH TRUNG HOA TẬP  I
Lời giới thiệu:- Nhận thấy từ trước đến nay, người Việt Nam chúng ta theo phong tục tập quán của người Trung Hoa, nên đã tin tưởng và thờ phụng rất nhiều vị Thánh, Thần giống như người Trung Hoa. Tài liệu giải thích về các Ngài thì quá ít và không có cơ sở khảo cứu , chỉ theo truyền khẩu nhiều hơn. Nay tôi xin cố gắng dịch những tài liệu nầy từ một Website có uy  tín và khảo cứu cẩn thận, xin kính tặng tất cả huynh đệ trong 4R-HTT. Nếu có chỗ nào sai sót, xin quí cao nhân hoan hỉ chỉ bảo cho (kèm theo nguyên tác  để quí vị dễ đối chiếu).
Xin thành thật cảm ơn quí huynh đệ.
Nhược Thủy
( Mùa Hạ năm Mậu Tí-2008).
  MỤC LỤC TẬP I .
1.- Ngọc Hoàng Thượng Đế (bài tóm tắt)
2.- Huyền Thiên Thượng Đế
3.- Nguyên Thủy Thiên Tôn
4.- Ngọc Hoàng Đại Đế (bài chi tiết)
5.- Tây Vương Mẫu
6.- Cửu Thiên Huyền Nữ
7.- Nữ Oa Nương Nương
8.- Thái Thượng Lão Quân
9.- Phụ lục:- Tam Hoàng + Ngũ Đế
10.- Bảo Sanh Đại Đế
11.- Tam Quan Đại Đế
12.- Bà Thiên Hậu Thánh Mẫu
13.- Văn Xương Đế Quân
14.- Quan Thánh Đế Quân
15.- Thập điện Diêm La Vương
16.- Định Phước Táo Quân (Ông Táo)
17.- Phước Đức Chính Thần (Thổ Địa)
18.- Tài Thần (Thần Tài)
19.- Thành Hoàng
20.- Thái Tuế
21.- PL:-Tên của 60 Thái Tuế theo sáu trường phái
22.- PL:- Kinh Minh Thánh của Đức Quan Thánh Đế Quân
23.- Cách cúng an vị Thái Tuế mỗi năm (có bài vị mẫu vả thần chú)
24.- Chức năng của Nhị Thập Bát Tú (cai quản về việc gì của con người)
25.- Bắc Đẩu Thất Tinh Nguyên (Ngươn) Quân
26.-Thần chú Bắc Đẩu Tiêu Tai cho từng tuổi hàng ngày (giải trừ vận xấu)
27.-Đại Thánh Bắc Đẩu Thất Nguyên Quân năng giải ách.
28.- Nguyên Thần Điện ( Điện thờ các tinh tú)
29.-Bắc Đẩu Chân Kinh
30.- Tiên Thiên Tôn Thần--Tứ Ngự
31.-Tiên Thiên Tôn Thần--Tam Thanh--Linh Bửu Thiên Tôn
32.-Thái Thượng Linh Bửu Thiên Tôn thuyết Diên Thọ Kinh
33.-Tiên Thiên Tôn Thần-Tứ Ngự--THỔ HOÀNG (Hậu Thổ)
34.-Tiên Thiên Tôn Thần-Tứ Ngự--Câu Trần Đại Đế
35.- Tiên Thiên Tôn thần-LÔI  TỔ
36.- Lôi Bộ Ngũ Nguyên Soái
37.- Lôi Công --  Điễn  Mẫu
38.-Chân Vũ Đại Đế (bổ sung bài Huyền Thiên Thượng Đế)
39.- Đông Nhạc Đại Đế
40.- Hỏa Đức Tinh Quân
41.- Viêm Đế   THẦN  NÔNG
42.- Tam Thái Tử (Na Tra)
43.- Lữ Đồng Tân (Phù Hữu Đế Quân)
44.- Chú Sanh Nương Nương (Bà Chúa Thai Sanh)
45.- Thái Âm Nương Nương (Nguyệt Nương)
46.- Nguyệt Hạ Lão Nhân (Nguyệt Lão)
47.- Môn Thần
48.- Hòa Hợp Nhị Tiên (Hàn Sơn -- Thập Ðắc)  
49.- Pháp Chủ Công
50.- Tế Công Hoạt Phật--Phụ lục:- Tế Công Thánh Huấn
51.- Thất Nương Mụ (Má)
52.- Sàng  Mụ (Má)
53.- Thái Dương Tinh Quân
54.-Khai Chương Thánh Vương
55.- Tam Sơn Quốc Vương
56.- Thanh Thủy Tổ Sư
57.- Khôi Tinh
58.- Thương Hiệt Tổ Sư  
59.- Bát Tiên (tổng quát)
60.- Tiểu sử của Bát Tiên (viết theo truyện Đông Du Bát Tiên)
61.- Bích Hà Nguyên Quân.
62.- Tam Tinh Phước Lộc Thọ.
63.- Vũ Sư (Thần Mưa)
64.- Phong Bá (Thần Gió)
65.- Long Vương
66.- Thờ Bạch Hổ
67.- Thiên Đình (cách tổ chức)
68.- Nhị Thập Bát Tú (hệ thống, tên sao, ý nghĩa, sao ngày nay theo Thiên văn)
69.- Thạch Cảm Đương (Đang) (bùa đá trấn yểm)
70.- Nam Cực Trường Sinh Đại Đế (Nam Cực Tiên Ông)
71.- Thái Ất Cứu Khổ Thiên Tôn
72.- Đông Vương Công (Mộc Công)   
73. Đẳng cấp của Thần Thánh
74.- Giới thiệu tổng quát về Thần Thánh Trung Hoa (bài đầu tiên)
75.-Giới thiệu tóm tắt Thần Thánh Trung Hoa theo lịch sử  
76.- Trung thiên Bắc Cực Tử Vi Đại Đế        
(Hết Tập I--Xin xem tiếp Tập  II )       
1. NGỌC HOÀNG ĐẠI ĐẾ.

“玉皇大帝”   原名叫什么 ?
玉皇大帝的來曆:玉皇大帝簡稱玉皇,又稱昊天金闕絰尊玉皇大帝、玄穹鄗上玉皇大帝。宋代真宗和徽宗都上有圣號。宋真宗上圣號為太上開天執符御曆含真体道玉皇大天帝。宋徽宗上圣號為太上開天執符御曆含真体道昊天玉皇上帝。道經中佺稱作昊天金闕無上絰尊自然妙有彌儸絰尊玉皇上帝。据《鄗上玉皇本行集經》,玉皇大帝乃昊天界上光嚴淨樂國王与寶月光皇后所生之子。出生之時,身寶光焰,充滿王國。幼而敏慧,長而慈仁,將國中庫藏財寶,儘散施窮乏困楛、鰥寡孤獨、無所依靠、飢饉殘疾的一切眾生。淨樂國王駕崩后,太子治政有方,告敕大臣,俯含眾生,遂捨國赴普明香岩山修道,經三千二百劫,始証金仙初號自然覺皇,又經億劫,始証玉帝。 
万神之帝:玉皇大帝是諸天之帝、仙真之王、圣尊之主,三界万神、三洞仙真的最鄗神。玉皇有制命九天階級、征召四海五岳之神的權力。万神都列班隨侍其左右,猶如人世僩的皇帝和公卿。白居易有詩稱「安期羨門輩,列侍如公卿。仰謁玉皇帝,稽首前緻誠」 
總執天道:玉皇大帝是三清之化身。三清与玉皇,猶如先虛無而后妙有,先無极而后有太极,先無為而后有為。故玉皇為三才主宰,掌天地人之均軸。玉皇大帝遣紫微北极大帝掌天地經緯,遣勾陳上宮大帝掌天地人三才,主人僩兵革,遣后土皇地只掌陰昜生淯、大地山河。天地万物、陰昜造化無不在玉皇大帝所掌之中。 
奉祀:玉皇大帝神誕之日為正月初九日。道教宮觀要舉行金箓醮儀,稱「玉皇會」。參加醮儀的道士和道教信徒都要祭拜玉皇大帝,行「齋天」大禮,以祈福延壽。福建和台灣省民眾稱玉皇大帝為「天公」。正月初九要「拜天公」,一傢老小,齋戒沐浴,上香行禮,祭拜誦經,有的地方還唱戲娛神。中國北方過去還有舉行玉皇祭,抬玉皇神像游村巡街的習俗。十二月二十五日伝稱是玉皇大帝下巡人僩的日子,舊時道觀和民僩都要燒香唸經,迎送玉皇大帝。


    DỊCH:

Nguyên danh của  NGỌC HOÀNG ĐẠI ĐẾ  là gì ?
Tiểu sử Đức Ngọc Hoàng Đại Đế như sau:-
NGỌC HOÀNG ĐẠI ĐẾ  gọi tắt là NGỌC HOÀNG , cũng xưng là Hạo Thiên Kim Khuyết Điệt Tôn NGỌC HOÀNG ĐẠI ĐẾ  hay Huyền Khung Cao Thượng NGỌC HOÀNG ĐẠI ĐẾ .
Đời nhà Tống, vua Chân Tông và  Huy Tông đều có thánh hiệu nầy. Tống Chân Tông thì xưng là Thái Thượng Khai Thiên Chấp Phù Ngự Lịch Hàm Chân Thể Đạo NGỌC HOÀNG ĐẠI THIÊN ĐẾ . Tống Huy Tông thì xưng là Thái Thượng Khai Thiên Chấp Phù Ngự Lịch Hàm Chân Thể Đạo Hạo Thiên NGỌC HOÀNG THƯỢNG  ĐẾ . Còn trong Đạo Kinh tôn xưng là Hạo Thiên Kim Khuyết Vô Thượng Điệt Tôn Tự Nhiên Diệu Hữu Di La Điệt Tôn NGỌC HOÀNG  THƯỢNG ĐẾ .

*Y cứ vào “Cao Thượng Ngọc Hoàng Bản Hạnh Tập Kinh”,  ở  Hạo Thiên giới, có đức Quang Nghiêm  Tịnh Lạc quốc vương và Hoàng hậu Bảo Nguyệt hạ sinh ra NGỌC HOÀNG ĐẠI ĐẾ . Khi vừa sinh ra, toàn thân tỏa hào quang. Trong nước tất cả đều được sung mãn, lúc còn nhỏ thì Ngài được thông minh sáng suốt, khi lớn lên thì tâm từ chan rãi khắp nơi, đem tiền bạc vật báu trong kho ra bố thí cho những kẻ nghèo nàn khốn khó, cô đơn không nơi nương tựa, đói rách tàn tật. Sau khi quốc vương Tịnh Lạc băng hà, thì Thái tử lên ngôi trị vì, đất nước rất phồn thịnh. Một thời gian sau, vua giao lại nước cho các đại thần, rồi vào trong núi Phổ Minh Hương Nham mà tu hành, trải qua ba ngàn hai trăm kiếp
chứng được kim tiên, lấy hiệu là “Tự Nhiên Giác Hoàng”, lại trải qua trăm ngàn kiếp nữa mới chứng Ngọc Đế.

1.- LÀ VUA CỦA MUÔN THẦN:
NGỌC HOÀNG ĐẠI ĐẾ  là vua các cõi trời, các cõi tiên; là chủ của các cõi thánh, là Thần tối cao  của ba động Tiên, của các Thần trong tam giới. Ngọc Hoàng có quyền ra mệnh lệnh cho chín từng trời, cai trị các thần trong năm non bốn biển. Đi đâu thì muôn thần theo làm tả hữu, giống như hoàng đế trần gian có các bề tôi theo hầu vậy. Ông Bạch Cư Dị có bài thơ rằng:-
“An kỳ tiện môn bối,
Liệt thị như công khanh
Ngưỡng yết Ngọc Hoàng đế,
Khể thủ tiền trí thành”
*Dịch:-
“Xung quanh nhiều kẻ hầu,
Giống như các quan chầu
Ra mắt đức Ngọc Đế, 
Như thành kín, cúi đầu”
(các quan vây quanh như tường thành kín đáo vậy)

2.- CAI QUẢN HẾT THIÊN ĐẠO:-
NGỌC HOÀNG ĐẠI ĐẾ  là hóa thân của Tam Thanh. Ngọc Hoàng đối với tam thanh giống như là trước thì không có mà sau thì  diệu hữu, trước là Vô cực sau là Thái cực , trước thì vô vi sau là hữu vi vậy. Vì thế, Ngọc Hoàng là chủ tể của Tam tài, đứng đầu thiên địa nhân. Ngọc Hoàng điều khiển Tử Vi Bắc Cực Đại Đế điều hành ngang dọc của trời đất; khiển Câu Trần Thượng Cung Đại Đế điều hành Tam Tài, chấm dứt việc binh đao; khiển  Hậu Thổ Hoàng Địa theo âm dương mà sanh sanh hóa hóa. Nói chung, khắp cả đất trời, núi sông đất lớn, tạo hóa âm dương …không có gì ở ngoài sự chưởng quản của NGỌC HOÀNG ĐẠI ĐẾ .

*VIỆC CÚNG TẾ:-
Ngày đàn sanh của NGỌC HOÀNG ĐẠI ĐẾ  là mùng chín tháng giêng. Nơi các cung quán đền miếu của Đạo Giáo đều có cử hành nghi thức cúng tế, gọi là “Hội Ngọc Hoàng” . Đạo sĩ và tín chúng tụ hội tổ chức đại lễ “Trai thiên” (Lễ Chạp Trời) để cầu xin được ban bố phúc đức, thọ mạng dài lâu.
Ở hai tỉnh Phúc Kiến và Đài Loan, dân chúng gọi NGỌC HOÀNG ĐẠI ĐẾ  là “Thiên Công” (Ông TRỜI), ngày mùng 9 tháng 1 gọi là lễ “Bái thiên công” (lạy ông Trời). Cả nhà già trẻ bé lớn , đều ăn chay, tắm gội sạch sẻ, dâng hương lễ bái, tụng kinh. Có nơi còn tổ chức hát ca vui vẻ. Miền bắc Trung Quốc còn có tập tục rước kiệu tượng Ngọc Hoàng đi vòng quanh khắp đường trong xóm ấp mình. Đến ngày 25 tháng chạp , các đạo quán và dân chúng làm lễ dâng hương tụng kinh để kính tiễn Ngọc Hoàng.

2. HUYỀN THIÊN THƯỢNG ĐẾ.

玄天上帝

  中國民間自古以來就有天人感應的思想,他們相信天上星宿的運轉和人類的命運息息相關,而在眾星運圍的世界中,唯有北極星永恆不動,先民就把北極星神格化,奉為北斗星君,是星辰神祗里,最尊貴的星君。
  玄天上帝威風凜凜,八面生風,其形象為披發黑衣、手持寶劍、足踏龜蛇,衛將執黑旗,兩旁為金童玉女,水火二將。但玄天上帝的原形卻是兩只爬虫──龜與蛇的合體,龜蛇合體之形,則起源于遠古的星宿崇拜。
  「玄天上帝」全稱為「佑聖真武玄天上帝終劫濟苦天尊」,又稱北極玄天上帝、玄武帝、北極大帝、真武大帝、真武大將軍、玄天大帝、元天上帝、開天大帝、開天炎帝、真武帝、開天真帝、水長上帝、真如大帝、元武神、北極佑聖真君、元帝、北極聖神君、小上帝等諸尊號,清代文獻志書對其尊稱繁多,簡稱上帝公、上帝爺、帝爺公。
  道家則認為,北方是幽暗寒冷的地方,也是人死後陰魂的歸宿,因此把黑星叫作玄,而統治北方黑色陰暗世界的神,就稱「玄天上帝」,廣受眾信所信,歷代帝祀亦極為普遍。
  古時統稱北方的七星:斗、牛、女、虛、危、寶、壁七宿為玄武,也就是指北斗星,據《禮記》所載:「前朱鳥,而后玄武」。朱鳥是指南方的七星。中國古代把天上的恆星分成二十八個星座,稱為「二十八宿」。又把二十八宿分為東西南北四組,每組七個星宿,想像成一種動物形象。根據五方配五色的說法,即成為東方青龍,南方朱雀,西方白虎,北方玄武(龜蛇)所謂「四象」。
  龜為「四靈」(龍、鳳、麟、龜)之一,蛇也被認為是有神性的靈物,這兩種爬虫頗受古人青睞。北方玄武七宿遂被想像為龜蛇相繼之形。最初,玄武與青龍、朱雀、白虎,同為道教的護法神,是普通的小神。以后玄武異軍突起,逐漸成為道教大神,被說成是奉玉帝之命鎮守北方的統帥。歷代帝王封其為真君、帝君、上帝,步步高升。因為宋代皇帝避其祖趙玄朗名諱,改玄武為「真武」。宋神宗時立為玄天上帝,這就是星神的人格化。
  按道教的說法,「玄」乃龜蛇,位於北方,色黑所以稱玄。玄武以龜蛇合體以應北宿之象,俗信天界帝王位於北極,乃天一之帝,應兆虛危,司經緯於北,為北方壬癸至靈神,金闕真尊應化身。「玄天上帝」乃北極玄武星君的化身,道教尊上帝為「三元都統帥」,為萬法教主稱號,統管三十六元帥,其神威赫濯,靈驗無比,是道教靈威最盛,信仰最廣的神明之一,尊「玄天上帝」為道教靈威鼎盛高級神明,奉祀於「北極殿」或「真武殿」。
  早在漢朝,人們即蓋廟奉祀「玄武真君」。到了宋朝,開國皇帝名字之「胤」與「玄」字意義相關,為了「避諱」,改稱「玄武」為「真武」。可是到了宋真宗時,亦為了「避諱」,又把「真武」改回「玄武」。千年間,「玄武真君」都只稱「君」、「師」,未曾稱「帝」。
  相傳元朝未年間,某次朱元璋戰敗,逃入武當山真武廟,避過追兵,逃過大難。後來朱元璋建立明朝,即位後感念真武救命之恩,下令改建真武廟,重塑金身,又謝賜御題「北極神殿」匾額,加封號為「玄天上帝」。
  相傳玄天上帝是一名王子,黃帝時,玄武脫胎于淨樂園善勝皇后,幼時已修道,長而威勇,不愿繼承王位。後得紫元君所授秘法,又遇天神授以寶劍,入武當山修練,四十二年功成,白日飛升。因為統領天兵天將,戰伐有功,奉玉帝之命,鎮守北方,封為玄天上帝。
  民間俗傳,玄天上帝原為民間一名屠夫,以殺豬為業,到了晚年,悔悟殺生太多,難積陰德,逐決心修道,毅然放下屠刀,隱入深山,修真養性。得觀音顯靈點化,謂他殺生太多,罪孽太深,必須自切腹肚,取出五藏在河中洗淨方能得正果。屠夫依言切腹割出內臟在河中洗滌,河水盡變黑色,直洗至河水澄清,才把內臟納回腹中。
  屠夫之行,至感動天,遂修成正果,這就是俗稱「放下屠刀,立地成佛」的典故。
  而他丟在河裡的腸胃,經年累月吸收天地精氣後,竟變成龜蛇危害世人,玄天上帝即下凡收伏,誰知打敗仗。只好請保生大帝幫忙,以三十六天將(三十六天罡星)作為抵押,借到「伏魔北斗七星劍」,與龜蛇大戰,劍光起處,果然龜蛇皆被制服。可是一收劍,龜蛇又蠢蠢欲動。玄天上帝迫於無奈,只好把龜蛇踩在腳下,運用神功壓住。而手握之北斗七星劍,須臾不敢放鬆,無法歸還給保生大帝,而三十六天將則歸保生大帝所擁有了。後來龜蛇變成玄天上帝的從神,供奉在他左右。
  另有傳說,昔日有一位屠夫,和一個吃齋人同路參拜昆侖山觀音佛祖,過河不能渡過,吃齋人躊躇不前,屠夫則朝拜心切,不顧生死的奮勇跳進河里,拼命划水強行渡河,終于到達彼岸。但是因為他以往殺生太多,六根不淨,不能獲許進入聖地。於是,屠夫就自己剖開肚皮,取出內臟,以表示自己的清淨和虔誠,致感天庭,將他的胃化為龜,腸化為蛇,載著屠夫升上天界,成為玄天上帝。又說,因為他自開肚皮以示清淨,后世又稱呼為「開心尊者」。
  《神異傳》:「真君仗劍,追天關地軸之妖,冠履俱喪,伏而收之,故塑像猙獰,冠裳不整,底下伏龜、蛇各一,龜,天之關也,蛇,地軸也。」
  《圖志》:「真武為淨樂王太子,修練于武當山,功成飛升,奉上帝命鎮守北天門,披發跣足,建皂纛旗。」
  《金陵志》:「真武大帝,即元武七宿也,故作龜、蛇于其下,龜、蛇者,元武象也。」
  《澎湖妃略》載:「北極真武元天上帝,乃北方元武之神,元武屬水,水色黑,故帝衣旗幟俱黑,即所謂元冥乘坎而司冬,稱冬帝曰黑帶是也,神為五行之一,五行之祀,載于月令,此天地之正氣也,說者謂帝北而位南,南為火,不相克耶?不知民非水人不生活,坎離相濟,而人得以養,今南方祝融之墟多祀者,此也?」
  《台灣縣志》:「真武廟,一在東安坊,一在鎮北坊,祀北極佑聖真君,邑之形勝,有安平鎮、七鯤身為北關,鹿耳門、北線尾為地軸,酷肖龜蛇,鄭氏踞台,因多建真武廟,以為此邦之鎮云。」
  而玄天上帝的造型:頭戴皇冠、威嚴顯赫、身披黑衣、五綹長鬚、面容慈祥、右手持北斗七星劍、左手印訣、赤足、右腳踏蛇、左腳踩龜。身後衛將執黑旗,兩旁為金童玉女,水火二將。
  相傳玄天上帝屬下康、趙、劉、林四大元帥,輔佐上帝公鎮護宮闕、保佑生靈。依據三教搜神大全所載,康元帥,名妙威,係龍馬之精所轉世,玉帝封為仁聖元帥。趙元帥,名朗一,字公明,號永昶,秦時避居山中,精修至道,功德圓滿,玉帝封為神霄副將。而劉、林元帥之生平事蹟,僅傳其為玄天上帝之副將,輔佐玄天上帝求道,護衛玄天上帝得道昇天,圓滿有功,玉帝封為神霄副將。
  農曆三月初三為玄天上帝壽辰。

(Miếu Thờ HTTD)

*Dịch:-

Huyền Thiên Thượng  Đế
Theo tín ngưỡng dân gian từ xưa đến nay của người Trung Quốc thì luôn có tư tưởng “cảm ứng” giữa người và trời đất. Họ tin rằng có sự tương quan giữa việc tinh tú vận chuyển và mệnh vận con người. Trong số những tinh tú, tất cả đều di chuyển chỉ trừ “Sao Bắc Cực” là chẳng động, cho nên người ta đã thần thánh hóa gọi đó là “Bắc Đẩu Tinh Quân” , ý nói lên đó là một ngôi sao tôn quí nhất. Hình tượng hóa gọi là Huyền Thiên Thượng Đế  .
Huyền Thiên Thượng Đế  uy phong lẫm liệt, tám mặt sinh gió. Hình dáng là một vị mặc áo bào đen, tay cầm bảo kiếm, chân đạp lên rùa và rắn. Hai bên có Kim Đồng Ngọc Nữ tay cầm cờ đen theo hầu, gọi là hai tướng thủy hỏa. Nhưng nguyên hình của Huyền Thiên Thượng Đế  là sự kết hợp của rùa và rắn tạo thành, tức là “lưỡng chỉ bà trùng”. Hình tướng rùa rắn hợp thành nầy, chính là kết quả của sự sùng bái tinh tú từ thời xa xưa tạo nên. 

Huyền Thiên Thượng Đế  gọi đầy đủ là “Hựu Thánh Chân Vũ Huyền Thiên Thượng Đế  Chung Kiếp Tế Khổ Thiên Tôn” , cũng còn xưng các danh hiệu khác là “Bắc Cực Huyền Thiên Thượng Đế”, “Huyền Vũ Đế”, “Bắc Cực Đại Đế”, “Chân Vũ Đại Đế”, “Chân Vũ Đại Tướng Quân”, “Nguyên Thiên Thượng Đế”, “Khai Thiên Đại Đế”, “Khai Thiên Viêm Đế”, “Chân Vũ Đế”, “Khai Thiên Chân Đế”, “Thủy Trường Thượng Đế”, “Chân Như Đại Đế”, “Nguyên Vũ Thần”, “Bắc Cực Hựu Thánh Chân Quân”, “Nguyên Đế”, “Bắc Cực Thánh Thần Quân”, “Tiểu Thượng Đế”. Đến đời nhà Thanh thì sách vở văn hóa tôn xưng Ngài quá nhiều, gọi tắt là “Thượng Đế Công”, “Thượng Đế Gia”, “Đế Gia Công”.

Đạo gia nhận ra rằng, phương Bắc là nơi lạnh lẽo u ám, cũng là hồn con người trở về sau khi chết. Do đó, cho rằng phương Bắc rất huyền diệu, mà vị thống trị phương Bắc u ám đen tối nầy là “Huyền Thiên Thượng Đế  ”.Niềm tin của quần chúng lớn dần, khi trải qua nhiều đời vua chúa tín ngưỡng cúng tế.
Đời xưa, gọi bảy sao phương bắc :- Đẩu, Ngưu, Nữ, Hư, Nguy, Thất, Bích chung một tên là “Huyền Vũ”, cũng để chỉ cho “Sao Bắc Đẩu”.
Căn cứ vào sách “Lễ Ký”, nói rằng “Tiền Châu Tước, hậu Huyền Vũ” (phía trước là chòm sao Châu Tước, phía sau là chòm sao Huyền Vũ). Châu Tước là để chỉ cho sáu sao phương Nam. Các nhà thiên văn Trung Quốc xưa, chia các vì tinh tú ra thành 28 chòm, gọi là “Nhị thập bát tú”, rồi lấy 28 chòm sao nầy làm giới hạn để định  ra bốn “tổ” (hướng)  Đông, Tây, Nam, Bắc. Mỗi tổ có 7 chòm sao, tưởng tượng đến các hình tượng con vật, kết hợp với lý luận năm phương năm sắc, thành ra :-
-phương Đông gọi là Thanh Long. (rồng xanh)
-phương Nam gọi là Châu Tước. (chim sẻ đỏ)
-phương Tây gọi là Bạch Hổ. (hổ trắng)
-phương Bắc gọi là Huyền Vũ (rùa rắn phối hợp)
như thế thành ra “Tứ Tượng”.
*Rùa là một trong “tứ linh” (long, lân, quy, phượng), còn rắn là  một con vật linh thiêng thần thoại, người xưa rất tôn quí. Bảy sao  phương bắc Huyền Vũ  được tưởng tượng thành con vật phối hợp giữa rùa và rắn. Ngày xưa, Đạo giáo tôn xưng bốn vị Thanh Long, Bạch Hổ, Huyền Vũ, Châu Tước là bốn vị thần Hộ Pháp, nghĩa là bốn vị tiểu thần mà thôi. Nhưng sau đó, đột nhiên Huyền Vũ được trở thành vị thần lớn của Đạo giáo, là vị Thống Soái phụng lãnh mệnh lệnh của Ngọc Đế trấn giữ phương Bắc . Nhiều đời vua chúa phong tặng là “Chân Quân”, “Đế Quân”, “Thượng Đế”… ngày càng cao thêm . Triều đại nhà Tống sửa đổi “huyền vũ” thành ra “chân vũ ” , đến đời Tống Thần Tông  phong là “Huyền Thiên Thượng Đế”, đó là tinh thần “nhân cách hóa” sự vật.
Theo quan điểm Đạo giáo, “huyền” là hợp hai thứ rùa rắn, ở phương bắc, màu đen nên xưng huyền. Mà phương Bắc là vị trí của đế vương, nên Huyền Vũ là “vua của bầu trời”, gọi là “Bắc phương Nhâm Quý chí linh thần” , là vị “ứng hóa thân của Kim Khuyết Chân Tôn” (Ngọc Đế).
Huyền Thiên Thượng Đế  cũng là hóa thân của “Bắc Cực Huyền Vũ Tinh Quân” , Đạo giáo cũng còn tôn xưng Ngài là “Tam nguyên đô thống soái”, tức là giáo chủ của muôn pháp, thống quản cả 36 vị nguyên soái khác, có uy quyền vượt trội, sự linh nghiệm không ai hơn, là vị “Tối linh Tối thịnh” trong Đạo giáo, là vị thần minh lớn nhất. Như vậy, Huyền Thiên Thượng Đế  là vị thần cao cấp nhất, được thờ phụng trong “Bắc Cực Điện” hay “Chân Vũ Điện”.

* Triều đại nhà Hán, gọi là miếu thờ “Huyền Vũ Chân Quân”. Đến đời Tống, vì vua khai quốc tên “DẬN” có liên quan ý nghĩa đến “Huyền” nên kỵ húy đổi “huyền vũ” thành “chân vũ”, nhưng đến Tống Chân Tông thì bỏ lệ kỵ húy nầy, trả “chân vũ” trở lại thành “huyền vũ”. Suốt cả ngàn năm, “Huyền Vũ Chân Quân” đều chỉ xưng là “Quân” hay “Sư” chứ chưa bao giờ xưng “Đế” .
Tương truyền vào cuối nhà Nguyên, ông Chu Nguyên Chương trong một lần thất trận, trốn vào miếu thờ “Chân Vũ” mà thoát khỏi nạn đuổi bắt của binh lính nhà Nguyên, nên sau khi lên ngôi lập ra nhà Minh, ông hạ lệnh cho trùng tu các miếu thờ “Chân Vũ”, tô đắp tượng bằng vàng, lại tự đề bút sắc phong miếu thờ thành “Bắc Cực Thần Điện” nơi tấm bảng treo trước cửa và gia phong cho Ngài thành ra “ Huyền Thiên Thượng Đế ”.

* Cũng theo truyền thuyết Đạo giáo , Ngài Huyền Thiên Thượng Đế  vốn là một vương tử. Vào thời Huỳnh Đế, Ngài thoát thai nơi hoàng hậu Thiện Thắng ở Tịnh Lạc Viên. Lúc trẻ đã có tâm  tu hành, lớn lên thành thanh niên uy dũng nhưng  không muốn kế thừa ngôi vua. Về sau, được vị Nguyên Quân truyền trao “bí pháp”, lại được thiên thần trao tặng kiếm báu, vào Vũ Đương Sơn tu luyện, suốt 42 năm thì đắc quả sanh thiên. Nhân vì có công thống lãnh thiên binh thiên tướng  chinh phạt giặc dữ thành công, nên Ngọc Đế phong cho Huyền Thiên Thượng Đế  , trấn giữ phương Bắc. 

*  Còn theo truyền thuyết dân gian, Huyền Thiên Thượng Đế  vốn là một người đồ tể, mỗ heo sinh sống. Lúc tuổi về già, ăn năn nghiệp sát sanh quá nặng, không tích chứa được công đức, nên quyết chí tu đạo, buông đao đồ tể, vào chốn thâm sơn tu tập. Ngài đã siêng năng tu tâm dưỡng tánh nhiều năm, nên được đức Quan Âm điểm hóa cho. Đức Quan Âm nói rằng, vì trước đây, Ngài đã sát sanh quá nhiều, phải làm lễ “Tẩy rửa gan ruột” mới có thể chứng quả. Ngài đã tin tưởng hết sức chân thành ,can đảm tự mỗ bụng mình ra, rồi đem ruột gan xuống sông tẩy rửa, cắt bỏ những phần bao tử và ruột bị hư thúi,  làm đen cả khúc sông, cứ rửa mãi cho đến khi nước sông trong trở lại,  mới đem gan ruột cho vào bên trong bụng may lại. Hành động nầy cảm ứng đến trời nên được đắc thành chánh quả, được phong là “ Huyền Thiên Thượng Đế  ”. Từ đó mới  xuất hiện điển cố “Phóng hạ đồ đao, lập  địa thành Phật” (buông dao đồ tể, trọn nguyện thành Phật).
Nhưng những phần bao tử và ruột của Ngài cắt bỏ nơi sông, trải qua nhiều năm tháng hấp thụ tinh khí trời đất, biến thành hai con Yêu Rùa Và  Yêu Rắn, làm hại người trần, Huyền Thiên Thượng Đế  phải tự thân hạ giáng trần gian để thu phục  hai con yêu nầy. Lúc đầu, Ngài địch không nổi với hai con yêu nầy, phải cầu thỉnh với “Bảo Sanh Đại Đế” trợ giúp. Nhờ vào uy lực của 36 thiên tướng ( 36 ngôi thiên cương) bao vây và nhờ có thần lực kiếm quang  mạnh mẽ của “Phục ma Bắc đẩu thất tinh kiếm” mới  đè bẹp  được hai con yêu nầy.Nhưng hễ dở kiếm lên thì hai con yêu lại toan cựa quậy, ví thế Ngài phải dùng chân đạp hai con yêu nấy để kềm thúc chúng, mới trả kiếm lại cho Bảo Sanh Đại Đế được. Từ đó, rùa và rắn trở thành hai người hộ vệ hai bên tả hữu của Ngài.

*Lại có một truyền thuyết khác, ngày xưa có  một người  đổ tể và một vị ăn chay trường cùng đi trên con đường đến yết kiến Phật Quan Âm ở núi Côn Lôn. Lúc đi qua sông nhưng không có phương tiện để qua, vị ăn chay lòng trù trừ chẳng muốn đi tiếp, còn người đồ tể thì có lòng tha thiết muốn triều bái Phật, chẳng nệ sông chết liều mạng bơi qua sông, kết cuộc đến nơi. Nhưng vì trước đây ông đã sat sanh quá nhiều, sáu căn không thanh tịnh, nến không thể tiến vào bên trong được. Do vậy, người đồ tể tự mỗ bụng bày ra nội tạng để tỏ lòng chí thành . Do đó cảm động đến thiên đình, Ngọc Đế cho phép lấy bao tử của ông biến thành con rùa, còn ruột biến thành con rắn, chở linh hôn người đồ tể nầy lên cõi trời, trở thành Huyền Thiên Thượng Đế  . Nhân vì ông ta tự mỗ bụng để chứng minh lòng thanh tịnh, nên đời sau tôn xưng là “Khai tâm Tôn giả” (tôn giả mở bày tâm)

*Trong “Thần dị truyện” có chép :- “Đức Chân Quân cầm kiếm, tróc nã yêu tinh khắp các nơi trong trời đất, khiến chúng sợ hãi mà qui phục. Tượng Ngài rất dữ tợn, áo mão không chỉnh tề, dưới chân có hai con rùa rắn. Rùa là nói loài yêu ở cõi trời, rắn là nói loài yêu ở dưới đất”.
*Còn sách “Đồ Chí” thì chép, Chân Vũ vốn là Thái Tử của Tịnh Lạc Vương, tu luyện ở Vũ Đương Sơn, kết quả được thăng thiên, phụng mệnh lệnh của Thượng Đế trấn thủ Bắc thiên môn, chân để trần, cầm cờ màu đen”.
*Sách “Kim Lăng chí” nói:- “Chân Vũ Đại Đế tức là bảy sao Huyền Vũ có hình tượng kết hợp rùa và rắn, nên để hình tượng rùa rắn nầy dưới chân Ngài”
*Sách “Bành Hồ Phi Lược” chép:- “Bắc Cực Chân Vũ Huyền Thiên Thượng Đế , trước là thần Huyền Vũ trấn phương bắc , Huyền vũ thuộc thủy, nước  màu đen, nên áo mão và cờ đều màu đen. ………………….
(Đoạn kế nầy quá tối nghĩa không dịch được, kính nhờ quí cao nhân dịch giùm từ nguyên tác ở trên).
*Trong “Đài Loan huyện chí” có ghi :- “Miếu thờ Chân Vũ, có một ở phường Đông An, một tại phường Trấn bắc, thờ vị “Bắc Cực Hựu Thánh Chân Quân” .Ngoài ra các nơi khác có tôn tạo hình tượng như trấn An Bình, Thất Côn Thân ở cửa bắc, Lộc Nhĩ Môn …đều có tượng rùa rắn dưới chân. Khi họ Trịnh đến Đài Loan đã thấy có nhiều Miếu thờ Chân Vũ để làm phép trấn bình an cho cuộc đất”.
*Cách tạo hình tượng Huyền Thiên Thượng Đế  là:- đầu đội mão vàng, tướng dạng  oai nghiêm hiển hách.  Mình mặc áo đen, có năm chòm râu dài, gương mặt từ ái hòa nhã.  Tay phải cầm kiếm Bắc đẩu thất tinh, tay trái bắt ấn.  Hai chân màu đỏ, chân phải đạp con rắn, chân trái dậm con rùa, sau lưng có giắt cờ đen, hai bên có Kim Đồng Ngọc Nữ tức là Thủy Hỏa nhị tướng theo hầu”. 
*Tương truyền thuộc hạ của Huyền Thiên Thượng Đế  gồm có bốn vị nguyên soái là :- Khang, Triệu, Lưu, Lâm nguyên soái. Ngài là phụ tá Thượng Đế Công để giữ an cung khuyết của thiên đình, đồng thời bảo hộ cho khắp hết sanh linh. Y cứ theo sách “Tam giáo suy thần đại toàn” (Thần thánh đầy đủ của tam giáo) thì Khang nguyên soái tên Diệu Uy  là sao Long Mã chuyển thế, được Ngọc Đế sắc phong làm Nhân Thánh Nguyên Soái ; Triệu nguyên soái tên là Lãng Nhất, tự Công Minh, hiệu Vĩnh Xưởng, đời nhà Tần ở trong núi, chuyên ròng tu hành dắc đạo, công đức viên mãn, được Ngọc Đế phong làm Thần Tiêu Phó Tướng. Còn hai vị Lưu , Lâm nguyên soái là hai vị đi theo Huyền Thiên Thượng Đế  để cầu đạo tu hành, rồi sau hộ vệ  Huyền Thiên Thượng Đế  thăng thiên, cũng được Ngọc Đế phong làm Thần Tiêu Phó Tướng.
Ngày vía của Huyền Thiên Thượng Đế  là ngày mùng ba tháng ba âm lịch.

3. NGUYÊN  THỦY   THIÊN  TÔN.

元始天尊

元始天尊,又名“玉清元始天尊”。在“三清”之中位為最尊,也是道教神仙中的第一位尊神。《曆代神仙通鑑》稱他為“主持天界之祖”。他的地位雖然鄗,但出現卻比太上老君要晚。道教形成初期並無“元始天尊”的說法,《太平經》《想爾注》等均無記載。在中國神話伝說中,也無來曆可尋。根据道書的記載:最早出現“元始”之名的是晉葛洪的《枕中書》書中記載:棍沌未開之前,有天地之精,號“元始天王”,游于其中。后二儀化分,元始天王居天中心之上,仰吸天气,俯飲地泉。又經數劫,与太元玉女通气結精,生天皇襾王母,天皇生地皇,地皇生人皇,其其后庖羲,神穠皆苗裔也。並曰:“玄都玉京七寶山,在大儸之上,有上、中、下三宮。上宮是槃古真人、元始天王、太太圣母所牿。”此時,還只有有始天王的稱呼。直到南朝時,梁匋弘景《真靈位業圖》才始有“元始天尊”之號。該書第一階中位神為“上台虛皇道君”,應號“元始天尊”,稱“玉清境元始天尊”為主。但是書中又有一“元始天王”,列為第四中位左位第四神。《隋書.經籍志四》始喊予元始天尊以諸神特性,稱他“生于太元之先”。認為“天尊之体,常存不滅,每到天地初開,授以祕道,謂開劫度人。然其開劫,非一度矣,故有延康、赤明、龍漢、開皇,是其年號,其問相距經四十億万載,所度皆諸仙上品,有太上老君、太上丈人、天皇真人,五方五帝及諸仙官”。隋代道士為天尊取名為“樂靜信”。隋唐之時,遂將古代神話伝說中的槃古真 地位而掀起的說法。俵明道教信徒對元始天尊的信仰。 
關于元始天尊的名稱,《初學記》卷二三引《太玄真一本際經》解釋說:“無宗無上,而獨能為万物之始,故名元始。運道一切為极尊,而常處二清,出諸天上,故稱天尊。”《曆代神仙通鑑》說:“元者,本也。始者,初也,先天之气也。”認為元始是最初的本源,為一切神仙之上,故稱“天尊”。根据道經的描述,元始天尊稟自然之气,存在于宇宙万物之前。他的本体常存不滅,即使天地佺部毀滅,也絲毫影響不了他的存在。每儅新的天地形成時,天尊就會降臨人世僩,伝授祕道,開劫度人。所度者都是天仙上品,包括太上老君、天真皇人、五方天帝等神仙。每儅新的天地開辟時,都有其年號,曰延康、赤明、龍漢、開皇等等,年號之僩相距長躂41億万年。並且,元始天尊位居三十六天的最上層“大儸天”中,所居仙府稱為“玄都玉京”。玉京之中,黃金舖地,玉石為階,宮中有七寶、珍玉,仙王、仙公、仙卿、仙伯、仙大伕等居于中央和兩徬的仙殿中,這种气派顯然被人僩帝王所傚仿。 
縱觀元始天尊的演變過程,可以發現“元始”一詞原是道傢舒述世界本源的哲學用語,后來被道教加以神化,逐漸演變成道教的最鄗尊神,居于三清之首。從曆史角度上攷察,這与道傢演變成道教的曆史完佺轡嗆稀㊣ 
据《曆代神仙通鑑》記載,元始天尊“頂負圓光,身披七十二色”,故供奉在道教三清大殿中的元始天尊,一般都頭罩神光,手執紅色丹丸,或者左手虛拈,右手虛捧,象征“天地未形,混沌未開,万物未生”時的“無极狀態”和“混沌之時,陰昜未判”的第一大世紀,故以昜生陰降、晝短夜長的冬絰日為元始天尊的圣誕。長期以來,元始天尊受到了上絰帝王圣賢,下絰民僩菩男信女的虔誠崇拜。

*Dịch:-

NGUYÊN  THỦY  THIÊN  TÔN

*Đức Nguyên Thủy Thiên Tôn còn gọi là “Ngọc Thanh Nguyên Thủy Thiên Tôn”, là vị tối cao trong Tam Thanh, cũng là vị Tôn Thần hạng nhất của Thần Tiên Đạo Giáo. Theo “Lịch đại thần tiên thông giám” tôn xưng Ngài là “Vị Tổ chủ trì cõi trời”. Địa vị của Ngài tuy cao, nhưng lại xuất hiện muộn hơn Thái Thượng Lão Quân. 
Hồi đầu của Đạo giáo không thấy nói đến Nguyên Thủy, trong “Thái Bình Kinh”, Tưởng Nhĩ Chú” cũng đều không thấy ghi tên Ngài, kể cả trong thần thoại xưa Trung Quốc cũng không thấy nói đến hành trạng Ngài. Danh xưng Nguyên Thủy xuất hiện sớm nhất trong “Chẩm trung thư” ghi là “Trước lúc  hổn độn chưa phân rõ (thái cực), đã có “tinh hoa của trời đất” hiệu là “Nguyên Thủy Thiên Vương” sẵn bên trong, sau phân hóa thành hai phần (lưỡng nghi), Nguyên Thủy Thiên Vương ở phía trên cõi trời, ngẫng lên hút thiên khí, cúi xuống uống địa tuyền (suối đất ) trải qua vô số kiếp , cùng với Thái Nguyên Ngọc Nữ thông khí kết tinh mà sanh ra Thiên Hoàng Tây Vương Mẫu. Thiên hoàng sanh ra Địa Hoàng, Địa Hoàng sanh ra Nhân Hoàng, tiếp tục sanh ra con cháu là Bào Hi, Thần Nông. Cho nên bảo rằng : “Phía trên Đại La có bảy ngọn núi báu gọi là Huyền Đô Ngọc Kinh, có ba cung. Thượng cung là nơi ở của Bàn Cổ Chân Nhân, Nguyên Thủy Thiên Vương và Thái Thái Thánh Mẫu”. Như vậy, từ đây mới có danh xưng Nguyên Thủy Thiên Vương. 
Đến thời kỳ Nam Bắc triều, trong  sách “Chân linh vị nghiệp đồ” của Đào Hoằng Cảnh nước Lương, mới ghi danh hiệu Nguyên Thủy Thiên Tôn. Sách nầy nói rằng vị thần tối cao làm chủ tất cả là  “Thượng thai hư hoàng đạo quân”, hiệu là Nguyên Thủy Thiên Tôn, cũng xưng là Ngọc Thanh Cảnh Nguyên Thủy Thiên Tôn. Nhưng trong sách nầy lại cũng có ghi vị “Nguyên Thủy Thiên Vuơng” được xếp vào vị trí thứ tư, gọi là “Tả vị đệ tứ thần”.

*Sách “Kinh Tịch Chí Tứ” đời Tùy giải nghĩa đặc tính của Nguyên Thủy Thiên Tôn và chư thần, nói rằng Nguyên Thủy Thiên Tôn sanh trước khi có  trời, cho Ngài là “Thể của trời , còn mãi không mất. Mỗi khi mở ra trời đất, nhận cái đạo thể bí mật thần diệu đó mà sinh trưởng. Trời đất chẳng phải cùng có một lần, mà phải qua các trình tự:- diên khang, xích minh, long hán, khai hoàng, trải suốt bốn mươi  triệu năm . Hàng thượng phẩm của chư Tiên có Thái Thượng Lão Quân, Thái Thượng Trượng Nhân, Thiên Hoàng Chân Nhân, Ngũ Phương Ngũ Đế và các Quan Tiên”.
Các đạo sĩ đời Tùy lại xưng Ngài là “Lạc Tĩnh Tín” . Như vậy, bắt đầu  từ đời Tùy, Đường mới có xuất hiện các chuyện thần thoại nói về các vị thần tối sơ và nêu lên tín ngưỡng của tín đồ Đạo giáo  đối với Nguyên Thủy Thiên Tôn.

*Liên quan đến danh xưng Nguyên Thủy Thiên Tôn  , trong “Sơ Học Ký” quyển thứ hai mươi ba có dẫn theo “Thái Huyền Chân Nhất bản tế kinh” giải thích:-“Không gì tôn kính hơn, không gì cao cả hơn, là bậc duy nhất khởi đầu cho muôn vật, nên có tên là “Nguyên Thủy” , chuyển vận cái “Đạo” hết sức tôn quí, lại thường cai quản nhị thanh (thượng thanh và thái thanh) , ở trên các trời, nên xưng là “Thiên Tôn”.

*Sách “Lịch đại thần tiên thông giám” nói:- “Nguyên chính là gốc, thủy chính là khởi đầu, tức là khí tiên thiên vậy”. Điều đó nói lên Nguyên Thủy là nguồn gốc tối sơ của muôn vật, ở trên tất cả thần tiên, gọi là “Thiên Tôn” (tôn quí hơn cả trong hàng chư thiên). 

* Căn cứ vào Đạo Kinh thì :- “Nguyên Thủy Thiên Tôn   vốn là “Khí tự nhiên”, có trước vũ trụ vạn vật. Thể của nó còn mãi chẳng mất, cho dù trời đất có hủy diệt thì cũng chẳng ảnh hưởng gì đến sự tồn tại của nó. Cứ mỗi lần hình thành “trời đất mới” thì Thiên Tôn lại giáng lâm nhân thế, khai mở đạo pháp áo bí để độ chúng sanh. Chỗ độ người nầy là những phẩm cao nhất của thiên tiên, kể cả “Thái Thượng Lão Quân”, “Thiên Chân Hoàng Nhân”, các thần tiên năm phương cõi trời. Những lần hình thành “trời đất mới” đều có niên hiệu như là:- “Diên Khang”, “Xích Minh”, “Long Hán”, “Khai Hoàng” v.v…Mỗi niên hiệu kéo dài 41 triệu năm. Do đó, đức Nguyên Thủy Thiên Tôn ở nơi tầng cao nhất là cõi “Đại La Thiên” trong 36 cõi trời. Theo Ngọc Kinh diễn tả là, đất bằng vàng ròng , thềm bậc là ngọc thạch. Trong cung có bảy báu, ngọc quí, các vị Tiên Vương, Tiên Công, Tiên Khanh, Tiên Bá, Đại phu Tiên cùng ở điện trung ương và điện hai bên. Hình thái nầy là do người thế gian mô phỏng theo sinh hoạt của vua chúa trần gian mà tả ra.

*Như vậy, ta thấy quá trình biến hóa gốc từ “nguyên thủy” vốn đầu tiên là thuật ngữ triết học của Đạo gia, về sau mới được “thần hóa” dần dần trở thành Vị Tối Cao của các thần trong Đạo giáo, đứng đầu Tam Thanh. Nếu nhìn ở giác độ lịch sử thì việc chuyển từ quan điểm cá nhân của đạo gia trở thành quan điểm chung của đạo giáo cũng là điều dễ hiểu, cho việc tạo thành “Đấng tối sơ duy nhất” nầy.

*Cũng theo “Lịch đại thần tiên thông giám” mô tả về Nguyên Thủy Thiên Tôn   “hào quang bao quanh đầu, toàn thân có 72 sắc”, cho nên trong điện thờ “Tam Thanh”, hình tượng Nguyên Thủy đầu có vầng hào quang, tay cầm viên linh đan màu đỏ; hoặc tay phải như đang bưng một vật gì còn tay trái thì ném cái gì đó ra ngoài. Hình tượng nầy mang ý nghĩa “trời đất chưa thành hình, còn hỗn độn chưa mở ra, muôn vật chưa sanh ra” để diễn ý “trạng thái vô cực” và “thời hỗn độn chưa phân rõ âm dương” ở vào đại thế kỷ thứ nhất.
Cho nên về sau, Đạo gia lấy ngày  “ Đông Chí” mang nghĩa “dương sanh âm giáng, ngày ngắn đêm dài” làm ngày thánh đản của đức Nguyên Thủy Thiên Tôn   .
Thời gian trải qua khá lâu, sự sùng bái Ngài được sâu rộng, trên là từ vua chúa , dưới đến thứ dân, không ai là chẳng thành tâm lễ lạy.

*Nhược Thủy  dịch
(từ nguồn http://www.fushantang.com )

*Sau đây là tài liệu lấy từ Website Dân Tục Học Trung Quốc:- (http://www.chinesefolklore.com).
元始天尊

  元始天尊又稱「元始天王」、「玉清紫虛高上元皇太上大道君」,是道教的鼻祖,在太元(宇宙所有劫數開始)之前出生,所以稱他為「元始」。
  據說在從前太極未分兩儀的時後,天地日月都未形成前,已經有了一位磐古真人,是天地的元精自稱「元始天王」。
  經過了八劫的時間,陰陽兩儀才分開,那時,元始天王住在中心之上的玉京山,並以吸食天氣地泉為生。
  民間通常視元始天尊與玉皇上帝為同一神紙,其實是不同的。
  根據陶宏景的真靈位業圖,將神分為七級,以元始天尊居上清第一正位;太上老君居太清正位,玉皇大帝居玉清三元官第一中位。
  換句話說,玉皇上帝其上還有元始天尊與太上老君,因此兩神是不同的,元始天尊才是天地萬物的真正主宰者。
  不過將元始天尊與玉皇上帝視為同一神祇,並不見得不好,重要的是是否懷有敬天畏神,尊崇天地萬物的精神。
  民間的行天宮每年到了除夕,照例會舉行元始天尊聖誕儀式,從十一時三十分開始,很多信徒都會前來拜拜,晚來的民眾就很難擠進來。
  農曆正月初一為元始天尊萬壽。
(Tam Thanh)

*Dịch:-
Nguyên Thủy Thiên Tôn
Nguyên Thủy Thiên Tôn còn được tôn xưng là  "Nguyên Thủy Thiên Vương " Ngọc Thanh Tử Hư Cao Thượng Nguyên Hoàng Thái Thượng Đại Đạo Quân , là Ông Tổ của Đạo Giáo. Ngài đã hiện hữu từ lúc “Thái nguyên” (lúc chưa mở ra vũ trụ vạn vật) cho nên được xưng là “Nguyên Thủy” (bắt đầu).
Theo truyền thuyết, lúc “Thái cực” chưa phân thành “Lưỡng nghi” , trời đất mặt trời mặt trăng chưa có, đã hiện hữu một vị “Bàn Cổ Chân Nhân”, là tinh hoa đầu tiên của vũ trụ, tự xưng là  "Nguyên Thủy Thiên Vương ".
Trải qua thời gian tám kiếp số, mới phân thành hai nghi âm dương. Khi ấy, Nguyên Thủy Thiên Vương  trụ tại Ngọc Kính Sơn, phía trên của trung tâm. Ngài đã hấp thu tinh hoa của khí trời và suối đất (thiên khí địa tuyền) mà sống.
Thông thường, dân gian hay lầm lẫn cho rằng Nguyên Thủy Thiên Tôn  cùng với Ngọc Hoàng Thượng Đế là một vị, kỳ thực không phải thế.
*Căn cứ vào sách “Đào Hoành Cảnh Đích Chân Linh Vị Nghiệp Đồ”, chia các thần thành bảy cấp, để Nguyên Thủy Thiên Tôn  ở chính vị của “Thượng Thanh”, Thái Thượng Lão Quân ở chính vị của “Thái Thanh”, còn Ngọc Hoàng Thượng Đế ở trung vị thứ nhất của cung thứ ba “Ngọc Thanh”.
Nói cách khác, trên Ngọc Hoàng Thượng Đế còn có Nguyên Thủy Thiên Tôn  và Thái Thượng Lão Quân  , mà hai vị nầy khác nhau, nên chủ tể chân chính của trời đất muôn vật phải là Nguyên Thủy Thiên Tôn  .
Thế gian đem Nguyên Thủy Thiên Tôn  cho đồng với Ngọc Hoàng Thượng Đế chẳng qua là tại tinh thần kính trời sợ thần, e rằng thiếu sự tôn kính mà thôi.
Phong tục dân gian cứ vào đêm trừ tịch, cử hành nghi thức cúng lễ  Nguyên Thủy Thiên Tôn  tại các điện thờ  , bắt đầu  từ 11 giờ 30 phút đêm ấy, số người tham dự quá đông, kẻ đến sau không thể chen chân vào lễ lạy được.
*Ngày vía của Nguyên Thủy Thiên Tôn   là ngày mùng một tháng giêng.
*Nhược Thủy dịch
(từ http://www.chinesefolklore.com) 
Quí vị cần tham khảo toàn bộ Danh sách thần , xin xem ở :-
*Link của Bảng Phong Thần:-
http://www.hoangthantai.com/forum/index.php?topic=536.0
(Phần bổ sung thêm về Ngọc Hoàng Thượng Đế).
玉皇上帝

  「天公」是指玉皇上帝,有稱「玉帝」或「昊天上帝」,或「玄穹高上玉皇大天帝」、「昊天金闕無上至尊自然妙有彌羅至真玉皇大帝」等尊稱。玉皇大帝是道教中最高級的神明之一,地位僅在三清尊神之下。但在世俗的心目中,玉皇大帝卻是中國最大的神祗,是眾神之王。
  據民間傳說,「玉皇上帝」不但授命於天子,統轄人間,而且也統轄儒、道、釋三教和其他諸神仙,以及天神、地祗、人鬼都歸其管轄,天神就是屬于天上所有自然物的神化者,包括日、月、星辰、風伯、雨師、司命、三官大帝、五顯大帝等,而玉皇大帝也屬天神之一,地祗就是屬于地面上所有自然物
的神化者,包涵土地神、社稷神、山岳、河海、五祀神,以及百物之神,人鬼就是歷史上的人物死后神化的,包括先祖、先師、功臣,以及其他歷文人物。
  玉皇上帝統領天、地、人三界神靈之外,還對於天地、宇宙萬物的興隆衰敗、吉凶禍福都得管,屬下有管理學務的文昌帝君,管理商務的關聖帝君,管理工務的巧聖先師,管理農務的神農先帝,管理地方的有東岳大帝、青山王、城隍爺、境主公、土地公、地基主,管理陰間的有酆都大帝和十殿閻王,而玉皇上帝為神中之神,神中至尊。
  在道教的理論中,將天、地、人三界分得很清楚,天有十三層,一層有三萬里,天外的地方就稱為無極,而天內的天就稱為太極。太極的天分為五天,即東、南、西、北,「玉皇大帝」是宇宙中最高無上的神靈,而所有神靈皆須聽令於「玉皇大帝」。
  中天:為「玉皇大帝」所居,上掌三十六天,三千大世界;
               下握有七十二地,四大部分所有生靈。
  東天:為「三官大帝」所掌,主賜福延壽解災赦罪消厄。
  南天:為「文衡聖帝」所掌,主眾神的委任升降考察各神祇的功罪。
  西天:為「釋迦牟尼」所掌,主世人的信仰依歸。
  北天:為「紫微大帝」所掌,予降福消災,兼賜予財富。
  「玉皇大帝」,據說是三清所化身的太極界第一位尊神,也就是古人最崇敬的「天」,居住在玉清宮,上掌三十六天,三千世界,各部神仙,下轄七十二地、四大部州、掌管天上諸神、仙、佛,以及人間億萬生靈,因此尊稱為「玉皇大天尊玄靈高上帝」。
  另有一說,「玉皇上帝」是三官大帝中的「天官」,是道教的紫微帝君,職掌賜福,民間視為福神,與祿、壽並列。「三官大帝」也稱「三界公」,就是上元「賜福天官紫微大帝」、中元「赦罪地官清虛大帝」、下元「解厄水官洞陰大帝」的合稱。
  玉帝源於上古的天帝崇拜。殷商時期,人們稱最高神為帝,或天帝、上帝,這是一位支配天上、地下、文武眾仙的大帝。周朝及后世統治者利用天帝崇拜,鼓吹「君權神授」,極力宣稱自己是天帝的兒子,故稱「天子」。玉皇大帝的塑像或畫像,至唐宋以后才逐漸定型,一般是身穿九章法服,頭戴十二行珠冠冕旒,有的手持玉笏,旁侍金童玉女,完全是秦漢帝王的打扮。
  《高上玉皇本行集經》戴:遠古之時,有個「光嚴妙樂國」,國王為「淨德王」,王后稱「寶月光」,老而無嗣;一夜夢見太上老君抱一嬰兒入王后懷中,王后恭敬禮接,醒後就覺的有孕。懷孕足足十二個月,乃於丙午年正月初九誕下太子。太子自幼聰慧,長大則輔助國王,勤政愛民,行善救貧。國王駕崩,太子郤禪位大臣,遁入深山修道。功成經歷八百劫,犧牲己身以超度眾生,終於修成真道,飛昇九天之上,得萬方諸神擁戴。於是統御三界,是為「玉皇大帝」。
  農曆正月初九為玉帝誕辰(天公生)。正月為一年之初,四季之首,木氣之始,一切生命因而萌發;九為數字之極尊,代表「極大、極多、極高」的意義,所以一年中第一個初九(上九)為玉帝聖誕,正與他至高無上的地位相呼應。明代王逵《蠡海集》中說:「神明降誕,以義起者也。玉帝生於正月初九日者,陽數始於一,而極於九,原始要終也。」意思是說,神明降誕的日子都有一定的特殊含義。
  「玉皇大帝」的祭祀起源於上古的天地崇祀,和古人敬天畏地的思想有密切的關係,古人認為「天」是宇宙萬物的主宰,也是萬物生長化育的本源,所以不可不敬天畏命,順天行道。因此想像自然界中有一位最高的神明在支配萬物。於是「天」命令君王來人間執政治民,君王必須順應天意,這樣才能風調雨順,國泰民安,否則君王違反了天道,天就會降下各種災害懲罰。君王敬畏「天」,庶民百官自然而然的也敬畏「天」,君王既然是奉「天」之命治理人世,所以君王不得不崇拜「天」,定期「祭天」,不但是君王必行的職責,也是國家的大典。早自商周時代,歷朝君王每年例必舉行盛大的「郊祀」,是敬天思想的最高表徵,但只有帝王才有資格祭祀,直到封建時代結束,民間才開始祭祀「天公」。
  據史藉所戴,唐、隋、晉、魏、漢,乃至秦,諸代皆有帝王祀天之大典,但當時所祀的「天」,乃純粹是指大自然的「天」,即「蒼天」、「昊天」。可是「天」是無形的、渺茫的,又怎么去祭祀呢?如此漸漸地就把「天」具體神化,稱之「玉皇大帝」。因玉皇大帝是由人想像而來的神,所以原無神像,到宋真宗時,才為他塑像,視其自家祖先,封其為玉皇。玉皇大帝的塑像或畫像,一般是身穿九章法服,頭戴十二行珠冠冕旒,有的手持玉笏,旁侍金童玉女,完全是秦漢帝王的打扮。及至道教興起以後,把「天」加以「人神化」,當成有思想有感情的人形「神」來拜,塑造「天公」「老天爺」這個形象來。於是,民間所崇拜的「天公」與古代帝王所祀自然的「天」,就逐漸分離開了。
  「玉皇大帝」的誕生祭祀,遠較一般諸神更為隆重及莊嚴,因為百姓都深信天公是至高無上,最具權威的神,無「相」足以顯示,因此不敢隨意雕塑他的神像,而以「天公爐」及「天公座」來象徵。一般廟宇都有一座天公爐安置於廟前,祭拜時要先向外朝天膜拜,這是燒香的起碼禮儀。
  由於「玉皇大帝」在信眾心目中,是眾神之最,所以拜天公的儀式也比一般神明來得隆重。前一天晚上,全家都必需齋戒沐浴、設立祭壇,供奉豐盛祭品,然後依序上香,行三拜九叩禮。且祭祀當日,不得曝晒女人的衣褲、傾倒便桶,以免天公看到了觸犯大不敬之罪。在團體祭典的場合一定要「殺豬公」,並且是整隻敬供,是祭典時最隆重的獻禮。
  而「玉皇大帝」的身份極尊貴,凡間小事,根本無暇理會。所以求財求嗣求名求利者,玉帝未必有暇去賜予。
  供奉玉帝,應要一班文武百官、天神天將拱護,不可單獨以玉帝像供奉,否則成為孤君,不能顯出玉帝的威嚴及尊崇。
  農歷正月初九是玉皇大帝的誕辰「玉皇誕」,台灣閩南俗稱「天公生」。是日道觀要舉行盛大的祝壽儀式,誦經禮拜。家家戶戶于此日都要望空叩拜,舉行最隆重的祭儀。
  在封建社會時代,唯天子才有資格祭拜玉帝,一般民眾不能隨便祭拜。一直到封建時結束,這種禁忌才得以破除。然而,一般民間仍認為玉皇大帝是如此崇高偉大,並不敢擅自為其雕塑神像,而以「天公爐」或「神牌位」來代替。信徒拜祭玉皇大帝時,就對著「天公爐」焚香膜拜。
  拜天公的祭典,自初九的凌晨開始,一直到天亮為止。在這一天前夕,全家人必須齋戒沐浴,以庄嚴敬畏的心情舉行祭拜,家家戶戶都要在正廳前面,放置八仙桌,搭起祭壇,供桌上備神燈、五果(柑、桔、蘋果、香蕉、甘蔗)、六齋(金針、木耳、香菇、菜心、豌豆、豆腐等),并面線塔,另設清茶三懷,還有甜劇、社龜,到了時辰,全家整肅衣冠,按尊卑挨次上香,行三跪九叩禮拜,然后燒天公金。
  除了祭祀儀式之外,民間在這一天當中也有一些禁忌要遵守,例如,不得曝曬女人的衣褲、不得傾倒便桶等,以免玉皇大帝看到了觸犯了大不敬之罪。而祭品中五牲之一的雞,不能用母雞,最好是用閹雞或公雞。 
*Dịch:-
Ngọc Hoàng  Đại Đế

“Ông Trời” là để chỉ Ngọc Hoàng Thượng Đế , cũng tôn xưng bằng nhiều danh hiệu như:- “Ngọc Đế” , “Hạo Thiên Thượng Đế” , “Huyền Khung Cao Thượng Ngọc Hoàng Đại Thiên Đế”, “Hạo Thiên Kim Khuyết Vô Thượng Chí Tôn Tự Nhiên Diệu Hữu Di La Chí Chân NGỌC HOÀNG ĐẠI ĐẾ”.
NGỌC HOÀNG ĐẠI ĐẾ  là vị thần minh  cao cấp của Đạo giáo, địa vị gần nhất dưới  Tam Thanh Tôn Thần. Nhưng trong con mắt của người thế tục Trung Quốc , NGỌC HOÀNG ĐẠI ĐẾ  là vị thần tối cao, là vua của các thần khác.

*Theo truyền thuyết dân gian, NGỌC HOÀNG ĐẠI ĐẾ  không chịu mệnh lệnh của vua khác, cai quản khắp nhân gian, thống trị hết thần tiên của ba giáo Nho, Đạo, Thích, điều động hết thiên thần, địa kỳ, nhân quỉ. Thiên thần là những vật tự nhiên được “thần hóa” như:- mặt trời, mặt trăng, sao, phong bá (thần gió), vũ sư (thần mưa), tư mệnh, Tam Quan đại đế, Ngũ Hiển đại đế v.v…đều dưới quyền của NGỌC HOÀNG ĐẠI ĐẾ . Địa kỳ (chi) cũng là những vật tự nhiên ở đất  được thần hóa như:- thần Thổ Địa, thần Xã tắc, thần Núi non, thần Sông biển, thần Năm tháng, nói chung bao quát cả “bách thần”. Nhân quỉ là những nhân vật lịch sử sau khi chết được thần hóa, bao gồm : tổ tiên, những bậc công thần, những văn nhân v.v…
NGỌC HOÀNG ĐẠI ĐẾ  thống lãnh trời, đất, người, thần linh  ba cõi, cùng quản lý mọi  sự thịnh suy tốt xấu của vũ trụ vạn vật . Về lãnh vực nầy, Ngài có các thuộc hạ như:- Văn Xương đế quân coi về sự học hành, Quan Thánh đế quân coi về việc mua bán, Xảo Thánh Tiên sư coi về công nghiệp, Thần Nông Tiên đế coi về nghề nông, Đông Nhạc đại đế cai trị các địa phương, cùng với những phụ tá như :- Thanh Sơn vương, Thành Hoàng gia, Thổ Địa công, Địa Cơ chủ. Ngoài ra còn có những vị coi về phần âm như:- Phong Đô đại đế và Thập Điện Diêm Vương …Tất cả đều dười quyền cai trị, chỉ đạo, phân bổ của NGỌC HOÀNG ĐẠI ĐẾ .

Trong cơ sở lý luận của Đạo giáo, có sự phân chia rõ rệt của ba giới: trời, đất, người. Trời thì có 13 tầng, một tầng là ba mươi ngàn dậm. Khu vực “Trời ngoài”  gọi là “Vô cực”, còn khu vực “Trời trong” gọi là “Thái cực”. Thái Cực thiên lại phân làm năm thiên là :- Đông, Tây, Nam, Bắc và Trung Ương. NGỌC HOÀNG ĐẠI ĐẾ là vị thần tối cao, tất cả thần linh đều phải nghe theo lệnh của NGỌC HOÀNG ĐẠI ĐẾ . Sự phân chia Thái Cực thiên như sau:-

1.- Trung Thiên:- là nơi cư ngụ của NGỌC HOÀNG ĐẠI ĐẾ , nắm quyền điều khiển cả trên là ba mươi sáu “Thiên”, ba ngàn thế giới, lẫn dưới là bảy mươi hai “Địa”, tứ đại bộ châu có sanh linh đang sống.
2.- Đông Thiên:- do “Tam Quan Đại Đế” cai quản, chủ về việc ban phước tăng thọ, giải tai xá tội trừ nạn cho sanh linh.
3.- Nam Thiên:- do “Văn Hành Thánh Đế” cai quản, chủ về việc theo dõi ghi chép công tội , hay bổ nhiệm thăng giáng cấp của tất cả chư Thần.
4.-Tây Thiên:- do Thích Ca Mâu Ni cai quản, chủ về giáo dục tâm linh cho con người, dạy họ làm lành lánh dữ và qui y theo Phật để  tu đạo giải thoát.
5.-Bắc Thiên:- do “Tử Vi Đại Đế” cai quản, chủ về việc ban cho tiền bạc, tài sản, cũng như họa phước con người.

*Theo truyền thuyết thì NGỌC HOÀNG ĐẠI ĐẾ chính là “hóa thân” của “Đấng Tối Cao Thái Cực” trong Tam Thanh, là vị được cổ nhân sùng kính hạng nhất. Ngọc Hoàng  cư ngụ nơi “Ngọc Thanh Cung”, chưởng quản hết từ trên là 36 thiên, ba ngàn thế giới, các bộ thần tiên, tới dưới là 72 địa, tứ đại bộ châu. Nói tóm lại , là chưởng quản tất cả chư Thần, Tiên, Phật, cho đến triệu ức sanh linh… do đó mới tôn xưng Ngài là “Ngọc Hoàng Đại Thiên Tôn Huyền Linh Cao Thượng Đế”.

*Lại có một thuyết khác, cho rằng NGỌC HOÀNG ĐẠI ĐẾ là “Thiên Quan” của “Tam Quan Đại Đế”, giống như Tử Vi Đại Đế của Đạo giáo , nghĩa là một vị “Phước Thần” coi về phước, lộc , thọ. Tam Quan đại đế còn xưng là “Tam Giới Công”,  gồm có:- “Tứ Phước Thiên  Quan Tử Vi Đại Đế” ở cõi thượng nguyên, “Xá Tội Địa Quan Thanh Hư Đại Đế” ở cõi trung nguyên và “Giải Ách Thủy Quan Động Âm Đại Đế” ở cõi hạ nguyên, gồm lại gọi là “Tam Quan Đại Đế” vậy.

*Danh xưng Ngọc Đế xuất phát từ sự tôn trọng “Ông Trời” của người thượng cổ. Thời đại nhà Ân, nhà Thương gọi vị thần tối cao là “Đế” hoặc “Thiên Đế” hay “Thượng Đế”, có nghĩa là một vị “VUA” có năng lực chi phối hết thảy trên trời dưới đất , hai bên chư thần văn võ. Đời nhà Châu (Chu) lợi dụng tinh thần sùng bái “Ông Trời” nầy mà gọi vua là “Con của Trời” (thiên tử) nên “vua nói ra thì tất cả phải nghe theo”.

*Về lãnh vực “Họa hình” thì mãi tới đời Đường, Tống mới có chính thức. Đó là hình tượng một vị “mình mặc loại y phục Cửu Chương, đầu đội mão Thập Nhị Hành , tay cầm Ngọc Hốt, (玉笏 : Cái hốt, ngày xưa vua quan ra chầu đều cầm cái hốt, hoặc làm bằng ngọc, hoặc làm bằng tre, ngà, có việc gì định nói thì viết lên giấy để phòng cho khỏi quên. Ðời sau hay làm bằng ngà voi mà chỉ các quan cầm thôi—TĐHV Thiều Chửu). Hai bên có Kim Đồng, Ngọc Nữ theo hầu, hoàn toàn mô phỏng theo y phục của vua chúa Tần, Hán.
*Theo “Cao Thượng Ngọc Hoàng Bản Hạnh Tập Kinh” viết:- 

-Vào đời viễn cổ, có một nước tên là “Quang Nghiêm Diệu Lạc”, vua là “Tịnh Đức Vương”, hoàng hậu là “Bảo Nguyệt Quang” , đã lớn tuổi mà chưa có con trai. Một đêm nọ, nằm mộng thấy Thái Thượng Lão Quân bồng một đứa con nít trai đưa cho  hoàng hậu. Tỉnh dậy, hoàng hậu biết mình có thai. Mang thai mười tháng, đến ngày mùng chín tháng giêng năm Bính Ngọ thì hạ sanh Thái Tử. Từ nhỏ, Thái tử rất thông minh trí tuệ, lớn lên đã phụ tá cho vua cha đắc lực, thương yêu dân chúng, làm việc thiện cứu giúp nhân dân. Sau khi nhà vua băng hà, Thái tử giao đất nước lại cho các đại thần rồi vào trong núi để tu hành. Trải qua tám trăm kiếp, hi sinh bỏ mạng để cứu chúng sanh, cuối cùng đạt đạo chân, phi thăng cõi trời, được muôn thần sùng kính ái mộ, đưa lên làm “NGỌC HOÀNG ĐẠI ĐẾ ”, cai quản khắp tam giới.

***
Ngày mùng chín tháng giêng âm lịch là ngày “Đản sinh” của Ngọc Đế (Thiên Công Sinh) . Tháng giêng là tháng khởi đầu của năm, chủ của bốn mùa, cây cối nhờ vào khí thủy mà từ đó sanh sôi nẩy nở thêm ra. Số “chín” là con số “lớn nhất” của các số, đại biểu cho ý nghĩa “cực đại, cực đa, cực cao”. Cho nên, người ta lấy con số “chín đầu tiên” (thượng cửu) của năm (9 tháng 1) làm ngày sinh của NGỌC HOÀNG ĐẠI ĐẾ  là do ý đó.

*Trong “Lãi Hải Tập ” của Vương Quỳ đời nhà Minh nói rằng:- “Nghĩa của ngày sinh thần minh là nghĩa của “sự bắt đầu”, cho nên lấy ngày mùng chín tháng giêng là thánh đản của NGỌC HOÀNG ĐẠI ĐẾ . Số bắt đầu từ “một” đến lớn nhất là “chín”, kết thúc của “sự bắt đầu” vậy”. Như thế, khi nói đến ngày sinh của các vị thần, chúng ta cần phải lưu ý đến hàm  nghĩa của “con số” biểu trưng vậy.

*Việc cúng bái NGỌC HOÀNG ĐẠI ĐẾ  có nguồn gốc quan hệ đến  sự sùng bái trời đất của người xưa và tư tưởng kính trời sợ đất của con người mà thành. Người xưa cho rằng, “Trời” là vị chúa tể của vạn vật, là nguồn gốc của sự sanh ra và nuôi lớn muôn vật, cho nên mọi người không thể không kính trời sợ đất, thuận theo trời mà hành đạo. Do đó, họ nghĩ rằng trong tự nhiên phải có một vị “thần minh tối cao” cai quản và chi phối hết thảy mọi vật. Nhà vua là người được mệnh lệnh của “Trời” cho xuống nhân gian để cai trị người. Nếu vua mà thuận theo thiên ý thì sẽ được mưa thuận gió hòa, quốc thái dân an, còn nếu nhà vua làm trái với thiên  ý, thì “trời” nhất định sẽ giáng tai họa để trừng phạt. Mà nếu hễ nhà vua mà đã kính sợ “trời” thì các quan và dân chúng cũng phải kính sợ “trời”. Vua đã là người phụng mệnh “trời” để cai trị dân chúng thì nhất nhất không thể không sùng bái “trời”, cho nên phải có định kỳ “tế trời”, đó là chức trách tối quan trọng của nhà vua. Trải qua nhiều triều đại, mỗi năm nhà vua đều phải cử hành  “LỄ GIAO” (lễ tế trời), nhưng chỉ có “nhà vua” mới là người “đủ tư cách tế trời” mà thôi ! Đến khi, triều đại phong kiến kết thúc, dân chúng mới bắt đầu được phép “tế trời”.

*Theo trong các sách sử thì từ các đời Tần , Hán,Đường, Tùy, Tấn, Ngụy… đều có tổ chức “Lễ tế trời” rất trọng thể. Nhưng “trời” không thể hiểu như là “bầu trời xanh trên cao” kia được, khái niệm “trời” rất vô  hình, mênh mông … thì làm sao biết chỗ nào, người nào… để cúng tế đây ? Từ đó, người ta phải cụ thể hóa “trời”  bằng danh xưng “NGỌC HOÀNG ĐẠI ĐẾ ” để có đối tượng rõ ràng mà cúng bái.
 *Vì NGỌC HOÀNG ĐẠI ĐẾ là vị thần do con người tưởng tượng ra mà thành, nên không thể có “hình dạng cụ thể” được. Mãi cho đến thời vua Tống Chân Tông mới có hình tượng NGỌC HOÀNG ĐẠI ĐẾ như đã  mô tả ở trên. Như vậy, chúng ta thấy có sự khác biệt về nhận thức của “Trời Vô Hình” lúc đầu và “Trời Hình Tượng” kể từ khi Đạo giáo thịnh hành. Còn trong dân gian, không cần nói đến ý nghĩa cao thấp , hữu hình vô hình gì cả, mà trong đầu mỗi con người Trung Quốc đều mang nặng, khắc sâu hình tượng “ÔNG TRỜI” hiện diện rất thân cận, gần gũi và mật thiết với họ.
*Việc cúng tế “Ông Trời” phải được thực hiện sao cho có phần long trọng, trang nghiêm hơn các “thần minh’ khác, vỉ Ngài là vị quyền uy tối cao trên tất cả thần thánh khác. Do đó, lúc đầu không ai dám đưa hình tượng nào ra về Ngài, chỉ dùng hai biểu tượng là “Thiên Công Lô” (lò hương cúng trời) và “Thiên Công Tòa” ( ngai vua trời) để cúng bái mà thôi. Các Miếu thờ đều đặt “Thiên Công Lô” ở trước cửa, khi cúng bái thì ngẫng mặt lên bầu trời mà van vái, từ đó phát sinh tục lệ “đốt nhang” trong cúng tế.
-Trong con mắt của mọi người, NGỌC HOÀNG ĐẠI ĐẾ là lớn nhất, nên việc cúng tế phải làm cho ra vẻ mới được. Vòa buổi chiều hôm trước (tức chiều mùng 8/1) , cả nhà già trẻ bé lớn đều ăn chay, tắm gội sạch sẻ, sửa soạn phẩm vật thịnh soạn. Kế đó, dâng hương cúng tế, lạy ba lạy chín vái . Trong ngày cúng tế, không được phơi quần áo đàn bà, phải lật úp “thùng phân” lại để thiên công không nhìn thấy, khỏi phạm tội bất kính. Ở những nơi  cúng tập thể phải có phẩm vật đặc biệt là “con heo nguyên vẹn” để cúng theo nghi thức rất long trọng.
Vì địa vị của NGỌC HOÀNG ĐẠI ĐẾ  quá cao, nên phàm những việc nhỏ nhặt như cầu tài, cầu tự, cầu danh, cầu lợi đều không được “cầu trời phò hộ”, vì Ngọc Đế đâu có rãnh mà giải quyết những chuyện nầy !
Khi cúng Ngọc Đế, tất phải nhớ cúng thêm cả hai ban văn võ bá quan theo hầu cận Ngài, không được chỉ để một tượng Ngọc Đế đơn độc mà cúng, như thế thành ra “cô quân” (ông vua cô độc) hay sao ?  Phạm vào điểm nầy, thành ra tội bất kính Ngọc Đế vì không nói lên được uy thế của Ngài .
Ngày mùng chín tháng giêng âm lịch là ngày “đản sinh” của NGỌC HOÀNG ĐẠI ĐẾ . Xứ Mân Nam của Đài Loan dân chúng gọi là “Ngày sinh ông Trời”. Vào ngày ấy, tất cả những đạo quán đều tổ chức cúng kiến với những nghi thức vô cùng long trọng như :- Chúc thọ, tụng kinh, lễ bái… Nhà nhà người người đều ra ngoài trời, hướng vọng lên không trung mà khấu bái.
* Ở thời đại phong kiến, chỉ có nhà vua mới đủ tư cách tế trời, còn dân chúng thì tuyệt đối không được tùy tiện cúng bái trời. Khi phong kiến kết thúc, điều cấm kỵ trên đã bãi bỏ. Tuy vậy, dân gian vẫn tin rằng địa vị của Ngọc Đế quá cao nên không được phép tô vẽ đắp hình tượng của Ngài để thờ cúng, mà chỉ dùng hai món tiêu biểu là “Thiên Công Lô” và “Thiên Công Tòa” như đã nói ở trên để cúng bái . Khi cúng,  tín đồ chỉ thắp hương và lễ lạy trước “Thiên Công Lô” mà thôi.

* Nghi thức “cúng trời” chỉ diễn ra từ khuya đêm mùng tám đến khi mặt trời mọc sáng  mùng chín thì ngừng. Ngày hôm trước đó, cả nhà đều ăn chay tắm gội sạch sẻ, tập trung mạnh mẽ tinh thần , bỏ hết những chuyện tạp nhạp trong tâm, để việc cúng tế được linh nghiệm. Mọi người tập trung trước chính sảnh (gian  thờ), trần thiết bàn bát tiên, lập đàn  cúng tế. Trên bàn cúng trời, có :- cặp đèn “thần đăng”, năm thứ trái cây (cam, quít, tần quả, chuối, mía), phải nấu sáu món chay là :- kim châm, mộc nhĩ (nấm mèo), nấm hương cô, rau thái tâm, đậu uyển, tàu hủ, tất cả thức ăn đều phải được đậy kỹ bằng vải lưới thật mỏng, ngoài ra, đặc biệt còn phải có ba hộp trà ngon. Có tổ chức múa mâm vàng, ca hát chúc tụng, phát “lộc”. Khi đến giờ mãn, cả nhà chỉnh trang y phục, đến chính sảnh đứng  theo tôn ty thứ tự mà hành lễ “tam quỵ cửu khấu” (ba lạy chín vái), sau đó mới đốt giấy tiền vàng bạc. (công kim)
Một vài nơi, người dân có tục “cúng gà” trong dịp nầy, phải dùng gà trống để cúng chứ không được dùng gà mái.
Xin theo dõi tiếp BÀI 2. dienbatn giới thiệu.
Xem chi tiết…

LÊN XÁC Ở TÂN CHÂU - AN GIANG - QUAN ĐẾ MIẾU CHÙA ÔNG. Xuân Ất Mùi.

3/09/2015 |
LÊN XÁC Ở TÂN CHÂU - AN GIANG - QUAN ĐẾ MIẾU CHÙA ÔNG.
 Xuân Ất Mùi.

Xem thêm :
http://dienbatnblog.blogspot.com/2013/03/bi-mat-ve-mot-le-hoi-hanh-xac.html
http://dienbatnblog.blogspot.com/2011/02/mua-xuan-ta-i-ta-ba-bai-2.html
dienbatn giới thiệu.
Xem chi tiết…

GIẢI HẠN ĐẦU NĂM. BÀI 2.

3/04/2015 |
GIẢI HẠN ĐẦU NĂM.
PHẦN 2.
GIẢI HẠN CỬU TINH.
Người xưa cho rằng: Mỗi người vào mỗi năm có một ngôi sao chiếu mệnh, tất cả có 9 ngôi sao, cứ 9 năm lại luân phiên trở lại.

Mỗi người vào mỗi năm có một ngôi sao chiếu mệnh. Có sao tốt có sao xấu. Nếu gặp sao xấu thì phải cúng dâng sao giải hạn.
Sao hạn Cửu Diệu .
Tuổi ở đây tính theo âm lịch ( 2014 - năm sinh + 1 = Tuổi âm )
Sao Chiếu mệnh:Theo nguyên lý Cửu diệu, các nhà Chiêm tinh xưa cho rằng mỗi năm mỗi người đều có 1 trong 9 sao chiếu. Trong đó có:
- 3 sao Tốt: Thái dương, Thái Âm, Mộc đức.
- 3 sao Xấu: La hầu, Kế đô, Thái bạch.
- 3 sao Trung: Vân hớn, Thổ tú, Thủy diệu.
Khi ở những tuổi nhất định (có Bảng tính sẵn phía dưới) mà gặp sao hạn sẽ không may, cần giải hạn. Do đó dân gian thường làm lễ Dâng sao giải hạn đầu năm hoặc hằng tháng tại nhà hoặc hằng tháng tại Chùa. Khi giải hạn mỗi sao có cách bài trí nến, mầu sắc Bài vị, nội dung Bài vị khác nhau với những ngày nhất định.


Ảnh hưởng của Cửu Diệu tinh
La Hầu - còn gọi là Khẩu thiệt tinh, là sao xấu ảnh hưởng nặng cho Nam giới và người mạng Kim, phái Nữ thì ảnh hưởng nhẹ. Thường gây ra những trở ngại bất trắc, bệnh tật, khẩu thiệt, thị phi miệng tiếng. Hạn sao này cần phải dè dặt cẩn thận. Ảnh hưỡng vào các tháng giêng và tháng 7.
Thổ Tú - còn gọi là Thổ Đức tinh hay Ách tinh chủ gia đạo bất an buồn phiền, bệnh hoạn hay kéo dài, tiểu nhân phá phách, đi xa bất lợi. Hai tháng 4 và 8 bất lợi.
Thủy Diệu - còn gọi là Thủy Đức tinh là Phúc lộc tinh chủ bình an, giải trừ tai nạn, đi xa có lợi, Phụ nữ bất lợi về đường sông biển. Ảnh hưỡng vào các tháng 4 và tháng 8. Người mạng Kim và Mộc hợp với hạn sao này, riêng người mạng Hỏa thì hơi bị khắc kỵ.
Thái Bạch - còn gọi là Kim Đức tinh, là hung tinh chủ về sự bất toại tâm, xuất nhập phòng tiểu nhân, hao tán tiền bạc, bệnh tật nảy sinh. Phòng tháng 5 xấu, nhất là những người mệnh hỏa, kim và mộc.
Thái Dương - Phúc tinh chủ sự hanh thông, cứu giải nạn tai. Với Nữ giới thì công việc vẫn thành công nhưng rất vất vả. Tốt vào các tháng 6 và 10.
Vân Hán - còn gọi là Hỏa Đức tinh là Tai tinh chủ hao tài, khẩu thiệt và tranh chấp, kiện tụng bất lợi. Đề phòng những rủi ro bất ngờ. Tháng 4 và 8 xấu.
Kế Đô - được ví như bà hoàng hậu khắc khe, là sao xấu ảnh hưởng nặng nơi phái Nữ, riêng những người có thai hay sinh đẻ trong hạn sao này thì ít bị ảnh hưởng. Gặp hạn sao này những mưu sự thường gặp khó khăn, thành ít bại nhiều, phòng thị phi, đau ốm hay tai biến bất ngờ. Sao Kế đô dù ít ảnh hưởng tới Nam giới nhưng ít nhiều cũng có tác dụng không thuận lợi. Phòng tháng 3 và tháng 9
Thái Âm - Phúc tinh chuyên cứu giải bình an, tốt cho Nữ số.  Sao Thái Âm nhập hạn là tài tinh đem lại nhiều may mắn về tài lộc nhưng mang tính chất bất thường, thời vận hay thăng trầm.
Mộc Đức - Phúc tinh chủ may mắn, gặp thời vận tốt. Sao Mộc đức cũng là một phúc tinh cứu giải nên trong trường hợp dù gặp khó khăn gì vẫn có quý nhân giúp sức vượt qua. Tháng 10 và 12  tốt, riêng người mạng Kim thì bất lợi đôi chút vì không hợp với hạn sao này.
Năm hạn trong lá số Tử Vi tốt mà gặp Cửu Diệu tinh nhập hạn tốt thì lại càng tốt thêm. Nếu gặp hạn sao xấu mà năm nhập hạn trong lá số tốt thì sao hạn xấu sẽ được giảm bớt.
Ngược lại nếu năm hạn trong lá số xấu mà gặp thêm Cửu Diệu tinh nhập hạn xấu  thì năm hạn xấu sẽ càng xấu thêm.    
Theo quan niệm dân gian thì 9 ngôi sao chiếu mệnh chỉ xuất hiện vào những ngày nhất định trong tháng, từ đó hình thành tục dâng sao giải hạn vào các ngày như sau:
Sao Thái Dương: Ngày 27 âm lịch hàng tháng
Sao Thái Âm: Ngày 26 âm lịch hàng tháng
Sao Mộc Đức: Ngày 25 âm lịch hàng tháng
Sao Vân Hớn (hoặc Văn Hán): Ngày 29 âm lịch hàng tháng
Sao Thổ Tú: Ngày 19 âm lịch hàng tháng
Sao Thái Bạch: Ngày 15 âm lịch hàng tháng
Sao Thuỷ Diệu: Ngày 21 âm lịch hàng tháng
Sao La Hầu: Ngày 8 âm lịch hàng tháng
Sao Kế Đô: Ngày 18 âm lịch hàng tháng
Cùng một tuổi, cùng một năm đàn ông và đàn bà lại có sao chiếu mệnh khác nhau. Trong 9 ngôi sao có sao tốt, có sao xấu, năm nào sao xấu chiếu mệnh con người sẽ gặp phải chuyện không may, ốm đau, bệnh tật. . . gọi là vận hạn.
Để giảm nhẹ vận hạn người xưa thường làm lễ cúng dâng sao giải hạn vào đầu năm hoặc hằng tháng tại chùa, hay hằng tháng tại nhà ở ngoài trời với mục đích cầu xin Thần Sao phù hộ cho bản thân, con cháu, gia đình đều được khoẻ mạnh, bình an, vạn sự tốt lành, may mắn, thành đạt và thịnh vượng.
1- Sao La Hầu : Khẩu thiệt tinh, chủ về ăn nói thị phi, hay liên quan đến công quyền, nhiều chuyện phiền muộn, bệnh tật về tai mắt, máu huyết. Nam rất kỵ, nữ cũng bi ai chẳng kém. Kỵ tháng giêng, tháng bảy.
Sao La Hầu là khẩu thiệt tinh : sao này ảnh hưởng nặng cho nam giới về tai tiếng, thị phi, kiện thưa, bệnh tật tai nạn. Mỗi tháng hay vào tháng Kỵ là tháng 1, 7 âm lịch nên cúng giải vào ngày 08 âm lịch, là sao La Hầu giáng trần.
Khi cúng viết bài vị dùng giấy màu đỏ như sau : “Thiên Cung Thần Thủ La Hầu Tinh Quân”. Thắp 9 ngọn đèn lạy 9 lạy về hướng Chánh Bắc. Cúng làm lễ lúc 21 đến 23 giờ .
2- Sao Kế Đô : Hung tinh, kỵ tháng ba và tháng chín nhất là nữ giới. Chủ về ám muội, thị phi, đau khổ, hao tài tốn của, họa vô đơn chí; trong gia đình có việc mờ ám, đi làm ăn xa lại có tài lộc mang về.
Sao này kỵ nhất nữ giới, nhớ cúng giải hạn mỗi tháng hay vào tháng Kỵ là tháng 1, 3, 9 âm lịch nên cúng giải vào ngày 18 âm lịch ngày sao Kế Đô giáng trần. Khi cúng viết bài vị dùng giấy màu vàng như sau : “Địa cung Thần Vỉ Kế Đô tinh quân”, thắp 21 ngọn đèn, lạy 21 lạy về hướng Tây .
Cách Khấn : Cung thỉnh Thiên Đình Bắc vỉ cung Đại Thánh Thần vỉ Kế đô Tinh quân vị tiền. Cúng lễ vào lúc 21 đến 23 giờ.
3- Sao Thái Dương : Thái dương tinh (măt trời) tốt vào tháng sáu, tháng mười, nhưng không hợp nữ giới. Chủ về an khang thịnh vượng, nam giới gặp nhiều tin vui, tài lộc còn nữ giới lại thường gặp tai ách.
Sao Thái Dương: Mỗi tháng cúng ngày 27 âm lịch, khi cúng phải có bài vị màu vàng, được viết như sau : “Nhật Cung Thái Dương Thiên Tử Tinh Quân”. Thắp 12 ngọn đèn, lạy 12 lạy về hướng ĐÔNG mà cúng. Làm lễ lúc 21 tới 23 giờ.
Sao Thái Dương là tinh quân Tốt nhất trong các Sao Hạn như Rồng lên mây, chiếu mệnh tháng 6, tháng 10, lộc đến túi đầy tiền vô. Mệnh ai chịu ảnh hưởng của sao này, đi làm ăn xa gặp nhiều may mắn, tài lộc hưng vượng, phát đạt.
4- Sao Thái Âm : Chủ dương tinh (mặt trăng), tốt cho cả nam lẫn nữ vào tháng chín nhưng kỵ tháng mười. Nữ có bệnh tật, không nên sinh đẻ̉ e có nguy hiểm. Chủ về danh lợi, hỉ sự.
Sao Thái Âm: Hàng tháng vào lúc 19 tới 21 giờ tối vào ngày 26 âm lịch, dùng 07 ngọn đèn, hương hoa trà quả làm phẩm vật, cúng day mặt về hướng Tây vái lạy 7 lạy mà khấn vái. Khi cúng phải có bài vị màu vàng, được viết như sau :”Nguyệt Cung Thái Âm Hoàng Hậu Tinh Quân”. Hạp tháng 9 âl – Kỵ tháng 11 âl.
5- Sao Mộc Đức (Mộc tinh) : Triều ngươn tinh, chủ về hôn sự, nữ giới đề phòng tật bệnh phát sinh nhất là máu huyết, nam giới coi chừng bệnh về mắt. Tốt vào tháng mười và tháng chạp âm lịch.
Sao Mộc Đức tức sao Mộc Tinh. Mỗi tháng cúng ngày 25 âm lịch, sao Mộc Đức giáng trần. Khi cúng có bài vị màu vàng (hoặc xanh) được viết như sau : “Đông Phương Giáp Ất Mộc Đức Tinh Quân”. Lúc cúng thắp 20 ngọn đèn, đặt bàn day mặt về hướng chánh Đông lạy 20 lạy. Cúng lễ lúc 19 -21 giờ.
6- Sao Vân Hớn, hoặc Văn Hán (Hỏa tinh) : Tai tinh, chủ về tật ách, xấu vào tháng hai và tháng tám âm lịch. Nam gặp tai hình, phòng thương tật, bị kiện thưa bất lợi; nữ không tốt về thai sản.
Sao Vân Hớn tức Hỏa Dực Tinh. Một hung tinh, đến năm hạn gặp sao này Nữ giới sinh sản khó, vào tháng 2, tháng 8 xấu, nên đề phòng gặp chuyện quan sự, trong nhà không yên, khó nuôi súc vật.
Mỗi tháng hoặc tháng 4 và 5 âm lịch cúng ngày 29 âm lịch, viết bài vị màu đỏ : “Nam Phương Bính Đinh Hỏa Đức Tinh Quân”. Thắp 15 ngọn đèn day về hướng Chánh ĐÔNG mà cúng. Lạy 15 lạy. Cúng lúc 21 đến 23 giờ.
7- Sao Thổ Tú (Thổ tinh) : Ách Tinh, chủ về tiểu nhân, xuất hành đi xa không lợi, có kẻ ném đá giấu tay sinh ra thưa kiện, gia đạo không yên, chăn nuôi thua lỗ. Xấu tháng tư, tháng tám âm lịch.
Sao Thổ Tú tức sao Thổ Tinh. Khắc kỵ vào tháng 4 và tháng 8 âm lịch, trong nhà nhiều chuyện thị phi, chiêm bao quái lạ, không nuôi được súc vật, chẳng nên đi xa và đêm vắng. Mỗi tháng cúng ngày 19 âm lịch, lúc 21 giờ, dùng 5 ngọn đèn , hương hoa, trà quả làm phẩm vật day về hướng TÂY mà khấn vái . Lạy 5 lạy . Bài vị viết như sau :”Trung Ương Mậu Kỷ Thổ Đức Tinh Quân”.
8- Sao Thái Bạch (Kim tinh) : Triều dương tinh, sao này xấu cần giữ gìn trong công việc kinh doanh, có tiểu nhân quấy phá, hao tán tiền của, đề phòng quan sự. Xấu vào tháng năm âm lịch và kỵ màu trắng quanh năm.
Thái Bạch: Sao Kim Tinh : Lại rất vui cho những người mang mệnh Thuỷ mệnh Kim, vì có quý nhân giúp, nên gặp sao này đi làm ăn xa có tiền tài của cải, trong gia đạo thêm người. Đối với người có mệnh Hỏa hay mệnh Mộc và nữ mạng sẽ gặp bất lợi, đề phòng tiểu nhân mưu hại hay hao tài tốn của, nhất là ở tháng 5 âm lịch .
Mỗi tháng vào ngày rằm (15 âm lịch) sao Thái Bạch giáng trần, khi cúng viết bài vị màu trắng như sau : “Tây Phương Canh Tân Kim Đức Tinh Quân”. Có thể thay 2 chử Kim Đức bằng 2 chữ Thái Bạch cũng được. Làm lễ cúng lúc 19 – 21 giờ . Thắp 8 ngọn đèn , lạy 8 lạy về hướng chánh TÂY .
9- Sao Thủy Diệu (Thủy tinh) : Phước lộc tinh, tốt nhưng cũng kỵ tháng tư và tháng tám. Chủ về tài lộc hỉ. Không nên đi sông biển, giữ gìn lời nói (nhất là nữ giới) nếu không sẽ có tranh cãi, lời tiếng thị phi đàm tiếu.
Sao Thủy Diệu sao Thủy Tinh, là sao Phúc Lộc tinh. Nữ giới mang mệnh Mộc sẽ rất vui mừng , đi làm ăn xa có lợi về tiền bạc .
Mỗi tháng hay vào tháng Kỵ tuổi là tháng 4 , 8 âm lịch, nên cúng giải hạn vào ngày 21 âm lịch, sao Thủy Diệu giáng trần. Khi cúng viết bài vị dùng giấy màu đỏ như sau : “Bắc Phương Nhâm Quý Thủy Đức Tinh Quân”. Thắp 7 ngọn đèn , lạy 7 lạy về hướng Chánh Bắc. Cúng làm Lễ lúc 21 đến 23 giờ .
BÀI VỊ CÚNG SAO HẠN.




Sắm lễ:
+ Lễ vật cúng sao đều giống nhau:
- Lễ vật gồm: Hương, Hoa, Quả (5 loại). Trầu, rượu, nước. Vàng, Tiền (10), Gạo, Muối.
- Lễ xong hóa cả tiền, vàng, văn khấn, bài vị.
+ Màu sắc bài vị và cách bố trí nến trên bàn lễ khác nhau về chi tiết cụ thể:
Khi gặp sao hạn chiếu, tùy tuổi, nam hay nữ mà Sao khác nhau. Tùy Sao mà cúng vào các ngày khác nhau, bàn đặt và hướng lạy, màu sắc Bài vị, nội dung chữ ghi trên Bài vị, số nến và sơ đồ cắm khác nhau, nội dung khấn cũng khác nhau.
+ Cách bố trí nến (đèn cầy) trên bàn cúng theo sơ đồ từng Sao như sau (còn màu sắc là của Bài vị):


Cách viết bài vị và màu sắc Bài vị cho từng Sao như sau:



CHỮ NHO  CÚNG SAO
Nhật Cung Thái Dương Thiên Tử Tinh Quân
日宮太陽天子星君
Nguyệt Cung Thái Âm Hoàng Hậu Tinh Quân
月宮太陰皇后星君
Đông Phương Giáp Ất Mộc Đức Tinh Quân
東方甲乙木德星君
Tây Phương Canh Tân Kim Đức Tinh Quân
西方庚辛金德星君
Nam Phương Bính Đinh Hỏa Đức Tinh Quân
南方丙丁火德星君
Bắc Phương Nhâm Quý Thủy Đức Tinh Quân
北方壬癸水德星君
Trung Ương Mậu Kỷ Thổ Đức Tinh Quân
中央戊己土德星君
Thiên Cung Thần Thủ La Hầu Tinh Quân
天宮神首羅睺星君
Thiên Cung Thần Vĩ Kế Đô Tinh Quân
天宮神尾計都星君
Bài vị dán trên chiếc que cắm vào ly gạo và đặt ở khoảng giửa phía trong cùng của bàn lễ.
Mẫu văn khấn cúng giải Sao hạn như sau:
Dùng khấn cúng giải sao hạn, lá sớ có nội dung tùy theo tên Sao Hạn hàng năm mà ghi theo mẫu sau đây, đốt ba cây nhang quỳ lạy ba lạy rồi đọc :
- Con lạy chín phương Trời, mười phương Chư Phật, Chư Phật mười phương.
- Nam mô Hiệu Thiên chí tôn Kim Quyết Ngọc Hoàng Thượng đế.
- Con kính lạy Đức Trung Thiện tinh chúa Bắc cựcTử Vi Tràng Sinh Đại đế.
- Con kính lạy ngài Tả Nam Tào Lục Ty Duyên Thọ Tinh quân.
- Con kính lạy Đức Hữu Bắc Đẩu cửu hàm Giải ách Tinh quân.
- Con kính lạy Đức Nhật cung Thái Dương Thiên tử Tinh quân.
- Con kính lạy Đức Thượng Thanh Bản mệnh Nguyên Thần Chân quân.
Tín chủ (chúng) con là:………………………………………. Tuổi:…………………………
Hôm nay là ngày…… tháng………năm….., tín chủ con thành tâm sắm lễ, hương hoa trà quả, đốt nén tâm hương, thiết lập linh án tại (địa chỉ)……………………………………………………………để làm lễ giải hạn sao …………………….. chiếu mệnh, và hạn:………………………
Cúi mong chư vị chấp kỳ lễ bạc phù hộ độ trì giải trừ vận hạn; ban phúc,lộc, thọ cho con gặp mọi sự lành, tránh mọi sự dữ, gia nội bình yên, an khang thịnh vượng.
Tín chủ con lễ bạc tâm thành, trước án kính lễ, cúi xin được phù hộ độ trì.
Phục duy cẩn cáo!
(Và quỳ lạy theo số lạy của từng sao theo phần “Tính chất sao Cửu Diệu…” đã nói ở trên).
Tại Đạo tràng DIỆU PHÁP LIÊN HOA VÔ VI, chúng tôi thực hiện theo nghi thức sau :
CÚNG SAO GIẢI HẠN.
1. Đặt hương án  thấp hơn bàn thờ Phật.
2. Bắt ấn Chuẩn đề : Hai ngón tay út và áp út của hai bàn tay xỏ lồng vào nhau . Hai ngón giữa dựng thẳng áp vào nhau . Hai ngón trỏ đặt vào đốt thứ nhất của ngón giữa . Ngón cái hai bàn tay để sát nhau và tỳ vào trong lòng bàn tay áp vào ngón kế út như hình vẽ.
3. Đọc nghi quỹ thông thường : Tới CHÚ CHUẨN ĐỀ đọc 108 biến.
4.Đọc chú TIÊU TAI KIẾT TƯỜNG : “  Nam mô – Xamanta – Bútđanăng – Áp Prati – Hatasa – Sananăng – Tađátha – Ôm – Khêkhê – Khêhê  - Khêhê –Hùm Hùm – Jlava – Jlava – Pra Jlava – Pra Jlava – Đisắcsa – Đisắcsa – Sắctiri – Sắctiri – Sapháchtra – Sapháchtra Sanhtica – Sanhtica – Sắcridê – Xóaha . ) 7 – 21 – 108 biến.
5. Vái tên tuổi...địa chỉ người xin giải hạn bị Sao gì chiếu ...
6. Niệm : 
“ Đông Tây Nam Bắc chung ngũ đẩu,
Châu Thiên Thất thập nhị cung Thần ,
Nhị thập bát Tú liệt phương ngung ,
Cửu Diệu thất Tinh  chư Thánh chúng ,
Đại bi – Đại nguyện – Đại Thánh – Đại từ .
Phật quang chủ chiếu , bổn mạng ngươn thần.
Đại hạn , tiểu hạn Tinh quân ,
Đại vận , tiểu vận tôn Thần ,
La – Kế Nguyệt bột bàng lâm chủ chiếu .
Kim mộc Thủy Hoả Thổ đức tinh quân
Nguyện tiêu tai chướng, nguyện giáng kiết tường.
Nam mô Xí Thạnh Quang Vương Phật ,Nam mô Tiêu tai kiết tường Bồ tát ma ha tát.
Cho con xin được giải hạn Sao .....
7. SÁM HỐI : NAM MÔ PHẬT – NAM MÔ PHÁP – NAM MÔ TĂNG .
 Con từ vô lượng kiếp trước đến nay , vì vô minh che mờ căn tánh , nên con đã lầm chấp có Ngã , có Pháp , vì thế đối cảnh khởi ra Tâm Tham Sân Si , Mạn nghi ác kiến gây nhiều tội lỗi xúc phạm đến Tam bảo và Chúng sinh . Nay con đã biết tội lỗi của con rồi . Kính xin mười phương chư Phật Từ bi thương xót tha thứ mọi tội lỗi cho con . Con nguyện từ đây đến Vô lượng kiếp sau , mãi mãi nương vào Chơn – Trí của Phật , phá tan màn u minh ngã Pháp cùng Tham , Sân Si , quyết không làm những điều tội lỗi xúc phạm đến Tam bảo và Chúng sinh nữa . 
 Nay con niệm chú Sám hối này , nguyện rằng các tội lỗi của con từ Vô lượng kiếp trước đã làm cho đến ngày hôm nay , do oai lực của Thần chú Pháp này , mọi tội lỗi tốc báo tiêu trừ . Nguyện thành tựu viên mãn tất cả các pháp lành .
CHÚ : OM , SẠT VA , BÚT ĐA , BÔ ĐI , SÁT VA ĐA , XÓA HA – 7 LẦN .
( OM , SARVA , BUDHA , BODHI , SATVAYA , SVAHA ) .
8.HỒI HƯỚNG VÀ CÔNG ĐỨC : 
Nguyện đem công đức này hướng về mười phương Pháp giới Chúng sinh , thân tâm thường an lạc, bệnh tật , tai nạn đều tiêu trừ , mọi sở cầu đều được như ý , tất cả mọi nghiệp chướng , phiền não chướng , sở tri chướng đều tiêu trừ , thành tựu vô lượng giải thoát môn Tam Muội . Ngộ nhập Phật Tri Kiến và tốc chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đảng Chánh Giác .
 Nguyện hồi hướng về các chư Thiên Long Thần , bát Bộ , Hộ Pháp phước huệ Thăng Long hào quang viên đắc , thân tâm thường an lạc thành tựu Đại nguyện hộ trì Pháp Chánh chứng đắc Vô Thượng Bồ Đề .
 Nguyện cho Cửu Huyền Thất Tổ 7 đời nghiệp chướng , phiền não chướng , sở tri chướng tiêu trừ , tốc báo vãn sanh về Tịnh Độ mười phương chư Phật .
 Nguyện hồi hướng về Cha , mẹ , anh , chị , em , chồng ( vợ ) , bà con hai họ tâm thân thường an lạc , thành tựụ được sự nghiệp Thế gian , các nạn , ách bệnh tật tiêu trừ , phát Bồ Đề tâm hướng về quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Cháng Giác .
Hồi hướng :…….
 Nguyện cho thân này ….
 CHÚ HỒI HƯỚNG : OM , SA MA RA , SA MA RA , DI MA NA , CHẮC KỜ RA , MA HA , CHẮC KỜ RA , HÙM – 7 LẦN .
( OM , SAMARA , SAMARA , JIMANA , CAKKRA , MAHA , CAKKRA , HUM ) .


9. PHỤNG TỐNG : Bắt ấn đẩy ra . Tức là mời các chư vị về .
 CHÚ : OM , DI NA DIC , GẮC CHA , GẮC CHA , PHÁ GA , VA TU , SỜ NI SA DÁ , XÓA HA – 7 LẦN .
 ( OM , JINADIC , GADCA , GADCA , PHAGAVATU , SNISAYA , SVAHA ) .


10. XẢ ĐÀN : Đọc chú kiết giới 7 lần , quay từ trái qua phải 1 vòng nói : xả đàn , xả đàn .
 CHÚ : OM , AM RỜ TÚP , PHA VA , HÙM , PHẠT -  7 LẦN 
( OM , AMTRUD PHAVA, HUM , PHAT ) .



11. HỘ THÂN TRỞ LẠI :
 CHÚ : ÔM , VẮC RA , AGNI , PỜ RA ĐÍP , TA DA , XÓA HA - - LẦN .
( OM , VAJRA , AGHNI , PRADIP , TA YA , SVAHA ) .




KẾT .
PHẦN 3.
CÚNG GIẢI HẠN TAM TAI
( Phần này là bài viết của Nhược Thủy )
Hạn Tam Tai gồm: 
* 12 con Giáp được chia làm 4 tam hợp: Khi vào vận tam tai thì hay khốn đốn, trắc trở, vất vả. Đặc biệt là khi cả vợ chồng cùng nằm trong tam hợp tuổi nói trên vì đôi bên đều phải mệt mỏi cùng lúc. Mức độ cộng hưởng sẽ làm ảnh hưởng nặng đến gia đình. Đó cũng là thiệt thòi của các tuổi hợp. Nếu vợ chồng không cùng tam hợp thì hạn rải rác sẽ đỡ áp lực hơn. 
Tuổi Thân Tí Thìn         hành Thủy
Tuổi Dần Ngọ Tuất      hành Hỏa
Tuổi Tỵ Dậu Sửu         hành Kim
Tuổi Hợi Mão Mùi        hành Mộc 
* .. Các năm mà nhóm tam hợp gặp hạn tam tai :-
- Các tuổi Thân, Tí, Thìn: Tam tai tại các năm : Dần, Mão, Thìn.
- Các tuổi Dần, Ngọ, Tuất: Tam tai tại các năm : Thân, Dậu Tuất.
- Các tuổi Hợi, Mão, Mùi: Tam tai tại những năm : Tỵ, Ngọ, Mùi.
- Các tuổi Tỵ, Dậu, Sửu : Tam tai tại những năm : Hợi, Tý, Sửu. 
* Tổng hợp các nhận định về hạn Tam tai: - 
- Hạn tam tai là hạn của 3 năm liên tiếp đến với mỗi tuổi. Trong một đời người , cứ 12 năm thì có 3 năm liên tiếp gặp hạn tam tai. Thường thì hạn năm giữa là nặng nhất. 
- Có lý thuyết giải thích :-
Tam: Ba, số 3, thứ ba. 
Tai: tai họa, họa hại.
Tam tai là ba tai họa, gồm: Hỏa tai, Thủy tai, Phong tai.
+ Hỏa tai là tai họa do lửa cháy, như cháy nhà, cháy rừng.
+ Thủy tai là tai họa do nước gây ra, như lũ lụt, sóng thần.
+ Phong tai là tai họa do gió gây ra, như bão, lốc. 
Ngoài ra còn có Tiểu Tam tai là ba thứ tai họa nhỏ, gồm: Cơ cẩn chi tai (đói khát) Tật dịch tai, Đao binh tai.
+ Cơ cẩn chi tai là tai họa do mất mùa lúa và rau. 
+ Tật dịch tai là tai họa do bịnh dịch truyền nhiễm. 
+ Đao binh tai là tai họa do chiến tranh. 
- Quan điểm chung cho rằng: Không phải lúc nào cũng tai họa nhưng thường đến năm Tam tai hay gặp nhiều vất vả khó khăn xảy ra.Nhập hạn tam tai thường gặp nhiều trở ngại, rủi ro , hoặc khó khăn trong công việc. Không nên tạo hay mua bán nhà đất, tu sửa trong những năm hạn này. Với việc kết hôn có quan điểm cho rằng ảnh hưởng, có quan điểm không. 
- Một số việc xấu thường xảy đến cho người bị Tam tai: 
+ Tính tình nóng nảy bất thường.
+ Có tang trong thân tộc. 
+ Dễ bị tai nạn xe cộ.
+ Bị thương tích.
+ Bị kiện thưa hay dính đến pháp luật.
+ Thất thoát tiền bạc.
+ Mang tiếng thị phi.
+ Tránh cưới gả, hùn vốn, mua nhà và kỵ đi sông đi biển. 
Tiếp tục làm những việc đã làm từ trước thì thường không bị ảnh hưởng nặng. Không nên khởi sự trong những năm bị Tam tai. 
- Khi xét hạn Tam tai người ta hay xem kết hợp lá số của thân chủ.
Nếu các yếu tố trong lá số tốt, có nhiều sao hay cách cục hóa giải thì cũng làm giảm bớt, nếu trong hạn của lá số xấu thì sẻ bị xấu thêm , khó mà tránh đuọc tai hoạ . 
* Lý thuyết cụ thể hóa hạn Tam tai theo từng năm (3 năm) 
1. Tam hợp Dần Ngọ Tuất - hạn Tam Tai là 3 năm Thân Dậu Tuất
+ Vào năm Thân thì gặp Thiên Hoàng Tinh Quân tắc bị thiên hành chi hữu, khủng cụ chi họa 
+ Vào năm Dậu thì gặp Thiên Đối Tinh Quân tắc hữu đối thủ hoặc đối thủ dĩ hoàng thiên
+ Vào năm Tuất thì gặp Địa Tai Tinh Quân tắc hữu tai hại vi thổ địa 
2. Tam hợp Thân Tý Thìn - hạn Tam Tai là Dần Mão Thìn
+ Vào năm Dần thì gặp Thiên Cổ Tinh Quân tắc vật hại nhân hoặc vi trùng vi hại hoặc bị mê hoặc chi bệnh
+ Vào năm Mão phùng Thiên Hình Tinh Quân tắc bị pháp luật hình phạt hoặc cập đao thiết nhi xuất hành dã, bị giải phẫu
+ Vào năm Thìn ngộ Thiên Kiếp Tinh Quân tắc cướp đạo nhi thất tài vật hoặc bị uy quyền bức bách, cướp bóc tổn thất tài vật 
3. Tam hợp Tỵ Dậu Sửu - hạn Tam Tai là Hợi Tý Sửu
+ Vào năm Hợi ngộ Thiên Bại Tinh Quân tắc bị bại hoại sự nghiệp hoặc bại hoại tài sản hoặc bại hoại gia phong
+ Vào năm Tý ngộ Địa Vong Tinh Quân tắc bị tai hại vi thổ địa nhi tổn thất hoặc thổ động nhi bệnh tật
+ Vào năm Sửu ngộ Thổ Hình Tinh Quân tắc vi thổ địa nhi cập hình phạt hoặc tổn thất điền địa hoặc vị thổ địa đông nhi hữu tai 
4 . Tam hợp Hợi Mão Mùi - hạn Tam Tai là Tỵ Ngọ Mùi
+ Vào năm Tỵ ngộ Âm Mưu Tinh Quân tắc hữu thù địch chi nhân mưu vi hại (bị người mưu hại)
+ Vào năm Ngọ phùng Hắc Sát Tinh Quân tắc hữu hắc ám sự (việc mờ ám có hại)
+ Vào năm Mùi ngộ Bạch Sát Tinh Quân tắc tổn thất tài vật hoặc hữu tang sự bạch y bạch cẩn. (cử mặc đồ trắng)
* Để giải hạn Tam tai người ta thường hay cúng giải hạn. 
- Quan niệm có các vị thần giáng hạ cho từng năm (năm - thần - ngày cúng - hướng): 
+ Năm Tý, ông thần Địa Vong, cúng ngày 22, lạy về hướng bắc.
+ Năm Sửu, ông Địa Hình, cúng ngày 14, lạy về hướng đông bắc.
+ Năm Dần, ông Thiên Linh, cúng ngày rằm, lạy về hướng đông bắc.
+ Năm Mão, ông Thiên Hình, cúng ngày 14, lạy về hướng đông.
+ Năm Thìn, ông Thiên Kiếp, cúng ngày 13, lạy về hướng đông nam.
+ Năm Tỵ, ông Hắc Sát, cúng ngày 11, lạy về hướng đông nam.
+ Năm Ngọ, ông Âm Mưu, cúng ngày 20, lạy về hướng nam.
+ Năm Mùi, ông Bạch Sát, cúng ngày mồng 8, lạy về hướng tây nam.
+ Năm Thân, ông Nhân Hoàng, cúng ngày mồng 8, lạy về hướng tây nam.
+ Năm Dậu, ông Thiên Hoạ, cúng ngày mồng 7, lạy về hướng tây.
+ Năm Tuất, ông Địa Tai, cúng ngày mồng 6, lạy về hướng tây bắc.
+ Năm Hợi, ông Địa Bại, cúng ngày 21, lạy về hướng tây bắc. 
- Xác định ngũ hành ứng với từng năm (năm nào hành đó): 
+ Hành KIM : Thân_Dậu. 
+ Hành MỘC : Dần_Mão 
+ Hành THỦY : Hợi_Tý. 
+ Hành HỎA : Tị_Ngọ 
+ Hành THỔ : Thìn_Tuất_Sửu_Mùi. 
- Cách cúng giải hạn của người xưa (cách này có phần hơi tỉ mỉ quá. Thực ra đối với các vị thần nói chung chỉ cần ý tâm nghiêm chỉnh là ứng, lễ tại tâm, lấy công đức làm lễ là chuẩn nhất) 
Ngày cúng tắm rửa sạch sẽ, rôì cắt một ít tóc, một ít móng tay móng chân, cắt một miếng vạt áo cũ của người đó,  gói chung lại thành một túi  nhỏ.
*Thời gian:- 18--20 giờ.
*Địa điểm:- Ngã ba đường (lớn càng tốt)
Vật cúng gồm có, 3 ly rựợu nhỏ, 3 ngọn đèn cày, 3 điếu thuốc hút, 3 bộ tam sênh, 3 đồng tiền bạc cắc, hai bộ đồ thế (nam hoặc nữ) và một bài vị có tên vị thần viết bằng giấy đỏ,chữ mực đen. Gói tóc và móng tay lấy dĩa đựng để trên bàn . Cúng vị thần nầy cho đến khi tàn nhang và đèn, xong rồi người cúng không được nói chuyện với bất cứ ai,  đem gói tóc móng tay ra ngã ba đường mà bỏ, nhớ đừng ngoái lại xem, 3 đồng tiền bạc cắc nhớ để vào gói tóc , bỏ luôn Tóc và móng tay ( phải của người bị tam tai mới được ), khi vái cũng phải nói rõ tên họ của người mắc tam tai .
* Bài vị viết như vầy:- (NẾU CÚNG VÀO NĂM SỬU)



năm Sửu , cúng vào đêm 14 lạy về hướng  Đông  Bắc, 
[ Có cách cúng khác là lập hình nhân, hoặc làm lễ tam sênh (động vật)..., song về ý nghĩa là tương tự . Thiết nghĩ chỉ là nghi thức con người nghĩ ra để bày tỏ thành ý của mình. Người cổ chúng ta khi xưa làm gì có lắm thứ như vậy để cúng? Lấy tâm ý là được. ]
- Bài cúng phổ biến: (năm Sửu)
[ Kính thỉnh HỮU THIÊN CHÍ TÔN KIM KHUYẾT NGỌC HOÀNG THƯỢNG ĐẾ ! 
KÍNH THỈNH : MÔNG LONG ĐẠI TƯỚNG ĐỊA HÌNH TAM TAI THỔ  ÁCH THẦN QUAN 
Hôm nay là ngày  ........................... năm KỶ SỬU
Con (hoặc thay mặt cho ) tên họ là................................... tuổi ………………………..
Hiện ngụ tại................................................................................... 
thành tâm sửa biện hương hoa lễ vật các thứ cúng dâng giải hạn Tam Tai , sắp bày nơi đây , kính thỉnh Mông Long Đại Tướng (tên vị thần theo năm) ĐỊA HÌNH Tam Tai.....(tên ngũ hành của năm )  THỔ  Ách Thần Quan giá đáo đàn tràng , chứng minh thọ hưởng. Phù  hộ cho con tai nạn toàn tiêu , nguyên niên Phước Thọ , Xuân đa kiết khánh , Hạ bảo bình an , Thu tống Tam Tai , Đông nghinh bá phước ! Thượng hưởng !  ]
( Vái 3 lần,rót trà 3 lần,rót rượu 3 lần,3 lần lạy / mỗi lần 3 lạy, rồi đốt giấy tiền  vàng bạc & đồ thế ). 

*Nhược Thủy (tổng hợp các sách xưa)
Thân ái - dienbatn .
Xem chi tiết…

THỐNG KÊ TRUY CẬP

LỊCH ÂM DƯƠNG

NHẮN TIN NHANH

Tên

Email *

Thông báo *